15+ Mẫu Thuyết Minh Về Di Tích Lịch Sử Ở Tiền Giang, Ngắn Hay. Giới Thiệu Tuyển Tập Văn Đặc Sắc Với Cách Viết Sinh Động Và Giàu Hình Ảnh.
Các Di Tích Lịch Sử Ở Tiền Giang Nổi Tiếng
Tiền Giang là một tỉnh có nhiều di tích lịch sử và văn hóa nổi tiếng. Dưới đây là một số di tích lịch sử tiêu biểu ở Tiền Giang:
- Di tích Rạch Gầm – Xoài Mút: Đây là nơi diễn ra trận chiến lịch sử giữa quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ lãnh đạo và quân Xiêm vào năm 1785. Khu di tích này nằm bên bờ sông Tiền và đã được công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia đặc biệt.
- Khu di tích Ấp Bắc: Nơi đây ghi dấu trận chiến thắng Ấp Bắc vào ngày 2/1/1963, một trong những trận đánh lớn nhất ở miền Nam Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ.
- Lăng mộ và đền thờ Trương Định: Trương Định là một anh hùng dân tộc nổi tiếng trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Lăng mộ và đền thờ của ông nằm ở thị xã Gò Công.
- Chùa Vĩnh Tràng: Đây là một ngôi chùa cổ kính và nổi tiếng ở Tiền Giang, được xây dựng vào đầu thế kỷ 19. Chùa có kiến trúc độc đáo, kết hợp giữa phong cách Á Đông và phương Tây.
- Nhà Đốc Phủ Hải: Đây là một ngôi nhà cổ được xây dựng vào cuối thế kỷ 19, mang đậm nét kiến trúc Pháp. Ngôi nhà này từng là nơi ở của Đốc Phủ Hải, một quan chức cao cấp thời Pháp thuộc.
Những di tích này không chỉ mang giá trị lịch sử mà còn là điểm đến hấp dẫn cho du khách khi đến Tiền Giang.
Tặng bạn chùm: Thơ Về Tiền Giang, Mỹ Tho, Chợ Cái Bè Nổi Tiếng
Dàn Ý Thuyết Minh Về Di Tích Lịch Sử Ở Tiền Giang
Tham khảo mẫu Dàn Ý Thuyết Minh Về Di Tích Lịch Sử Ở Tiền Giang giúp các em có thể triển khai bài văn logic và đầy đủ ý.
- Mở bài: Giới thiệu về di tích lịch sử (Đó là di tích lịch sử nào?)
- Thân bài
- Lịch sử hình thành:
- Di tích ấy được hình thành vào thời gian nào? Ở đâu?
- Mục đích xây dựng di tích ấy là gì?
- Giới thiệu khái quát về di tích:
- Vị trí địa lí
- Diện tích
- Cấu trúc
- Giá trị văn hóa, lịch sử
3. Kết bài: Khẳng định lại giá trị của di tích lịch sử ấy.
Xem Thêm Bài 🌹 Thuyết Minh Về Di Tích Lịch Sử ❤️️17 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Giới Thiệu Về Các Di Tích Lịch Sử Ở Tiền Giang – Bài 1
Giới Thiệu Về Các Di Tích Lịch Sử Ở Tiền Giang, cùng tham khảo bài văn giới thiệu về di tích chiến thắng Ấp Bắc nổi tiếng sau đây.
Di tích Chiến thắng Ấp Bắc được Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích cấp Quốc gia năm 1993. Khu di tích tọa lạc tại xã Tân Phú, thị xã Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang.
Đây là nơi diễn ra trận đánh lớn nhất miền Nam kể từ sau Hiệp định Giơ-ne-vơ vào ngày 2-1-1963, báo hiệu sự sụp đổ của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” mà Mỹ áp dụng trong chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Do thất bại nặng nề trong trận đánh, giặc cho pháo và máy bay ném bom vào trận địa Ấp Bắc, làm cháy nhiều nhà dân. Mặc dù vậy, các mẹ, các chị vẫn nấu cơm tiếp tế cho bộ đội. Từ đấy đã vang lên những câu ca dao ca ngợi tấm lòng của người dân Ấp Bắc:
“Bom rơi thì mặc bom rơi
Chị em Ấp Bắc vẫn khơi bếp hồng
Thổi nồi cơm dẻo thơm nồng
Giúp anh bộ đội no lòng đánh hăng”
Đến với khu di tích, du khách sẽ được đi trong quần thể rộng lớn với 2 phân khu chức năng. Khu vực 1 gồm có tượng đài, nhà mộ 3 chiến sĩ gang thép, 3 hồ sen lớn, nhà trưng bày xe tăng, máy bay, công viên với nhiều loại cây kiểng.
Khu vực 2 gồm có nhà trưng bày hiện vật, phía dưới là hồ sen, bên trái là quảng trường và công viên được trồng cây cảnh; phía sau là những mô hình được phục chế tái hiện cảnh dân quân tải thương, nấu cơm, trảng xê, hầm bí mật. Xa xa ngoài cánh đồng rộng lớn là những biểu tượng máy bay, xe tăng địch bị bốc cháy.
Ngày 2-1 hàng năm, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân địa phương long trọng tổ chức lễ kỷ niệm tại khu di tích này.
SCR.VN tặng bạn 💧 Giới Thiệu Về Một Danh Lam Thắng Cảnh 💧 17 Bài Văn Hay
Bài Văn Thuyết Minh Về Di Tích Lịch Sử Ở Tiền Giang – Bài 2
Bài Văn Thuyết Minh Về Di Tích Lịch Sử Ở Tiền Giang hay nhất được SCR.VN chọn lọc và chia sẻ đến bạn đọc sau đây.
Đền thờ Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân có diện tích khoảng 0,5ha, tọa lạc ở ấp Hòa Quới, xã Hòa Tịnh, huyện Chợ Gạo (Tiền Giang), được xây dựng khá khang trang theo lối kiến trúc truyền thống, cách Ủy ban nhân dân xã 500m về phía bắc và quốc lộ 1A 3,5km về phía đông.
Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân sinh năm Canh Dần (1830) tại làng Tịnh Hà, tổng Thanh Quơn, huyện Kiến Hưng, tỉnh Định Tường (nay là xã Mỹ Tịnh An, huyện Chợ Gạo, Tiền Giang). Ông sinh ra trong một gia đình nông dân khá giả trong vùng.
Thuở nhỏ, Nguyễn Hữu Huân nổi tiếng thông minh, học giỏi. Năm 1852, dưới triều vua Tự Đức, ông thi Hương tại Gia Định đậu thủ khoa được bổ làm giáo thọ, tức đốc học, huyện Kiến Hưng, tỉnh Định Tường. Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, ông bỏ chức giáo thọ, từ biệt gia đình, liên kết với các sĩ phu yêu nước, chiêu mộ nghĩa binh đứng lên chống giặc.
Đầu năm 1862, giặc Pháp đánh úp, ông bị bắt và giải về Sài Gòn. Đích thân tên Việt gian Đỗ Hữu Phương (tức tổng đốc Phương) dùng mọi thủ đoạn mua chuộc. Ông từ chối và khôn khéo tìm cách trở lại hoạt động, liên kết với nghĩa quân Trương Định khởi nghĩa. Tháng 6-1863, giặc phát hiện căn cứ hoạt động của ông tại Thuộc Nhiêu, Cai Lậy nên bao vây càn quét.
Ông và Thiên hộ Dương chạy thoát về căn cứ Bảy Núi. Dựa vào điều ước Nhâm Tuất (1862), Pháp gửi tối hậu thư buộc quan tỉnh An Giang nộp Thủ khoa Huân và Thiên hộ Dương. Thiên hộ Dương trốn thoát về căn cứ Đồng Tháp Mười còn Thủ khoa Huân bị bắt (lần hai), bị kết án 10 năm khổ sai và đày ra đảo Réunion.
Sau 7 năm tù, chúng đưa ông về quản thúc tại nhà Đỗ Hữu Phương, cử ông làm giáo thọ, dạy bảo “sinh đồ” ở Chợ Lớn với hi vọng lôi kéo ông về phía chúng. Nhưng ông đã lợi dụng điều kiện dạy học để liên lạc với các sĩ phu yêu nước chuẩn bị khởi nghĩa. Năm 1875, trong một trận giao tranh với giặc, đốc binh Hương bị Trần Bá Lộc mua chuộc dẫn quân về bắt Nguyễn Hữu Huân tại Chợ Gạo ngày 15-5-1875 đem giam ở Mỹ Tho (bị bắt lần ba). Ngày 19-5-1875, giặc đem ông về quê Mỹ Tịnh An hành quyết. Năm ấy ông 45 tuổi.
Sau khi ông mất, để tỏ lòng tôn kính, người dân địa phương đã lập đền thờ cách nơi ông bị xử trảm 100m (ngay Trường tiểu học Mỹ Tịnh An ngày nay). Năm 1995, được sự đồng ý của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Tiền Giang, đền thờ Thủ khoa Huân dời về cạnh mộ ông. Từ đó có tên gọi là đền thờ Thủ khoa Huân.
Khuôn viên khu vực đền thờ được thiết kế như một công viên với các loại hoa kiểng ở địa phương được bố trí hài hòa, đẹp mắt. Ngôi đền được xây dựng theo lối kiến trúc truyền thống. Giữa có bàn thờ, tượng đồng, lư hương và bằng công nhận di tích văn hóa cấp quốc gia.
Về ngôi mộ, lúc đầu được đắp bằng đất, đến năm 1927, con cháu ông và người dân địa phương xây dựng lại bằng đá xanh gồm hai phần: núm mộ và bia mộ. Theo các vị bô lão địa phương, mộ được xây theo kiểu “voi phục” vì trông giống con voi đang nằm áp bụng xuống đất. Nhân dịp xây dựng đền thờ, mộ ông cũng được nâng lên, trùng tu những vẫn giữ nguyên trạng như lúc ban đầu.
Nền mộ là những phiến đá dày 30cm, rộng 40cm, dài 120cm ghép lại với nhau thành nền để đặt núm mộ với diện tích phần nền bằng đá 4,042m2. Núm mộ gồm hai tảng đá xanh có hình dáng mô hai đầu cao 70cm, phần giữa lõm xuống cong như lưng voi, phía trước có hoa văn khắc ô chữ nhật xoáy vòng, phía sau hoa văn là những vòng gợn và uốn xoáy lại ở cuối đã được ghép bằng ximăng theo chiều dài. Bia mộ nối liền với núm mộ gồm ba phần: chân bia, thân bia và mái bia.
