Phân Tích Thuý Kiều: 36+ Bài Văn Phân Tích Ngắn Hay Nhất

Phân Tích Thuý Kiều ❤️️36+ Bài Văn Phân Tích Ngắn Hay Nhất ✅ Đón Đọc Tuyển Tập Nghị Luận Văn Học Hình Tượng Nhân Vật Thuý Kiều Của Nguyễn Du.

Dàn Ý Phân Tích Thuý Kiều

Lập dàn ý phân tích Thuý Kiều sẽ giúp các em học sinh nắm được những luận điểm chính để  triển khai bài viết. Tham khảo mẫu dàn ý phân tích nhân vật Thuý Kiều dưới đây:

I. Mở bài phân tích Thuý Kiều:

-Giới thiệu sơ lược về tác giả, tác phẩm, đoạn trích:

  • Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc, nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn của văn học Việt Nam.
  • Truyện Kiều là một kiệt tác của Nguyễn Du trong thi đàn văn chương Việt Nam.
  • Đoạn trích Chị em Thúy Kiều đã đặc tả chân dung của hai chị em Thúy Kiều và Thúy Vân.

-Giới thiệu khái quát nội dung cần phân tích – nhân vật Thuý Kiều trong đoạn trích: Truyện đã khắc họa thành công hình tượng nhân vật Thúy Kiều, thể hiện tài năng miêu tả chân dung nhân vật bậc thầy của Nguyễn Du.

II. Thân bài phân tích Thuý Kiều:

a. Phân tích vẻ đẹp của Thuý Kiều:

  • Câu thơ đầu khái quát tài sắc của Thuý Kiều: “càng sắc sảo, mặn mà”. Đó là vẻ đẹp trưởng thành, tinh anh, thông tuệ, có tài có sắc.
  • “thu thủy, xuân sơn” : lối ước lệ tượng trưng đặc tả đôi mắt trong sáng, long lanh của Kiều.
  • “mây thua nước tóc”, “liễu hờn kém xanh”
  • Thúy Kiều là người con gái có vẻ đẹp tuyệt sắc giai nhân khiến thiên nhiên cũng phải ganh tị. Nhan sắc của Kiều đã vượt ra ngoài khuôn khổ của quy luật tự nhiên, ngoài trí tưởng tượng.

b. Phân tích trí tuệ và tài hoa của Thuý Kiều:

-Thúy Kiều vừa có sắc vừa có tài năng:

  • “thông minh vốn sẵn tính trời”. Cái tài của Thúy Kiều đạt đến mức lí tưởng theo quan niệm thẩm mĩ phong kiến: cầm, kì, thi, họa.
  • Nhấn mạnh tài đàn của nàng, đặc biệt cung đàn bạc mệnh của nàng (Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân) là tiếng lòng của trái tim đa sầu, đa cảm.
  • Thúy Kiều đẹp toàn diện cả sắc, tài, tình, đẹp “nghiêng nước nghiêng thành”

-Tài sắc của Kiều dự cảm về số phận đầy sóng gió:

  • Miêu tả Thuý Kiều, tác giả dùng những từ chỉ mức độ: ghen, hờn -> thiên nhiên phải ghen tị, hờn giận trước vẻ đẹp và tài năng, tâm hồn của Thúy Kiều, từ đó báo hiệu một cuộc đời nhiều gian nan, sóng gió.
  • Nhan sắc và sự tài hoa của Thúy Kiều báo hiệu cho một dự cảm không lành, một số phận éo le, bất hạnh.
  • Số phận chung của người phụ nữ xưa phải chịu những tủi cực, khó khăn, sự bất công của xã hội. Cuộc đời của họ như tấm lụa đào phất phơ giữa chợ, như thân bèo trôi nổi vô định không biết trôi dạt về đâu.

c. Đánh giá nghệ thuật:

  • Sử dụng tài tình các tính từ miêu tả
  • Thủ pháp ước lệ tượng trưng: lấy từ chỉ thiên nhiên tả vẻ đẹp con người.
  • Sử dụng từ ngữ có tính chất tiên đoán số phận: thua, nhường, ghen, hờn
  • Nghệ thuật sử dụng ngôn từ độc đáo, đặc biệt là những từ có giá trị gợi tả cao.
  • Các biện pháp so sánh, ẩn dụ, nhân hóa, đối xứng, liệt kê…

III. Kết bài phân tích Thuý Kiều:

  • Nhân vật Kiều là nhân vật điển hình cho hình tượng người phụ nữ xưa tài hoa mà bạc mệnh
  • Lên án, tố cáo một xã hội bất công, thối nát đẩy con người vào tình cảnh éo le.

Cùng với phân tích Thuý Kiều, đừng bỏ qua 🔥 Tóm Tắt Truyện Kiều 🔥 21 Mẫu Văn Bản Nội Dung Hay

Mở Bài Phân Tích Thuý Kiều

Với gợi ý viết mở bài phân tích Thuý Kiều sinh động và ấn tượng dưới đây, các em học sinh có thể tham khảo để vận dụng cho bài viết của mình.

Mặc dù đến nay Truyện Kiều đã trải qua hàng thế kỷ nhưng sức sống của nó vẫn còn nguyên vẹn. Nguyễn Du đã để lại cho chúng ta một kiệt tác, một tác phẩm thiên tài. Một trong những độc đáo của Truyện Kiều đó chính là nghệ thuật miêu tả. Nhắc tới miêu tả người ta không thể không nhắc tơi bút pháp tả người của Nguyễn Du và đoạn trích được xem là hay nhất nói về tài năng tả người của Nguyễn Du đó là “chị em Thúy Kiều”.

Trong đó tác giả đặc biệt chú ý đến nhan sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành của Thúy Kiều mà không lẫn với bất kì cô gái đẹp nào. Qua những câu thơ của đại thi hào ta thấy được những vẻ đẹp của người con gái hồng nhan bạc mệnh Thuý Kiều. Đồng thời qua đó ta thấy được quan điểm nghệ thuật mới tiến bộ về con người của Nguyễn Du.

Kết Bài Phân Tích Nhân Vật Thuý Kiều

Tham khảo đoạn văn mẫu kết bài phân tích nhân vật Thuý Kiều dưới đây với những nhận xét tổng kết vấn đề nghị luận văn học.

Có thể nói Nguyễn Du đã rất tinh tế khi miêu tả nhân vật Thuý Kiều, ông miêu tả chân dung Thuý Vân trước để làm nổi bật chân dung Thuý Kiều, ca ngợi cả hai nhưng đậm nhạt khác nhau ở mỗi người. Chỉ dành bốn câu thơ để tả Vân, trong đó dành tới 12 câu thơ để tả Kiều, Vân chỉ tả nhan sắc, Kiều cả tài , sắc, tình đều đặc đặc tả. Đó chính là thủ pháp đòn bẩy.

Qua đây ta thấy Nguyễn Du, một người nghệ sĩ tài ba đã mang đến một hình tượng nhân vật Thúy Kiều – đại diện cho những người phụ nữ tài hoa nhưng bạc mệnh trong xã hội phong kiến. Chính cái xã hội ấy đã chà đạp lên những phẩm chất và vẻ đẹp mà đáng nhẽ ra phải có cuộc sống hạnh phúc của họ. Đồng thời đại thi hào cũng thể hiện được đặc sắc nghệ thuật tiến bộ về con người của mình.

Nguyễn Du đã trở thành một người nghệ sĩ tài ba vẽ lên bức chân dung mà không chỉ nhân dân Trung Quốc, nhân dân Việt Nam phải ngưỡng mộ và khâm phục mà đến cả những đọc giả nước ngoài cũng phải thích khi ngắm nhìn bức chân dung tuyệt mĩ này. Vẻ đẹp của Thuý Kiều đã dự báo cho chúng ta biết về cuộc sống của nàng sau này. Đó chính là nghệ thuật vẽ tranh bằng ngôn từ mà Nguyễn Du đã mang đến cho chúng ta.

Bên cạnh phân tích Thuý Kiều, khám phá thêm 🔥 Sơ Đồ Tư Duy Truyện Kiều Nguyễn Du 🔥 14 Mẫu Vẽ Tóm Tắt

Viết Đoạn Văn Phân Tích Thuý Kiều

Tham khảo gợi ý viết đoạn văn phân tích Thuý Kiều dưới đây sẽ giúp các em học sinh nắm được những nội dung chính khi làm bài.

Đoạn trích “Chị em Thuý Kiều” là đoạn nằm ngay trong phần đầu của tác phẩm “Truyện Kiều” thuộc phần I – Gặp gỡ và đính ước. Hơn hết, Thuý Kiều vẫn là người con gái hoàn hảo cả về nhan sắc, tài năng. Những nét đẹp này vẫn rực rỡ, tỏa sáng dù có thế nào. Nàng vẫn giữ trọn một lòng tâm đức vẹn toàn. Về nhan sắc, Nguyễn Du đã miêu tả nàng qua những nét vẽ:

“Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn”

Hai câu thơ càng như thêm khẳng định vẻ đẹp của Kiều. Ông vốn muốn lấy vẻ đẹp của Thuý Vân để làm nền cho vẻ đẹp của Thuý Kiều nổi trội hơn, rực rỡ hơn. Với thủ pháp nghệ thuật đòn bẩy như trên, kết hợp với các từ ngữ mang ý nghĩa so sánh như là “càng, phần hơn” và các tính từ “sắc sảo, mặn mà”, tác giả đã khẳng định Kiều có vẻ đẹp rực rỡ về dung nhan, đằm thắm về tâm hồn, tình cảm. Vẻ đẹp ấy là sự hội tụ của cả tài lẫn sắc “so bề tài sắc” điều mà Thuý Vân không có. Sau lời thơ miêu tả khái quát, tác giả lại đi vào miêu tả chi tiết Kiều:

“Làn thu thủy nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.”

Khi tả Vân, tác giả lại đi vào miêu tả từng chi tiết, đường nét, từ gương mặt đến nụ cười, màu da, nước tóc. Còn khi tả Kiều, tác giả chỉ lựa chọn một chi tiết nhưng đấy lại là một chi tiết mang tính thần thái nhất, góp phần làm nên nhãn tự cho câu thơ, đó chính là đôi mắt nàng Kiều. Đôi mắt nàng trong sáng và thăm thẳm như mặt nước hồ thu ẩn dưới cặp lông mày thanh thản như dáng núi mùa xuân.

Tác giả đã mượn hình ảnh ước lệ tượng trưng kết hợp với các vế tiểu đối gợi nhiều hơn tả, tác giả đã khắc hoạ được vẻ đẹp sắc sảo, kiều diễm, lộng lẫy của một trang giai nhân tuyệt thế với tâm hồn đa sầu, đa cảm. Và hơn thế nữa, vẻ đẹp ấy khiến cho hoa phải ghen, liễu phải hờn. Trong tự nhiên, hoa vốn tượng trưng cho cái đẹp thắm tươi, rực rỡ, còn liễu lại là tượng trưng cho sự mềm mại, tha thiết. Vậy mà cả hai đều phải “ghen, thua” nhường bước, lùi bước trước vẻ đẹp nổi trội, vượt ngưỡng của nàng Kiều với thái độ ganh ghét, đố kị.

Kiều không chỉ có vẻ đẹp khiến hoa cũng phải ghen, liễu cũng phải hờn mà còn có tài năng xuất chúng, cầm kì thi hoạ, với “đủ món nghề”:

“Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương.
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”.

Ở Kiều, tài năng vốn là thiên bẩm, trời phú cho nàng sự thông minh và nét tài hoa hơn người, nàng có thể làm thơ, vẽ tranh, ca hát và đánh đàn. Trong đó, tài đánh đàn là nổi trội hơn cả. Không chỉ thế, nàng còn có thể sáng tác nên những bản nhạc “Bạc mệnh”. Bằng nghệ thuật liên kê kết hợp với những từ ngữ miêu tả cụ thể, tác giả đã khắc hoạ tài năng của Kiều là tài năng xuất chúng, nó hội tụ đầy đủ những yếu tố theo quan niệm truyền thống của xã hội phong kiến xưa kia đó là “cầm-kì-thi-hoạ”.

Viết về tài năng của Kiều, một lần nữa, nhà thơ lại cho chúng ta hiểu thêm về tâm hồn của Kiều, của người con gái ấy. Nguyễn Du đằng sau những từ ngữ miêu tả vẻ đẹp của Thuý Kiều trong “Truyện Kiều” nói chung và “Chị em Thuý Kiều” nói riêng đã thể hiện thái độ ngợi ca, trân trọng tài năng của người phụ nữ trong xã hội xưa, đây là nét mới mẻ và độc đáo của Nguyễn Du so với đương thời.

Tiếp theo phân tích Thuý Kiều, mời bạn xem nhiều hơn 🌟 Thuyết Minh Truyện Kiều 🌟 12 Bài Văn Mẫu Hay Nhất

Bài Văn Phân Tích Thuý Kiều Hay Nhất – Mẫu 1

Đón đọc bài văn phân tích Thuý Kiều hay nhất được chọn lọc và chia sẻ dưới đây dành cho các em học sinh.

Kiệt tác Truyện Kiều cho đến ngày nay vẫn còn là niềm say mê của biết bao người. Chính tài nghệ miêu tả và tấm lòng thương người bao la của đại thi hào Nguyễn Du là sợi dây truyền cảm, gắn kết con người qua nhiều thế hệ, là nguồn sức mạnh để Truyện Kiều còn mãi lưu truyền trong nhân gian. Tài năng nổi bật của Nguyễn Du được khẳng định trước hết là ở việc miêu tả bức chân dung có một không hai và tài năng vượt trội của nhân vật Thúy Kiều.

Đoạn trích Chị em Thúy Kiều là một trong những đoạn trích tiêu biểu cho tài năng nghệ thuật miêu tả bậc thầy của Nguyễn Du trong việc sử dụng những hình ảnh tượng trưng ước lệ thường thấy trong thơ ca cổ điển để từ đó khắc họa một cách thành công bức chân dung tố nữ vô cùng xinh đẹp của hai người con gái tài sắc nhà họ Vương đó là Thúy Vân và Thúy Kiều.

Đặc biệt, ở nhân vật Thúy Kiều, không những tác giả đã vẽ nên bức chân dung tuyệt sắc mà còn bộc lộ tài năng xuất sắc của nàng. Ẩn trong những hình ảnh tượng trưng ước lệ ấy là một tình yêu thương con người bao la rộng lớn, một thái độ trân trọng, ngợi ca của nhà thơ trước tài năng và sắc đẹp của con người.

Ở bốn câu thơ đầu, vẻ đẹp của Thúy Kiều được giới thiệu khái quát cùng với Thúy Vân:

Đầu lòng hai ả tố nga
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân
Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.

Thúy Kiều được miêu tả là người có cốt cách thanh cao, đẹp đẽ như dáng mai. Tâm hồn hai thiếu nữ trắng trong hơn băng tuyết, chưa hề bị vẩn đục bởi bụi trần. Thủ pháp ước lệ gợi cho người đọc hai hình dung tuyệt đẹp cả về hình dáng lẫn tâm hồn. Vẻ đẹp ấy đạt đến chuẩn mực mà xã hội phong kiến xưa cần có. Một vẻ đẹp hài hòa và toàn vẹn “mười phân vẹn mười”, chẳng ai bì kịp.

Chỉ bằng hai dòng thơ mở đầu, với hai hình ảnh tượng trưng ước lệ “mai cốt cách, tuyết tinh thần”, Nguyễn Du đã khắc họa được vẻ đẹp từ hình dáng cho đên tâm hồn của hai chị em Kiều. Đó là một vẻ đẹp thanh tao, đài các, cao sang, lịch lãm của những người con gái vốn xuất thân trong những gia đình trung lưu khá giả, nề nếp, gia phong.

Dù là xinh đẹp hay kiều diễm đến mức nào thì cũng phải có giới hạn bởi dù sao Thúy Kiều Và Thúy Vân là con người chứ không phải là tiên nữ giáng trần. Thế nhưng, ở đây, Nguyễn Du muốn phá vỡ giới hạn đó. Ông muốn tạo ra một ngoại lệ, đưa vẻ đẹp của hai nàng đến độ hoàn hảo, hiếm có.

Nếu vẻ đẹp của Thúy Vân là cái đẹp hiền từ, phúc hậu, trang nhã, đài các, khiến cho cỏ cây, hoa lá yêu mến mà phải “thua” phải “nhường”, phải thẹn thì vẻ đẹp của Thúy Kiều hiện lên muôn phần sắc sảo, mặn mà vượt trội:

“Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn”

“Sắc sảo” là cái đẹp toàn vẹn, không chút khiếm khuyết, gây ấn tượng mạnh mẽ đối với cái nhìn của người khác. “Mặn mà” là cái đẹp của tâm hồn vừa nồng thắm của cung cách vừa sâu sắc của trí tuệ và tài năng. Nguyễn Du đã rất tài tình khi tạo được một “lực đẩy”, tiếp tục cho người đọc chiêm ngưỡng hai tuyệt phẩm của đất trời.

Không giống như Thúy Vân, Thúy Kiều có mang vẻ đẹp sắc sảo mặn mà hơn nhiều lần. Sắc sảo là cái đẹp của tư dung thể hiện qua khuôn mặt, ánh mắt, giọng nói,…

Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai”.

