Thuyết Minh Về Di Tích Lịch Sử ❤️️ 27+ Bài Văn Mẫu Hay Nhất ✅ Tham Khảo Tuyển Tập Đặc Sắc Giới Thiệu Về Những Địa Danh Nổi Tiếng Của Đất Nước.
Dàn Ý Thuyết Minh Về Di Tích Lịch Sử
Dàn ý thuyết minh về di tích lịch sử sẽ là tài liệu tham khảo giúp các em học sinh phân tích yêu cầu của đề và định hướng làm bài. Tham khảo mẫu dàn ý chi tiết thuyết minh về di tích chùa Hương dưới đây:
- Mở bài: Giới thiệu chung về di tích chùa Hương.
- Chùa Hương là một di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh nổi tiếng của Việt Nam.
- Sau Tết Nguyên Đán là dịp chùa Hương mở hội. Hội chùa Hương kéo dài gần như suốt mùa xuân.
- Thân bài: Thuyết minh về chùa Hương.
-Vị trí của chùa Hương:
- Thắng cảnh chùa Hương thuộc xã Hương Sơn, huyện Mĩ Đức, tỉnh Hà Tây cũ. Nay thuộc Hà Nội, cách trung tâm thủ đô khoảng 70km về phía Tây Nam.
- Từ Hà Nội đi qua Hà Đông, đến bến Đục thì dừng xe, xuống đi dọc theo dòng suối Yến Vĩ chừng 3km là đến đền Trinh.
-Đặc điểm:
- Điều hấp dẫn của chùa Hương là sự kết hợp hài hòa giữa núi non, sông suối và đồng ruộng, tạo nên khung cảnh thiên nhiên đa dạng, đẹp như một bức tranh sơn thuỳ.
- Khách hành hương đủ mọi thành phần, lứa tuổi, từ khắp mọi miền đất nước tấp nập đến với chùa Hương.
- Các ngôi chùa nằm rải rác từ chân núi lên đỉnh núi.
- Động Hương Tích lớn nhất, đẹp nhất, được chúa Trịnh Sâm ban tặng 5 chữ: “Nam thiên đệ nhất động” (động đẹp nhất trời Nam).
- Cảnh sắc kì diệu trong lòng động hiện ra trong ánh sáng huyền ảo. Chính giữa động có pho tượng Quán Thế Âm Bồ Tát. Xung quanh là những nhũ đá hình cây vàng, cây bạc, buồng tằm, nong kén, núi Cô, núi Cậu… và đặc biệt là hình chín con rồng trên vòm động.
- Kết bài: Cảm nghĩ của bản thân về Chùa Hương.
Ví dụ: Du khách đi chùa Hương không chỉ để lễ Phật cầu phúc mà còn để hòa mình với thiên nhiên tươi đẹp. Từ đó càng thêm yêu mến quê hương, đất nước.
Cùng với văn mẫu thuyết minh về di tích lịch sử, tham khảo 🌠 Thuyết Minh Về Một Danh Lam Thắng Cảnh 🌠 22 Bài Mẫu Hay
Bài Thuyết Minh Về Một Di Tích Lịch Sử Hay Nhất – Mẫu 1
Đón đọc bài thuyết minh về một di tích lịch sử hay nhất viết về chùa Hương – một trong những di tích văn hoá tâm linh nổi tiếng của thủ đô Hà Nội.
Nói về văn hóa tâm linh của người Việt không thể không nhắc đến những đền chùa cổ kính, linh thiêng mang nét đẹp đặc trưng, trầm lắng, nơi bày tỏ niềm thành kính, biết ơn với người xưa, với tín ngưỡng tôn giáo. Một trong những ngôi chùa cổ, nổi tiếng của nước ta phải kể đến chùa Hương – danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử văn hóa và tín ngưỡng của Việt Nam.
Chùa Hương hay còn gọi là Hương Sơn là cả một quần thể văn hóa – tôn giáo Việt Nam, gồm hàng chục ngôi chùa thờ Phật, vài ngôi đền thờ thần, các ngôi đình, thờ tín ngưỡng nông nghiệp, nằm ở xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội, được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ 17 vào thời kỳ Đàng Trong – Đàng Ngoài, sau đó bị hủy hoại trong kháng chiến chống Pháp năm 1947, sau đó được phục dựng lại năm 1988 do Thượng Tọa Thích Viên Thành dưới sự chỉ dạy của cố Hòa thượng Thích Thanh Chân.
Nơi đây gắn liền với với tín ngưỡng dân gian thờ Bà Chúa Ba, theo phật thoại xưa kể lại rằng người con gái thứ ba của vua Diệu Trang Vương nước Hương Lâm tên là Diệu Thiện chính là chúa Ba hiện thân của Bồ Tát Quan Thế m, trải qua nhiều thử thách, gian nan với chín năm tu hành bà đã đắc đạo thành Phật để cứu độ chúng sinh.
Dưới đôi bàn tay khéo léo của người xưa cùng với những nét đẹp tạo hóa mà thiên nhiên ban tặng, mà vẻ đẹp của chùa Hương mang một dấu ấn rất riêng, đưa ta đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Quần thể chùa Hương có nhiều công trình kiến trúc rải rác trong thung lũng suối Yến. Khu vực chính là chùa Ngoài, còn gọi là chùa Trò, tên chữ là chùa Thiên Trù. Chùa nằm không xa bến Trò nơi khách hành hương đi ngược suối Yến từ bến Đục vào chùa thì xuống đò ở đấy mà lên bộ. Tam quan chùa được cất trên ba khoảng sân rộng lát gạch. Sân thứ ba dựng tháp chuông với ba tầng mái.
Đây là một công trình cổ, dáng dấp độc đáo vì lộ hai đầu hồi tam giác trên tầng cao nhất. Tháp chuông này nguyên thủy thuộc chùa làng Cao Mật, tỉnh Hà Đông, năm 1980 được di chuyển về chùa Hương làm tháp chuông.Chùa Chính, tức chùa Trong không phải là một công trình nhân tạo mà là một động đá thiên nhiên. Ở lối xuống hang động có cổng lớn, trán cổng ghi bốn chữ “Hương Tích động môn”. Qua cổng là con dốc dài, lối đi xây thành 120 bậc lát đá. Vách động có năm chữ Hán“Nam thiên đệ nhất động” là bút tích của Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm. Ngoài ra động còn có một số bia và thi văn tạc trên vách đá.
Lễ hội chùa Hương được tổ chức vào ngày mồng sáu tháng giêng, thường kéo dài đến hạ tuần tháng ba âm lịch. Vào dịp lễ, hàng triệu phật tử cùng du khách tứ phương lại nô nức trẩy hội chùa Hương. Đỉnh cao của lễ hội là từ rằm tháng giêng đến 18 tháng hai âm lịch.Đây là ngày lễ khai sơn của địa phương nhưng ngày nay nghi lễ khai sơn được hiểu theo nghĩa mở- mở cửa chùa. Lễ hội chùa Hương trong phần lễ thực hiện rất đơn giản.
Một ngày trước khi khai hội, tất cả các đền, chùa, đình, miếu đều được thắp hương nghi ngút.Ở trong chùa Trong có lễ dâng hương, gồm hương, hoa, đèn, nến, hoa quả và thức ăn chay. Lúc cúng có hai tăng ni mặc áo cà sa mang đồ lễ chay đàn rồi mới tiến dùng đồ lễ lên bàn thờ. Từ ngày mở hội cho đến hết hội, chỉ thỉnh thoảng mới có sư ở các chùa trên đến gõ mõ tụng kinh chừng nửa giờ tại các chùa, miếu, đền. Còn hương khói thì không bao giờ dứt. Về phần lễ có nghiêng về “thiền”. Nhưng ở chùa ngoài lại thờ các vị sơn thần thượng đẳng với đủ màu sắc của đạo giáo.
Đền Cửa Vòng là “chân long linh từ” thờ bà chúa Thượng Ngàn, người cai quản cả vùng rừng núi xung quanh với cái tên là “tì nữ tuý Hồng” của sơn thần tối cao. Chùa Bắc Đài, chùa Tuyết Sơn, chùa Cả và đình Quân thờ ngũ hổ và tín ngưỡng cá thần. Ta có thể thấy phần lễ là tổng hợp toàn thể hệ thống tín ngưỡng, gần như là tổng thể những tín ngưỡng tôn giáo của Việt Nam.
Trong lễ hội có rước lễ và rước văn. Người làng dinh kiệu tới nhà ông soạn văn tế, rước bản văn ra đền để chủ tế trịnh trọng đọc, điều khiển các bô lão của làng làm lễ tế rước các vị thần làng. Lễ hội chùa Hương còn là nơi hội tụ các sinh hoạt văn hóa dân tộc độc đáo như bơi thuyền, leo núi và các chiếu hát chèo, hát văn.
Không chỉ có vẻ đẹp độc đáo của kiến trúc, phong cảnh chùa cùng với nét đặc sắc của ngày lễ mà chùa Hương còn chứa đựng những giá trị sâu sắc về văn hóa tâm linh, lịch sử dân tộc và còn là giá trị sống của chuỗi phát triển con người từ xa xưa đến ngày nay, cần được bảo tồn, duy trì và gìn giữ di sản mà ông cha ta để lại.
Như vậy, với những giá trị đó, chùa Hương chính là niềm tự hào của người Hà Nội nói chung và người Việt Nam nói riêng, đến với chùa Hương là đến với không gian thanh tịnh, sống chậm lại để cảm nhận sự nhẹ nhõm trong tâm hồn, buông bỏ mọi áp lực, căng thẳng trong cuộc sống ngoài kia.
Đừng bỏ qua 🔥 Thuyết Minh Về Văn Miếu Quốc Tử Giám 🔥 15 Bài Hay Nhất
Thuyết Minh Về Di Tích Lịch Sử Ở Địa Phương Em – Mẫu 2
Để làm bài văn thuyết minh về di tích lịch sử ở địa phương em, các em học sinh có thể tham khảo bài văn mẫu viết về đền thờ Chu Văn An thuộc địa phận tỉnh Hải Dương trong nội dung dưới đây:
Đã thành lệ, mỗi khi có dịp về thăm quê ngoại ở Chí Linh – Hải Dương, tôi thường cùng mẹ đi thăm viếng một số đền, chùa nằm trong quần thể di tích ở đây, như Côn Sơn – Kiếp Bạc, đền thờ Nguyễn Trãi, đền Sinh và đền thờ Chu Văn An… Với Đền thờ Chu Văn An, mỗi khi về đây, tôi đều có cảm nghĩ sâu sắc hơn về đạo làm thầy, về đạo học mà Nhà giáo Chu Văn An đã gửi lại cho hậu thế từ hơn 600 năm trước.
Từ Quốc lộ 18, vượt qua con đường đất khoảng 3km, với dốc núi quanh co giữa bạt ngàn những vườn nhãn, na, bưởi, tiếp đến là những rặng thông xanh mướt, chúng tôi đến núi Phượng Hoàng, thuộc xã Văn An (trước đây là xã Kiệt Đặc), huyện Chí Linh, Hải Dương, nơi có quần thể di tích đền thờ Chu Văn An. Đền được Nhà nước xếp hạng Khu di tích lịch sử quốc gia năm 1998 và được trùng tu, tôn tạo, khánh thành vào đầu năm 2008.
Bước vào khuôn viên khu di tích, ngay từ cổng lên đền chính nổi bật chữ “Học” được viết theo nét bút thư pháp trông xa như một tấm thảm nhung trải lên các bậc đá để bước lên Đền. Kế tiếp là hàng chữ “Vạn thế sư biểu” bằng Hán tự in trên nền đá thể hiện tấm lòng tôn kính của bao thế hệ người Việt dành cho nhà giáo Chu Văn An.
Ngôi đền chính được thiết kế theo kiểu “chồng diêm” tám mái thể hiện sự tôn vinh đẳng cấp và tầm vóc của danh nhân theo tập quán người Việt. Nhà gỗ lim lợp ngói liệt, nhà bia cũ, bậc thềm đá, đồ thờ sơn son thiếp vàng… Hai bên Đền là nhà giải vũ, sân thượng, sân trung, sân hạ, đôi rồng đá, hai nhà bia…
Nguyên khởi của ngôi đền chính “Điện lưu quang”, nơi 600 năm trước thầy Chu Văn An sau khi từ bỏ mũ áo chốn quan trường, trở về mở trường dạy học, viết sách, làm thơ, nghiên cứu y dược, sống cuộc đời của một ‘‘tiều ẩn” (ông ví mình như một tiều phu ẩn dật chốn rừng sâu) an nhàn, thanh bạch, vui với cỏ cây, mây nước. Nhìn bao quát, ngôi đền không nguy nga hoành tráng, cầu kì, mà được thiết kế, xây dựng, bài trí độc đáo, đậm màu sắc truyền thống vừa toát lên vẻ nghiêm cẩn, vừa ấm áp, trang trọng.
Người coi đền, với khuôn mặt hiền từ phúc hậu, đang lúi húi quét dọn lá rơi trên khoảng sân rộng, thấy chúng tôi lên Đền liền chắp tay chào. Ông cho biết, vào mỗi dịp lễ tết đến hay tuần rằm, mùng một, đặc biệt là vào mùa thi cử, nơi đây luôn có đông đảo người địa phương và du khách đến chiêm bái, thành lễ.
Những lúc ấy, tại thư phòng phía trái Đền thường có các cụ đồ Nho trong trang phục xưa, ngồi thảo những con chữ giàu ý nghĩa bằng màu mực đỏ đặc trưng, tương truyền là màu mực nhà giáo Chu Văn An thường sử dụng ngày trước hàm ý về tấm lòng trung trinh, son sắc của mình với dân với nước. Trong những dịp này, các bậc phụ huynh, các em học sinh, hoặc các văn nhân, thi sĩ nặng nợ nghiệp bút nghiên thường đến đền xin chữ, cũng là cầu mong sự học, sự viết luôn được suôn sẻ, đỗ đạt, đơm hoa kết nụ.
Tôi cùng mẹ vào chính điện thành kính làm lễ. Vì đang là ngày thường nên nơi đây khá vắng vẻ, không có nhiều khách thập phương đến thăm viếng, chiêm bái. Khói hương trầm mặc, bảng lảng. Sư thầy trong sắc áo nâu sồng thỉnh một hồi chuông dài khiến không gian vốn yên ả, thanh bình nơi đây như càng tĩnh lặng hơn, hoài cảm theo tiếng chuông vẳng vào thinh không. Cả ngôi đền nằm giữa bát ngát thông xanh trong ánh chiều vàng thu cũng như lung linh trong sắc màu huyền thoại về một Nhà giáo tài, đức vẹn toàn: Vạn thế sư biểu Chu Văn An.
Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất
Bài Văn Thuyết Minh Về Khu Di Tích Lịch Sử Lam Kinh – Mẫu 3
Đón đọc bài văn thuyết minh về khu di tích lịch sử Lam Kinh với những gợi ý thú vị giúp các em học sinh hoàn thành tốt bài viết của mình.