Chân bia là một khối đá hình chữ nhật có chạm hoa văn hình lá. Thân bia để viết chữ dày 40cm, cao 72cm, ngang 100cm. Mái che bằng đá xanh cao 32cm, ngang 38cm. Mái che giả ngói chia làm tám rãnh, cuối đầu mỗi rãnh có chạm hoa sen, hai đầu chạm hai con dơi quay mặt ra ngoài trong tư thế đang bay trông rất sinh động. Ngôi mộ tuy không nguy nga, lộng lẫy nhưng đã nói lên được sự tôn kính của người dân địa phương với vị anh hùng dân tộc.
Tại đây, các ngành chức năng đã thành lập ban bảo vệ đền thờ, hằng ngày có người trông nom, chăm sóc khu di tích và đón tiếp khách tham quan. Hằng năm, tỉnh Tiền Giang đều tổ chức lễ giỗ ông vào trung tuần tháng 4 âm lịch. Tưởng nhớ ông, Ủy ban nhân dân tỉnh Tiền Giang đã cho xây dựng một tượng đài lớn trong công viên Lạc Hồng cạnh sông Tiền, ngay trung tâm thành phố Mỹ Tho.
Đền thờ và mộ Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân có giá trị lịch sử văn hóa. Mười lăm năm chống giặc, ba lần khởi nghĩa, ba lần bị bắt, bị đày tận đảo Réunion nhưng ông không nao núng tinh thần cho đến phút cuối cùng. Đó chính là niềm tự hào dân tộc nói chung, của người dân Tiền Giang nói riêng trong cuộc đấu tranh giữ nước.
Chia sẻ 🌼 Thuyết Minh Về Một Danh Lam Thắng Cảnh Ngắn Gọn 🌼 15 Mẫu Hay Nhất
Thuyết Minh Về Di Tích Lịch Sử Ở Tiền Giang Hay – Bài 3
Thuyết Minh Về Di Tích Lịch Sử Ở Tiền Giang Hay để các em có thể học hỏi cách triển khai bài văn logic và cách dùng từ ngữ sáng tạo.
Thời gian gần đây, mô hình du lịch văn hóa tâm linh ở vùng ĐBSCL ngày càng thu hút đông đảo khách tham quan, nghiên cứu. Trong đó, chùa Vĩnh Tràng, ở thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang với những nét kiến trúc độc đáo, cổ kính, phong cảnh đẹp là một trong những điểm đến của du khách trong và ngoài nước.
Chùa Vĩnh Tràng hay còn gọi là Tổ đình Vĩnh Tràng, tọa lạc tại ấp Mỹ An, xã Mỹ Phong, thành phố Mỹ Tho, được ông Bùi Công Đạt – vị quan dưới triều vua Minh Mạng (1820 – 1840) xây dựng từ đầu thế kỷ 19. Kiến trúc của chùa Vĩnh Tràng thuộc dạng độc đáo ở Nam Bộ. Ngôi chùa gồm bốn hạng mục nối tiếp nhau: tiền đường, chánh điện, nhà tổ, nhà hậu với diện tích trên 14.000m².
Hầu hết các vật liệu để xây dựng chùa Vĩnh Tràng là xi măng và gỗ quý, nền đúc cao 1m. Riêng mặt trước của chùa được xây dựng theo lối kiến trúc hài hòa Âu – Á với những hàng cột thanh mảnh, vòm cong và hoa văn nhiều màu sắc. Cổng tam quan với nghệ thuật ghép bằng mảnh sành, sứ qua bàn tay khéo léo của các nghệ nhân xưa đã xếp đặt thành nhiều bức tranh minh họa sự tích nhà Phật, truyện tích dân gian, đề tài tứ linh, tứ quý, hoa lá, mây trời… với sự hòa sắc tuyệt vời như tranh vẽ.
Trong chùa Vĩnh Tràng có trên 60 tượng phật đúc bằng gỗ, đồng, đất nung, xi măng. Tất cả các pho tượng đều được thếp vàng óng ánh. Bên cạnh những pho tượng, hiện vật chùa còn có Đại Hồng Chung mang tên Pháp Bảo. Chuông cao 1,2 mét, nặng khoảng 150 kg và hơn 20 bức tranh sơn thủy rất giá trị.
Bên trong chánh điện và nhà tổ lại mang đậm nét kiến trúc Việt Nam, các hoành phi, tượng gỗ được chạm khắc khéo léo và tinh xảo với những hình ảnh vui tươi và sống động. Không gian bên trong chùa là nơi tập trung nhiều tác phẩm mỹ thuật của các thế hệ nghệ nhân khắp ba miền Bắc, Trung, Nam. Tại chùa còn có Bộ tượng mười tám vị La Hán không thua kém về mặt nghệ thuật so với tượng các vị La Hán chùa Tây Phương.
Gần đây, Ban Trị sự Phật Giáo tỉnh Tiền Giang, Ban trụ trì chùa Vĩnh Tràng còn sử dụng nguồn kinh phí từ phật tử, khách thập phương ủng hộ trên 80 tỷ đồng để tiếp tục trùng tu, sửa chữa ngôi cổ tự này. Trong đó, có nhiều hạng mục được xây mới như: Công viên Di Đà trước cổng chùa rộng 3.000m2; pho tượng phật Di Đà cao 24m.
Trong khuôn viên chùa có tượng Phật Di Lặc trong tư thế ngồi giữa công viên, có chiều dài 27m, chiều rộng 18 m, cao 20m và nặng khoảng 250.000kg bằng chất liệu bê tông, cốt thép. Bên trong pho tượng này được tận dụng thiết kế cơ quan làm việc của Ban Trị Sự Phật Giáo tỉnh Tiền Giang, có giảng đường, nơi nghỉ phục vụ cho 200 người.
Phía sau chùa là Đài Quan Âm với pho tượng Phật Quan Âm trong tư thế nằm. Ngoài ra, chùa còn có nhiều hạng mục mới đầu tư xây dựng như: Quảng trường, hồ nước, hệ thống đèn chiếu sang, bồn hoa, cây xanh, sân bãi… rất trang nhã, sạch đẹp.
Hòa thượng Thích Huệ Minh, Trưởng Ban Trị sự Hội Phật Giáo tỉnh Tiền Giang kiêm trụ trì chùa Vĩnh Tràng cho biết, việc chỉnh trang, nâng cấp mở rộng quần thể chùa Vĩnh Tràng không chỉ để phục vụ cho việc tu học, sinh hoạt Phật giáo của chư công đức, tăng ni và đồng bào phật tử, phục vụ khách tham quan mà còn góp phần làm cho thành phố Mỹ Tho xứng tầm là đô thị loại I.
Du lịch tiền giangTrong 2 cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, chùa Vĩnh Tràng còn là nơi che giấu, nuôi dưỡng các chiến sĩ cách mạng. Dù địch phát hiện và nhiều lần tàn phá nhưng vẫn không thể làm hư hỏng được ngôi cổ tự. Qua các đời trụ trì, ngôi chùa được trùng tu, sửa chữa, nâng cấp và trở thành ngôi cổ tự hoành tránh nhất tỉnh Tiền Giang.
Năm 1984, Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch công nhận chùa Vĩnh Tràng là tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia. Năm 2007 Trung tâm Sách Kỷ lục Việt Nam đã xác lập kỷ lục “Chùa Vĩnh Tràng – ngôi chùa Việt.”
Chính những nét độc đáo đó, nên ngôi cổ tự này ngày càng thu hút nhiều du khách đến tham quan, nghiên cứu và thắp hương. Mỗi ngày, chùa đón tiếp gần 1.000 khách tham quan; trong đó có khoảng 300 khách quốc tế. Vào những ngày rằm, ngày Tết thì du khách tăng lên đột biến. Đây cũng là một trong những điểm viếng thăm không thể thiếu được trong các tour, tuyến du lịch của các công ty lữ hành.
Để phục vụ du khách, chùa Vĩnh Tràng mở cửa tất cả các ngày trong tuần. Các chư tăng, chức sắc trong chùa đều thay nhau trực tiếp khách, sẵn sàng thuyết minh, hướng dẫn khi du khách cần.
Hiện nay, chùa Vĩnh Tràng vẫn đang tiếp tục đầu tư, xây dựng một số công trình để phục vụ cho công tác Phật sự và nhu cầu tham quan, nghiên cứu của du khách như: Giảng đường, Bảo Tháp,Cổng, hàng rào…
Chia Sẻ: Ca Dao Tục Ngữ Về Tiền Giang
Thuyết Minh Về Di Tích Lịch Sử Ở Tiền Giang Ngắn Gọn – Bài 4
Thuyết Minh Về Di Tích Lịch Sử Ở Tiền Giang Ngắn Gọn và súc tích giúp các em có thể học hỏi và rèn luyện kĩ năng viết.
Đình Long Trung trước đây Đình được gọi là Mỹ Đông Trung Đình.
Đình được lập cạnh Rạch Ông Bảo, tại khu phố chợ Ba Dừa, thuộc ấp 17 xã Long Trung, huyện Cai Lậy vào khoảng cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19 để thờ cúng các vị thần Thành Hoàng cùng những người có công khai khẩn đất hoang lập làng.
Đình Long Trung thuộc loại hình kiến trúc nghệ thuật cổ, có giá trị về lịch sử. Theo sắc phong của Triều Nguyễn vào năm 1811 (thời vua Thiệu Trị) phong cho Thần làng Mỹ Đông Trung là Thượng Đẳng Thần, gồm có 6 lá sắc thần, 03 lá Đại Càn thờ ở Miếu, 03 lá thờ ở đình.
Đình còn lưu giữ nhiều di sản văn hoá vật thể và phi vật thể rất độc đáo ở Tiền Giang.
Mỗi năm đình có 03 lần cúng vào các ngày 12/01; 16-17/11 và 12/12 (AL). Lần cúng vào ngày 16-17/11 là lệ cúng Kỳ Yên. Đây là lần cúng quan trọng và lớn nhất ở Đình Long Trung.