Ánh mắt nàng trong trẻo như mặt nước hồ thu (làn thu thủy) trong ngày gió lặng. Chân mày của nàng cong vút như dáng núi mùa xuân (nét xuân sơn) tràn đầy sức sống. Toàn thân nàng toát lên sức cuốn hút đến mê mị lòng người. Vẻ đẹp ấy đã khiến cho hoa ghen tức vì “thua thắm”, liễu hờn giận vì “kém xanh”.

Cũng là những hình ảnh thiên nhiên tượng trưng, ước lệ “làn thu thủy, nét xuân sơn”, cùng cỏ cây hoa lá xanh thắm mà tại sao gợi lên hình ảnh một người con gái đẹp đến vô cùng “mặn mà”, “sắc sảo” khiến cho người ta phải say đắm, nghiêng ngả. Miêu tả vẻ đẹp của Thúy Kiều, Nguyễn Du dùng một hệ thống ngôn ngữ trừu tượng hơn khiến cho vẻ đẹp của Thúy Kiều đạt đến độ siêu phàm, như có mà như không có, như hiện mà lại ẩn sâu:

“Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”

Đôi mắt nàng trong sáng, long lanh hơn cả mặt nước hồ thu êm đềm, phẳng lặng. Nếu đem so sánh với nhau thì mặt nước hồ thu như lờ đục đi. Đôi lông mày nàng tươi đẹp, thanh tân, tràn đầy sức sống. Nếu đem so sánh với ngọn cỏ xanh rờn trên đỉnh núi mùa xuân thì cỏ xuân có phần phải nhạt đi. Nàng đẹp đến nỗi cỏ cây, hoa lá vốn là vật vô tri vô giác cũng phải sinh lòng ghen ghét đố kị vì không tươi thắm và đẹp đẽ bằng nàng.

Sắc đẹp của nàng là sắc đẹp tột bậc của những trang giai nhân thuở trước. Liếc mắt nhìn một cái là làm cho nghiêng ngả thành người, liếc mắt nhìn cái nữa là làm cho mất cả nước người. Sắc đẹp ấy dẫu là bậc anh hùng, hào kiệt thì cũng phải xiêu lòng gục ngã.

Qua sự miêu tả của Nguyễn Du, hoàn toàn có thể khẳng định đó là một vẻ đẹp toàn bích, trác việt, ngoại hạng; một vẻ đẹp có sức quyến rũ và chinh phục lòng người. Và còn hơn thế nữa, đó là một vẻ đẹp chưa từng có ở trên đời: “Sắc đành đòi một, tài đành họa hai”. Điều này có nghĩa là nếu trên đời này, về sắc đẹp có thể tìm thấy người đẹp như Thúy Kiều thì về tài năng thực là không thể có ai hơn nàng.

Nguyễn Du đã dành những từ ngữ đẹp nhất của mình dành tặng ca ngợi vẻ đẹp và tài năng của nhân vật Thúy Kiều. Sự biểu đạt ấy, tuy có phần ca ngợi quá mức nhưng không có nghĩa là không có lí.

Nghệ thuật nhân hóa (hoa ghen – liễu hờn) kết hợp với nghệ thuật nói quá (thành ngữ: Nghiêng nước nghiêng thành) vừa có tác dụng gợi tả vẻ đẹp của Kiều ; lại vừa có tác dụng dự đoán về số phận, cuộc đời của nàng. Bốn câu thơ thì hết ba câu Nguyễn Du dùng biện pháp liệt kê tiểu đối để đặc tả vẻ đẹp của nàng Kiều, khiến cho vạn vật trời đất sinh lòng ghen ghét đố kị. Vẻ đẹp ấy phải chăng như dự báo cuộc đời nàng sau này sẽ gặp biết bao đắng cay, ê chề, tủi nhục, bị người ta hãm hại, lừa gạt, vu oan, không giờ phút nào yên ổn:

Hết nạn nọ đến nạn kia
Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”.

Thúy Kiều sở hữu một vẻ đẹp vượt qua mọi giới hạn mà có lẽ phải có duyên cơ ta mới được chiêm ngưỡng. Thế nên, vẻ đẹp độc nhất vô nhị ấy khiến cho đất trời nảy sinh đố kị, lòng người ganh đua. Điều đó dự báo một cuộc đời trắc trở, đầy sóng gió mà Kiều sẽ trải qua. Cuộc đời vốn đa đoan, tài năng và xinh đẹp không phải là tội lỗi nhưng lòng người khó đoán, mệnh số trắc trở. Quân tử đa nạn, hồng nhan bạc mệnh cũng là lẽ thường tình. Đó cũng là điều mà tác giả muốn gửi gắm khi xây dựng nhân vật này.

Nếu như khi tả Vân, nhà thơ chỉ chú trọng vào khắc họa vẻ đẹp nhan sắc mà không chú trọng tới miêu tả tài năng và tâm hồn thì khi tả Kiều, nhà thơ chỉ tả sắc một phần, còn lại dành phần nhiều vào tài năng: “Sắc đành đòi một tài đành họa hai”. Thúy Kiều không chỉ đẹp mà còn là người con gái tài hoa, thông minh xuất chúng. Về sắc chỉ mình nàng là nhất, còn về tài họa may mới có một người bằng nàng nữa là hai:

Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm
Cung thương lầu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương.”

Nàng đã đẹp mà còn được trời phú cho bản chất thông minh, thiên tư mẫn tiệp. Những thú tiêu dao cao quý của người xưa (cầm, kì, thi, họa) nàng đều thành thạo hơn người. Âm luật xưa nay nàng đều thấu rõ. Năm cung bậc trong âm luật (cung, thương, giốc trủy, vũ) xếp theo giọng đục trong, cao thấp nàng đều rất am tường. Lại thêm có tài trích âm tạo nên bản “Bạc mệnh” vô cùng tha thiết đến sầu não nhân gian. Khúc đàn ấy trăm vần thê lương, âm điệu ảo não khiến người nghe phải buồn bã, ủ ê, động lòng thương xót:

“Khi tựa gối, khi cúi đầu
Khi vò chín khúc, khi chau đôi mày”.

Có thể nói, nàng có tất cả các kĩ năng về nghệ thuật và ở lĩnh vực nào nàng cũng đạt đến tuyệt đỉnh. Thúy Kiều không chỉ là người con gái tài hoa, thông minh mà còn đa tình đa cảm, dễ dàng rung động trước những khổ đau, oan trái. Phải chăng, Nguyễn Du vì quá yêu mến nhân vật của mình mà đã dành cho nàng sự tôn vinh tột bậc đến thế?

Hãy để ý những từ ngữ Nguyễn Du dùng để miêu tả tài năng của Thúy Kiều. Khi thì ông rất mực đề cao “vốn sẵn tính trời”, “đủ mùi”, “làu”, “ăn đứt”, không ai sánh kịp. Khi thì ông lại nhún nhường khiêm tốn “pha nghề thi họa” nhưng thật ra lồng trong đó là cả một sự thán phục, nâng niu, trân trọng của nhà thơ trước tài năng hiếm có, vô song của một con người.

Ở nàng Kiều đúng là một con người đa tài đa nghệ, mà tài nào cũng đạt đến mức phi thường, điệu nghệ khiến người ta phải nể, phải kính trọng, đúng như sau này Hoạn Thư mặc dù trong lòng ghen ghét, đố kị nhưng vẫn phải thừa nhận:

“Khen rằng gái lợp Thịnh Đường
Tài này, sắc ấy nghìn vàng chưa cân
Thật là tài tử giai nhân
Châu trần còn có Châu Trần cao hơn”

Nàng là con người tài sắc lại có phẩm hạnh sạch trong:

Phong lưu rất mặc hồng quần
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê
Êm đềm trướng rủ màn che
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”

Nàng quả là người con gái tài mạo phong nhã rất mực quần hồng, xuân xanh đến tuổi quấn tóc, cài trâm nhưng hàng ngày vẫn vui sống êm đềm lặng lẽ nơi trướng rủ màn che, mặc cho bao kẻ bướm ong đi về dòm ngó nàng vẫn không bận tâm để ý. Người con gái đứng đắn, nề nếp gia phong, giữ gìn khuôn phép không phải là hạng gái lẳng lơ, liễu ngõ tường hoa, tầm thường dung tục.

Miêu tả bức chân dung của Thúy Kiều, Nguyễn Du đã vận dụng tài nghệ độc đáo. Ông không tả Thúy Kiều trước mà lại tả Thúy Vân là để muốn mượn nàng Vân làm cái phông nền để nổi bật nhan sắc mặn mà và tài năng hiếm có của Thúy Kiều.

Nếu vẻ đẹp của Thúy Vân dường như đã đạt đến mức cao nhất mà tạo hóa ban tặng cho người phụ nữ thì Kiều mới là thật sự là tuyệt đỉnh của tài sắc, phá vỡ mọi khuôn khổ thường thấy từ trước đến nay. Bút pháp đòn bẩy được ảnh thơ vận dụng một cách nhuần nhuyễn, hết sức khéo léo. Thúy Kiều tuy xuất hiện sau mà muôn phần nổi bật, đẹp đẽ vô song.

Miêu tả hai người con gái đẹp mà mỗi người mỗi vẻ khác nhau. Nét bút chấm phá cũng rất linh hoạt lúc đậm, lúc nhạt. Tả Thúy Vân thì chỉ nghiêng về nhan sắc, tuyệt nhiên không nói tới tài năng. Tả Kiều thì chú trọng cả tài lẫn sắc nhưng có phần tả tài nhiều hơn sắc. Điều đó cho thấy quan niệm thẩm mỹ tiến bộ của Nguyễn Du về cai đẹp của con người không chỉ dừng lại ở hình thức bên ngoài, mà còn phải bao gồm cả cái đẹp trong tâm hồn, cái đẹp của tài năng đức hạnh.

Phải là người đa tình đa cảm, tâm hồn dễ dàng rung động trước những khổ đau, bất hạnh, trước cái đẹp trong trời đất, cõi người thì Nguyễn Du mới trân trọng, thấu hiểu con người và lẽ đời đến vậy.

Tả sắc đẹp và tài năng của nhân vật để chuẩn bị, ngầm dự báo về cuộc đời, tương lai, số phận của nhân vật sau này, người ta gọi là lối viết phục bút. Qua đó nói lên thái độ trân trọng yêu thương của Nguyễn Du trước vẻ đẹp tài năng, phẩm hạnh của con người đồng thời thể hiện niềm thương cảm xót xa của ông dành cho những kiếp hồng nhan bạc mệnh chìm nổi truân chuyên, mà trong suốt cuộc đời ông không thể nào lí giải được. Thôi thì đành ngậm ngùi chua xót mà cho rằng đó là quy luật bù trừ khắc nghiệt của tạo hóa:

Đã cho lấy chữ hồng nhan
Làm cho cho hại, cho tàn, cho cân.
Đã đày vào kiếp phong trần
Sao cho sỉ nhục một lần mới thôi.

Trong sử sách xưa nay cũng có lắm người đẹp nhưng xinh đẹp. Nhưng xinh đẹp, tài năng và tâm hồn cao quý như Thúy Kiều thì chưa từng thấy bao giờ. Nhân vật Thúy Kiều kiểu nhân vật lý tưởng mà Nguyễn Du đã cố công xây dựng. Quan nhân vật, Nguyễn Du đề cao giá trị con người thường dân trong xã hội phong kiến. Đặc biệt là người phụ nữ. Đó là những con người có nhân phẩm cao đẹp, tài năng xuất chúng, khát vọng cao vời, ý thức cao độ về thân phận cá nhân,…nhưng lại không được nhận lấy cuộc sống xứng đáng mà đáng lẽ ra phải có.

Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất

Phân Tích Thuý Kiều Ngắn Gọn – Mẫu 2

Bài văn phân tích Thuý Kiều ngắn gọn dưới đây sẽ giúp các em học sinh tham khảo cách viết súc tích, cô đọng ý văn.

Về nghệ thuật miêu tả của Nguyễn Du, Lã Nhâm Thìn nhận xét: “Tả người đẹp mà độc giả cảm thấy đẹp thật, đẹp tuyệt. Đó là thành công mĩ mãn”. Điều đó quả vô cùng chính xác. Không chỉ đối với miêu tả thiên nhiên, mà nghệ thuật tả người của Nguyễn Du cũng vô cùng tài hoa, độc đáo. Dưới đôi bàn tay tài hoa, tấm lòng trân trọng, nâng niu người phụ nữ Nguyễn Du đã phác họa lên chân dung tuyệt đẹp, vượt ra ngoài mọi chuẩn mực của nàng Thúy Kiều.

Trong văn học trung đại, miêu tả chân dung con người thường ít xuất hiện. Ví như Vũ Nương, chỉ được Nguyễn Dữ phác họa bằng một câu văn ngắn ngủi: “Tính đã thùy mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”. Còn riêng đối với Nguyễn Du ông miêu tả chi tiết, kĩ lưỡng.

Thúy Kiều là chị cả, con gái của Vương viên ngoại. Kiều và Vân mang vẻ đẹp toàn vẹn, tuyệt mĩ, những mỗi nàng lại mang những nét đẹp riêng, không thể hòa lẫn. Để làm nổi bật vẻ đẹp của Thúy Kiều, Nguyễn Du đã vận dụng thủ pháp đòn bẩy, miêu tả Thúy Vân trước. Và thủ pháp này đã tỏ ra vô cùng đắc dụng, sau bốn câu thơ miêu tả chân dung Vân ông tập trung miêu tả vẻ đẹp của Kiều:

Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn.

Trong tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Thúy Kiều được miêu tả qua nhận xét của Kim Trọng: “Thúy Kiều mày nhỏ mà dài, mắt trong mà sáng, mạo như trăng thu, sắc tựa hoa đào”, chỉ miêu tả được vẻ bề ngoài, mà không tả được thần thái, phẩm chất bên trong của nhân vật. Còn trong câu thơ của Nguyễn Du miêu tả được cả thần thái nhân vật, Thúy Kiều mang vẻ mặn mà sắc sảo ở cả tài và sắc.

Cái “mặn mà” ở Thúy Kiều khiến người ta nhìn thấy là say đắm, giống như uống một thứ rượu lâu năm, dù nhẹ, nhưng ấn tượng lại sâu sắc, dài lâu. Đặc biệt từ “càng” kết hợp với nghệ thuật so sánh nhấn mạnh, khẳng định vẻ đẹp nổi trội của Thúy Kiều. Dù chỉ dùng hai câu giới thiệu nhưng cũng đã cho ta hình dung ban đầu về một tuyệt sắc giai nhân, mang vẻ đẹp hiếm có xưa nay.

Nguyễn Du không đi miêu tả chi tiết như khi tái hiện chân dung Thúy Vân, bức tranh vẽ chân dung Thúy Kiều chủ yếu thông qua bút pháp gợi tả cùng hình ảnh ẩn dụ qua đôi mắt:

Làn thu thu thủy, nét xuân sơn

Đôi mắt của Kiều trong vắt, sáng long lanh như làn nước mùa thu, thể hiện một con người thông minh nhanh nhạy. Đôi mắt ấy sâu thẳm, đầy sống động, linh hoạt, cho thấy một tâm hồn đa sầu, đa cảm. Đôi mắt ấy như biết nói, biết thì thầm, đó là chiều sâu nội tâm của nàng. Hình ảnh ước lệ, ẩn dụ “nét xuân sơn” gợi lên dáng vẻ đôi lông mày thanh mảnh, sắc nét như dáng núi mùa xuân.

Đôi lông mày ấy càng tôn lên vẻ đẹp đôi mắt Thúy Kiều, khiến cho cả gương mặt bừng sáng, trẻ trung, tươi tắn. Vẻ đẹp của Kiều là vẻ đẹp vượt ngưỡng, vượt qua khỏi chuẩn mực thiên nhiên mà văn học Trung đại vốn lấy để làm quy chuẩn. Bởi vậy mà:

Nghệ thuật nhân hóa qua hai từ “hờn, ghen” đã cho người đọc thấy thiên nhiên sinh sự đố kị, ghen ghét trước vẻ đẹp của Thúy Kiều. Đây là điềm báo chẳng lành cho số phận nàng sau này. Đặc biệt trong hai câu kết khi nói về nhan sắc Thúy Kiều, Nguyễn Du đã dành những lợi ca ngợi về vẻ đẹp hoàn thiện, hoàn mĩ:

Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một tài đành họa hai.

Thành ngữ “nghiêng nước nghiêng thành” đã nhấn mạnh vẻ đẹp toàn mĩ của nàng, vẻ đẹp ấy không có bút nào có thể lột tả hết, một vẻ đẹp mặn mà, nồng nàn, làm say đắm lòng người. Nhưng sau câu thơ đó là lời dự báo đầy lo sợ về những bất trắc, sóng gió mà đang đợi chờ Kiều ở phía trước.

Để làm nổi bật chân dung Thúy Kiều, Nguyễn Du đã vận dụng tài tình bút pháp ước lệ tượng trưng làm nổi bật vẻ đẹp toàn mĩ, vượt qua khỏi quy chuẩn thiên nhiên. Đồng thời là biện pháp đòn bẩy, miêu tả Vân trước sau đó miêu tả Kiều cũng góp phần không nhỏ làm nổi bật nhan sắc Thúy Kiều.

