Thuyết Minh Về Yên Tử, Chùa Yên Tử ❤️️ 23+ Bài Văn Hay Nhất ✅ Đón Đọc Tuyển Tập Văn Mẫu Đặc Sắc Giới Thiệu Về Vùng Đất Phật Giáo Thanh Tịnh.
Dàn Ý Thuyết Minh Về Yên Tử
Yên Tử trong lịch sử nước ta cho đến nay vẫn luôn là trung tâm của Phật giáo nước nhà. Để giới thiệu về địa danh này, dưới đây là chi tiết dàn ý thuyết minh về Yên Tử để bạn đọc và các em học sinh cùng tham khảo.
I. Mở bài: Giới thiệu khái quát về vùng đất Yên Tử, chùa Yên Tử
II. Thân bài:
-Khái quát về vị trí địa lý của chùa Yên Tử: Nằm trên núi Yên Tử thuộc thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh.
-Lịch sử hình thành chùa Yên Tử:
- Lịch sử gắn với vị vua Trần Nhân Tông – người sáng lập ra thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.
- Hệ thống các di tích lịch sử văn hóa gắn với sự ra đời của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.
-Khung cảnh xung quanh chùa Yên Tử:
- Đỉnh núi cao 1068m so với mực nước biển thường có mây bao phủ trắng xóa.
- Hệ thống động thực phật phong phú, đa dạng.
- Đường rừng núi với hàng ngàn bậc đá.
- Xung quanh có các di tích và thắng cảnh nổi tiếng như Khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử.
- Khu di tích lịch sử nhà Trần.
-Vẻ đẹp cảnh quan chùa Yên Tử:
- Suối Giải Oan và chùa Giải Oan.
- Chùa Hoa Yên.
- Đoạn đường 6000m đi lên đỉnh Yên Tử: Tháp Tổ, chùa Một Mái, chùa Bảo Sái, am Ngọa Vân, Thác Vàng, Thác Bạc,…
- Thiền Viện Trúc Lâm Yên Tử.
- Chùa Đồng.
-Giá trị tâm linh, du lịch của danh thắng tâm linh chùa Yên Tử.
- Trung tâm Phật giáo trong lịch sử Việt Nam.
- Lễ hội Yên Tử.
III. Kết bài: Cảm nhận về chùa Yên Tử
Mời bạn tham khảo 🌠 Thuyết Minh Về Một Danh Lam Thắng Cảnh Ở Địa Phương Em 🌠 22 Bài Mẫu Hay
Thuyết Minh Về Danh Lam Thắng Cảnh Yên Tử – Mẫu 1
Bàu văn thuyết minh về danh lam thắng cảnh Yên Tử dưới đây sẽ mang đến cho bạn đọc những thông tin sâu rộng về lịch sử và giá trị văn hoá, tâm linh của vùng đất này.
Núi Yên Tử là ngọn núi thuộc dãy cánh cung Đông Triều thuộc thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh. Trên đỉnh núi thường có mây bao phủ nên còn có tên gọi là Bạch Vân sơn, núi rừng Yên Tử nổi tiếng là nơi có khung cảnh ngoạn mục và được mệnh danh là một trong những cảnh quan đẹp nhất đất Việt.
Trên đỉnh núi thiêng Yên Tử còn có một khu di tích lịch sử với những ngôi chùa và tháp cổ cùng rừng cây cổ thụ lâu đời. Đỉnh Yên Tử cũng trở thành trung tâm của Phật giáo từ khi vua Trần Nhân Tông từ bỏ ngai vàng, tu hành và lập ra giáo phái Phật giáo có tên là Thiền Trúc Lâm Yên Tử.
700 năm trước, sau chiến thắng quân xâm lược Nguyên Mông, vị vua anh hùng Trần Nhân Tông đã nhường ngôi cho con để lên Yên Tử tu hành, nghiên cứu giáo lý nhà Phật, gắn kết với triết lý nhân sinh dân tộc để hình thành và sáng lập nên Thiền phái Trúc Lâm với tư tưởng “nhập thế”, “tu tại tâm” mà ở đó, đạo không tách biệt đời. Ðạo phải thể nghiệm ngay trong cuộc sống.
Có thể nói, dòng thiền là sự hòa hợp tuyệt vời giữa tinh thần dân tộc và tôn giáo, giữa tư tưởng và đạo đức, giữa đạo và đời. Ngày nay, những tư tưởng này đã được truyền bá rộng với nhiều trung tâm Thiền phái Trúc Lâm trong nước và ngoài nước, không chỉ thu hút người Việt mà còn được nhiều người nước ngoài quan tâm theo học và tu hành.
Hành trình thăm viếng Yên Tử bắt đầu từ suối Giải Oan với một cây cầu đá xanh nối hai bờ suối. Cầu dài 10m, có kiến trúc hài hòa với khung cảnh thiên nhiên chung quanh, không cầu kỳ bay lượn nhưng toát lên vẻ đẹp cổ kính, vững chãi. Tiếp đó tới chùa Hoa Yên với hàng cây tùng cổ tương truyền được trồng từ khi vua Trần Nhân Tông lên tu hành trên Yên Tử.
Chùa Hoa Yên nằm ở độ cao 543m, được xây mới hoàn toàn thay cho chùa cũ đã có từ 30 năm trước. Ngôi chùa mới mang phong cách kiến trúc thời Trần – Lê, kiểu “nội công ngoại quốc”, chung quanh có nhà ngang, dãy dọc phục vụ việc hành lễ và nơi ở của sư trụ trì và tăng ni. Trước chùa có tam quan, bảo tháp, trung tâm là tam bảo, hành lang, lầu chuông và trống, cuối cùng là nhà tổ, lợp ngói mũi hài, ngói bò hình hoa chanh xếp bờ nóc.Phía trên độ cao 700m là chùa Vân Tiêu lẩn khuất trong mây bên triền núi.
Chùa Đồng là nơi dừng chân cao nhất của du khách. Chùa được khởi dựng vào thời Hậu Lê với tên gọi “Thiên Trúc Tự”. Chùa Đồng được đúc hoàn toàn bằng đồng nguyên chất cao 3m, rộng 12m2 và nặng 60 tấn. Từ năm 2010, tại khu vực Chùa Đồng đã khởi công và khánh thành bức tượng đồng Phật Hoàng Trần Nhân Tông ngồi trên bệ được làm bằng bê tông cốt thép ốp đá điêu khắc. Bức tượng cao hơn 3m, đài sen hơn 2m, thân tượng đồng cao 9,9m, được dựng trên khu đất rộng 2.200m2 gồm khu vực đặt tượng, sân hành lễ, không gian tượng An Kỳ Sinh, sân tập kết và các công trình khác.
Dọc đường còn có một số điểm tham quan như: Tháp Tổ, chùa Một Mái, chùa Bảo Sái, tượng đá Yên Kỳ Sinh, am Ngọa Vân, bàn cờ tiên, các khu du lịch sinh thái Thác Vàng, Thác Bạc. Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử xây trên nền dấu tích của chùa Lân mà đức Ðiếu Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông từng thuyết giảng chúng sinh.
Ðây là công trình thiền viện lớn nhất nước có cổng Tam quan, tòa chính điện, nhà thờ Tam Tổ, lầu trống, lầu chuông, nhà trưng bày, nhà khách, phòng thiền với kiến trúc đẹp và hoành tráng, uy nghi, điểm tô chốn non thiêng Yên Tử thêm phần khang trang, bề thế, góp phần bảo tồn, nghiên cứu các thư tịch cổ, ấn phẩm văn hóa Phật giáo Việt Nam, tạo điều kiện cho tăng ni, phật tử Trúc Lâm trong cả nước đến giảng đạo và tu thiền.
Đường lên đến Chùa Đồng khá cheo leo hiểm trở và khó đi, ngày xưa, du khách phải mất 5-6 tiếng đồng hồ để lên được tới nơi. Những năm gần đây, chùa Yên Tử đã được các cấp, ngành quan tâm, Ban quản lý Khu di tích đã đầu tư xây dựng hệ thống cáp treo với 2 trạm. Trạm đầu dài trên 1,2km lên tới độ cao 450m gần Chùa Hoa Yên và trạm thứ hai từ Chùa Hoa Yên lên đến gần Chùa Đồng. Với hệ thống cáp treo này, du khách có thể ngắm nhìn toàn bộ cảnh rừng núi Yên Tử từ trên cao với những cây tùng, cây đại hàng trăm năm tuổi xen kẽ trong rừng cây xanh tươi và hít thở không khí trong lành.
Còn đường bộ thì cũng đã được xây dựng bằng những bậc đá có lan can và một hệ thống những cột đèn từ dưới chân núi lên tới chùa Đồng để phục vụ du khách trong và ngoài nước về với Yên Tử, lễ Phật và tham quan.
Đầu Xuân đi lễ chùa, được ngắm nhìn phong cảnh núi non Yên Tử hùng vĩ, được tận mắt chiêm ngưỡng những tác phẩm nghệ thuật điêu khắc cổ từ thời đại nhà Trần với những di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh vô giá, thật không còn niềm vui nào bằng.
Đọc nhiều hơn dành cho bạn ☀️ Thuyết Minh Về Di Tích Lịch Sử ☀️ 17 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Văn Mẫu Thuyết Minh Về Danh Thắng Yên Tử – Mẫu 2
Văn mẫu thuyết minh về danh thắng Yên Tử sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho bạn đọc trong quá trình tìm hiểu và khám phá về cái nôi của Phật giáo Việt Nam.
Núi Yên Tử hay còn gọi là núi Tượng Đầu là ngọn núi cao 1068m so với mực nước biển trong dãy núi Nam Mẫu thuộc cánh cung Đông Triều tại vùng Đông Bắc Bộ Việt Nam (đỉnh núi cao nhất gọi là Tử Tiêu). Núi nằm ở ranh giới giữa 2 tỉnh Bắc Giang và Quảng Ninh. Núi Yên Tử là một dải núi cao nằm ở phía Đông Bắc của Việt Nam với hệ thống động thực vật phong phú và đa dạng đã được nhà nước công nhận là khu bảo tồn thiên nhiên.
Núi Yên Tử hiện còn lưu giữ một hệ thống các di tích lịch sử văn hóa gắn với sự ra đời, hình thành và phát triển của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Đỉnh núi xưa thuộc xã Nam Mẫu tổng Bí Giang huyện Đông Triều, Hải Dương (nay thuộc thôn Nam Mẫu xã Thượng Yên Công, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh). Vốn là một thắng cảnh thiên nhiên, ngọn Yên Tử còn lưu giữ nhiều di tích lịch sử với mệnh danh “đất tổ Phật giáo Việt Nam”.
Trên đỉnh núi thường có mây bao phủ nên ngày trước có tên gọi là Bạch Vân Sơn. Tổng chiều dài đường bộ để lên đỉnh Yên Tử (chùa Đồng) là khoảng 6000m với 6 giờ đi bộ liên tục qua hàng ngàn bậc đá, đường rừng núi… Xung quanh khu vực núi Yên Tử là còn có các di tích và danh thắng quan trọng như khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử (Bắc Giang) và Khu di tích lịch sử nhà Trần ở Đông Triều (Quảng Ninh). Hệ thống các di tích và danh thắng này được gộp chung thành Quần thể di tích danh thắng Yên Tử để đề nghị UNESCO công nhận là di sản thế giới.
Yên Tử trở thành trung tâm của Phật giáo từ khi vua Trần Nhân Tông từ bỏ ngai vàng khoác áo cà sa tu hành để tìm đến sự thanh tịnh sau khi truyền ngôi và thành lập một dòng Phật giáo đặc trưng của Việt Nam, đó là dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử và trở thành vị tổ thứ nhất với pháp danh Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông. Ông đã cho xây dựng hàng trăm công trình lớn nhỏ trên núi Yên Tử để làm nơi tu hành và truyền kinh, giảng đạo.