Đình Long Trung được Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật năm 1999.
Đọc Thêm Bài: Thuyết Minh Về Danh Lam Thắng Cảnh Ở Tiền Giang
Văn Mẫu Thuyết Minh Về Di Tích Lịch Sử Ở Tiền Giang – Bài 5
Văn Mẫu Thuyết Minh Về Di Tích Lịch Sử Ở Tiền Giang là tài liệu tham khảo hữu ích để trau dồi thêm kiến thức lịch sử cho mình.
Lăng Tứ Kiệt đã được Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ VH-TT&DL) công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Đây là niềm vui lớn của nhân dân trong huyện Cai Lậy trước đây (nay là thị xã Cai Lậy) đối với một di tích gắn liền với truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm vào giữa thế kỷ XIX.
Nằm ở trung tâm thị xã Cai Lậy, với cổng nhìn ra đường 30-4, lăng Tứ Kiệt đã được trùng tu, xây dựng lại theo kiến trúc truyền thống chia làm 2 khu vực rõ rệt: chính tẩm và nhà mộ.
Chính tẩm được thiết kế theo lối thờ phụng có bàn thờ, lư hương, đôi hạc; chính giữa có bằng công nhận di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia và bài vị, tạo nét nghiêm trang.
Phía sau là nhà mộ có 4 ngôi mộ tượng trưng dán gạch tráng men khá tươm tất. Khuôn viên quanh lăng được tôn tạo, bố trí thêm các loại kiểng quý lúc nào cũng được cắt tỉa cẩn thận, tạo nên nét hài hòa với cảnh quan chung quanh.
Du khách đến tham quan sẽ hài lòng với khung cảnh và càng thích thú hơn khi được nghe về lai lịch của di tích này.
Nhân viên thuyết minh sẽ đưa du khách trở về những năm đầu khi thực dân Pháp xâm lược nước ta. Tứ Kiệt (hay Bốn ông) là cách gọi tôn kính của nhân dân đối với 4 vị anh hùng đã lãnh đạo nhân dân chống Pháp từ năm 1868 đến năm 1870. Đó là các ông: Trần Công Thận, Nguyễn Thanh Long, Ngô Tấn Đước và Trương Văn Rộng.
Sau khi giặc Pháp hạ thành Mỹ Tho và chiếm toàn bộ tỉnh Định Tường (năm 1861), Bốn ông tham gia cuộc khởi nghĩa do Thiên Hộ Dương khởi xướng và lãnh đạo, góp phần cùng nghĩa quân tạo nên những chiến thắng oai hùng.
Căn cứ Đồng Tháp Mười bị vỡ, Bốn ông về Cai Lậy chiêu mộ nghĩa quân tiếp tục phất cao cờ khởi nghĩa. Trong hàng loạt những chiến công của nghĩa quân Tứ Kiệt, cuộc tấn công vào thành Mỹ Tho và thiêu hủy đồn Cai Lậy có thể xem là 2 chiến công chói lọi nhất.
Sau 2 năm hoạt động gây cho giặc nhiều tổn thất, cuộc khởi nghĩa Tứ Kiệt đành chịu thất bại trước sự bao vây và đàn áp tổng lực của Pháp. Bốn ông cùng 150 nghĩa quân bị bắt. Bọn chúng đem vinh hoa phú quý ra dụ dỗ các ông trong nhiều ngày nhưng không thành.
Ngày 14-2-1871 (nhằm ngày 25 tháng Chạp năm Canh Ngọ), giặc đưa Bốn ông ra pháp trường xử trảm, bêu đầu ở chợ Cai Lậy nhằm uy hiếp tinh thần của dân chúng, sau đó vùi dập ở bến sông cạnh chợ. Thân nhân mang thân mình các ông về quê nhà, gắn chiếc đầu giả làm bằng đất sét vào chôn cất.
Cảm kích 4 vị anh hùng, nhân dân Cai Lậy đã bí mật mang chôn thủ cấp của Bốn ông và đắp mộ, hương khói trang nghiêm. Ở làng Mỹ Trang, ông Nhiêu học Đặng Văn Ngưu dựng trước nhà 1 ngôi miếu thờ ngay khu đất giặc bêu đầu Bốn ông. Ngôi miếu lợp ngói âm dương và để che mắt chính quyền thực dân, người ta gọi đó là chùa Ông ( vì phía trước lập bàn thờ Quan Công tượng trưng cho trung nghĩa), còn phía sau lập bài vị khắc 4 chữ Tứ vị thần hồn sơn son thiếp vàng rực rỡ (nên có người gọi là Miếu cô hồn).
Mặc dù vậy nhưng ai ai cũng biết đó là miếu thờ Tứ Kiệt. Trận bão năm Giáp Thìn (1904) làm ngôi miếu đổ sập. Ông Nhiêu dời ngôi miếu về làng Thanh Sơn (trước thuộc xã Thanh Hòa nay là thị trấn Cai Lậy). Hiện ngôi miếu tọa lạc tại KP.1, thị trấn Cai Lậy, cách lăng hơn trăm mét. Còn ngôi mộ nơi chôn 4 thủ cấp từ năm 1871 được đắp bằng đất, xung quanh có hàng rào bằng cau sơn vôi trắng. Gần đó có cây còng cổ thụ tỏa bóng mát tạo bầu không khí linh thiêng.
Vào những năm 30 của thế kỷ trước, người ta đồn rằng: Những đêm thanh vắng ở khu mộ Bốn ông có tiếng quân reo, ngựa hí. Huyền thoại về Bốn ông được lan truyền khắp vùng. Năm 1938, trong đội lính mã tà có ông Đội Lung vì cảm mộ tấm lòng trung nghĩa của Bốn ông nên thuê thợ làm tấm bia đá đặt tại đầu mộ. Bia khắc dòng chữ “Đại Nam Mỹ Tho tỉnh, Thanh Hòa thôn, tứ vị cựu quan chi mộ”.
Mãi đến năm 1954, quận trưởng Lê Văn Thai đồng ý cho nhân dân xây dựng lại ngôi miếu và 4 ngôi mộ tượng trưng bằng xi măng song song và gần sát nhau, xung quanh có hàng rào sắt kiên cố ngay trên nấm đất cũ. Khu vực này gọi là lăng Tứ Kiệt. Năm 1967, nhân dân Cai Lậy tiến hành trùng tu ngôi miếu và khu mộ Bốn ông quy mô hơn, trong có miếu thờ, ngoài có nhà khách. Tại lăng có Ban Quí tế lo việc trùng tu cúng bái.
Hàng năm, vào ngày 25 tháng Chạp âm lịch, nhân dân Cai Lậy tụ tập đông đúc về đây tảo mộ và làm giỗ rất trang trọng, thành kính tưởng nhớ đến Bốn ông vì nước quên mình, vì dân giết giặc, nêu tấm gương sáng ngời cho hậu thế. Nghi thức tế lễ theo lối cổ truyền có sự cố vấn của ông Trương Ngọc Tường – nhà nghiên cứu về Nam bộ, quê ở Cai Lậy.
Năm 1998, Sở Văn hóa – Thông tin Tiền Giang kết hợp UBND huyện Cai Lậy dành ra một ngân khoản đáng kể để trùng tu toàn diện khu lăng mộ Tứ Kiệt, tương xứng với tầm vóc và khí phách anh hùng của Bốn ông đúng như hai câu đối được chạm khắc tại cổng:
Tứ vị anh hùng vị quốc hy sinh vĩnh niệm
Kiệt nhân nghĩa cử tinh thần bất khuất lưu tồn.
Nhân kỷ niệm 128 năm ngày Bốn ông hy sinh, lăng được khánh thành. Từ đó đến nay, đông đảo nhân dân khắp nơi đến viếng và thắp hương tưởng niệm người đã khuất. Đến thăm lăng Tứ Kiệt, chắc chắn du khách sẽ hiểu thêm tấm lòng của người dân địa phương với Bốn ông – những người đã góp phần điểm tô cho 4 chữ vàng Địa Linh Nhân Kiệt của Tiền Giang luôn ngời sáng.
Chia Sẻ Bài 💧 Thuyết Minh Về Khu Di Tích Lịch Sử Pác Bó ❤️️15 Bài Hay Nhất
Thuyết Minh Về Di Tích Lịch Sử Ở Tiền Giang Chi Tiết – Bài 6
Thuyết Minh Về Di Tích Lịch Sử Ở Tiền Giang Chi Tiết, cùng đón đọc bài văn hay giới thiệu về đình Điều Hòa nổi tiếng sau đây.
Di tích tọa lạc tại số 101, đường Trịnh Hoài Đức, phường 2, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang. Đình Điều Hòa là một công trình kiến trúc nghệ thuật có quy mô xây dựng lớn, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc được thể hiện qua cấu trúc xây dựng và các mảng chạm khắc trang trí bên trong.
Đây là nơi tập trung và bảo tồn nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của Tiền Giang. Hiện trong đình còn lưu giữ, bảo quản các sưu tập lư, đỉnh đồng, sưu tập binh khí thờ, và nhiều cổ vật gốm sứ của Trung Quốc thế kỷ XVIII – XIX. Đặc biệt là nghi thức hành lễ cúng bái trong đình có từ các thế kỷ trước vẫn còn lưu lại cho đến nay.
Trải qua hơn 200 năm tồn tại và qua nhiều lần tu bổ, đình Điều Hòa vẫn còn giữ đuợc dáng vẻ ban đầu, trông rất khang trang và còn sử dụng được lâu dài.
Nơi đây, hàng năm tổ chức lễ hội Kỳ Yên vào 16-17-18 tháng 02 và 16-17-18 tháng 10 âm lịch. Di tích đình Điều Hòa được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xem xét công nhận di tích cấp quốc gia năm 2009.
Đón Đọc Bài ⏩ Thuyết Minh Về Sóc Trăng ❤️️ 15 Bài Giới Thiệu Sóc Trăng Hay
Thuyết Minh Về Di Tích Lịch Sử Ở Tiền Giang Hay Nhất – Bài 7
Thuyết Minh Về Di Tích Lịch Sử Ở Tiền Giang Hay Nhất được SCR.VN chọn lọc và giới thiệu rộng rãi đến các bạn đọc sau đây.
