11+ Mẫu Phân Tích Thơ Trào Phúng Ngắn Gọn (Siêu Hay)

SCR.VN chia sẻ cho các bạn đọc những tác phẩm trào phúng nổi tiếng cùng với 11+ mẫu phân tích thơ trào phúng ngắn gọn siêu hay sau đây.

Thơ Trào Phúng Là Gì ?

Thơ trào phúng là một loại thể thơ sử dụng thủ pháp trào phúng, dùng tiếng cười để xây dựng tư tưởng, tình cảm cho con người, chống lại cái xấu xa, lạc hậu, thoái hóa, rởm đời, hoặc để đả kích, vạch mặt kẻ thù, đánh vào những tư tưởng, hành động mang bản chất thù địch với con người.

Xem thêm ✅ Phân Tích Bài Thơ Khóc Dương Khuê ✅ chi tiết

Các Tác Phẩm Thơ Trào Phúng Nổi Tiếng

SCR.VN tổng hợp cho bạn các tác phẩm thơ trào phúng nổi tiếng hay nhất dưới đây. Mời bạn tham khảo.

  • Năm mới chúc nhau
  • Thương vợ
  • Ông trẻ già
  • Đất vị hoàng
  • Chuột khóc mèo
  • Muốn lấy chồng
  • Vịnh đời người
  • Than thân
  • Chợ đồng
  • Cua chơi trăng
  • Chuyện của ếch
  • Tát nước
  • Lễ xướng danh khoa đinh dậu
  • Khoe lười
  • Đánh cờ
  • Gây quan
  • Chế sư
  • Đánh tổ tôm
  • Tiến sĩ giấy
  • Ông phỗng đá

🌻 Xem thêm Thơ Huy Cận Hay Nhất🌻

Cách Phân Tích Thơ Trào Phúng

Phân tích thơ trào phúng đòi hỏi phải xem xét các yếu tố văn học, bối cảnh lịch sử và xã hội, cũng như phong cách và ý định của tác giả. Dưới đây là một số bước cụ thể để phân tích thơ trào phúng:

  1. Đọc và Hiểu Nội Dung:
    • Đọc kỹ bài thơ để hiểu nội dung và ý nghĩa bề mặt.
    • Xác định chủ đề chính của bài thơ.
  2. Xác Định Đặc Điểm Trào Phúng:
    • Tìm kiếm các yếu tố hài hước, châm biếm, mỉa mai trong bài thơ.
    • Xác định các phương pháp trào phúng mà tác giả sử dụng như: chơi chữ, ẩn dụ, hình ảnh đối lập, sự phóng đại, sự giảm thiểu, v.v.
  3. Phân Tích Ngôn Ngữ và Phong Cách:
    • Xem xét cách sử dụng ngôn từ, cấu trúc câu, hình ảnh và biểu tượng.
    • Đánh giá phong cách của tác giả: ngôn ngữ có mang tính châm biếm, mỉa mai hay không?
  4. Phân Tích Bối Cảnh Lịch Sử và Xã Hội:
    • Tìm hiểu bối cảnh lịch sử và xã hội khi bài thơ được sáng tác.
    • Xác định những sự kiện hoặc tình huống cụ thể mà bài thơ đang phản ánh hoặc châm biếm.
  5. Xác Định Ý Đồ và Thông Điệp của Tác Giả:
    • Đánh giá mục đích của tác giả: Họ muốn phê phán, chế giễu điều gì?
    • Xác định thông điệp mà tác giả muốn gửi gắm thông qua bài thơ.
  6. Đánh Giá Tác Động và Ý Nghĩa:
    • Xem xét tác động của bài thơ đối với người đọc, xã hội hoặc một nhóm đối tượng cụ thể.
    • Đánh giá ý nghĩa sâu xa của bài thơ, không chỉ là những gì được thể hiện trên bề mặt.

 Khám phá thêm tập Thơ Nguyễn Bính Hay Nhất

Dàn Ý Phân Tích Thơ Trào Phúng

SCR.VN hướng dẫn cho bạn cách lập dàn ý phân tích thơ trào phúng tại bài viết sau đây.

1. Mở bài

Giới thiệu tác giả, tên bài thơ và hoàn cảnh ra đời (nếu có).

2. Thân bài

Tùy theo phương án lựa chọn, có thể trình bày Thân bài theo một hệ thống ý tương đương.

– Phương án 1:

  • Ý 1: Câu thơ thứ … (nêu đối tượng của tiếng cười trào phúng, phân tích biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong câu thơ để tạo ra tiếng cười trào phúng)
  • Ý 2: Câu thơ thứ… (nêu đối tượng của tiếng cười trào phúng, phân tích biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong câu thơ để tạo ra tiếng cười trào phúng)

 Phương án 2:

  • Ý 1: Phân tích nội dung bài thơ (đối tượng trào phúng, lí do khiến đối tượng bị phê phán…)
  • Ý 2: Phân tích nét đặc sắc về nghệ thuật (hình ảnh, biện pháp tu từ được sử dụng…)

3. Kết bài

Khái quát ý nghĩa của tiếng cười trào phúng, giá trị nghệ thuật của tác phẩm.

Chia sẻ đến bạn ❤️️ Bài Thơ Từ Ấy Tố Hữu ❤️️ Nội Dung Và Cảm Nhận

11+ Bài Văn Phân Tích Thơ Trào Phúng Ngắn Hay Thơ Trào Phúng

SCR.VN tổng hợp cho các bạn đọc 11+ bài văn phân tích thơ trào phúng ngắn hay thơ trào phúng nhất sau đây.

Viết Bài Văn Phân Tích Một Tác Phẩm Văn Học Thơ Trào Phúng – Năm Mới Chúc Nhau Ngắn Gọn

Tú Xương là một trong những tác giả nổi tiếng và tài năng của nền văn học Việt. Những sáng tác của ông có rất nhiều chủ đề đa dạng, và một trong số đó phải kể đến thơ ca Trung đại trào phúng. Bài thơ nổi tiếng nhất của Tú Xương chính là bài thơ Năm mới chúc nhau đã lên án, phê phán những thói hư trong xã hội.

Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau

Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu

Phen này ông quyết đi buôn cối

Thiên hạ bao nhiêu đứa giã trầu.

Lẳng lặng mà nghe nó chúc sang

Đứa thì mua tước đứa mua quan

Phen này ông quyết đi buôn lọng

Vừa chửi, vừa la cũng đắt hàng.

Nó lại mừng nhau cái sự giàu

Trăm nghìn vạn mở để vào đâu

Phen này ắt hẳn gà ăn bạc

Đồng rụng đồng rơi lọ phải cầu.

Nó lại mừng nhau sự lắm con

Sinh năm đẻ bẩy được vuông tròn

Phố phường chật hẹp người đông đúc

Bồng bế nhau lên nó ở non.

Tú Xương là một nhà thơ tài ba của nền văn học Việt Nam, nhắc đến Tú Xương người đọc sẽ nhớ ngay đến phong cách thơ có sự kết hợp tài tình giữa các yếu tố hiện thực, trào phúng và đậm chất trữ tình. Bài thơ Năm mới chúc nhau là một bài thơ đặc biệt của Tú Xương được viết theo thể thơ trào phúng nhằm lên án, phê phán những điều xấu trong xã hội vào năm mới.

Thể thơ trào phúng là cách viết vô cùng độc đáo, lấy tiếng cười để xây dựng tâm tư, tình cảm của con người và rồi từ đó chống lại những điều xấu xa, thoái hoá, lạc hậu trong xã hội. Việc Tú Xương lựa chọn thể thơ này và viết nên bài thơ Năm mới chúc nhau cũng đã cho thấy được tư duy mới lạ, quyết bảo vệ những giá trị tốt đẹp của ông.

Bài thơ mở đầu với bốn câu thơ:

Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau

Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu

 Phen này ông quyết đi buôn cối

Thiên hạ bao nhiêu đứa giã trầu.

Mùa xuân đến mang theo niềm vui và lời chúc tốt đẹp mà mọi người dành cho nhau. Thế nhưng trong những vần thơ của Tú Xương, ta đã cảm nhận được một góc nhìn khác. Ông “lẳng lặng” mà ngồi nghe bọn “nó” chúc lẫn nhau, chúc nhau “trăm tuổi bạc đầu râu” là một câu chúc mong muốn sức khoẻ, may mắn đến người nghe thế nhưng Tú Xương đã sử dụng từ “nó” để thể hiện sự chán ghét của mình

Cách xưng hô “ông – nó” đã thể hiện lối nói trịch thượng, lố lăng, coi thường người khác của những người có chức, có quyền trong xã hội ngày xưa. Ông bật cười khi nghe bọn chúng chúc nhau, dùng cối giã trầu có nghĩa là không còn răng để nhai trầu nữa, ta cảm nhận được sự thâm thuý và sâu cay trong những vần thơ của ông.

Lẳng lặng mà nghe nó chúc sang

Đứa thì mua tước đứa mua quan

 Phen này ông quyết đi buôn lọng

Vừa chửi, vừa la cũng đắt hàng.

Đồng tiền trong thời kì này có ma lực vô cùng ghê gớm, nó có thể thao túng tất cả và trong đó có chức quan cao quý. Việc mà nhiều người phải cố gắng, ra sức học tập và tu dưỡng nay lại được mua bán một cách dễ dàng. Bốn câu thơ trên đã thể hiện sự thối nát của một thế hệ, sự kệch cỡm của bọn quan lại không có tài nhưng lại dùng tiền để che lấp. “Vừa chửi, vừa la cũng đắt hàng” là một câu thơ đặc biệt đã làm nổi bật rõ rệt thói trơ tráo và vô liêm sỉ của chúng.

Nó lại mừng nhau cái sự giàu

Trăm nghìn vạn mở để vào đâu

Phen này ắt hẳn gà ăn bạc

Đồng rụng đồng rơi lọ phải cầu.

Cách diễn đạt của câu thơ này vô cùng đặc biệt như cách nói khoa trương “trăm nghìn vạn mở”, bọn chung vui mừng và hạnh phúc khi tưởng chừng “phen này ắt hẳn gà ăn bạc” đã thể hiện sự lố lăng, xấu xa trong bản chất con người của chúng.

Nó lại mừng nhau sự lắm con

Sinh năm đẻ bẩy được vuông tròn

Phố phường chật hẹp người đông đúc

Bồng bế nhau lên nó ở non.

Và cuối cùng bọn chúng vui mừng vì “sinh năm đẻ bảy”, thế nhưng lúc này là lúc tiếng cười trào phúng bật ra để làm thấy rõ được sự lộn xộn, ô hợp của lớp người. Tú Xương đã bộc lộ rõ suy nghĩ của mình và lên án những người như thế trong xã hội xưa một cách trực diện và rõ ràng.

Bài thơ là sự vận dụng thành công của những từ ngữ giàu sức gợi hình và gợi tả nhằm mỉa mai những người có tầng lớp cao nhưng không xem ai ra gì trong xã hội xưa. Bài thơ xứng đáng là một trong những bài thơ hay và xuất xắc nhất của Tú Xương.

Chia sẻ đến bạn ❤️ Thơ Hồ Dzếnh ❤️ Tuyển Tập Những Bài Thơ Hay Nhất

Viết Bài Văn Phân Tích Một Tác Phẩm Văn Học Thơ Trào Phúng Mà Em Yêu Thích Nhất

Một trong những cảnh giới cao nhất của thơ trào phúng, chính là giọng thơ tự trào. Trong đó, Nguyễn Khuyến là một cây bút tự trào nổi bật trong làng thơ ca Việt Nam. Nổi bật trong các tác phẩm của ông, là bài thơ Tự trào.

Vốn là một vị tiến sĩ với trí tuệ hơn người được dân chúng, vua quan kính trọng, nhưng do thời cuộc run rủi, cuối cùng Nguyễn Khuyến đã lựa chọn lui về ở ẩn. Tự trào chính là lời thơ mà ông tự cười chê chính bản thân mình, khi chẳng thể đem tài cán ra để giúp đỡ giang sơn:

“Ta cũng chẳng giàu, cũng chẳng sang,
Chẳng gầy chẳng béo, chỉ làng nhàng.
Cờ đương dở cuộc không còn nước,
Bạc chửa thâu canh đã chạy làng.”

Bốn câu thơ đầu gợi lên sự dở dang, vỡ lở của những đặc điểm mà Nguyễn Khuyến tự tả về mình. Chẳng giàu, chẳng sang, chẳng gầy, chẳng béo. Điệp từ “chẳng” khắc họa một chàng trai không có gì. Ông tự cho mình là một kẻ “làng nhàng”, không có gì đặc sắc.

Tự chê bai, hạ thấp mình như vậy, là để giải thích cho hành động rời bỏ chốn kinh thành khi đất nước rối loạn về ở ẩn của chính Nguyễn Khuyến. Từ “chạy làng” là hành động chỉ kẻ vô trách nhiệm, chối bỏ việc phải làm. Đó là cách mà nhà thơ nghĩ về bản thân. Ông thấy mình là một nam tử hán tầm thường, hèn nhát, không thể cáng đáng được việc nước.

“Nghĩ mình lại gớm cho mình nhỉ,
Thế cũng bia xanh, cũng bảng vàng.”

Câu thơ là lời tự đối thoại với chính mình của Nguyễn Khuyến. Ông tự trào với chính mình. Rằng dù có bia xanh, có bảng vàng được người đời kính trọng thì có sao chứ? Để bây giờ lại sống ẩn dật, hèn nhát như một kẻ gàn dở. Bởi giờ đây ông chỉ nói ra “gàn bát sách”, chứ chẳng đóng góp được gì cho cuộc đời.

Sự tự giễu cợt bản thân ấy, cho thấy nhà thơ vô cùng day dứt khi chẳng thể làm tròn phận sự của một đấng nam nhi, khi chẳng thể cống hiến cho đất nước xứng với chức Tiến Sĩ năm đó đỗ đạt. Giây phút Nguyễn Khuyến từ quan về ở ẩn để giữ sự trong sạch cho bản thân, cũng là lúc ông chối bỏ trách nhiệm của mình với vua, với nước, với dân. Điều đó khiến ông đau khổ, dằn vặt đến đau đớn khôn nguôi.

Tự trào là sự trào phúng, giễu cợt của Nguyễn Khuyến dành cho chính mình. Nhưng cũng là lời châm biếm cho những kẻ chỉ biết giữ mình, không chịu đem tài sức ra cống hiến cho đất nước trong bối cảnh triều chính rối ren lúc bấy giờ

Bỏ Túi Ngay ❤️️ Thơ Điên Hàn Mạc Tử ❤️️ Tuyển Tập Thơ Điên Trọn Bộ

Viết Bài Văn Phân Tích Một Tác Phẩm Văn Học Thơ Trào Phúng Bài Lai Tân Ngắn

Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh là một tập nhật kí bằng thơ, và được viết trong thời gian hơn một năm trong các nhà tù của chính quyền Tưởng Giới Thạch ở tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Tập thơ này ban đầu được Bác viết cho chính mình, với mục đích chính là giữ cho tâm hồn an ổn và tinh thần mạnh mẽ trong thời gian Bác bị giam cầm, và cũng là để tự tìm động lực cho ngày Bác được tự do, như đã ghi ở bài “Khai quyển đầu cuốn sổ tay.”

Lai Tân là bài thơ thứ 97 trong tập nhật kí này, và Bác đã viết nó sau khi bị chuyển từ Thiên Giang đến Lai Tân. Bức tranh hiện thực trong bài thơ này, thể hiện rõ sự mỉa mai, châm biếm và phê phán của Hồ Chí Minh đối với giai cấp thống trị tại Lai Tân, và đồng thời cả xã hội Trung Quốc thời kỳ đó.

Phiên âm chữ Hán:

Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc,
Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh.
Chong đèn, huyện trưởng làm công việc,
Trời đất Lai Tân vẫn thái bình.

Bài thơ này tạo ra một bức tranh sắc nét về hiện thực trong nhà tù Lai Tân và một phần nhỏ của xã hội Trung Quốc thời điểm đó. Bức tranh này được Hồ Chí Minh phản ánh một cách sống động, sử dụng một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt ngắn gọn nhưng đầy ý nghĩa.

Bài thơ thành công chủ yếu nhờ vào nghệ thuật châm biếm sắc sảo và độc đáo, kết hợp với giọng điệu tự sự và trữ tình, cùng với một cấu trúc chặt chẽ và hợp lý. Cấu trúc của bài thơ gồm hai phần, nhưng khác với cấu trúc thông thường của tứ tuyệt Đường luật.

Phần thứ nhất bao gồm ba câu, trong khi phần thứ hai chỉ có một câu duy nhất. Ba câu đầu tiên đơn thuần kể chuyện, trong khi câu thứ tư là điểm nút, là nơi tất cả tư tưởng của bài thơ được tập trung và nó làm bung vỡ tất cả các ý châm biếm và mỉa mai của Hồ Chí Minh đối với đám quan chức thuộc giai cấp thống trị.

Phần thứ nhất của bài thơ “Lai Tân” của Hồ Chí Minh đã khắc họa một cách sắc sảo thần tình chân dung của ba nhân vật “quan trọng.” Trong đó, ban trưởng nhà lao công khai đánh bạc hàng ngày, trong khi đánh bạc bên ngoài bị quan bắt tội. Cảnh trưởng thì trắng trợn ăn tiền đút lót của tù nhân, còn huyện trưởng thì đêm đêm chong đèn và hút thuốc phiện.

Những người này đại diện cho chính quyền và luật pháp, nhưng lại hoàn toàn vi phạm pháp luật. Điều này đã vượt ra khỏi khung cảnh của một nhà tù, trở thành biểu tượng cho cả xã hội Trung Quốc thời kỳ đó, khi quan trên thảnh thơi, vô trách nhiệm và tham lam, trong khi cấp dưới chỉ lo xoay xở kiếm ăn, không quan tâm đến các tệ nạn đang hoành hành. Hơn nữa, những hành vi tham lam và nhũng nhiễu của họ thậm chí còn đóng góp “tích cực” vào việc gia tăng tệ nạn xã hội.

Ba nhân vật này hoạt động trong một màn hài kịch câm, và cả ba đang đóng vai trò “nghiêm túc” trong khung cảnh thái bình (??!) dưới sự thống trị của họ Tưởng. Câu thơ ngắn gọn và hàm súc này tố cáo tình trạng hỗn độn, bát nháo của xã hội Trung Quốc thời điểm đó.

Phần thứ hai của bài thơ, câu cuối cùng, chứa nhận xét thâm thúy và trào lộng của người tù Hồ Chí Minh về tình trạng bộ máy cai trị tại Lai Tân. Đọc đến đoạn này, người ta có thể trông đợi một lời lên án mạnh mẽ. Tuy nhiên, tác giả đã không làm như vậy, mà thay vào đó, ông đưa ra một câu nhận xét có vẻ rất khách quan: “Trời đất Lai Tân vẫn thái bình.” Câu này thực sự đánh đồng với tình trạng thối nát của những quan chức ở Lai Tân, và nó thể hiện một sự mỉa mai, châm biếm sâu sắc.

Hiệu quả của câu thơ này là gì? Nó làm cho tình trạng thối nát của những quan chức ở Lai Tân trở nên bình thường đến mức nó trở thành bản chất của họ. Bản chất này thậm chí đã trở thành một phần “nề nếp” được chấp nhận trong xã hội từ lâu.

Câu kết luận trong bài thơ, dường như rất bình thản, lại ẩn chứa một lời châm biếm, mỉa mai và tiết lộ bản chất xấu xa của bộ máy thống trị ở Lai Tân. Từ “thái bình” có thể được coi là “thần tự,” “nhãn tự” của bài thơ này. Điều này cho thấy tác giả đã sử dụng một cách tài tình từ “thái bình” để lôi kéo tất cả các hoạt động bất hợp pháp và thối nát ra ánh sáng, và châm biếm bản chất của họ Tưởng Giới Thạch đang lẩn trốn sau vẻ ngoài thái bình. Bằng cách này, câu thơ “Lai Tân” in đậm bút pháp nghệ thuật của Hồ Chí Minh, tạo nên một tác phẩm thơ châm biếm sắc sảo và đầy ẩn ý.

Xem ngay 💚 Nhật Ký Trong Tù Toàn Tập 💚 bất hủ

Viết Bài Văn Phân Tích Một Tác Phẩm Văn Học Thơ Trào Phúng – Bạn Đến Chơi Nhà Dài

Nhắc đến Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến, ta sẽ nhớ ngay đến một hồn thơ dân dã, giản dị, mang đậm tinh thần dân tộc nhưng cũng không kém phần tinh tế, thi vị. Một trong các tác phẩm được biết đến rộng rãi nhất của ông phải kể đến “Bạn đến chơi nhà”, sáng tác khi nhà thơ về ở ẩn tại quê nhà.

Mở đầu tác phẩm, ta thấy ngay được lời chào hết sức tự nhiên, dí dỏm mà Nguyễn Khuyến dành cho người bạn xa cách lâu ngày:

“Đã bấy lâu nay, bác tới nhà”

Cụm từ “đã bấy lâu nay” lập tức giúp độc giả liên tưởng đến khoảng thời gian khá dài. Xa cách như vậy, nay cả hai có dịp gặp lại, hội ngộ với nhau, cảm xúc chắc chắn vô cùng phấn khởi, vui mừng. Đại từ “bác” cất lên lại càng chứng minh rõ cho sự thân thiết, gắn bó giữa hai người bạn. Cả câu thơ như một lời reo vui, mang theo giọng điệu cởi mở, chân thành. Từ đó, thể hiện sự hiếu khách của gia chủ.

Sang đến những vần thơ tiếp theo, Nguyễn Khuyến đã dí dỏm mà tạo ra một hoàn cảnh đầy éo le:

“Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa

Ao sâu nước cả, khôn chài cá

Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà

Cải chửa ra cây, cà mới nụ

Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa

Đầu trò tiếp khách, trầu không có”

Thông thường, khi có khách tới chơi, chủ nhà sẽ nhiệt tình tiếp đón bằng vô số món ăn ngon được chuẩn bị chu đáo. Huống hồ đây lại là một người bạn thân thiết đã lâu không gặp, có thể coi như một vị khách quý. Ấy thế nhưng hoàn cảnh ở đây lại hoàn toàn trái ngược. Nguyễn Khuyến không ngần ngại mà thể hiện cái thiếu thốn, đạm bạc của chính mình.

Nào là nhà xa chợ, trẻ đi vắng, ao sâu chẳng bắt được cá, vườn rộng chẳng đuổi được gà. Đến cả rau cũng “chửa ra cây”, “mới nụ”, “vừa rụng rốn”, “đương hoa”, nói gọn lại là chưa ăn được. Thậm chí, ngay đến miếng trầu để tiếp khách cũng chẳng có. Bằng biện pháp liệt kê cùng giọng điệu dí dỏm, hài hước, Nguyễn Khuyến đã vẽ nên một “nghịch cảnh” đầy éo le khi khách quý đến mà nhà không còn gì để tiếp.

Cuộc sống chốn thôn quê bình yên của Nguyễn Khuyến vô cùng đạm bạc, hay có thể nói là thiếu thốn về mặt vật chất. Thế nhưng tinh thần của nhà thơ vẫn vô cùng lạc quan, vẫn rất vui vẻ, hóm hỉnh chứ chẳng có chút khổ đau, buồn tủi nào.

Chính trong hoàn cảnh éo le đó, vẻ đẹp của tình bạn lại càng tỏa sáng hơn:

“Bác đến chơi đây, ta với ta”

Tuy nhà chẳng có gì, không gà, không cá, không rau, cũng chẳng có lấy miếng trầu, thế nhưng “bác” vẫn ghé chơi với gia chủ. Tình bạn này hoàn toàn dựa trên sự trân trọng, yêu mến lẫn nhau, không màng những thứ vật chất phù phiếm. Ở đây chỉ có “ta với ta”. Trong bài thơ “Qua đèo Ngang”, Bà Huyện Thanh Quan cũng sử dụng cụm từ này để chỉ nỗi cô đơn, lẻ loi trước thiên nhiên rộng lớn: “Một mảnh tình riêng ta với ta”. Tuy nhiên, ở “Bạn đến chơi nhà”, cụm từ “ta với ta” lại mang ý nghĩa khác.

Chữ “ta” đầu tiên là chủ nhà, còn chữ “ta” thứ hai là chỉ người khách. Họ tuy hai mà một, tuy một mà hai, thể hiện mối quan hệ gắn bó, song hành, chắng còn khoảng cách giữa những người tri âm tri kỉ.

Chỉ qua vài câu thơ ngắn gọn, Nguyễn Khuyến đã đem đến cho độc giả câu chuyện về một tình bạn đẹp. Tình bạn ấy vượt lên trên mọi thứ vật chất, chỉ đọng lại sự chân thành, mộc mạc, gần gũi. Qua đây, ta cũng thấy rõ hơn được tài năng nghệ thuật cũng như tấm lòng đáng quý của tác giả.

Tham khảo thêm mẫu 💛 Phân Tích Thu Ẩm Của Nguyễn Khuyến 💛 hay nhất

Phân Tích Một Tác Phẩm Thơ Trào Phúng Hay

Nguyễn Khuyến là một cây bút trào phúng nổi bật trong làng văn học trung đại Việt Nam. Bút pháp trào phúng của ông nhẹ nhàng, kín đáo nhưng vô cùng sâu cay. Đọc tác phẩm Hội Tây, em mới thực sự cảm nhận được đỉnh cao trong thơ trào phúng của Nguyễn Khuyễn.

Hội tây là một tác phẩm thơ thất ngôn bát cú mẫu mực về cấu tứ và nội dung. Ở ngay câu thơ đầu tiên, tác giả đã giới thiệu đến người đọc một sự kiện tưng bừng gọi nôm na là hội Tây:

“Kìa hội Thăng Bình tiếng pháo reo”

“Hội Thăng Bình” là ngày hội vui mừng do các quan Tây tổ chức tại Thăng Bình. Trong thời gian làm Bố Chánh ở Quảng Nam, Nguyễn Khuyến đã có dịp trực tiếp quan sát các lễ hội này. Nhưng cũng có người lại cho rằng, hội Thăng Bình này là lễ hội người Pháp tại Hà Nội tổ chức để ăn mừng Cách mạng Pháp thành công tại mẫu quốc.

Và họ tổ chức lễ hội cho dân đen ở xứ An Nam được chung vui, được hưởng “ké” niềm vui của mẫu quốc. Dù là theo nghĩa nào, thì lễ hội được nhắc đến ở câu thơ đầu cũng chẳng phải một lễ hội truyền thống của dân tộc ta, của người Việt ta tổ chức.

“Bao nhiêu cờ kéo với đèn treo.
Bà quan tênh nghếch xem bơi trải,
Thằng bé lom khom nghé hát chèo.
Cậy sức cây đu nhiều chị nhún,
Tham tiền cột mỡ lắm anh leo.”

Bầu không khí của lễ hội trở nên rạo rực với “cờ kéo” và “đèn treo” – hai món đồ trang trí đến từ Tây phương. Sự hiện diện của nó đã gián tiếp khẳng định đây chỉ là lễ hội của người Pháp mà thôi, chứ chẳng phải của chúng ta. Qua lời kể của Nguyễn Khuyến, lễ hội hiện lên thật tươi vui và sống động. Dù là lễ hội Tây, nhưng các trò chơi xuất hiện vẫn mang đậm truyền thống văn hóa của nước ta, như hát chèo, đánh đu, bơi lội, leo cột… Tuy nhiên, cách cách trò chơi được tả lại thì thật là khác lạ.

Nhà thơ sử dụng rất nhiều các tính từ giàu sức gợi, sức tả cho người đọc mặc sức tưởng tượng về lễ hội. Mấy bà quan vốn sang trọng, quý phái thì lại được miêu tả với dáng vẻ tênh nghếch kém duyên. Phận nữ nhi lại tụ tập đi xem người ta cởi trần bơi lội, đã vậy lại còn là các mệnh phụ phu nhân quyền quý.

Đối với xã hội phong kiến đương thời thì thật là thiếu đứng đắn. Trong sân hát chèo, nơi biểu diễn nghệ thuật truyền thống, thì lại có mấy thằng bé phải lom khom nghe hát chèo. Sao chúng lại phải lom khom để nghe hát, dù sân chèo rộng đến vậy? Chắc bởi các quan Tây, các phú ông phú bà đã chiếm hết chỗ ngồi, còn chúng phải đứng hầu, rồi tranh thủ nghe hát nên mới phải lom khom.

Đến trò chơi đánh đu quen thuộc vào các hội xuân cũng được xuất hiện trong lễ hội. Động tác di chuyển của người chơi được khắc họa bằng từ “cậy sức” làm cho trò chơi vốn mang đến không khí tươi vui, tràn ngập sức sống phút chốc lại trở nên thô thiển, kém duyên dáng của các chị.

Còn các anh thì hớn hở trèo lên các cột bôi mỡ vì tiền đang treo trên ngọn cây. Tính từ “tham” được đẩy ngay lên đầu câu, đã nhấn mạnh động cơ, mục đích của người tham gia chơi hội. Tất cả tạo nên một bầu không khí nhốn nháo, lộn xộn.

“Khen ai khéo vẽ trò vui thế,
Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu!”

Lễ hội vui vẻ, nhộn nhịp đó được khen là “khéo vẽ trò”. Cụm từ đó khẳng định tính chất mua vui, giải trí của lễ hội theo chiều hướng tiêu cực. “Vẽ trò” là cụm từ mà dân gian thường nói khi nhắc đến một sự kiện được tổ chức rầm rộ, cầu kì nhưng chẳng có ý nghĩa, giá trị gì cả.

Hội Tây được khắc họa trong bài thơ này cũng vậy. Người Tây tổ chức lễ hội để mua vui cho chính họ. Và kẻ được đem ra mua vui chính là những người dân An Nam vì tham tiền, ham vui mà mặc kệ danh dự, nhân phẩm, liều mình phấn đấu tham gia. Chúng gom hết những trò chơi dân gian truyền thống của dân tộc từ từ hát chèo đến leo cột, rồi đánh đu.

Những trò chơi đặc sắc của dân tộc ta, là niềm tự hào của nền văn hiến nghìn năm, nay bị đem ra làm trò mua vui cho những kẻ xâm lược. Ấy thế mà các nam thanh nữ tú vẫn nhiệt tình tham gia, phô bày dáng vẻ kệch cỡm, kém duyên để đem lại tiếng cười cho lũ thực dân Pháp. Vui sao? Càng vui bao nhiêu thì càng nhục bấy nhiêu. Cặp quan hệ từ tăng tiến bao nhiêu – bấy nhiêu đã khiến người đọc cảm nhận được sự phẫn uất của nhà thơ khi chứng kiến đồng bào mình bỏ mặc danh dự, nhân phẩm đi làm trò mua vui cho kẻ ngoại xâm.

Tinh thần tự tôn của dân tộc bị đạp xuống dưới những đồng tiền bẩn thỉu của lũ ngoại bang. Vậy mà họ lại không hề thấy nhục nhã chút nào, vẫn vui vẻ, vẫn hào hứng lắm. Dường như chẳng ai hay về cái thực tại ê chề đang diễn ra ở trước mắt mình.

Ngay từ nhan đề “Hội Tây”, nhà thơ Nguyễn Khuyến đã nhấn mạnh về chủ quyền của ngày hội. Ông phân biệt rành rọt đó là hội của người chứ chẳng phải hội của ta. Từ các vần thơ, hình ảnh tả thực, tác giả đã châm biếm sâu cay về cách tham gia hội người vô cùng hăng hái đến quên mất tự tôn, danh dự của người dân ta.

Từ đó, ông vạch trần tấm màn che giả dối nhân danh quyền con người của lũ thực dân Pháp. Bởi khi chúng đem người dân An Nam ra làm trò mua vui, thì nghĩa là chúng chẳng hề xem họ là con người, chẳng hề đối xử bình đẳng với họ.

Đó cũng là cái tát thẳng vào những con người đã tự biến mình thành trò vui. Để đánh thức lương tri, lòng tự tôn dân tộc trong chính họ. Đó chính là ngụ ý cao cả của nhà thơ thông qua những vần thơ châm biếm trong Hội Tây.

Bạn xem thêm 💛 Sơ Đồ Tư Duy Về Tác Giả Nguyễn Khuyến 💛 đầy đủ

Phân Tích Thơ Trào Phúng Của Hồ Xuân Hương

Hồ Xuân Hương là một nữ thi sĩ nổi tiếng. Một trong những tác phẩm hay của bà có thể kể đến Đề đền Sầm Nghi Đống.

Trước hết, Sầm Nghi Đống là tướng giặc theo Tôn Sĩ Nghị sang xâm lược, chiếm đóng kinh thành Thăng Long, giữ chức thái thú, được giao chấn thủ đồn Ngọc Hồi. Sau khi vua Quang Trung triệt phá đồn Ngọc Hồi (tháng Giêng năm 1978), Sầm Nghi Đống đã tự vẫn. Sau này, khi việc bang giao trở lại bình thường, vua Quang Trung cho phép Hoa kiều ở Hà Nội lập đền thờ. Tuy nhiên, theo tác giả bài thơ, viên tướng bại trận này không xứng đáng được thờ trong đền.

“Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo
Kìa đền thái thú đứng cheo leo”

Cụm từ “ghé mắt” được hiểu là nghiêng đầu và đưa mắt nhìn. “Ghé mắt trông ngang” mà không phải là “trông lên” thể hiện một thái độ coi thường. Hình ảnh “đền Thái thú đứng cheo leo” cho thấy thế đứng cao nhưng không có nơi bấu víu, dễ đổ xuống. Chữ “kìa” gợi ra động tác chỉ trỏ, không được tôn trọng. Rõ ràng, thái độ được bộc lộ ở đây là coi thường, bất kính. Hai câu thơ mở đầu đã bác bỏ hoàn toàn tính chất thiêng liêng, cung kính của một ngôi đền.

Ở hai câu thơ tiếp theo, Hồ Xuân Hương lại còn tự ví mình, so sánh mình với người được thờ trong đền:

“Ví đây đổi phận làm trai được
Sự nghiệp anh hùng há bấy nhiêu.”

Ý nghĩ đổi phận làm trai thể hiện thái độ mặc cảm phụ nữ đối với nam giới trong xã hội phong kiến. Nhưng mặt khác, nó còn thể hiện suy nghĩ không an phận của tác giả. Nếu như có thể đổi phận làm trai, Hồ Xuân Hương tự cho mình có thể làm được sự nghiệp lớn lao, trở thành bậc anh hùng. Từ đó, tác giả muốn chế giễu, phê phán tướng giặc Sầm Nghi Đống chỉ có sự nghiệp bấy nhiêu thôi.

Có thể thấy, bài thơ bộc lộ mong muốn được bình đẳng với phụ nữ, khát vọng lập nên sự nghiệp lớn lao. Thái độ “bất kính” trong bài thơ dường như là một thách thức đối với ý thức trọng nam khinh nữ. Bài thơ thể hiện tư tưởng mới mẻ, hiếm có trong xã hội phong kiến lúc bấy giờ, cho thấy cái tôi mạnh mẽ của Hồ Xuân Hương.

Tác giả đã sử dụng thủ pháp trào phúng nói giễu, cùng với thể thơ thất ngôn tứ tuyệt đã thể hiện được nội dung của bài thơ. Đề đền Sầm Nghi Đống là một bài thơ giàu giá trị, mang đậm phong cách sáng tác của Hồ Xuân Hương.

Đón đọc thêm 👉 Bài Thơ Bánh Trôi Nước Chế Vui

Phân Tích Thơ Trào Phúng – Tiến Sĩ Giấy Chọn Lọc

Cùng là thơ trào phúng, nếu Trần Tú Xương góc cạnh, sâu cay bao nhiêu thì Nguyễn Khuyến lại nhẹ nhàng, kín đáo bấy nhiêu. Giáo sư Dương Quảng Hàm từng nhận xét chất trào phúng trong thơ Nguyễn Khuyến chính là lời của bậc đại nhân quân tử dùng để khuyên răn người đời. Đặc điểm đó của bút pháp trào phúng trong thơ Nguyễn Khuyến được khắc họa rõ nét qua tác phẩm thơ Tiến sĩ giấy.

Nhà thơ Nguyễn Khuyến đã sáng tác Tiến sĩ giấy theo thể thơ thất ngôn bát cú – một thể thơ đường luật vô cùng quen thuộc với các cây bút thời trung đại. Bài thơ đi theo cấu tứ đề thực luận kết rất chỉn chu, mẫu mực, với các thi pháp văn học trung đại tinh tế đã làm bật lên nét sang trọng trong thơ ông.

“Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai,
Cũng gọi ông nghè có kém ai.”

Ngay hai câu đề, điệp từ “cũng” đã đươcn xuất hiện liên tiếp bốn lần. Từ “cũng” gợi lên cảm giác khá khiên cưỡng với sự vật xuất hiện phía sau nó. Khiến những cờ, biển, cân đai trở nên kém phần oai nghiêm, trang trọng. Theo đó, tác giả liệt lê ra các phục sức xuất hiện trên người của một vị tiến sĩ – người có chức quan đỗ cao nhất trong một kì thi lớn, đứng đầu bảng vàng.

Đó là những món đồ sang quý, biểu tượng cho người có vị thế, được nhiều người kính trọng. Biết bao sĩ tử tham gia vào con đường thi cử đều ao ước được mặc lên người những phujmc sức đó. Tuy nhiên, khi các phục sức cao quý ấy được liệt kê bằng điệp từ cũng mang vẻ khoe khoang, thì bỗng nhiên lại mang đậm tính mỉa mai. Đến cả danh xưng “ông nghè” oai phong cũng không nằm ngoài số phận đấy.

Đặc biệt khi nó được đi cùng với cụm từ “có kém ai”. Cụm từ ấy khiến cho chức vị ông nghè trở nên giải dối, học đòi, không có vẻ trang nhã của người có học thức. Nhưng vì sao tác giả lại mập mờ về thái độ với vị tiến sĩ này như vậy? Điều đó được nêu rõ ở hai câu thực tiếp theo.

“Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng,
Nét son điểm rõ mặt văn khôi.”

Ở đây, nhà thơ đã khẳng định sự tinh tế của bản thân khi sử dụng nghệ thuật đối một cách nhuần nhuyễn, tự nhiên. Mảnh giấy đối với thân giáp bảng, nét son đối với mặt văn khôi. Thông thường, phép đối trong thơ trung đại rất tôn sùng sự đăng đối, ngang hàng với nhau, nhưng trong hai câu thơ này, sự đăng đối có phần khiên cưỡng. Giáp bảng là bảng rồng công bố danh sách thi sinh đỗ bảng vàng.

Thân giáp bảng là người đỗ đạt cao, được bao người trọng vọng, ấy thế mà lại đối với một mảnh giấy vụn. Khuôn mặt tuấn tú, uy nghiêm của một trạng nguyên thì lại đối với một nét bút mực chấm đỏ. Sự chênh lệch một trời một vực về tính chất, giá trị của cả hai vế lúc này được hiển thị rõ ràng. Bởi thật ra, vị tiến sĩ này chính là một vị tiến sĩ làm từ giấy – món đồ chơi phổ biến trong dân gian. Sự đăng đối một cách kì lạ giữa các vế thơ đã được làm sáng tỏ.

Tuy nhiên nếu chỉ dừng lại ở tầng nghĩa đó, thì còn đâu là thơ Nguyễn Khuyến. Từ đầu đến cuối, chẳng có câu chữ nào nói rằng nhà thơ đang tả một món đồ chơi cả. Thật thật, giả giả chẳng biết đâu mà phán đoán. Đó cũng chính là ngụ ý của nhà thơ. Một món đồ chơi tiến sĩ chỉ cần mẩu giấy vụn, chấm một nét mực là đã có thể tạo thành. Quá đơn giản và dễ dàng.

Cách để tạo ra một tiến sĩ thật cũng thế. Chỉ cần quan chấm thi ậm ừ một nét bút, thế là đã có một tiến sĩ ra lò. Thật ở cái chức danh, cái áo quan, cái mão đội trên đầu, nhưng giả ở cái nội tình bên trong, ở cái trí tuệ ở trong người. Hình dáng vị tiến sĩ thật và tiến sĩ giấy lồng ghép vào nhau, tuy hai mà một, tuy thật mà giả. Sự trào phúng thâm thúy qua câu từ đó, chính là thủ pháp đặc trưng của nhà thơ Nguyễn Khuyến.

“Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ,
Cái giá khoa danh ấy mới hời.”

Đến với hai câu thơ luận, lần này, từ việc miêu tả khách quan chung chung để dẫn dắt người đọc. Thì lần này, nhà thơ đã chuyển sang nhận xét chủ quan. Vẫn là hình ảnh tấm xiêm áo, thân giáp bảng ở câu thực, lần này đã được nhận xét chi tiết thêm. Các tính từ “nhẹ”, “hời” khiến bộ phục sức của tiến sĩ càng thêm kém trang trọng. Xiêm áo đó nhẹ bởi vì nó là mẩu giấy vụn, nhưng cũng có lẽ bởi bên trọng nó rỗng tuếch, chẳng có chút phẩm đức, trí tuệ nào cả. Chiếc áo trạng nguyên quá rộng với một kẻ ngu dốt. Còn danh trạng nguyên thì lại quá hời.

Từ hời được dùng cho một phi vụ buôn bán mà chỉ phải bỏ ra một chút vốn, đã đem lại được nhiều lợi ích. Ắt hẳn cái danh trạng nguyên và những thứ có được sau khi đỗ đạt còn nhiều hơn số tiền bỏ ra mua chức trạng nguyên. Phía sau sự chế giễu vẻ rỗng tuếch, hữu danh vô thực của ông tiến sĩ giấy kia, là sự giễu nhại những vị tiến sĩ đầu óc trống trơn, bụng chẳng được mấy trang kinh thư, chỉ dựa vào ít tiền của để vinh danh bảng vàng. Nhưng cùng với đó, là sự ngậm ngùi, chua xót cho chính thân phận mình.

Bởi nhà thơ Nguyễn Khuyến cũng là một tiến sĩ. Ông cay đắng thay cho phận mình, bởi giờ đây cái danh tiến sĩ đâu còn danh giá như xưa. Trong mắt thế nhân, nó chỉ là một món đồ chơi tầm thường có thể mua được bằng tiền mà thôi.

Nỗi niềm ấy, khiến nhà thơ lại càng thêm gay gắt, càng thêm chán ghét những tiến sĩ giấy ngoài kia. Lấy hai câu thơ luận làm đòn bẩy, Nguyễn Khuyến đi đến câu thơ kết mang nhiều suy tư và ngụ ý:

“Ghế chéo lọng xanh ngồi bảnh choẹ,
Tưởng rằng đồ thật hoá đồ chơi.”

“Ghế chéo, lọng xanh” là vị trí ngồi của một vị tiến sĩ – vị trí oai nghiêm bao học trò ngưỡng mộ. Nhưng dáng ngồi bảnh chọe của vị tiến sĩ rởm đã phá tan hoàn toàn bầu không khí đó. Tiến sĩ vốn là đại diện cho những người đứng đầu xã hội về học vấn, ấy thế mà lại bị miêu tả với dáng vẻ thô thiển, kệch cỡm của những kẻ mãng phu. Sự trào phúng ấy đã giáng một đòn chí mạng vào những kẻ học đòi kia.

Vốn đã chẳng có trí tuệ, chẳng có học thức, nay đến vẻ ngoài cũng kệch cỡm, không bắt chước nổi cho ra dáng một vị tiến sĩ. Thế thì những kẻ đó có gì nhỉ? Chẳng có gì cả. Ở câu thơ cuối, nhà thơ sử dụng động từ “tưởng” để vạch trần sự giả dối của những tiến sĩ trên kia.

Tưởng là đồ thật, hóa đồ chơi. Thì ra từ đầu bài thơ đến đây, tác giả vẫn còn ngờ ngợ về sự thực chất của các tiến sĩ. Nhưng giờ đây ông đã chắc chắn rằng, đó chỉ là đồ chơi mà thôi. Câu khẳng định ấy đã vạch trần tấm màn che cuối cùng, khiến các tiến sĩ rởm không còn chỗ ẩn náu nữa.

Mượn hình ảnh tiến sĩ giấy – một món đồ chơi dân gian, nhà thơ Nguyễn Khuyến dùng giọng điệu mỉa mai, trào phúng của mình để phê phán, vạch trần bộ mặt thật của các vị tiến sĩ đương thời. Đó là những kẻ bù nhìn, chỉ có vẻ ngoài kệch cỡm cố bắt chước, ra vẻ.

Nhưng vì chẳng có nội hàm, cái đầu lại rỗng tuếch nên tự biến mình thành trò hề, thành món đồ chơi cho những kẻ cầm quyền. Những tiến sĩ đó là đại diện cho nền học vấn của nước nhà, đại diện cho cả một triều đình phong kiến. Sự giả tạo, rỗng tuếch của họ chính là đại biểu cho một triều đại mục rỗng ở bên trong. Đó cũng chính là một trong các lí do khiến Nguyễn Khuyến lựa chọn rời bỏ triều đình để ẩn cư.

Gửi đến bạn những mẫu 👉 Phân Tích Thu Vịnh Của Nguyễn Khuyến 

Phân Tích Thơ Trào Phúng – Thương Vợ Điểm Cao

Trần Tế Xương hay còn có bút danh là Tú Xương, ông là một tác giả nổi tiếng với nhiều tác phẩm mang chất trào phúng và trữ tình. Ông chỉ sống 37 tuổi và học vị tú tài, nhưng sự nghiệp thơ ca của ông đã trở thành bất tử. Ông để lại khoảng 100 tác phẩm gồm: thơ, văn tế, phú, câu đối.

Một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông là bài thơ “Thương vợ”. Một bài thơ tô đọng trong đó là những phẩm chất tốt đẹp của người vợ, người phụ nữ đảm đang, chịu thương, chịu khó vì hạnh phúc của chồng con. Bài thơ được Tú Xương viết như sau:

“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.

Một duyên hai nợ, âu đành phận
Năm nắng mười mưa, dám quản công
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc!
Có chồng hờ hững cũng như không!”

Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú đường luật với bố cục được chia làm bốn phần: đề, thực, luận, kết. Mỗi phần hai câu nhằm khắc họa một cách sắc nét hình ảnh bà Tú – vợ Tú Xương, cũng như đang nói lên một phần nào đó hình ảnh người phụ nữ ở xã hội xưa.

Trong hai cầu đề Tú Xương đã giới thiệu một cách khái quát về công việc của bà Tú. Đó là sự tần tảo “quanh năm” buôn bán ở mom sông, việc mua bán này không hề có cửa tiệm hay vốn liếng nhiều. Đây là một công việc vất vả, cực nhọc, thu nhập bất ổn song bà Tú vẫn đang “nuôi đủ” năm con với một chồng mà không một lời oán trách.

Trong câu này, tác giả tách mình một bên, con một bên nhằm nhấn mạnh việc, mặc dù ông đỗ tú tài nhưng không được làm quan, phải đặt gánh nặng lên đôi vai của người vợ, người mà ông yêu thương. Câu thơ như là lời trách nặng nề của tác giả đối với chính bản thân mình, nhưng qua câu thơ ta cũng thấy được cái tình cảm yêu thương mà Tú Xương dành tặng cho vợ mình.

Để diễn tả một cách cụ thể hơn sự vất vả trong công việc của bà Tú, trong hai câu thực tác giả đã mượn hình ảnh con cò trong ca dao Việt Nam để biến thành “thân cò” nhằm thể hiện sự lặn lội vất vả của bà Tú trong công việc mưu sinh hàng ngày tại nơi “quãng vắng”. Bên cạnh đó, Tú Xương còn khái quát một cách sinh động cảnh bán buôn ở mom sông của bà Tú qua câu “Eo sèo mặt nước buổi đò đông”. Đó là hình ảnh nhốn nháo, tranh chấp mua bán của nhiều con người có công việc như bà Tú. Nhìn chung, cuộc đời bà Tú không ít khó khăn gian khổ.

Sự khó nhọc, vất vả của bà Tú không được dừng lại ở hai phần đề và thực mà nó còn tăng lên ở phần luận. Bằng việc sử dụng hai câu thuật ngữ “một duyên, hai nợ” và “năm nắng mười mưa” tác giả đã toát lên sự hi sinh cao cả của bà Tú, đó là việc chấp nhận số phận chăm lo cho chồng con và dù nắng hay mưa cũng không bỏ việc.

Ở đây, Tú Xương đã nêu lên đức tính tốt đẹp của bà Tú nói riêng và người phụ nữ nói chung, đó là sự tần tảo, đảm đang, nhẫn nại, sẵn sàng hi sinh vì gia đình. Đồng thời qua đây tác giả cũng bộc lộ nỗi niềm biết ơn và quý trọng đối với bà Tú.

Cùng với quý trọng và biết ơn bà Tú ở hai câu luận, thì hai câu kết là một cách nói ngao ngán về nỗi niềm tâm sự của tác giả – Tú Xương. Một lời thở dài về “cái thói đời” ông nhắc đến chính là cái xã hội lúc bấy giờ – một xã hội mang tính nửa tây nửa ta, nửa phong kiến, nửa thực dân với những tư tưởng và đạo lí bị suy thoái.

Bên cạnh ông tự trách bản thân sao mà “ăn ở bạc” thi cử hoài mà không đỗ đạt, chẳng thể làm quan, không giúp được gì cho vợ con, đẩy vợ con phải chịu khổ vì mình. Cuối cùng mọi thứ đúc kết trong lời than đầy xót xa của Tú Xương:

“Có chồng hờ hững cũng như không”.

Tóm lại “Thương vợ” là một bài thơ hay mang đậm giá trị cảm xúc của Tú Xương. Nó hay trong cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh trong ca dao, thành ngữ của Tú Xương.

Bài thơ lại mang đậm cảm xúc chân thành, lời thơ giản dị mà sâu sắc, nói lên tình cảm yêu thương, sự quý trọng mà Tú Xương dành cho vợ. Bên cạnh đó, bài thơ còn thể hiện đức tính đẹp của người phụ nữ Việt Nam xã hội xưa nói chung và bà Tú nói riêng.

Chia sẽ bạn trọn bài 🍀 Dàn Ý Phân Tích Thương Vợ 🍀 Nhiều mẫu

Phân Tích Thơ Trào Phúng – Ông Phỗng Đá Học Sinh Giỏi

Nhà thơ Nguyễn Khuyến tên thật là Nguyễn Văn Thắng. Ông xuất thân từ một gia đình nhà nho nghèo, hai bên nội ngoại đều có truyền thống khoa bảng. Nếu như Xuân Diệu được mệnh danh là “ông hoàng thơ tình” thì Nguyễn Khuyến lại là “nhà thơ của nhân dân, làng cảnh Việt Nam”. Với những bài thơ gắn liền với tình yêu quê hương, đất nước, tình cảm giữa người với người, phản ánh cuộc sống thuần khổ của người nông dân, châm biếm tầng lớp thống trị, đồng thời bộc lộ tấm lòng ưu ái với dân, với nước.

Tình yêu của ông đối với đất nước còn thể hiện qua việc, khi quân Pháp chiếm đóng đất nước, tình thế hoàn toàn rơi vào tay giặc không tài nào cưỡng được ông cáo lệnh từ quan về quê ở ẩn, gói ghém tâm hồn đối với giang sơn vào trong những lời thơ nồng nàn thấm thía.

Trong số tác phẩm đặc sắc của Nguyễn Khuyến, không thể không kể đến bài thơ “Ông phỗng đá” – đỉnh cao chói sáng trong thơ trào phúng của ông. Bài thơ là lời tự trào của tác giả khi đứng trước hình ảnh ông phỗng đá trên hòn non bộ.

“Ông đứng làm chi đó hỡi ông?
Trơ trơ như đá, vững như đồng.
Đêm ngày gìn giữ cho ai đó,
Non nước đầy vơi có biết không?”

Bài thơ “Ông Phỗng Đá” của nhà thơ Nguyễn Khuyến là một tác phẩm thơ mang ý nghĩa sâu sắc về sự kiên định, cống hiến và tình yêu quê hương, ý thơ phảng phất mỉa mai niềm đắng cay của thời thế. Tác phẩm này được viết theo thể thơ lục bát, với sự xen kẽ giữa các phép nghệ thuật như miêu tả, từ láy,…; tạo nên một cấu trúc thơ độc đáo và thu hút người đọc.

“Ông đứng đó làm chi hỡi ông?
Trơ trơ như đá, vững như đồng”

Nguyễn Khuyến sử dụng hình ảnh một người đứng như một tảng đá qua câu hỏi tu từ “Ông đứng đó làm chi hỡi ông?”, một người đàn ông đang đứng trên khối đồng. Tác giả hỏi ông phỗng đá đứng đó làm gì, dường như là một câu hỏi vô vọng bởi vì chính bản thân ông phỗng đá cũng đâu biết mình đang làm gì và cũng chả biết sẽ trả lười như thế nào.

Thán từ “ hỡi” kết hợp với đại từ “ông” làm cho câu thơ mang giá trị biểu cảm cao, bộc lộ cảm xúc dâng trào. Làm cho câu hỏi được nhắn mạnh hơn, nhằm ý muốn có được câu trả lời. Sử dụng hình ảnh “Ông đứng” diễn tả sự bền vững, kiên định của con người trong cuộc sống. Ông như một biểu tượng của sự ổn định và không thay đổi.

Câu thơ tiếp theo càng làm rõ thêm bức chân dung về ông phỗng đá, Từ láy “trơ trơ”, kết hợp với hình ảnh so sánh “ như đá”, “vững như đồng” càng làm rõ nét thêm hình ảnh của ông phỗng đá cắng rắn và kiên định. Những dòng thơ trào phúng mang giọng điệu phê phán của Nguyễn Khuyến không chỉ xuất hiện trong những câu thơ trên, mà nó như một nỗi ám ảnh, day dứt, khiến nhà thơ trăn trở mãi về những thói xấu ở cái xã hôi lúc bấy giờ, bọn quan lại không biết xót thương tới những cảnh lầm than của người dân trong cái xã hội cùng cực.

“Đêm ngày gìn giữ cho ai đó,
Non nước đầy vơi có biết không?”

Tiếp theo, câu thơ : “Đêm ngày gìn giữ cho ai đó?” Từ câu hỏi này, tác giả khơi dậy sự tò mò và muốn cậy hỏi “Ông” xem người đứng vững đó để làm gì, có phải đang bảo vệ và giữ gìn cái gì đó cho ai hay không. Ý hỏi ông phỗng đá đang ngày đêm gìn giữ điều gì, có phải đang níu kéo cái đạo lý cương thường một thời của Nho giáo, cái bản sắc dân tộc khi xưa đang mất dần vị thế độc tôn? Nhưng “ông phỗng đá” thực chất chỉ là một tản đá vô chi vô giác làm sao trả lời được câu hỏi của Nguyễn Khuyến.

Câu hỏi này tạo ra một tầng ý nghĩa sâu xa về sự cống hiến và trách nhiệm của người đứng đầu. Cuối cùng, câu thơ cuối cùng đặt câu hỏi: “Non nước đầy vơi có biết không?” Câu hỏi này nhấn mạnh công lao, cống hiến và tình yêu quê hương mà người đứng vững đã dành cho non nước. Nhưng liệu có ai thực sự hiểu và trân trọng những điều đó không.

Hình ảnh “non nước đầy vơi” gợi mở ra nhiều ý nghĩa. Non nước đầy vơi ấy không chỉ diễn tả cái hình ảnh giang sơn đất nước, núi non trùng trùng đầy vơi như nào, khung cảnh tráng lệ ra sao. Mà ý nghĩa sâu bên trong “non nước đầy vơi” ở đây chính là cái thực trạng xã hội khi đó Nguyễn Khuyến sống. Đó là cái xã hội phong kiến đầy biến động: Thực dân Pháp đang rêu rao xâm lược, triều đình thì bạc nhược suy thoái, quan lại thì bù nhìn, các phong trào đấu tranh yêu nước thì liên tục thất bại bà dập tắt.

Với việc sử dụng liên tiếp hai câu hỏi tu từ không chỉ thể hiện thái độ mỉa mai, châm biếm của tác giả trước sự vô cảm, vô trách nhiệm của đám quan lại, triều đình phong kiến trước an nguy của đất nước, sự suy vọng của dân tộc.Ý nghĩa này đặt câu hỏi về sự đánh giá và trân trọng công lao và nỗ lực của người dân mà không được ai coi trọng.

Trong “Ông phỗng đá” nhà thơ đã đem ra trào phúng, châm biếm, hình ảnh triều đình, quan lại, bạc nhược thờ ơ trước những nỗi đau khốn khổ bần cùng của người dân. Để có được sự thành công khi sử dụng lối trào phúng trong bài thơ, chính Nguyễn Khuyến cũng đưa vào những trải nghiệm của bản thân ông là người trong cuộc, ông cũng là người làm quan trong triều, nhưng trơ trơ như ông phỗng đá không giúp ích gì được cho dân, cho nước.

Bài thơ được ra đời trong hoàn cảnh xã hội thực dân nửa phong kiến với những biểu hiện lố lăng, kệch cỡm. Ở đó mọi giá trị đạo đức truyền thống đã bị đảo lộn, còn cái mới lại mang bộ mặt của kẻ xâm lược. Tuy chỉ là một bài thơ ngắn, thế nhưng tác phẩm không chỉ giúp ta hiểu rõ hơn về nghệ thuật thơ trào phúng, mà còn khiến ta cảm nhận rõ hơn thực trạng xã hội phong kiến với sự thờ ơ cảu bọn quan liệu trước vận mệnh của nhân dân.

Chính vì thế, lớp bụi thời gian có thể phủ nhòa đi mọi thứ, nhưng bài thơ này cùng giá trị châm biếm, mỉa mai sâu cay thì vẫn còn mãi như minh chứng cho tấm lòng yêu nước, thương dân, chua xót cho tình cảnh “non nước” của nhà thơ Nguyễn Khuyến.

Tổng thể, bài thơ “Ông Phỗng Đá” của Nguyễn Khuyến là một tác phẩm thơ nhỏ nhưng chứa đựng những ý nghĩa sâu sắc về sự kiên định, cống hiến và tình yêu quê hương. Khắc họa lên trình trạng xã hội khi bọn thực dân xâm lược lộng hành.

Tác giả thông qua việc sử dụng hình ảnh nhân hóa và câu hỏi tu từ, gợi mở sự tò mò và đánh giá về người đứng vững giữa cuộc đời và sự trân trọng công lao và nỗ lực của người khác. Bài thơ này là một lời nhắn nhủ để chúng ta đánh giá và trân trọng những người cống hiến và giữ gìn cho cộng đồng và quê hương.

Tổng hợp cho bạn những bài 💛 Thơ Nguyễn Khuyến 💛 nổi tiếng

Phân Tích Thơ Trào Phúng – Đất Vị Hoàng Ngắn

Trần Tế Xương, một trong những ngôi sao sáng của văn học trung đại Việt Nam, không chỉ là một nhà thơ mà còn là một nhà tư tưởng, truyền đạt những suy nghĩ sâu sắc về thời đại và xã hội thông qua những tác phẩm thơ của mình. Điểm đặc biệt của ông là khả năng truyền đạt những quan điểm này không chỉ qua lối thơ thông thường mà còn qua bút pháp trào phúng sắc sảo.

Trong các tác phẩm của Trần Tế Xương, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy sự châm biếm, đả kích từ nhẹ nhàng đến sâu sắc đối với những vấn đề tiêu cực, những thói hư tật xấu trong xã hội. Qua những dòng thơ trào phúng ấy, không chỉ tư tưởng mà cảm xúc của nhà thơ cũng được thể hiện mạnh mẽ hơn, từ sự bất bình, phẫn uất đến sự xót xa, đau đớn trước những biến cố của cuộc sống.

Bài thơ “Đất Vị Hoàng” là một ví dụ tiêu biểu cho phong cách thơ văn của Trần Tế Xương. Thông qua bút pháp trào phúng, ông đã lên tiếng thể hiện sự phẫn nộ, bất mãn trước sự biến chuyển của xã hội, sự mất mát của những giá trị truyền thống và văn hóa trong quê hương. Cảm xúc đau đớn, xót xa rõ ràng trong từng câu, từng chữ của bài thơ, thể hiện sự lo lắng, bận tâm của nhà thơ đối với quê hương, xã hội của mình.

Bài thơ sử dụng hình ảnh của vùng quê Đất Vị Hoàng để phản ánh sự thay đổi đau lòng trong xã hội. Câu hỏi ẩn dụ “Có đất nào như đất ấy không?” không chỉ là nỗi lòng của Trần Tế Xương mà còn là câu hỏi cho toàn bộ xã hội, nâng cao tầm tư tưởng của tác phẩm.

Với cấu trúc thơ thất ngôn bát cú và ngôn từ sắc sảo của ngôn ngữ Nôm, bài thơ “Đất Vị Hoàng” đã thành công trong việc truyền đạt thông điệp và cảm xúc của nhà thơ. Đây không chỉ là một tác phẩm trào phúng đặc sắc mà còn là một tuyên bố về lòng yêu nước, lo lắng cho quê hương của Trần Tế Xương.

SCR.VN gợi ý bài 🌺 Câu Cá Mùa Thu ❤️️ Phân Tích Thu Điếu Nguyễn Khuyến

Phân Tích Thơ Trào Phúng – Lễ Xướng Danh Khoa Đinh Dậu Ấn Tượng

Tú Xương là một nhà thơ với nhiều tác phẩm nổi tiếng. Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu là một trong những bài thơ trào phúng tiêu biểu của tác giả.

Mở đầu, tác giả đã giới thiệu đôi nét về khoa thi Đinh Dậu – có thật trong lịch sử:

“Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà.”

Việc thi cử được tổ chức nhằm tuyển chọn nhân tài ra giúp vua. Nhưng trong hoàn cảnh thực dân Pháp xâm lược, nắm giữ chính quyền thì việc thi cử đã có nhiều thay đổi. Dù vẫn còn thi chữ Hán theo lộ cũ “ba năm mở một khoa” nhưng kì thi lại hết sức hỗn tạp: “Trường Nam thi lẫn với trường Hà”. Ở Bắc Kì vốn có hai trường thi Hương là “trường Nam” trường thi Nam Định và “trường Hà” – trường thi ở Hà Nội. Nhưng thực dân Pháp đã đánh chiếm Hà Nội, cho bỏ trường thi ở Hà Nội. Các sĩ tử Hà Nội phải xuống thi chung ở trường Nam Định.

Tiếp đến, hai câu thực đã miêu tả cảnh nhập trường và xướng danh hiện lên vô cùng khôi hài:

“Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm ọe quan trường miệng thét loa.”

“Sĩ tử” vốn là những người thuộc tầng lớp trí thức trong xã hội phong kiến, theo nghiệp bút nghiên nên mang phong thái nho nhã. Nhưng hình ảnh “sĩ tử” ở đây lại hiện lên thật lôi thôi, nhếch nhác. Cách sử dụng biện pháp tu từ đảo ngữ, đưa từ láy “lôi thôi” lên đầu câu thơ đã gây ấn tượng mạnh cho người đọc.

Không chỉ vậy, khung cảnh trường thi lúc này không còn là chốn tôn nghiêm mà trở nên ồn ào, chẳng khác nào cảnh họp chợ nên quan trường mới “ậm oẹ” và “thét loa” – những người coi thi cũng chẳng còn cái phong thái nghiêm trang, trịnh trọng vốn có. Qua chi tiết này, người đọc cười đấy mà cũng buồn đấy trước tình cảnh đất nước lúc bấy giờ.

“Cờ kéo rợp trời, quan sứ đến;
Váy lê quét đất, mụ đầm ra.”

Một kì thi mang tính trọng đại của đất nước. Nhưng hình ảnh xuất hiện ở đây – “cờ kéo rợp trời” gợi tả cảnh đón tiếp dành cho “quan sứ” – lũ cướp nước đầy long trọng. Không chỉ vậy, từ xưa, chốn trường thi là nơi tôn nghiêm, lễ giáo phong kiến vốn trọng nam khinh nữ, phụ nữ không được đến. Vậy mà bây giờ lại có hình ảnh “mụ đầm ra” với “váy lê quét đất” càng làm tăng thêm sự nực cười. Qua chi tiết này, chúng ta thấy được sự suy thoái của đất nước lúc bấy giờ.

Cuối cùng, tác giả đã bộc lộ tâm trạng trước tình cảnh của đất nước lúc bấy giờ:

“Nhân tài đất Bắc nào ai đó?
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà.”

Câu hỏi tu từ “nhân tài đất Bắc nào ai đó” nhưng không nhằm mục đích biết câu trả lời. Đó là một lời thức tỉnh các sĩ tử về nỗi nhục mất nước. Kẻ thù xâm lược vẫn còn đó, thì đường công danh này có ý nghĩa gì.

Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu đã khắc khắc họa khung cảnh trường thi nhốn nháo, để làm bật lên tiếng cười chua chát về cảnh ngộ mất nước trong buổi đầu của xã hội thực dân nửa phong kiến.

Chia sẻ cho bạn 5+ mẫu 👉 Phân Tích Bài Thơ Tiếng Thu Của Lưu Trọng Lư

Viết một bình luận