Thanh Hoá là một vùng đất “địa linh nhân kiệt”, nơi đây đã sản sinh ra bao người con ưu tú của dân tộc như: Bà Triệu, Lê Lợi, Lê Thánh Tông…….Không chỉ được biết đến là vùng đất giàu văn hoá, nhân kiệt mà nơi đây còn nổi tiếng với nhiều danh lam thắng cảnh đẹp, có thể kể đến như Hàm Rồng, bãi biển Sầm Sơn,……Khu di tích lịch sử Lam Kinh cũng là một trong những địa điểm thu hút khách du lịch nơi đây.
Từ trung tâm thành phố Thanh Hoá, mất khoảng hơn một giờ đi xe theo hướng Tây Bắc là có thể đến Lam Kinh. Khu di tích lịch sử thuộc thị trấn Lam Sơn, Thọ Xuân. Phía Bắc của thành điện hướng về sông Chu, phía Tây là núi Hàm Rồng, phái bên trái thành là rừng Phú Lâm và núi Hương hướng về bên phải . Nơi đây có tổng diện tích hơn 30 ha, bao gồm nhiều đền miếu, lăng tẩm,…..
Thành điện Lam Kinh được xây dựng theo quyết định của vua Lê Thái Tổ. Hơn 10 năm sau thắng lợi của nghĩa quân Lam Sơn, nhà vua đóng đô tại kinh thành Thăng Long và đưa ra những quyết sách để phát triển, xây dựng quê hương, trong đó có quyết định xây kinh thành Lam Kinh trên đất Lam Sơn. Thành điện Lam Kinh còn có một trên gọi khác, đó là Tây Kinh. Vào năm 1962, khu di tích này được nhà nước công nhận là di tích lịch sử quốc gia. Cách đây 7 năm, Lam Kinh được công nhận lên là khu di tích lịch sử quốc gia đặc biệt.
Cổng vào của hoàng thành rộng hơn 6 mét, hai phía cổng được xây dựng hai bức tường thành dài, dày và chắc chắn có hình cánh cung với ý nghĩa bảo vệ bên trong thành. Vào trong thành khoảng hơn 10 mét là gặp một con sông nhỏ có chiếc cầu Tiên Loan Kiều bắc ngang. Đi qua cầu rồi tiến vào sâu sẽ gặp một chiếc giếng xanh mát, đẹp mắt được lát các bậc đá lên xuống.
Ngọ Môn của thành điện Lam Kinh có 3 cửa ra vào, cửa chính giữa rộng nhất với gần 4 mét, các cửa khác có chiều rộng nhỏ hơn, khoảng gần 2,8 mét. Các cột giữa của Ngọ môn rất lớn, được xem như những người hùng vững chãi nâng đỡ thành điện. Có hai chú nghê được làm từ đá đặt trước cổng Ngọ môn với nhiệm vụ canh gác. Sân rồng của Ngọ Môn có tổng diện tích gần 3.600 mét vuông. Có 3 toà điện lớn trong khu chính điện được bố trí theo hình chữ công. Các toà điện có tên gọi lần lượt là điện Diên Khánh, điện Sùng Hiếu và điện Quang Đức.
Trong thành điện Lam Kinh có nhiều lăng tẩm, đền miếu,…tiêu biểu nhất phải kể đến Vĩnh Lăng, đây là lăng của vua Lê Thái Tổ, được xây dựng tại vị trí có thế “hổ phục, rồng chầu” rất đẹp. Vĩnh Lăng có hình lập phương, được bài trí đơn giản nhưng không kém phần trang trọng, tôn nghiêm. Bia Vĩnh Lăng nằm ở phía Tây Nam của thành điện, được làm từ đá trầm tích biển. Nhà bia Vĩnh Lăng được trang trí rất tinh xảo, phù hợp với các nội dung về công lao, sự nghiệp của nhà vua được ghi trên văn bia. Ngoài Vĩnh Lăng, còn có thể kế đến các lăng mộ độc đáo khác như Chiêu Lăng, Kính Lăng, Hựu Lăng,……
Hàng năm, khu di tích thành điện Lam Kinh được sự quan tâm của nhiều vị khách du lịch đến tham quan và viếng điện. Nơi đây thu hút khách không chỉ từ những kiến trúc độc đáo, quy mô, đậm chất phương Đông mà còn hấp dẫn bởi những câu chuyện văn hoá truyền thuyết đầy huyền bí như câu chuyện về cây lim hiến thân hay cây ổi biết cười, chuyện tình của cây Đa Thị…. Đến đây, các vị khách cũng được thoả sức khám phá và thu thập thêm nhiều thông tin hữu ích, ngắm nhìn các di vật cổ như Đế móng cầu Bạch, ấm chén thời Lê, đầu đao Kim nóc,…..
Lịch sử trải qua hàng ngàn năm với bao thăng trầm, biến đổi, nhưng những dấu tích của khu thành điện Lam Kinh vẫn còn đó, mãi là chứng nhân của một thời kì đầy hào hùng, thịnh trị của dân tộc. Tìm về với thành điện Lam Kinh Thánh Hoá em như được sống lại lịch sử dân tộc, được về với cội nguồn xa xưa của đất Việt quê hương.
Mời bạn tiếp tục đón đọc ☘ Thuyết Minh Về Văn Miếu Trấn Biên ☘ 15 Bài Văn Hay Nhất
Thuyết Minh Về Khu Di Tích Kim Liên – Mẫu 4
Cùng ghé thăm mảnh đất Nghệ An nơi quê hương của vị lãnh vĩ đại – Hồ Chí Minh với bài văn thuyết minh về khu di tích Kim Liên dưới đây:
Nghệ An vốn từ ngàn đời nay vẫn nổi danh là vùng đất của những người con hiếu học và tài năng, trong thế kỷ XX đầy biến động của đất nước vùng đất xứ Nghệ lại trở thành cái nôi của Cách mạng là khởi thủy của phong trào cách mạng vô sản với cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh. Đồng thời miền đất này cũng là nơi sinh ra những người con ưu tú, có nhiều đóng góp to lớn cho Tổ quốc với một loạt các cái tên nổi tiếng như: Phan Bội Châu, Nguyễn Xuân Ôn, Đặng Thái Thân, Phan Đình Phùng; các lãnh đạo Cộng sản như: Nguyễn Thị Minh Khai, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Trần Quốc Hoàn, Nguyễn Phong Sắc, Nguyễn Duy Trinh…
Và trong số đó nổi bật và sáng hơn cả chính là vị lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí Minh, người đã có công lãnh đạo Cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi bằng cả cuộc đời mình. Chính vì thế khi về với Nghệ An, hầu hết những người con tứ xứ đều mong muốn được một lần ghé thăm khu di tích Kim Liên, thường gọi chung là làng Sen, nơi gắn bó với tuổi thơ của Hồ Chủ tịch để tìm chút hoài niệm và tỏ lòng thành kính với người anh hùng bậc nhất của dân tộc.
Làng Sen là tên thường gọi, còn tên chính thức của ngôi làng mà Bác sinh sống khi ấu thơ là làng Kim Liên, thuộc xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, là quê cha của Bác. Ngôi làng cách trung tâm thành phố Vinh khoảng 16 km về phía Tây, nằm gần hai ngọn núi Chung và núi Đại Huệ. Quy mô của khu di tích nằm trong khoảng 205 ha, với các điểm di tích cách nhau từ 2-10km. Làng Sen hiện nay được xem là một trong 4 khu di tích quan trọng bậc nhất trong gắn bó với cuộc đời và sự nghiệp của chủ tịch Hồ Chí Minh, được thủ tướng chính phủ xếp vào một trong 23 di tích quốc gia đặc biệt, cần giữ gìn và bảo tồn chặt chẽ.
Sở dĩ được gọi là làng Sen bởi nơi đây ngoài khung cảnh quen thuộc như bến nước, gốc đa, sân đình, lũy tre làng như bất cứ làng quê nào ở Việt Nam, thì làng Sen còn đặc biệt nổi bật với những hồ Sen, đầm Sen dày đặc, không chỉ là sinh kế gắn liền với cuộc sống của con người nơi đây. Mà còn trở thành một dạng cảnh quan đặc biệt, với những bông sen hồng bung nở khi vào mùa, tỏa hương thơm thoang thoảng cả một vùng, khí tiết thanh bình như chốn ở của tiên của phật.
Đối với những du khách từ xa tới, đi du lịch vừa muốn được ngắm sen nở, vừa muốn tham quan cụm di tích gắn liền với Bác, thì nên cân nhắc thời gian đi. Xét theo mùa sen nở rộ thì thời điểm tháng 5 ngay vừa lúc giữa mùa hạ, chính là lúc hoa nở nhiều và đẹp nhất. Khi di chuyển đến làng Sen chúng ta sẽ không phải mất nhiều thì giờ tìm kiếm đầm sen bởi nó nằm ở ngay đầu làng, nếu đi đúng dịp thì đó quả thực là một khung cảnh tuyệt vời, đủ nét nên thơ trữ tình, khiến du khách không khỏi trầm trồ, thán phục.
Đi qua hồ Sen là tới giếng Cốc, là nơi cung cấp nước sinh hoạt cho cả làng, thuở thơ ấu cậu bé Nguyễn Sinh Cung cũng từng nhiều lần vâng lệnh cha đi gánh nước về sinh hoạt, đồng thời cũng là nơi thuở nhỏ Bác vui chơi đùa nghịch với bạn bè cùng trang lứa. Đi một đoạn không xa nước, ta thấy thấp thoáng sau lũy tre già xanh mát ấy chính là ngôi nhà đơn sơ, giản dị của gia đình Bác, nơi Bác từng có khoảng thời gian 5 năm gắn bó. Phía trước căn nhà là một lối đi nhỏ hai bên được trang trí bằng hàng râm bụt cắt tỉa gọn gàng, mùa nào cũng cho những đóa hoa đỏ hồng rực rỡ, đầy sức sống.
Tiến vào trong sân một không gian làng quê, cổ kính lập tức hiện ra trước mắt ta với một gian nhà 5 gian lợp mái tranh, vách nứa của cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc. Ngôi nhà này vốn là món quà thưởng do dân làng Sen dựng lên bằng tiền công quỹ, để mừng cụ đỗ đạt, mang lại vinh dự cho làng, với tấm lòng trân trọng, mến mộ tài năng thân phụ của Bác. Ngôi nhà được cụ phó bảng dành ra hai gian, một gian đặt bàn thờ người vợ mất sớm là bà Hoàng Thị Loan, gian còn lại để tiếp khách khứa.
Một gian dành cho bà Nguyễn Thị Thanh – con gái cả của cụ, một gian để cụ đặt án thư dạy học cho các con, và kê thêm một chiếc phản gỗ lớn để cụ nghỉ ngơi, cũng như là nơi quây quần bà con trong những buổi uống trà nói chuyện. Gian cuối cùng là nơi ở của Nguyễn Sinh Khiêm và Nguyễn Sinh Cung, tức hai con trai của cụ phó bảng. Ngoài 5 gian nhà chính thì bên cạnh còn một gian nhà ngang, ấy là nơi nấu nướng.
Tuy là người đỗ đạt, có vai vế thế nhưng nếp sống và nếp sinh hoạt của cả nhà cụ Nguyễn Sinh Sắc hết sức giản dị đơn sơ, từ cái bàn thờ làm bằng liếp tre, trên có mảnh chiếu nhỏ, bát hương với đôi nến và một tấm bài vị bằng gỗ, cho đến những chiếc chõng tre, chum vại mộc mạc được dân làng yêu mến biếu tặng. Tất cả đều bộc lộ một nếp sống đơn sơ, giản dị, gắn bó với làng quê của cả gia đình người lãnh tụ vĩ đại. Và cũng có lẽ rằng sự gắn bó và am hiểu nhân dân ấy đã sớm rèn rũa cho Bác một đức tính cần kiệm, liêm khiết, một lòng vì nhân dân phục vụ.
Ngoài hồ sen và gian nhà của Bác, thì mộ của cụ Hoàng Thị Loan, mẹ ruột Bác cũng là một trong những điểm đáng chú ý của cụm di tích Kim Liên. Ngôi mộ nằm trên lưng núi Động Tranh, thuộc dãy núi Đại Huệ, được xây dựng từ ngày 19 tháng 5 năm 1984 đến ngày 16 tháng 5 năm 1985. Với phần mái che cách điệu trông giống hình chiếc khung cửi, vật vẫn gắn bó với bà thuở sinh thời, làm kế sinh nhai để bà nuôi các con thơ, bên trên phần mộ hiện nay được phủ bởi hoa giấy, trông rất nhẹ nhàng, yên bình.
Khu di tích làng Sen (Kim Liên) là một trong những khu di tích quan trọng, mỗi năm hấp dẫn hàng triệu lượt du khách về thăm không chỉ bởi vẻ đẹp sự yên bình của làng Sen. Mà nơi đâu còn in dấu những ký ức đầu đời của vị lãnh tụ kính yêu, vĩ đại bậc nhất của dân tộc, cho những người con đất Việt được một chút lòng tưởng nhớ, thương yêu về người cha già của dân tộc dựa trên những chứng tích còn sót lại từ văn thư, đồ dùng, tất cả đều có hơi thở của Hồ Chí Minh.
Chia sẻ thêm cùng bạn 🍀 Thuyết Minh Về Danh Lam Thắng Cảnh Lớp 8 🍀 15 Bài Hay Nhất
Thuyết Minh Về Văn Miếu Mao Điền – Mẫu 5
Đón đọc bài văn thuyết minh về văn miếu Mao Điền – Hải Dương với những thông tin thú vị và phong phú về địa danh này.
Nằm trên quốc lộ số 5, cách thành phố Hải Dương 15 km, Văn Miếu Mao Điền là một trong những di tích lịch sử cấp quốc gia được xếp hạng. Trong hệ thống văn miếu của cả nước thì Văn Miếu Mao Điền có quy mô và lịch sử lâu đời đứng thứ 2, chỉ sau Văn Miếu Quốc Tử Giám.
Từ giữa thế kỷ thứ XV, với chủ trương mở mang việc học hành và đào tạo nho sĩ, quan lại…nhà Lê đã cho xây dựng một loạt những trường học (trường quốc lập), trong đó có Văn Miếu Mao Điền. Nơi đây xưa, thuộc tổng Mao Điền, phủ Bình Giang, trấn Hải Dương. Nay thuộc thôn Mao Điền, xã Cẩm Điền, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Ngay từ khi mới xây dựng, Văn Miếu đã là một công trình kiến trúc văn hóa bề thế, uy nghi.
Phần chính gồm hai toà nhà lớn 7 gian, mái cong vút, chạm trổ hình rồng , phượng…, áp sát vào nhau. Nhà trong thờ Khổng Tử- ông tổ của nho học. Nhà ngoài là nơi tụ hội bái lễ của các bậc quan trường học giả. Hai bên là hai dãy nhà giải vũ 5 gian đối diện nhau, do nằm ở hai hướng đông và tây nên người dân nơi đây vẫn quen gọi là nhà Đông vu, Tây vu. Tiếp đến là hai gác chuông xây cất rất hoành tráng. Phía trước là hai hồ nước trong xanh in bóng cây gạo già hàng trăm năm tuổi. Xung quanh là bạt ngàn các loại cây cảnh, cây ăn quả ôm lấy Văn Miếu càng tôn thêm vẻ trang nghiêm, tĩnh mịch, dịu mát, êm đềm của khu di tích, du lịch nổi tiếng xứ đông.