Chùa Bửu Lâm tọa lạc tại đường Nguyễn Văn Giác, phường 3, TP Mỹ Tho là một trong những cổ tự tiêu biểu nhất của thế kỷ XIX ở Tiền Giang nói riêng và của đồng bằng sông Cửu Long nói chung. Du lịch Tiền Giang, dường như ai cũng muốn hành hương đến ngôi chùa trên 200 năm tuổi để chiêm ngưỡng kiến trúc xưa cũng như ngắm những pho tượng quý… và cầu nguyện sự yên lành, hạnh phúc cho mình cùng những người thân.
Chùa nằm tại trung tâm thành phố Mỹ Tho nên đường đi rất thuận tiện. Từ ngã ba Trung Lương du khách đi vào TP. Mỹ Tho đi thẳng trên đường Ấp Bắc khoảng 4km, qua cầu Nguyễn Trải 30m nhìn trái là tới.
Tương truyền, khoảng đầu thế kỷ XVIII, Chúa Nguyễn di dân từ các tỉnh miền Trung vào miền Nam khai khẩn đất hoang để lập làng định cư, sinh sống. Trong số những người dân đó, có ni cô mộ đạo, có tài lương y đã đến xóm Dầu lập am nhỏ để tu niệm và trồng cây thuốc chữa bệnh cho nhân dân quanh vùng.
Với tinh thần từ bi, cứu khổ, danh tiếng ni cô được đồn xa, bá tánh đến cúng dường ngày một đông. Nhờ thế, ni cô cất được ngôi chùa khá khang trang vào khoảng năm 1742 (đời Chúa Nguyễn Phúc Khoát). Sau khi ni cô viên tịch chùa trở nên vắng vẻ. Năm Gia Long thứ 2 (1803) bà Phạm Thị Đạt một Phật tử giàu có và mộ đạo nhất trong vùng sang Bến Tre vào chùa Hội Tôn đãnh lễ.
Hoà Thượng Tổ Trí-Khánh Hưng cho đệ tử là ngài Tiên Thiện, pháp danh Từ Lâm về làm trụ trì chùa, nhờ vào sự cúng dường của bà Phạm Thị Đạt, hoà thượng Tiên Thiện đã cất mới ngôi chùa rộng lớn bằng gỗ căm xe và đã đặt tên chùa là “Bửu Lâm” với ước muốn bảo tồn và phát triển dòng Lâm Tế Chánh Tông. Từ năm 1803 đến nay, chùa đã qua nhiều lần trùng tu, nhưng vẫn giữ được nét đẹp cổ kính xưa.
Cổng tam quan chùa Bửu Lâm được xây dựng hình cổ lâu. Tầng trên trang trí nhiều hoa văn rồng phượng và những câu đối ý nghĩa thâm trầm. Tầng dưới có 3 cửa ra vào, ngụ ý là 3 cửa đạo Không môn, Vô tướng và Giải thoát môn.
Đi vào bên trong, sân chùa rộng rãi, những cây sao cổ thụ cao chót vót, vượt lên hàng trăm loại hoa kiểng đủ sắc đủ màu khiến không gian vô cùng thoáng mát.
Xen vào đó, là vườn Lâm Tì Ni, tái hiện nơi đức Phật giáng sanh; những hình tượng tái hiện lúc Thái tử Tất Đạt Ta lìa bỏ cung điện, khi Phật đắc đạo; tất cả vô cùng trang nghiêm. Có tượng Bồ Tát Địa Tạng, tượng đức Quan Thế Âm cao vợi, toát ngời dung quang hết sức từ bi. Đáng kể nhất là tượng đức Thế Tôn khi ngài nhập diệt.
Hiện nay chùa Bửu Lâm thờ phong cách Phật giáo Bắc truyền dòng Lâm Tế Chánh Tông ở Nam bộ. Được xây dựng theo kiểu Nội công ngoại quốc gồm 3 phần: Tiền đường, Chánh điện và hậu Tổ, tất cả nằm trên nền cao 1m, có diện tích 987m2.
Mái lợp ngói hình vảy cá gồm 2 lớp mái cách khoảng. Mặt dựng được trang trí hoa văn rất đẹp. Các gian nhà rộng thoáng, được thiết kế công phu, tỉ mỉ, vững chắc với hệ thống cột kèo, và các hình chạm khắc trên tường, trên khung, trên cột,…
Bên trong chánh điện luôn tỏa ra ánh sáng màu diệu nơi đất Phật, cảm hóa bao nỗi bi thương của nhiều phật tử khi đến đây. Trên bệ thờ của ngôi Chánh điện là Tôn tượng Phật A Di Đà ngồi, gương mặt nhân hậu, xung quanh còn có các pho tượng Phật, Bồ Tát, La Hán lớn nhỏ làm bằng nhiều loại vật liệu với dáng vẻ khác nhau.
Gian Chánh điện được trang trí 9 bộ bao lam với những họa tiết và đường nét tinh xảo. Bộ bao lam trước bàn thờ chánh điện chạm lộng công phu với bộ “Cửu Long phún thủy” và đôi long trụ “Cá hóa rồng” sơn son thếp vàng óng ánh. Các bộ bao lam còn lại được chạm khắc mai điểu, song phụng chầu cuốn thư, mẫu đơn, chim trĩ và các họa tiết tứ linh, tứ quí, sen …
Bên cạnh đó, nghệ thuật chạm khắc gỗ còn được thể hiện trên 12 tấm hoành phi nền là một tấm gỗ dày 20cm, trên chạm 2 đến 3 lớp với hoa văn được thể hiện công phu, sinh động, xung quanh chạm tứ linh, lưỡng long tranh châu … Đó là những tác phẩm khắc chữ nổi rất độc đáo, thực hiện bởi các đôi tay tài hoa, khéo léo của những nghệ nhân chạm trổ cách đây trên 100 năm.
Cũng như bao ngôi chùa khác, chùa Bửu Lâm cổ tự được trang trí những câu đối trên cột hoặc trên khánh thờ, ở các bàn thờ, các tấm liễn hoặc đôi long trụ. Nội dung câu đối toát lên triết lý nhà Phật và ca ngợi công đức của các vị hòa thượng. Tất cả sơn son thếp vàng óng ánh hoặc khảm ốc xà cừ làm cho uy nghiêm, rực rỡ nơi thờ phụng. Ngoài ra, chùa còn có những tượng Phật cổ có niên đại thế kỷ XVIII – XIX cùng hàng trăm di vật quí hiếm khác.
Chùa Bửu Lâm còn là cơ sở cách mạng vững chắc của Thị ủy Mỹ Tho trong hai cuộc kháng chiến vệ quốc. Từ năm 1926 đến năm 1945, chùa Bửu Lâm là nơi tụ họp của các nhà yêu nước, trong đó có các cụ Nguyễn Sinh Sắc (thân sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh), Phan Chu Trinh, Mai Bạch Ngọc, Nguyễn Văn Nguyễn, Xích Hồng v.v…Chùa cũng là nơi thành lập chi bộ Xóm Dầu, một trong những chi bộ Đảng đầu tiên của tỉnh Tiền Giang, vào những năm 1930.
Trong chùa, tại chánh điện có một tủ thờ Hộ pháp, rộng 2m x 3,5m có thể chứa được từ 6 – 10 người, nhờ vậy trong nhiều năm, chi bộ hoạt động nhưng không hề bị lộ. Năm 1945 chiếc đại hồng chung trong chùa được hòa thượng hiến cho cách mạng để sản xuất vũ khí, góp phần vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta. Ngày 13/9/1999 chùa Bửu Lâm được Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích cấp quốc gia.
Tham Khảo Bài 💧 Thuyết Minh Về Khu Di Tích Lịch Sử Tân Trào ❤️️ 15 Bài Hay
Bài Văn Thuyết Minh Về Di Tích Lịch Sử Ở Tiền Giang Đặc Sắc – Bài 8
Bài Văn Thuyết Minh Về Di Tích Lịch Sử Ở Tiền Giang Đặc Sắc sẽ mang đến cho các bạn đọc thêm nhiều ý tưởng mới thú vị để làm bài văn của mình.
Chùa Vĩnh Tràng là ngôi chùa thờ phật lớn nhất tỉnh Tiền Giang, được xếp hạng di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia năm 1984. Chùa bắt đầu được xây dựng từ đầu thế kỉ 19 bởi ông bà Bùi Công Đạt. Năm 1894, Hòa thượng Thích Huệ Đăng ở chùa Giác Lâm (Gia Định) về trụ trì đã tổ chức xây dựng thành ngôi đại tự và đặt tên là chùa Vĩnh Trường với ngụ ý ước cho chùa được “Vĩnh cửu đối sơn hà, trường tồn tề thiên địa”. Chính vì vậy, người dân vùng lân cận đến nay vẫn quen gọi là chùa Vĩnh Tràng.
Năm 1907, Hòa thượng Trà Chánh Hậu cho sửa chữa phần chánh điện, pha trộn cả nét kiến trúc Á – Âu. Năm 1930, Hòa thượng Minh Đằng cho trùng tu toàn diện để chùa có diện mạo như ngày hôm nay.
Là ngôi chùa có lối kiến trúc độc đáo nhất Nam bộ, điểm nhấn của chùa Vĩnh Tràng là cổng tam quan với nghệ thuật ghép mảnh sành, sứ. Từ màu sắc của các loại sành sứ, những nghệ nhân xưa đã khéo léo xếp đặt thành nhiều bức tranh minh họa sự tích nhà Phật, truyện tích dân gian, đề tài tứ linh, tứ quý, hoa lá, mây trời… với sự hòa sắc tuyệt vời như tranh vẽ. Các bức thủ quyển mềm mại ghi những câu Phật hiệu bằng nét chữ điêu luyện: Trấn tịnh sơn môn, Quảng đại nguyện môn, Tịnh độ huyền môn…
Gồm có bốn hạng mục nối tiếp nhau (tiền đường, chánh điện, nhà tổ, nhà hậu), ngôi chùa có diện tích 14.000m², dài 70m, rộng 20m, xây bằng xi măng và gỗ quý, nền đúc cao 1m, xung quanh xây tường vững chắc. Riêng mặt trước của tiền đường thì được xây dựng theo lối kiến trúc hài hòa Âu – Á với những hàng cột thanh mảnh, vòm cong và hoa văn nhiều màu sắc.