Sau khi ông qua đời, người kế tục sự nghiệp là Pháp Loa Đồng Kiên Cương, vị tổ thứ hai của dòng Trúc Lâm. Trong 19 năm tu hành, ông đã soạn ra bộ sách Thạch thất mị ngữ và cho xây dựng 800 ngôi chùa, am, tháp lớn nhỏ trong nước với hàng nghìn pho tượng có giá trị, trong đó có những chùa nổi tiếng như Chùa Quỳnh Lâm, chùa Hồ Thiên ở Đông Triều; Chùa Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang)… Tại trung tâm truyền giáo của Pháp Loa còn có Huyền Quang Lý Đạo Tái, vị tổ thứ ba của phái Trúc Lâm.
Yên Tử từ trước đến nay vẫn nổi tiếng là vùng đất linh thiêng nhất Việt Nam và mang những giá trị sâu sắc về lịch sử và văn hoá.
Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất
Bài Thuyết Minh Về Yên Tử Hay Nhất – Mẫu 3
Cùng khám phá về vùng đất Phật thiêng liêng qua bài thuyết minh về Yên Tử hay nhất dưới đây:
Yên Tử thuộc loại “danh sơn” (núi đẹp) cao 1068m, một dãy núi trùng điệp của vùng đông bắc nước ta.
Yên Tử cách thị xã Uông Bí. Tỉnh Quảng Ninh 14km về phía tây bắc. Núi Cánh Gà phía nam, dãy núi Bảo Đài ở phía bắc như những thành quách cổ xưa mở rộng cánh cửa dẫn khách hành hương bước vào thế giới Yên Tử. Suối Giải Oan nước trong veo uốn khúc, sỏi trắng và đá cuội rải đều. Đến xuân, rừng Yên Tử nảy lộc đơm hoa, hoa dành và hoa bướm vàng tươi, hoa hải đường và hoa thủy tiên nở bung những cánh mỏng phớt tím.
Dân gian gọi núi Yên Tử là núi Voi; sách xưa gọi là Bạch Vân Sơn (núi mây trắng) vì quanh năm đỉnh núi bao phủ một lớp mây mù. Phạm Sư Mạnh đã từng vịnh thơ cảnh sắc Yên Tử hữu tình nên thơ: “Lối đi có trúc, khe suối đầy hoa”. Vào thời Ngô Quyền và dưới thời Lý, Yên Tử đã có chùa Yên Kỳ Sanh, Huệ Quang Thiền Sư đã từng tu luyện nơi đây. Phải đến năm 1299, vua Trần Nhân Tông từ ngai vàng, thoát vòng tục lụy đến Yên Tử tu hành, sáng lập Thiền phái Trúc Lâm của Đại Việt, thì nơi đây mới trở thành cõi linh thiêng của xứ sở.
Vượt dốc núi men theo bờ suối cheo leo ta đến với suối Vàng và Thác Tử uốn vòng theo chùa Vân Tiêu, hợp lưu dưới gốc cây sung già rồi đổ vào suối Giải Oan. Những linh hồn các cung nữ ngày xưa như đã nhập thiền vào chùa Giải Oan. Những cây cổ thụ xòe tán che rợp mái chùa, hoa loa kèn trắng mịn phơn phớt màu hoàng yến, những khóm hoa rừng nở xòe năm cánh với màu xanh, chùm nhụy tím bao bọc lấy 6 ngọn tháp, trong đó có tháp mộ vua Trần Nhân Tông; cảnh suối, chùa Giải Oan càng trở nên u huyền, trầm lịch.
Vượt qua một sườn núi độ 400m. ta đừng lại am Lò Rèn, leo qua những bậc đá ta vươn tới Hòn Ngọc. Trải qua hơn 700 năm, am xưa chùa cũ đã trở thành phế tích, chỉ còn lại những hàng tùng cổ thụ. Hai trăm bảy mươi tư cây tùng với ba loại chính: thành tùng, thúy tùng và xích tùng, thân cây bạc phếch mà lá cành vẫn sum suê, đứng trầm mặc như những chứng nhân của cửa Thiền qua năm tháng.
Cao hơn Hòn Ngọc độ 100 mét là khu tháp Tổ thờ Huệ Quang Thiền Sư. Ở đây có cây thông già trên nghìn tuổi. Thân cây to tròn, ba người ôm không xuể. Những cây đại già, nở hoa bốn mùa hương hoa tỏa ngào ngạt bao lấy 45 ngọn tháp với nhiều quy mô, kiểu dáng sắc màu tựa như những bông sen xòe cánh. Bạch Liên cư sĩ đến vãn cảnh mấy trăm năm về trước, đã xúc động đề thơ:
“Tháp biếc trăm tầng cao chất ngất,
Lầu sơn mấy nóc rộng thênh thênh”
Chùa Hoa Yên ở phía sau Tháp Tổ trên độ cao 8m. Cúc vạn thọ nở vàng rực hoa dong đỏ tía nở khắp sân chùa, vườn chùa và bờ suối. Cây đại gốc xù xì đã có dư 700 tuổi nở bung những chùm hoa trắng dâng hương. Cuối thế kỷ 15 vua Lê Thánh Tông lên chơi, nhìn thấy rừng hoa nở mà cảm khái đổi tên chùa từ Vân Yên thành Hoa Yên. Chùa Hoa Yên có hơn 10 pho tượng, lớn bằng đồng, có quả chuông đúc từ thời Lê mặt khác bài minh hàng nghìn chữ nói về lịch sử phái Thiền Sư Trúc Lâm. Bên phải chùa là suối Ngự Đội (nơi vua tắm nước trong mát và có mùi thơm của các loài hoa rừng).
Đêm ở chùa Hoa Yên thật kì ảo. Tiếng suối róc rách mơ hồ tiếng tắc kè thảng thốt, tiếng rừng trúc rì rào, mùi hoa nồng nàn. Du khách mơ màng, chập chờn trong giấc mộng. Vượt lên ta tới chùa Phổ Đà có Tháp Độ Nhân và 4 cây lão tùng; tiếp theo là am Ngọa Vân và Thác Tử. Nước Thác Tử sôi réo trong các khe đá, mát lạnh về mùa hè ấm nóng về mùa đông. Lội qua Thác Tử, ta đến am Ngọa Vân. Cả khu rừng trúc phủ mờ sương khói. Cảnh suối rừng, am chùa ẩn hiện trong làn mây trắng mỏng nhẹ, bồng bềnh như thực như mơ. Dừng lại am Ngọa Vân chênh vênh bên sườn núi, ở đây còn có am Thung và am Dược, nơi các tăng ni ngày xưa giã thuốc và chế thuốc.
Vượt qua am Ngọa Vân khách hành hương leo lên chùa Bảo Sái. Dốc cheo leo gần như thẳng đứng. Với chiếc gậy trúc cầm tay. ai cũng cảm thấy lâng láng. Sen nở xòe 5 cánh hồng tươi, phong lan trắng, phong lan tía, hoa loa kèn nở rộ hoa lan mát dịu. Những cây vạn tuế lá xanh biếc bốn mùa, xòe tán như những chiếc rỏ xinh xinh. Cạnh giếng Thiêng là cây gạo lớn, thân tròn cao vút, nở hoa đỏ rực vào tháng ba. Dưới gốc gạo có con hổ đá, quỳ hai chân trước, nhìn vào am đá, hiền lành và chăm chú như đang trầm mặc và kính cẩn nghe kinh.
Phía trên chùa Bảo Sái là chùa Vân Tiêu, suối Hàm Long và rừng trúc bao la. Về mùa xuân, dưới những cơn mưa bụi, măng trúc, măng mai, măng giang Yên Tử mọc lên tua tủa, nhọn hoắt như tháp bút. Giữa rừng trúc là thế giới của loài chim, nào là cu xanh, cu đất, chào mào, cà cưỡng, cò lửa, chim chích… bay lượn làm mồi, tiếng kêu chao chác inh ỏi. Thỉnh thoảng xuất hiện vài con hạc, mấy chú đại bàng đất, dăm ba anh bồ nông hoặc đứng trên các mô đất cao, hoặc vắt vẻo trên ngọn thông, hiền lành và tư lự.
Rời chùa Vân Tiêu ta luồn qua cổng Trời, len lỏi trong rừng sú. Sú lộng cổ thụ cao chừng 2 m, gốc sần sùi cong queo kì dị, lưa thưa vài chiếc lá nhỏ. Ở đây có nhiều loài chim vẹt, mỏ đỏ, đuôi xanh kêu cheo chét nghe rất vui tai. Khỏi rừng sú, du khách đặt chân tới Chùa Đồng, đỉnh cao nhất của Yên Tử.
Khi tiếng chuông Chùa Đồng ngân vang ba hồi, hàng trăm con chim nhạn bay lên lượn vòng; tức thì mây trắng ùn ùn xô tới. Cuối canh tư đầu canh năm đứng trên Chùa Đồng, khi trời quang có thể nhìn thấy một vùng đông bắc bao la. Thích thú nhất là được ngắm mặt trời đỏ rực lúc rạng đông nhô dần trên ngấn bể màu lam. Ai còn nhớ bài thơ của Nguyễn Trãi thì khẽ ngâm lên. Có phút giây kì thú nào bằng:
Đền chùa Hoa Yên núi Yên Tử
Trên non Yên Tử chòm cao nhất,
Trời mới canh năm đã sáng tinh.
Vũ trụ mắt đưa ngoài biển cả,
Nói cười người ở giữa mây xanh.
Muôn hàng giáo ngọc tre gài cửa,
Bao dải tua châu đá rủ mành.
Dấu cũ Nhân Tông vẫn còn đấy,
Trùng đồng thấy giữa ánh quang minh.
(Đào Duy Anh dịch)
Với những mái chùa rêu phong, những am cổ, những suối, những khóm tùng cổ thụ, rừng trúc và trăm nghìn loài hoa,… mỗi bước chân của du khách khi leo lên sườn non vách động, tưởng như lạc lối vào cõi Phật Yên Tử mênh mông bao huyền tích. Phật tích cùng hoa rừng như ướp hương hồn người.
Đến với Yên Tử càng thấy rõ tâm đức của ông cha, càng yêu thêm cảnh trí hùng vĩ của giang sơn gấm vóc. Hội xuân Yên Tử là một lễ hội rất lớn và đông vui; năm nào cũng có hàng vạn người trẩy hội. Ngày nay đã có cáp treo lên Yên Tử, nhưng leo núi lên chùa Hoa Yên, với tới Chùa Đồng… mới thật là thích thú.
Giới thiệu cùng bạn 🍀 Thuyết Minh Về Đền Hùng 🍀 15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Bài Văn Thuyết Minh Về Yên Tử Ngắn Gọn – Mẫu 4
Bài văn thuyết minh về Yên Tử ngắn gọn sẽ giúp bạn đọc dễ dàng nắm bắt được những thông tin quan trọng nhất về lịch sử và đặc trưng về địa danh Phật giáo nổi tiếng của nước nhà.
Di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh Yên Tử gắn liền với tên tuổi Phật hoàng Trần Nhân Tông (1258 – 1308), vị vua từng lãnh đạo quân dân thời Trần hai lần đánh thắng quân Nguyên – Mông, rồi từ bỏ ngai vàng, lên Yên Tử tu hành, sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm đậm màu sắc Việt.
Về địa lý, Yên Tử là dãy núi thấp, thuộc hệ thống cánh cung Đông Triều, một vùng địa chất được hình thành từ kỷ Đệ tứ, với các loại đá gốc, như sa thạch, sỏi kết sạn và phù sa cổ… Địa hình, địa chất phức tạp của khu vực đã kiến tạo nên các điểm cảnh quan kỳ vĩ, như thác Ngự Dội, thác Vàng, thác Bạc, cổng Trời, đường Tùng, rừng trúc, đỉnh núi Yên Tử…, nơi có những kiến trúc cổ truyền như hòa mình vào thiên nhiên hùng vĩ.