Xưa kia Hải Dương nằm ở phía đông kinh thành nên gọi là xứ Đông, đây là vùng “đất học” vì thế triều Lê đã coi đây là một trong những trung tâm văn hoá giáo dục của cả nước, tiến hành tổ chức nhiều kỳ thi hội. Hàng năm đến kỳ thi, sĩ tử ở khắp nơi tề tựu về đây dựng lều chõng kín khắp cả khu cánh đồng Tràn phía trước. Trong số các sĩ tử đó có nhiều người là con dân của Hải Dương đã tham dự và hiển đạt từ chính nơi đây. Trong đó có cả danh sĩ Nguyễn Bỉnh Khiêm, người mà trí tuệ và nhân cách đã toả sáng suốt bao thế kỷ.
Như vậy trong quá trình tồn tại, Văn Miếu Mao Điền từ vị trí là trường học của riêng trấn Hải Dương đã trở thành trường thi của cả vùng, góp phần giáo dục và đào tạo nhân tài cho địa phương và cho cả giang sơn xã tắc. Nơi đây còn nhiều dấu tích của các sĩ tử, danh nhân đã chiếm bảng vàng trạng nguyên trong kỳ thi ở cấp cao hơn. Nhiều người đã vinh hiển đã trở về thăm lại trường học xưa, xúc động viết lên những bài thơ còn in lại trên các bia đá cổ.
Năm 1948 giặc Pháp đánh chiếm Mao Điền, chúng biến Văn Miếu thành khu căn cứ chiếm đóng, phá nhà, xây lô cốt, tường rào kẽm gai xung quanh, tiến hành tàn sát, chém giết những người dân vô tội. Đạn bom và những năm tháng chiến tranh đã tàn phá di tích nặng nề. Từ một di tích lịch sử có thắng cảnh đẹp, Văn Miếu trở thành một nơi hoang phế. Trận bão năm 1973 đã đánh sập 5 gian nhà Giải vũ – Tây vu. Năm 2002 được sự đầu tư, hỗ trợ của các ban, ngành Trung ương và các cấp Đảng bộ chính quyền tỉnh Hải Dương đã khởi công xây dựng, tu bổ lại Văn Miếu. Sau hơn hai năm nỗ lực thi công, công trình đã khánh thành.
Giờ đây nhìn lại diện mạo rạng rỡ của Văn Miếu, mỗi người dân đều phấn chấn, tự hào. Nền văn hiến ngàn đời của xứ Đông, trung tâm truyền thống văn hoá giáo dục của cả vùng đã được khôi phục. Hàng năm, cứ đến tháng 2 âm lịch, tỉnh Hải Dương lại mở hội Văn Miếu; những người con của quê hương ở khắp nơi lại tề tựu về đây dự lễ hội, báo công, dâng hương tưởng nhớ các bậc danh nhân, tiên hiền của đất nước; chiêm ngưỡng vẻ lộng lẫy uy nghi của một di tích văn hoá như một toà thành cổ mọc lên giữa cánh đồng lúa xanh bạt ngàn của Văn miếu.
Du khách viễn phương chắp tay đứng trước các vị vạn thế sư biểu: Khổng Tử, Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Bỉnh Khiêm…lòng càng thêm thành kính khâm phục, quyết tâm noi theo các bậc tiên hiền, tự rèn luyện, học hỏi để trở thành những người con hữu dụng của quê hương, đất nước.
Chia sẻ cơ hội 🌟 Nạp Thẻ Ngay Miễn Phí 🌟 Tặng Card Nạp Tiền Ngay Free Mới
Thuyết Minh Về Di Tích Lịch Sử Bến Nhà Rồng – Mẫu 6
Tham khảo bài văn thuyết minh về di tích lịch sử bến Nhà Rồng với những ý nghĩa lịch sử to lớn của địa danh này gắn với con đường ra đi tìm đường cứu nước của Bác Hồ.
“Thành phố Hồ Chí Minh quê ta đã viết nên thiên anh hùng ca, thiên anh hùng ca ngàn năm sáng chói lưu danh đến muôn đời…”. Lời ca ngân, lên trong mỗi người niềm tự hào được là công dân của thành phố anh hùng mang trong mình bao dấu ấn lịch sử thiêng liêng suốt hành trình đấu tranh oai hùng của dân tộc để: “Việt Nam ta lại gọi tên mình”. Từ thành phố này, tại Bến Nhà Rồng, Bác Hồ đã ra đi tìm đường cứu nước vì thế trong hơn sáu mươi tỉnh thành chỉ duy nhất nơi đây được vinh dự mang tên Bác kính yêu. Bến Nhà Rồng được xây dựng thành bảo tàng Hồ Chí Minh và là địa chỉ thân thương với nhân dân cả nước nói chung, nhân dân thành phố nói riêng.
Ngót một thế kỉ rưỡi (150 năm), trải qua bao biến cố thăng trầm, Bến Nhà Rồng vẫn sừng sững uy nghi tại số 1 đường Nguyễn Tất Thành, quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh (xưa là đường Trịnh Minh Thế). Ngay một cửa ngõ thương cảng sầm uất nhất nước – cảng Sài Gòn. Bến Nhà Rồng nằm ngay trung tâm, trước mặt là bến Bạch Đằng lộng gió. Khi thành phố lên đèn cả khu vực lung linh huyền ảo góp phần tô điểm thành phố thêm lộng lẫy, xứng danh là “hòn ngọc của Viễn Đông”.
Bến Nhà Rồng hiện nay là Bảo tàng Hồ Chí Minh – Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh, là một chi nhánh nằm trong hệ thống các bảo tàng và di tích lưu niệm về Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cả nước. Nơi đây, trước ngày 30/4/1975 là trụ sở của Tổng Công ty Vận tải Hoàng đế (Messageries Impériales) – một trong những công trình đầu tiên do thực dân Pháp xây dựng sau khi chiếm được Sài Gòn.
Tòa nhà được xây dựng từ giữa năm 1862 đến cuối năm 1863 hoàn thành với lối kiến trúc phương Tây nhưng trên nóc nhà gắn hai con rồng châu đầu vào mặt trăng theo mô típ “lưỡng long chầu nguyệt”, một kiểu trang trí quen thuộc của đền chùa Việt Nam. Với kiến trúc độc đáo đó nên Tổng Công ty Vận tải Hoàng Đế được gọi là Nhà Rồng và bến cảng mang tên Bến cảng Nhà Rồng.
Năm 1955, sau khi thực dân Pháp thất bại, thương cảng Sài Gòn được chuyển giao cho chính quyền miền Nam Việt Nam quản lí, họ đã tu sửa lại mái ngói ngôi nhà và thay thế hai con rồng cũ bằng hai con rồng mới với tư thế quay đầu ra ngoài. Với diện tích gần 1500m² xây dựng làm tòa nhà, diện tích còn lại là hoa viên tràn ngập màu xanh lá với không khí thoáng mát, khung cảnh thơ mộng bao gồm trên 400 gốc cây quý từ khắp mọi miền của đất nước hội tụ về đây khoe sắc tỏa hương. Ta bồi hồi khi ngắm gốc cây Tân Trào của cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, gốc cây bồ đề của Tổng thống Ấn Độ.
Thời gian trôi qua càng ngày Bến Nhà Rồng càng trở thành địa chỉ được lưu giữ những sự kiện trọng, đại gắn liền với vận mệnh dân tộc. Ngày 5/6/1911, người thanh niên Nguyễn Tất Thành với hai bàn tay trắng đã bước xuống con tàu Latouche Treville trong cuộc hành trình “30 năm ấy chân không nghỉ”: Người đi khắp hóng cờ châu Mĩ, châu Phi Những đất tự do những trời nô lệ.
Với lịch sử thiêng liêng của Bến Nhà Rồng, nơi đây đã lưu truyền biết bao tư liệu, hiện vật quý giá giúp mọi người hiểu rõ hơn về cuộc đời, sự nghiệp cách mạng của vị lãnh tụ thiên tài, người cha già kính yêu của dân tộc – Hồ Chí Minh. Qua nhiều lần chỉnh lí về cơ bản bảo tàng xây dựng thành 12 phòng trưng bày khoảng 170 tư liệu, hình ảnh, hiện vật. Nếu ai đã từng đến với bảo tàng đều lặng người xúc động khi được nhìn tận mắt chứng kiến những kỉ vật về Người.
Bảo tàng là một trong những địa chỉ để nhân dân đến nghiên cứu, giao lưu, tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Bác. Hằng năm, bảo tàng thu hút hàng triệu du khách trong nước và ngoài nước. Bến Nhà Rồng, bảo tàng Hồ Chí Minh đã vinh dự được chọn làm biểu tượng của thành phố nhân ngày kỉ niệm 300 năm Sài Gòn Thành phố Hồ Chí Minh. Ngày ngày lớp lớp các thế hệ con cháu vẫn đến cúi đầu trước tượng đài của Người thắp nén nhang để bày tỏ lòng thành kính và tri ân con người đẹp nhất mọi thời đại của dân tộc:
“Xin nguyện cùng
Người vươn tới mãi
Vững như muôn ngọn dải Trường Sơn.”
Còn thêm gợi ý ☘ Thuyết Minh Về Danh Lam Thắng Cảnh Lớp 10 ☘ 15 Mẫu Hay
Thuyết Minh Về Khu Di Tích Tràng Kênh – Mẫu 7
Bài văn thuyết minh về khu di tích Tràng Kênh sẽ tái hiện sinh động với bạn đọc một trang lịch sử hào hùng của dân tộc ta khi chiến thắng quân xâm lược phương Bắc trên dòng sông Bạch Đằng thật vẻ vang.
Đến thành phố Hoa Phượng Đỏ, một trong những điểm di tích đặc biệt du khách không thể bỏ qua đó là cụm di tích đền Tràng Kênh (Thủy Nguyên, Hải Phòng) – vùng đất thiêng tái hiện ba lần chiến thắng quân Nam Hán, quân Tống, quân Nguyên Mông lừng lẫy Bạch Đằng Giang của cha ông từ hơn ngàn năm trước…
Xưa kia, đây là vùng đất có vị trí chiến lược quan trọng trong công cuộc giữ gìn bờ cõi, chống giặc xâm lăng. Các nhà địa lý, lịch sử đời Nguyễn khi biên soạn bộ Đại Nam nhất thống chí từng nhận xét: “Nước ta chống người phương Bắc chỗ này là chỗ cổ họng”. Nguyễn Trãi nói một cách hình tượng rằng, đây là nơi quan ải do trời đặt ra thế hiểm yếu khiến hai người có thể chống được cả trăm người; là nơi lập công danh của các bậc hào kiệt.
Theo người dân địa phương, trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, vùng đất này được coi là một phên dậu chống giặc ngoại xâm; nơi ghi dấu những trận thủy chiến ác liệt và những chiến thắng vẻ vang của dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Ngô Quyền, Lê Đại Hành và Hưng đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn.
Cuối năm 938, Ngô Vương Quyền đánh bại quân Nam Hán tạo nên chiến thắng lẫy lừng trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc, kết thúc nghìn năm đô hộ của kẻ thù phương Bắc trên vùng non nước Bạch Đằng. Tiếp đó, năm 981, Lê Hoàn đánh bại giặc Tống ở Bạch Đằng giang.
Hơn 300 năm sau, vùng đất thiêng này là nơi diễn ra những trận thủy chiến oai hùng của quân đội nhà Trần dưới sự chỉ huy của Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn, đánh tan đội quân xâm lược Nguyên Mông. Bạch Đằng giang vì thế trở thành biểu tượng của những chiến thắng huyền thoại, niềm tự hào của dân tộc.
Bắt nguồn từ hai hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình, sông Bạch Đằng hiểm yếu mà hùng vĩ chảy giữa hai huyện Thuỷ Nguyên (Hải Phòng) và Yên Hưng (Quảng Ninh). Khi thuỷ triều lên, mặt sông ở vùng Tràng Kênh trải rộng hơn 1.200m. Theo sông Đá Bạc chảy xuống đến đầu bắc dãy núi Tràng Kênh, sông Bạch Đằng phình to hẳn ra. Đó là nơi tập trung của 5 con sông: sông Khoai, sông Xinh bên tả ngạn và sông Giá, sông Thái, sông Gia Đước bên hữu ngạn đổ ra cửa Nam Triệu.
Đặc điểm địa hình nổi bật của thượng lưu sông Bạch Đằng là sông núi nối tiếp liền nhau. Từng ngọn núi nhấp nhô của vùng núi đá Tràng Kênh ở phía đông huyện Thuỷ Nguyên kéo nhau chạy sát tới bờ sông. Ở đây có nhiều thung lũng nhỏ nằm gọn giữa những núi đá vôi nối liền với lạch nước ra tận bờ sông. Các con sông bên tả và hữu ngạn chạy theo các thung lũng, len qua các dãy núi là đường giao thông thuận lợi. Áng núi và lạch sông là nơi có thể tập trung quân thuỷ bộ với khối lượng lớn, giấu quân kín đáo, xuất kích bí mật và dễ dàng, nhanh chóng.
Kể từ cuối thập kỷ 50 của thế kỷ trước, việc phát hiện ra các bãi cọc gỗ ở Yên Giang, Nam Hoà, Điền Công (Yên Hưng) đã làm sáng tỏ những ghi chép có phần sơ lược trong các tư liệu lịch sử cũ để lại. Và gần đây, bãi cọc mới phát lộ ngay trên mảnh đất này, gần khu vực Tràng Kênh đang được các nhà khoa học làm sáng tỏ, những nghiên cứu ban đầu cho thấy, những cọc gỗ lim rất có thể vào đời nhà Trần, thế kỷ 13. Chính từ các bãi cọc phát lộ mới đây, các nhà khoa học đang tìm một hướng đi mới, vẽ lại trận chiến Bạch Đằng Giang từ ngàn năm trước.
Bao thế kỷ qua, Bạch Đằng luôn là nguồn cảm hứng cho nhiều bậc hoàng đế, danh nhân, thi sĩ tụng ca khi có dịp đi qua đây. Nhiều tác phẩm trong đó đã nổi tiếng như Bạch Đằng Giang phú của Trương Hán Siêu, Bạch Đằng hải khẩu của Nguyễn Trãi, Bạch Đằng Giang của vua Trần Minh Tông… Nhiều tỉnh thành trong cả nước đã lấy tên Bạch Đằng để đặt cho tên đường, trường, phường, cảng biển…
Nhiều người cho rằng đến Thủy Nguyên mà không ghé thăm khu di tích Tràng Kênh thì cũng coi như chưa đến tới Thủy Nguyên.