Đi vào bên trong ta sẽ thấy một màu vàng óng ánh được thếp trên các hình chạm, trên các tượng phật. Đáng chú ý hơn cả là những đôi long trụ trong ngôi chính điện, đó là những cây cột tròn to, bằng gỗ quý kiến trúc theo kiểu “thượng thu hạ cách”.
Nhìn từ xa du khách sẽ có cảm tưởng chùa như một ngôi nhà mang phong cách kiến trúc Châu Âu với những hàng cột thanh mảnh vòm cong, với bộ phù điêu bát tiên cưỡi thú cùng hoa văn thời phục hưng, vòm cửa kiểu La Mã, bông sắt của Pháp, gạch men của Nhật. Bên trong chánh điện và nhà tổ lại mang đậm nét kiến trúc Việt Nam, các hoành phi, tượng gỗ được chạm khắc rất khéo léo và tinh xảo với những hình ảnh vui tươi và sống động.
Không gian bên trong chùa là nơi tập trung nhiều tác phẩm mỹ thuật của các thế hệ nghệ nhân khắp ba miền Bắc, Trung, Nam. Chẳng hạn như giữa lòng cột cái là bộ bao lam bát tiên kỵ thú. Tác phẩm này ra đời vào khoảng năm 1907 – 1908 do những nghệ nhân tại địa phương thực hiện. So với các bộ bao lam xung quanh, bộ này có niên đại sớm hơn, nhưng đạt trình độ mỹ thuật cao hơn. Đây là một bức phù điêu hiếm có của những năm đầu thế kỷ 20, chứng tỏ nghệ thuật tạo hình ở Nam bộ phát triển khá sớm.
Bốn cột cái của chùa Vĩnh Tràng đều treo long trụ. Đôi phía ngoài chạm tứ linh do bà Lê Thị Ngởi ở Ba Tri (Bến Tre) hiến cúng vào năm 1909. Nét đặc biệt là đôi long trụ này có lối sắp xếp bố cục độc đáo có một không hai: chạm chim phượng đứng trên đầu rồng. Có thể nói toàn bộ cái đẹp của chùa Vĩnh Tràng đều tập trung vào nghệ thuật tạo hình, trong đó phần tượng chiếm đa số.
Đặc biệt, tại chùa còn có Bộ tượng mười tám vị La Hán không thua kém về mặt nghệ thuật so với tượng các vị La Hán chùa Tây Phương. 18 bức tượng này nằm ở hai bên tường chánh điện, được tạc từ gỗ mít, mỗi tượng cao khoảng 0,8m, bề ngang gối là 0,58m. Các vị La Hán đều cưỡi thú, trên tay cầm bửu bối.
Lối đặc tả của nhóm tượng này cũng mang dáng dấp riêng, rất Nam bộ, nhưng lại thành công trong việc mô tả cảm xúc đặc trưng của từng vị La Hán, chứng tỏ ngoài tay nghề, tác giả còn khá am tường giáo lý nhà Phật. Nhà nghiên cứu Trương Ngọc Tường xác định những pho tượng đẹp nhất của chùa này là do thầy trò nghệ nhân Tài Công Nguyên thực hiện khoảng đầu thế kỷ 20.
To nhất là tượng Di Đà do ông Tống Hữu Trung ở Vĩnh Long hiến cúng. Ngoài ra còn có tượng Hộ Pháp khuyến thiện trừng ác… Tất cả thể hiện đỉnh cao của nghệ thuật tạc tượng tròn khu vực đồng bằng sông Cửu Long.
Xung quanh chùa là những vườn cây cảnh trồng nhiều loại hoa thơm cỏ lạ, những hồ nước thơm ngát hương sen và những cây cổ thụ che trùm bóng mát, tạo nên sự hài hòa tuyệt vời giữa khung cảnh thiên nhiên với không gian kiến trúc, khiến chùa thêm cổ kính, thâm nghiêm. Nổi bật giữa hoa viên là pho tượng phật Di Đà cao 24m (bệ 6m, tượng 18m). Tượng màu trắng, diễn tả Phật đang đứng trông nom chúng sinh các cõi. Tượng Phật được nhiều người địa phương cho là biểu tượng của ngôi chùa hiện nay.
Cách trung tâm thành phố Hồ Chí Minh khoảng 80km, Vĩnh Tràng được xem là ngôi chùa cổ danh tiếng và là một công trình kiến trúc đặc sắc. Có thể nói rằng vẻ đẹp của chùa tập trung ở nghệ thuật tạo hình và cũng chính là sự phản ánh lịch sử mỹ thuật của mảnh đất Tiền Giang. Ngày nay, chùa đã trở thành điểm du lịch không thể bỏ qua của những du khách trong nước cũng như nước ngoài khi có dịp đến tham quan thành phố Mỹ Tho. Hơn thế nữa còn là nơi nghiên cứu tìm hiểu của nhiều người khi đến tham quan ngôi chùa ấn tượng này.
Giới Thiệu Bài 💧 Thuyết Minh Về Quảng Ngãi ❤️️16 Bài Giới Thiệu Quảng Ngãi
Thuyết Minh Về Di Tích Lịch Sử Ở Tiền Giang Ấn Tượng – Bài 9
Bài văn Thuyết Minh Về Di Tích Lịch Sử Ở Tiền Giang Ấn Tượng được SCR.VN chọn lọc và giới thiệu đến bạn đọc sau đây.
Di tích Gò Thành thuộc ấp Tân Thành, xã Tân Thuận Bình, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang, cách chợ Ông Văn, xã Đăng Hưng Phước chừng 200 m. Những người Việt đầu tiên đến khai phá vùng đất này; thấy trên gò có nhiều gạch, cho đó là vết tích của một thành xưa nên đặt tên là Gò Thành. Cổng Khu di tích Gò Thành có kiến trúc theo phong cách Hindu khá ấn tượng. Bạn sẽ thấy các bảng chỉ dẫn, giới thiệu sơ lược về khu di tích này khắc hai bên cổng.
Trong các năm 1988-1990, Bảo tàng Tiền Giang kết hợp với Trung tâm Khảo cổ học (thuộc Viện KHXH Quốc gia) tiến hành liên tục 3 lần khai quật, khảo sát di tích này. Tham quan khu di tích, bạn sẽ tận mắt thấy toàn bộ hiện trường nơi khai quật là một khu đất rộng có chứa rất nhiều di tích cổ xưa nằm dưới giồng đất cát pha sét sâu từ 2-3 m, trong một gò đất rộng hơn 1 ha.
Sau các lần khai quật, các nhà khảo cổ đã gặp nhiều mảnh gốm cổ bị vỡ; nhiều vòi bình; nhiều di cốt trâu bò, heo và xương cá; nhiều dấu vết tro, than, vỏ trái cây, lá dừa nước; cùng với vài cọc gỗ có dấu vết đục đẻo. Dưới độ sâu từ 1,5-3 m, ở khu vực gò cao, là dấu tích khá rõ ràng của những đền tháp bằng gạch được xây dựng cạnh nhau, hiện chỉ còn phần nền. Nền tháp được xây dựng kiên cố với những lớp gạch nung. Có những hố giếng hình vuông, ở giữa có ốc đảo với nhiều kích thước.
Phía đáy hố, người ta đôi lúc gặp các mảnh vàng hình vuông hoặc hình tròn cắt hình cánh sen, có khắc thú vật, thường là hình đầu mặt voi, một ít tro. Người ta cho đây có thể là những bệ thờ hoặc mộ táng của người Phù Nam. Có 12 hố và mộ với dạng hình giếng nằm rải rác trong khu di tích đã khai quật.
Theo các tài liệu khảo cổ học đã công bố, có đến hơn 100 hiện vật bằng vàng còn nguyên dạng, một số khác bị vỡ tìm thấy được ở khu di tích, trong đó có vòng đeo tay, hạt chuỗi, hình bông mai, hình tứ giác, hình đầu mặt voi… Các hiện vật trưng bày hầu như còn khá nguyên dạng.
Các nhà khảo cổ đã phân tích một số mẫu vật qua phương pháp phóng xạ C14 (Cacbon 14), họ kết luận khu di tích khảo cổ Gò Thành có niên đại từ thế kỷ 4 đến thế kỷ 8 sau Công nguyên. Đây là một khu di tích còn lưu giữ khá nguyên vẹn và phong phú về nhiều loại hình di chỉ, nhất là di chỉ kiến trúc với nhiều đền tháp có quy mô khác nhau, rất hoành tráng và ấn tượng, tuy chỉ còn phần nền.
Qua thư tịch cổ và các di chỉ cho thấy, Phù Nam thời ấy là một vương quốc thuộc vào loại hùng mạnh nhất ở Đông Nam Á, có những thương cảng lớn, giao thương với nhiều quốc gia. Phù Nam có cơ cấu xã hội giống như các nước Nam Á, lấy Thần quyền và Vương quyền làm nền tảng. Người Phù Nam theo Ấn Độ giáo và thờ rất nhiều thần.
Trong khu nhà trưng bày, ta sẽ gặp tượng thần Vishnu còn nguyên dạng, 1 tượng nữ thần và 1 tượng nam thần đều chỉ còn phần thân nhưng trông rất đầy đặn những nét sinh phồn thực; ở đây còn có cả mô hình sinh thực khí nữ, nam riêng biệt và sự kết hợp của cả hai, thể hiện nguồn gốc phát triển, sinh tồn của nhân loại.
Trong khuôn viên của Khu di tích Gò Thành còn có một ngôi chùa cổ tên Phước Lâm Tự. Chùa này được tu bổ lại dưới thời vua Duy Tân (1906). Ngoài ra, còn có một ngôi đình hoành tráng mới được tôn tạo lại trên nền đất Gò Thành. Được biết, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã công nhận di tích khảo cổ Gò Thành là “Di tích lịch sử văn hóa Quốc gia” vào ngày 12/12/1994.
Đọc Thêm Bài 💧 Thuyết Minh Về Quảng Ninh ❤️️15 Bài Giới Thiệu Quảng Ninh
Thuyết Minh Về Di Tích Lịch Sử Ở Tiền Giang Bến Đò Phú Mỹ – Bài 10
Thuyết Minh Về Di Tích Lịch Sử Ở Tiền Giang Bến Đò Phú Mỹ, một trong những điểm đến không nên bỏ qua.