Khu vực Yên Tử có tổng diện tích tự nhiên khoảng 2686ha, trong đó có 1736ha rừng tự nhiên, đặc trưng cho hệ sinh thái rừng Đông Bắc, nơi còn bảo tồn được nhiều nguồn gen động, thực vật quý hiếm… Xen kẽ với thiên nhiên là hệ thống chùa, am, tháp… Ven lối dẫn lên các chùa, am, tháp thường trồng rất nhiều tùng.
Trong khu vực này hiện còn khoảng hơn 200 cây tùng đại thụ, thuộc 4 nhóm quý hiếm, được trồng cách đây khoảng 700 năm. Ngoài đường tùng cổ thụ, rừng trúc ở đây cũng nổi tiếng từ ngàn xưa… Trúc là sản phẩm độc đáo của Yên Tử, tượng trưng cho sức sống dẻo dai, vẻ đẹp thanh bạch và tao nhã của tạo hóa. Có lẽ, đó cũng chính là lý do mà Trần Nhân Tông đã chọn nơi đây để tu hành và lấy tên “rừng Trúc”, tức Trúc Lâm, để đặt tên cho dòng Thiền do ông sáng lập. Hội Yên Tử là lễ hội hành hương vào mùa xuân, bắt đầu từ ngày 10 tháng Giêng hằng năm và kéo dài suốt 3 tháng mùa xuân.
Trong lịch sử, Yên Tử luôn là một trong những trung tâm Phật giáo của cả nước, gắn với nhiều kiến trúc cổ, được xây dựng qua các thời kỳ lịch sử khác nhau (Lý, Trần, Lê, Nguyễn).
Mời bạn xem nhiều hơn 🌹 Thuyết Minh Về Đền Cửa Ông 🌹 15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Văn Mẫu Thuyết Minh Về Yên Tử Chọn Lọc – Mẫu 5
Đón đọc bài văn mẫu thuyết minh về Yên Tử chọn lọc với để mở rộng những hiểu biết và khám phá nhiều hơn về địa danh này.
Quảng Ninh được mệnh danh là “Đất tổ Phật giáo Việt Nam” và gắn liền với Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Nhắc đến Quảng Ninh ta không thể không nhắc đến di tích chùa Yên Tử nổi tiếng. Chùa Yên Tử bao gồm một hệ thống các chùa, am, với những giá trị lịch sử lâu đời gắn liền với thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Nơi đây được ví như chốn bồng lai tiên cảnh, là một trong những địa điểm du lịch tâm linh hấp dẫn du khách thập phương trong và ngoài nước.
Núi Yên Tử (Uông Bí – Quảng Ninh) là một ngọn núi cao và đẹp, nổi tiếng được mệnh danh là “đệ nhất linh sơn” hay “Phật sơn” của nước ta, non thiêng Yên Tử nổi tiếng nhất là quần thể chùa Yên Tử với văn hóa tâm linh và các di tích lịch sử về Phật giáo, Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Dòng chảy lịch sử Phật giáo tại Yên Tử bắt nguồn từ khi vua Trần Nhân Tông nhường ngôi cho vua Trần Anh Tông, với lòng thành hướng về chốn non cao tầm đạo, năm 1299 vua Trần Nhân Tông đến mảnh đất Yên Tử, bắt đầu cuộc sống tu hành theo 12 điều khổ hạnh, cho xây dựng hệ thống các chùa chiền, am, tháp, mỗi chùa lại có những sự tích riêng.
Danh thắng Yên Tử với đỉnh núi cao 1068m so với mực nước biển lên đỉnh núi lúc nào cũng có mây mù bao phủ, lại thêm phong cảnh thiên nhiên hữu tình, đa dạng và phong phú các loài động, thực vật, tiêu biểu có các cây đại thụ như cây tùng cổ 700 tuổi, cây đại cổ, các động vật tiêu biểu như cu li lớn, khỉ mặt đỏ, sơn dương, rồng đất,…Xung quanh quần thể chùa Yên Tử là các di tích và thắng cảnh nổi tiếng như Khu bảo tồn thiên nhiên Tây Yên Tử, Khu di tích lịch sử nhà Trần.
Chúng ta bắt đầu hành trình lên đỉnh Yên Tử tại dòng suối Giải Oan và ngôi chùa Giải Oan, chính Phật Hoàng đã đặt tên Giải Oan nhằm giúp siêu độ cho những cung nữ theo hầu vua đã nhảy xuống suối tự vẫn khi vua không cho theo hầu hạ. Chùa Giải Oan vốn linh thiêng có tiếng, lưng tựa vách núi, mặt hướng ra dòng suối róc rách đêm ngày, đứng dưới chùa Giải Oan nhìn lên sẽ thấy ngọn núi Yên Tử cao vời vợi.
Chùa Hoa Yên được coi là ngôi chùa chính của hệ thống chùa Yên Tử, chùa ở lưng chừng núi, thế rất vững chãi, cảnh trí nơi đây vô cùng tuyệt đẹp với trăm hoa đua nở, những đám mây dường như cũng kết thành những đóa hoa giăng trước cửa chùa. Con đường hành hương lên đỉnh Yên Tử luôn có những bậc đá và hàng cây xanh hai bên đường, hàng Tùng cổ thụ 700 tuổi với rễ bám sâu vào vách núi, tán rộng khổng lồ che rợm đường cho người phật tử.
Vườn tháp trung tâm của chùa Yên Tử là khu Tháp Tổ gồm 64 ngọn tháp và mộ, ngoài ra còn có các am như am Ngự Dược, am Thung là nơi nghiên cứu, bào chế và sản xuất thuốc từ các loại thảo dược trên núi Yên Tử. Đặc biệt nhất là chùa Một Mái nằm ẩn sâu trong hang núi, chỉ phô ra bên ngoài nửa mái, cảnh chùa tĩnh lặng, thanh thoát dường như là một thế giới khác cách xa nơi trần tục. Ngoài các di tích chùa, am, tháp, nơi đây còn có Thiền Viện Trúc Lâm Yên Tử – thiền viện lớn nhất Việt Nam với kiến trúc uy nghiêm, khang trang và bề thế.
Ngôi chùa cao nhất của Yên Tử là chùa Đồng, Phật Hoàng đã chọn nơi đây để tĩnh thiền, toàn bộ kết cấu đều được làm bằng đồng kể cả đồ thờ tự nhằm thích ứng được với khí hậu ẩm ướt quanh năm. Nếu bạn không muốn phải đi bộ đến 6 cây số đường rừng núi gập ghềnh đá để lên đỉnh Yên Tử thì ngày nay bạn có thể đi cáp treo, hệ thống cáp treo hiện đại gồm hai chặng, từ chân núi lên đến chùa Hoa Yên và từ chùa Hoa Yên lên đến chùa Đồng, khi đi bằng cáp treo du khách cũng sẽ được ngắm toàn cảnh vùng núi Yên Tử.
Với ý nghĩa là “Đất tổ Phật giáo Việt Nam”, chùa Yên Tử là một trong những thắng tích Phật giáo được lựa chọn để các đại biểu tham dự lễ Phật đản trên khắp thế giới đến tham quan, chiêm bái. Lễ hội Yên Tử được tổ chức hàng năm từ ngày mùng 10 tháng Giêng và kéo dài đến hết tháng 3, mỗi dịp lễ hội thu hút hàng triệu du khách thập phương đến tham quan, lễ bái và cầu an.
Chùa Yên Tử hay quần thể di tích Phật giáo Yên Tử nói chung là một niềm tự hào đối với mỗi người dân Việt Nam, đó là minh chứng cho nét đẹp văn hóa tâm linh của dân tộc ta, về với Yên Tử như được trở về cội nguồn, về miền đất tổ của nền Phật giáo nước nhà.
Chia sẻ cơ hội 🌟 Nạp Thẻ Ngay Miễn Phí 🌟 Tặng Card Nạp Tiền Ngay Free Mới
Bài Văn Thuyết Minh Về Yên Tử Đặc Sắc – Mẫu 6
Bài văn thuyết minh về Yên Tử đặc sắc sẽ là một trong những tư liệu tham khảo cần thiết dành cho bạn đọc và các em học sinh.
Núi Yên Tử nằm trên cánh cung Đông Triều ôm gọn vùng Đông Bắc nước ta, sườn Đông chủ yếu thuộc tỉnh Quảng Ninh. sườn phía tây của dãy núi Yên Tử trải dài qua địa phận các huyện Yên Dũng, Lục Nam, Lục Ngạn và Sơn Động.
Theo truyền thuyết, sau khi đắc đạo, Phật hoàng tiếp tục phổ độ chúng sinh bằng hai con đường: giáo dục, đào tạo tăng tài để tạo nguồn nhân lực phát triển Phật giáo ở Quỳnh Lâm (Đông Triều, Quảng Ninh) và hành đạo tại chùa Vĩnh Nghiêm (Yên Dũng, Bắc Giang), nơi được coi là trung tâm của Phật giáo Trúc Lâm lúc bấy giờ.
Sau khi Phật hoàng Trần Nhân Tông nhập niết bàn, các Tổ Đệ nhị, Đệ tam cũng đi theo con đường này để tiếp nối sứ mệnh của Phật hoàng. Các ngài đã cho xây dựng nhiều ngôi chùa lớn nhỏ nằm rải rác ở vùng núi cao Tây Yên Tử. Đó chính là lý do cho tới ngày nay, nhiều dấu tích văn hóa đồ sộ thời Trần, chứng minh quy mô, sự hưng thịnh của Phật giáo thế kỷ XI đến XIV vẫn được tìm thấy ở khu vực Yên Tử.
Quá trình tu hành đắc đạo, hình thành và phát quang Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử tại núi Yên Tử của vị Vua – Phật Hoàng Trần Nhân Tông và các vị tổ sau này đã tạo nên Khu di tích – danh thắng Yên Tử thuộc TP Uông Bí. Năm 1974, Khu di tích – danh thắng Yên Tử được công nhận di tích cấp Quốc gia, năm 2012 được công nhận di tích cấp Quốc gia Đặc biệt.
Tính khác biệt của Yên Tử chính là nơi khởi đầu của dòng thiền Việt, Thiền phái Trúc Lâm, Yên Tử trở thành kinh đô Phật giáo của Việt Nam. Lịch sử đã chứng minh Phật giáo có mặt ở Việt Nam từ 2.000 năm trước, thế nhưng giáo lý và vị tổ phần lớn đều là người Trung Hoa. Chỉ có Thiền phái Trúc Lâm xuất hiện 13 thế kỷ sau đó là do người Việt sáng lập, chính là Đức vua – Phật hoàng Trần Nhân Tông, vị tổ thứ nhất và giáo lý của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Bên cạnh đó giáo lý của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử cũng chính là từ cuộc sống của người Việt mà ra và trở lại hòa hợp với đời sống xã hội Việt.
Yên Tử ngàn năm mây trắng. Những giá trị của Yên Tử đã trường tồn và được gìn giữ, bảo vệ, phát huy đến ngày hôm nay và mãi mãi về sau. Hôm nay, Yên Tử vẫn được coi là kinh đô của Phật giáo Việt Nam, là chốn tổ của các dòng thiền Việt Nam không chỉ là hào quang quá khứ mà luôn là giá trị của hiện tại. Phật tử, du khách đổ về với Yên Tử mang theo những háo hức trải nghiệm, những đức tin chánh niệm, những sự thỏa nguyện thụ hưởng giá trị cuộc sống. Cũng vì vậy mà Yên Tử giờ đây chuyển động 24h/ngày, 4 mùa/năm.
Việc Yên Tử đang trên lộ trình trở thành di sản văn hóa thế giới lại càng là cơ hội để giá trị của di sản này được lan tỏa cao hơn, xa hơn, mang đến cho nhân loại nhận thức về một dấu ấn kinh đô Phật giáo Việt Nam một thời của Việt Nam, về tinh thần nhập thế, đạo không tách với đời của dòng thiền đặc biệt của Việt Nam, Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.
Tiếp theo đón đọc 🌹 Thuyết Minh Về Côn Sơn Kiếp Bạc 🌹 14 Bài Văn Hay Nhất
Thuyết Minh Về Núi Yên Tử Đạt Điểm Cao – Mẫu 7
Để viết bài văn thuyết minh về núi Yên Tử đạt điểm cao, các em học sinh cần tham khảo nhiều tư liệu hay để làm phong phú hơn ý văn của mình.