Với những hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng tinh tế chính xác Nguyễn Du không chỉ dựng lên bức tranh chân dung của nàng Kiều mà còn là bức tranh tinh thần của nàng. Một người con gái nhan sắc tuyệt đẹp, tâm hồn sâu sắc, nhạy cảm. Bức tranh ấy còn mang tính chất dự báo về cuộc đời nàng, vẻ đẹp vượt chuẩn mực tự nhiên, khiến hoa ghen, liễu hờn dự báo tương lai sóng gió, vất vả của Kiều sau này.

Không chỉ có phân tích Thuý Kiều, SCR.VN tặng bạn 💧 Phân Tích Truyện Kiều Nguyễn Du 💧 15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất

Phân Tích Nv Thuý Kiều Ngắn Nhất – Mẫu 3

Với bài phân tích nv Thuý Kiều ngắn nhất dưới đây, các em học sinh có thể nhanh chóng và dễ dàng ôn tập cho bài viết trên lớp.

Người Việt ta không ai là không biết Truyện Kiều, sáng tác vĩ đại của Đại thi hào Nguyễn Du, được dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau trên thế giới. Có lẽ, vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành của nàng Kiều trong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều ” còn để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng.

Tác giả đã khéo léo đưa những hình ảnh tượng trưng thường được dùng trong thi ca cổ để miêu tả vẻ đẹp của chị em nhà họ Vương, họ vừa đẹp người vừa đẹp nết:

“Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”

Cốt cách của thanh tao của mai, tinh thần trong trắng của tuyết, vẻ đẹp mười phân vẹn mười. Tiếp sau đó là những lời thơ miêu tả Thúy Vân. Đó là vẻ đẹp sang trọng, quý phái, được so sánh với các chuẩn mực thiên nhiên trăng, hoa, mây, tuyết. Thúy Vân khiến thiên nhiên phải thua phải nhường. Nhưng dường như đó chỉ là bút pháp vẽ mây nẩy trăng, bởi:

“Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn”

Vẻ đẹp ấy hơn Thúy Vân cả về tài và tình. Nguyễn Du đã sử dụng nghệ thuật ước lệ tượng trưng, so sánh vẻ đẹp con người với tự nhiên “Làn thu thủy nét xuân sơn”, Thúy Kiều có đôi mắt trong như làn nước mùa thu và lông mày mềm mại như dáng núi mùa xuân. Nghệ thuật ẩn dụ vô cùng đặc sắc, đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, thể hiện nội tâm sâu sắc. Bút pháp chấm phá ước lệ thật tài tình cho thấy cái nhìn tinh tế của tác giả.

“Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”

Vừa là cách nói quá, vừa nhân hóa đã lột tả được nét đẹp của nàng Kiều, nếu như nét đẹp của Thúy Vân được thiên nhiên nhận thua, nhường nhịn thì vẻ đẹp Thúy Kiều lại khiến thiên nhiên phải ghen phải ghen vì thua thắm, phải hờn vì kém. Đây cũng là bức chân dung số phận.

“Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một tài đành họa hai”

Nàng Kiều sở hữu vẻ đẹp hoàn hảo tuyệt bích nhất, thành ngữ “nghiêng nước nghiêng thành” đã giúp tác giả làm rõ vẻ đẹp của nàng Kiều, có lẽ ngoài Kiều không có đến người thứ hai. Tài năng trời phú lại cả cầm kỳ thi họa “đủ mùi ca ngâm”. Kiều là một cô gái thông minh có tài. Chi tiết nhỏ nhưng có thể cho ta thấy tinh thần nhân đạo của tác giả, đề cao vẻ đẹp của người phụ nữ. Tài đánh đàn của Thúy Kiều điêu luyện đến mức tuyệt đỉnh.

Các từ “làu”, “ăn đứt” được đại thi hào sử dụng đã nhấn mạnh tài năng ấy. Nhưng đó cũng chính là bản đàn bạc mệnh mà Kiều dành tặng cho chính mình, những bàn đàn như dự báo số phận, cành đàn lại “càng não nhân”. Kiều vừa là một người mang vẻ đẹp tài sắc, cũng là người có tâm hồn đa sầu đa cảm, một người con gái nên được yêu thương nhưng lại dự báo một tương lai “tài hoa bạc mệnh”.

Bằng bút pháp tài hoa, “con mắt nhìn thấu sáu cõi và tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời”, đại thi hào Nguyễn Du đã vẽ nên bức chân dung Thúy Kiều mang vẻ đẹp toàn bích, tài hoa vẹn toàn. Qua đó, ta thêm trân trọng tài năng và tấm lòng nhân đạo của tác giả.

Ngoài phân tích Thuý Kiều, gợi ý cho bạn 💕 Mở Bài Truyện Kiều Nguyễn Du 💕 20 Đoạn Văn Hay Nhất

Phân Tích Thuý Kiều Học Sinh Giỏi – Mẫu 4

Tham khảo bài văn mẫu phân tích Thuý Kiều học sinh giỏi dưới đây với những nội dung nghị luận văn học chuyên sâu.

Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” được xem là một trong những đoạn thơ đẹp và hay nhất trong tác phẩm lớn “Truyện Kiều”. Trong đoạn trích này, Thúy Kiều là nhân vật trung tâm, hiện lên là một thiếu nữ tài sắc vẹn toàn mà qua ngôn từ của Nguyễn Du, vẻ đẹp ấy trở nên thần tình và mĩ lễ hơn bao giờ hết.

Đoạn thơ này có 24 câu. 4 câu thơ đầu giới thiệu chung về hai chị em Thúy Kiều và Thúy Vân, 4 câu tiếp theo nói về sắc đẹp của Thúy Vân, 12 câu tiếp viết về tài sắc của Kiều và đoạn cuối gồm 4 câu Nguyễn Du dành ca ngợi đức hạnh của hai chị em Kiều.

Phân tích vẻ đẹp của Thuý Kiều sẽ thấy được cái tài của Nguyễn Du trong việc miêu tả sắc đẹp của Vân để làm nổi bật tài sắc của nàng Kiều:

Đầu lòng hai ả tố nga
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân
Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.

Thúy Kiều và Thúy Vân là hai cô con gái nhà Vương viên ngoại. Cả hai đều mang vẻ đẹp thanh tao, trong sáng, hài hòa mà sáng rỡ như “mai” như “tuyết”. Và mỗi người đồng thời cũng mang một vẻ đẹp riêng, mà toàn mỹ.

Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.

Nguyễn Du tả sắc đẹp của Thúy Vân sắc đẹp của người con gái “đoan trang”, quý phái “trang trọng khác vời” với khuôn mặt “đầy đặn” và tươi sáng như vầng trăng. Thúy Vân có mắt phượng mày ngài, giọng nói trong thanh như ngọc và miệng cười như hoa nở. Và cũng không có gì sánh được vẻ đẹp của mái tóc, màu da của nàng nếu không ví với mây với tuyết.

Với vẻ đẹp của Thúy Vân, Nguyễn Du đã dùng bút pháp nghệ thuật ước lệ tượng trưng nhằm tạo ra những hình ảnh ẩn dụ tô thêm vẻ đẹp của Thúy Vân. Khi phân tích vẻ đẹp của Thuý Kiều hẳn rằng nhiều người băn khoăn, tại sao Kiều là nhân vật trung tâm, nhưng tác giả lại tả Thúy Vân trước. Nhưng đây chính là sự tài tình của Nguyễn Du, khi đại thi hào tả Thúy Vân trước như một dụng ý nghệ thuật nhằm khẳng định rằng, Thúy Vân đã đẹp đến vậy, nhưng Kiều mới là một tuyệt thế giai nhân.

Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn.

Nguyễn Du miêu tả Vân đẹp như vậy, đẹp như trăng như tuyết, nhưng “Kiều càng sắc sảo mặn mà”, mà “So bề tài sắc lại là phần hơn”. Vậy Kiều đẹp ra sao? Nguyễn Du miêu tả rằng:

Làn thu thủy, nét xuân sơn.
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành.

Và vẻ đẹp của Kiều là vẻ đẹp “nghiêng nước nghiêng thành”. Nàng có đôi mặt đẹp mà trong mà dịu dàng như sắc nước của mùa thu, long mày của màng thanh tú, xinh xắn như dáng núi mùa xuân. Đó là vẻ đẹp đằm thắm, vẻ đẹp xanh tươi mơn mởn đến khiến “Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh“.

Trong phần miêu tả vẻ đẹp của Kiều, bút pháp tả người của Nguyễn Du lại tài tình thêm một bậc khi kết hợp tinh tế giữa nghệ thuật ẩn dụ, nhân hóa rồi thậm xứng và các thi liệu cổ – nghiêng nước nghiêng thành. Chính vì vậy, những vần thơ cũng đẹp như vẻ đẹp của Kiều. Và dù không miêu tả quá nhiều mà chỉ qua đôi ba nét chấm phá ước lệ, Kiều đã hiện ra là hình bóng giai nhân để lại trong lòng người đọc cảm xúc mãnh liệt.

Kiều dường như được ban cho tất cả những điều mà một thiếu nữ nào cũng ước ao. Bởi “Sắc đành đòi một, tài đành họa hai”.

Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm.
Cung thương lầu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.

Kiều thông minh là bẩm sinh tính trời. Nàng lại tài hoa lỗi lạc khi đàn hay, họa giỏi, thơ cũng tài. Và ở môn nghệ thuật nào, nàng cũng thành “nghề”, cũng “ăn đứt” thiên hạ. Cái tài hoa, sắc sảo ấy đã khiến Nguyễn Du không tiếc lời ngợi ca khẳng định bằng những từ ngữ mang ý nghĩa tuyệt đối như “vốn sẵn tính trời”, “pha nghề”, “nghề riêng ăn đứt”…

Nguyễn Du đã không tiếc lời ca ngợi Thúy Kiều bằng một số từ ngữ biểu thị giá trị tuyệt đối: vốn sẵn tính trời, pha nghề, đủ mùi… lầu bậc… nghề riêng ăn đứt…

Nhưng với Thúy Kiều, Nguyễn Du không chỉ tả tài sắc của nàng mà còn hàm ý về số phận nàng. Nếu vẻ đẹp của Thúy Vân hài hòa với mây, với tuyết, với trăng; thì vẻ đẹp kiều diễm bội phần của Thúy Kiều lại khiến “hoa ghen”, “liễu hờn”. Bản đàn “Bạc mệnh” chính nàng sáng tác như một điềm báo định mệnh cho sự “hồng nhan bạc phận” của nàng. Đó cũng chính là cái tài trong nghệ thuật của Nguyễn Du, khi qua vài câu thơ có thể khiến người đọc đồng cảm và dự cảm, lo âu về số phận của nàng Kiều.

Phân tích vẻ đẹp của Thuý Kiều nhưng điều mà người đọc nhận thấy không chỉ là ngoại hình nghiêng thành nghiêng nước hay câu chuyện vận mệnh đằng sau vẻ đẹp ấy; mà vẻ đẹp đức hạnh của Kiều cũng là điều mà Nguyễn Du muốn nói đến.

Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.

Hai chị em Thúy Kiều sinh ra và lớn lên trong nền giáo dục gia đình và xã hội của khuôn khổ lễ giáo, gia phong. Đức hạnh luôn là giá trị gốc mà con người phải có. Bởi vậy dù sống trong bối cảnh “Phong lưu rất mực hồng quần” và nàng cũng đã tới “tuần cập kê”, nhưng nàng là một thiếu nữ có gia giáo, mọi điều đều có chuẩn mực và đề cao đức hạnh.

Như vậy có thể thể thấy, Kiều không chỉ là người thiếu nữ sở hữu vẻ đẹp mà nhiều cô gái ao ước, vẻ đẹp khiến tự nhiên ghen hờn mà còn có tài năng hơn người lại đức hạnh vẹn toàn. Nhưng như Nguyễn Du đã từng nói trong chính Truyện Kiều, rằng: “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”. Bởi vậy, những lời thơ miêu tả sắc đẹp lại như những lời tiên đoán về số phận nàng Kiều, vốn xưa nay, người tài sắc lại hay gặp cảnh đa đoan.

Một lần nữa cần khẳng định rằng, Thúy Kiều là giai nhân tuyệt mỹ trong tác phẩm “Đoạn trường tân thanh” của đại thi hào Nguyễn Du. Kiều được miêu tả với cảm hứng nhân đạo, yêu cái đẹp và trân quý giá trị truyền thống. Bằng thể thơ dân tộc lục bát đẹp nhất, ông đã dành cho Thúy Kiều sự yêu mến, trân trọng và ngợi ca.

Phân tích vẻ đẹp của Thuý Kiều còn thấy được tài nghệ của Nguyễn Du. Đại thi hào không chỉ làm thơ, không chỉ tả đơn thuần mà kết hợp thần tình bút pháp ước lệ tượng trưng với các biện pháp tu từ ẩn dụ so sánh, nhân hóa cùng với đó là ngôn ngữ thơ đầy tình hình tượng, gợi cảm, hàm súc. Nguyễn Du tả mà cũng như đang vẽ lên bức chân dung của giai nhân tuyệt thế, không chỉ đẹp về dáng hình mà còn có biết bao phẩm chất tốt đẹp, đậm đà tính truyền thống, bản sắc dân tộc.

Bên cạnh phân tích Thuý Kiều, giới thiệu cùng bạn 🍀 Kết Bài Truyện Kiều Nguyễn Du 🍀 20 Đoạn Văn Hay Nhất

Phân Tích Thuý Kiều Nâng Cao – Mẫu 5

Bài văn mẫu phân tích Thuý Kiều nâng cao dưới đây sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích dành cho các em học sinh.

Xưa nàng Đát Kỉ lấy sắc đẹp làm cho Trụ Vương mê mị, đắm say không sao kể xiết, khiến cho nhà Thương vì thế mà sụp đổ. Tây Thi đem sắc đẹp làm mê hoặc Ngô Vương là Ngô Phù Sai, giúp Việt Vương Câu Tiễn phục quốc, khiến nước Ngô hùng mạnh phút chốc bị diệt vong. Cha con Đổng Trác cũng bởi muốn có mĩ nhân Điêu Thuyền mà tàn sát lẫn nhau, bánh xe lịch sử cũng vì thế chuyển hướng. Các nàng chỉ bằng sắc đẹp mà có thể khiến cho lòng người mê mị, làm thay đổi triều cương. Bởi thế, nhân gian thường gọi các nàng là yêu cơ.

Nếu lấy vẻ đẹp của nhân vật Thúy Kiều trong Đoạn trường tân thanh của đại thi hào Nguyễn Du để so sánh với vẻ đẹp của ba nàng ấy thì có lẽ Thúy Kiều vượt trội hơn nhiều lần. Nếu lấy sự ảnh hưởng của Thúy Kiều đến con người hay triều chính thì cũng không thua kém gì.

Thi hào Nguyễn Du đã dành những mĩ từ cao quý nhất để tôn vinh vẻ đẹp của người con gái tài sắc vẹn toàn, hiếu thuận bậc nhất trong trời đất. Thúy Kiều mang một vẻ đẹp toàn bích, trác viêt, vượt qua mọi giới hạn. Để khắc họa được bức chân dung phi thường ấy, Nguyễn Du đã lần lượt tạo dựng qua các bước. Trước hết ông tạo tác vẻ đẹp của Thúy Vân, một vẻ đẹp “mười phân vẹn mười”, thực hiếm có ở trên đời:

“Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.”

Lấy vẻ đẹp của Thúy Vân làm nền tảng, Nguyễn Du nâng vẻ đẹp của Thúy Kiều lên làm nhiều lần hơn thế:

“Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn”.

Sắc sảo (thiên về hình thức) là vẻ đẹp ưu tú, thu hút cái nhìn của người khác. Mặn mà (thiên về trí tuệ và tâm hồn) là vẻ đẹp chinh phục lòng người. Vẻ đẹp của nàng khiến cho lòng người đố kị, đất trời hờn ghen. Cuối cùng, để khẳng định chắc chắn vẻ đẹp ấy, Nguyễn Du đã tôn vinh đến tột bậc:

“Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai”.

Điển tích “nghiêng nước nghiêng thành” xuất phát từ bài hát của Lí Diên Niên đời Hán Vũ Đế ca ngợi sắc đẹp của Hiếu Vũ Hoàng Hậu.

Bắc phương hữu giai nhân
Tuyệt thế nhi độc lập.
Nhất cố khuynh nhân thành;
Tái cố khuynh nhân quốc
Khởi bất tri
Khuynh thành dữ khuynh quốc
Giai nhân nan tái đắc”.

Đến đời Đường Minh Tông, thi tiên Lý Bạch khi làm thơ ca ngợi sắc đẹp của Dương Quý Phi cũng dùng tích ấy:

Danh hoa khuynh quốc lưỡng tương hoan,
Thường đắc quân vương đới tiếu khan.

Nghĩa:

Danh hoa nghiêng nước sánh đôi vui,
Để xứng quân vương một nụ cười.

Xét về tài năng, nàng thông thạo cả cầm, kì, thi họa, thuộc lòng âm luật; lại có tài sáng tác, đã viết nên khúc Bạc mệnh làm não lòng người. Xét về sắc đẹp, Vẻ đẹp của Thúy Kiều không những có thể làm nghiêng nước nghiêng thành mà là duy nhất trên đời này không thể có người thứ hai. Giai nhân tuyệt sắc xưa nay xem như lu mờ trước ánh sáng ấy.