Di tích Bến đò Phú Mỹ thuộc xã Phú Mỹ, huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang.
Là di tích lịch sử Cách mạng – nơi ghi dấu tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân ta vào những năm 1945 – 1947 trong giai đoạn Pháp trở lại xâm lược nước ta.
Đồng bào ở đây đã chứng kiến những tội ác cực kỳ man rợ của giặc Pháp, nổi cộm nhất là tên giặc Pháp có biệt danh là “Tây Búa” do trong người nó lúc nào cũng có lận một cây búa nhỏ làm biểu tượng thị uy trang sức của nó. Chúng đã dùng búa chặt đầu những đồng chí, những người dân nghèo khó mà chúng tình nghi có quan hệ kháng chiến hoặc không chịu vào lính Cao Đài rồi bêu trên các cọc tre, treo cổ, xỏ xâu vào bàn tay từng xâu đem bắn, có trường hợp chúng đeo đá vào cổ rồi xô xuống kinh gọi là đi “mò tôm”…
Đã hơn 60 năm qua, nhưng mỗi khi nhắc đến là người dân nơi đây không khỏi bàng hoàng nhớ về một thời kỳ đầy man rợ mà thực dân Pháp đã gây ra đối với dân làng Phú Mỹ.
Di tích được được Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích cấp quốc gia năm 1994.
Xem Thêm Bài 💧 Thuyết Minh Về Quảng Nam ❤️️15 Bài Giới Thiệu Quảng Nam
Thuyết Minh Về Di Tích Lịch Sử Ở Tiền Giang Chiến Lũy Pháo Đài – Bài 11
Bài Thuyết Minh Về Di Tích Lịch Sử Ở Tiền Giang Chiến Lũy Pháo Đài được nhiều bạn đọc quan tâm và chia sẻ sau đây.
Luỹ Pháo Đài thuộc ấp Pháo Đài, xã Phú Tân, huyện Tân Phú Đông, tỉnh Tiền Giang. Di tích nằm ngay Cửa Tiểu trên cù lao Phú Tân nên đường đi đến chủ yếu bằng đường thuỷ hoặc đường bộ.
Để bảo vệ Cửa Tiểu, năm Minh Mạng thứ 15 (1834) triều đình nhà Nguyễn cho xây dựng tại đây một Bảo bằng đất gọi là Đồn Từ Linh, chu vi 60 trượng (378mét), cao 5 thước 5 tấc (2,57 mét), mở hai cửa. Năm Thiệu Trị thứ 3 và thứ 7 (1834-1847) được sửa chữa lại.
Sau khi thành Định Tường thất thủ, tháng 4 năm 1861 Trương Định về Tân Hoà xây dựng căn cứ kháng Pháp. Đồn Từ Linh được sử dụng làm chiến luỹ, gọi là Chiến Luỹ Pháo Đài, có trang bị súng thần công loại lớn (vị trí đặt khẩu thần công trước kia nằm tận ngoài giữa hai hướng cửa thành Tây và Tây Bắc cạnh đầu bờ sông Cửa Tiểu và rạch đồn chừng 60m).
Luỹ Pháo Đài xung quanh là thành đất đắp cao, dày có 06 cạnh cân đối khá đều nhau, thành hình lục lăng (lục giác), diện tích khoảng 3.000m, trên thành đất trồng me, chính giữa có cây trôm to và giếng nước. Theo hướng Đông-Nam pháo đài có một gò tròn cao 21m, đường kính 15-20m. Đó là Gò Thổ Sơn có thể đó là đài quan sát của nghĩa quân.
Bao bọc bên ngoài thành luỹ là rừng kè, đước, dừa nước, bần. Dưới lòng sông, để bảo vệ cửa sông và ngăn chặn tàu chiến của địch có ủi bải xung phong lên bờ. Đồng thời, làm tàu địch giảm tốc độ làm bia cho những khẩu thần công và đẩy địch dạt sang bờ Trại Cá cho nghĩa quân tiêu diệt, cho nên Trương Định đã đổ đá hàn một đoạn theo chiều rộng của sông Cửa Tiểu trước chiến luỹ về hướng Tây mặt khẩu thần công chừng 120m đến 150m gọi là Đập đá hàn.
Ngày nay Đập đá hàn vẫn còn và đã được đánh dấu để tàu bè ra vào không vướng phải (theo truyền thuyết sông Cửa Tiểu hồi ấy hẹp hơn bây giờ).
Suốt cả quá trình tồn tại, Chiến Luỹ Pháo Đài đã cùng nghĩa quân trấn giữ một cửa biển quan trọng của đồng bằng sông Cửu Long. Qua đó cho chúng ta thấy ông cha ta ngày xưa đã có tầm nhìn chiến lược về quân sự khi xây dựng căn cứ để bảo vệ vùng trời, vùng biển của quê hương tổ quốc.
Năm 2000 Sở Văn hóa -Thông tin (nay là Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch) Tiền Giang đã tiến hành xây dựng nhà bia di tích Luỹ Pháo đài. Nhà bia với kiến trúc trông rất xinh đẹp, thoáng mát và trang nghiêm với chiều cao 9,4m rộng 84m2, mái ngói, cột bêtông, nền tôn cao 2m so với mặt đất và đã tiến hành phục hồi 02 súng thần công. Để nơi đây trở thành một điểm mà nhân dân và du khách đến thăm viếng-hồi tưởng lại một quá trình dựng nước và giữ nước của cha ông.
Di tích Luỹ Pháo Đài được đưa vào tuyến tham quan truyền thống với các cụm di tích quốc gia khác ở Gò Công như Đền thờ Trương Định, Nhà Phủ Hải, Đám lá tối trời.
Chiến Luỹ Pháo Đài là di tích lịch sử dân tộc, được Bộ Văn hóa-Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia năm 1987
SCR.VN Gợi Ý 💧 Thuyết Minh Về Danh Lam Thắng Cảnh Ở Phú Yên ❤️️15 Bài
Thuyết Minh Về Di Tích Lịch Sử Ở Tiền Giang Rạch Gầm Xoài Mút – Bài 12
Thuyết Minh Về Di Tích Lịch Sử Ở Tiền Giang Rạch Gầm Xoài Mút là tài liệu tham khảo hữu ích để ôn tập thật tốt.
Di tích chiến thắng lịch sử Rạch Gầm – Xoài Mút tọa lạc tại xã Kim Sơn, huyện Châu Thành, Tiền Giang, nằm bên bờ sông Tiền, cách thành phố Mỹ Tho chừng 12km về phía Tây và nằm trên tỉnh lộ 864, Khu di tích chiến thắng Rạch Gầm-Xoài Mút là một công trình kỷ niệm ghi dấu chiến công chống ngoại xâm của nhân dân xứ Đàng Trong.
Rạch Gầm – Xoài Mút là 2 nhánh sông nhỏ đổ vào sông Tiền, một nhánh lớn của dòng sông Cửu Long (Mekong). Năm 1784 nhận được sự cầu viện từ Nguyễn Ánh, vua Xiêm đã nhanh chóng cử Chiêu Tăng và Chiêu Sương đem 5 vạn quân sang xâm lược Đại Việt bằng cả hai ngã thủy, bộ.
Được tin quân Xiêm hoành hành, tháng 1/1785, Nguyễn Huệ đã kéo quân vào Nam đóng tại Mỹ Tho đại phố, chọn đoạn sông Tiền từ Rạch Gầm đến Xoài Mút dài khoảng 7km, rộng từ 1 – 2 km, nơi giữa sông có cù lao Thới Sơn với cây cối rậm rạp rất thuận tiện cho việc giấu quân và mai phục để làm điểm quyết chiến.
Đêm 19 rạng 20 tháng 1/1785 (mùng 9 – 10 tháng 12 năm Giáp Thìn) lợi dụng thủy triều trôi theo dòng sông, Chiêu Tăng đã chủ động tấn công Mỹ Tho đại phố với ý đồ phá vỡ đội thuyền của quân Tây Sơn. Tương kế tựu kế, quân Tây Sơn đã giả thua rút chạy để nhữ địch lọt vào trận địa mai phục Rạch Gầm – Xoài Mút.
Khi pháo lệnh của quân Tây Sơn nổ vang cũng là lúc Nguyễn Huệ đã cho khóa chặt ở đầu và đuôi, pháo hỏa hổ ở hai bờ đã nã đạn tới tấp, cùng lúc đó đội thuyền cảm tử quân chở đầy rơm cùng những vật liệu dễ cháy đã đâm thẳng vào thuyền giặc.
Bị đánh bất ngờ, toàn bộ thuyền chiến của quân Xiêm bị nhấn chìm chỉ trong một đêm, 5 vạn quân Xiêm chỉ còn vài ngàn thoát nạn, Nguyễn Ánh may mắn được Mạc Tử Sanh bảo vệ trốn sang Xiêm, còn Chiêu Tăng, Chiêu Sương nhảy lên bờ tìm đường trở về Xiêm. Trận thủy chiến lớn nhất trong lịch sử của xứ Đàng Trong và là trận thủy chiến lớn nhất trong 5 thế kỹ của dân tộc ta sau chiến thắng Bạch Đằng năm 1288, đã toàn thắng.
Hiện nay, Khu di tích lịch sử Rạch Gầm – Xoài Mút có một vị trí khá đẹp và thoáng mát bên bờ sông Tiền hiền hòa, nằm ngay cạnh tỉnh lộ 864 nên rất thuận tiện cho du khách đến cả bằng đường bộ lẫn đường thủy. Với tổng diện tích hơn 2ha, khu di tích gồm tượng đài anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ, hai nhà trưng bày và một ngôi nhà cổ Nam bộ.
Tượng đài anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ nằm ngay trung tâm của di tích. Tượng làm bằng đồng nặng 20 tấn, cao hơn 8 mét, được đặt trên bệ cao mô phỏng hình chiến thuyền. Tượng vị anh hùng trong tư thế rút gươm rất uy dũng; bên cạnh ông là một binh sĩ đang giương cung và một người dân bản địa đang chèo thuyền tạo thành một thể thống nhất hài hòa.