Yên Tử là vùng đất Phật nổi tiếng với khu du lịch Yên Tử có cảnh đẹp nên thơ cùng hệ thống chùa chiền mang kiến trúc cổ độc đáo, hấp dẫn du khách tứ phương.
Núi Yên Tử còn có tên gọi khác là núi Tượng Đầu, là ngọn núi nằm giữa ranh giới 2 tỉnh Bắc Giang và Quảng Ninh. Ngọn núi này thuộc dãy núi Đông Triều vùng Đông Bắc nước ta với chiều cao 1068m so với mực nước biển. Đây còn là nơi có dải động thực vật đa dạng, phong phú. Khu du lịch Yên Tử là nơi lưu giữ các di tích lịch sử, văn hóa gắn liền với sự hình thành và phát triển của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Cùng với phong cảnh núi non tuyệt đẹp, khí hậu mát mẻ, thiên nhiên trong lành, nơi đây trở thành địa điểm du lịch tâm linh thu hút du khách xa gần.
Quảng Ninh có kiểu thời tiết điển hình của vùng Bắc Bộ với 4 mùa rõ rệt trong năm. Du lịch Yên Tử Quảng Ninh tốt nhất là vào mùa xuân, khoảng từ tháng 1 đến tháng 3 âm lịch. Lúc này, thời tiết mát mẻ, dễ chịu. Đây cũng là thời điểm diễn ra nhiều lễ hội thu hút đông đảo người tứ phương đến tham quan, lễ phật.
Nếu muốn tận hưởng trọn vẹn không khí lễ hội du khách có thể du lịch chùa Yên Tử sau ngày khai hội vào ngày 1/10 (âm lịch). Tuy nhiên, thời gian này du khách đổ về đây rất đông nên nếu bạn không thích chen chúc, hoặc đi cùng người già, trẻ em thì nên cân nhắc. Khoảng từ tháng 3 trở đi thì lượng người đi hội thưa dần, thời tiết tương đối mát mẻ, lễ hội thưa hơn nhưng vẫn rất phù hợp để trại nghiệm không gian thanh tịnh nơi đây.
Trên đường đi du lịch Yên Tử, bạn sẽ ngang qua con suối Giải Oan trong xanh. Nơi đây còn gắn với câu chuyện hàng trăm cung nữ đã trầm mình để ngăn cản vua Trần Nhân Tông quy y. Kinh nghiệm du lịch bụi Yên Tử cho thấy, dừng chân tại đây, du khách sẽ được chiêm ngưỡng cảnh núi non nên thơ, suối chảy róc rách, thi thoảng là tiếng chim hót líu lo, tận hưởng không khí trong lành. An Kỳ Sinh là một tảng đá tự nhiên có hình thù giống một vị tu sĩ chắp tay cung kính. Tận dụng vẻ đẹp kỳ thú của thiên nhiên, người dân đã lập nên am thờ An Tử – vị tu sĩ sáng chế nhiều phương thuốc chữa bệnh cứu người.
Chùa Trình hay còn gọi là đền Trình, chùa Bí Thượng, tọa lạc ở độ cao 1000m. Ngôi chùa có tuổi đời gần 400 năm với lối kiến trúc cổ độc đáo. Nổi tiếng là ngôi chùa gần như sắp chạm đến trời mây Yên Tử, nơi đây thu hút đông đảo du khách đến tham quan, lễ Phật. Chùa Trình có cảnh quan thanh tịnh, không gian yên bình với cây cối xanh mát, suối chảy róc rách cùng kiến trúc cổ độc đáo, du lịch Yên Tử, đừng quên dừng chân tại đây để nghỉ ngơi, vãn cảnh chùa.
Tọa lạc ở độ cao 535m so với mực nước biển, chùa Hoa Yên với tên gọi trước đây là Phù Vân với hàm ý mây khói lãng đãng. Du lịch Yên Tử, du khách không thể bỏ qua ngôi chùa Cả này. Trước kia, nơi đây là một cái am nhỏ để vua Trần Nhân Tông giảng đạo. Ngày nay, nơi đây là điểm tham quan, hành hương của các tín đồ Phật Giáo về với đất Phật, với quan cảnh thiên nhiên đất trời thanh tịnh, yên bình.
Chùa Một Mái hay còn gọi là chùa Bồ Đà. Chùa có kiến trúc độc đáo với một nửa ẩn mình trong hang động, một nửa phô ra ngoài với mái ngói phủ rêu phong. Nằm giữa lưng chừng trời, xung quanh là núi đá, cây cối, nơi đây mang đến không gian thanh tịnh, hòa mình với thiên nhiên. Nằm giữa núi rừng xanh tươi là ngôi chùa cổ mộc mạc, mái ngói đơn sơ, mang vẻ thanh bình, yên tĩnh. Nơi đây trước kia là nơi vị đệ tử thân tín nhất của vua Trần Nhân Tông – Bảo Sái tu hành và đào tạo đệ tử, viết sách. Ngày nay, nơi đây được xem là nơi hội tụ linh khí của đất trời, thu hút đông đảo tín đồ Phật tử về đây hành hương, cũng bái.
Tượng Phật Hoàng Trần Nhân Tông nằm ở độ cao 1.100m so với mực nước biển, giữa khung cảnh núi rừng tráng lệ, nguy nga. Tượng được đúc bằng đồng nguyên khối nặng đến 138 tấn, cao 12,6m. Đây là tượng đài nhân dân xây dựng nhằm tưởng nhớ đến công vua trần Nhân Tông đối với dân tộc và đạo pháp. Tương với tư thế tĩnh tại, ung dung giữa đất trời là điểm tham quan, lễ Phật đáng đến khi du lịch Yên Tử.
Tọa lạc ở độ cao 1.068m, Chùa Đồng là ngôi chùa nằm ở vị trí cao nhất của Yên Tử. Chùa được chạm trổ với những đường nét hoa văn tỉ mỉ, chạm khắc tinh xảo, điêu luyện theo kiến trúc nhà Trần. Đứng ở đây, bạn có cảm giác như chạm tới mây, đứng giữa trời đất bao la, rộng lớn. Chính vì vậy, mà nơi đây trở thành điểm tham quan được nhiều người ghé thăm nhất khi đi du lịch núi Yên Tử.
Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử được ví như trường học dành cho tăng ni, phật tử tụng kinh, học đạo. Nằm giữa khung cảnh thiên nhiên nên thơ cùng lối kiến trúc độc đáo, đây là điểm tham quan, du lịch được nhiều du khách ghé thăm, vãn cảnh chùa.
Tháp Huệ Quang cao 7m, gồm 5 tầng được ghép từ những khối đá xanh. Bên ngoài được chạm trổ cầu kỳ với nét hoa văn sóng nước uyển chuyển, mềm mại và vô cùng xuất thần. Trên đài tháp được trang trí theo lối kiến trúc đặc trưng của thời Trần với 102 cánh sen cùng hoa dây mềm mại. Xung quanh tháp là những cây cổ thụ hàng trăm năm tuổi đứng ra che chắn gió mưa cho bảo tháp. Mang nét đẹp uy nghi, cổ kính, tháp Huệ Quang là điểm tham quan nhất định không thể bỏ qua khi du lịch Yên Tử Quảng Ninh.
Cổng trời là nơi có vô vàng phiến đá trầm tích to nhỏ nằm chồng lên nhau. Tất cả được sắp xếp một cách tự nhiên, đẹp mắt. Tại đây, bạn sẽ thấy một phiến đá lớn được dựng thẳng, bên trên có đề chữ “Ai Di Đà Phật – Tứ Tự Hồng Danh”. Phiến đá này được gọi là Bia Phật.
Am Ngọa Vân là di tích quan trọng năm trong khu du lịch núi Yên Tử. Nằm ở độ cao 500m so với mực nước biển, chùa Ngọa Vân có vị thế tuyệt đẹp với lưng vào núi Ngọa Vân mây phủ, phía trước là ngọn núi nhỏ che chắn, 2 bên được ôm trọn bởi 2 dãy núi, phía xa là thung lũng cùng dòng sông Cầm uốn quanh. Chính cảnh sắc tuyệt mĩ đó mà thu hút hàng ngàn lượt khách hằng năm về tham quan, thưởng ngoạn.
Khu du lịch tâm linh Yên Tử là nơi có cảnh sắc thiên nhiên tuyệt mỹ, nhiều di tích, chùa chiền với kiến trúc cổ đặc sắc thu hút khách tham quan.
Khám phá thêm ☀️ Thuyết Minh Về Thành Nhà Hồ ☀️ 15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Thuyết Minh Về Danh Lam Thắng Cảnh Chùa Yên Tử – Mẫu 8
Tham khảo bài văn thuyết minh về danh lam thắng cảnh chùa Yên Tử để có thêm những góc nhìn mới về một trong những vùng đất Phật giáo nổi tiếng nhất.
Chùa Yên Tử Quảng Ninh là điểm du lịch tâm linh thu hút đông đảo du khách hàng năm. Chùa Yên Tử Quảng Ninh nổi tiếng linh thiêng với quang cảnh thiên nhiên hữu tình. Du khách thường tới đây vào dịp đầu xuân để cầu may mắn, bình an cho gia đình và vãn cảnh.
Chùa Yên Tử Quảng Ninh là một ngôi chùa nổi tiếng được yêu thích bậc nhất ở Việt Nam. Ngôi chùa này nằm ở thôn Nam Mẫu, xã Thượng Yên Công, TP. Uông Bí, Quảng Ninh. Nơi đây được Phật hoàng Trần Nhân Tông chọn làm nơi tu hành sau khi truyền ngôi và thành lập ra phái Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử (một dòng Phật giáo đặc trưng ở Việt Nam).
Sau khi truyền ngôi lại cho con trai, Phật Hoàng Nhân Tông chọn về Yên Tử để tu hành, giảng đạo cho chư tôn, tăng ni đến nghe. Sau thời gian ở đây tu hành, ông sáng tạo và xây dựng Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử mang tín ngưỡng văn hóa Việt Nam. Cùng với ông còn có hai môn đệ là thiền sư Pháp Loa và Huyền Quang cũng đóng góp vào việc sáng lập ra thiền phái này.
Là địa điểm du lịch Quảng Ninh linh thiêng, chùa Yên Tử không chỉ gây ấn tượng bởi độ cao 1068m mà còn bởi kiến trúc vô cùng độc đáo. Chùa Yên Tử ở Quảng Ninh mang đậm kiến trúc Phật giáo cổng tam quan hai tầng tám mái đứng uy nghi với mái chùa được lợp ngói vảy uốn cong hình đầu đao hướng thẳng lên trời. Tất cả các cột ở chùa đều được làm bằng gỗ lim chắc chắn, dưới chân có phiến đá lớn bao quanh.
Các gian chùa đều được thiết kế tinh tế, thoáng mát để phù hợp với thời tiết ở đây. Bên trong thì được trang trí sơn son thiếp vàng lộng lẫy, các bức tượng Phật, bức khảm, án thờ, cửa cánh võng được chạm khắc nguy nga, sinh động.
Bạn có thể đi chùa Yên Tử Quảng Ninh bất cứ thời điểm nào trong năm nhưng thời điểm thích hợp với nhiều hoạt động thú vị nhất là vào khoảng mùng 10 tháng Giêng đến tháng 3 âm lịch. Lúc này là thời gian diễn ra lễ hội nên chùa Yên Tử Quảng Ninh thu hút đông đảo du khách xa gần. Lễ hội chùa Yên Tử Quảng Ninh không biết có từ bao giờ, chỉ biết nó đã xuất hiện từ lâu và trở thành một nét văn hóa đẹp tại nơi đây. Lễ hội chùa Yên Tử Quảng Ninh diễn ra từ tháng Giêng đến hết tháng 3 âm lịch với nhiều hoạt động thú vị.