“Tràng Kênh có núi U Bò
Có sông Quán Đá có đò sang ngang”…
Có thể nói, Bạch Đằng Giang là một khu Di tích chứa đựng nhiều yếu tố lịch sử cổ đại. Tại đây có ngôi miếu cổ thờ các vong linh tử sĩ chiến đấu, hy sinh trên sông Bạch Đằng. Sau đó, doanh nghiệp và các nhà hảo tâm đã phát tâm bồ đề nâng cấp, tôn tạo từ năm 2008. Từ cổng vào, một vườn đá cuội và một trụ đá cao chừng 5m, mặt trước có 7 chữ “Giang san vượng khí Bạch Đằng thâu”. Ba mặt trái, phải, sau khắc công lao và thần tích của vua Ngô Quyền, vua Lê Đại Hành và đại vương Trần Hưng Đạo.
Đi sâu vào trong là các dãy bonsai, cây cổ thụ. Ngôi đền đầu tiên trong di tích là Tràng Kênh Vọng Đế, thờ vua Lê Đại Hành. Tiếp đó, dọc theo con đường rợp bóng mát của những hàng cây lưu niệm là đền chính thờ Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, nhà quân sự thiên tài góp công lớn trong ba lần chiến thắng quân Nguyên Mông và tạo nên hào khí Đông A của triều Trần- triều đại anh hùng bậc nhất của lịch sử Việt Nam.
Nằm ở trong cùng là đền Tràng Kênh nơi thờ vị Tổ trung hưng của Việt Nam- Ngô Quyền năm 938. Khi vào với sân tế lễ chúng ta sẽ bắt gặp là hình ảnh của hai chú voi phục nằm hai bên được làm hoàn toàn bằng đá ong từ làng cổ Đường Lâm quê hương của Ngô Quyền. Việc tạo hình chú voi từ những nguyên liệu chuyển từ quê hương của Đức Vương cũng thể hiện sự tận tâm và tri ân của những người đã làm nên ngôi đền cũng như nhân dân vùng Tràng Kênh với công đức của Ngài.
Cũng như 2 ngôi đền thờ đức Vua Lê Đại Hành và Đức thánh Trần đền thờ đức Vương Ngô Quyền cũng được thiết kế theo hình chữ Đinh gồm các khu: trong thờ tượng đồng của Ngài, trung đường thờ quan quân tướng sĩ, bên tả thờ chư vị quan văn, bên hữu thờ chư vị quan võ. Tất cả đều được chạm khắc, sơn son thiếp vàng vô cùng tinh tế- không gian thờ tự trang nghiêm nhưng cũng không kém phần lộng lẫy.
Điều đặc biệt, ở mỗi ngôi đền còn có kèm theo sơ đồ từng trận đánh khác nhau trên sông Bạch Đằng. Ở trận Bạch Đằng lần thứ nhất năm 938 Ngô Quyền đã cho đóng cọc ngay sát bãi bồi dọc sông nhưng đến trận Bạch Đằng lần 2 năm 981 Lê Đại Hành lại chọn đóng cọc tận trên thượng nguồn và khi đánh quân Nguyên Hưng Đạo Vương còn kết hợp phục kích đánh nghi binh tại 2 khu vực sông Tranh và sông Giá buộc kẻ thù tiến vào bãi cọc Bạch Đằng.
Và nữa, khu di tích Bạch Đằng Giang còn có nơi thờ riêng mà nhân dân dành cho lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí Minh. Dù Người không thực sự có mặt trong những cuộc chiến đã xảy ra trong quá khứ liên quan đến bãi cọc Bạch Đằng, nhưng Người là thế hệ của lịch sử cận đại đem lại bước ngoặt vĩ đại thay đổi cả một nền văn hóa tương lai, chấm dứt chế độ phong kiến tồn tại hàng nghìn năm và mở ra chương mới của đất nước.
Ngoài tứ linh từ, khu di tích còn có đền thờ Thánh Mẫu, khu nhà bảo tàng trưng bày hiện vật cọc Bạch Đằng được bảo tồn nguyên trạng trong bể thủy tinh. Đặc biệt, từ ngôi chùa phỏng theo chùa Đồng (Yên Tử, Quảng Ninh) xây trên núi Tràng Kênh, du khách thấy được vẻ đẹp hữu tình của cả vùng Tràng Kênh.
Một điểm nhấn lớn nhất của khu di tích này so với nhiều điểm văn hóa tâm linh khác là tôn chỉ “ba không”: không mất tiền gửi xe, không rác thải, không hàng quán, không dịch vụ thương mại. Ở mỗi khu vực đền chùa, quảng trường đều có khuôn viên ghế đá dừng chân, uống nước miễn phí… Hết thảy đều thể hiện sự tận tâm, tỉ mỉ, yên ả và hào sảng đến nao lòng.
Hàng năm, khu di tích đã đón hàng trăm đoàn học sinh từ nhiều tỉnh, thành trong cả nước đến tham quan, sinh hoạt ngoại khóa, tìm hiểu lịch sử dân tộc. Có thể nói, với nhiều hạng mục như Khu Nhà bảo tàng: trưng bày hiện vật cọc Bạch Đằng được bảo tồn nguyên trạng – nhân chứng lịch sử của chiến thắng Bạch Đằng; sơ đồ diễn biến các trận Bạch Đằng; các di chỉ khảo cổ đồ gốm các thời kỳ Lê, Trần; Quảng trường Chiến thắng Bạch Đằng; Khu rừng lim, vườn tượng mô phỏng hoạt động chế tác cọc Bạch Đằng… nằm bên con sông lịch sử xuôi ngược, chúng ta như gặp quá khứ hào hùng và cuộc sống ngày thường đan xen.
Bởi thế, khu vực gây cảm xúc mãnh liệt hơn cả chính là khuôn viên cuối của khu di tích Bạch Đằng Giang, nơi có bãi cọc giả định và ba bức tượng đài vô cùng lớn của ba vị anh hùng ghi dấu ấn trên dòng dòng sông Bạch Đằng, tạo nên một bức tranh vô cùng chân thực và cảm động. Ba vị anh hùng tiền nhân lồng lộng giữa mây trời, sóng nước nơi cửa biển, để chúng ta thêm tự hào, trân quý giá trị của hòa bình, của tinh thần dựng nước và giữ nước chảy mãi đến muôn đời…
Và cũng tại đây một điều kì diệu mà 3000 năm mới có, là hoa Ưu Đàm Bà La đã nở trên chuông đồng. Cũng như thật khó lý giải khi đi vào khu di tích, chúng ta bắt gặp những cây đại thụ xanh tốt như đã hàng ngàn năm tuổi, nhưng thực tế chúng mới được mang về trồng hơn 10 năm qua… Đến Tràng Kênh, bạn sẽ gặp những cảm xúc ngưỡng vọng lịch sử vĩ đại của cha ông, sự thanh khiết trong tâm hồn, như những ồn ào của cuộc sống hiện đại đã ở một nơi nào xa lắm…
Gửi tặng bạn 💕 Kể Về Một Cuộc Đi Thăm Di Tích Lịch Sử 💕 15 Bài Văn Hay
Thuyết Minh Đền Hùng – Mẫu 8
Tham khảo cách diễn đạt đặc sắc và ấn tượng với bài văn mẫu thuyết minh Đền Hùng – một trong những địa danh nổi tiếng của tỉnh Phú Thọ dưới đây:
Đền Hùng là một quần thể kiến trúc có giá trị văn hoá, lịch sử, tín ngưỡng vô cùng quan trọng của người Việt, thể hiện đạo lý truyền thống “uống nước nhớ nguồn” đối với vua Hùng, những người có công dựng nước và giữ nước từ thuở sơ khai của dân tộc.
Đền Hùng nằm trên núi Nghĩa Lĩnh, thuộc vùng đất Phong Châu, là đế đô của nước Văn Lang từ 40.000 năm trước và nay thuộc xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, đây là vùng đất bán sơn địa, chuyển tiếp giữa miền núi và đồng bằng, có cảnh quan đa dạng, vừa có rừng núi, đồi gò, vừa có đồng ruộng, sông ngòi, ao hồ phong phú.
Đền Hùng được xây dựng trên ngọn núi Nghĩa Lĩnh, đây được biết đến như là ngọn núi cao nhất vùng với cảnh quan trù phú, sinh vật tươi tốt tràn đầy sinh khí. Hơn nữa ngọn núi này cũng là nơi diễn ra các nghi thức tế lễ trời đất của bậc đế quân cùng quần thần với mong muốn cầu cho mưa thuận gió hòa, đời sống nhân dân được ấm no.
Ngọn núi mang trên mình dáng vẻ hùng vĩ và đồ sộ như thân hình của một con rồng lớn, đầu rồng ngoảnh về nam, thân rồng uốn lượn tạo thành các dãy núi nối tiếp nhau xa tít. Và nằm san sát phía sau con rồng thiêng liên quyền lực ấy lại là hình ảnh của những đàn voi, lũ bầy tôi trung thành đang thi nhau quay mình hướng về đất tổ.
Nhưng cái hùng vĩ ấy chưa dừng lại ở đó, tiếp đến ngã ba Bạch Hạc là sự kết hợp sông nước hùng vĩ. Đây là điểm hội tụ của ba dòng sông lớn nhất miền Bắc, sông Hồng, sông Lô, sông Đà. Sông nước cuồn cuộn, sóng xô đá cuồn cuộn cuốn nhau chầu về chân núi Nghĩa Lĩnh. Và nếu bạn đứng từ trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh thì có thể bao quát hết cảnh vật, thưởng thức hết vẻ đẹp và khí chất nơi quê cha đất tổ oai hùng bất diệt.
Đền Hùng là quần thể di tích linh thiêng thấm đượm nhiều giá trị văn hóa, lịch sử của đất nước từ buổi đầu dựng nước và giữ nước. Khu di tích gồm: đền Hạ và chùa, đền Giếng, đền Trung, đền Thượng và lăng vua Hùng. Điểm bắt đầu của khu di tích đền Hùng đó chính là Đại Môn ( cổng đền), đây là công trình kiến trúc được xây dựng vào năm 1917 theo kiểu vòm uốn với chiều cao 8,5 mét, có hai tầng mái và được lợp giả ngói ống. Bên trên bốn góc tầng mái được trang trí hình rồng và hai con nghê đắp nổi.
Nếu bên trên cổng là hình ảnh loài rồng đầy thiêng liêng và sức mạnh thì bên dưới cổng, trên tường lại được đắp nổi phù điêu hai võ sĩ trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Một người lẫm liệt tay cầm giáo, một người cầm rìu chiến. Cả hai đều khoác lên mình bộ giáp kiêu sa ẩn chứa vô vàn sức mạnh. Chưa hết choáng ngợp với cảnh sông nước Nghĩa Lĩnh, vậy mà đến cổng đền ta lại được một phen mãn nhãn đến thần hồn điên đảo bởi điểm xuất phát đầu tiên của Đền Hùng.
Địa điểm tiếp theo để tiếp tục cuộc hành trình kỳ thú này là đền Hạ và Thiên Quang Tự. Để đến đây du khách sẽ phải trải qua một hành trình gian nan gồm 225 bậc thang bằng gạch. Đền Hạ đã tồn tại từ thế kỉ 17- 18 với cấu trúc đơn sơ hình chữ Nhị có hai gian. Gian thứ nhất có tên gọi là Tiền bái, gian thứ hai là Hậu cung. Trước của đền Hạ là cây thiên tuế, đây cũng là nơi chủ tịch Hồ Chí Minh, vị cha già dân tộc đã cất lên lời dặn dò bất hủ về sự nghiệp bảo vệ dân tộc: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.
Tương truyền, xưa kia Lạc Long Quân và mẹ u Cơ sinh được 100 người con, 50 người con theo cha xuống biển, 50 người con theo mẹ lên núi khai sơn phá thạch. Trong 50 người con theo mẹ thì người con trưởng lên nối ngôi, lấy niên hiệu Hùng Vương thứ nhất, đặt tên nước Văn Lang, đóng đô ở Phong Châu, truyền 18 đời trong hơn 2.600 năm (từ năm 2879 đến năm 258 trước Công nguyên).
Nằm kề bên đền Hạ là Chùa Thiên Quang, được xây vào thời Trần. Phía trước chùa có cây vạn tuế gần tám trăm năm tuổi, xung quanh chùa có hành lang bao bọc, mái lợp ngói mũi, đầu đao cong, bờ nóc đắp hình lưỡng long chầu nguyệt. Trước sân chùa là hai tháp sư hình trụ 4 tầng và một gác chuông có tuổi đời vài trăm năm. Trong chùa có trên 30 pho tượng: Tam Thế, A Di Đà, Quan m Nam Hải, Quan m Tống Từ, Đức Thánh Hiền, Hộ Pháp,. . . được bài trí trang nghiêm. Kiến trúc hiện nay của chùa theo kiểu chữ Công, gồm Tiền đường 5 gian, Tam bảo 3 gian, và Thượng điện 3 gian.
Từ đền Hạ leo thêm 168 bậc nữa là có thể đến đền Trung, đây là nơi vua quan ngự bàn việc dân việc nước và thưởng thức vẻ đẹp đất trời. Đền Hạ có tên chữ là Hùng Vương Tổ Miếu, đây là ngôi đền cổ tồn tại từ thời Lý – Trần với cấu trúc đơn giản hình chữ Nhất. Tại đây Lang Liêu đã dâng lên vua cha bánh chưng nhân dịp lễ tết và không phụ với ý trời, công sức của chàng đã được đền đáp bằng việc truyền ngôi của vua cha.
Sau một hành trình gian nan cuối cùng du khách cũng đặt chân lên đỉnh Nghĩa Lĩnh, và tại đây có đền Thượng với tên gọi là “Kính Thiên lĩnh điện”. Đây là nơi thờ Thánh Gióng và vua Hùng. Đền Thượng tọa lạc ở trung tâm trời đất và cũng là trung tâm của khu di tích đền Hùng. Ngôi đền có sân rộng và được tôn tạo lại với kiến trúc cổ để du khách tìm về hành lễ nhưng không được đặt chân vào bên trong các gian thờ.
Người ta vẫn thường truyền nhau rằng ngôi đền được xây dựng sau khi Thánh Gióng lập nên đại công, đánh đuổi giặc n khỏi quê cha đất tổ. Và sau khi Thánh Gióng đánh tan giặc n bay lên trời thì vua Hùng đã đem ngài hóa ở ngôi đền bên cạnh, đó chính là Lăng vua Hùng. Lăng ở phía Đông đền Thượng, đây là mộ Hùng Vương thứ 6 với cấu trúc hình vuông có cột liền tường. Trong lăng là khu mộ vua Hùng với kích thước dài 1,3, rộng 1,8, cao 1m.
Điểm đến tiếp theo và cũng là điểm cuối của chuỗi di tích đó chính là đền Giếng, chặng cuối này nằm ở Ðông Nam chân núi Nghĩa Lĩnh. Đền xây vào thế kỷ 18, theo kiểu kiến trúc chữ Công gồm gian Tiền bái, ống muống, và Hậu cung. Đền xây vào thế kỷ 18, đây là ngôi đền mà hai cô con gái vua là Tiên Dung và Ngọc Hoa đã từng ngang qua, tại đây họ thường soi gương và chải tóc. Bên trong đền có giếng Ngọc nước trong veo quanh năm.