Nhà trưng bày số 1: trưng bày dãy tranh ghép gốm và nhiều hiện vật có liên quan đến trận đánh.
Nhà trưng bày số 2: trưng bày bộ sưu tập hiện vật về Rạch Gầm – Xoài Mút, có khoảng 546 hiện vật lớn nhỏ bao gồm những phương tiện sử dụng và vũ khí của cả hai bên.
Nhà cổ Nam Bộ: 3 gian, 2 chái, 48 cột gỗ căm xe, mái ngói âm dương, có diện tích 225 m2. Trong nhà các vật dụng được xếp đặt nhằm tái hiện lại cuộc sống những người dân phú nông của đất Nam Bộ xưa.
Chia Sẻ Bài 💧 Thuyết Minh Về Phú Thọ ❤️️ 15 Bài Giới Thiệu Phú Thọ Hay
Thuyết Minh Về Di Tích Lịch Sử Ở Tiền Giang Lăng Hoàng Gia – Bài 13
Thuyết Minh Về Di Tích Lịch Sử Ở Tiền Giang Lăng Hoàng Gia giúp các em có thể học hỏi và trau dồi thêm kiến thức cho mình.
Lăng Hoàng gia là nơi thờ tự và lăng mộ của dòng họ Phạm Đăng, trong đó có ông Phạm Đăng Hưng là ông ngoại Vua Tự Đức, thân sinh bà Thái hậu Từ Dụ (dân gian gọi Từ Dũ), vợ vua Thiệu Trị. Di tích Lăng Hoàng Gia tọa lạc tại Giồng Sơn Quy (Gò Rùa), ngày nay thuộc ấp Hoàng Gia, xã Long Hưng, thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang. Lăng mộ là một công trình kiến trúc mang đậm phong cách cung đình Huế, uy nghi giữa một vùng cây trái đồng bằng. Ngoài kiến trúc độc đáo, di tích còn chứa đựng bao câu chuyện ly kì.
Vào cuối thế kỷ thứ 16 ông Phạm Đăng Long (cha ông Phạm Đăng Hưng) theo cha từ Quảng Ngãi vào vùng Gò Công, là người giỏi Nho học, tinh thông phong thủy, địa lý của Lão học, đi nhiều nơi tìm thế đất tốt để định cư, mong con cháu phát tích. Lúc ông đến Gò Rùa (Sơn Qui), thấy thế đất rất đẹp nhưng toàn vùng Gò Công lúc bấy giờ không có chỗ nào đào được giếng có nước ngọt. Sau đó ông phát hiện ra mạch nước ngầm ở Gò Sơn Quy nên quy tập mồ mả 3 đời về đây và xây nhà ở gò đất này.
Hiện nay, tại lăng Hoàng Gia, phía sau nhà thờ, nơi nền nhà xưa vẫn còn cái giếng cổ, nước trong vắt và ngọt lịm. Đến nay vẫn chưa ai xác định chính xác giếng nước này được đào từ năm nào, chỉ biết rằng nó được cho là báo hiệu của một điềm lành, gắn liền với dòng họ hoàng tộc danh tiếng Phạm Đăng.
Có điều lạ là đến mùa khô, các giếng khác kể cả ao làng sâu 10m đều cạn hết, riêng giếng này không sâu nhưng ngay mạch nước nên nước lúc nào cũng có. Ngày xưa, người dân ở xã Long Hưng đều dùng nhờ giếng nước này. Điều lạ nữa là khi Hoàng Thái hậu Từ Dụ được sinh ra, nước ở giếng này càng ngọt hơn.
Phạm Đăng Hưng là con thứ ba của ông Phạm Đăng Long, sinh ra tại Gò Sơn Quy vào năm 1764. Ông là người thông minh, văn võ song toàn đã từng làm quan Thượng thư dưới hai triều vua Gia Long và Minh Mạng. Năm 1784, lúc 20 tuổi, ông thi đỗ Tam trường, được triều đình bổ làm Lễ sinh ở Phủ, sau đó được thăng Lại bộ Tham tri.
Đến năm 1824 được sắc phong Lễ bộ Thượng thư, năm 1825 ông được giao phó giữ kinh thành Huế. Nhân dân thường gọi là Phạm Đăng Hưng là ông “Ba Bị” vì lúc làm “Điền tuấn quan” đi đâu ông cũng mang theo ba bị hạt ngũ cốc để phân phát cho nông dân nghèo những khi thiên tai, hạn hán, bão lụt.
Vua Minh Mạng rất khâm phục tài đức của Phạm Đăng Hưng nên đã kết thành thông gia hai lần với ông: gả công chúa cho Phạm Đăng Thuật (con trai Phạm Đăng Hưng) và phong tước Phò mã đô úy; cho thái tử Miên Tông (vua Thiệu Trị) kết duyên với con gái ông Phạm Đăng Hưng là Phạm Thị Hằng (bà Từ Dũ).
Năm 1825, Phạm Đăng Hưng bị bệnh mất tại Huế, được vua Minh Mạng thăng hàm “Vinh lộc đại phu, trụ quốc hiệp biên, đại học sĩ, thụy trung nhã” và đưa về an táng tại Sơn Quy.
Một năm sau khi Phạm Đăng Hưng mất tức năm 1826, triều đình nhà Nguyễn cho xây dựng nhà thờ và lăng mộ ngay trên nền nhà cũ của dòng họ Phạm Đăng. Khu lăng mô được xây theo kiến trúc phong thuỷ dành cho lăng tẩm vua quan lúc bấy giờ.
Năm 1849, khi vua Tự Đức truy phong Phạm Đăng Hưng lên tước Đức Quốc Công đã cho trùng tu, mở rộng nhà thờ, xây thêm tam cấp, cổng tam quan, ban thần vị theo nghi thức cung đình.
Vào năm 1888, vua Thành Thái lên ngôi, chuẩn bị vào viếng lăng nên cho trùng tu. Đến năm Khải Định 1921, trùng tu một lần nữa mang nét Á – Âu kết hợp và được lưu giữ cho đến ngày nay.
Ngày 2/12/1992, Bộ Văn hóa – Thông tin có quyết định công nhận Khu Lăng mộ Hoàng gia là Di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia.
Nhà thờ và mộ Phạm Đăng Hưng là một công trình kiến trúc nghệ thuật thời Nguyễn mang đậm phong cách truyền thống dân tộc qua các mảng chạm khắc trên mộ và trang trí bên trong nhà thờ bằng những điển tích rút ra từ “tứ linh, tứ quý” theo quan niệm phong thủy của người Á Đông. Toàn bộ khu lăng mộ nằm trọn trong khuôn viên mát mẻ, có khá nhiều sứ đại cổ thụ, hoa lá cảnh vật bao bọc theo kiểu không gian nhà vườn xứ Huế.
Lăng không thật đồ sộ nhưng cũng không quá uy nghiêm như các lăng mộ của các quan đại thần khác. Nhiều người đến thăm lăng đều ngạc nhiên khi thấy kiến trúc của lăng phần nào giống kiến trúc của nhà ở. Chính điều này đã tạo cảm giác gần gũi và ấm cúng.
Cổng vào được xây theo lối tam quan cách điệu, trên mái lợp ngói lưu ly, đỉnh chạm trổ tượng mang hình ảnh “lý ngư vọng nguyệt” (cá chép trông trăng) thể hiện cho sự thanh cao của chủ nhân.
Nhà từ đường có mười trụ cột chính giữa, lớn nhất được thiết kế thành hai hàng song song như những đôi bàn tay khổng lồ vươn lên chống đỡ toàn bộ lăng. Những đường hoành, rui, mè đều được thiết kế vô cùng sắc sảo, độc đáo, vững chắc bởi các loại gỗ quý được vận chuyển từ cố đô Huế vào. Có lẽ vì thế mà theo thời gian những cây cột ngày càng trở nên bóng đẹp và cổ kính hơn.
Điểm đặc biệt nhất của lăng có lẽ là việc sử dụng hoàn toàn chất liệu gỗ để xây dựng, không thể nào tìm ra được một cây đinh nào trong việc gắn kết các các thanh gỗ, kèo, cột ở đây. Tất cả đều được đục mộng tra vào nhau một cách tinh xảo đến tuyệt vời. Người xem khâm phục biết bao bàn tay và nghệ thuật xây dựng cũng như kiến trúc của các nghệ nhân xưa.
Trong nhà thờ có đặt nhiều biển đại tự để thờ: Gian chính giữa thờ Đức Quốc Công Phạm Đăng Hưng; gian tả thờ ông Phạm Đăng Long là cha của Phạm Đăng Hưng; gian tả ngoài cùng thờ ông Phạm Đăng Tiên (cố); gian hữu thờ ông Phạm Đăng Dinh (nội); hai cuối bên hữu thờ ông Phạm Đăng Khoa (sơ).
Mộ Phạm Đăng Hưng táng trên gò cao có hình dáng mai rùa. Mộ không xây theo kiểu “ngưu phanh, mã phục” mà được xây theo kiểu dáng “đỉnh trụ” hình bát giác, trông vừa như chiếc nón lá vừa như búp sen.
Mặt sau mộ, xây bình phong hình bán nguyệt, trên có chạm 4 con rồng, dưới có 5 con kỳ lân. “Ngũ đại thành xương – Tường lân ống hiện” (Năm đời danh giá tốt đẹp – Điềm lành kỳ lân hiện ra). Vòng quanh mộ ông Phạm Đăng Hưng có một số phù điêu trang trí như búp sen, cá hóa long… lại mang phong cách điêu khắc phương Tây. Những bức phù điêu trang trí trên mộ được xây dựng thêm vào thời vua Khải Định.
Cùng nằm trên khuôn viên Lăng còn có hệ thống mộ dòng họ Phạm Đăng được chôn theo một trục dài, toàn bộ đều làm bằng hồ ô dước, bao bọc chung quanh bằng một lớp tường dày và cao 90cm, các ngôi mộ tổ bố cục đơn giản theo hình vuông hoặc chữ nhật).
Trong khuôn viên lăng còn có giếng nước cổ xây bằng gạch vồ. Qua hàng trăm năm, nước trong giếng luôn đầy và trong vắt.