Đầu tiên là phần nghi lễ long trọng được người dân địa phương tổ chức dưới chân núi Yên Tử, tiếp sau đó là cuộc hành hương của hàng vạn người lên đến nơi cao nhất Yên Tử chính là chùa Đồng. Mỗi dịp xuân sang, mọi người đông đúc đi hội chùa, đường lên chùa Yên Tử gập ghềnh, uốn lượn, luồn dưới những bóng cây đại thụ xanh mát, xuyên qua những vạt rừng thông, rừng trúc đầy sức sống.
Du lịch chùa Yên Tử Quảng Ninh – hành hương chốn thanh tịnh gần đây càng được nhiều du khách lựa chọn cho kỳ nghỉ của mình. Thật khó để tìm được nơi có nhiều địa điểm độc đáo như ở Yên Tử. Yên Tử có thể không là điểm đến cuối cùng của bạn nhưng chắc chắn đây là địa điểm mà bạn nhất định phải ghé thăm ít nhất một lần.
Tìm hiểu hướng dẫn 🔥 Kiếm Thẻ Cào Miễn Phí 🔥 Kiếm Tiền Online Kiếm Thẻ Cào
Thuyết Minh Về Chùa Yên Tử Quảng Ninh – Mẫu 9
Những ngôi chùa trên đỉnh Yên Tử chính là minh chứng cho sự tồn tại và phát triển của thiên phái Phật giáo của Việt Nam. Tham khảo bài viết thuyết minh về chùa Yên Tử Quảng Ninh dưới đây:
Yên Tử không chỉ là một ngọn núi thiêng của Phật giáo Việt Nam mà còn là một điểm đến văn hóa, lịch sử có phong cảnh thiên nhiên vô cùng kỳ thú. Trong Quần thể di tích Yên Tử, nổi tiếng bậc nhất là khu danh thắng Đông Yên Tử thuộc TP Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh.
Nếu đã đến Yên Tử vào lễ hội ngày xuân đông vui nhưng chật ních du khách, hãy quay lại hành hương vào những ngày thu này, khám phá hàng trăm ngôi chùa tháp và theo dấu chân của Phật hoàng Trần Nhân Tông – người đã bỏ ngôi vua lên núi tu hành, sáng lập Thiền phái Trúc Lâm mang đậm dấu ấn Việt cách đây 700 năm.
Ngay từ chân núi, du khách đã khó có thể đếm hết những ngôi chùa cổ kính với những huyền tích khác nhau: chùa Bí Thượng nơi trình lễ trước khi lên núi, chùa Suối Tắm nơi Phật hoàng dừng chân rũ bụi trần, chùa Cầm Thực – vua bắt đầu dùng nước suối thay cơm, chùa và suối Giải Oan nơi các cung nữ đã trầm mình khi khuyên vua trở về không thành, sương khói lảng bảng trong tiếng suối róc rách tựa nhạc thiền.
Con đường hành hương tuyệt vời nhất chính là đường bộ lên núi qua hàng ngàn bậc đá, tổng chiều dài khoảng 6.000m vắng vẻ khách bộ hành. Đường tuy dài nhưng trong tiết trời thu mát mẻ và khung cảnh đẹp nên thơ có thể xua tan mệt mỏi phiền muộn, bước chân ai cũng nhẹ nhàng hơn.
Đi dưới những hàng cây, đừng quên dừng lại ngơi nghỉ và tận hưởng không gian cổ kính ở Đường Tùng, đoạn đường chừng 200m dày đặc những cây tùng cao vút có tuổi thọ 700 năm, tán lá trùm mát rượi. Trên đường còn có Rừng Trúc dẻo dai, xanh ngút ngát giữa núi non trùng điệp. Tùng – Trúc là những biểu tượng của Yên Tử, mang khí phách và những tư tưởng hòa hợp với tự nhiên của người xưa.
Nếu không đủ sức khỏe, bạn có thể lựa chọn cáp treo để lên núi, thăm viếng những ngôi chùa chính. Từ trên cáp treo, khung cảnh kỳ vĩ của Rừng quốc gia Yên Tử thu trọn trong tầm mắt. Lên cao, mây mù trắng xóa nhanh chóng bao phủ, văng vẳng câu hát Trên đỉnh Phù Vân:
Mênh mang mênh mang Phù Vân Yên Tử
Vi vu vi vu Trúc Lâm thiền tự
Lên đỉnh núi cao cách trời ba thước
Xuống đáy thung sâu thăm thẳm sông dài.
Ở độ cao chừng 600m, du khách sẽ bắt gặp khu vườn tháp trầm mặc, uy nghi. Đó chính là Vườn tháp tổ mà trung tâm là Tháp Huệ Quang, nơi đặt xá lỵ của Phật hoàng, mùi hương trầm thoang thoảng ám màu thời gian.
Vượt những bậc thang cao ngất đến chùa Hoa Yên, những cây đại cổ thụ 700 năm cành lá khẳng khiu, hằn dấu phong sương chắc chắn sẽ khiến bạn phải trầm trồ. Chùa Hoa Yên có kiến trúc quy mô, uy nghiêm tựa lưng núi là ngôi chùa chính của cả hệ thống chùa Yên Tử. Những am Ngự Dược, am Thung (nơi bào chế thuốc), chùa Bảo Sái Vân Tiêu,… đều thấp thoáng trong mây trắng. Không gian vắng lặng, gió mây đến rồi đi như chốn bồng lai tiên cảnh.
Trên đường vượt những bậc đá cheo leo tới đỉnh núi, hãy dừng chân chiêm bái tượng An Kỳ Sinh, một tảng đá tự nhiên có dáng hình như vị đạo sĩ chắp tay cung kính, áo dài thướt tha. Tương truyền, thế kỷ thứ 3 TCN, đạo sĩ An Kỳ Sinh đã từ phương Bắc đến đây tu đạo. Uy nghi giữa đất trời non thiêng là Bảo tượng Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Tượng đúc bằng đồng nguyên khối có trọng lượng 138 tấn, khánh thành vào dịp Đại lễ tưởng niệm 705 năm Ngày Phật hoàng nhập Niết bàn năm 2013.
Đỉnh núi là đây, chùa Đồng – ngôi chùa độc nhất vô nhị đúc hoàn toàn bằng đồng trên độ cao 1.068m. Dù giữa mùa thu nắng đẹp cũng thật khó chứng kiến chùa không chìm trong mây mù, nhưng khoảnh khắc đứng trên đỉnh non thiêng với sự thư thái, tự do và tĩnh tại khiến bất cứ ai cũng phải hài lòng.
Kết thúc hành trình, du khách có thể ghé những điểm đến có không gian mang đậm chất thiền và văn hóa thời Trần dưới chân núi, tham gia trải nghiệm các khóa tu hoặc đơn giản là dành thời gian nghỉ dưỡng, tìm về những giá trị đơn giản của chính mình.
Tham khảo tuyển tập 🌻 Thuyết Minh Về Cố Đô Huế 🌻 15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Bài Văn Thuyết Minh Về Chùa Yên Tử Học Sinh Giỏi – Mẫu 10
Bài văn thuyết minh về chùa Yên Tử học sinh giỏi sẽ mang đến cho bạn đọc những góc nhìn và phân tích sâu sắc về giá trị lịch sử và văn hoá của danh thắng này.
Chùa Yên Tử Quảng Ninh là cách gọi tắt của khu di tích và danh lam thắng cảnh Yên Tử một trong những điểm nổi tiếng của du lịch Quảng Ninh. Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử, còn gọi là Chùa Lân hay tên chữ là Long Động Tự là một ngôi chùa trên núi Yên Tử, thuộc địa phận thôn Nam Mẫu, xã Thượng Yên Công, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh.
Núi Yên tử là nơi vua Trần Nhân Tông tu hành và lập ra giáo phái Phật giáo có tên là Thiền Trúc Lâm Yên Tử. Hiện nay quần thể khu di tích thắng cảnh Trúc Lâm Yên Tử là một địa điểm tâm linh lớn nổi tiếng trong cả nước. Hằng năm đón hàng chục nghìn lượt khách tham quan, lễ phật, tìm về cõi linh thiêng thư thái.
Trên dòng chảy lịch sử Phật giáo Việt Nam có cả sự ảnh hưởng, tiếp nhận từ phương nam và phương bắc, có cả các bậc sư tổ người nước ngoài và người Việt, có cả sự trầm tích, cộng sinh và phát triển trên cơ sở văn hóa truyền thống bản địa. Ðặt trong tương quan giữa Phật giáo và văn hóa dân tộc, dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử có một vị trí đặc biệt. Trước hết cần đánh giá cao vai trò hoàng đế – thiền sư – thi sĩ Trần Nhân Tông (1258-1308) trên tư cách bậc sư tổ với đạo hiệu Trúc Lâm Ðại Ðầu Ðà, người đặt nền móng cho Thiền phái Trúc Lâm.
Ðương thời, chắc chắn ông biết rõ các thiền phái ngoại nhập nổi tiếng nhiều đời như Tì Ni Ða Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Ðường nhưng lại hướng về tu tập, soạn sách Phật học theo một lối riêng và mở ra dòng Thiền Trúc Lâm in đậm dấu ấn Việt giữa nơi non cao Yên Tử.
Ðóng góp của ông mở rộng từ việc tuyên truyền đạo Phật giữa chúng sinh đến giảng giải kinh sách cho đệ tử, qua thơ văn đi sâu biện giải mối quan hệ giữa “hữu” và “vô”, “thân” và “tâm”, đề cao bản ngã chủ thể “nghiệp lặng”, “an nhàn thể tính”, “tự tại thân tâm”, “Sống giữa cõi trần, hãy tùy duyên mà vui với đạo”, đồng thời coi trọng cuộc sống thực tại, cảnh tỉnh lối tu hành cực đoan, cố chấp: Ai trói buộc chi, tìm giải thoát – Khác phàm đâu phải kiếm thần tiên (Mạn hứng ở sơn phòng)…
Nối tiếp Trần Nhân Tông, đệ nhị tổ Pháp Loa (Ðồng Kiên Cương, 1284-1330) cũng là người am hiểu Thiền học, có tài tổ chức các hoạt động Phật giáo. Qua hơn hai mươi năm lãnh đạo, Pháp Loa đã cho san khắc bộ Ðại Tạng kinh với hơn 5.000 quyển, xây dựng hàng trăm ngôi chùa như Báo Ân, Quỳnh Lâm, Thanh Mai và trực tiếp giảng dạy giáo lý, có tới ba nghìn đệ tử đến cầu pháp và đắc pháp. Ông để lại các tác phẩm khuyên người xuất gia chăm lo việc tu đạo, khuyên mọi người hiểu sâu con đường tu thiền chân chính bằng việc học giới luật, thiền định và trí tuệ, chỉ rõ cách học cần sáng tỏ…
Người cuối cùng trong số ba vị tổ Trúc Lâm là Huyền Quang (Lý Ðạo Tái, 1254-1334), hơn Pháp Loa tròn ba mươi tuổi nhưng lại tu hành muộn hơn, từng làm quan trong triều đình rồi mới từ chức đi tu. Huyền Quang để lại hơn hai mươi bài thơ chữ Hán, một bài phú vịnh chùa Vân Yên bằng chữ Nôm và câu chuyện liên quan đến Ðiểm Bích đượm chất thế sự. Tiếc rằng ông kế nhiệm chức vụ khi tuổi đã cao nên việc đào tạo đệ tử không được rõ ràng, trong khi nguồn sáng truyền thống Trúc Lâm vẫn được duy trì và truyền mãi đến ngày nay.
Với sự hiện diện của ba vị sư tổ Trần Nhân Tông – Pháp Loa – Huyền Quang và khoảng hơn ba mươi năm hưng thịnh, Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đã trở thành một biểu tượng giá trị tinh thần người Việt. Trên phương diện văn hóa vật thể, dấu tích những ngôi chùa, tháp, am, đường tùng, trúc, suối Giải Oan, vườn Ngự Dược, tượng đá An Kỳ Sinh, chùa Ðồng trên đỉnh núi hợp thành một quần thể sống động giữa nơi non cao rừng thẳm. Chỉ nói riêng cái tên Trúc Lâm Yên Tử cũng đã khơi gợi được vẻ cổ kính và chiều sâu thế giới tâm linh mỗi người dân nước Việt, nơi tu hành giảng đạo của người xưa và điểm du lịch, tham quan danh thắng của người hiện đại.