Một trong những địa điểm đáng để đặt chân đến của khu dích tích đó là Bảo tàng Hùng Vương, nơi đây được thiết kế mô phỏng hình ảnh bánh chưng bánh dày và trưng bày nhiều hiện vật từ thời vua Hùng, bảo tàng đã giới thiệu khái quát sự nghiệp dựng nước Văn Lang của các vua Hùng thông qua các nội dung trưng bày với các chủ đề khác nhau. Hằng năm cứ vào đúng ngày mùng 10 tháng 3 âm lịch thì khu di tích Đền Hùng lại long trọng tổ chức giỗ tổ Hùng Vương với nhiều hoạt động, sự kiện long trọng nhằm bày tỏ lòng biết ơn, gợi nhớ lại công lao của các vị Vua Hùng đã có công lớn trong việc xây dựng nền móng nước nhà.
Cùng với thời gian, tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương đã tích hợp nhiều giá trị văn hóa quý báu của dân tộc, thể hiện ý thức nhớ về cội nguồn dân tộc “Ăn quả nhớ người trồng cây”; “Uống nước nhớ nguồn”; sự đoàn kết sâu rộng của cộng đồng dân tộc tạo nên tính cộng đồng sâu sắc. Thờ cúng Hùng Vương đã trở thành truyền thống quý báu không chỉ ở trong nước mà còn ở cả nước ngoài, nơi có cộng đồng người Việt sinh sống. Điều đó đã tạo nên triết lý nhân văn sâu sắc, động lực tinh thần của dân tộc Việt Nam, hình thành nên nét đặc sắc của văn hóa nhân loại.
Thông qua nghi lễ thờ cúng nhằm xác lập mối liên hệ dòng tộc giữa các Vua Hùng với mọi thế hệ trong cộng đồng người Việt từ quá khứ, hiện tại đến mai sau. Đó là sợi dây liên kết các truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta từ thời đại sơ khai của các vua Hùng cho đến thời đại văn minh của Hồ Chí Minh, thể hiện lối sống trọng tình nghĩa, thủy chung, sự biết ơn, tình yêu thương, đùm bọc lẫn nhau đậm đà tính dân tộc.
Việc tổ chức Giỗ Tổ Hùng vương được Nhà nước, chính quyền địa phương tổ chức trang trọng, trong đó nghi lễ quan trọng nhất là Lễ dâng hương tưởng niệm các Vua Hùng tại Đền Thượng, thể hiện sự biết ơn đối với công lao dựng nước của các vua Hùng. Bên cạnh đó còn có lễ hội đền Hùng với các trò chơi dân gian và các cuộc thi đậm chất truyền thông như hát Xoan, hát Ghẹo, Hội trại văn hóa.
Đến năm 1962 nhà nước ta đã quyết định công nhận Đền Hùng là Di tích lịch sử văn hóa Quốc gia, đây cũng là một trong 10 di tích được xếp hạng “Di tích lịch sử văn hóa đặc biệt cấp Quốc gia” đợt đầu tiên vào năm 2009.
Đền Hùng, khu di tích gắn liền với chiều dài lịch sử của dân tộc và ẩn chứa những giá trị về kiến trúc, văn hóa sâu sắc. Chúng ta cần tự hào và ra sức bảo vệ, phát triển và truyền tải niềm tự hào này đến với bạn bè quốc tế.
Tìm hiểu hướng dẫn 🔥 Kiếm Thẻ Cào Miễn Phí 🔥 Kiếm Tiền Online Kiếm Thẻ Cào
Thuyết Minh Về Di Tích Lịch Sử Ở Điện Biên – Mẫu 9
Bài văn thuyết minh về di tích lịch sử ở Điện Biên sẽ giới thiệu đến bạn đọc khu di tích Chiến trường Điện Biên Phủ với những ký ức hào hùng của một thời đã qua.
Khu di tích Chiến trường Điện Biên Phủ gồm 45 di tích thành phần. Đây là một không gian lịch sử và cũng là sản phẩm du lịch nổi bật, góp phần giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ, nhắc nhở người Việt Nam về ký ức hào hùng của chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, đồng thời mang lại giá trị kinh tế cho địa phương.
Đã có rất nhiều đổi thay trên vùng đất từng là chiến trường khốc liệt năm xưa, với chiến dịch 56 ngày đêm “khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt” của quân dân ta, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược. Quần thể di tích Chiến trường Điện Biên Phủ nay là một trong số hơn 100 di tích quốc gia đặc biệt của cả nước và đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển du lịch của tỉnh Điện Biên.
Quần thể di tích Chiến trường Ðiện Biên bao gồm các di tích nổi bật như: Đồi A1, đồi Ðộc Lập, cứ điểm Hồng Cúm, Him Lam, cầu Mường Thanh, hầm chỉ huy tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ (hay hầm Đờ Cát), Tượng đài chiến thắng, Tượng đài kéo pháo, Sở chỉ huy chiến dịch Ðiện Biên Phủ… Những di tích này đã để lại ấn tượng sâu sắc, thu hút nhiều du khách tham quan khi đến với Điện Biên.
Nằm ở phía đông trung tâm tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, đồi A1 có vị trí quan trọng bậc nhất trong hệ thống 5 quả đồi bảo vệ trung tâm Mường Thanh. Tại đây, đêm 6-5-1954, quân ta đã đào một đường hầm, đặt khối thuốc nổ nặng gần 1.000kg và cho điểm hỏa. Đến sáng 7-5-1954, quân ta đã làm chủ hoàn toàn đồi A1, mở đường cho đợt tổng công kích cuối cùng vào Sở chỉ huy tập đoàn cứ điểm và giành thắng lợi hoàn toàn. Đồi A1 nay là điểm tham quan thu hút du khách trong nước và quốc tế với các hầm, hào, lô cốt, xe tăng được giữ gìn gần như nguyên vẹn. Tại đây, khách du lịch có thể trải nghiệm đẩy xe đạp thồ, nấu ăn bằng bếp Hoàng Cầm, nghe cựu chiến binh kể chuyện…
Hầm chỉ huy của tướng Đờ Cát nằm ở trung tâm lòng chảo Điện Biên. Đây là căn hầm với các phòng làm việc, nghỉ ngơi của tướng Đờ Cát cùng Bộ chỉ huy tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Đây cũng là nơi đánh dấu sự thất bại thảm hại của một đạo quân viễn chinh với hình ảnh viên tướng chỉ huy cùng toàn bộ sĩ quan dưới quyền giơ tay xin hàng và bộ đội ta phất cao lá cờ Quyết chiến quyết thắng kết thúc chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ.
Một di tích khác không thể không nhắc tới cùng những bản hùng ca về người chiến sĩ Điện Biên đó là di tích Đường kéo pháo. Tuyến đường huyền thoại này đã đi vào lịch sử dân tộc và trở thành huyền thoại. Chỉ bằng sức người cùng những dụng cụ thô sơ, nhưng với lòng yêu nước, tinh thần anh dũng quả cảm, quân và dân ta đã mở những tuyến đường trên các sườn núi quanh co hiểm trở để kéo pháo vào trận địa.
Cách trung tâm thành phố Điện Biên Phủ 20km là Sở chỉ huy chiến dịch nằm sâu trong khu rừng Mường Phăng. Đây là nơi đóng quân của Bộ chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ từ ngày 31-1 đến 15-5-1954. Trong những ngày ở đây, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đưa ra nhiều quyết sách quan trọng, mang tính lịch sử. Rừng Mường Phăng đã trở thành biểu tượng sức mạnh của Quân đội Nhân dân Việt Nam và được người dân gọi là “Rừng Đại tướng”.
Trong quần thể di tích Chiến trường Điện Biên Phủ, một công trình tuy ra đời trong thời bình nhưng có vai trò hết sức quan trọng, đó là Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ. Công trình này được hoàn thành năm 2014, đúng dịp kỷ niệm 60 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ.
Bảo tàng có hình dáng mô phỏng chiếc mũ của bộ đội ta năm xưa. Đây là nơi lưu giữ các hiện vật trong chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, gồm 2 khu trưng bày: Bên ngoài gồm 112 hiện vật là các loại vũ khí của Quân đội Nhân dân Việt Nam và quân đội Pháp sử dụng, bên trong trưng bày 274 hiện vật và 202 bức ảnh tư liệu. Bảo tàng đã góp phần phát huy giá trị quần thể di tích lịch sử chiến trường Điện Biên Phủ và là điểm nhấn thu hút khách du lịch đến với Điện Biên.
Trong nhiều năm qua, quần thể di tích lịch sử Chiến trường Điện Biên Phủ luôn được tỉnh Điện Biên quan tâm giữ gìn và bảo vệ, đồng thời phát triển thành điểm nhấn trong hành trình tham quan của du khách. Bà Vũ Thị Tuyết Nga, Phó Giám đốc Bảo tàng Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ cho biết: Lượng khách du lịch tham quan quần thể di tích chiến trường Điện Biên Phủ ngày càng tăng theo từng năm.
Rất nhiều điểm di tích tiêu biểu tại đây đã được đầu tư tôn tạo, phục dựng, gắn với việc phát huy, khai thác giá trị du lịch, góp phần thu hút du khách. Tỉnh Điện Biên cũng rất quan tâm đến công tác tuyên truyền, quảng bá, giới thiệu di tích. Tuy nhiên, việc trùng tu tôn tạo các di tích hiện vẫn phụ thuộc vào nguồn ngân sách bởi công tác xã hội hóa còn gặp nhiều khó khăn do vướng mắc về cơ chế. Vì vậy, nhiều di tích mặc dù đã xuống cấp nhưng chưa thể tu bổ, tôn tạo ngay, làm tăng nguy cơ đe dọa đến tính nguyên gốc của di sản.
Để trở thành một trung tâm du lịch của khu vực Tây Bắc và cả nước, tỉnh Điện Biên cần bảo tồn và phát huy giá trị của các di sản văn hóa nói chung và quần thể di tích Chiến trường Điện Biên Phủ nói riêng. Đó là một trong những nội dung được xác định trong Ðề án Bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di tích Chiến trường Ðiện Biên Phủ đến năm 2030. Tỉnh Điện Biên đã đầu tư để tu bổ một số điểm di tích như: Trung tâm Văn hóa Cựu chiến binh tại đồi E, các di tích Trung tâm tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, Trận địa pháo 105 và H6, đường kéo pháo… nhằm phục vụ du khách và góp phần tuyên truyền sâu rộng về ý nghĩa lịch sử của chiến thắng Điện Biên Phủ.
Việc đầu tư liên tục, lâu dài cho công tác bảo tồn, tôn tạo hệ thống di tích, không gian văn hóa lịch sử Điện Biên Phủ là cách làm hiệu quả để phát huy nguồn tài nguyên du lịch nhân văn riêng có của tỉnh Điện Biên. Đây cũng là cách đánh dấu sự khác biệt của các sản phẩm du lịch tỉnh Điện Biên với các tỉnh khác trong vùng Tây Bắc, đồng thời tăng cường giáo dục tinh thần yêu nước, truyền thống cách mạng cho các thế hệ người dân Việt Nam và thu hút du khách nhiều hơn nữa trong tương lai.
Bên cạnh văn mẫu thuyết minh về di tích lịch sử, mời bạn đón đọc 🌜 Tả Cảnh Đẹp Đất Nước 🌜 15 Bài Văn Tả Hay Điểm 10
Thuyết Minh Về Di Tích Lịch Sử Bà Rịa – Vũng Tàu – Mẫu 10
Bài văn thuyết minh về di tích lịch sử Bà Rịa – Vũng Tàu sẽ đưa bạn đọc khám phá về di tích Bạch Dinh với những thông tin thú vị về kiến trúc và cảnh quan.
Nằm sừng sững và nổi bật giữa màu xanh của cỏ cây trên triền Núi Lớn, Di tích lịch sử Bạch Dinh hiện là một trong những điểm du lịch thu hút đông đảo du khách khi đến thành phố Vũng Tàu.
Theo sử sách ghi lại, Bạch Dinh được người Pháp xây dựng từ năm 1898 đến năm 1916 để làm nơi nghỉ mát cho Paul Doumer, Toàn quyền Pháp tại Đông Dương thời đó. Bạch Dinh có tên gọi theo tiếng Pháp là Villa Blanche, theo tên cô con gái yêu của viên toàn quyền này. Nghĩa tiếng Việt của từ “Villa Blanche” lại trùng với màu sắc bên ngoài của nó nên dân địa phương quen gọi là “Bạch Dinh” – biệt thự trắng.
Bạch Dinh được xây dựng ở độ cao hơn 27m so với mực nước biển trên triền Núi Lớn, với 3 tầng (hầm, trệt và lầu), cao 19m. Khi xây dựng Bạch Dinh, người Pháp đã vận dụng rất chuẩn thuật phong thuỷ cho nó hướng mặt ra biển, lưng tựa vào núi, bao quanh bởi màu xanh của rừng cây giá tỵ (cây báng súng) và những màu sắc lung linh của rừng sứ ngũ sắc.
Kiến trúc của Bạch Dinh mang phong cách châu Âu cuối thế kỷ 19. Phía trước Bạch Dinh là một bao lơn hướng ra biển. Từ đây có thể nhìn bao quát cảnh Bãi Trước vòng từ Núi Nhỏ đến Núi Lớn. Mặt ngoài Bạch Dinh được trang trí những đường hoa văn cổ xưa cùng với những hình vẽ và những bức tượng thể hiện chân dung của các vị thánh, thần thời Hy Lạp cổ đại.
Đến Bạch Dinh, ấn tượng để lại trong du khách là màu xanh và không khí trong lành, mát dịu cùng vẻ cổ kính của toà nhà cũng như khung cảnh xung quanh. Rừng giá tỵ và sứ bao quanh tôn thêm vẻ đẹp của Bạch Dinh. Toàn bộ khuôn viên của Bạch Dinh rộng chừng 6 ha, trong đó có đến một nửa là rừng giá tỵ, nửa kia trồng hoa sứ- một loại cây ưa khí hậu nóng khô hạn và rất nhiều hoa. Hai loại cây này tạo nên cảnh thanh bình và nên thơ của Bạch Dinh bên bờ biển quanh năm sóng vỗ.
Do nằm ở địa điểm khá thuận lợi nên khách du lịch có thể ngắm nhìn Bạch Dinh ở nhiều vị trí khác nhau tại Bãi Trước. Trải qua lịch sử gần 100 năm, chứng kiến bao thay đổi của thời cuộc nhưng Bạch Dinh vẫn giữ được vẻ quyến rũ, sang trọng, hài hoà và uy nghiêm của nó. Bạch Dinh đã được Bộ Văn hóa-Thông tin công nhận là Di tích lịch sử văn hóa quốc gia ngày 4-8-1992.
Đến thăm Bạch Dinh, du khách sẽ được tìm hiểu lịch sử xây dựng cũng như công năng sử dụng của toà nhà trong ngót một thế kỷ lịch sử. Theo sử sách, tại vị trí xây dựng Bạch Dinh hiện nay, năm 1788 triều Nguyễn đã xây dựng cụm pháo đài Phước Thắng kiên cố để bảo vệ vùng cửa biển phía Nam và năm 1859 pháo đài này đã nhấn chìm nhiều tàu chiến giặc Pháp khi chúng tấn công Sài Gòn – Gia Định bằng đường biển.
Sau đó, năm 1898 người Pháp đã san bằng dấu tích pháo đài này để xây dựng một biệt thự sang trọng làm nơi nghỉ dưỡng cho toàn quyền Pháp tại Đông Dương Paul Dumer và các quan chức cao cấp của nhà nước thuộc địa Pháp thời bấy giờ. Dưới thời Mỹ – Ngụy, Bạch Dinh là nơi nghỉ dưỡng và hội họp của tổng thống và các tướng lĩnh Sài Gòn. Đặc biệt từ tháng 9-1907 tới năm 1916, Bạch Dinh là nơi người Pháp dùng để giam lỏng vua Thành Thái, một vị vua yêu nước có tư tưởng chống Pháp.
Ngày nay đến tham quan Bạch Dinh, du khách không chỉ được thưởng thức vẻ đẹp của thiên nhiên, của kiến trúc “Roma cận đại” mà còn được biết thêm về lịch sử Bạch Dinh, lịch sử dân tộc và ngắm nhìn bộ sưu tập gốm sứ thời nhà Thanh được vớt lên từ Hòn Cau rất có giá trị và nổi tiếng đang được bảo tàng tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu trưng bày và giới thiệu tại đây.
Do có kiến trúc và phong cảnh đẹp, ngày nay Bạch Dinh không chỉ là nơi thu hút du khách tới tham quan mà nơi đây còn được nhiều bạn trẻ chọn làm điểm chụp hình, quay phim để ghi lại những kỷ niệm khi làm đám cưới.
Giới thiệu cùng bạn 🍀 Thuyết Minh Về Ô Nhiễm Môi Trường, Bảo Vệ Môi Trường 🍀 Các Bài Văn Ấn Tượng
Thuyết Minh Về Di Tích Lịch Sử Ở Bến Tre – Mẫu 11
Với đề bài yêu cầu thuyết minh về di tích lịch sử ở Bến Tre, bạn đọc có thể tham khảo những gợi ý viết về khu di tích Đồng Khởi như sau:
Xã Định Thủy thuộc huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre được xem là cái “nôi” của phong trào Đồng Khởi lịch sử. Tại đây, vào ngày 17-1-1960, dưới sự chỉ huy, lãnh đạo trực tiếp của nữ tướng Nguyễn Thị Định, quân và dân xã Định Thủy đã nổi dậy, nổ phát súng đầu tiên, mở màn cho phong trào Đồng Khởi khắp miền Nam. Từ thành phố Bến Tre, qua cầu Hàm Luông sang cù lao Minh về Mỏ Cày Nam; rồi từ thị trấn Mỏ Cày Nam đi khoảng 3 km trên con đường nhựa, uốn lượn, ngoằn ngoèo, xuyên qua những vườn dừa xanh um, mát rượi du khách sẽ đến trung tâm xã Định Thủy.
Trước mặt UBND xã ngày nay là Khu di tích cấp quốc gia “Đồng Khởi 1960” với diện tích gần 0,5 ha, rộng rãi, sạch đẹp với nhiều hoa kiểng, cây cảnh và sân lễ có sức chứa trên 1.000 người. Phía tay phải đường vào khu di tích có một hòn đá đỏ, đẹp và lạ mắt, được đặt uy nghi, vững chãi trên một bệ tam cấp thoáng đãng. Bề mặt của hòn đá này có khắc tám chữ vàng mà Trung ương đã phong tặng cho nhân dân và các lực lượng vũ trang tỉnh Bến Tre: “Anh dũng Đồng Khởi. Thắng Mỹ diệt ngụy”.
Nhà bảo tàng được xây dựng cao ráo, hiện đại với nhiều phòng ốc trưng bày những hình ảnh, hiện vật, di vật liên quan đến cuộc Đồng Khởi lịch sử năm ấy và quá trình đấu tranh cách mạng vẻ vang của quân và dân huyện Mỏ Cày nói riêng và tỉnh Bến Tre nói chung. Đến đây, du khách như thấy lại quá khứ qua những chiếc mõ dừa, thanh mã tấu, súng ngựa trời, bom mìn tự tạo, những mũi chông cau, mô hình làng chiến đấu. Những vũ khí thô sơ ấy cộng với khí thế nổi dậy hừng hực như nước vỡ bờ đã làm cho kẻ thù kinh hoàng và hoảng sợ…
Trên nóc bảo tàng di tích, các nhà thiết kế đã xây dựng hình tượng “Ngọn lửa đồng khởi” gây ấn tượng cho khách tham quan, đồng thời tạo vẻ mỹ quan cho di tích. Ở Định Thủy còn có một di tích độc đáo là Đình Rắn với nhiều câu chuyện và huyền thoại bí ẩn. Đường vào Đình Rắn xuyên qua những hàng bạch đàn thâm u và vắng lặng. Bà từ trông coi đình Võ Thị Năm (75 tuổi) cho biết: “Ngôi đình này đã có trên 150 năm.
Theo các cụ ngày xưa và nhiều người kể lại rằng, nơi đây trước kia có cặp rắn thần mình to như khạp năm cân, dài trên hai mươi mét. Rắn thần đi rạp lúa, ăn thịt những con thú ác như hổ báo, hùm beo và độ hộ cho dân làng. Cặp rắn thần đã về rừng lớn, về núi sau ngày đất nước hòa bình, độc lập”. Đình Rắn, vào những năm chiến tranh ác liệt sau phong trào Đồng Khởi cho đến ngày 30-4-1975 là nơi hội họp, điểm xuất phát những cuộc tiến công của lực lượng vũ trang cách mạng. Bom đạn của kẻ thù đã dội rất nhiều lần xuống Đình Rắn.
Ngày nay, Đình Rắn đã được xây dựng, tôn tạo lại trên nền đất cũ ở ấp Định Nhơn, hoành tráng, to đẹp nhưng vẫn theo kiến trúc cổ của những đình chùa Nam Bộ. Vào các ngày 14, 15, 16 tháng 5 âm lịch hằng năm, hàng nghìn người dân, du khách các nơi về thăm viếng, tham quan Hội đình Định Thủy. Đình đã được công nhận là Di tích lịch sử, văn hóa cấp quốc gia.
Ở Định Thủy còn có một điểm tham quan, du lịch sinh thái hấp dẫn là Vàm Nước Trong, cửa ngõ đường thủy của huyện Mỏ Cày nối với sông Hàm Luông, với những vườn dừa mát xanh rợp bóng, những bãi bờ hoang sơ tĩnh lặng. Đây cũng là nơi ghi dấu những chiến công vang dội của bộ đội đặc công thủy. Các chiến sĩ bộ đội đặc công thủy trong những năm kháng chiến chống Mỹ đã mưu trí, dũng cảm đánh chìm rất nhiều tàu chiến thuộc “Hạm đội nhỏ trên sông” của giặc.
Anh hùng Hoàng Lam, chiến sĩ đặc công thủy, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, từng là “sát thủ” gây kinh hoàng, ám ảnh cho tàu chiến Mỹ trên sông Hàm Luông. Vàm Nước Trong vương vấn lòng người trong câu vọng cổ quen thuộc sau ngày hòa bình lập lại: “…Hò ơ…Vàm Nước Trong chảy ra sông biển/Nghe ấm tình đất mẹ phù sa… Chiều nay ra Phú An Hòa/Vườn dâu An Phước quê nhà chín thơm”.
Về Bến Tre – quê hương Đồng Khởi – mênh mông sông nước, du khách còn có cơ hội thăm những đảo dừa xanh (Minh, Bảo, An Hóa) nằm giữa bốn con sông Mỹ Tho, Ba Lai, Hàm Luông, Cổ Chiên. Người Định Thủy chân tình, mến khách, thích văn nghệ… Có thể bạn sẽ được mời lai rai với đặc sản mắm tép, cá ngát nấu chua với bần dốt, bánh bột gạo rau mơ hấp và cùng nhau đàn ca tài tử bên bờ Hàm Luông thơ mộng.
SCR.VN tặng bạn 💧 Nhận Thẻ Cào 50k Miễn Phí 💧 Kiếm Thẻ Cào Free
Thuyết Minh Về Di Tích Lịch Sử Ở An Giang – Mẫu 12
Đồi Tức Dụp là một trong những địa danh quan trọng trong việc xây dựng căn cứ kháng chiến thời chống Mỹ cứu nước. Cùng tìm hiểu về di tích này với bài văn mẫu thuyết minh về di tích lịch sử ở An Giang sau đây:
Nếu có dừng chân qua vùng Thất Sơn – An Giang thì chắc chắn rằng các bạn sẽ không thể nào quên ghé thăm để thưởng thức cái đẹp của vùng bảy núi. Nhưng các bạn muốn vừa du lịch vừa tìm hiểu lịch sử thì xin dừng chân lại ngọn đồi Tức Dụp thuộc núi Tô (Phụng Hoàng Sơn) tại tỉnh An Giang.
Đồi Tức Dụp nằm tại xã An Tức huyện Tri Tôn tỉnh An Giang. Gọi là Tức Dụp vì người Khơ- me gọi riêng nó là nước đêm. Đồi cao khoảng 216 m, diện tích hơn 2 km vuông, chu vi hình cánh cung khoảng 3m. Tương truyền ngày xưa các nàng tiên nữ giáng trần dạo chơi trên ngọn núi Tô, các nàng nghịch phá lấy đá ném xuống chân núi các phiến đá chồng chất lên nhau tạo thành đồi Tức Dụp với nhiều lò ảng (hang trong núi) chi chít như tổ ong vĩ đại, đây cũng là một yếu tố quan trọng trong việc xây dựng căn cứ kháng chiến của Tỉnh ủy An Giang.
Từ những năm 30-40 của thế kỉ XX , Tức Dụp đã mang trong mình ngọn lửa đấu tranh của cách mạng. Năm 1940 là căn cứ của các chiến sĩ vô danh. Năm 1960 là căn cứ quan trọng của Tỉnh ủy An Giang. Cho đến năm 1968 Quân đội Hoa Kỳ đã biết chỗ ẩn náu của cách mạng nên bắn phá dữ dội.
Những trận chiến liên tục nổ ra nhưng trận chiến khiến mọi người nhớ nhất đó là trận 128 ngày. Để chuẩn bị cho trận chiến này Quân lực VNCH đã chuẩn bị rất cặn kẽ. Trung tướng Mĩ Ét-ca đã cho 18000 quân gồm các sư đoàn 9, 21 và các tiểu đoàn biệt động quân, biệt động dù, biệt động mĩ,… với những vũ khí chiến tranh hết sức hiện đại như một thiết đoàn M.113 (36 chiếc), một lữ đoàn pháo binh với 6 trận đại pháo từ 105 li đến 155 li, 12 khẩu đại bác, bom B52, B57, F4…. bên phía cách mạng có 40 người với những vũ khí thô sơ, những trái bom tự chế và những chiến lợi phẩm không đáng kể.
Cuộc chiến không cân sức đã diễn ra nhưng bên phía những người cách mạng đã giành thắng lợi. Thiệt hại của người Mĩ là 2700 quân nhân thiệt mạng, 11 xe thiết giáp bị phá hủy, làm hỏng 9 khẩu pháo 105 li, 2 máy bay bị bắn rơi cùng 3 trực thăng. Thiệt hại về chiến phí của Mỹ lên đến 2 triệu USD và cũng từ đó ngọn đồi này nổi tiếng với cái tên “ngọn đồi 2 triệu đô la”. Chiến tranh đã qua đi cho đến 1/4/1985, Bộ văn hóa công nhận là di tích lịch sử văn hóa quốc gia và được nhà nước trao tặng 8 chữ vàng “kiên cường bám trụ, giữ vững núi Tô”.
Bây giờ Tức Dụp không còn xơ xác như xưa nữa, nhờ bàn tay con người, màu xanh đã trùm lên trên ngọn đồi này. Các bạn có thể thử tài thiện xạ của mình khi các bạn vào phòng bắn súng. Các bạn có thể đi hóng mát, dã ngoại quanh đồi Tức Dụp. Ngoài ra còn có sở thú với nhiều loài thú quý hiếm như đà điểu châu Phi, cá sấu, voọc mũi sếch và các bạn còn có thể chơi các trò chơi dân gian,…. thưởng thức những món ngon đồng quê. Đặc biệt các bạn có thể vào trong hang để khám phá di tích lịch sử,….
Tức Dụp đã được con người điểm tô trở nên xinh tươi và đẹp đẽ hơn nhưng có phai dấu những dấu tích xương máu những biến cố chiến tranh đã in hằng vào vách đá. Nó đã được lưu giữ mãi mãi. Nó đã được người dân chúng tôi bảo vệ xây dựng để ngày càng đẹp hơn. Tức Dụp- niềm tự hào của An Giang và cũng là niềm tự hào của đất nước Việt Nam đang hiện hữu sừng sững uy nghiêm giữa đất trời Việt Nam.
Giới thiệu đến bạn 🌟 Bài Văn Tả Cảnh Đẹp Quê Hương 🌟 15 Bài Điểm 10
Thuyết Minh Về Di Tích Lịch Sử Ở Thái Bình – Mẫu 13
Chùa Keo là một trong những ngôi chùa cổ đặc trưng với nét độc đáo của nghệ thuật kiến trúc thời xưa. Bài văn thuyết minh về di tích lịch sử ở Thái Bình dưới đây sẽ giúp bạn đọc có thêm những thông tin phong phú về địa danh này.
Chùa Keo, một khu chùa cổ tuyệt vời, một tác phẩm tiêu biểu, đặc sắc của nghệ thuật kiến trúc Việt Nam. Chùa Keo tên chữ là chùa Thần Quang, nằm ở Vũ Thư, Thái Bình. Theo sử cũ, chùa Keo được xây dựng từ thời nhà Lý Thánh Tông, đến nay đã nhiều lần trùng tu.
Trong những di tích còn lại thì chùa Keo là một di tích có quy mô to lớn. Có lẽ ở nước ta chưa có một ngôi chùa nào lại được tới 57.000m2 với 107 gian chùa lớn (trước là 154 gian) làm toàn bằng gỗ lim. Những con đường dài hàng trăm mét, lát toàn đá xanh rông gần 2m và 350 vây cột lim lớn nhỏ, đều được kê trên những hòn đá tảng lớn, cổ bồng, chạm cánh sen.
Toàn bộ khu chùa là một quần thể kiến trúc lớn, gồm cột cờ, sân lát đá, tam quan ngoài, ao trước chùa, tam quan trong, sân đất, chùa Hộ, chùa Phật, sân gạch, tòa Giá Roi, tòa Thiên Hương, tòa Phục quốc, tòa Thượng Điện, gác chuông, nhà Tổ… Ngoài ra, là hai dãy hành lang dài hai bên, từ chùa Hộ trở vào.
Tổ chức không gian kiến trúc ở đây thật tài tình, phức tạp một cách trật tự, theo kiểu “tiền Phật hậu Thần”. Khu chùa phía trước và khu đền thờ Không Lộ thiền sư phía sau. Bố cục kiến trúc dường như là phá quy luật, như việc đặt gác chuông ba tầng vào cuối dây chuyền của quần thể. Kiến trúc của gác chuông là sự đồ sộ của hình khối, sự phong phú hài hòa của nhịp điệu và chi tiết, chỉ ba tầng cao ll,06m nhưng lại gây được ấn tượng đồ sộ. Bốn cây cột lim chính cao suốt hai tầng, cùng với hệ thống cột niên và những hàng lan can con tiện, đã được kết nối khéo léo.
Các tảng cột gác chuông thuần bằng đá, tạc kiểu hình đôn lớn, chạm hình hoa sen kép rất đẹp. Độc đáo nhất là hệ thống dui bay, tầng tầng lớp lớp vươn lên đỡ mái. Các đầu dui bay phía ngoài vươn ra, choãi xuống theo chiều mái, làm tăng thêm chiều cao của công trình. Đứng xa trông như 200 cánh tay Phật Bà Quan Âm từ mái tầng hai, tầng ba vươn ra vẫy chào khách thập phương! Tôi đã thấy những người khách nước ngoài dừng lại hàng giờ trước tòa gác chuông ba tầng này, sửng sốt và ngắm nghía mãi tầng tầng lớp lớp mái cong cổ kính và hàng ngàn bộ phận chạm trổ tinh vi, mà ngay đến những người thợ lành nghề nhất được mời đến trùng tu cũng không biết hết tên gọi!
Trong gác chuông có treo hai quả chuông niên đại: Hoàng Triều Cảnh Thịnh Tứ Niên, một di tích quý về sự nghiệp “văn trị” của triều Tây Sơn trên đất Thái Bình. Quai đỉnh chuông đúc từ thời Tây Sơn rất đẹp, chạm hình hai con rồng nối đuôi nhau. Ở gác một chùa Keo có một khánh đá rất to, không biết đục từ bao giờ, tiếng khánh âm vang.
Hầu như bất cứ bộ phận kiến trúc nào của chùa Keo cũng thấy dấu vết của những bàn tay chạm khắc khéo léo. Ngay ở tam quan nội, một công trình tưởng như nhỏ, nhưng hai cánh cửa trung quan cũng được chạm khắc rất công phu. Cánh cửa cao 2,4m, mỗi cánh rộng l,2m, được chạm một đôi rồng chầu bán nguyệt. Rồng ở đây to, khỏe. Con lớn vươn cổ lên, miệng ngậm hạt châu, râu bờm uốn sóng, rồi choái ra thành những hình lưỡi mác, ngực rồng ưỡn về phía trước, đuôi vắt lên đỉnh tấm cửa. Hàng trăm đám mây lửa ngùn ngụt bốc lên. Rồng như bay lượn trong biển lửa.
Có lẽ những người thợ tài ba muốn ký thác những dấu vết của lịch sử trong bức chạm gỗ này. Khép hai cánh cửa lại, chúng ta nhìn thấy một bức tranh hoàn chỉnh: rồng chầu nguyệt. Cái khéo của bức chạm này là trên cùng một mặt phẳng, người thợ đã chạm những vết nổi, nét chìm, con rồng to, rồng nhỏ, gần xa, như cả một bầy rồng bay thong dong trong mây.
Hàng trăm, “xuân thu nhị kỳ” vào ngày 4 tháng giêng và trung tuần tháng 9 âm lịch, khách thập phương cuồn cuộn đổ về dự hội chùa. Từ xa, trên đê sông Hồng, mọi người đã nhìn thấy lá cờ thần to bằng gian nhà, bay trên đỉnh cột cờ cao 21m. Cột cờ lớn chốt vào bệ đá sâu hàng mét, vậy mà cờ bay còn rung cả cột!
Dù cho cha đánh, mẹ treo
Cũng không bỏ hội chùa Keo hôm rằm…
Chưa đến chùa Keo, xin mời bạn hãy đến một lần…
Khám phá thêm 💧 Thuyết Minh Về Món Ăn Dân Tộc Truyền Thống 💧 15 Mẫu Hay
Thuyết Minh Về Di Tích Lịch Sử Ở Thanh Hoá – Mẫu 14
Tham khảo những thông tin thú vị về di tích thành nhà Hồ với bài văn thuyết minh về di tích lịch sử ở Thanh Hoá dưới đây:
Thành Nhà Hồ thuộc địa phận của tỉnh Thanh Hóa ngày nay từng là kinh đô của nước Việt Nam từ năm 1398 đến 1407. Đây là một trong những thành lũy bằng đá hiếm hoi còn sót lại tại Đông Nam Á.
Thành Nhà Hồ đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới vì những giá trị văn hóa, lịch sử cùng kỹ thuật xây dựng độc đáo của công trình này mang lại. Thành Nhà Hồ do Hồ Quý Ly cho xây dựng vào năm 1397, dưới thời vua Trần Thuận Tông. Trong lịch sử, thành còn được biết đến với các tên gọi khác là thành An Tôn, Tây Đô, Tây Kinh, Tây Nhai, Tây Giai. Thành được xây dưới sự chỉ đạo của Hồ Quý Ly lúc ông đương nhậm chức tể tướng dưới thời nhà Trần.
Sau khi thành xây xong, Hồ Quý Ly buộc vua Trần Thuận Tông dời đô từ Thăng Long (nay là Hà Nội) về Thanh Hóa. Năm 1400, Hồ Quý Ly lên ngôi vua thay cho nhà Trần, Thành Nhà Hồ chính thức trở thành kinh đô, và Hồ Quý Ly lấy quốc hiệu là Đại Ngu, tức niềm hạnh phúc, an vui. Tuy vậy triều đại này chỉ kéo dài vỏn vẹn 7 năm, là triều đại ngắn nhất trong lịch sử Việt Nam.
Thành Nhà Hồ đáp ứng đầy đủ hai tiêu chí về văn hóa mà UNESCO đưa ra để xếp hạng Di sản cho công trình. Tiêu chí thứ hai “Thể hiện các giá trị nhân văn quan trọng và sự ảnh hưởng của chúng qua một thời kỳ lịch sử quốc gia hay trong một khu vực của thế giới, những đóng góp này có tính phát triển trong kiến trúc, công nghệ, nghệ thuật điêu khắc, và cách quy hoạch thành phố”. Tiêu chí thứ tư “Trở thành ví dụ nổi bật về một loại hình công trình, một quần thể kiến trúc, kỹ thuật hoặc cảnh quan minh họa được giá trị của một (hoặc nhiều) giai đoạn trong lịch sử nhân loại”.
Công trình này được đánh giá cao về mặt kỹ thuật xây dựng các khối đá được cho là có một không hai ở Việt Nam nói riêng và toàn khu vực Đông Á, Đông Nam Á nói chúng vào khoảng thời gian từ cuối thế kỉ XIV, đầu thế kỷ XV. Các nhà nghiên cứu đánh giá, kiến trúc Thành Nhà Hồ được xây rất khoa học, với các phiến đá lớn được đục đẽo một cách vuông vức, xếp đan xen với nhau theo hình múi bưởi để tránh các rung chấn lớn như động đất.
Đặc biệt là giữa các phiến đá này không hề có bất kỳ chất kết dính nào nhưng tòa thành vẫn đứng vững hơn 600 năm, vượt qua nhiều tác động của địa chấn và bom đạn tàn phá. Ngoài ra khối công trình đồ sộ, vững chắc này chỉ được xây dựng vẻn vẹn trong vòng 3 tháng đầu năm 1397. Theo các tài liệu để lại cùng công việc khảo cổ, nghiên cứu hiện trạng thì quần thể di sản Thành Nhà Hồ bao gồm Thành nội, Hào thành, La thành và Đàn tế Nam Giao nằm phía ngoài thành. Trong đó, Hoàng thành là công trình đồ sộ nhất đồng thời nguyên vẹn nhất còn lại cho đến nay.
Toàn bộ mặt ngoài tường thành là sự kết hợp của bốn cổng chính làm từ những phiến đá vôi màu xanh, được đục đẽo tinh xảo, chồng khít lên nhau. Những khối đá lớn này có phiến dài tới hơn 6 mét, nặng khoảng 20 tấn. Lý giải về cách vận chuyển các khối đá khổng lồ này, các nhà khảo cổ cho rằng người ta đã dùng các hòn bi đá để lăn chuyển chúng. Những khối đá lớn này có phiến dài tới hơn 6 mét, nặng khoảng 20 tấn khít với nhau mà không hề có bất kỳ chất kết dính nào
Trước kia, bên trong thành còn có nhiều công trình nguy nga như Điện Hoàng Nguyên, Cung Diên Thọ (chỗ ở của Hồ Quý Ly), Đông cung, Tây Thái Miếu, Đông Thái Miếu… không thua gì kinh thành Thăng Long. Tuy nhiên, qua khoảng thời gian dài hơn 6 thế kỷ với nhiều sự tác động chủ quan và khách quan đã khiến cho hầu hết các công trình kiến trúc này bị phá hủy hoàn toàn.
Trước kia bên trong thành còn có nhiều công trình nguy nga nhưng đã bị phá hủy. Một trong những bí ẩn lớn liên quan đến công trình là sự mất tích của đầu rồng trên cặp rồng được chạm khắc tỉ mỉ bên trong hoàng thành. Đôi tượng rồng đá này được các nhà sử học đánh giá thuộc loại tượng rồng lớn và đẹp nhất còn sót lại ở Việt Nam. Chúng có hình dạng thân thon nhỏ dần về phía đuôi, uốn bảy khúc, phủ kín vảy. Đôi rồng này còn mang giá trị nghệ thuật chạm khắc đặc thù của thời Trần lúc hưng thịnh.
Có khá nhiều giả thiết về việc lý giải tại sao đầu rồng lại bị biến mất nhưng giả thiết sau khi xâm lược nước ta, quân Minh cho chặt đầu rồng mang về báo công được nhiều người chấp nhận.
Thành Nhà Hồ là di tích lịch sử quan trọng có giá trị cao về mặt văn hóa, kiến trúc thời xưa. Đến với di tích này du khách có cơ hội chiêm ngưỡng sự độc đáo của công trình xưa cũ và tìm hiểu về kỹ thuật công phu này. Đây là điểm đến ngày càng thu hút nhiều du khách trong và ngoài nước biết đến.
Đừng bỏ lỡ cơ hội 🍀 Nhận Thẻ Cào 100k Miễn Phí 🍀 Card Viettel Mobifone
Thuyết Minh Về Di Tích Lịch Sử Ở Nghệ An – Mẫu 15
Bài văn thuyết minh về di tích lịch sử ở Nghệ An sẽ mang đến cho bạn đọc những trải nghiệm khám phá Đền Cuông – một trong những địa danh gắn liền với huyền thoại dựng nước, giữ nước của dân tộc.
Diễn Châu (Nghệ An) được biết đến không chỉ là nơi sản sinh ra nhiều nhân vật lịch sử nổi tiếng như Phùng Chí Kiên, Nguyễn Xuân Ôn, Đặng Văn Thụy, Cao Xuân Dục.. mà còn là vùng đất có nhiều di tích lịch sử và các danh lam thắng cảnh. Theo thống kê trong số 91 di tích lịch sử văn hóa thì đã có tới 13 di tích được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia. Một trong số các di tích lịch sử văn hóa nổi tiếng là Đền Cuông nơi gắn liền với Thục An Dương Vương – vị vua huyền thoại của lịch sử dựng nước thời xa xưa.
Đền Cuông thuộc địa bàn xã Diễn An, huyện Diễn Châu, cách thành phố Vinh khoảng 30 km về phía Bắc, nằm trên núi Mộ Dạ, một ngọn núi thuộc dãy Đại Hải, cận kề quốc lộ 1A. Đền Cuông là một di tích lịch sử đã được Nhà nước xếp hạng, đồng thời cũng là một danh thắng nổi tiếng – nơi kết hợp hài hòa giữa kiến trúc và cảnh sắc thiên nhiên như thể đã có một sự thỏa thuận trước giữa tạo hóa và bàn tay con người.
Nhìn về tổng thể kiến trúc Đền Cuông được xây dựng theo kiểu chữ “Tam”. Trải qua hàng nghìn năm, tam quan hiện nay đã chằng chịt rễ cây si leo bám, càng tạo nên nét cổ kính cho ngôi đền. Tòa trung điện theo kiểu chồng diêm 8 mái, các tòa khác trong đền đều có kiến trúc 4 mái, đầu đao cong vút. Các công trình đều đồ sộ, cột to, tường dày vững chắc nhưng không thô vì các chi tiết, hoa văn được đắp, chạm tinh tế, mà lại toát lên vẻ đẹp nhẹ nhàng, thanh thoát.
Thượng điện đặt ban thờ Thục An Dương Vương, qua khoảng sân hẹp sang trung điện đặt ban thờ Cao Lỗ, tướng giúp vua chế tác nỏ thần. Đền Cuông có nhiều di vật quý: trống, chiêng, tượng thờ, đồ tế khí… Nơi đây còn lưu giữ nhiều tư liệu bằng chữ Hán trên các bức hoành phi, cột, trụ biểu nhắc nhở con cháu, muôn dân luôn nhớ ân đức Thục An Dương Vương.
Đền Cuông được xây dựng trên một vị trí thông thoáng, giàu chất sử thi. Trên núi Mộ Dạ ngày nay là cả một cánh rừng thông bạt ngàn. Sau núi là biển cả mênh mông, ngày đêm rì rào sóng vỗ. Ở phía Bắc chân núi là cửa Tư Hiền gắn với sự kiện bi hùng của đất nước – nơi cha con Thục An Dương Vương trên đường chạy giặc gặp bước đường cùng đã được Rùa Vàng hiển linh rẽ sóng mở đường cho vua cha về với biển. Tục truyền ở trên núi này có hơn 50 tướng sĩ của vua Thục trong bước đường cùng đã tuẫn tiết ở đây.
Theo truyền thuyết, sau khi chém Mỵ Châu, An Dương Vương phi ngựa lên đỉnh núi Mộ Dạ. Từ trên đó, Ngài đã cởi mũ, cởi cờ, cởi áo bào, tháo kiếm và yên ngựa rồi tung ra bốn phía. Kỳ lạ thay, tất cả các thứ đó biến thành 5 ngọn núi có hình giống như cái mũ, cái kiếm, chiếc vành khăn… châu tuần quanh núi Mộ Dạ. Không những thế, Ngài còn dẫm mạnh chân xuống một tảng trên đỉnh núi và để lại một vết chân rồi mới gieo mình xuống biển tự vẫn. Nơi ấy một thời gian sau nổi lên phiến đá có hình bàn cờ tướng và dân đi biển thi thoảng vẫn thấy hình bóng An Dương Vương cùng thần Kim Quy ngồi đánh cờ trên đó…
Thăm Đền Cuông trên núi Mộ Dạ bất chợt ngẫm câu thơ của Tố Hữu “… Trái tim lầm chỗ để trên đầu/ Nỏ thần vô ý trao tay giặc/ Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu” lại thấy thương cho Mỵ Châu và mối tình oan nghiệt của nàng. Vào ngày đẹp trời, đứng trên núi Mộ Dạ phóng tầm mắt ra bốn phương mới thấy được hết những điều kỳ thú của một vùng non xanh nước biếc hữu tình. Sách xưa đã từng liệt kê trong số 8 cảnh đẹp của “Đông Yên Nhị Châu” (vùng đất thuộc tổng Yên Thành xưa) thì có 6 cảnh đẹp thuộc về Diễn Châu, một trong số các cảnh đẹp đó là Dạ Sơn Linh Tích (Dấu thiêng núi Mộ Dạ).
Hằng năm, vào các ngày 14, 15,16 tháng Hai âm lịch diễn ra lễ hội Đền Cuông. Đây là lễ hội lớn không chỉ của cộng đồng cư dân vùng Diễn Châu mà còn cả đối với cộng đồng cư dân cả nước để nhớ tới ân đức của Thục An Dương Vương. Vào dịp lễ hội, khách thập phương ở mọi miền đất nước tụ hội về đây. Những người con Diễn Châu xa quê cũng cố gắng thu xếp để về thăm quê vào đúng dịp này.
Theo lễ tục, chiều ngày 14 tháng Hai là Lễ yết cáo để tạ ơn Thục An Dương Vương và trời đất; đêm ngày 14 là Lễ yến vị diễn ra mang đậm màu sắc tâm linh đồng thời phản ánh rõ nét văn hóa ẩm thực của cả vùng; sáng ngày 15 diễn ra hoạt động khá quan trọng của lễ hội Đền Cuông, đó là phần rước kiệu từ đình Xuân Ái (Diễn An), nhà thờ họ Cao (Diễn Thọ) ra Đền Cuông, lễ rước thường diễn ra rất sôi động, thu hút sự chú ý của mọi người; chiều 15 tháng Hai là phần Lễ tạ…
Sau phần lễ tục là phần hội, phần này diễn ra từ ngày 15 đến hết ngày 16 tháng Hai âm lịch. Ở lễ hội Đền Cuông, có nhiều hoạt động văn hóa dân gian như: chọi gà, cờ người, vật, đánh đu… cùng các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao như hát chầu văn, thi nét đẹp Đền Cuông, bóng bàn, kéo co, chọi gà, leo núi…
Người dân Diễn Châu cũng như người dân khác trong tỉnh và cả nước đến với lễ hội Đền Cuông không chỉ là dịp cầu phúc cầu tài mà còn là dịp để lòng người ghi nhớ đoạn kết của câu chuyện Loa Thành: An Dương Vương đem công chúa Mỵ Châu trốn kẻ thù, tới Diễn Châu thì dừng lại. Nhận ra sự thật, vua chém con gái yêu rồi theo thần Kim Quy đi về phía biển… Truyền thuyết và lịch sử, thực và hư, những dấu tích đã rêu phong, đã hoen mờ cùng thời gian, chỉ còn lại đó là một Đền Cuông linh thiêng và lòng ngưỡng vọng của nhân dân cũng đủ để rút ra bao điều đáng chiêm nghiệm…
Đến với lễ hội Đền Cuông du khách còn có thể đi thăm các chứng tích, nhất là các địa danh như núi Kiếm, núi Đầu Cân ở xã Nghi Thiết (Nghi Lộc), núi Mụa (núi Mũ) ở xã Diễn Phú, núi Mã Yên (Yên Ngựa) ở xã Diễn Thọ (Diễn Châu)… Đến với Đền Cuông là đến với một danh thắng có nhiều phong cảnh đẹp, đắm trong huyền thoại thiêng liêng đậm chất bi hùng lịch sử. Đó cũng là cách trở về cội nguồn, được hòa mình vào hồn thiêng sông núi của nước non Âu Lạc.
Ngoài ra, tại SCR.VN còn có 🌺 Tả Cảnh Đẹp Ở Địa Phương Em 🌺 15 Bài Hay Nhất
Thuyết Minh Về Di Tích Lịch Sử Lớp 8 – Mẫu 16
Để hoàn thành tốt bài văn thuyết minh về di tích lịch sử lớp 8, các em học sinh có thể tham khảo những ý văn đặc sắc giới thiệu về văn miếu Quốc Tử Giám sau đây:
Văn Miếu Quốc Tử Giám tọa lạc giữa thủ đô Hà Nội, được xem là trường đại học đầu tiên tại Việt Nam. Từ những năm đầu tiên, ngôi trường này đã tụ họp rất nhiều người tài, đóng góp vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Hiện nay Văn Miếu vẫn là điểm đến của nhiều du khách khi ghé thăm Hà Nội bởi kiến trúc độc đáo, ấn tượng.
Văn Miếu Quốc Tử Giám đã trải qua bao nhiêu biến động, thăng trầm của lịch sử nhưng nó vẫn giữ được nét đẹp truyền thống của con người Hà Nội. Đó là giá trị tinh thần cao đẹp được gìn giữ từ bao nhiêu năm. Văn Miếu nằm ở phía Nam kinh thành Thăng Long thời Lí. Văn Miếu được được vào hoạt động trong khoảng thời gian từ 1076 cho đến 1820, đào tạo ra nhiều nhân tài cho đất nước.
Văn Miếu bao gồm hai di tích chính là Văn Miếu thờ Khổng Tử, các bậc hiền triết và Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An, người thầy đầu tiên của trường học. Trải qua bao nhiêu năm nhưng Văn Miếu vẫn giữ được những nét đẹp cổ xưa.
Ban đầu Văn Miếu là nơi học tập của các hoàng tử, sau này mới mở rộng ra cho những người tài trong cả nước. Văn Miếu có diện tích 54.331 m2 bao gồm Hồ Văn, vườn Giám và nội tự được bao quanh bằng tường gạch vồ. Với những kiến trúc được thiết kế từ thời xa xưa, in dấu biết bao nhiêu thăng trầm của thời gian, của những đổi thay đất nước.
Khi bước vào khu Văn Miếu, du khách sẽ đến với cổng chính, trên cổng chính là chữ Văn Miếu Môn. Phía ngoài cổng có đôi rồng đá thời Lê, bên trong là rồng đá thời Nguyễn. Khu thứ hai chính là Khuê Văn Các được xây dựng năm 1805 gồm 2 tầng, 8 mái rất rộng rãi. Đây là nơi tổ chức bình các bài thơ và văn hay của sĩ tử thời xưa. Khu thứ ba chính là từ gác Khuê Văn tới Đại Thành Môn, ở giữa có một hồ vuông gọi là Thiên Quang Tĩnh. Ở hai bên hồ là nơi lưu giữ 82 bia tiến sĩ có ghi tên, quê quán, chức danh của những người nổi tiếng như Ngô Thì Nhậm, Lê Quý Đôn…
Cuối sân là nhà Đại bái và hậu cung; có những hiện vật quý hiếm được lưu truyền từ bao đời nay như chuông Bích Ung do Nguyễn Nghiêm đúc vào năm 1768. Đây được xem là chiếc chuông lớn, có giá trị lịch sử và văn hóa lâu đời. Tấm khánh mặt trong có hai chữ Thọ Xương, mặt ngoài khắc bài mình biết theo kiểu chữ lệ nói về công dụng loại nhạc cụ này. Khu thứ 5 chính là Trường Quốc Tử Giám. Ở đây là nơi dạy học, tuyển chọn người tài, đỗ đạt cao giúp cho vua nâng cao trí thức. Có rất nhiều người từ ngôi trường này đã gây nên tiếng vang lớn cho đến ngày nay như Chu Văn An, Bùi Quốc Khải…
Văn Miếu Quốc Tử Giám được xây dựng chủ yếu bằng gỗ lim, gạch đất nung, ngói mũi hàng mang nét nghệ thuật của triều Lê và Nguyễn. Những nét kiến trúc độc đáo ấy được xây dựng khéo léo bởi những bàn tay tài hoa.
Cho đến ngày nay Văn Miếu Quốc Tử Giám vẫn là địa điểm du lịch của rất nhiều người, vừa nhớ về cội nguồn, vừa khấn bái, vừa tìm hiểu được lịch sử của cha ông ta. Nơi đây còn được xem là tâm điểm của Hà Nội, của thủ đô nghìn năm văn hiến.
Chia sẻ cùng bạn 🌹 Thuyết Minh Về Một Loài Cây Cối Em Yêu 🌹 15 Mẫu Hay Nhất
Thuyết Minh Về Di Tích Lịch Sử Lớp 9 – Mẫu 17
Đến với thành phố Hồ Chí Minh, du khách viễn phương không thể bỏ qua Dinh Độc Lập – nơi tưởng nhớ về một chặng đường lịch sử hào hùng của dân tộc. Mời bạn đọc và các em học sinh tìm hiểu về địa danh này trong bài văn mẫu thuyết minh về di tích lịch sử lớp 9 dưới đây:
Thành phố Hồ Chí Minh là đầu cầu kinh tế của nước nhà, luôn tráng lệ và nhộn nhịp cùng sự hối hả. Nằm trong lòng thành phố vẫn hiện hữu những công trình kiến trúc ghi dấu của một thời lịch sử anh hùng, nơi để người ta tưởng nhớ và thêm biết ơn cuộc sống hiện tại. Một trong số các di tích kiến trúc quan trọng đó phải kể đến Dinh Độc Lập, đây là một công trình khác đồ sộ, tọa lạc tại số 106 đường Nguyễn Du thuộc quận Một.
Dinh Độc Lập mang nhiều cái tên, ứng với mỗi tên là một giai thoại lịch sử khác nhau đi kèm. Khi thực dân Pháp đánh chiếm Sài Gòn đã lên kế hoạch xây dựng Dinh thống đốc Nam Kỳ và tới năm 1868 được hoàn thành và mang tên Dinh Norodom. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Ngô Đình Diệm nhận lại Dinh và đổi tên thành Dinh Độc Lập, cho xây dựng lại một Dinh mới hoành tráng và kiên cố hơn sau sự kiện Dinh bị đánh sập cánh trái. Công trình đã hoàn thành vào mùa thu năm 1966, dưới sự chỉ đạo của kỹ sư Phan Văn Điển.
Dinh Độc Lập được bao quanh bởi những hàng cây xanh mướt. Trước tòa nhà chính là một khoảng sân lớn thiết kế ấn tượng bởi hàng cỏ xanh mướt tạo thành khối tròn, bao quanh là con đường vòng có thể đi từ hai bên khi bước qua cánh cổng Dinh. Với những vật liệu xây dựng chủ yếu trong nước, Dinh là một công trình to lớn do chính người Việt xây dựng, điêu khắc, trang trí, thiết kế bố cục và sắp xếp nội thất. Dinh Độc Lập gồm ba tầng chính.
Bước vào tới Dinh, người ta không chỉ ngỡ ngàng vì lối kiến trúc hiện đại mà còn trầm trồ bởi những chi tiết tinh tế của từng căn phòng. Ở tầng một gồm có các phòng: Họp nội, đại yến, khánh tiết. Căn phòng lớn nhất với hai hàng ghế xếp dài đối diện nhau là phòng khánh tiết, phòng được trang trí bởi những hoa văn vô cùng sang trọng phong cách pha trộn giữa Tây u và Đông u, sử dụng để tiếp khách. Phòng họp đầy ắp những chiếc ghế lưng tựa xung quanh bàn hình bầu dục tạo một không khí trang nghiêm, trên bàn là những chiếc micro đứng.
Phòng đại yến và các phòng khác cũng được trang trí rất kỳ công. Điều đặc biệt là dù ở phòng nào thì các kiến trúc sư cũng không quên sự góp mặt của các loại cỏ cây hoa lá, giúp không khí thêm phần mát lành và tạo sức sống cho không gian. Tầng hai là nơi làm việc của các lãnh đạo cấp cao của quốc gia. Các phòng lớn như phòng trình quốc thư nơi các đại sứ tại Sài Gòn trình ủy nhiệm thư cho Tổng thống trước năm 1975.
Căn phòng được thiết kế mang đậm phong cách Nhật với kỹ thuật sơn mài độc đáo… Ghế của Tổng thống có tay tựa hình rồng và đặt cao hơn các ghế khác. Đối diện là ghế của thượng khách. Những chiếc ghế còn lại khắc hình “phụng” hoặc chữ “thọ”. Phòng còn lại được đặt ngang nhau trang trí bởi hai tủ sơn mài “mai lan”, “cúc trúc” thực hiện năm 1966. Những căn phòng của tầng hai là phòng làm việc của Tổng thống và phó Tổng thống lúc bấy giờ.
Tầng ba được thiết kế có phần phóng khoáng hơn phục vụ cho mục đích giải trí, thư giãn và tích lũy tri thức. Bên ngoài đối diện với phần mặt chính diện của tòa nhà là những bàn bi-a cùng chiếc piano khá lớn. Khu trò chuyện uống nước nằm liền kề với phòng chiếu phim và phòng phu nhân Tổng thống tiếp khách. Ở những năm 60 của thế kỷ XX, sự xuất hiện của phòng chiếu phim là một bước tiến của hiện đại, bên cạnh đó là chiếc rèm kéo màu đỏ tự động. Không gian nơi phòng chiếu phim còn là sân khấu biểu diễn nghệ thuật, văn nghệ.
Những bức tranh trừu tượng cũng được đặt tại phòng tiếp khách của phu nhân Tổng thống, điểm nhấn khác biệt ở căn phòng này là những hoa văn mang phần mềm mại và nữ tính hơn những căn phòng khác. Ở bên cạnh đó là thư viện đầy ắp cuốn sách đủ thể loại khác nhau như sách giáo dục, sách chính trị, thống kê, được xếp gọn vào những chiếc tủ gỗ có mặt kính để bảo quản sách. Khu sân thượng là nơi có khoảng trống lớn hòa với thiên nhiên. Có một chiếc trực thăng vẫn nằm nguyên ở một góc sân thượng hiện nay vẫn còn đó, dưới ánh nắng của Sài Gòn trông thật khác biệt.
Và còn nhiều căn phòng khách tại Dinh Độc Lập chờ đợi được tham quan và chiêm ngưỡng. Những căn hầm bí mật nơi có lắp máy lạnh và quạt thông gió, nơi đặt thiết bị tiên tiến. Những chiếc đèn chùm lung linh hiện lên mặt sàn đá hoa cương bóng loáng. Những thiết kế đặc biệt của từng góc của Dinh Độc Lập vẫn còn giữ nguyên vẹn giá trị cho đến tận ngày nay.
Dinh Độc Lập không chỉ là một công trình kiến trúc độc đáo mà đó còn là một minh chứng, chứng nhân lịch sử. Dinh đã cùng đất nước và nhân dân đi qua biết bao thăng trầm của lịch sử Việt Nam. Chính sự kiên cố của Dinh đã để lại cho con cháu muôn đời những bài học quý giá về tình yêu nước và sự kiên cường trong cuộc sống.
Gửi đến bạn 🍃 Thuyết Minh Về Loài Hoa Ngày Tết 🍃 15 Bài Thuyết Minh Hay Nhất