Gợi Ý Bài 🌹 Thuyết Minh Về Cao Bằng ❤️️15 Bài Giới Thiệu Cao Bằng Hay
Thuyết Minh Về Di Tích Lịch Sử Ở Tiền Giang Nhà Đốc Phủ Hải – Bài 14
Thuyết Minh Về Di Tích Lịch Sử Ở Tiền Giang Nhà Đốc Phủ Hải, cùng đón đọc bài văn sau đây để có thêm nhiều kiến thức lịch sử hay.
Vùng đất Gò Công không lớn lắm nhưng lại có khá nhiều Di tích cấp Quốc gia đã được xếp hạng: Cụm di tích Đền thờ – Lăng mộ – Tượng dài Anh hùng dân tộc Trương Định, Đền thờ Đức Quốc Công Phạm Đăng Hưng – Lăng Hoàng gia, Nhà Đốc Phủ Hải…
Nhà Đốc Phủ Hải tọa lạc ở phường 1, thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang là một ngôi nhà cổ có lối kiến trúc kết hợp giữa hai nền văn hóa Đông – Tây độc đáo. Mặc dù trải qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử ngôi nhà vẫn còn nguyên vẹn, ngày càng được nhiều du khách đến tham quan chụp hình mỗi khi có dịp du lịch Tiền Giang. Về xứ Gò Dông ghé thăm nhà cổ, tận mắt chứng kiến những cổ vật, chiêm ngưỡng những tác phẩm nghệ thuật chạm khắc bạn có thể cảm nhận cuộc sống vương giả của một gia đình Đốc phủ.
Ngôi nhà do bà Trần Thị Sanh con của Bá hộ Trần Văn Đồ dựng năm 1890. Nhà được xây cất theo dạng chữ Đinh (lúc ban đầu), qua nhiều lần tu bổ và xây dựng, toàn bộ ngôi nhà ngày nay gồm ba phần: nhà chánh, hai nhà vuông-nơi ở của những người giúp việc và lẫm lúa (kho thóc của địa chủ).
Mặt tiền sảnh của nhà cổ mang đậm phong cách Tây Âu với những vòm cửa hình vòng cung, chạm khắc hoa văn nổi. Trái ngược với tiền sảnh xây bằng gạch kiểu phương Tây, bên trong công trình lại là những cấu trúc gỗ đậm nét truyền thống.
Nhà chính gồm ba gian hai chái lợp ngói âm dương, gồm 36 cây cột, trong đó gỗ có 30 cột làm từ gỗ quý. Nối các khoảng cột với nhau là các bộ bao lam bằng gỗ chạm hai mặt thể hiện các đề tài tứ linh, tứ quí, bát bửu… rất tinh xảo.
Trong nhà còn có các đồ dùng quý như tủ, ghế khảm xà cừ, bàn đá cẩm thạch, đồ sứ Trung Quốc và Việt Nam thế kỷ 17-18. Nổi bật là giường Thất Bảo lát những tấm đá cẩm thạch màu sắc khác nhau, chân chạm nổi hoa lá, khảm xà cừ và hai bộ đi văng bằng đá cẩm thạch màu trắng vân đen. Đặc biệt các bức tranh vẽ trên kính, hai bộ tranh hạt cườm bằng nhung đỏ, 8 tấm thêu mai-lan-cúc-trước, xuân-hạ-thu-đông.
Ngoài những điểm độc đáo trong kiến trúc xây dựng thì nhà cổ Đốc Phú Hải được nhiều du khách đến tham quan tìm hiểu đó là những câu chuyện xoay quanh ngôi nhà.
Theo nhiều tư liệu thì ngôi nhà gắn liền với cuộc đời của bà Trần Thị Sanh, vợ thứ của Bình Tây Đại Nguyên Soái Trương Định anh hùng dân tộc. Gia đình bà Sanh là một gia đình giàu có bậc nhất tại Gò Công đã có những cống hiến trong công cuộc mở cõi, giữ đất phương Nam.
Năm 1864, Trương Định tuẫn tiết, bà Sanh vào chùa quy y và giao quyền trông nom, quán xuyến ngôi nhà cho Dương Thị Hương (con riêng của bà) và rể là Tri huyện Trường Bình, nên thường gọi là nhà Bà Huyện.
Vào khoảng 1880-1885, Tri huyện Trường Bình chán cảnh quan trường về trí sĩ, nên cho tôn tạo lại ngôi nhà này khang trang, thoáng mát để dưỡng già. Khi ông bà qua đời, ngôi nhà này tiếp tục để cho con gái là Huỳnh Thị Diệu và chồng là Nguyễn Văn Hải làm chức Đốc phủ sứ, nên có tên là nhà Đốc phủ Hải.
Cuối thế kỷ trước (1895-1900), Nguyễn Văn Hải có chút tân học ở Pháp nên đã xây dựng thêm tiền sảnh theo kiểu “roman” và xây hai nhà vuông hai bên để người làm cùng ở. Đến năm 1909-1917, ngôi nhà được tu bổ thêm, xây tường rào sắt tây ba mặt và phần sau xây lẫm lúa to lớn.
Nhà Đốc Phủ Hải đã được công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia vào năm 1994.
Tặng Bạn 🌵 Thẻ Cào Miễn Phí ❤️ Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất
Thuyết Minh Về Di Tích Lịch Sử Ở Tiền Giang Đình Đồng Thạnh – Bài 15
Chia sẻ đến bạn đọc bài văn hay Thuyết Minh Về Di Tích Lịch Sử Ở Tiền Giang Đình Đồng Thạnh được SCR.VN chia sẻ sau đây.
Đình Đồng Thạnh (huyện Gò Công Tây) là một trong những ngôi đình có lịch sử lâu đời và quy mô xây dựng lớn tại Nam bộ. Với lối kiến trúc độc đáo, năm 2009 đình Đồng Thạnh được công nhận là Di tích cấp Quốc gia, đến năm 2010 được Bộ VH-TT&DL cấp kinh phí trùng tu. Tuy nhiên, qua thời gian, một số hạng mục đã xuống cấp. Mới đây, UBND huyện Gò Công Tây đã hỗ trợ kinh phí và vận động các tổ chức, nhà hảo tâm đóng góp thêm để tu sửa những chỗ hư hỏng, xuống cấp, đảm bảo điều kiện để người dân đến tham quan, lễ chùa.
Di tích đình Đồng Thạnh tọa lạc ấp Lợi An, xã Đồng Thạnh, cách trung tâm tỉnh Tiền Giang khoảng 25 km về hướng Đông Bắc. Đình được xây dựng vào cuối thế kỷ thứ XIX, là một minh chứng cho quá trình khẩn hoang lập ấp của cư dân vùng Gò Công.
Theo tư liệu của Bảo tàng Tiền Giang, đình Đồng Thạnh khi mới xây dựng có quy mô nhỏ, bằng tranh và tre lá; về sau, do cuộc sống của nhân dân trong vùng khá giả nhờ ruộng đất phì nhiêu và liên tục trúng mùa đã góp tiền xây dựng lại đình bằng gỗ, lợp mái ngói.
Đến đầu thế kỷ thứ XX, 2 ông Huỳnh Chung và Huỳnh Đình Khiêm là những điền chủ giàu có trong vùng, đã đóng góp 60 ha ruộng và huy động tiền của nhân dân trong vùng xây dựng lại ngôi đình to lớn bằng cột căm xe, bao gồm vỏ ca, chánh điện và nhà khách, kéo dài từ năm 1900 đến 1914 mới hoàn thành.
Khoảng thời gian 1960 – 1963, phong trào Đồng khởi ở miền Nam diễn ra rất mạnh, đình Đồng Thạnh cũng là nơi diễn ra phong trào Đồng khởi. Tuy nhiên, trong phong trào này, đình Đồng Thạnh đã bị đốt cháy phần chánh điện, vách gỗ và mái ngói. Đến năm 1970, nhân dân địa phương và Hội đình lúc bấy giờ đứng ra quyên góp tiền của xây lại chánh điện như ngày nay.
Theo các vị cao niên trong vùng, đình Đồng Thạnh thờ Đại Càn tứ vị Nương vương (thờ bốn vị thần phù hộ người đi biển) và thờ Thần Nông. Ngoài ra, nhân dân còn thờ những người có nhiều công đức trong làng, xã. Theo ông Phạm Văn Huệ (người bảo vệ đình), lúc đình chưa trùng tu thì bị dột nặng nề. Sau đó, đình được sửa lại bằng gỗ lim, hoa văn được trang trí khắp đình… Mỗi lệ cúng đình vào ngày 16, 17/3 và 16/11 âm lịch, dân đến cúng đông đúc, nhộn nhịp.
Về giá trị nghệ thuật – kiến trúc, đình Đồng Thạnh đã trải qua hơn 1 thế kỷ với nhiều biến cố chiến tranh và thiên tai tàn phá, nhưng vẫn tồn tại và để lại nhiều dấu ấn về kiến trúc xây dựng đình chùa Nam bộ. Đây là một trong những ngôi đình có lịch sử lâu đời và quy mô xây dựng lớn tại Nam bộ. Đình có diện tích xây dựng 787 m2, theo lối kiến trúc chữ Tam, bao gồm: Vỏ ca (nơi hát bội vào dịp Kỳ Yên), chánh tẩm (nơi thờ thần) và nhà khách (nơi dân làng đến bàn việc) nối liền nhau.
Nét đặc sắc của ngôi đình này là nghệ thuật chạm khắc, trang trí hoa văn, tranh đắp nổi trên tường và tượng gốm trang trí cả trong và bên ngoài đình. Đặc biệt là những hoa văn chạm trổ công phu, họa tiết trang trí ở đình được hình tượng hóa qua tứ linh, tứ quý, bát tiên, cá hóa long, các loại trái cây, sản vật ở địa phương; các biểu tượng hàm ý sự giàu sang, phú quý, mong cho hạnh phúc tràn đầy, mưa thuận, gió hòa…
Trong đó, nhà vỏ ca là một công trình kiến trúc gỗ khá lớn, được kết cấu theo kiểu nhà rường. Trên con lươn bờ nóc vỏ ca có trang trí rồng được tạo hình bằng những mảnh sứ, mảnh gốm ghép lại.
Chia sẻ cơ hội 💧 Nạp Thẻ Ngay Miễn Phí 💧 Tặng Card Nạp Tiền Ngay Free Mới