Có thể nói sự ra đời của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đã tạo nên trường lực hấp dẫn mạnh mẽ, tạo đà thúc đẩy sự ra đời hàng trăm ngôi chùa lớn, nhiều tầng lớp tăng chúng cùng quy hướng theo một dòng tu hành in đậm sắc thái Phật giáo dân tộc. Bản thân hình tượng ba vị sư tổ cũng được tôn thờ, nghệ thuật hóa thành tranh, tượng và nhân vật trong văn học viết cũng như truyền thuyết dân gian.
Những bài thuyết pháp, giảng đạo của các ông đồng thời cũng là những bài học đạo đức khuyên răn con người hướng thiện đã đến với muôn dân, đã được khắc in và truyền lại cho hậu thế. Mặc dù đến hết triều Trần, Phật giáo không còn giữ được địa vị như giai đoạn trước, song tinh thần Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đã kịp chuyển hóa, thấm sâu trong đời sống tinh thần dân chúng và trở thành những giá trị văn hóa bền vững trước thời gian.
Nếu văn hóa là những gì còn lại trước thời gian thì chính các giá trị vật thể và phi vật thể liên quan Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đã là một minh chứng sâu sắc cho khả năng tồn tại và phát triển của một di sản văn hóa, bất chấp năm tháng và mọi thăng trầm thế sự. Theo một nghĩa rộng, di sản này đã tỏa sáng thành “tâm thức Trúc Lâm” trong lòng mỗi con người thuộc mọi thế hệ, ở khắp mọi vùng đất nước.
Một mùa xuân nữa lại đến. Người bốn phương lại hành hương về với non thiêng Yên Tử. Cách biệt với dòng người trảy hội rộn rã tiếng cười nói, khu Chùa Lân – Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử trầm lắng trong bóng chiều. Miền đất thiêng đã hóa thân trong hồn sông núi và nền văn hóa dân tộc. Bước sang thế kỷ 21, Thiền phái Trúc Lâm thêm một lần phục hưng, nguồn sáng văn hóa Trúc Lâm Yên Tử càng thêm tỏa rạng trên bản đồ Việt Nam và thế giới…
Đừng bỏ qua 🔥 Thuyết Minh Về Côn Đảo, Nhà Tù Côn Đảo 🔥 15 Bài Hay Nhất
Thuyết Minh Về Chùa Đồng Yên Tử – Mẫu 11
Chùa Đồng nằm ở đỉnh cao nhất của dãy núi Yên Tử, đây cũng là ngôi chùa thiêng liêng mà du khách thập phương vẫn tìm đến hành hương. Đón đọc bài văn thuyết minh về chùa Đồng Yên Tử dưới đây:
Chùa Đồng là địa điểm nổi tiếng nhất trong quần thể di tích danh thắng Yên Tử (Quảng Ninh), là đích đến của mọi tăng ni, phật tử, du khách thập phương khi hành hương về đất thiêng Yên Tử. Theo quan niệm của các tăng ni, phật tử, chùa Đồng là nơi con người có thể cầu viện được “sinh lực vũ trụ” cho mọi mặt cuộc đời.
Chùa Đồng nằm ở đỉnh cao nhất dãy Yên Tử. Đây là ngôi chùa trên đỉnh núi bằng đồng lớn nhất châu Á. Chùa còn được dân gian ví như một “kỳ quan mới” tại danh thắng Yên Tử. Đỉnh thiêng Yên Tử nằm trên độ cao khoảng 1068 m so với mực nước biển. Để lên tới đỉnh chùa bạn phải vượt qua hơn 6000 bậc đá, băng qua cánh rừng trúc, rừng thông cao ngút ngàn. Thời gian thích hợp nhất đi chùa Yên Tử lễ bái và vãn cảnh là khoảng tháng Giêng hàng năm khi mùa lễ hội đầu xuân không khí tươi mới, cảnh vật tràn đầy sức sống, người dân nô nức đi trẩy hội.
Xưa kia, người dân coi đỉnh Yên Sơn là núi thiêng, nơi có thể cầu mưa, hô phong hoán vũ. “Đến đỉnh Yên Sơn, đứng cạnh chùa Đồng tôi cảm nhận được sự linh thiêng của Phật pháp, vẻ đẹp của cõi Phật với mây vờn dưới chân, tâm hồn thanh tịnh như gột sạch mọi lo toan của cuộc sống, thoảng hương dịu mát của cỏ cây và mây trời đất Phật. Từ đỉnh Yên Sơn nhìn về 4 hướng, cả vùng Đông Bắcnhư một dải lụa xanh thẳm hiện ra trước mắt” – bà Nguyễn Thị Ánh, TP Thái Bình (Thái Bình) chia sẻ.
Chùa Đồng còn có tên gọi khác là Thiên Trúc tự (chùa cõi Tây phương Thiên Trúc). Chùa được xây dựng vào thế kỷ XVII thời hậu Lê, chùa ban đầu chỉ là một khám nhỏ đúc bằng đồng. Đến năm Canh Thân 1740, đời vua Lê Cảnh Hưng, một cơn bão làm lật mái chùa, kẻ gian lấy nốt phần còn lại, để lại các dấu tích hố cột trên mỏm đá. Năm 1930, bà Bùi Thị Mỹ – thủ tự chùa Long Hoa phát tâm xây dựng chùa Đồng bằng bê tông cốt thép trên một hòn đá vuông, nhằm trúng vị trí chùa Đồng cũ. Kích thước ngôi chùa tương đương ngôi chùa Đồng cũ. N
gày 3/6/2006, dưới sự chủ trì của Tiến sĩ phật học Đại đức Thích Thanh Quyết (Thượng tọa Thích Thanh Quyết) và Ban quản lý dự án chùa Đồng, bằng công đức thập phương trong và ngoài nước đã khởi lễ đúc chùa Đồng theo mẫu thiết kế của kiến trúc sư Trần Quốc Tuấn (Viện Bảo tồn di tích). Chùa được khánh thành ngày 30/1/2007, tọa lạc trên đỉnh non thiêng ở vị trí giữa hai ngôi chùa được xây dựng trước đây.
Chùa Đồng hiện nay là công trình kiến trúc độc đáo nhất Đông Nam Á, trọng lượng 70 tấn, chiều dài 4,6 m, chiều rộng 3,6 m, cao 3,35 m. Chùa giống một đài sen nở. Trong chùa thờ Phật Thích Ca Mâu Ni và Tam Tổ Trúc Lâm Yên Tử.
Trước đây, để lên chùa Đồng chỉ có cách duy nhất là đi bộ, phải vượt qua hàng nghìn bậc đá, đường rừng núi trên quãng đường dài khoảng 6 km để lên đỉnh Yên Sơn. Những năm gần đây, Ban quản lý khu danh thắng Yên Tử đã đưa vào sử dụng cáp treo giúp du khách thập phương dễ dàng chinh phục chùa Đồng. Ngồi trên cáp treo, du khách có thể ngắm nhìn núi non Yên Tử từ trên cao, sau đó tiếp tục đi bộ chinh phục non thiêng Yên Tử.
Từ cáp treo nhìn xuống những khu rừng Yên Tử, du khách được chiêm ngưỡng những ngọn tùng cổ hơn 700 tuổi vươn mình giữa không gian rộng lớn; những cây măng trúc mọc tua tủa vươn lên chạm vào cáp treo. Mặc dù có cáp treo, nhưng quãng đường đi bộ để lên tới chùa Đồng tương đối dài và treo leo, với hàng nghìn bậc đá gập ghềnh xuyên qua bạt ngàn rừng tùng, rừng trúc… Đặc biệt, khi tiết trời vào xuân, mưa phùn lất phất, du khách sẽ được trải nghiệm cảm giác vén sương để tìm đường lên chùa Đồng.
Vượt qua muôn trùng thử thách khi đặt chân tới chùa Đồng, du khách thập phương đều thành kính xoa tay vào chiếc khánh và quả chuông. Tương truyền rằng, trong quả chuông và khánh tại chùa Đồng có nhiều vàng ròng. Ngày đúc chuông, du khách thập phương tụ hội về rất đông. Nhiều người đã thả vào mẻ đúc cả chục kg vàng, người đeo vòng lắc hoặc nhẫn vàng cũng công đức trực tiếp vào chuông, khánh. Vì vậy, mọi người nghĩ rằng phúc đức sẽ được truyền lại cho muôn đời con cháu, khi chạm tay vào chiếc khánh và quả chuông “cầu gì được nấy”.
Hàng năm, vào dịp đầu xuân năm mới, du khách thập phương khắp mọi miền đất nước đều mong muốn hành hương về Yên Tử để chiêm bái chùa Đồng, tìm về cõi Phật, tìm về chính mình.
SCR.VN tặng bạn 💧 Nhận Thẻ Cào 50k Miễn Phí 💧 Kiếm Thẻ Cào Free
Thuyết Minh Về Lễ Hội Yên Tử – Mẫu 12
Gắn liền với những cuộc hành hương của du khách chính là thời gian lễ hồi mua xuân truyền thống trên đỉnh Yên Tử. Bài văn thuyết minh về lễ hội Yên Tử dưới đây sẽ mang đến cho bạn đọc những trải nghiệm thú vị.
Vùng núi Yên Tử, nơi phát tích của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử và cũng là nơi diễn ra một trong những lễ hội lớn nhất cả nước dịp đầu xuân.
Hội Yên Tử bắt đầu từ ngày 9 tháng Giêng và kéo dài hết 3 tháng mùa xuân hàng năm. Sau phần nghi lễ long trọng của lễ hội tổ chức dưới chân núi Yên Tử là cuộc hành hương của hàng vạn người đến với chùa Đồng ở trên đỉnh núi. Du khách đến hội chùa Yên Tử để được tách mình khỏi thế giới trần tục, thực hiện cuộc hành hương về đất Phật giữa thiên nhiên hùng vĩ.
Hàng năm không chỉ Phật tử mà hàng ngàn du khách đến đây dâng hương vãn cảnh. Trên đường đi du khách có cơ hội chiêm ngưỡng những ngôi chùa, ngọn tháp ẩn nấp bên những con suối, rừng cây. Lên đỉnh núi tựa như chạm đến cổng trời. Khi trời quang mây tạnh, từ đây có thể phóng tầm mắt dõi nhìn khắp vùng biển miền Đông Bắc.
Ca dao có câu:
“Trăm năm tích đức tu hành
Chưa đi Yên Tử, chưa thành quả tu”.
Vùng núi Yên Tử ở xã Thượng Yên Công cách trung tâm thị xã Uông Bí (Quảng Ninh) khoảng chừng 14 km. Trước đây, người ta gọi núi Yên Tử là núi Voi bởi hình dáng ngọn núi tựa như một con voi khổng lồ. Trong sử sách ghi lại, Yên Tử còn có tên là Bạch Vân Sơn bởi quanh năm núi chìm trong mây trắng.
Các triều đại vua chúa xếp Yên Tử vào hạng “danh sơn” của nước ta. Đây là trung tâm Phật giáo của nước Ðại Việt thuở trước, nơi phát tích của thiền phái Trúc Lâm. Trong quần thể di tích Yên Tử rộng lớn hiện có 11 chùa và hàng trăm am tháp. Chùa Ðồng ở trên đỉnh cao nhất 1.068 m (so với mặt nước biển). Lên chùa Ðồng du khách cảm tưởng như đi trong mây (“nói cười ở giữa mây xanh -Nguyễn Trãi). Ở Yên Tử có ngọn tháp cao 3 tầng bằng đá. Ngọn tháp có niên đại “Cảnh Hưng thập cửu niên – 1758” là cổ nhất. Cũng không đâu có rừng tháp như khu Tháp Tổ ở Yên Tử gắn liền với những sự tích huyền thoại về ông vua nhà Trần và phái Thiền Trúc Lâm.