Có thể nói, hội tụ ở nhân vật Thúy Kiều là tất cả những gì tốt đẹp nhất vốn có ở con người và vũ trụ. Sự kết hợp hoàn hảo giữa tài năng, sắc đẹp và đức hạnh khiến Thúy Kiều trở thành một nhân vật vượt xa sức tưởng tượng của con người. Có thể gọi nàng là tuyệt thế giai nhân thiên cổ vậy.

Lần thứ nhất, Kiều khiến cho Kim Trọng, một thư sinh vốn là người “Vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa”, say mê nàng đến tận cùng mà quên chuyện đèn sách, bạo gan chuyển phòng trọ đến ở gần nhà nàng để tiện gặp gỡ hẹn hò. Tình yêu ngang trái, khiến hai người tan câu thề ước, đôi đường ly biệt. Đến suốt cuộc đời, Kim Trọng cũng không thể nào quên được nàng.

Lần thứ hai, phải chăng, bởi ghen tức nhà Vương ông có hai cô con gái xinh đẹp mà kín cổng cao tường, bọn sai nha đã lập mưu vu họa, khiến cho nhà tan của nát, Vương ông cùng con là Vương Quan bị trói vào đại lao?

Lần thứ ba, Thúc sinh (thư sinh họ Thúc), một khách phong lưu, đa tình say mê Kiều đến tột độ. Thúc sinh là người tuy tự do, phóng khoáng nhưng lại rất sợ vợ của chàng là Hoạn Thư. Hoạn Thư cũng quản thúc chàng rất chặt chẽ. Tuy sợ vợ đến thế nhưng vì đắm say vẻ đẹp Thúy Kiều đến đê mê mất trí:

“Trăm nghìn đổ một trận cười như không”.

Vẻ đẹp của Thúy Kiều như đổ một liều mê độc vào tâm trí Thúc Sinh khiến chàng “một tỉnh mười mê” đến nỗi liều lĩnh chuộc nàng ra khỏi lầu xanh và đưa về sống như vợ chồng ở nhà riêng. Sự việc bại ộ khiến cho Thúy Kiều bị Hoạn Thư cho người bắt về và hành hạ vô cùng tàn khốc.

Lần thứ tư, Từ Hải vốn là một bậc anh hùng đầu đội trời, chân đạp đất, nghe tiếng Kiều đã không ngần ngại tìm đến:

“Qua chơi nghe tiếng nàng Kiều,
Tấm lòng nhi nữ cũng xiêu anh hùng”.

Cần chi nhiều lời đưa đẩy, sau cuộc hàn thuyên tâm sự, đôi bên rõ ý, Từ Hải đã mau chóng chuộc nàng ra khỏi lầu xanh và chính thức cưới nàng làm vợ, giúp nàng báo ân, báo oán hết sức chu toàn. Phải đâu khí phách anh hùng hành động quyết đoán mau lẹ mà bởi trước bậc hồng nhan kì sắc, trái tim anh hùng đã sớm lay động, bị chinh phục tức thời. Cũng bởi vì quá yêu Kiều mà Từ Hải đã có hành động sai lầm lớn nhất cuộc đời dũng tướng, thỏa hiệp đầu hàng Hồ Tôn Hiến và nhận lấy một kết cục bi thảm.

Lần thứ năm, Hồ Tôn Hiến, một đại công thần triều đình, sau khi giết chết Từ Hải đã bất chấp đạo lí, bắt Kiều hầu rượu, đàn hát và làm nhục nàng vì quá say mê vẻ đẹp yêu kiều diễm lệ ấy. Một đại công thần uy dũng thế ấy, tôn nghiêm thế ấy mà trước mĩ nhân:

“Nghe càng đắm, ngắm càng say
Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình”.

Để tránh bị điều tiếng, gièm pha, Hồ Tôn Hiến đã gã nàng cho một thổ quan.

Sau mười lăm năm lưu lạc, trầm luân dâu bể, chịu không biết bao ô nhục, khổ đau, Thúy Kiều được đoàn viên với gia đình, chấm dứt duyên tình trần thế. Có lẽ, đó cũng là lựa chọn của Nguyễn Du. Ông cho nàng ẩn danh nơi cô tịch để sắc đẹp ấy không còn gây thêm tai họa nào nữa chăng?

Cùng với phân tích Thuý Kiều, tìm hiểu nhiều hơn 🍀 Sơ Đồ Tư Duy Chị Em Thúy Kiều 🍀 11 Mẫu Vẽ Tóm Tắt Ngắn Hay

Phân Tích Vẻ Đẹp Thuý Kiều Chi Tiết – Mẫu 6

Đón đọc bài văn mẫu phân tích vẻ đẹp Thuý Kiều chi tiết dưới đây với những nội dung hay và đặc sắc.

Đến với văn học Việt Nam đặc biệt ở thời kì đầu thế kỉ 19, bạn đọc không thể không nhắc tới tên tác phẩm “Truyện Kiều” – một kiệt tác của đại thi hào Nguyễn Du. Với bút pháp miêu tả ước lệ quen thuộc trong văn học trung đại, Nguyễn Du đã khắc họa bức chân dung của Thúy Kiều, hết lời ca ngợi vẻ đẹp và tài năng của nàng – một trang tuyệt thế giai nhân trong mười hai câu thơ lục bát ở đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”.

Sau khi miêu tả vẻ đẹp hoàn hảo của Thúy Vân, tác giả Nguyễn Du đã dựng lên bức chân dung xinh đẹp của Thúy Kiều. Nếu trong tác phẩm “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân ở phương Bắc miêu tả Thúy Kiều trước, Thúy Vân sau theo thứ tự gia đình, thì đại thi hào của chúng ta sáng tác “Truyện Kiều” lại rất sáng tạo và có dụng ý khi miêu tả Thúy Vân trước, Thúy Kiều sau.

Tác giả giới thiệu khái quát bức chân dung Thúy Kiều:

Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn”

Với cách sử dụng thủ pháp đòn bẩy kết hợp với những từ ngữ mang tính chất so sánh như “càng, so, hơn”, Nguyễn Du đã so sánh nhan sắc của Thúy Kiều với Thúy Vân. Hay nói cách khác, vẻ đẹp của Thúy Vân đã làm nền cho vẻ đẹp của cô chị nổi trội hơn, sắc nét hơn. Kiều hiện lên với vẻ đẹp “sắc sảo, mặn mà”. Đó là sự sắc sảo của trí tuệ, và sự mặn mà đằm thắm về tâm hồn. So với em, Kiều hơn hẳn về cả tài và sắc.

Vẻ đẹp của Thúy Kiều được Nguyễn Du miêu tả cụ thể hơn trong những câu thơ lục bát:

Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành”

Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp ước lệ tượng trưng, mượn những hình ảnh mĩ lệ của thiên nhiên để gợi tả vẻ đẹp của con người, gợi ra đôi mắt Kiều long lanh, trong sáng như làn nước mùa thu ẩn dưới đôi lông mày đẹp, thanh thoát, như nét núi mùa xuân. Vẻ đẹp của Kiều khiến cho hoa phải ghen, liễu phải hờn vì “thua thắm, kém xanh”.

Qua đó, Nguyễn Du đã dựng nên bức chân dung Thúy Kiều với vẻ đẹp không chỉ sắc sảo mà còn kiêu sa, lộng lẫy của nàng. Vẻ đẹp ấy đúng là “sắc đành đòi một”, thiên hạ kia, chỉ có Kiều là đẹp nhất. Không chỉ vậy, qua lời thơ Nguyễn Du đã ngầm dự báo tương lai số phận cuộc đời bất hạnh của nàng Kiều sẽ gặp nhiều sóng gió, tai ương, bởi thói thường “trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”.

Nàng Kiều không chỉ là một giai nhân, mà còn là một tài nhân với “sắc đành đòi một, tài đành họa hai”, tài năng của Kiều may ra trong thiên hạ mới có người thứ hai sánh bằng:

“Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương.
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”.

Tính từ “thông minh” được Nguyễn Du đảo lên đầu câu đã nhấn mạnh tài năng của Kiều là do trời ban cho, và trí tuệ là nét nổi bật nhất trong tài hoa của nàng. Kiều có đủ tài làm thơ, vẽ tranh, ca hát, đánh đàn, sáng tác – hội tụ đầy đủ các tài hoa đạt đến mức lí tưởng theo quan niệm thẩm mĩ thời phong kiến. Trong lĩnh vực âm nhạc, Kiều thuộc trôi chảy đến mức “làu” bậc ngũ âm trong âm giai nhạc cổ. Nhưng nổi trội nhất là tài đàn của nàng vì đó là sở trường, là nghề riêng, ăn đứt cả thiên hạ.

Nhà thơ sử dụng biện pháp liệt kê đã giúp người đọc thấy rõ thái độ hết lời ca ngợi tôn vinh tài năng vượt trội của Kiều. Bản đàn “bạc mệnh” mà Kiều sáng tác đã thể hiện một tâm hồn đa sầu đa cảm. Có chăng tài năng và tâm hồn của Kiều gửi vào bản đàn bạc mệnh đã ngầm dự báo với chúng ta tương lai cuộc đời nàng cũng đau khổ, bất hạnh, bạc mệnh.?

Với bút pháp ước lệ, nghệ thuật miêu tả tài hoa, tinh tế, Nguyễn Du đã khắc họa bức chân dung xinh đẹp và tài năng của Thúy Kiều, một bức họa hội tự cả sắc – tài – tình – mệnh. Qua đó, nhà thơ đã thể hiện sự trân trọng, ngưỡng mộ vẻ đẹp tài hoa của nàng Kiều, đồng thời cũng xót xa dự báo số phận cuộc đời đau thương của nàng. Dựa trên cốt truyện có sẵn, thì đây là một sự sáng tạo rất lớn của Nguyễn Du góp phần làm nên thành công của đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” nói riêng, và tác phẩm “Truyện Kiều” nói chung.

Gửi đến bạn 🍃 Cảm Nhận Chị Em Thúy Kiều Và Thuý Vân 🍃 15 Bài Văn Phân Tích Nhân Vật Thuý Kiều Hay

Bài Văn Phân Tích Thơ Thúy Kiều Chọn Lọc – Mẫu 7

Bài văn phân tích thơ Thúy Kiều chọn lọc dưới đây sẽ giúp các em học sinh luyện tập trau dồi kỹ năng phân tích văn học.

Trong đoạn trích Chị em Thúy Kiều của Nguyễn Du, ta không chỉ thấy một nàng Kiều có nhan sắc nghiêng nước nghiêng thành, mang vẻ đẹp tuyệt mĩ. Mà qua những câu thơ tài tình của tác giả ta còn thấy nàng là con người tài hoa, vẻ đẹp nội tâm phong phú, sâu sắc.

Nguyễn Du đã dùng những câu thơ tuyệt bút nói về vẻ đẹp của Thúy Kiều:

Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.

Dung mạo của nàng không được phác họa chi tiết, đầy đủ như Thúy Vân, nhưng chỉ qua đôi mắt tuyệt đẹp người đọc cũng đã có thể cảm nhận được hết vẻ đẹp tuyệt thế giai nhân của nàng. Ấy cũng chính là cái tài của Nguyễn Du. Tác giả tiếp tục sử dụng bút pháp ước lệ để miêu tả về vẻ đẹp của Thúy Kiều: “Làn thu thủy, nét xuân sơn”, đôi mắt nàng mới đẹp làm sao, đó là một đôi mắt sáng, trong trẻo như làn nước mùa thu. Đôi lông mày mảnh, dài như dáng núi mùa xuân.

Đôi mắt ấy còn gợi nên một thế giới nội tâm vô cùng đa dạng, phong phú, đó là tâm hồn nhạy cảm, tinh tế. Nàng đẹp hơn cả thiên nhiên, hơn cả tạo hóa, vẻ sắc sảo mặn mà ấy là “hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”. Những từ ghen, hờn cho thấy thái độ tức tối, nổi giận của thiên nhiên. Từ đó cũng ngầm báo hiệu cuộc đời đầy sóng gió, truân chuyên của nàng sau này.

Kiều không chỉ có nhan sắc tuyệt mĩ mà tài năng của nàng của vào bậc hiếm có xưa nay:

Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm

Tài năng của nàng đã đạt đến độ lí tưởng theo quan niệm thẩm mĩ phong kiến “cầm, kì, thi, họa” đều đạt ở mức đỉnh cao. Trong những tài năng đó, xuất sắc nhất là tài đàn, nó đã trở thành sở trường đặc biệt của nàng, không ai có thể sánh kịp “nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương”. Tài năng của nàng này không được thể hiện ngay trong đoạn trích, nhưng ở phần khác đã được Nguyễn Du khẳng định: “Cung cầm trong nguyệt, nước cờ dưới hoa”.

Những khúc nhạc mà nàng sáng tác luôn mang một nỗi buồn khắc khoải, thê lương, gây nỗi thương cảm và xúc động lòng người. Dường như ngay từ những khúc nhạc của một cô gái chưa vướng bụi trần, luôn được bao bọc, che chở nhưng lại gợi về nỗi sầu thê lương của những người phụ nữ bạc mệnh. Những khúc nhạc ấy cũng như là dự báo về chính cuộc đời của nàng. Ngẫm lại đời mình, trải qua nhiều chông gai, Kiều cũng tự nhận:

Thưa rằng bạc mệnh khúc này
Phổ vào đàn ấy những ngày con thơ
Cung cầm lựa những ngày xưa
Và gương bạc mệnh bây giờ là đây

Nguyễn Du đã thật ưu ái khi miêu tả chân dung Thúy Kiều. Nàng hiện lên qua những câu thơ của ông không chỉ đẹp đẽ ở nhan sắc mà còn toàn diện ở trí tuệ, tinh thần. Nàng là tiêu biểu cho số phận người phụ nữ trong xã hội xưa, có nhan sắc, có trí tuệ nhưng lại chịu cảnh vùi dập của cuộc đời, của xã hội phong kiến. Thật cảm thương cho số phận của nàng, bởi vậy trong suốt cả bài thơ, hơn một lần Nguyễn Du đã phải thốt lên: “Hồng nhan quen thói má hồng đánh ghen”. Tố Hữu cũng xót thương cho đời nàng mà viết:

Chạnh lòng thương cô Kiều như đời dân tộc
Sắc tài sao mà lắm truân chuyên.

Bức tranh chân dung Thúy Kiều được dựng lên chủ yếu thông qua bút pháp ước lệ tượng trưng, lấy thiên nhiên để miêu tả vẻ đẹp con người. Nhưng vẻ đẹp của nàng còn vượt xa cả những chuẩn mực đó. Cho thấy vẻ đẹp tuyệt mĩ của tạo hóa. Sử dụng ngôn ngữ linh hoạt, giàu giá trị biểu cảm: ghen, hờn, sắc sảo, mặn mà,… góp phần làm nổi bật vẻ đẹp “nghiêng nước nghiêng thành” của Thúy Kiều.

Đoạn trích đã thể hiện ngòi bút tinh tế, tài hoa của Nguyễn Du, khẳng định tài năng nghệ thuật tả người số một của ông quả là “kì tài diệu bút”. Tả Kiều không cốt tả hình dáng mà cốt để làm nổi bật vẻ đẹp và trí tuệ của nàng. Những câu thơ về Kiều còn mang tính chất dự báo về số phận éo le, một cuộc đời đầy trắc trở. Qua đó cũng thể hiện sự nâng niu trân trọng của Nguyễn Du trước vẻ đẹp của người phụ nữ.

Tiếp theo phân tích Thuý Kiều, mời bạn xem nhiều hơn 🌹 Cảm Nhận Về Vẻ Đẹp Của Thúy Kiều 🌹 15 Đoạn Văn Hay

Phân Tích Thuý Kiều Facebook – Mẫu 8

Chia sẻ dưới đây bài văn mẫu phân tích Thuý Kiều Facebook giúp các em học sinh có thêm cho mình tư liệu tham khảo phong phú hơn.

Làm nên sự thành công rực rỡ của kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du không chỉ ở nội dung phản ánh sâu sắc, nhân văn; nghệ thuật ” ngụ cảnh tả tình” bậc thầy của nhà văn mà còn nằm trong cách xây dựng chân dung nhân vật chân thực, bức phá. Điều này được thể hiện rõ nét nhất trong đoạn trích ” Chị em Thúy Kiều” mà xuất sắc nhất là trong xây dựng chân dung nhân vật Thúy Kiều.

Trong đoạn trích này, Nguyễn Du không miêu tả ngay Thúy Kiều mà nhận xét, đánh giá trong sự so sánh, đối chiếu với Thúy Vân:

“Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn”

“Sắc sảo” ở đây là vẻ đẹp trí tuệ.”Mặn mà” lại là vẻ đẹp ngoại hình đằm thắm. Nhan sắc của Thúy Kiều so với Thúy Vân rõ ràng có thêm chiều sâu, quyến rũ. Đã vậy, nhà thơ còn khẳng định sự vượt trội hơn hẳn của Kiều bằng những từ ngữ chỉ mức độ như: “càng”, “hơn”.

Ở đây, Nguyễn Du đã sử dụng nghệ thuật đòn bẩy, miêu tả Thúy Vân trước, lấy Thúy Vân làm nền để trên đó vẻ đẹp Thúy Kiều được tỏa sáng!

Nhan sắc của Thúy Kiều được Nguyễn Du tái hiện:

Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoag hen thua thắm liễu hờn kém xanh”

Tác giả sử dụng những hình ảnh ước lệ, tượng trưng như ” thu thủy”- nước mùa thu, “xuân sơn”- núi mùa xuân.

Vẫn lấy thiên nhiên như “hoa”, “liễu” làm chuẩn mực để so sánh với vẻ đẹp của con người. Nhưng không tả chi tiết như Thúy Vân, Nguyễn Du miêu tả nàng Kiều theo lối điểm nhãn. Ngòi bút thiên tài chỉ tập trung vào đôi mắt và vẻ thanh tân,tươi thắm.

Đôi mắt nàng Kiều được ví như làn nước mùa thu long lanh, trong sáng. Ẩn dụ “làn thu thủy” vừa gợi tả vẻ đẹp nhan sắc vừa toát lên sự tinh anh, trí tuệ. Hơn thế nữa, Nguyễn Du miêu tả ngoại hình mà biểu đạt cả vẻ đẹp nội tâm. Vì, đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn, soi vào đôi mắt như nước hồ thu ấy, ta có thể thấy tâm hồn nàng trong trẻo, thanh sạch biết bao!

Đôi mắt đẹp lại ẩn dưới nét mày thanh nhẹ, tươi non như sắc núi mùa xuân thì càng thêm quyến rũ. Thúy Kiều đã vượt lên trên vẻ đẹp hoàn hoàn của Thúy Vân, để trở thành cái đẹp tuyệt đích, có một không hai! Dùng ý ở câu thơ chữ Hán: ” Nghiêng nước nghiêng thành”, Nguyễn Du nhấn mạnh hơn nữa sắc đẹp có sức mê hoặc làm thành nghiêng, nước đổ của nàng Kiều.

Tuy nhiên, với Thúy Vân, thiên nhiên “thua”, “nhường”. Còn trước nàng Kiều, thiên nhiên ” hờn”, “ghen”, đố kị:

“Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”

Vẻ đẹp của nàng hoa phải ghen, nét thanh xuân của nàng liễu phải hờn.Chữ “hờn”, “ghen” trong phép tu từ nhân hóa mà Nguyễn Du sử dụng nhấn tả dung nhan của nàng Kiều, mặt khác thể hiện rõ sự đối kháng, không tương hợp với con người và thiên nhiên.” Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen nên nhan sắc của Thúy Kiều cũng dường như là một dự báo về cuộc đời nổi chìm, bất hạnh, giông bão.

Tả Thúy Vân, Nguyễn Du chủ yếu miêu tả về nhan sắc. Với Thúy Kiều “Sắc đành đòi một tài đành họa hai”, Nguyễn Du dành một phần tả sắc, hai phần tả tài:

“Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm”

Trí tuệ của nàng Kiều là trời cho, thiên bẩm. “Thi họa đủ mùi ca ngâm” là làm thơ, vẽ tranh, đàn hát Thúy Kiều đều rất mực tài hoa. Trong đó, “ăn đứt” hơn hẳn người khác là tài đàn:

“Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương
Khúc nhà tay lựa nên chương
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”

“Làu bậc ngũ âm” là sự điêu luyện trong kĩ thuật chơi đàn. Tiếng đàn của nàng Kiều không chỉ ngân lên những âm thanh huyền diệu mà còn nức nở nhiều cung bậc cảm xúc. Mỗi nốt nhạc rung lên là mỗi tiếng ai oán, não nùng, khổ đau, sầu thảm. Cung đàn ” bạc mệnh” Kiều tự sáng tác chính là sự ghi lại tiếng lòng của một trái tim giàu trắc ẩn, đa cảm, đa sầu.

Như vậy, qua việc khắc họa chân dung nhân vật Thúy Kiều ta có thể thấy vẻ đẹp của Kiều là sự kết hợp sắc- tài- tình. Cả sắc và tài của Kiều đều đạt đến độ tuyệt mĩ nhưng chính tài, sắc ấy đã ngầm dự báo một tương lai không yên ổn. Miêu tả ngoại hình, tài năng mà dự báo số phận, hé mở tâm hồn là đặc sắc của Nguyễn Du trong nghệ thuật tả người.

Gợi ý cho bạn 🌹 Giá Trị Nhân Đạo Của Truyện Kiều 🌹 12 Bài Văn Phân Tích Hay

Phân Tích Thúy Kiều Văn 10 – Mẫu 9

Bài văn mẫu phân tích Thúy Kiều văn 10 dưới đây sẽ mang đến cho các em học sinh những gợi ý hay để vận dụng khi làm bài.

“Truyện Kiều” của Nguyễn Du không còn là tác phẩm xa lạ đối với mỗi chúng ta.Tác phẩm được Nguyễn Du viết bằng chữ Nôm với 3254 câu thơ lục bát dựa trên cốt truyện “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân – tác giả nổi tiếng của văn học Trung Quốc.”Truyện Kiều” không chỉ mang ý nghĩa tố cáo hiện thực xã hội bất công, bạo tàn mà còn nổi bật bởi giá trị nhân đạo sâu sắc được thể hiện thông qua nhân vật Thúy Kiều. Đây là nhân vật chính của “Truyện Kiều” và cũng là nhân vật để lại nhiều ấn tượng trong lòng bạn đọc.

Nguyễn Du đã ca ngợi vẻ đẹp của nàng bằng những câu thơ ước lệ đầy ấn tượng:

“Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai”.

Đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn, là một người có cái nhìn tinh tế nên Nguyễn Du không thể bỏ qua chi tiết ấy.Đôi mắt của Thúy Kiều mang vẻ đẹp trong sáng của làn nước mùa thu, đôi lông mày thanh thoát như nét núi mùa xuân. Vẻ đẹp hình thể ấy khiến thiên nhiên như hoa, liễu cũng nảy sinh lòng đố kị. Phải chăng chi tiết ấy đã dự báo cho cuộc đời về sau của Thúy Kiều sẽ không được êm đềm trong “trướng rủ màn che” nữa mà sẽ gặp nhiều trắc trở, sóng gió?

Các động từ “ghen” và “hờn” đã bộc lộ sự ghen ghét của thiên nhiên đối với vẻ đẹp “mười phân vẹn mười” của Thúy Kiều. Vẻ đẹp “nghiêng nước nghiêng thành”không ai sánh nổi đó trong nhân gian chỉ có duy nhất nàng Kiều còn về tài năng thì may mắn có người thứ hai. Kiều là một người vẹn toàn cả về nhan sắc và trí tuệ:

Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương”.

Trời phú cho nàng sự thông minh, tài giỏi nên nàng am hiểu và có tài năng cả về bốn lĩnh vực: cầm, kì, thi, họa nhưng nàng giỏi nhất là đàn. Kiều thuộc lòng năm nốt: cung, thương, dốc, chủy, vũ trong âm giai của nhạc cổ. Tài đàn của nàng vượt xa, “ăn đứt” mọi người. Không những thế, nàng còn sáng tác “thiên Bạc mệnh” mang âm hưởng đau khổ, sầu não.

Vẻ đẹp của Thúy Kiều trở nên toàn diện hơn bởi sự hiếu thảo với cha mẹ và lòng chung thủy với người yêu:

“Duyên hội ngộ, đức cù lao
Chữ tình chữ hiếu bên nào nặng hơn?
Để lời thệ hải minh sơn
Làm con trước phải đền ơn sinh thành”.

Kiều đau đớn nhường nào khi phải lựa chọn giữa chữ hiếu và chữ tình. Nàng đã chấp nhận hi sinh tình yêu với Kim Trọng để bán mình chuộc cha và em.Ngay cả khi ở lầu Ngưng Bích, nỗi nhớ cha mẹ lại càng da diết và khôn nguôi. Nàng thương cha mẹ đã về già mà nàng thì không thể ở bên cạnh chăm sóc:

“Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ”.

Giá trị nhân đạo của “Truyện Kiều” còn được thể hiện trong tình yêu của Thúy Kiều với Kim Trọng. Đó cũng là quan niệm về một tình yêu tự do của đại thi hào Nguyễn Du. Mới gặp nhau lần đầu tiên trong tiết thanh minh nhưng cả “người quốc sắc” và “kẻ thiên tài” đều “tình trong như đã mặt ngoài còn e”. Để rồi từ đó, Kim Trọng thuê trọ gần nhà Thúy Kiều để được trông thấy nàng còn Thúy Kiều thì “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” sang nhà Kim Trọng để thề nguyền “trăm năm tạc một chữ đồng đến xương”.

Tình yêu của họ là tình yêu tự do, chủ động, xuất phát từ sự tự nguyện của hai phía. Nó đã phá tan đi những lễ giáo phong kiến trói buộc người phụ nữ vào những quy tắc, luật lệ hà khắc. Họ hoàn toàn bị động và không có quyền chủ động trong tình yêu.Lòng thủy chung với chàng Kim đã khiến Thúy Kiều vô cùng đau đớn khi trao duyên lại cho Thúy Vân và mong em sẽ thay mình thực hiện lời thề nguyền với Kim Trọng.

Cuộc đời nàng là một chuỗi các bi kịch tiếp nối nhau.Tình yêu say đắm với Kim Trọng chưa được bao lâu thì “giữa đường đứt gánh tương tư” bởi biến cố bất ngờ mà gia đình Thúy Kiều gặp phải. Tình yêu tan vỡ, hai người phải chịu cảnh chia li, xa cách trong một thời gian dài và khi gặp lại nhau tuy tình cảm dành cho nhau vẫn còn nhưng hai người lại chọn cách ứng xử “duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy”.

Song song với bi kịch tình yêu là bi kịch bị chà đạp lên nhân phẩm. Để có tiền chuộc cha và em, Kiều đã bán mình cho Mã giám Sinh để làm vợnhưng kẻ lọc lừa, xảo trá ấy đã bán Kiều vào lầu xanh khiến nàng phải “thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”. Nàng gặp phải những kẻ buôn thịt bán người đầy mưu mô như Tú Bà, Bạc Bà, Bạc Hạnh, Mã Giám Sinh, Sở Khanh,…

Thúy Kiều phải sống cuộc sống ô nhục ở chốn lầu xanh nhơ nhớp. Đó là bức tranh hiện thực mà tác giả muốn tố cáo. Nguyễn Du đã lên án xã hội vì đồng tiền mà nhân phẩm con người bị chà đạp, sức mạnh của đồng tiền có thể đổi trắng thay đen, khiến những con người vô tội phải chịu nỗi oan uổng.

Bàn về giá trị nhân đạo của “Truyện Kiều”, Mộng Liên Đường đã đưa ra nhận định xác đáng: “Lời văn tả ra hình như máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm trên tờ giấy khiến ai đọc cũng thấm thía ngậm ngùi”. Quả đúng là như vậy, Nguyễn Du viết về thân phận người phụ nữ bằng bao nhiêu sự xót xa, đồng cảm:

“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”

Ông đau đớn cho số phận của Thúy Kiều phải chịu sự vùi dập. Ông cũng trân trọng khát vọng về một tình yêu tự do, khát vọng sống và khát vọng hạnh phúc của nàng. “Nếu không phải con mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời thì không tài nào có được bút lực ấy” (Mộng Liên Đường).Nếu không phải một nhà thơ có tình yêu thương đối với những con người bất hạnh thì có lẽ Nguyễn Du đã không viết nên được tác phẩm “Truyện Kiều” nổi tiếng không chỉ trong nước mà còn được dịch ra nhiều thứ tiếng nước ngoài.

Thúy Kiều là nhân vật Nguyễn Du gửi gắm những tư tưởng nhân đạo của mình. Đồng thời, nàng cũng là nhân vật thể hiện giá trị nhân đạo của toàn bộ thiên kiệt tác. “Truyện Kiều” đã đánh thức trái tim của mỗi chúng ta, khiến chúng ta rơi lệ bởi sự thương xót cho nhân vật Thúy Kiều. “Truyện Kiều” là di sản vĩ đại, là linh hồn của dân tộc Việt Nam. “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn” (Phạm Quỳnh).

Có thể bạn sẽ thích 🌼 Giá Trị Hiện Thực Của Truyện Kiều 🌼 8 Bài Văn Phân Tích Hay

Phân Tích Thuý Kiều Trong Trao Duyên – Mẫu 10

Đón đọc bài văn phân tích Thuý Kiều trong Trao duyên dưới đây để đi sâu phân tích những diễn biến tâm trạng của nhân vật Thuý Kiều trong đoạn trích.

Tình yêu đầu bao giờ cũng là tình yêu trong sáng và đẹp đẽ nhất. Thế nhưng, với Thuý Kiều, tình yêu ấy lại chứa chan bao đau khổ, xót thương vô cùng. Mối tình đầu đẹp như mơ của nàng với Kim Trọng đã buộc phải chia cắt vì biến cố bất ngờ của gia đình.

Để vẹn tròn hai bên hiếu, tình nàng đã quyết định trao lại mối duyên ấy cho Thuý Vân – em gái mình để Vân thay nàng trả nghĩa cho Kim Trọng. Tất cả điều đó được thể hiện qua đoạn trích Trao duyên vô cùng đặc sắc. Đoạn trích đã cho thấy được sự dằn vặt, đau đớn khôn nguôi của Kiều khi phải trao đi mối duyên sâu đậm của mình.

Đoạn trích Trao duyên là trích đoạn từ câu 723 đến câu 756 thuộc tác phẩm Truyện Kiều của nhà văn Nguyễn Du. Sau đêm thề nguyền cùng chàng Kim Trọng, gia đình Kiều xảy ra gia biến, gia sản bị tịch thu còn cha và em trai thì bị bắt. Trước biến cố bất ngờ Kiều phải bán mình cho Mã Giám Sinh để lấy bốn trăm lạng vàng, đút lót quan lại để cứu cha và em.

Khi đó, Kim Trọng đang ở Liễu Dương chịu tang chú nên không hề biết chuyện xảy đến với gia đình Kiều. Vào tối đêm trước ngày ra đi, Kiều đã nhờ Thuý Vân – em gái mình ở lại trả nghĩa cho chàng Kim. Bao nhiêu đau đớn và giằng xé trong tâm can Kiều được đẩy lên cao trào trong trích đoạn này.

Đêm trước ngày ra đi, Kiều một mình lặng lẽ trong bóng tối. Nàng đau xót cho mình, đau xót cho cả mối tình dang dở với chàng Kim. Nàng luôn tự trách bản thân có lỗi với chàng, nàng là nguyên nhân gây ra nỗi bất hạnh cho chàng:

“Công trình kể biết mấy mươi
Vì ta khăng khít cho người dở dang!
Thề hoa chưa ráo chén vàng
Lỗi thề thôi đã phũ phàng với hoa”

Kiều mang trong mình đầy những mặc cảm tội lỗi dù rằng chuyện tình cảm là hai người tự nguyện đến với nhau và cùng nhau thề nguyền. Dưới bóng đèn mờ ảo, nàng khóc thương cho phận mình, duyên tình mình. Tâm trạng Kiều đầy dằn vặt, đầy rối bời đan xen. Nàng nghĩ lại mọi chuyện và nghĩ rằng chỉ còn một cách cứu vãn, dù chỉ là một phần mối duyên của mình, đó là trao lại cho Thuý Vân. Vân sẽ giúp nàng kết duyên cùng Kim Trọng, hai người là chị em, Thuý Vân cũng sẽ như nàng mà thôi.

Khi Thuý Vân nhìn thấy vẻ mặt ủ dột của Kiều, Vân đã gặng hỏi Kiều câu chuyện và Kiều đã đáp rằng:

Lòng đương thổn thức đầy
Tơ duyên còn vướng mối này chưa xong
Hở môi ra cũng thẹn thùng
Để lòng thì phụ tấm lòng với ai.”

Kiều mở lời trong thẹn thùng, e ngại bởi đây là chuyện tình của riêng nàng, đâu phải ai cũng có thể hiểu, cũng có thể nghe. Bởi vậy muốn ngỏ lời với Vân chuyện hệ trọng đó thật khó biết bao! Vậy nên Kiều đã vô cùng thận trọng, lựa chọn những từ ngữ thật cẩn thận, ngập ngừng nói với em gái rằng:

“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”

Câu nói bật ra khiến người đọc cảm nhận được ngay sự e dè, thận trọng cũng như mức độ quan trọng của câu chuyện Kiều muốn tỏ bày cùng em. Nàng lựa chọn từng câu từ chính xác với một tâm trạng vô cùng đắn đo khi nhờ cậy em mình. Một từ “cậy” thôi, người đọc thấy ở đó là âm điệu nặng nề, một sự nhờ vả nhưng đầy hoang mang, dằn vặt khi Kiểu mở lời. Và rồi tiếp theo những hành động của Kiều càng khiến người ta phải ngạc nhiên hơn nữa “Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”.

Những hành động tôn kính hết mực, vốn chỉ dành cho những bậc bề trên thì nay Thuý Kiều lại dùng nó với Thuý Vân – em gái của mình. Bởi thứ mà Kiều muốn nhờ vả em mình quá đỗi quan trọng với nàng và còn vì trong tâm nàng đang tràn đầy những nỗi đau đớn, xót xa cho mối tình của mình.

Hai từ “cậy, chịu” của Kiều, người đọc chỉ nghe thôi ma sao cũng thấy xót xa, thấy đau đớn thay cho nàng. Chắc hẳn, phải tuyệt vọng lắm, Kiều mới thốt lên được những tiếng nhờ cậy đau xót nhường ấy. Lời nhờ cậy ấy không chỉ là một lời nói suông mà còn chứa trong đó một thái độ nài ép, ép buộc Thuý Vân phải nhận lời.

Kiều đã rất khéo léo, thông minh khi đặt vấn đề với Vân trong câu chuyện của mình. Những lời nói của nàng không chỉ khiến Vân cảm nhận được tầm quan trọng của việc nàng định nhờ vả mà còn có thể thấy được nỗi đau và sự tuyệt vọng của Kiều trong từng câu nói đó.

Sau lời ban đầu khó nói, Kiều bộc bạch nỗi lòng của mình với em về mối tình đẹp đẽ của mình với chàng Kim:

“Giữa đường đứt gánh tương tư

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”

Từng lời từng lời là từng kỉ niệm về mối tình đầu trong sáng, vẹn nguyên của nàng. Những lời hẹn ước, thề nguyền dưới trăng vẫn còn đầy, thế mà nàng đành lòng phải “đứt gánh”. Câu thơ nghe như lời tự tình thổn thức, lời tâm sự của Kiều về nỗi lòng khó chọn lựa giữa hiếu và tình:

Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”

Ở trong tình thế khó xử đó, nàng đã quyết định chọn lựa chữ hiếu, bán mình lấy bốn trăm lạng vàng cứu cha và em. Thế nhưng, canh cánh trong lòng nàng là nỗi niềm tình yêu với chàng Kim – món nợ tình khó lòng trả hết. Có thể thấy, từng câu từng chữ đều là những nỗi đau khổ khôn cùng của Kiều. Vậy nên, nàng van lơn em gái, hãy vì tình cảm máu mủ mà thay mình kết duyên, trả nợ nghĩa cho chàng Kim thay nàng. Nếu được như thế, nàng có chết đi bằng cách thê thảm nhất cũng sẽ vui lòng.

Những câu chữ trong lý lẽ trao duyên của Kiều hết sức chặt chẽ, hết sức thông minh. Nhưng ẩn chứa trong đó là sự dằn vặt cũng như xót xa cho mối tình đầu của mình.

Nói hết lý lẽ trao duyên cho Thuý Vân hiểu, nàng lại lặng lẽ trao cho em hết những kỉ vật tình yêu của mình:

“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”

Nếu như ở trên, Kiều bình tĩnh phân tích cho Vân nghe mọi chuyện, mọi sự dằn vặt, đau xót nàng cất giữ trong lòng cho riêng mình, thì ở đoạn này, Kiều không thể kìm nén được nữa. Những câu thơ nghe như tiếng nấc nghẹn của nàng, khi đưa cho em gái từng kỉ vật. Nàng trao hết đi, trao “duyên này” đi, tác thành cho mối duyên giữa Vân và Kim Trọng, thế nhưng, những kỉ vật này, hãy coi nó là “của chung”, của cả ba người.

Những dòng thơ tuôn trào là nỗi lòng Kiều trong giằng xé, bởi nàng vừa muốn trao đi mối duyên của mình lại vừa tiếc nuối nó, không đành. Càng nói, Kiều càng đau xót cho số phận mình, tự nhận mình là một kẻ “bạc mệnh”. Thế nên nàng mới dự cảm được tương lai của mình đầy mịt mù, chỉ thấy cái chết là rõ ràng nhất.

“Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin giọt nước cho người thác oan”

Trong khi Vân và chàng Kim được nên duyên vợ chồng, Kiều tưởng tượng mình chỉ còn là một mảnh hồn vất vưởng nơi trần thế, “hiu hiu” trong gió. Thế nhưng dù “nát thân bồ liễu” thì linh hồn nàng vẫn mang nặng lời thề sắt son cùng Kim Trọng, vĩnh viễn không bao giờ quên. Thật là mâu thuẫn, thật là đan xen. Bởi Kiều đã nói nếu Vân chịu nhận lời giúp nàng thì nàng “thịt nát xương mòn” cũng sẽ “ngậm cười chín suối”.

Ấy vậy mà giờ đây, khi trả được món nợ tình duyên, nàng cũng không hề thanh thản mà còn xót xa, nặng nề hơn trước nữa. Phải chăng đó là bởi trước đó, nàng lo cho người mà quên đi mình, giờ đây khi lo chu toàn chuyện của người, nàng mới nhận ra sự bạc bẽo của phận mình. Tương lai mờ mịt, oan trái, còn tinh thần nàng thì như nửa tỉnh nửa mê. Những câu nói của nàng như lời của một linh hồn phảng phất từ thế giới bên kia vọng lại.

Có thể thấy, trong lời nói của Kiều là sự giằng xé, sự tiếc nuối khôn nguôi khi phải trao đi mối duyên tình đậm sâu của mình. Và chứa chán trong đó, còn là nỗi đau xót, xót xa cho số phận bạc bẽo của mình, cho tương lai mù mịt, không lối thoát.

Trong sự cao trào của nỗi đau xót, Kiều thốt lên những lời gan ruột đau đớn cho mối duyên tình dở dang của mình, cho số phận của mình:

“Bây giờ trâm gãy gương tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!
Phận sao phận bạc như vôi!
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”

Giờ đây, trong thực tại nỗi nhớ về Kim Trọng, Kiều chỉ thấy những đổ vỡ, những tang thương “trâm gãy, bình tàn”. Thế nhưng, còn có thể làm được gì, “phận” đã “bạc như vôi” thì đành phải chấp nhận, đành để mối tình ấy, trái tim ấy “lỡ lãng”. Kiều biết nàng đã phụ chàng, nàng đã làm chàng phải thất vọng. Vậy nhưng giờ đây, nàng chỉ còn biết tạ tội với tình lang của mình trông chua xót và bất lực. Cuối cùng, không thể chịu đựng nổi, nàng đã thốt lên trong sự nghẹn ngào và đau đớn quằn quại:

“Ôi Kim lang! Hời Kim lang
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”

Tiếng nấc nghẹn ấy của Kiều là sự bộc lộ toàn bộ tâm trạng đau đớn lúc đó của nàng, tới mức gần như mê sảng. Nỗi đau chia cắt cứ nhân lên nhân lên gấp bội, lên tới tột đỉnh.

Đoạn kết khép lại trong nỗi đau thương quằn quại con người nàng. Nhưng không phải là vì bản thân nàng mà là vì người nàng yêu, vì tình lang của mình. Tâm hồn nàng chứa chan sự vị tha, nhân hậu vô bờ, nàng muốn cho người được hạnh phúc còn mình thì sẵn sàng cam chịu sự hi sinh.

Đoạn trích Trao duyên đã lột tả chân thực tâm trạng của Thuý Kiều khi buộc lòng phải trao đi mối duyên nồng đậm với Kim Trọng. Ngòi bút của Nguyễn Du đã sắc sảo trong việc sử dụng ngôn ngữ để lột tả hoàn toàn từng rung động trong tâm hồn Kiều, để từ đó, ta thấy được sự đau đớn, giằng xé, nghẹn ngào trong con người Kiều một cách chân thực nhất.

Đọc nhiều hơn dành cho bạn ☀️ Phân Tích Trao Duyên ☀️ Top 10 Bài Văn Mẫu Hay Nhất

Phân Tích Thuý Kiều Trao Duyên Ngắn Hay – Mẫu 11

Chia sẻ dưới đây bài văn mẫu phân tích Thuý Kiều Trao duyên ngắn hay giúp các em học sinh hoàn thành tốt và đạt kết quả cao cho bài kiểm tra viết.

Trao Duyên là một trong những đoạn thơ có ý nghĩa vô cùng đặc biệt trong Truyện Kiều của nhà thơ Nguyễn Du. Đoạn thơ khắc họa được rõ nét nhất tấn bi kịch của cuộc đời Thúy Kiều. Khi vì chữ Hiếu mà nàng phải quên đi chữ Tình quên đi hạnh phúc của đời mình đành dang dở. Bằng bút pháp miêu tả nội tâm tài tình Nguyễn Du đã cho chúng ta thấy được tâm trạng giằng xé đầy đau khổ của Thúy Kiều.

Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”.

Trong không gian tĩnh mịch đêm khuya vắng. Thúy Kiều gọi Thúy Vân đến khẩn thiết cậy nhờ em. Nàng biết rằng điều mình nói ra đây thật sự rất khó khăn nên mới phải sử dụng từ “cậy em”. Sau đó rồi đưa Thúy Vân lên một tầm cao hơn đó là ngồi lên trên để chị “lạy rồi sẽ thưa”. Chỉ hai câu thơ đầu thôi mà chúng ta đã thấy được Thúy Kiều là người hiểu chuyện như thế nào khi lường trước được việc mình cậy nhờ em sẽ thật sự khó khăn nên muốn đưa em vào thế không thể chối từ.

Trong niềm đau đớn của bản thân, Thúy Kiều cố gắng phân bày với em việc tại sao mới có lý do cậy nhờ ngày hôm nay:

“Giữa đường đứt mối tương tư.
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề.
Sự đâu sóng gió bất kỳ.
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.
Ngày xuân em hãy còn dài.
Xót tình máu mủ thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn.
Ngậm cười chín suối vẫn còn thơm lây.”

Nàng kể về mối tình nồng thắm của mình với Kim Trọng vừa mới chớm nở nay đã phải lụi tàn vì hoàn cảnh gia đình. Không còn nỗi đau khổ nào hơn khi vì chữ Hiếu mà phải dứt bỏ chữ Tình với chàng Kim. Vì thế Thúy Kiều cũng mong Thúy Vân thấu hiểu cho nỗi khổ của mình mà nhận lời chắp nối tơ duyên với Kim Trọng. Nếu Thúy Vân nhận lời làm việc đó thì dù có chết Thúy Kiều cũng vẫn biết ơn em. “Ngậm cười chín suối vẫn còn thơm lây”. Nàng đã lấy cả cái chết ra để thuyết phục em gái nhận lời cậy nhờ của mình.

Sau khi Thúy Vân đã nhận lời giúp chị Thúy Kiều bắt đầu trao cho em những kỷ vật tình yêu. Lúc này tâm trạng đau khổ giằng xé của nàng được tác giả Nguyễn Du khắc họa rất rõ nét.

Chiếc trâm với bức tờ mây.
Duyên này thì giữ, vật này của chung.
Dù em nên vợ nên chồng.
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên.
Mất người còn chút của tin.
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.

Trong giờ phút trao duyên mọi kỷ niệm lại sống dậy mãnh liệt trong tâm trí Thúy Kiều. Ngỡ như tình yêu chỉ mới hôm qua đây khi nàng vừa gặp Kim Trọng vừa trao nhau những lời thề nguyền ước hẹn. Trao duyên nhưng kỷ vật đấy được xem là của chung. Và sau này khi em có nên vợ nên chồng với chàng Kim cũng đừng quên chị.

Càng nói Thúy Kiều càng xót xa cho thân phận hồng nhan bạc mệnh của mình. Khi mà có được tình yêu trong tay rồi mà vì biến cố gia đình lại bị tuột mất. Nàng chới với không biết bám víu vào đâu nên tưởng tượng đến lúc Thúy Vân và Kim Trọng bên nhau mà lúc đấy nàng chỉ như một oan hồn vật vờ trong gió vương vấn trên phím đàn và mảnh hương nguyền ngày xưa.

Mai sau dù có bao giờ.
Đốt lò hương ấy so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ lá cây.
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.

Nếu như ở đoạn thơ đầu Thúy Kiều nói chỉ cần Thúy Vân nhận lời trao duyên thì mình ở nơi chín suối cũng ngậm cười thơm lây. Thì đến đoạn thơ này khi nhắc đến những kỷ niệm tình yêu với chàng Kim nàng càng day dứt. Nàng day dứt vì tình yêu không trọn vẹn. Thúy Kiều cảm thấy nỗi xót xa vô hạn dù chỉ là tưởng tượng thôi cũng khiến người ta cảm thấy thương cảm. Đúng là “trâm gãy bình tan” tơ duyên ngắn ngủi vừa nở đã tàn. Thúy Kiều chỉ xin em dù có thế nào nếu có âm dương cách biệt hãy cho chị xin giọt nước cho người thác oan.

Hồn còn mang nặng lời thề.
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.
Dạ đài cách mặt khuất lời.
Rưới xin giọt nước cho người thác oan.

Với Thúy Kiều dù có chết nàng cũng không bao giờ quên được tình yêu với Kim Trọng. Nên dù “thác xuống” nàng vẫn đau đáu với tình yêu chưa trọn vẹn. Nàng đã phải thốt lên:

Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang.
Thôi thôi! Thiếp đã phụ chàng từ đây.
Cạn lời hồn ngất máu say
Một hơi lặng ngắt đôi tay giá đồng

Thúy Kiều đã phải thốt lên “ôi Kim Lang” nghĩa là nàng đã coi chàng Kim Trọng như phu quân của mình là tình lang trong mộng. Nhưng từ nay cũng chỉ vì chữ Hiếu mà phải phụ chàng từ đây.

Đoạn thơ kết thúc với tâm trạng đau khổ cùng cực của Thúy Kiều. Ta thấy Nguyễn Du thật sự rất tài tình khi đã lột tả chân thực được nỗi niềm của Thúy Kiều trong đoạn trích Trao Duyên. Ở đó có cả sự mạnh mẽ của quân tử cũng có sự yếu đuối của nữ nhi thường tình khi phải rời xa tình yêu khắc cốt ghi tâm của mình. Một tâm trạng giằng xé đau khổ mà không phải ngòi bút nào cũng có thể lột tả được.

Tiếp tục tham khảo 🌟 Phân Tích Kiều Ở Lầu Ngưng Bích 🌟 17 Bài Văn Hay Nhất

Phân Tích Thuý Kiều Ở Lầu Ngưng Bích – Mẫu 12

Tham khảo dưới đây bài văn mẫu phân tích Thuý Kiều ở lầu Ngưng Bích với những ý văn đặc sắc và giàu ý nghĩa.

Trong nền văn học trung đại Việt Nam, “Truyện Kiều” của đại thi hào Nguyễn Du được xem là một kiệt tác tiêu biểu và nổi bật. Giá trị vững bền của tác phẩm được tạo nên không chỉ ở mặt nội dung cốt truyện hấp dẫn mà còn thể hiện qua những bút pháp nghệ thuật đặc sắc và nổi bật là nghệ thuật miêu tả tâm lí, nội tâm nhân vật.

“Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một trong những trích đoạn thể hiện rõ biệt tài miêu tả tâm lí nhân vật của tác giả Nguyễn Du. Trong đoạn trích này, chúng ta có thể thấy được tâm trạng buồn tủi, nỗi nhớ thương cùng dự cảm của Thúy Kiều trong hoàn cảnh bơ vơ, lạc lõng tại lầu Ngưng Bích.

“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.”

Trong sáu câu thơ đầu tiên, tâm trạng của Thúy Kiều được làm nổi bật với sự chán ngán, bơ vơ, lạc lõng và buồn tủi qua khung cảnh lầu Ngưng Bích. Đó là không gian chơi vơi giữa trời nước, núi non: “Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung” và Kiều chỉ nhìn thấy được “Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia” với những “cồn cát vàng”như đang chuyển động lượn sóng và bụi hồng vướng trải trên hàng dặm xa xăm.

Tất cả đã tạo nên một bức tranh thiên nhiên được phóng chiếu ở cả chiều cao và chiều rộng, gợi ra sự mênh mang, hoang vắng và đầy rợn ngợp nhưng lại bị bó gọn trong khoảng thời gian “mây sớm, đèn khuya” tuần hoàn, khép kín; làm nổi bật hơn nữa tâm trạng “bẽ bàng” của nhân vật trữ tình khi bị giam lỏng trong vòng luẩn quẩn đầy tù túng. Khung cảnh đó như chia cắt và xoáy sâu hơn nữa vào bi kịch của Thúy Kiều: “Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng” và khơi gợi nỗi nhớ về những ngày đã qua.

Ngòi bút tinh tế của tác giả Nguyễn Du tiếp tục lách sâu vào dòng tâm trạng của nhân vật khi miêu tả nỗi nhớ của Thúy Kiều. Trước hết, nàng nhớ về hình bóng chàng Kim và đêm thề nguyền nguyện ước giữa hai người:

“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ”

Tình yêu đối với chàng Kim trở thành nỗi day dứt mạnh mẽ nhất trong tâm trạng của Thúy Kiều, bởi “Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”, và nàng đã chọn cách đoạn tình để làm trọn đạo hiếu. Sau đó nàng nhớ về cha mẹ mình:

Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.”

Là một người con có hiếu, dù đã bán mình chuộc cha nhưng trong lòng Kiều vẫn trĩu nặng nỗi nhớ thương về cha mẹ. Tác giả đã sử dụng điển cố điển tích- một biện pháp nghệ thuật điển hình trong thi pháp của nền văn học trung đại để nói lên tấm lòng hiếu thảo của nàng Kiều.

Nhưng điểm đặc sắc là tác giả đã đặt nỗi nhớ của chàng Kim lên trước nỗi nhớ về cha mẹ, thể hiện rõ nét sự tinh tế trong việc miêu tả tâm lí nhân vật của tác giả Nguyễn Du. Bởi lẽ với cha mẹ, nàng đã bán mình, hi sinh bản thân; còn đối với chàng Kim, nàng vẫn còn mang nợ một lời thề cùng một tình yêu son sắt thủy chung và nàng tự cho mình là người phụ bạc.

Sau khi nhớ về quá khứ, về tình yêu, về gia đình thì tâm trạng của nàng Kiều chìm trong nỗi buồn đau, cô đơn và lo sợ về thực tại và tương lai. Bút pháp tả cảnh ngụ tình đã được tác giả vận dụng một cách điêu luyện để miêu tả những con sóng trong tâm lí nhân vật:

“Buồn trông cửa bề chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới ra
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông ngọn cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”

Đây là tám câu thơ hay nhất trong trích đoạn này khi miêu tả tâm trạng của nàng Kiều. Cảm xúc sầu buồn đã được miêu tả thông qua bức tranh thiên nhiên từ xa đến gần với gam màu ảm đảm trong không gian u tối, và mỗi cặp câu bắt đầu bằng cụm từ “Buồn trông” lại mang những ý nghĩa ẩn dụ vô cùng ý nghĩa. Trước hết, tác giả đã khắc họa nỗi buồn tha hương cũng như khao khát đoàn tụ qua hình ảnh cửa bể- con thuyền.

Hơn ai hết, nàng hiểu rõ rằng chút hi vọng nhỏ nhoi thoát khỏi sự giam cầm vẫn là vô vọng. Bởi vậy nàng đã buồn cho số phận trôi dạt mong manh đầy bi kịch của mình thông qua hình ảnh “hoa trôi man mác”. Câu thơ kết thúc bằng từ nghi vấn “biết là về đâu” đã tạo nên một câu hỏi tu từ gợi nên sự mơ hồ, hoài nghi về hiện tại và tương lai. Dự cảm đó tiếp tục được lặp lại và nhấn mạnh hơn nữa trong hai câu thơ cuối cùng:

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”

Âm thanh của tiếng sóng đã được tác giả nhấn mạnh thông qua việc sử dụng từ láy tượng thanh “ầm ầm” kết hợp với biện pháp đảo ngữ, gợi tả thành công sự dữ dội như đang gào thét nơi biển xa. Trước không gian rộng lớn ầm ầm sóng vỗ, Thúy Kiều đã có những dự cảm và nỗi lo sợ đầy bất an về những bất trắc đang ập đến và vùi dập cuộc đời.

Như vậy, với tám câu thơ được kiến tạo theo câu trúc lặp lại của cụm từ “Buồn trông”, tác giả Nguyễn Du đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên mênh mông, rộng lớn, vừa vắng vẻ vừa dữ dội để nhấn mạnh những cung bậc cảm xúc của nỗi buồn trong tâm trạng của Thúy Kiều.

Thông qua diễn biến dòng tâm lí của nhân vật Thúy Kiều, chúng ta càng hiểu rõ hơn nữa về cuộc đời của Thúy Kiều- “tấm gương oan khổ” thể hiện rõ số phận bi kịch của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Đó là người con gái tài hoa nhưng bạc mệnh và trải qua vô vàn bi kịch về gia đình, về tình duyên, về nhân phẩm. Đồng thời, thấy được tài năng của đại thi hào Nguyễn Du trong việc miêu tả nội tâm nhân vật thông qua bút pháp “tả cảnh ngụ tình” và sử dụng những biện pháp nghệ thuật vô cùng đặc sắc.

Mời bạn đón đọc 🌜 Phân Tích Nỗi Thương Mình 🌜 12 Bài Văn Mẫu Hay Nhất

Phân Tích Thúy Kiều Trong Chí Khí Anh Hùng – Mẫu 13

Bài văn mẫu phân tích Thuý Kiều trong Chí khí anh hùng dưới đây sẽ là nội dung tham khảo cần thiết hỗ trợ các em học sinh trong quá trình làm bài.

Nguyễn Du là một nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam, ông được mệnh danh là đại thi hào, suốt cuộc đời sáng tác của mình, Nguyễn Du đã để lại rất nhiều tác phẩm hay và có giá trị, nổi bật trong số đó có thể kể đến kiệt tác Truyện Kiều. Đoạn trích Chí khí anh hùng là một trong những đoạn trích khá tiêu biểu, Nguyễn Du không chỉ miêu tả chân dung cũng như khát vọng làm nên sự nghiệp lớn của người anh hùng Từ Hải mà còn khắc hoạ vẻ đẹp của nhân vật Thuý Kiều.

Nguyễn Du là một nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam, ông được mệnh danh là đại thi hào, suốt cuộc đời sáng tác của mình, Nguyễn Du đã để lại rất nhiều tác phẩm hay và có giá trị, nổi bật trong số đó có thể kể đến kiệt tác Truyện Kiều. Đoạn trích Chí khí anh hùng là một trong những đoạn trích khá tiêu biểu, Nguyễn Du đã miêu tả chân dung cũng như khát vọng làm nên sự nghiệp lớn của người anh hùng Từ Hải.

Nguyễn Du tên tự Tố Như, hiệu Thanh Hiên, là một nhà thơ, nhà văn hóa lớn thời Lê mạt, Nguyễn sơ ở Việt Nam. Ông được người Việt kính trọng tôn xưng là “Đại thi hào dân tộc”. Tổ tiên của Nguyễn Du có nguồn gốc từ làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (nay thuộc Hà Nội), sau di cư vào Hà Tĩnh, có truyền thống khoa hoạn nổi danh ở làng Tiên Điền về thời Lê mạt. Trước ông, sáu bảy thế hệ viễn tổ đã từng đỗ đạt làm quan. Bốn nghề chơi: cầm, thư, thi, hoạ bốn nghề đều thông thạo.

Nguyễn Du mồ côi cả cha lẫn mẹ nên ông phải ở với người anh khác mẹ là Nguyễn Khản. Năm 1780, Nguyễn Khản là anh cả của Nguyễn Du đang làm Trấn thủ Sơn Tây bị khép tội mưu loạn trong Vụ án năm Canh Tý bị bãi chức và bị giam ở nhà Châu Quận công. Nét nổi bật trong tác phẩm của Nguyễn Du chính là sự đề cao xúc cảm.

Nguyễn Du là nhà thơ có học vấn uyên bác, nắm vững nhiều thể thơ của Trung Quốc, như: ngũ ngôn cổ thi, ngũ ngôn luật, thất ngôn luật, ca, hành… nên ở thể thơ nào, ông cũng có bài xuất sắc. Đặc biệt hơn cả, là tài làm thơ bằng chữ Nôm của ông, mà đỉnh cao là Truyện Kiều, đã cho thấy, thể thơ lục bát có khả năng chuyển tải nội dung tự sự và trữ tình to lớn trong thể loại truyện thơ.

Đoạn trích Chí khí anh hùng từ câu 2213 đến câu 2230 trong Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du. Trong đoạn trích này, hình ảnh Kiều hiện lên là một người vợ hết mực quan tâm, sẵng sàng đồng cam cộng khổ cùng người anh hùng Từ Hải:

“Nàng rằng: Phận gái chữ tòng
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi

Trong lúc “hương lửa đương nồng” nàng không muốn cách xa Từ Hải- người chồng đồng thời là ân nhân cứu mạng thoát khỏi chốn lầu xanh. Thúy Kiều một lòng một dạ muốn theo chồng mình “Nàng rằng: Phận gái chữ tòng”, nhắc đến chữ tòng trong lễ giáo phong kiến, có chồng thì phải theo chồng để được đi theo.

Nho giáo đã quy định người phụ nữ phải tuân theo luật “tam tòng”: ở nhà theo cha, xuất giá theo chồng, chồng chết theo con. Thúy Kiều đã khéo léo nhắc đến luật lệ của đạo Nho để xin đi theo chồng. Nàng muốn đi theo chồng để nâng khăn sửa túi, có người bầu bạn, cùng chia sẻ những khó khăn cuộc đời mà chồng phải chịu. Dù biết là rất gian nan và khó khăn nhưng vẫn một lòng xin theo. Đó là mong muốn chính đáng, hợp lí, thuận tình.

Từ Hải đã từ chối mong muốn của Kiều, đó là phản ứng tất yếu của một người anh hùng chân chính:

Từ rằng: Tâm phúc tương tri
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?”

“Tâm phúc tương tri” nghĩa là hai người đã hiểu nhau sâu sắc, Từ Hải coi Kiều là tri kỉ, hiểu mình hơn ai hết tại sao vẫn chưa thoát khỏi “nữ nhi thường tình”. Đó là một lời động viên, khuyên nhủ Thúy Kiều vượt lên thứ tình cảm thông thường để làm vợ một người anh hùng, vượt qua những bất trắc trước mắt để hướng về một tương lai tốt đẹp hơn.

“Chí khí anh hùng” đã miêu tả cuộc chia ly giữa “trai anh hùng” và “gái thuyền quyên” đầy dứt khoát nhưng nổi bật lên trong đoạn trích là tấm lòng của nàng Kiều. Đó là vẻ đẹp chuẩn mực của người phụ nữ thời xưa trong đạo vợ chồng.

Chia sẻ cùng bạn 🌹 Phân Tích Đoạn Trích Chí Khí Anh Hùng 🌹 15 Bài Văn Mẫu

Phân Tích Thuý Kiều Báo Ân Báo Oán – Mẫu 14

Đón đọc bài văn phân tích Thuý Kiều báo ân báo oán dưới đây sẽ giúp các em học sinh nắm được những định hướng làm bài cụ thể nhất.

Trải qua rất nhiều biến cố, Kiều đã nếm đủ mọi điều cay đắng. Có lúc tưởng chừng nàng buông xuôi trước số phận: Biết thân chạy chẳng khỏi trời, Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh. Trong khi Kiều chới với, tuyệt vọng thì Từ Hải xuất hiện. Kiều gặp Từ Hải, một bước ngoặt quan trọng đã mở ra trên hành trình số phận của cô gái tài sắc họ Vương. Người anh hùng đội trời đạp đất chẳng những cứu Kiều thoát khỏi chốn lầu xanh nhơ nhớp mà còn đưa nàng từ thân phận con ong cái kiến bước lên địa vị một phu nhân quyền quý, cao hơn nữa là địa vị của một quan tòa.

Đoạn Thuý Kiều báo ân báo oán miêu tả cảnh Kiều đền ơn đáp nghĩa những người đã cưu mang giúp đỡ mình trong cơn hoạn nạn, đồng thời trừng trị những kẻ bất nhân, tàn ác. Qua ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Du, chúng ta thấy được tấm lòng nhân nghĩa vị tha của Kiều và ước mơ công lí của nhân dân: ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác. Đoạn thơ chia làm hai phần. Mười hai câu đầu là cảnh Thuý Kiều báo ân. Những câu thơ còn lại là cảnh Thuý Kiều báo oán.

Nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật của Nguyễn Du rất đa dạng. Có khi ông dùng bút pháp ước lệ để miêu tả ngoại hình (đoạn Chị em Thuý Kiều); có khi lại dùng ngôn ngữ độc thoại, hoặc tả cảnh ngụ tình để miêu tả tâm trạng (đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích). Trong đoạn Thuý Kiều báo ân báo oán, tính cách nhân vật được thể hiện qua ngôn ngữ đối thoại. Bằng ngôn ngữ đối thoại, Nguyễn Du đã khắc hoạ tính cách Thuý Kiều và Hoạn Thư thật tài tình.

Đúng với bản chất nhân hậu vốn có, Thuý Kiều nghĩ tới chuyện đền ơn trước rồi mới báo oán sau. Người được mời đầu tiên là Thúc Sinh: Cho gươm mời đến Thúc Lang. Trước cảnh uy nghiêm gươm lớn giáo dài, chàng Thúc hoảng sợ đến mức Mặt như chàm đổ mình dường dẽ run, mất cả thần sắc, bước đi không vững. Hình ảnh tội nghiệp này hoàn toàn phù hợp với tính cách của Thúc Sinh, một con người tốt bụng, đa tình nhưng nhu nhược, dám yêu nhưng không đủ dũng cảm để bảo vệ người yêu.

Lời nói của Kiều chứng tỏ nàng thực sự trân trọng hành động nghĩa hiệp mà Thúc Sinh đã dành cho nàng trong cơn hoạn nạn:

Nàng rằng: “Nghĩa nặng nghìn non,
Lâm Tri người cũ, chàng còn nhớ không?
Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng,
Tại ai, há dám phụ lòng cố nhân?…”

Thúc Sinh chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh, cứu nàng thoát khỏi cảnh đời ô nhục. Kiều đã có những tháng ngày tạm thời yên ổn trong cuộc sống chung với Thúc Sinh. Nàng gọi đó là nghĩa nặng nghìn non, nàng không bao giờ quên. Kiều ân cần hỏi han Thúc Sinh để trấn an chàng. Hai chữ người cũ mang sắc thái thân mật, gần gũi, biểu hiện tấm lòng biết ơn chân thành của nàng.

Khi nói với Thúc Sinh Kiều dùng ngôn ngữ trau chuốt và sử dụng cả những điển cố, điển tích trong văn chương. Cách nói ấy phù hợp với thư sinh họ Thúc và diễn tả được thái độ trân trọng của Kiều đối với chàng.

Vì muốn thoát khỏi cảnh: Sống làm vợ khắp người ta nên Kiều đã nhận lời làm lẽ Thúc Sinh. Nhưng cũng vì gắn bó với Thúc Sinh mà Kiều khốn khổ với thân phận tội đời khi rơi vào tay vợ cả Thúc Sinh là Hoạn Thư. Nàng cho rằng nỗi đau đớn của mình không phải do Thúc Sinh gây ra.

Thuý Kiều cũng thấu hiểu hoàn cảnh éo le và tâm trạng của Thúc Sinh: yêu nàng nhưng không đủ sức bảo vệ nàng. Nàng không oán trách mà đem Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân để đền đáp ơn nghĩa của Thúc Sinh và vẫn khiêm tốn bày tỏ: Tạ lòng dễ xứng báo ân gọi là. Điều đó khẳng định Thuý Kiều là người trọng nghĩa.

Trong khi trò chuyện với Thúc Sinh, Thuý Kiều đã động tới Hoạn Thư, bởi vết thương lòng mà hoạn Thư gây ra cho nàng vần còn rỉ máu làm cho nàng không những chỉ đau đớn về thể xác mà còn đau đớn gấp bội về tinh thần.

Cuộc đối đáp giữa Thuý Kiều và Hoạn Thư ở cảnh báo oán là một màn kịch ngắn nhưng có đầy đủ nhân vật, lời đối thoại và kịch tính:

Thoắt trông nàng đã chào thưa:
Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây!
Đàn bà dễ có mấy tay,
Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan
Dễ dàng là thói hồng nhan
Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều.

Với Hoạn Thư, Kiều dùng cách nói nôm na, bình dị nhưng chứa đựng sự hả hê khó giấu. Những thành ngữ quen thuộc như kẻ cắp bà già gặp nhau, kiến bò miệng chén.., rất hợp với sự thay bậc đổi ngôi giữa Thuý Kiều và Hoạn Thư. Hành động trừng phạt cái ác của Thuý Kiều theo đúng quán điểm công lí của nhân dân nên nó phải được diễn đạt bằng lời ăn tiếng nói của nhân dân.

Mọi hành động, lời nói của Thuý Kiều đều biểu thị thái độ mỉa mai, chì chiết đối với Hoạn Thư. Vẫn một điều chào thưa, hai điều tiểu thư, vẫn dùng cách xưng hô như hồi còn làm Hoa Nô cho nhà họ Hoạn nhưng chính điều đổ đã khiến Hoạn Thư giật mình sợ hãi nhớ tới những ngày đày đọa Kiều, gieo cho Kiều bao nhiêu tai hoạ. Cách xưng hô này còn là một đòn quất mạnh vào mặt ả đàn bà họ Hoạn có máu ghen ghê gớm.

Sự mỉa mai, đay nghiến của Kiều thể hiện khá rõ trong nhịp điệu thơ như dằn ra từng tiếng, trong những từ ngừ được lặp đi lặp lại với mục đích nhấn mạnh: dễ có, dễ dàng, mấy tay, mấy mặt, mấy gan, đời xưa, đời này, càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều… Phải nói như thế mới xứng với Hoạn Thư, con người xảo trá và tàn độc: Bề ngoài thơn thớt nói cười, bên trong nham hiểm giết người không dao.

Giọng điệu ấy cho thấy Thuý Kiều quyết trừng trị Hoạn Thư cho hả giận: Kiến bò miệng chén chưa lâu, Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa. Lúc đầu, Hoạn Thư cũng hồn lạc phách xiêu, nhưng với bản chất khôn ngoan, lọc lõi, ngay trong hoàn cảnh ấy, Hoạn Thư vẫn đủ bình tĩnh để liệu điều kêu ca. Những điều Hoạn Thư kêu ca thực chất là lí lẽ để Hoạn Thư tự gỡ tội cho mình.

Trước hết, Hoạn Thư đưa ra tâm lí chung của phụ nữ: Rằng: “Tôi chút phận đàn bà, Ghen tuông thì cũng người ta thường tình. Với lí lẽ này, sự đối lập giữa Thuý Kiều và Hoạn Thư đã bị xoá bỏ. Hoạn Thư khôn khéo đưa Kiều từ vị thế đối lập trở thành người cùng chung chút phận đàn bà.

Sau đó, Hoạn Thư kín đáo kể công đã chạnh lòng thương xót mà cho Kiều ra chép kinh ở Quan Âm Các: Nghĩ cho khi gác viết kinh và dẫu biết mà không bắt giữ khi nàng bỏ trốn khỏi nhà họ Hoạn: Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo. Ý Hoạn Thư muôn nói rằng nếu tôi có tội thì chẳng qua cũng xuất phát từ tâm lí của giới nữ: Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai. Thế là từ một tội nhân, Hoạn Thư đã ranh mãnh hoá giải tất cả để trở thành nạn nhân đáng thương của chế độ đa thê.

Cao tay hơn, cuối cùng Hoạn Thư nhận hết tội lỗi về mình: Trót lòng gây việc chông gai, Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng! Đòn hiểm này của tiểu thư họ Hoạn đã đánh trúng vào chỗ mạnh mà cũng là chỗ yếu của Kiều: lòng nhân hậu và khoan dung hiếm có.

Trước những lời lẽ của Hoạn Thư, Kiều phải thừa nhận rằng ả khôn ngoan đến mực nói năng phải lời. Hoạn Thư đẩy Kiều tới chỗ khó xử: Tha ra thì cũng may đời, Làm ra mang tiếng con người nhỏ nhen. Cho nên dù đã nghiêm khắc răn đe Hoạn Thư nhưng rồi Kiều lại tha bổng: Đã lòng tri quá thì nên, Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay. Hoạn Thư đã biết lỗi, đã dập đầu xin tha thì Kiều cũng cư xử theo quan điểm của dân gian là Đánh kẻ chạy đi chứ không đánh người chạy lại.

Qua những lí lẽ để gỡ tội của Hoạn Thư, chúng ta thấy ả là loại người sâu sắc nước đời và quỷ quái tinh ma. Tuy nhiên, việc Hoạn Thư được tha bổng không hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự bào chữa của ả mà chủ yếu là do tấm lòng độ lượng của Kiều. Đoạn Thuý Kiều báo ân báo oán một lần nữa đã chứng minh tấm lòng vị tha, nhân hậu đáng quý của người con gái tài sắc họ Vương và cũng là của tác giả Truyện Kiều.

Đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán đã thể hiện được sâu sắc vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật Thúy Kiều, ở nàng ta thấy được sự thông minh sắc sảo, lối sống ân tình thủy chung, oan oán phân minh. Đề cao tấm lòng thấu hiểu lý lẽ, cao thượng, biết thương cảm số phận người phụ nữ phong kiến, đặc biệt là ở nỗi đau chung chồng, từ đó có cách hành xử vô cùng tốt đẹp, để lại ấn tượng sâu sắc cho người đọc.

Từ thân phận con người bị áp bức, đau khổ, Thuý Kiều đã trở thành vị quan toà thực hiện công lí. Đoạn trích chính là hiện thân cho ước vọng về một xã hội công bằng, chính nghĩa, công lý được thực thi, con người từ chỗ đau khổ đã vùng lên để chống lại cái ác, giành lại sự công bằng cho bản thân.

Tiếp theo đón đọc 🍀 Phân Tích Nhân Vật Từ Hải 🍀 15 Bài Văn Ngắn Hay Nhất

Phân Tích Thuý Kiều Thuý Vân – Mẫu 15

Chia sẻ tài liệu văn phân tích Thuý Kiều Thuý Vân dưới đây với những ý văn đặc sắc, giàu hình ảnh và ý nghĩa biểu đạt.

Nền văn học trung đại Việt Nam từ thế kỷ X-XIX được đánh dấu bằng nhiều tác phẩm thơ văn xuất sắc, mà tiêu biểu nhất phải kể đến Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du. Nhắc đến Truyện Kiều người ta không chỉ đơn giản nhớ đến một tác phẩm vang danh một thời, mà Truyện Kiều được xem là kiệt tác văn học được xếp vào hàng kinh điển của cả nền văn học Việt Nam, chứ không của riêng thời đại nào.

Truyện Kiều đã quá đỗi quen thuộc và đi vào đời sống của nhân dân ta một cách tự nhiên nhất, từ đó hình thành nên những nét sinh hoạt văn hóa thú vị và đặc sắc ví như bói Kiều, ngâm Kiều, tranh Kiều, rồi vịnh Kiều,… Phải nói hiếm có tác phẩm văn học Việt Nam nào lại được truyền bá rộng rãi và thậm chí được dịch sang hơn hai mươi thứ tiếng khác nhau trên thế giới như Truyện Kiều.

Dẫu nhiều câu nhiều chữ, nhưng tựu chung lại giá trị của tác phẩm nằm ở hai điểm lớn đó là cảm hứng hiện thực và tư tưởng nhân đạo xuyên suốt trong cả tác phẩm. Đọc Truyện Kiều người ta thường dễ dàng nhận ra Nguyễn Du có một biệt tài tả người, tả cảnh rất hay, rất độc đáo ấy là ở bút pháp ước lệ tượng trưng, trong đoạn trích Chị em Thúy Kiều, Nguyễn Du đã xuất sắc phác họa nên hai thiếu nữ tài sắc vẹn toàn với những hình ảnh tượng trưng, so sánh rất tinh tế, rất tài hoa.

Đoạn trích Chị em Thúy Kiều nằm trong phần mở đầu của tác phẩm, khi mà lúc này đây chị em Thúy Kiều vẫn đang sống cuộc sống êm ấm, nhung lụa. Phần mở đầu chủ yếu giới thiệu gia cảnh và thành viên trong gia đình Thúy Kiều, trong đó trọng tâm là miêu tả nhan sắc của hai chị em Vân, Kiều. Toàn bộ đoạn trích khắc họa một cách cụ thể rõ nét và sinh động và độc đáo chân dung của chị em Thúy Kiều, qua đó Nguyễn Du bộc lộ cảm hứng nhân văn rất sâu sắc của mình.

Ông ca ngợi vẻ đẹp tài năng và nhan sắc của con người, đồng thời dự cảm về số phận tài hoa nhưng bạc mệnh của Thúy Kiều, cũng như cuộc sống có phần êm đềm, tĩnh lặng của Thúy Vân. Nghệ thuật chủ yếu trong cách miêu tả vẻ đẹp nhân vật là bút pháp miêu tả cổ điển, hết sức ước lệ tượng trưng, lấy vẻ đẹp của thiên nhiên để nói lên vẻ đẹp và tài năng của con người. Ngôn ngữ trau chuốt, chọn lọc, lời thơ lục bát có vần có nhịp rất trôi chảy và hàm súc.

Bốn dòng thơ đầu của đoạn trích là những khái quát chung nhất về hai nhân vật Thúy Vân và Thúy Kiều.

Đầu lòng hai ả tố nga
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân
Mai cốt cách tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”

Vân và Kiều là hai người con gái lớn của Vương ông, Nguyễn Du dùng “tố nga” vốn có nghĩa là loài thiên nga xinh đẹp, điều đó nhằm phiếm chỉ vẻ đẹp thanh cao và duyên dáng của hai chị em Kiều. Tiếp đó Nguyễn Du lại lấy hình dáng cây mai làm “cốt cách”, bởi mai từ xưa đến nay vẫn được xếp vào hàng “tứ quân tử”, với vẻ đẹp thanh cao, ngay thẳng, sức sống mãnh liệt và kiên cường.

“Tuyết tinh thần”, tức là tâm hồn luôn luôn trong sáng, trắng đẹp tựa như những hạt tuyết mùa đông, điều đó cũng dễ khiến người ta liên tưởng đến vẻ đẹp của hai cô gái kiêu sa, lòng không vướng nổi một hạt bụi trần.

Kết lại, Nguyễn Du chốt rằng “Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”, hai cô gái ấy có những nét tính cách cao đẹp giống nhau, nhưng luận về tài năng và nhan sắc thì không hề giống nhau, ai cũng có những vẻ đẹp rất riêng, không dám so rằng ai hơn ai, đó là cách mà Nguyễn Du nhấn mạnh và cá thể hóa từng nhân vật để làm tiền đề cho đoạn sau.

Đến 14 câu thơ tiếp, mỗi một độc giả hoàn toàn nhận ra rằng Nguyễn Du chủ yếu tập trung vào nhân vật người chị là Thúy Kiều với 12 câu thơ đặc tả Kiều và với chỉ bốn câu thơ để nói về người em là Vân. Trước tiên nói về những câu thơ tả Thúy Vân.

Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”

Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp ước lệ cổ điển, chủ yếu là gợi nhiều hơn tả, vẽ nên dáng hình Thúy Vân với những nét đẹp rất độc đáo, có thể nói là khuôn vàng thước ngọc cho người con gái này. Nàng Vân với dáng vẻ “trang trọng” quý phái và cao sang, khuôn mặt thì tròn đầy phúc hậu như vầng trăng, nét mày ngài “nở nang”, nàng cũng có khuôn miệng duyên dáng, tiếng nói, tiếng cười như “ngọc thốt”, hết sức đoan trang nền nã.

Thúy Vân cũng được ưu ái cho làn tóc mượt mà đến mây cũng không dám tranh, làn da trắng đến tuyết cũng phải nhường. Có thể nói vẻ đẹp của Thúy Vân là một vẻ đẹp rất hài hòa và lý tưởng, không nằm ngoài khuôn thước thẩm mỹ truyền thống trong xã hội cũ, điều đó đã định sẵn cũng như báo trước về một cuộc đời an nhàn và bình yên của nàng Vân trong Truyện Kiều, khác biệt hẳn so với chị mình.

Nói về nhan sắc và tài năng của Kiều, Nguyễn Du đã dùng một số lượng câu thơ gấp 3 lần so với khi tả Vân, thế nhưng vẻ đẹp của Kiều lại không được chỉ ra một cách cụ thể từ khuôn mặt, tóc tai, mày ngài, giọng nói, màu da giống như Vân mà Nguyễn Du thiên về hướng gợi bằng những hình ảnh thiên nhiên đặc sắc đem đến những ấn tượng chung và để độc giả tự suy ra vẻ đẹp khác biệt của nàng Kiều.

Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn:
Làn thu thủy nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc đành đòi một tài đành họa hai.”

Có nhiều thắc mắc rằng vì sao Kiều là nhân vật chính nhưng lại được xếp tả sau, thì đến đây người ta mới vỡ lẽ ra rằng hóa ra tả Thúy Vân, để từ đó mà suy ra cái nhan sắc của Thúy Kiều. Nguyễn Du viết “Kiều càng sắc sảo mặn mà/So bề tài sắc lại là phần hơn”, đó là ý ngầm so sánh với Thúy Vân, nàng Vân có đẹp nhưng so ra Kiều lại vẫn hơn ở chỗ “sắc sảo, mặn mà”.

Như vậy phần miêu tả nhan sắc của Vân chính là bệ phóng làm nền cho phần tả vẻ đẹp của Thúy Kiều, Vân càng đẹp bao nhiêu thì càng khẳng định được cái nhan sắc rực rỡ của nàng Kiều bấy nhiêu. Phải nói “sắc sảo mặn mà” đều là những từ khái quát một cách ngắn gọn về cả tâm hồn lẫn hình thể của nàng Kiều, nàng sắc sảo về trí tuệ, nàng mặn mà về tâm hồn, nhan sắc.

Cách tả của Nguyễn Du đặc sắc là ở chỗ ấy. “Làn thu thủy nét xuân sơn”, là miêu tả đôi mắt của người con gái đẹp và trong như nước mùa thu, còn “nét xuân sơn” chính là đôi mày cong tựa như núi mùa xuân, cách đặc tả đôi mắt của người thiếu nữ khiến người đọc dễ dàng liên tưởng đến một trang tuyệt thế giai nhân mà chỉ cần một ánh mắt thôi, thì đã đủ làm người người say đắm.

Đồng thời người ta vẫn ví đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn, người có đôi mắt mà sóng mắt lại trong như nước mùa thu thì hẳn tâm hồn nàng phải trong trẻo và đẹp đẽ đến nhường nào. Câu “Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”, phần để chỉ đôi môi đỏ, cùng làn tóc xanh của Kiều, mà nó quá đỗi rực rỡ xinh đẹp khiến thiên nhiên cũng phải hờn, phải ghen.

Nghiên cứu kỹ câu thơ dường như ta đã nhận ra một dự báo về tương lai đầy gian nan và trắc trở của nàng Kiều. “Một hai nghiêng nước nghiêng thành” cũng là câu thơ để chỉ vẻ đẹp đến độ kinh diễm của Thuý Kiều, vẻ đẹp ấy có thể khiến cho nước mất nhà tan, vốn vẫn thường gọi là hồng nhan họa thủy.

Như vậy Nguyễn Du không tả một cách cụ thể vẻ đẹp của Thúy Kiều mà lại chỉ ra sự ghen ghét, đố kỵ của thiên nhiên, cùng với lòng say mê ngưỡng mộ của cả thành trì, đất nước để tôn lên cái vẻ đẹp động lòng người của nàng Kiều. Câu thành ngữ cổ “nghiêng nước nghiêng thành” đã được tác giả sử dụng một cách sáng tạo để miêu tả vẻ đẹp tuyệt thế thiên tiên của nàng Kiều. Vẻ đẹp của Kiều không chỉ là vẻ đẹp rực rỡ bề ngoài mà còn thể hiện ở những vẻ đẹp có chiều sâu khác đó chính là vẻ đẹp tài năng, trí tuệ của nàng.

“Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương.
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân.”

Nguyễn Du viết “Sắc đành đòi một tài đành họa hai”, như vậy Kiều ngoài cái vẻ đẹp kinh động lòng người, thì còn có một thân tài nghệ. Nàng sinh ra đã được trời phú một dung mạo tuyệt mỹ, lại thêm bản tính vốn thông minh, học đâu biết đấy, thế nên cầm kỳ thi họa chẳng có thứ nào mà nàng không tinh thông, đặc biệt là trong cầm kỹ, nàng đã rèn riêng cho mình một thân hồ cầm tuyệt kỹ, phải nói khó có ai sánh bằng.

Có thể nói Thúy Kiều đã đạt đến mức lý tưởng trong quan niệm truyền thống, tài sắc đều là bậc nhất, trăm năm mới có một người. Thúy Kiều ngoài khả năng đánh đàn, nàng còn biết cả sáng tác nhạc, thế nhưng những bản nhạc của nàng lúc nào cũng ai oán, như buồn, như thương cho số kiếp hồng nhan bạc mệnh, điều đó đã phần nào nói nên tâm hồn đa sầu đa cảm, đồng thời cũng là dự báo về một số kiếp trái ngang của Thúy Kiều.

“Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.”

Sau khi miêu tả về nhan sắc và tài năng hai chị em Thúy Kiều, thì Nguyễn Du đã có những dòng thơ để nhận xét chung về cuộc sống cũng như tình trạng hiện tại của hai mỹ nhân nhà họ Vương. Có thể nhận ra rằng Kiều và Vân là con gái của viên ngoại thế nên hai nàng có cuộc sống khá sung túc, đủ đầy, quần là áo lụa, không phải lo nghĩ.

“Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê” là đề cập đế tuổi tác của hai nàng đã sắp đến tuổi gả chồng, xuân sắc phơi phới, đặc biệt với nhan sắc và tài năng như thế nhưng hai nàng lại có một nề nếp gia phong nghiêm cẩn “Êm đềm trướng rủ màn che”, quanh quẩn chốn khuê phòng. Hai nàng cũng chưa từng một lần màng đến chuyện yêu đương nam nữ dù biết bao thanh niên tài tuấn đang dòm ngó, thế nên mới có câu “Tường đông ong bướm đi về mặc ai”.

Qua đoạn trích Chị em Thúy Kiều đặc tả hai người con gái tài sắc mười phân vẹn mười, Nguyễn Du đã bộc lộ sự trân trọng, đề cao giá trị vẻ đẹp của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa, từ vẻ đẹp nhan sắc đến vẻ đẹp tâm hồn, tài năng, đó chính là biểu hiện cực kỳ sâu sắc trong tư tưởng nhân văn của Nguyễn Du.

Việc sử dụng bút pháp ước lệ tượng trưng trong việc miêu tả nhân vật rất phù hợp với tư tưởng ca ngợi, ngưỡng mộ đề cao giá trị của con người trong tác phẩm, lấy vẻ đẹp của con người làm lý tưởng cho mọi vẻ đẹp của thiên nhiên rộng lớn. Đồng thời qua đoạn trích Nguyễn Du cũng đã hé lộ những dự cảm đầy xót thương về cuộc đời bi ai, bạc mệnh của nàng Kiều, cũng như của người phụ nữ trong xã hội phong kiến hủ lậu.

SCR.VN chia sẻ 🌳 Phân Tích Thề Nguyền 🌳 10 Bài Văn Mẫu Ngắn Hay Nhất

Viết một bình luận