Gần 1000 năm trước, sử sách đã ghi lại rằng, Yên Tử được coi là “phúc địa thứ 4 của Giao Châu”. Nhiều tài liệu cũ đều thống nhất ghi nhận “Năm Tự Ðức thứ 3, núi Yên Tử được liệt vào hàng danh sơn, chép trong điển thờ “. Phải chăng, chính sự linh thiêng huyền bí ấy mà từ xưa các tín đồ đạo phật Việt Nam đã đến Yên Tử dựng am cỏ cầu kinh niệm Phật. Cũng vì thế mà từ thế kỷ thứ 10, đạo sĩ An Kỳ Sinh (Yên Kỳ Sinh) đã đến nơi này tu hành và đắc đạo. Những năm sau đó, nhiều thế hệ tăng ni phật tử Việt Nam tiếp tục tìm đến Yên Tử tu hành, xây dựng chùa tháp và nhiều công trình khác.
Đặc biệt từ thời Trần, đã đầu tư xây dựng Yên Tử thành khu quần thể kiến trúc chùa tháp có quy mô lớn. Khởi đầu là vua Trần Thái Tông lên Yên Tử năm 1236. Sau đó Trần Nhân Tông sau khi lãnh đạo quân dân kháng chiến giành đại thắng trước quân Nguyên-Mông , mang lại thanh bình cho đất nước, vào lúc đất nước thái bình, vua nhường ngôi cho con lên núi Yên Tử tu hành.
Năm 1299 (cách đây hơn 700 năm ), Trần Nhân Tông đã xây dựng nên dòng thiền Trúc Lâm bằng cả một hệ thống lý thuyết và hành động gắn đạo với đời. Ông được coi là vị Sư Tổ thứ nhất của Phật phái Trúc Lâm mang Phật danh Ðiều Ngự Giác Hoàng. Kế tục sự nghiệp của ông là Sư Tổ Pháp Loa và Huyền Quang Tôn Giả. Cả 3 vị được gọi chung là Trúc Lâm Tam Tổ. Từ đó, Yên Tử trở thành kinh đô tư tưởng của Phật phái Trúc Lâm, đánh dấu sự phát triển triết học và tư tưởng của dân tộc Việt Nam trong các thế kỷ 12, 13, 14.
Không biết lễ hội Yên Tử được hình thành từ bao giờ, chỉ biết rằng, từ thế kỷ 17-18, trên đỉnh Yên Tử, ở độ cao 1.068m đã hiện diện một ngôi chùa (Thiên Trúc Tự) mái lợp ngói đồng, trong chùa có 2 tượng đồng, cạnh chùa là một phiến đá lớn bằng phẳng được gọi là Bàn cờ Tiên cùng với một chữ Phật khối lớn khắc vào vách đá…Tất cả đều nói lên sự linh thiêng, huyền bí và sức cuốn hút kỳ diệu của Yên Tử.
Yên Tử không chỉ là nơi cảnh quan kỳ vĩ mà còn là chốn đất thiêng, hội thụ nhiều giá trị tinh thần, văn hoá của tổ tiên; sự dâng hiến tinh khiết,…Ðâu phải vô tình mà Yên Tử trở thành cõi trở về của hàng nghìn con dân đất Việt mỗi dịp xuân về.
Giới thiệu đến bạn 🌟 Thuyết Minh Về Khu Di Tích Lịch Sử Pác Bó 🌟 15 Bài Hay Nhất
Thuyết Minh Về Di Tích Lịch Sử Yên Tử – Mẫu 13
Tham khảo bài văn thuyết minh về di tích lịch sử Yên Tử, nơi được mệnh danh là vùng đất Phật linh thiêng bậc nhất nước ta.
Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử là một hệ thống hơn 70 điểm di tích, được cấu thành từ 4 cụm di tích lịch sử quốc gia đặc biệt gồm: Khu di tích lịch sử và danh thắng Yên Tử (thành phố Uông Bí, Quảng Ninh), Khu di tích lịch sử nhà Trần (thị xã Đông Triều, Quảng Ninh), Khu di tích danh thắng Tây Yên Tử (Bắc Giang) và Khu di tích Côn Sơn-Kiếp Bạc (Hải Dương).
Quần thể di tích và danh thắng Yên Tử là địa điểm có sự kết hợp hài hoà giữa cảnh quan thiên nhiên với các công trình kiến trúc, nghệ thuật có giá trị đặc biệt của quốc gia, bao gồm: Chùa Bí Thượng, chùa Suối Tắm, chùa Cầm Thực, chùa Lân, chùa Giải Oan, vườn tháp Hòn Ngọc, khu tháp Tổ, chùa Hoa Yên, chùa Một Mái, chùa Bảo Sái, chùa Vân Tiêu, chùa Đồng. Đây cũng mang giá trị lịch sử to lớn, vì là nơi hình thành, ra đời và phát triển của Trung tâm Phật giáo Thiền Tông thuần Việt do Phật hoàng Trần Nhân Tông sáng lập.
Sự ra đời và phát triển của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử để lại cho hậu thế những bản kinh văn và các bản sách quý giá, những sách dạy cho các tăng môn và dân chúng của Thiền phái Trúc Lâm tu tập, sám hối, tu hành thập thiện như: Thiền tâm thiết chuỷ ngữ lục, Đại Hương Hải ấn thi tập, Tăng già Toái sự, Thạch thất Mỹ Ngữ, Truyền Đăng Lục, Thượng Sĩ hành trang… Đây là những di sản văn hoá phi vật thể quý giá đang đồng hành cùng sự phát triển của lịch sử dân tộc.
Khu di tích lịch sử và danh thắng Yên Tử là nơi hình thành, ra đời và phát triển của Trung tâm Phật giáo Thiền Tông thuần Việt, do người Việt trực tiếp sáng lập ra. Là nơi hội tụ của các công trình kiến trúc cổ kính do các Tăng, Ni, Phật tử và triều đình phong kiến của các thời Lý, Trần, Lê, Nguyễn kế tiếp nhau xây dựng và trùng tu. Những công trình này đã phản ánh khá rõ nét sự phát triển của kiến trúc, mỹ thuật, điêu khắc, tiêu biểu cho tài năng sáng tạo nghệ thuật của dân tộc Việt Nam. Đây là một quần thể di tích rất lớn và ra đời sớm ở Việt Nam.
Sự ra đời và phát triển của Phật giáo Thiền Tông là sản phẩm của thời đại, gắn với thời kỳ độc lập, tự chủ vẻ vang của đất nước, nền văn minh của Đại Việt. Hệ thống chùa, am, tháp, bia tượng… ở Yên Tử là những tư liệu lịch sử vật chất quý báu gắn liền với tên tuổi, sự nghiệp tu hành của Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông và các thế hệ thiền sư sau này.
Hơn 700 năm qua, từ Trung tâm Yên Tử, pháp phái Thiền Trúc Lâm đã lan tỏa mạnh và phát triển rộng tới nhiều vùng miền trong cả nước, đã được các thế hệ Thiền sư nối tiếp kế thừa, phát triển và truyền bá đến nhiều quốc gia trên thế giới. Bên cạnh đó, Yên Tử còn là một trong những linh sơn của đất nước, nơi bảo tồn được rất nhiều loài động thực vật quý hiếm mà không một vùng núi nào có được, đặc biệt là các loài cây quý như tùng, trúc, mai và các loại cây thuốc nam quý hiếm.
Gắn liền với lịch sử phát triển dòng thiền Trúc Lâm tại Yên Tử là việc xây dựng và hình thành một quần thể các công trình kiến trúc gồm hàng chục ngôi chùa, hàng trăm am, tháp, bia, tượng, như: chùa Bí Thượng, Suối Tắm, Cầm Thực, Chùa Lân, Giải Oan, Hoa Yên, Vân Tiêu, Bảo Sái, Một Mái, Chùa Đồng…; các am Lò Rèn, Am Hoa, Am Dược, Am Diêm, Am Muối, am Thiền Định, Thác Ngự Dội; Đường Tùng, Hòn Ngọc, Vườn tháp Huệ Quang, Tượng đá An Kỳ Sinh, tượng Phật Hoàng Trần Nhân Tông…
Quần thể kiến trúc đồ sộ này được đặt trong một tổng thể cảnh quan hùng vĩ, thơ mộng trải dài hàng chục km, tạo thành Khu Di tích lịch sử và danh thắng Yên Tử mang tầm Quốc gia và Quốc tế.
Vẻ đẹp của Yên Tử là sự kỳ vĩ của núi non hoà với nét cổ kính, trầm mặc của chùa tháp, là sự thơ mộng của suối nước, trời mây chen trong cây cỏ hoa lá và chim muông, là sự phong phú của thảm thực vật đa dạng và những loại cây dược liệu có giá trị. Chính vì vậy mà từ xa xưa Yên Tử được xếp là một trong 72 phúc địa của nước ta….
Gợi ý cho bạn 🌹 Thuyết Minh Về Thành Cổ Quảng Trị 🌹 15 Bài Văn Hay Nhất
Thuyết Minh Về Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử – Mẫu 14
Đón đọc bài thuyết minh về thiền phái Trúc Lâm Yên Tử để tìm hiểu về lịch sử hình thành, phát triển và những giá trị, đóng góp to lớn của thiên phái tôn giáo này đối với văn hoá dân tộc.
Dầu ai quyết chí tu hành
Có lên Yên Tử mới đành lòng tu
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, dân tộc Việt Nam tự hào đã xây dựng cho riêng mình một thiền phái tôn giáo mang đặc trưng riêng có của con người Việt Nam. Đó chính là Thiền phái Trúc Lâm Yên tử, một thiền phái nhân văn và gần gũi với cuộc sống của người dân, do một vị vua Triều Trần khai mở và phát triển, Ông là vị vua thứ ba triều đại Nhà Trần, Trần Nhân Tông.
Ở Ông, không chỉ được biết đến là vị vua anh minh, một anh hùng dân tộc mà còn là một nhà tu hành mẫu mực. Trên cơ sở thống nhất các thiền phái từ bên ngoài truyền vào thành dòng thiền riêng do vua Trần Thái Tông thực hiện, Ngài Trần Nhân Tông đã hoàn thiện dòng thiền Trúc Lâm, mở ra tông phái Trúc Lâm Yên Tử, một dòng thiền mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam.
Vua Trần Nhân Tông tên thật là Trần Khâm, trước khi đi tu, Ngài trị vì đất nước 15 năm (1278 – 1293), làm Thái thượng hoàng 15 năm. Sau khi nhường ngôi cho con trai là Trần Anh Tông, Ông xuất gia tu hành tại Ninh Bình, sau đó đến tu tại Yên Tử, Quảng Ninh. Tại đây, Ngài đã thành lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, lấy đạo hiệu là Điều Ngự Giác Hoàng (hay Trúc Lâm đầu đà). Ông được nhân dân gọi cung kính là “Phật Hoàng”.
Chính Ông là người đầu tiên khơi nguồn, đặt nền móng và hướng đạo, phát triển tư tưởng Phật giáo, tổ chức giáo hội, đào tạo tăng ni, phật tử. Với việc lập ra phái Trúc Lâm và thống nhất toàn bộ giáo hội Phật giáo đời Trần về một mối, “Yên Tử trở thành trung tâm của Phật giáo từ khi vua Trần Nhân Tông từ bỏ ngai vàng khoác áo cà sa tu hành và thành lập một dòng Phật giáo đặc trưng của Việt Nam, đó là dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử”.
Xét theo dòng truyền Yên Tử thì Đại Đầu đà Trúc Lâm thuộc thế hệ thứ sáu, Ngài đã thống nhất 3 thiền phái: Tỳ ni Đa lưu chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường thành thiền phái Trúc Lâm, trở thành Sơ Tổ của Thiền phái. Xét sâu xa, người có công đặt nền móng thiết lập cho Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử phát triển, thể hiện bản sắc dân tộc là vua Trần Thái Tông, nhưng người khai sáng và làm rạng danh thiền phái là vua Trần Nhân Tông. Từ đây, Việt Nam thực sự đã có một dòng thiền Phật giáo của người Việt, do chính người Việt làm Tổ.
Khác với các thiền phái khác, Trúc Lâm Yên Tử của Đại Việt mang đậm tinh thần nhập thế, muốn tìm con đường giác ngộ không phải từ bỏ thế gian này mới giác ngộ được. Với tinh thần đạo pháp thì người con Phật càng phải dấn thân vào cuộc sống, vui với niềm vui của đất nước, đau với nỗi đau của dân tộc, nhưng khi thanh bình thì vẫn trở về với cuộc sống tu hành thoát tục.
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đã mang đầy đủ những đặc điểm ấy. Bằng sự chứng ngộ Thiền lý sâu xa, Trần Nhân Tông đã lấy tôn chỉ: “Bất lập văn tự, Giáo ngoại biệt truyền, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật” làm chủ đạo, kết hợp giảng kinh thuyết pháp, giúp cho người học Phật hiểu sâu kinh điển, chuyển lời kinh chết trong sách thành những bài kinh sống nơi con người.
Thực tế, thời gian Ngài xuất gia đến khi viên tịch không dài, nhưng trong những năm đó, ngài đã lấy tinh thần Phật giáo nhập thế, “từ bi hỉ xả” cứu độ chúng sinh bằng cách phát triển đạo pháp, dân tộc cùng hoà hợp, từ vua Trần Thái Tông đến các vua Thánh Tông…tạo nên mạch truyền thống và sự phát triển bền vững của đạo Phật thời Trần, tính gắn kết mật thiết giữa dân tộc và tôn giáo, giữa chính quyền và thần quyền, tạo nền tảng bền vững cho sự phát triển xã hội.
Thiền phái Trúc Lâm còn thể hiện đậm bản sắc dân tộc ở chỗ, sau khi đánh đuổi quân xâm lược, đất nước thái bình thì các Thiền sư trở về với việc tu hành và nghiên cứu để đưa hiểu biết của mình đến với người dân. Đây là tinh thần nhập thế mà các thiền phái trước chưa thực hiện được, chính tinh thần này đã tạo nên sức mạnh của dân tộc Việt và đã đưa Phật giáo phát triển đạt tới đỉnh cao trong lịch sử Việt Nam. Thiền phái Trúc Lâm đã kết hợp khéo léo giữa lý tưởng Quốc gia và Phật đạo, vốn là khía cạnh của lý tưởng tôn giáo đại đồng. Tư tưởng Tam giáo đồng qui thực sự cũng được hỗ trợ bởi một lý tưởng tôn giáo như thế.
Có thể nói, Ngài Nhân Tông, từ ngôi vị Hoàng đế đến ngôi vị Phật hoàng, từ vương quyền đến thần quyền…trên phương diện nào thì con người Nhân Tông vẫn hiển hiện với tư tưởng, tình cảm của người con Việt, lấy vận mệnh đạo pháp và dân tộc hoà chung trong một bản trường ca là Phật giáo Nhập thế. Phật giáo là giáo lý giác ngộ chân thật, đó là một lẽ thật bình đẳng không phân chia ranh giới Việt Nam hay Nhật Bản, Ấn Độ….vì “tất cả chúng sinh đều có Phật tánh”. Tuy nhiên, ở Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử chúng ta thấy nổi bật những nét đặc trưng của tôn giáo mang đậm đà bản sắc của nền văn hoá dân tộc Việt Nam, không bị phụ thuộc, lai căng từ bên ngoài.
Sau Trần Nhân Tông, các vị đệ nhị tổ Pháp Loa, tam tổ Huyền Quang đã nối tiếp truyền thừa, mở rộng thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Từ miền non thiêng Yên Tử, tinh thần Trúc Lâm đã khởi phát và lan tỏa khắp nơi, đến nay đã, đang thu hút đông đảo người tham gia trên toàn thế giới. Sau thời đại của các vị vua nhà Trần, Trúc Lâm Yên tử tiếp tục song hành cùng dân tộc trong sự nghiệp bảo vệ và phát triển đất nước.
Hơn 700 năm sau ngày Điều Ngự Giác Hoàng nhập Niết bàn, Dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử đã được hồi phục và phát triển mạnh mẽ bởi cách tu tập và triết lý vẫn mang đậm tính thời đại: Tu thiền chính là trở lại với tâm mình, đem tâm mình trở về từng giờ từng phút, sống với nội tâm thanh tịnh. Ngài chính là linh hồn của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, vĩnh viễn bất sinh bất diệt trong lòng hậu thế.
Đức Phật Hoàng Trần Nhân Tông, cuộc đời của Người có một vị trí, vai trò đặc biệt trong lịch sử của dân tộc ta, nhân dân ta mãi mãi khắc ghi công lao của Ngài trong sự nghiệp chống giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước, là người đã xây dựng và phát triển một thiền phái Phật giáo riêng có của người Việt. Thiền phái Trúc Lâm, Thiền phái do Ngài khai mở và phát triển đã trở thành một thành tố quan trọng tạo nên nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc của thời kỳ Đại Việt lúc đó và được kế thừa, phát triển, hoàn thiện trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Đừng bỏ lỡ cơ hội 🍀 Nhận Thẻ Cào 100k Miễn Phí 🍀 Card Viettel Mobifone
Thuyết Minh Về Tây Yên Tử Bắc Giang – Mẫu 15
Bài văn thuyết minh về Tây Yên Tử Bắc Giang sẽ đưa bạn đọc khám phá miền phía tây núi Yên Tử với hệ thống những địa danh văn hoá, thắng cảnh và di tích.
Khu di tích và danh thắng Tây Yên Tử gồm hệ thống các di tích lịch sử, văn hoá, danh lam thắng cảnh nằm ở sườn Tây và Bắc của dãy núi Yên Tử, thuộc địa phận tỉnh Bắc Giang, trải dài từ các huyện Yên Dũng, Lục Nam, Lục Ngạn và Sơn Động.
Núi Yên Tử thuộc dãy Đông Triều, dãy núi cao của vùng Đông Bắc, nằm giáp ranh giữa hai tỉnh Quảng Ninh và Bắc Giang. Theo sử sách, sườn Đông Yên Tử (Quảng Ninh), nơi Phật Hoàng Trần Nhân Tông tu tập, thì sườn Tây Yên Tử (Bắc Giang) là con đường hoằng dương Phật pháp của người. Thái thượng hoàng Trần Nhân Tông rời kinh thành thượng sơn từ sườn Tây Yên Tử, nhập niết bàn trên núi Ngọa Vân. Sư tổ Pháp Loa và đệ tam Huyền Quang cũng theo con đường phía Tây Yên Tử hành đạo Phật sự của Trúc Lâm. Các hòa thượng tiền bối Trúc Lâm cho mở mang, xây dựng chùa tháp, phát triển đạo Phật rộng khắp ở vùng Bắc Giang.
Chứng tích là hàng trăm công trình xây dựng kiến trúc thời Trần ở các huyện Yên Dũng, Lục Nam, Lục Ngạn, Sơn Động có nhiều ngôi chùa thiêng như: Am Vãi, Bình Long, Yên Mã, Sơn Tháp, Đàm Trí, Hồ Bấc. Chùa Vĩnh Nghiêm (huyện Yên Dũng) là di tích quốc gia đặc biệt, có mộc bản được UNESCO công nhận là Di sản tư liệu khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Tây Yên Tử – nơi phát tích và hưng thịnh của Phật giáo Việt Nam thế kỉ XI đến XIV từng là Trung ương của Phật giáo thiền phái Trúc Lâm.
Từ chùa Vĩnh Nghiêm (huyện Yên Dũng) ngược lên sườn Tây Yên Tử chính là nơi Phật pháp Trúc lâm được hoằng dương rộng rãi, phát triển rộng khắp ở Bắc Giang. Nhờ vậy, hàng trăm công trình kiến trúc chùa tháp được xây dựng. Ngoài những ngôi chùa ở dưới đồng bằng như Vĩnh Nghiêm, Bảo An, Khám Lạng… một loạt các ngôi chùa được dựng trên núi cao có cảnh quan kỳ thú. Những ngôi chùa bên sườn Tây Yên Tử có cảnh quan đẹp như chùa Hồ Bấc, chùa Mã Yên, Sơn Tháp… tất cả đều gắn với sự hình thành và phát triển của thiền phái Trúc lâm Yên Tử.
Để đi đến Tây Yên Tử phải đi theo tuyến đường tâm linh 293, tuyến đường nối ba khu du lịch tâm linh và sinh thái: Tây Yên Tử – Khu du lịch Suối Mỡ – Chùa Vĩnh Nghiêm. Đi theo tuyến đường này, du khách có thể tham quan, chiêm bái cảnh chùa Vĩnh Nghiêm thuộc xã Trí Yên, huyện Yên Dũng, ngôi chùa được coi là trường đại học Phật giáo đầu tiên của Việt Nam, nơi lưu giữ 3050 bản ván khắc được UNESCO công nhận là di sản Tư liệu thế giới khu vực châu Á Thái Bình Dương.
Sau khi vãn cảnh chùa Vĩnh Nghiêm theo chuyến hành trình về Tây Yên Tử, một địa danh hấp dẫn không thể bỏ qua chính là khu du lịch sinh thái Suối Mỡ, huyện Lục Nam. Với diện tích hơn 1.000 ha, thắng cảnh Suối Mỡ nằm trọn trong một thung lũng lớn của dãy núi Huyền Đinh Yên Tử. Được thiên nhiên ưu ái, cảnh sắc núi rừng nơi đây trùng điệp với dòng nước mát lành chảy ra từ các khe suối tạo thành những dòng thác lớn nhỏ len theo các vách núi.
Giá trị lịch sử, văn hóa tín ngưỡng của Khu Suối Mỡ gắn liền với 3 đền: Đền Hạ, Đền Trung, Đền Thượng thờ thánh mẫu Thượng Ngàn. Hội đền suối Mỡ đã được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.Đến với Suối Mỡ vào dịp lễ hội (31/3 và mồng 1/4 âm lịch), du khách sẽ được hòa mình vào những màn hát văn độc đáo và hấp dẫn.
Địa điểm cuối cùng trong chuyến hành trình là khu văn hóa tâm linh Tây Yên Tử thuộc xã Tuấn Mậu, huyện Sơn Động. Khu du lịch được quy hoạch với tổng diện tích gần 14.000 ha, được chia làm 4 cụm chùa độc lập gồm: Chùa Trình, chùa Hạ (chùa Phật Quang) và chùa Trung, chùa Thượng (chùa Kim Quy). Các điểm chùa có cao độ từ 145m đến điểm cao nhất gần 1000m, kết nối với tương Phật Hoàng Trần Nhân Tông và chùa Đồng trên đỉnh Tây Yên Tử.
Hành trình tham quan của du khách sẽ bắt đầu từ chùa Hạ nằm ở độ cao 145m. Vào chùa Hạ du khách được chiêm bái tượng đồng của Tam tổ Trúc Lâm với tượng Phật hoàng Trần Nhân Tông trong tư thế ngồi nặng 700 kg; hai pho tượng Pháp Loa và Huyền Quang trong tư thế đứng, mỗi pho nặng hơn 300 kg. Sau khi thành tâm kính lễ tại chùa Hạ du khách sẽ tiếp tục hành trình để đi đến chùa Thượng.
Hiện nay, Bắc Giang đang tập trung xây dựng các sản phẩm du lịch đặc thù, trong đó có phát triển tuyến du lịch Tây Yên Tử với sự kết hợp khai thác thế mạnh tổng hợp các loại hình du lịch, đặc biệt là du lịch sinh thái – du lịch tâm linh, xen kẽ là du lịch thể thao leo núi, du lịch nghỉ dưỡng…
Tặng bạn 🌹 Thuyết Minh Về Hồ Hoàn Kiếm 🌹 15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất