Giá Trị Nhân Đạo Của Truyện Kiều ❤️️22+ Bài Văn Phân Tích Hay ✅ Chia Sẻ Tuyển Tập Nghị Luận Văn Học Chuyên Sâu Tác Phẩm Truyện Kiều Nguyễn Du.
Dàn Ý Phân Tích Giá Trị Nhân Đạo Của Truyện Kiều
Lập dàn ý phân tích giá trị nhân đạo của Truyện Kiều sẽ giúp các em học sinh tóm lược những luận điểm trọng tâm cho bài viết. Tham khảo mẫu dàn ý giá trị nhân đạo của Truyện Kiều chi tiết như sau:
1.Mở bài giá trị nhân đạo của Truyện Kiều:
- Giới thiệu về tác phẩm, tác giả
- Truyện Kiều chứa đựng giá trị nội dung và nhân đạo sâu sắc.
2.Thân bài giá trị nhân đạo của Truyện Kiều:
a. Giá trị nhân đạo là gì?
Khái niệm: Là sự cảm thông sâu sắc của các nhà văn, nhà thơ đối với những nỗi đau của con người và của những số phận bất hạnh trong cuộc sống, phê phán, tố cáo xã hội bất công chèn ép con người
b. Giá trị nhân đạo trong Truyện Kiều:
-Phê phán xã hội bất công, tàn ác, chèn ép con người:
- Vạch trần bộ mặt xấu xa của bọn quan lại, những kẻ “buôn thịt bán người”, kiếm tiền trên thân xác những người con gái.
- Lên án xã hội đồng tiền đã chà đạp phẩm giá, hạnh phúc của con người.
Ngòi bút tả thực của Nguyễn Du đã phơi bày bộ mặt thật của xã hội phong kiến thối nát, trong đó đồng tiền có thể xoay chuyển tất cả, thao túng con người, dung túng cho cái ác.
-Ca ngợi và trân trọng vẻ đẹp của con người:
- Khắc họa sống động vẻ đẹp ngoại hình của chị em Thúy Kiều, lấy thiên nhiên làm thước đo cho vẻ con người.
- Ca ngợi, trân trọng vẻ đẹp tâm hồn: Thúy Vân thanh cao, đài các, Thúy Kiều sắc sảo, mặn mà.
- Ca ngợi tài năng của Thúy Kiều: cầm kì thi họa đều tinh thông
-Đồng cảm, xót thương những số phận bất hạnh:
- Xót thương cho những kiếp tài hoa bạc mệnh
- Thương cho những kiếp người bị chà đạp, bị ức hiếp, bị biến thành món hàng cho người ta mua bán.
c. Đánh giá:
-Nội dung:
- Giá trị nhân đạo mang những nét mới mẻ: đề cao tài năng của người phụ nữ
- Chủ nghĩa nhân đạo của truyện Kiều của Nguyễn Du kế thừa và phát huy tư tưởng nhân đạo truyền thống của dân tộc, góp phần lên tiếng bảo vệ những con người nhỏ bé.
-Nghệ thuật:
- Giá trị nhân đạo thể hiện qua những nghệ thuật đặc sắc như ước lệ, điểm xuyết, vẽ mây nẩy trăng, …
- Nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật đặc sắc
- Khả năng sử dụng ngôn ngữ bậc thầy, khẳng định vẻ đẹp của ngôn ngữ dân tộc,
3.Kết bài giá trị nhân đạo của Truyện Kiều:
- Khẳng định lại giá trị nhân đạo của Truyện Kiều.
- Nêu cảm nghĩ của bản thân.
Đừng bỏ qua 🔥 Tóm Tắt Truyện Kiều 🔥 21 Mẫu Văn Bản Nội Dung Hay
Sơ Đồ Tư Duy Các Giá Trị Nhân Đạo Của Truyện Kiều Là Gì
Tham khảo dưới đây mẫu sơ đồ tư duy các giá trị nhân đạo của Truyện Kiều là gì sẽ giúp các em học sinh hệ thống hoá và ghi nhớ kiến thức hiệu quả.
Khám phá thêm 🔥 Sơ Đồ Tư Duy Truyện Kiều Nguyễn Du 🔥 14 Mẫu Vẽ Tóm Tắt
Giá Trị Nhân Đạo Của Tác Phẩm Truyện Kiều Hay Nhất – Mẫu 1
Đón đọc bài văn mẫu phân tích giá trị nhân đạo của tác phẩm Truyện Kiều hay nhất được chọn lọc và chia sẻ dưới đây dành cho các em học sinh.
Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc, ông đã để lại cho thế hệ sau một khối lượng đồ sộ các tác phẩm văn học trong đó nổi bật nhất là Truyện Kiều. Truyện Kiều đã tái hiện cuộc sống và số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa thông qua mười lăm năm chìm nổi của nhân vật Thúy Kiều. Bên cạnh phản ánh hiện thực xã hội phong kiến đen tối, Truyện Kiều còn mang giá trị nhân đạo sâu sắc khi xót thương, trân trọng giá trị con người.
Giá trị nhân đạo là sự cảm thông sâu sắc của các nhà văn, nhà thơ đối với những nỗi đau của con người, với những số phận bất công trong cuộc sống. Phê phán hiện thực xã hội nhiều bất công, đồng cảm, xót thương cho những số phận con người. Trong truyện Kiều, chủ nghĩa nhân đạo này được thể hiện vô cùng rõ nét. Nguyễn Du đã xây dựng lên bức tranh xã hội xưa với số phận trôi nổi của nàng Kiều và lồng vào đó những giá trị nhân đạo cao quý.
Biểu hiện đầu tiên của giá trị nhân đạo ta bắt gặp trong truyện Kiều là sự phê phán của Nguyễn Du đối với xã hội phong kiến đương thời. Đó là một xã hội đầy rẫy những sự bất công, chèn ép con người tới đường cùng, là một xã hội mà đồng tiền của thể xoay chuyển tất cả và cả những kẻ “buôn thịt bán người”, kinh doanh trên thân xác của những người con gái.
Trước biến cố của gia đình, Thúy Kiều đã quyết định bán mình để chuộc cha và em, người con gái tài sắc ấy trở thành món hàng để người ta mua bán, chỉ với bốn trăm lượng vàng. Xã hội phong kiến thối nát được vận hành theo quyền lực của đồng tiền, con người trong xã hội ấy bị đồng tiền chi phối mà bất chấp cả công lí, đạo đức và tình người.
Không chỉ vậy, xã hội ấy còn để cho những kẻ “buôn thịt bán người” được hoành hành, được kiếm tiền trên thân xác của những cô gái lương thiện. Điển hình cho chúng là những Mã Giám Sinh, những Sở Khanh, những Tú Bà, Bạc Bà, …
Ví như Mã Giám Sinh – một tên buôn người tự gán mác thư sinh, vậy mà những lễ nghi cơ bản, đạo đức lại chẳng hề có. Qua những câu thơ miêu tả của Nguyễn Du, ta thấy hiện lên một kẻ vô học, thô lỗ:
“Hỏi tên, rằng: Mã Giám Sinh
Hỏi quê rằng huyện Lâm Thanh cũng gần
…
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng”
Những hành động của hắn như “ngồi tót”, đáp lời chẳng có thưa gửi chẳng khác gì phường thổ phỉ, bọn lưu manh ngoài đường. Bản chất của hắn còn là một con buôn lọc lõi. Bởi khi ra giá với bà mai, hắn đã coi Kiều như một món hàng, lật qua lật lại, ra giá mặc cả “Đắn đo cân sắc cân tài hay “Cò kè bớt một thêm hai.
Ngòi bút hiện thực của Nguyễn Du đã vạch trần cái xã hội phong kiến thối nát mà đồng tiền có thể xoay chuyển tất cả. Cái xã hội ấy dung túng cho những kẻ vô học, vô đạo đức, những kẻ “buôn thịt bán người”, dùng đồng tiền để mua chuộc những kẻ tham quan. Một xã hội mà những người thấp cổ bé họng không có quyền lên tiếng, bị khinh rẻ, coi thường, bị mua đi bán lại như một món hàng hoá, bị mặc cả “cò kè” từng đồng tiền.
Biểu hiện thứ hai trong giá trị nhân đạo mà Nguyễn Du muốn thể hiện đó là sự ngợi ca, trân trọng những giá trị, những vẻ đẹp của những con người lương thiện. Điều đó thể hiện rất rõ nét qua những nét bút miêu tả về ngoại hình cũng như vẻ đẹp tâm hồn và tài năng của chị em Thuý Kiều.
Đầu tiên là vẻ đẹp của Thuý Vân. Vẻ đẹp của nàng được Nguyễn Du miêu tả chi tiết, tỉ mỉ, được so sánh cùng mây, cùng trăng – vốn là những sự vật với vẻ đẹp viên mãn. Nguyễn Du tả Vân:
“Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
…
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”
Thuý Vân hiện lên thật đẹp, không chỉ là nước da màu tóc mà còn cả phong thái rất sang trọng, quý phái nhưng lại không kém phần duyên dáng đáng yêu. Trước vẻ đẹp của nàng, thiên nhiên cũng phải “thua”, phải “nhường”. Nghệ thuật ước lệ cổ điển được sử dụng vô cùng thành công.
Khi miêu tả Thuý Kiều, Nguyễn Du không những sử dụng nghệ thuật ước lệ mà còn sử dụng cả biện pháp cổ điển “vẽ mây nẩy trăng”. Ông đã miêu tả Thuý Vân – là em trước khi miêu tả về Thuý Kiều, nhằm làm nổi bật vẻ đẹp hoàn mỹ của Thuý Kiều:
“Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
…
Sắc đành đòi một tài đành hoạ hai”
Vẻ đẹp của Kiều quá hoàn mỹ, vượt qua những quy chuẩn thông thường, khiến thiên nhiên phải “hờn”, phải “ghen” với sắc đẹp của nàng. Bút pháp ước lệ cùng nghệ thuật miêu tả tài hoa, tấm lòng yêu thương của tác giả đã dựng lên bức chân dung hai thiếu nữ đang độ tuổi trăng tròn đẹp nghiêng nước nghiêng thành.
Ngoài việc miêu tả vẻ đẹp ngoại hình, Nguyễn Du còn chú trọng miêu tả vẻ đẹp tâm hồn của các nhân vật trong truyện Kiều mà nổi bật là vẻ đẹp tâm hồn của hai nàng Vân Kiều. Cả hai người con gái vừa đoan trang, vừa đức hạnh, hiền thục, là một tiểu thư khuê các đúng mực:
“Phong lưu nhất mực hồng quần
Xuân xanh xấp xỉ đến tuần cập kê
…
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”
Thế nhưng, Nguyễn Du còn đặc biệt đi sâu vào miêu tả vẻ đẹp nội tâm của Kiều – người con gái xinh đẹp nết na.Nguyễn Du miêu tả vẻ đẹp tâm hồn của nàng như một cách để trân trọng hơn con người nàng.
Vẻ đẹp nội tâm của nàng Kiều được ông miêu tả qua nghĩa cử bán mình cứu cha vô cùng đẹp đẽ và hiếu thảo của nàng. Ở độ tuổi vừa cập kê, còn bao nhiêu ước nguyện, tình yêu, ước mơ còn dang dở nhưng nàng đã gạt bỏ tất cả, nhận lấy trọng trách cứu cha và em trai. Hành động ấy thật cao đẹp, thật nhân ái! Liệu có mấy người con gái dám đứng lên gánh trách nhiệm lớn lao ấy, liệu có ai dám bán đi hạnh phúc, tự do của bản thân lấy tiền cứu cha chăng?
Đến khi một mình ở nơi xa nhà, giữa chốn lầu son của bọn “buôn sắc bán hương”, nàng thương xót cho thân mình, nhưng càng thương xót hơn cha mẹ mình, khi nàng ở nơi xa, chẳng thể lo lắng, hầu hạ cho cha mẹ:
“Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
…
Có khi gốc tử đã vừa người ôm”
Ở Kiều, người ta còn thấy được một tấm lòng thuỷ chung, son sắt với tình yêu. Dù cho tình yêu của nàng và Kim Trọng đã bị chia lìa, thế nhưng, trong tim nàng chưa hề quên đi hình bóng của chàng:
“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
…
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”
Nàng cũng là một người rất trọng nghĩa trọng tình. Với Thúc Sinh, nàng cảm tạ ơn chàng đã cứu nàng, khi trả ơn, nàng nói:
“Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng
Tại ai há dám phụ lòng cố nhân”
Và vẻ đẹp của nàng càng rạng ngời khi nàng báo ân báo oán mà bao dung, độ lượng với Hoạn Thư – kẻ đã gây bao sóng gió cho cuộc đời nàng:
“Tha ra thì cũng may đời
Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen”
Ngoài ra, Nguyễn Du còn vô cùng trân trọng vẻ đẹp tài năng của Kiều. Ông đã ưu ái đề cao phẩm chất tài năng của nàng:
“Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
…
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”
Tài năng của Kiều rất đáng nể và Nguyễn Du vô cùng trân trọng điều đó. Đây là một trong những tư tưởng rất tiến bộ của ông so với các nhà thơ đương thời.
Tiếp theo của giá trị nhân đạo mà Nguyễn Du muốn nói đó là tấm lòng thương cảm, đồng cảm sâu sắc với những số phận bất hạnh. Đầu tiên là sự thương xót dành cho Kiều khi nàng bị biến thành một món hàng bị người ta mang ra đong đếm:
“Nỗi mình thêm tức nỗi nhà
…
Ngừng hoa bóng thẹn trông gương mặt dày”
Ông đồng cảm với Kiều, ông thương xót cho số phận của cô bị chà đạp, bị khinh rẻ, bị mặc cả qua lại như một món hàng ngoài chợ:”
“Cò kè bớt một thêm hai
Giờ lâu ngã giá vâng ngoài bốn trăm”
Và càng đau xót hơn, thương hơn khi Kiều một mình giữa lầu Ngưng Bích, bị giam lỏng ở đây trong sầu muộn “Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân/ Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung…”. Hơn thế, Nguyễn Du còn tự nhập mình vào nhân vật để cảm nhận nỗi đau của họ, cảm nhận thân phận đau khổ, tủi nhục của Kiều, sự buồn bã của nàng. Và chính vì thế, ông đã dự cảm được một tương lai mờ mịt, bất định của người con gái tài sắc vẹn toàn ấy:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
…
Ầm ầm tiếng sóng vây quanh ghế ngồi”
Khía cạnh cuối trong giá trị nhân đạo mà Nguyễn Du muốn biểu hiện là niềm tin vào ước mơ, vào tương lai tươi sáng hơn cho những con người bé nhỏ. Dù cuộc sống của những con người trong truyện Kiều luôn đầy rẫy những bất công, những đau khổ nhưng Nguyễn Du vẫn luôn trân trọng những ước mơ nhỏ bé của họ, những ước mơ về công bằng, công lý, về một xã hội không còn những bất công, áp bức nữa.
Điều đó thể hiện qua hình ảnh của người anh hùng Từ Hải – với một vẻ đẹp khác thường, phi thường:
“Râu hùm hàm én mày ngài
Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao”.
Người anh hùng Từ Hải chính là khát vọng của Nguyễn Du, của những con người trong truyện Kiều về một nơi có công lý, nơi mà cái ác phải trả giá. Từ Hải đã giải thoát cho Kiều khỏi lầu xanh, cho nàng một danh phận, giúp nàng báo ân báo oán. Với những người có ân mới mình, Kiều cảm tạ và rất mực trân trọng như Thúc Sinh:
“Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân
Tạ lòng dễ xứng gọi là báo ân”
Còn với những kẻ gây ra đau khổ cho nàng, như Hoạn Thư, nàng cũng rất nghiêm khắc trừng trị:
“Dễ dàng là thói hồng nhan
Càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều”
Đây là ước mơ của tất cả những con người lương thiện, bé nhỏ trong xã hội và của cả Nguyễn Du nữa. Ước mơ về một tương lai có một xã hội công bằng, công lý như thế!
Chủ nghĩa nhân đạo mà Nguyễn Du thể hiện qua Truyện Kiều thấm đẫm trong cả nội dung và nghệ thuật. Về nội dung, chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du thấm đẫm sự yêu thương, nhân ái và trân trọng, đặc biệt là nhân vật Kiều – nhân vật mà ông đã gửi gắm tâm tư của mình.
Chủ nghĩa nhân đạo của ông cũng mang những nét mới mẻ như đề cao con người, trân trọng tài hoa của những người phụ nữ. Cùng góp phần vào chủ nghĩa nhân đạo trong dòng chảy văn học Việt, Nguyễn Du đã kế thừa và phát huy những tinh hoa của chủ nghĩa nhân đạo truyền thống trong văn học dân tộc.
Về nghệ thuật, chủ nghĩa nhân đạo biểu hiện qua những bút pháp đặc sắc như ước lệ, điểm xuyết ,… Cùng với nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật đặc sắc, các sử dụng ngôn ngữ bậc thầy, điều đó cũng góp phần tạo nên thành công cho giá trị nhân đạo trong truyện Kiều.
Giá trị nhân đạo trong truyện Kiều thấm đẫm tình yêu thương. Nó vừa mang nét truyền thống vừa mang nét mới mẻ, tôn vinh tài hoa của người phụ nữ. Hoà với dòng chảy của dân độc, giá trị nhân đạo trong truyện Kiều sẽ sống mãi cùng với cái tên của đại thi hào Nguyễn Du để muôn đời sau còn biết tới một nhà thơ với trái tim nồng nhiệt, đầy yêu thương.
Mời bạn xem nhiều hơn 🌟 Thuyết Minh Truyện Kiều 🌟 12 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Phân Tích Giá Trị Nhân Đạo Của Truyện Kiều Ngắn Gọn – Mẫu 2
Bài văn mẫu phân tích giá trị nhân đạo của Truyện Kiều ngắn gọn dưới đây sẽ là nội dung tham khảo hữu ích dành cho các em học sinh.
Một tác phẩm văn học trường tồn cùng thời gian không chỉ bởi tài hoa của người nghệ sĩ mà còn vì cảm hứng nhân đạo đã làm cho tác phẩm có sức lay động lòng người và được truyền tụng từ đời này sang đời khác. “Truyện Kiều” của Nguyễn Du là một tác phẩm như vậy.
Cảm hứng nhân đạo xuất phát từ tình yêu thương con người với con người. Một tác phẩm mang cảm hứng nhân đạo khi nó ca ngợi phẩm chất cao đẹp của con người, đồng tình với khát vọng chính đáng của họ đồng thời là sự đồng cảm xót thương những số phận kém may mắn, bị chà đạp, cưỡng bức. Tác phẩm mang cảm hứng hứng nhân đạo còn phải là một bản án tố cáo những thế lực thù địch, xã hội bất công giày xéo nhân phẩm con người.
Nguyễn Du coi trọng tài sắc của Thúy Kiều
“Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai”
Nên khi Kiều bán mình chuộc cha, phải trao duyên cho em, nhờ em thay mình trả nghĩa chàng Kim, Nguyễn Du càng thấu tỏ bi kịch cuộc đời nàng. Mười lăm năm tha hương là mười lăm năm đoạn trường đầy gian truân của Thúy Kiều. Càng thương Kiều, Nguyễn Du càng yêu quý phẩm chất thanh cao, trong sạch của nàng. Ông đau xót cho một con người hồng nhan bạc mệnh:
“Đã cho lấy chữ hồng nhan
Làm cho cho hại cho tàn cho cân
Đã đày vào kiếp phong trần
Sao cho sỉ nhục một lần mới thôi”
Dường như chính Nguyễn Du đã nhập thân để hiểu tận cùng nỗi đau của Thúy Kiều và bất bình thay cho nàng. Nguyễn Du cũng coi mình như nàng Thúy Kiều, cùng mang những nỗi oan sai nghiệt ngã do xã hội đọa đày, cùng khao khát có một người tri âm tri kỷ để dốc bầu tâm sự:
“Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”
(Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa
Người đời ai khóc Tố Như chăng)
(Độc Tiểu Thanh ký)
Trong suốt thiên “Truyện Kiều”, Nguyễn Du luôn đặt câu hỏi tìm đâu là nguyên nhân của những đau khổ tột cùng của con người. Nhưng thực tế, bản thân ông biết, xã hội bất công, ma lực đồng tiền đã đẩy những con người tài sắc như Kiều vào chốn bùn nhơ, cuộc sống bi kịch. Hiểu thấu được nguyên nhân, nhưng chính ông cũng không thể xoay chuyển thế sự. Bởi chính ông cũng đang bị thời thế rối ren, lũng đoạn đày ải.
Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc Việt Nam. Tấm lòng nhân đạo của ông xuất phát từ chính trái tim của người nghệ sĩ. Tiếng lòng của ông là nỗi lòng chung của nhiều số phận đang bị áp bức trong xã hội đương thời.
Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất
Phân Tích Giá Trị Nhân Đạo Của Truyện Kiều Nâng Cao – Mẫu 3
Đón đọc bài văn phân tích giá trị nhân đạo của Truyện Kiều nâng cao dưới đây với những nội dung nghị luận văn học chuyên sâu.
Chủ nghĩa nhân đạo là tư tưởng yêu thương con người, tôn trọng các giá trị của con người. Biểu hiện của chủ nghĩa nhân đạo trong Truyện Kiều được thể hiện qua sự trân trọng vẻ đẹp của con người, thương xót cho số phận đau thương của con người, tố cáo, phê phán những thế lực chà đạp lên con người và thấu hiểu ước mơ của con người.
Nguyễn Du rất trân trọng vẻ đẹp con người. Nguyễn Du đã dành nhiều ưu ái khi xây dựng chân dung nhân vật. Với Thúy Vân, Nguyễn Du miêu tả tỉ mỉ, chi tiết để dựng nên bức chân dung vừa đáng yêu, thiện cảm, vừa trang trọng, quý phái:
“Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”
Với Thúy Kiều, Nguyễn Du sử dụng bút pháp “tả mây tô trăng”, “điểm nhãn” để dựng nên bức chân dung sắc sảo, hoàn mỹ, không ngôn từ nào diễn tả hết:
“Kiều càng sắc sảo mặn mà
So về tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”
Nguyễn Du sử dụng thủ pháp ước lệ để xây dựng chân dung nhân vật, nhưng đối với Nguyễn Du, vẻ đẹp của con người không chỉ sánh ngang với thiên nhiên, mà thậm chí vượt qua thiên nhiên, khiến thiên nhiên phải “thua, nhường”, “ghen, hờn” trước sắc đẹp con người.
Cả Thúy Kiều và Thúy Vân đều có đức hạnh đoan trang, đúng mực:
“Phong lưu rất mực hồng quần
Xuân xanh xấp xỉ đến tuần cập kê
Êm đềm trướng rủ màn che
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”
Ở Thúy Kiều sáng lên vẻ đẹp của đạo hiếu:
“Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh biết ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm”
Và đức tính thủy chung:
“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Chân trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”
Thúy Kiều còn có tấm lòng trọng ân nghĩa:
“Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng
Tại ai há dám phụ lòng cố nhân”
Và một tấm lòng bao dung, độ lượng:
“Tha ra thì cũng may đời
Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen
Đã lòng tri quá thì nên”
Tiến bộ hơn các nhà thơ thời Trung Đại, Nguyễn Du còn đề cao người phụ nữ ở phương diện tài năng, ông đã xây dựng một nhân vật Thúy Kiều đa tài, mà tài nào cũng xuất sắc, tuyệt đỉnh:
“Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương
Khúc nhà tay lựa nên chương
Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân”
Thương xót cho số phận đau thương của con người. Đau xót cho thân phận con người bị chà đạp, khinh rẻ, bị biến thành một món hàng để cân đo đong đếm:
“Nỗi mình thêm tức nỗi nhà
Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng
Ngại ngùng dợn gió e sương
Ngừng hoa bóng thẹn trông gương mặt dày.”
Nguyễn Du nhập thân vào nhân vật để cảm nhận hết nỗi đau của nhân vật, tác phẩm viết ra như có “máu chảy trên đầu ngọn bút”, thương cảm cho tương lai bất định, nhiều bất an của Kiều nơi lầu Ngưng Bích:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
Nguyễn Du đã sử dụng ngòi bút hiện thực để vạch trần bản chất xấu xa của những kẻ bất nhân trong xã hội xưa, những kẻ “buôn thịt bán người”, kiếm sống trên thân xác của những cô gái vô tội, tiêu biểu là Mã Giám Sinh.
Nguyễn Du đã bóc trần cái mác “giám sinh” của họ Mã để cho thấy tính cách vô học, thô thiển của hắn – một kẻ không biết “thương hoa tiếc ngọc”:
“Gần miền có một mụ nào
Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh
Hỏi tên, rằng: Mã Giám Sinh
Hỏi quê, rằng: Huyện Lâm Thanh cũng gần
Quá niên trạc ngoại tứ tuần
Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao
Trước thầy sau tớ lao xao
Nhà băng đưa lối rước vào lầu trang
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng”
Đồng thời ông cũng phẫn nộ trước bản chất con buôn của họ Mã:
“Đắn đo cân sắc cân tài
Ép cung cầm nguyệt thử tài quạt thơ
Mặn nồng một vẻ một ưa,
Bằng lòng khách mới tùy cơ dặt dìu.
Rằng: Mua ngọc đến Lam Kiều
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?”
“Cò kè bớt một thêm hai”
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã thể hiện một ước mơ cao cả, đó cũng chính là tinh thần nhân đạo của tác phẩm, ước mơ một cuộc sống công bằng, cái thiện được khuyến khích, nâng niu, cái ác phải bị trừng phạt, phải trả giá. Chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du là một chủ nghĩa nhân đạo thấm đẫm yêu thương, tình người, lòng tự tôn.
Có thể bạn sẽ thích 🌼 Giá Trị Hiện Thực Của Truyện Kiều 🌼 8 Bài Văn Phân Tích Hay
Phân Tích Giá Trị Nhân Đạo Của Truyện Kiều Học Sinh Giỏi – Mẫu 4
Tham khảo bài văn mẫu phân tích giá trị nhân đạo của Truyện Kiều học sinh giỏi dưới đây để trau dồi những ý văn hay và đặc sắc.
Trong đề từ tập thơ Đoạn trường tân thanh Tiến sĩ Phạm Quý Thích đã viết:
“… Mặt ngọc lỡ sao vùi đáy nước,
Lòng trinh không thẹn với Kim lang.
Đoạn trường mộng tỉnh duyên đà đứt,
Bạc mệnh đàn ngưng hận vấn vương…”
(Nguyễn Quảng Tuân dịch)
Phạm Quý Thích là người cùng thời với Nguyễn Du. Lời đề từ của nhà nho danh tiếng này đã khẳng định và ngợi ca giá trị nhân đạo của kiệt tác Truyện Kiều. Mười lăm năm trời lưu lạc của nàng Kiều là một thiên bạc mệnh thấm đầy lệ làm xúc động lòng người “Cảo thơm lần giở trước đèn…” 3254 câu thơ Kiều dào dạt một tình thương mênh mông của Nguyễn Du trước những bi kịch cuộc đời “những điều trông thấy mà đau đớn lòng”. Tinh thần nhân đạo là cảm hứng nhân văn bao trùm lên toàn bộ Truyện Kiều.
Đó là tiếng nói ngợi ca những giá trị, phẩm chất tốt đẹp của con người như tài sắc, lòng hiếu nghĩa, vị tha, chung thủy trong tình yêu… Đó còn là tấm lòng của nhà thơ đồng tình với những ước mơ và khát vọng về tình yêu lứa đôi, về tự do và công lý; là sự đồng cảm, xót thương với bao nỗi đau, bị vùi dập của con người, nhất là đối với người phụ nữ “bạc mệnh” trong xã hội phong kiến. Có thể nói, cảm hứng nhân đạo của Nguyễn Du là cảm hứng trân trọng và thương yêu con người bị áp bức, bị chà đạp.
Tinh thần nhân đạo trong Truyện Kiều, trước hết là tiếng nói ngợi ca những giá trị, phẩm chất tốt đẹp của con người. Kiều là hiện thân của cái đẹp và tài năng tuyệt vời. Nàng kiều diễm, rực rỡ “Hoa ghen thua thắm. liễu hờn kém xanh”. Kiều không chỉ đẹp “nghiêng nước nghiêng thành” mà còn có một tài năng toàn diện, rất đáng tự hào:
“ Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.”
Kim Trọng, một văn nhân, tài tử “vào trong nho nhã, ra ngoài hào hoa”. Là một “thiên tài” hội tụ của tinh hoa thời đại ” văn chương nết đất, thông minh tính trời”. Mỗi bước đi của chàng Kim đều đem đến cho đất trời, cỏ cây hoa lá một sức sống đẹp tươi kỳ diệu:
“ Hài văn lần bước dặm xanh,
Một vùng như thể cây quỳnh cành dao.”
Mối tình của “Kim Trọng- Thúy Kiều” là một thiên diễm tình. Đó là một tình yêu tự nguyện vượt ra ngoài khuôn khổ lễ giáo phong kiến, rất trong sáng và thủy chung của “người quốc sắc, kẻ thiên tài”.
Kiều là một đứa con chí hiếu. Gia đình gặp tai biến. Tài sản bị bọn sai nha “Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham”, cha bị tù tội. Kiều đã quyết hy sinh mối tình riêng, để cứu cha và gia đình. Hành động bán mình chuộc cha của Thúy Kiều thấm đượm một tinh thần nhân đạo cao đẹp, làm cho người đọc vô cùng cảm phục và xúc động:
“ Hạt mưa sá nghĩ phận hèn,
Liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân.”
“Thà rằng liều một thân con
Hoa dù rã cánh, lá còn xanh cây.”
Đọc Truyện Kiều, lần theo con đường khổ ải của Kiểu, ta vô cùng cảm phục trước tấm lòng đôn hậu, hiếu thảo, tình nghĩa của nàng. Kiều như quên hết nỗi đau của riêng mình mà dành tất cả tình thương nhớ thắm thiết cho cha mẹ và hai em. Nàng lo lắng cha mẹ già yếu, buồn đau, không ai chăm sóc đỡ đần:
“ Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ…”
Tình tiết “trao duyên” trong Truyện Kiều cũng là một nét rất đẹp của tình cảm nhân đạo. Trước bi kịch cuộc đời “Hiếu tình khôn nhẽ hai đường vẹn hai” Kiều đã “cậy em” và trao duyên cho Thúy Vân thay mình trả nghĩa “nước non” với chàng Kim:
“… Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ, thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.
Chiếc thoa với bức tờ mây,
Duyên này thì giữ, vật này của chung”
Tinh thần nhân đạo trong Truyện Kiều còn là tiếng nói đồng tình, đồng cảm của thi hào Nguyễn Du với những ước mơ về công lý, những khát vọng về tự do.
Từ Hải là một hình tượng mang màu sắc sử thi, một anh hùng xuất chúng có tài năng đích thực và sức mạnh phi thường. Một ngoại hình siêu phàm: “Râu hùm hàm én mày ngài – Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao”. Những chiến công hiển hách, lẫy lừng: “Huyện thành đạp đổ năm tòa cõi nam”. Từ Hải là một anh hùng đầy chí khí “Dọc ngang nào biết trên đầu có ai”. Người anh hùng ấy, khi lưỡi gươm vung lên là công lý được thực hiện:
” Anh hùng tiếng đã gọi rằng,
Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha.”
Từ Hải đã đem uy lực của người anh hùng ra giúp Kiều “báo ân báo án” .Hình tượng Từ Hải là một thành công kiệt xuất của Nguyễn Du trong nghệ thuật xây dựng nhân vật, là một biểu hiện sâu sắc về tinh thần nhân đạo. vẻ đẹp nhân văn toát lên qua hình tượng này, tựa như ánh sao băng lướt qua màn đêm giông bão tăm tối của đời nàng Kiều vậy. Tuy ngắn ngủi nhưng sáng ngời hy vọng và niềm tin.
Số phận con người – đó là điều day dứt khôn nguôi của Nguyễn Du. Trái tim nhân ái bao la của nhà thơ đã dành cho kiếp người tài sắc bạc mệnh sự cảm thông và xót thương sâu sắc.
Sau khi bán mình cho Mã Giám Sinh, Kiều đã trải qua mười lăm năm trời lưu lạc, nếm đủ mùi cay đắng, nhục nhã: ” Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”. Từ Hải mắc lừa Hồ Tôn Hiến, bị giết chết. Kiều phải hầu rượu, đánh đàn trong bữa tiệc quan,… uất ức quá, nàng nhảy xuống sông Tiền Đường tự vẫn. Câu thơ của Nguyễn Du như một tiếng nấc cất lên não lòng. Những từ ngữ: thương thay, hại thay, làm chi, còn gì là thân” tựa như những giọt lệ chứa chan tình nhân đạo, khóc thương cho số đoạn trường:
“… Thương thay cũng một kiếp người,
Hại thay mang lấy sắc tài làm chi.
Những là oan khổ lưu ly
Chờ cho hết kiếp còn gì là thân!…”
Nhân vật Đạm Tiên mãi mãi là một ám ảnh đối với mọi người. Người kỹ nữ ” nổi danh tài sắc một thời” nhưng mệnh bạc đau đớn “Sống làm vợ khắp người ta – Hại thay thác xuống làm ma không chồng”. Kiều đứng trước mộ Đạm Tiên, cất lên lời đồng cảm thê thiết! Kiều khóc Đạm Tiên hay Nguyễn Du khóc thương cho nỗi đau của bao người phụ nữ bị vùi dập trong xã hội cũ?
“Đau đớn thay phận đàn bà,
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.”
Nguyễn Du, nhà thơ thiên tài của dân tộc, thông qua số phận và tính cách nhân vật trung tâm – Thúy Kiều – đã biểu hiện trong áng thơ tuyệt tác Đoạn trường tân thanh cảm hứng nhân đạo sâu sắc, cảm động.
Tinh thần nhân đạo cao cả là nội dung tư tưởng đặc sắc tạo nên vẻ đẹp nhân văn của áng thơ này. Chúng ta vô cùng tự hào về Nguyễn Du, một tâm hồn nhạy cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên, một trái tim giàu yêu thương, đồng cảm với tâm tư và số phận của con người, một tài năng lớn về thi ca đã làm rạng rỡ nền văn học cổ Việt Nam.
Nguyễn Du và Truyện Kiều sống mãi trong tâm hồn dân tộc, như tiếng hát lời ru của mẹ. Cảm hứng nhân đạo của nhà thơ là tiếng thương muôn đời:
” Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du,
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày…”
(Kính gửi cụ Nguyễn Du – Tố Hữu)
Gợi ý cho bạn 💕 Mở Bài Truyện Kiều Nguyễn Du 💕 20 Đoạn Văn Hay Nhất
Phân Tích Giá Trị Nhân Đạo Của Truyện Kiều Facebook – Mẫu 5
Chia sẻ dưới đây bài phân tích giá trị nhân đạo của Truyện Kiều Facebook giúp các em học sinh có thêm cho mình tư liệu tham khảo phong phú hơn.
Truyện Kiều một viên ngọc long lanh trong kho tàng văn học dân tộc, cùng với một số tác phẩm khác của Nguyễn Du, có giá trị hiện thực sâu sắc và chứa chan tinh thần nhân đạo cao quý, đã “nói lên lòng xót thương vô hạn của ông đối với những lớp người bị áp bức, đau khổ”. Thật vậy, Nguyễn Du, nhà thơ của thời đại, đã nói lên những đau khổ lầm than của những người bị chế độ đương thời đày đọa. Tinh thần nhân đạo bao la trong Truyện Kiều là kết tinh truyền thống nhân đạo của dân tộc ta hằng bao thế kỷ:
Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu.
(Tố Hữu)
Trong vô số nạn nhân của cuộc đời cũ, Nguyễn Du đặc biệt trân trọng và xót thương những người phụ nữ có tài có sắc. Với Nguyễn Du, họ là hình ảnh tập trung về số kiếp bi đát của con người trong một cuộc đời bế tắc. Tiêu biểu là hình ảnh Thúy Kiều. Thúy Kiều là một con người tài sắc tuyệt vời, vẻ mặn mà nồng thắm, tài đánh đàn của Kiều cũng thể hiện cái tính của Kiều. Tình yêu của Kiều với Kim Trọng là một thứ tình yêu đắm say, mãnh liệt:
Tình trong như đã, mặt ngoài còn e
Chập chờn cơn tỉnh cơn mê.
Yêu nhau, nàng chủ động xây dựng hạnh phúc với người yêu. Gót chân Kiều đã thoăn thoắt, đã xăm xăm băng lối vườn khuya một mình sang nhà Kim Trọng. Thúy Kiều và Kim Trọng xứng đôi vừa lứa, gặp nhau và yêu nhau, tình yêu đó nồng nàn, chân thật, chính đáng. Nguyễn Du đã vượt ra ngoài thời đại của ông khi ca ngợi mối tình đầy thơ mộng của Kim và Kiều.
Tính hiện thực vô cùng sinh động và sức tố cáo cực kỳ sắc bén của tác phẩm Nguyễn Du là hai ngọn lửa sáng chói của một cái lò đỏ rực, đó là trái tim đầy tình thương xót của Nguyễn Du đối với nỗi đau khổ của những con người bất hạnh dưới chế độ xã hội bất công, đó là tâm hồn cao cả của Nguyễn Du chan chứa một tình nhân đạo mà cảnh chiều tà của một chế độ trên bước đường diệt vong đã nhân lên ở ông mấy mươi năm, trong đó chính bản thân ông cũng đã chia sẻ với thế hệ của ông những nỗi cay đắng, tủi nhục” (Nguyễn Khánh Toàn).
Nhiều lần, lời thơ Nguyễn Du nhói lên trong đau xót. Vì xã hội phong kiến phá hoại hạnh phúc, mối tình chung tình phải nửa đường đứt gánh, thân nàng bị hoa trôi bèo dạt, nhưng ngọn lửa chung tình vẫn luôn rực cháy, tình yêu vẫn chân thành và trong sạch. Nguyễn Du đã phát biểu quan niệm về tự do luyến ái, về chữ trinh, đối lập với quan niệm phong kiến thời đại ông.
Vì phải bán mình chuộc cha, phải xa ha Kim Trọng, Kiều vô cùng đau khổ, tự cho mình lỗi thề và phụ bạc với Kim Trọng. Nhưng vì mối tình đó vô cùng đẹp đẽ nên sau này trên bước đường hoa trôi bèo nổi, những kỉ niệm êm ái, say sưa luôn luôn hiện ra trước mắt Kiều.
Với Nguyễn Du, tình gắn bó chặt chẽ với nghĩa nên nhà thơ đã cho Kiều dặn em là Thúy Vân thay mình gá nghĩa với Kim Trọng:
Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non.
Đáp lại mối tình của Kiều, Kim Trọng đã vượt ra ngoài triết lý của thời đại về hai chữ “công danh”, quyết tìm lại Kiều để đền bù tình xưa nghĩa cũ:
Rắp mong treo ấn từ quan,
Mấy sông cũng lội, mấy ngàn cũng qua.
Dấn mình trong áng can qua,
Vào sinh ra tử họa là thấy nhau.
Và phát biểu quan niệm mới về luyến ái, về chữ trinh:
Xưa nay trong đạo đàn bà,
Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường.
Có khi biến, có khi thường,
Có quyền nào phải một đường chấp kinh.
Tình cảm của con cái đối với cha mẹ trong Truyện Kiều cũng thật thống thiết và cảm động. Kiều đã dịu dàng khuyên cha:
Thà rằng liều một thân con
Hoa dù rã cánh, lá còn xanh cây.
Tuy phải hy sinh hạnh phúc, bán mình chuộc cha, Kiều chẳng hề oán trách. Trong cảnh tử biệt sinh li, nghe tiếng chim kêu vượn hót, trông cánh buồm thấp thoáng ngoài khơi, nhìn ra non nước một màu, Kiều thường đau lòng tưởng nhớ tới cha mẹ. Đổi lại, Vương Ông vô cùng thương xót Kiều vì ông mà Kiều đã lỗi ước với Kim Trọng mặc dầu mối tình ấy vượt quyền cha mẹ. Ông muốn vạch trời kêu oan và đập đầu định tự tử.
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du không chỉ kể về cuộc đời con gái họ Vương có tài, có sắc bị đày đọa bi thảm mà còn nói lên nỗi đau xót của mình trong trước số phận đầy khổ đau của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Cái thế giới làm cho ông thương cảm, xót xa là thế giới của tất cả những con người bị giày xéo, đày đọa về thể xác cũng như về tinh thần.
Tóm lại, vẽ nên tấm gương oan khổ, câu chuyện thê thảm của cuộc đời nàng Kiều, tiếng nói Nguyễn Du là tiếng kêu thương não nùng đau đớn trước vận mệnh của con người trong xã hội phong kiến. Tinh thần nhân đạo chứa chan là cội nguồn của tiếng kêu thương ấy.
Giới thiệu cùng bạn 🍀 Kết Bài Truyện Kiều Nguyễn Du 🍀 20 Đoạn Văn Hay Nhất
Trình Bày Giá Trị Nhân Đạo Của Truyện Kiều Qua Nhân Vật Thúy Kiều – Mẫu 6
Đón đọc bài văn trình bày giá trị nhân đạo của Truyện Kiều qua nhân vật Thúy Kiều dưới đây để nắm vững phương pháp làm bài và có những định hướng cụ thể nhất.
“Truyện Kiều” của Nguyễn Du không còn là tác phẩm xa lạ đối với mỗi chúng ta.Tác phẩm được Nguyễn Du viết bằng chữ Nôm với 3254 câu thơ lục bát dựa trên cốt truyện “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân – tác giả nổi tiếng của văn học Trung Quốc.”Truyện Kiều” không chỉ mang ý nghĩa tố cáo hiện thực xã hội bất công, bạo tàn mà còn nổi bật bởi giá trị nhân đạo sâu sắc được thể hiện thông qua nhân vật Thúy Kiều. Đây là nhân vật chính của “Truyện Kiều” và cũng là nhân vật để lại nhiều ấn tượng trong lòng bạn đọc.
Giá trị nhân đạo là những tình cảm chân thành xuất phát từ trái tim người nghệ sĩ đối với nhân vật của mình nói riêng và những tình cảm đối với con người nói chung. Đó là những sự đồng cảm, niềm cảm thương dành cho những số phận bất hạnh.Bên cạnh đó, tác giả cũng thể hiện sự trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn, niềm tin vào công lí xã hội và khát vọng về sự tự do trong tình yêu của con người.Những điều ấy đều được Nguyễn Du thể hiện qua nhân vật Thúy Kiều – một hồng nhan bạc phận để lại biết bao nỗi xót thương nơi độc giả.
Nguyễn Du đã ca ngợi vẻ đẹp của nàng bằng những câu thơ ước lệ đầy ấn tượng:
“Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai”.
Đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn, là một người có cái nhìn tinh tế nên Nguyễn Du không thể bỏ qua chi tiết ấy.Đôi mắt của Thúy Kiều mang vẻ đẹp trong sáng của làn nước mùa thu, đôi lông mày thanh thoát như nét núi mùa xuân. Vẻ đẹp hình thể ấy khiến thiên nhiên như hoa, liễu cũng nảy sinh lòng đố kị. Phải chăng chi tiết ấy đã dự báo cho cuộc đời về sau của Thúy Kiều sẽ không được êm đềm trong “trướng rủ màn che” nữa mà sẽ gặp nhiều trắc trở, sóng gió?
Các động từ “ghen” và “hờn” đã bộc lộ sự ghen ghét của thiên nhiên đối với vẻ đẹp “mười phân vẹn mười” của Thúy Kiều. Vẻ đẹp “nghiêng nước nghiêng thành” không ai sánh nổi đó trong nhân gian chỉ có duy nhất nàng Kiều còn về tài năng thì may mắn có người thứ hai. Kiều là một người vẹn toàn cả về nhan sắc và trí tuệ:
“Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương”.
Trời phú cho nàng sự thông minh, tài giỏi nên nàng am hiểu và có tài năng cả về bốn lĩnh vực: cầm, kì, thi, họa nhưng nàng giỏi nhất là đàn. Kiều thuộc lòng năm nốt: cung, thương, dốc, chủy, vũ trong âm giai của nhạc cổ. Tài đàn của nàng vượt xa, “ăn đứt” mọi người. Không những thế, nàng còn sáng tác “thiên Bạc mệnh” mang âm hưởng đau khổ, sầu não.
Vẻ đẹp của Thúy Kiều trở nên toàn diện hơn bởi sự hiếu thảo với cha mẹ và lòng chung thủy với người yêu:
“Duyên hội ngộ, đức cù lao
Chữ tình chữ hiếu bên nào nặng hơn?
Để lời thệ hải minh sơn
Làm con trước phải đền ơn sinh thành”.
Kiều đau đớn nhường nào khi phải lựa chọn giữa chữ hiếu và chữ tình.Nàng đã chấp nhận hi sinh tình yêu với Kim Trọng để bán mình chuộc cha và em.Ngay cả khi ở lầu Ngưng Bích, nỗi nhớ cha mẹ lại càng da diết và khôn nguôi. Nàng thương cha mẹ đã về già mà nàng thì không thể ở bên cạnh chăm sóc:
“Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ”.
Giá trị nhân đạo của “Truyện Kiều” còn được thể hiện trong tình yêu của Thúy Kiều với Kim Trọng. Đó cũng là quan niệm về một tình yêu tự do của đại thi hào Nguyễn Du. Mới gặp nhau lần đầu tiên trong tiết thanh minh nhưng cả “người quốc sắc” và “kẻ thiên tài” đều “tình trong như đã mặt ngoài còn e”. Để rồi từ đó, Kim Trọng thuê trọ gần nhà Thúy Kiều để được trông thấy nàng còn Thúy Kiều thì “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” sang nhà Kim Trọng để thề nguyền “trăm năm tạc một chữ đồng đến xương”.
Tình yêu của họ là tình yêu tự do, chủ động, xuất phát từ sự tự nguyện của hai phía. Nó đã phá tan đi những lễ giáo phong kiến trói buộc người phụ nữ vào những quy tắc, luật lệ hà khắc. Họ hoàn toàn bị động và không có quyền chủ động trong tình yêu. Lòng thủy chung với chàng Kim đã khiến Thúy Kiều vô cùng đau đớn khi trao duyên lại cho Thúy Vân và mong em sẽ thay mình thực hiện lời thề nguyền với Kim Trọng.
Cuộc đời nàng là một chuỗi các bi kịch tiếp nối nhau.Tình yêu say đắm với Kim Trọng chưa được bao lâu thì “giữa đường đứt gánh tương tư” bởi biến cố bất ngờ mà gia đình Thúy Kiều gặp phải. Tình yêu tan vỡ, hai người phải chịu cảnh chia li, xa cách trong một thời gian dài và khi gặp lại nhau tuy tình cảm dành cho nhau vẫn còn nhưng hai người lại chọn cách ứng xử “duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy”.
Song song với bi kịch tình yêu là bi kịch bị chà đạp lên nhân phẩm. Để có tiền chuộc cha và em, Kiều đã bán mình cho Mã giám Sinh để làm vợnhưng kẻ lọc lừa, xảo trá ấy đã bán Kiều vào lầu xanh khiến nàng phải “thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”. Nàng gặp phải những kẻ buôn thịt bán người đầy mưu mô như Tú Bà, Bạc Bà, Bạc Hạnh, Mã Giám Sinh, Sở Khanh,…
Thúy Kiều phải sống cuộc sống ô nhục ở chốn lầu xanh nhơ nhớp. Đó là bức tranh hiện thực mà tác giả muốn tố cáo. Nguyễn Du đã lên án xã hội vì đồng tiền mà nhân phẩm con người bị chà đạp, sức mạnh của đồng tiền có thể đổi trắng thay đen, khiến những con người vô tội phải chịu nỗi oan uổng.
Bàn về giá trị nhân đạo của “Truyện Kiều”, Mộng Liên Đường đã đưa ra nhận định xác đáng: “Lời văn tả ra hình như máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm trên tờ giấy khiến ai đọc cũng thấm thía ngậm ngùi”. Quả đúng là như vậy, Nguyễn Du viết về thân phận người phụ nữ bằng bao nhiêu sự xót xa, đồng cảm:
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
Ông đau đớn cho số phận của Thúy Kiều phải chịu sự vùi dập. Ông cũng trân trọng khát vọng về một tình yêu tự do, khát vọng sống và khát vọng hạnh phúc của nàng. “Nếu không phải con mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời thì không tài nào có được bút lực ấy” (Mộng Liên Đường).Nếu không phải một nhà thơ có tình yêu thương đối với những con người bất hạnh thì có lẽ Nguyễn Du đã không viết nên được tác phẩm “Truyện Kiều” nổi tiếng không chỉ trong nước mà còn được dịch ra nhiều thứ tiếng nước ngoài.
Thúy Kiều là nhân vật Nguyễn Du gửi gắm những tư tưởng nhân đạo của mình. Đồng thời, nàng cũng là nhân vật thể hiện giá trị nhân đạo của toàn bộ thiên kiệt tác. “Truyện Kiều” đã đánh thức trái tim của mỗi chúng ta, khiến chúng ta rơi lệ bởi sự thương xót cho nhân vật Thúy Kiều. “Truyện Kiều” là di sản vĩ đại, là linh hồn của dân tộc Việt Nam. “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn” (Phạm Quỳnh).
SCR.VN tặng bạn 💧 Phân Tích Truyện Kiều Nguyễn Du 💧 15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Nêu Giá Trị Nhân Đạo Của Truyện Kiều Qua Các Đoạn Trích Đã Học – Mẫu 7
Tài liệu văn nêu giá trị nhân đạo của Truyện Kiều qua các đoạn trích đã học dưới đây sẽ là nội dung tham khảo cần thiết hỗ trợ các em học sinh trong quá trình làm bài.
Nguyễn Du là một đại thi hào dân tộc Việt Nam, danh nhân văn hóa thế giới. Truyện Kiều là tập đại thành của ông kết tinh những giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Đọc các đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”, “Kiều ở lầu Ngưng Bích”,“Mã Giám Sinh mua Kiều”, ta thấy tác giả đã xót thương cho số phận bất hạnh của Thúy Kiều nhưng đó cũng đồng thời là nỗi xót thương cho số phận người phụ nữ trong xã hội cũ.
Giá trị nhân đạo của tác phẩm trước hết biểu hiện ở tấm lòng thương xót đối với người phụ nữ bất hạnh. Trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều ngòi bút nhân đạo của Nguyễn Du giúp người đọc thấy được tấm lòng của ông cho nhân vật Thúy Kiều. Thúy Kiều là người con hiếu thảo. Trước cơn gia biến, nàng quyết định bán mình chuộc cha và em. Bằng bút pháp ước lệ, tác giả làm nổi bật tâm trạng tủi hổ, cảm giác nhục nhã, ê chề của Kiều khi nàng bị coi như một món hàng.
Một người con gái tài sắc, đức hạnh như nàng Kiều lại trở thành một món hàng đem ra mua bán. Không những thế,bọn chúng còn “Cò kè bớt một thêm hai”, Nguyễn Du đã cảm thương cho nỗi đau khổ của nàng khi Mã Giám Sinh “cân sắc cân tài”. Nguyễn Du đã thấu hiểu tâm trạng Kiều. Đó chính là một biểu hiện của tư tưởng nhân đạo sáng ngời trong tác phẩm.
Kiều ở lầu Ngưng Bích là một đoạn trích tiêu biểu cho nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật trong Truyện Kiều, tác giả đã giúp cho người đọc hiểu được nỗi đau, nỗi nhớ thương, nỗi cô đơn, lo sợ của nàng Kiều. Phải bán mình chuộc cha, trao duyên cho em, Kiều rơi vaò tay Mã Giám Sinh và Tú Bà. Kiều không muốn tiếp khách làng chơi nên nàng đã tìm đến cái chết nhưng nàng lại được cứu sống.
Tú Bà vì sợ Thúy Kiều chết đi thì “Thôi thôi vốn liếng đi đời nhà ma” nên dỗ ngon ngọt và vờ đưa nàng ra ở lầu Ngưng Bích đợi tìm nơi tử tế để gả chồng. Thực chất lầu Ngưng Bích là nơi giam lỏng Thúy Kiều – nơi khóa kín tuổi xuân của nàng. Nơi đây cũng chính là điểm khởi đầu cho quãng đường lưu lạc đầy đau thương, tủi nhục của Kiều. Ngòi bút của Nguyễn Du như nhỏ lệ khi miêu tả canhỷ vật thông qua tâm trạng của Thúy Kiều.
Giữa thiên nhiên vắng lặng và mênh mông, không một bóng người, Kiều chỉ còn thấy “bốn bề bát ngát xa trông”. Một cảm giác cô dơn, buồn tủi và bẽ bàng xâm chiếm tâm hồn nàng. Nàng xót xa cho thân phận, số kiếp mình:
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Phải chăng đó cũng chính là nỗi xót đau của tác giả dành cho những người phụ nữ tài sắc nhưng bất hạnh như Thúy Kiều?
Giá trị nhân đạo của tác phẩm thể hiện ở chỗ tác giả ca ngợi vẻ đẹp ngoại hình cũng như vẻ đẹp phẩm chất của chị em Thúy Vân, Thúy Kiều. Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” tác giả đã ca ngợi vẻ đẹp của Thúy Vân, Thúy Kiều bằng những lời tuyệt mĩ. Miêu tả Thúy Vân, ngòi bút của Nguyễn Du thể hiện sự trân trọng:
Vân xem trang trọng khác vời
Hai chữ “trang trọng” nói lên vẻ đẹp cao sang, quý phái của Thúy Vân. Vẻ đẹp trang trọng, đoan trang của người thiếu nữ được so sánh với những thứ cao đẹp trên đời: trăng, hoa, mây, tuyết, ngọc. Tác giả đã sử dung những hình ảnh thiên nhiên có vẻ đẹp đặc biệt, trong trắng, tinh khiết, rực rỡ để miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân.
Khuôn mặt nàng đẹp như trăng rằm. Nụ cười tươi như hoa. Giọng nói trong trẻo thoát ra từ hàm răng ngọc ngà. Làn tóc mềm mại, thướt tha đẹp hơn mây trời. Màu trắng của tuyết vẫn không thể sánh bằng làn da trắng trắng ngần của Thúy Vân. Thiên nhiên cũng phải thua, phải nhường sắc đẹp của nàng.
Bằng biện pháp nghệ thuật so sánh, ẩn dụ, tác giả đã làm nổi bật vẻ đẹp trung thực, phúc hậu mà quý phái của người thiếu nữ. Chân dung của Thúy Vân là chân dung mang tính cách số phận, vẻ đẹp của Vân tạo nên sự êm đềm, hòa hợp với xung quanh. Điều đó dự báo cuộc đời nàng sẽ suôn sẻ, hạnh phúc. Phải là người biết yêu quý cái đẹp, biết trân trọng cái đẹp Nguyễn Du mới có được sự miêu tả như thế.
Ca ngợi Thúy Kiều, Nguyễn Du không chỉ ca ngợi vẻ đẹp hình thức mà tác giả còn ca ngợi vẻ đẹp về mặt tâm hồn, tài năng. Cũng như lúc tả Thúy Vân, câu thơ đầu khái quát đặc điểm nhân vật: “Kiều càng sắc sảo, mặn mà”. Nàng sắc sảo về trí tuệ, mặn mà về tâm hồn, tình cảm. Gợi tả vẻ đẹp của Thúy Kiều, tác giả vẫn dùng hình tượng nghệ thuật ước lệ: “thu thủy” (nước mùa thu), “xuân sơn” (núi mùa xuân), hoa, liễu.
Nét vẽ của thi nhân thiên về gợi, tạo một ấn tượng chung về vẻ đẹp của một giai nhân tuyệt thế. Đáng lưu ý là khi họa bức chân dung Thúy Kiều, tác giả tập trung gợi tả vẻ đẹp đôi mắt, bởi đôi mắt là sự thể hiện phần tinh anh về tâm hồn và trí tuệ. Cái sắc sảo của trí tuệ, cái mặn mà của tâm hồn đều liên quan đến đôi mắt.
Hình ảnh ước lệ “làn thu thủy” – làn nước mùa thu gợn sóng gợi lên thật sống động vẻ đẹp của đôi mắt trong sáng, long lanh, linh hoạt. Còn hình ảnh ước lệ “nét xuân sơn” – nét núi mùa xuân lại gợi lên đôi lông mày thanh tú trên gương mặt trẻ trung. Khi tả Thúy Vân, tác giả chủ yếu gợi tả nhan sắc mà không thể hiện cái tài, cái tình của nàng. Thế nhưng, khi tả Kiều, nhà thơ tả sắc một phần còn dành đến hai phần để tả tài năng.
Tài của Kiều đạt tới mức lí tưởng, theo quan niệm thẩm mĩ phong kiến gồm đủ cả: cầm, kì, thi, họa. Đặc biệt, tài đánh đàn của nàng đã là sở trường, năng khiếu, vượt lên trên mọi người: “Cung thương làu bậc ngũ âm. Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương”. Nhấn mạnh cái tài của Thúy Kiều cũng là để ngợi ca cái tâm đặc biệt của nàng. Cung đàn bạc mệnh mà Thúy Kiều tự sáng tác chính là sự ghi lại tiếng lòng của một trái tim đa sầu đa cảm. Như vậy, vẻ đẹp của Thúy Kiều là sự hội tụ của cả sắc – tài – tình.
Tác giả đã dùng câu thành ngữ “nghiêng nước nghiêng thành” để đặc tả giai nhân. Sắc đẹp của Thúy Kiều có thể làm cho người ta say mê đễn nỗi mất thành mất nước. Chân dung Thúy Kiều cũng là chân dung mang tính cách số phận. Vẻ đẹp của Kiều làm cho tạo hóa phải ghen ghét, đố kỵ “hoa ghen”, “liễu hờn”, báo hiệu số phận của nàng gặp nhiều gian truân, đau khổ.
Rõ ràng phải là người có tấm lòng yêu thương mới thấy hết được vẻ đẹp của những con người bất hạnh để mà ca ngợi. Tình cảm xót thương, sự chân trọng về sắc đẹp và tàinăng Thúy Kiều giúp ta hiểu được giá trị nhân đạo thể hiện qua các đoạn trích này nói riêng, trong tác phẩm Truyện Kiều nói chung.
Giá trị nhân đạo còn thể hiện ở thái độ khinh bỉ, sự căm ghét của tác giả với những kẻ “buôn thịt bán người” mà tay “sinh viên” họ Mã kia là một điển hình tiêu biểu. Tác giả đã vạch trần bộ mặt xấu xa, đểu cáng của tay buôn người đội lốt sinh viên trường Quốc Tử Giám bằng một loạt các chi tiết nói lên sự lỗ mãng, dị hợm của hắn. Mặc dù đã “ngoại tứ tuần” nhưng vẫn ăn mặc bảnh bao, mày râu thì nhẵn nhụi không phù hợp với lứa tuổi của hắn:
“Quá niên trạc ngoại tứ tuần
Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao.”
Về hành động, cử chỉ lại càng bộc lộ bản chất của một tên thiếu học thức, vô phép tắc:
“Ghế trên ngồi tót sỗ sàng”
Chỉ với từ “tót”, Nguyễn Du như giáng một đòn chí mạng vào cái mặt giả danh tri thức của hắn. về bản chất của hắn lại càng xấu xa, để hắn lộ mặt con buôn bằng hình ảnh:
“Cò kè bớt một thêm hai”
Gặp gia đình đang cơn tai biến cần giúp đỡ, đáng lẽ một “sinh viên” như hắn phải biết đồng cảm, xót thương, ra tay giúp đỡ nhưng hắn đã không làm thế. Bộ mặt của kẻ buôn người đã được Nguyễn Du lột tả một cách đầy đủ nhất. Miêu tả nhân vật Mã Giám Sinh cũng là để nói lên thái độ căm ghét của tác giả đối với kẻ kẻ là đại diện cho xã hội đồng tiền, đồng tiền đã chà đạp lên mọi giá trị tốt đẹp ở đời – “Trong ta đã sẵn đồng tiền; Dễ dàng đổi trắng thay đen khó gì”.
Với “Truyện Kiều”, Nguyễn Du đã cất lên tiếng nói cảm thông, xót xa cho thân phận người phụ nữ, tiếng nói ngợi ca vẻ đẹp của con người và tiếng nói lên án tố cáo xã hội xấu xa tàn bạo, toàn lừa lọc xảo trá mà các đoạn trích Chị em Thúy Kiều, Kiều ở lầu Ngưng Bích, Mã Giám Sinh mua Kiều là những điển hình cho tư tưởng nhân đạo của tác giả. Qua đó chúng ta cũng thấy được trái tim nhân đạo bao la của tác giả. Nguyễn Du và “Truyện Kiều” sẽ trường tồn mãi với thời gian.
Mời bạn tham khảo 🌠 Phân Tích Thuý Kiều 🌠 15 Bài Văn Phân Tích Ngắn Hay Nhất
Giá Trị Nhân Đạo Của Truyện Kiều Qua Trao Duyên – Mẫu 8
Dưới đây là bài văn mẫu phân tích giá trị nhân đạo của Truyện Kiều qua Trao duyên sẽ giúp các em học sinh đi sâu tìm hiểu những khía cạnh ý nghĩa của đoạn trích.
Trong suốt chiều dài lịch sử văn học, có rất nhiều những thành tựu văn học rực rỡ thời kì trung đại của những nhà tác giả lớn như: Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Bỉnh Khiêm… Đóng góp vào trong dòng chảy văn học ấy ta không thể không nhắc đến đại thi hào Nguyễn Du. Ông không những là một nhân cách lớn mà đồng thời còn là một nhà văn, nhà thơ vĩ đại.
Những sáng tác của Nguyễn Du bao gồm cả sáng tác bằng chữ Hán và chữ Nôm nhưng tiêu biểu nhất là tác phẩm Đoạn trường tân thanh hay còn được biết nhiều hơn dưới tên Truyện Kiều. Đoạn trích Trao duyên là một trong những đoạn trích tiêu biểu thể hiện được tài năng cũng như tư tưởng nhân đạo của tác giả.
Truyện Kiều của Nguyễn Du được viết bằng chữ Nôm dựa trên cốt truyện có sẵn của Thanh Tâm Tài Nhân là Kim Vân Kiều truyện. Thế nhưng, điều đáng nói là bằng sự sáng tạo của người nghệ sĩ, Nguyễn Du đã biến một cốt truyện bình thường trở thành một kiệt tác. Nếu như Kim Vân Kiều truyện là một câu chuyện “tình khổ” thì Truyện Kiều của Nguyễn Du lại là một khúc ca đau lòng thương người bạc mệnh, nói lên những điều trông thấy trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động.
Đoạn trích Trao duyên nằm ở câu thơ 723 đến câu 756, trong phần gia biến và lưu lạc thể hiện rõ nét giá trị nhân đạo của Nguyễn Du. Đây là mở đầu cho nỗi đau khổ dằng dặc của Kiều trong suốt 15 năm lưu lạc. Sau khi tạm chia tay Kiều, Kim Trọng trở về quê để chịu tang chú. Thế nhưng trong thời gian đó, gia đình của Kiều có biến, cha và em bị bắt. Là người con có hiếu, Thúy Kiều đã quyết định bán mình để chuộc cha và cũng vì thế mà nàng không thể giữ trọn lời thề thủy chung với Kim Trọng. Kiều một mình chịu đựng nỗi đau:
Một mình nàng ngọn đèn khuya
Áo đầm giọt lệ, tóc se mái đầu.
Kiều ngổn ngang bao nỗi băn khoăn, trăn trở và cuối cùng nàng quyết định nhờ em mình là Thúy Vân chắp mối tơ duyên với Kim Trọng mặc dù vô cùng đau khổ và dằn vặt:
Hở môi ra cũng thẹn thùng
Để lòng lại phụ tấm lòng với ai.
Vượt lên trên tất cả, Kiều đã quyết định trao duyên cho em cùng muôn vàn đau khổ, rơi vào mối mâu thuẫn: lí trí bắt buộc phải trao nhưng tình cảm lại không thể. Trao duyên còn là đứng trước nỗi đau của một bi kịch kép: tình yêu tan vỡ và bi kịch của một cuộc đời lầm than. Tất cả xảy ra khi Kiều còn đang ở độ tuổi rất trẻ vì vậy, Nguyễn Du đã viết nên đoạn trích bằng tất cả niềm cảm thông, thấu hiểu và thương xót của mình. Thúy Kiều mở lời nhờ cậy em một cách vừa từ tốn, trang trọng nhưng cũng vô cùng khéo léo, tinh tế và sắc sảo:
Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.
Từ “em” được nhắc đi nhắc lại hai lần, đi liền với từ “cậy”, “chịu” và cử chỉ kì lạ: “ngồi lên”, “lạy”, “thưa” khiến cho lời nhờ cậy trở nên tha thiết, đưa Thúy Vân đến với không gian trang trọng, thiêng liêng của buổi trao duyên. Trong lời mình, Thúy Kiều đã dùng chữ “cậy” thay cho chữ “nhờ” khiến cho lời lẽ trở nên tha thiết và có sức nặng đồng thời thể hiện sự tin tưởng tuyệt đối của nàng dành cho em. Kiều muốn Vân biết rằng em chính là chỗ bấu víu, trông cậy duy nhất của chị.
Đồng thời, Kiều cũng hiểu rằng việc Vân nhận lời giúp mình cũng là một sự san sẻ. Cũng chính vì thế, thay bằng lối giao tiếp thông thường, Kiều quỳ xuống lạy em như lạy một ân nhân cứu mạng của cuộc đời mình. Ngay từ những lời đầu tiên, với từng lời nói và cử chỉ ta thấy được tấm lòng tha thiết của Kiều nhưng vô cùng sắc sảo, mặn mà. Sau đó Kiều đã tâm sự với Thúy Vân về mối tình của mình với Kim Trọng:
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề
Kiều nói rõ cho em sự dang dở của mình trong mối tình với Kim Trọng. Câu thơ đã sử dụng cách nói tượng trưng thể hiện sự đau khổ của Thúy Kiều về mối tình đầu dang dở với chàng Kim. Kiều còn gọi mối tình của mình với Kim Trọng là “mối tơ thừa” bởi nàng hiểu với mình, mối tình ấy là tất cả thế nhưng đối với Thúy Vân thì đó lại là điều trói buộc, trái ngang.
Kiều không muốn Thúy Vân phải bận lòng, băn khoăn quá nhiều. Nàng cũng muốn tùy em xử trí: “mặc em”. Lời nói của Kiều tưởng như vô cùng dứt khoát và mạnh mẽ thế nhưng, bên trong đó là một nỗi đau đến đứt ruột bởi mối tình của Thúy Kiều với Kim Trọng là mối tình đầu sâu đậm không dễ nguôi ngoai.
Kiều đã kể lại cho em về buổi gặp gỡ, thề nguyền đính ước với chàng Kim. Thúy Kiều gọi Kim Trọng một cách rất trân trọng cùng với sự nối tiếp của các hình ảnh: “quạt ước”, “chén thề” gợi về những kỉ niệm giữa hai người.
Qua đó Kiều muốn khẳng định một cách chắc chắn với Thúy Vân rằng mối tình của mình với Kim Trọng là mối tình sâu sắc chứ không phải trăng gió vật vờ. Đồng thời khi hồi tưởng lại mối tình xưa, Thúy Kiều thể hiện tình cảm tha thiết và đầy nuối tiếc mà tất cả hiện lên như vừa mới hôm qua. Kiều còn nói với em về cảnh ngộ hiện tại của mình:
Sự đâu sóng gió bất kì,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.
Nàng muốn Vân hiểu những bất hạnh bất ngờ ập tới khiến cho Kiều vô cùng rối bời, Kiều muốn em hiểu rằng mình đang làm tròn chữ hiếu và mong em giúp mình làm trọn chữ tình. Qua đó ta còn thấy một Thúy Kiều muốn sống khao khát sống trọn tình vẹn nghĩa nhưng cuộc đời đầy đau khổ bất hạnh lại không cho phép nàng. Không những thế, Kiều còn nói đến hoàn cảnh hiện tại của Vân để rồi cất lời nhờ em:
Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non.
Kiều nhắc đến tình máu mủ để nói việc mình nhờ cậy em cũng là hợp với đạo lí. Kiều cũng nói đến lời nước non để chứng minh rằng tình cảm của mình với Kim Trọng là tình cảm thiêng liêng rất xứng đáng với em. Kiều cũng nói với em những lời rất tội nghiệp để thuyết phục hoàn toàn Thúy Vân:
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.
Dù có ở thế giới khác đi chăng nữa thì Kiều cũng cảm thấy mãn nguyện khi đã trao duyên được cho em. Nhưng mặt khác, hai chữ “thơm lây” khiến cho Kiều trở thành một người ngoài cuộc bởi hạnh phúc bây giờ đã trao lại cho Thúy Vân.
Qua đây ta cũng thấy được thân phận và số phận của Kiều khi thốt ra những lời như thế. Nếu như không có sóng gió bất ngờ xảy ra thì Kiều đã được hưởng những hạnh phúc ấy và bởi vậy, lời nói của Kiều có gì đó thật xót xa, hạnh phúc mới chớm nở thì đã tàn. Sau khi mở lời nhờ cậy em, Kiều đã trao lại cho em những kỉ vật đính ước và tha thiết tâm sự với em:
Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này của chung.
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên.
Mất người còn chút của tin,
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.
Thúy Kiều trao lại cho em những kỉ vật là chiếc vành, bức tờ mây, phím đàn, mảnh hương nguyền. Đó là những tín vật của tình yêu gợi lại mối tình đầu. Nhìn thấy những kỉ vật Kiều như được sống lại với kỉ niệm tình yêu của mình. Trong hoàn cảnh hiện tại khi Kim Trọng đang ở nơi xa thì những kỉ vật ấy là chỗ bấu víu duy nhất của Thúy Kiều nên không dễ dàng gì để trao lại cho em. Cũng vì thế mà Kiều thốt lên những lời đầy lạ lùng: “Duyên này thì giữ vật này của chung”.
Chính sự không rõ ràng trong hai từ “của chung” ấy đã thể hiện sự lúng túng và ngập ngừng của Thúy Kiều, cho thấy tâm trạng của nàng khi trao lại kỉ vật cho em: lí trí mách bảo phải trao nhưng tình cảm thì lại không thể. Trao lại kỉ vật cho em những tâm hồn Kiều không thể nguôi ngoai:
Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này,
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai.
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin chén nước cho người thác oan.
Kiều tự nhận mình là người mệnh bạc, coi mình như đã chết. Những hình ảnh trong câu thơ gợi ra một Thúy Kiều đang ở trong một thế giới khác, không thể trở lại hòa nhập với cuộc sống và số phận của nàng vô cùng mong manh. Ngay cả khi ở thế giới bên kia thì Kiều cũng không thể thanh thản mà còn nặng lòng với tình duyên, cuộc sống và nàng coi mình là người thác oan, nỗi đau tức tưởi nhưng đồng thời cũng vô cùng bất lực. Trong tận cùng đau khổ, Kiều hướng về Kim Trọng với những tâm sự tha thiết:
Bây giờ trâm gãy gương tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân.
Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!
Phận sao phận bạc như vôi
Đã đành nước chảy, hoa trôi lỡ làng
Ơi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây.
Thúy Kiều tâm sự với chàng Kim nhưng Kim Trọng đang ở phương xa và thực chất đây là những lời độc thoại, thể hiện sự tự ý thức sâu sắc của Thúy Kiều về nỗi đau thân phận mình. “Gương gãy”, “trâm tan” là những hình ảnh diễn tả một cách cảm động và xót xa về bi kịch của Thúy Kiều.
Đằng sau đó ta thấy một Thúy Kiều nặng tình nặng nghĩa với chàng Kim. Đi liền với nỗi đau về tình yêu còn là nỗi đau về thân phận bạc bẽo. Thành ngữ “bạc như vôi” như có gì đó oán trách, đi liền với nó là tâm trạng gần như bất lực “Đã đành nước chảy, hoa trôi lỡ làng”. Kết thúc đoạn thơ, Thúy Kiều cất lên tiếng gọi Kim Trọng tha thiết khiến cho lời than như một tiếng nấc được thốt ra nghẹn ngào.
Trong lời than ấy, Kiều đã gọi Kim Trọng là Kim lang, coi Kim Trọng giống như chồng của mình. Điều này tưởng như phi lí bởi Kiều đã trao duyên cho em nhưng lại rất có lí bởi Kiều đã thể hiện tình cảm chân thật của mình mà quên đi tất cả mọi thứ xung quanh. Nàng mắc phải một mặc cảm là mình đã phụ tình Kim Trọng. Người đau khổ nhất lúc này đó chính là Thúy Kiều nhưng nàng đã quên đi những đau khổ ấy để chỉ nghĩ về Kim Trọng.
Thúy Kiều không chỉ nặng tình mà còn nặng nghĩa. Những câu thơ cuối là những câu cảm thán khiến cho đoạn thơ như những tiếng than đứt ruột. Bi kịch, đau khổ và cả tình yêu nồng nàn của Thúy Kiều được đẩy lên đến đỉnh điểm, qua đó bộc lộ được những nét đẹp trong tâm hồn của nàng.
Đoạn trích Trao duyên đã khái quát lên bi kịch đau khổ của Thúy Kiều đó là bi kịch về tình yêu tan vỡ và bi kịch cuộc đời mỏng manh. Qua đó tác giả đã làm bật lên được vẻ đẹp của Thúy Kiều: thủy chung da diết nhưng cũng sắc sảo mặn mà. Nguyễn Du đã một lần nữa khẳng định được tài năng miêu tả tâm lí nhân vật vô cùng sống động, chân thực và phong phú. Nguyễn Du như hóa thân vào nhân vật để nhân vật tự thốt lên từ tận đáy lòng. Qua đoạn trích, nội tâm nhân vật Thúy Kiều được khám phá một cách toàn diện.
Tác giả đã sử dụng thể thơ lục bát kết hợp với ngôn ngữ uyển chuyển, mềm mại, tinh tế để có thể miêu tả được những rung động, đau khổ trong lòng nhân vật. Đằng sau tất cả những điều đó là một tấm lòng nhân hậu, tinh thần nhân đạo và con mắt nhìn thấu sáu cõi của Nguyễn Du.
Đọc nhiều hơn dành cho bạn ☀️ Phân Tích Trao Duyên ☀️ Top 10 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Giá Trị Nhân Đạo Của Truyện Kiều Ở Lầu Ngưng Bích – Mẫu 9
Tham khảo bài văn mẫu phân tích giá trị nhân đạo của Truyện Kiều ở lầu Ngưng Bích dưới đây với những gợi ý hay để vận dụng khi làm bài.
Đoạn thơ “Kiều ở lầu Ngưng Bích” dài 22 câu, trích trong “Truyện Kiều” là những “Câu thơ còn đọng nỗi đau nhân tình” ( Tố Hữu), nổi bật lên với giá trị nhân đạo sâu sắc. Bao biến cố khủng khiếp đã diễn ra: tai bay vạ gió, cha và em bị tù tội, gia sản bị bọn sai nha “đầu trâu mặt ngựa” cướp “sạch sành sanh” … , phải bán mình chuộc cha, trao duyên cho em, Kiều rơi vào tay Mã Giám Sinh – Tú Bà. Sau khi “thất thân” bởi Mã Giám Sinh, bị mụ Tú Bà làm nhục, Kiều tự vẫn nhưng đã được cứu sống. Tú Bà dỗ dành Kiều:
“Người còn thì của hãy còn,
Tìm nơi xứng đáng là con cái nhà …”
Kiều được Tú Bà đưa ra lầu Ngưng Bích với lời hứa “con hãy thong dong” , nhưng thật ra là nàng bị giam lỏng. Lầu Ngưng Bích là một điểm dừng chân của Thúy Kiều trên con đường lưu lạc đầy máu và nước mắt, cay đắng và tủi nhục suốt 15 năm trời. Đoạn thơ không chỉ biểu lộ tình cảm xót thương của Nguyễn Du đối với kiếp người bạc mệnh mà còn thể hiện một bút pháp nghệ thuật đặc sắc về tự sự, về tả cảnh ngụ tình, về ngôn ngữ độc thoại để biểu đạt nỗi lòng và tâm trạng của nhân vật Thúy Kiều.
Sáu câu đầu là một không gian nghệ thuật và một tâm trạng nghệ thuật đồng hiện. Có “non xa” và “tấm trăng gần”; có “cát vàng cồn cọ” và ” bụi hồng dặm kia”. Giữa một thiên nhiên vắng lặng và mênh mông, không một bóng người, Kiều chỉ còn biết ” Bốn bề bát ngát xa trông”. Một cảm giác cô đơn, buồn tủi và bẽ bàng cho thân phận mình, duyên số mình. Chỉ có một mình một bóng đối diện với ” mây sớm đèn khuya”, nỗi lòng người con gái lưu lạc đau khổ, tủi nhục và ngao ngán vô cùng:
“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”
Bốn chữ “như chia tấm lòng” diễn tả một nỗi niềm, một nỗi lòng tan nát, đau thương. Vì thế, tuy sống giữa một khung cảnh đẹp êm đềm, có non xa và trăng gần- nhưng nàng vẫn thấy cô đơn, bẽ bàng, bởi lẽ “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Kiều sao không khỏi cô đơn, bẽ bàng trong một cảnh ngộ đầy bi kịch:
“Chung quanh những nước non người,
Đau lòng lưu lạc nên vài bốn câu”
Tám câu thơ tiếp theo nói lên niềm tưởng nhớ người yêu và nỗi xót thương cha mẹ của Thúy Kiều khi sống một mình trong lầu Ngưng Bích. Với Kim Trọng thì Kiều ” tưởng người … “. Với cha mẹ thì nàng đã “xót người … “, mỗi đối tượng Kiều lại có một nỗi thương nhớ riêng.
Trên đường theo Mã Giám Sinh về Lâm Trì, Kiều thương Kim Trọng cô đơn, đau khổ ” Một trời thu để riêng ai một người”. Đối với cha mẹ Kiều khắc khoải ” Nghe chim như nhắc tấm lòng thần hôn.” Lần này, Kiều tưởng nhớ chàng Kim, nhớ lời thề dưới trăng đêm tình tự “dưới nguyệt chén đồng”, thương người yêu đau khổ “rày trông mai chờ” và “bơ vơ” cô đơn, sầu tủi.
Đến bao giờ mới nguôi, mới “phai” được nỗi thương nhớ ấy? Những từ ngữ, hình ảnh chỉ không gian và thời gian cách biệt như: “dưới nguyệt chén đồng”, “tin sương”, “rày trông mai chờ”, “bên trời góc bể”, “tấm son gột rửa” … đã diễn tả và bộc lộ một cách sâu sắc, cảm động tình cảm thương nhớ người yêu trong mối tình đầu, nay vì cảnh ngộ mà chia lìa đau đớn:
“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai…”
Các động từ – vị ngữ: “tướng”, “trông”, “chờ”, “bơ vơ”, “gột rửa”, “phai” … đã liên kết thành một hệ thống ngôn ngữ độc thoại biểu đạt nội tâm nhân vật trữ tình. Kiều nhớ thương người yêu khôn nguôi, xót xa cho mối tình đã nặng lời thề son sắt mà bị tan vỡ!
Nhớ chàng Kim rồi Kiều xót thương cha mẹ. Các từ ngữ chỉ thời gian xa cách : “hôm mai”, “cách mấy nắng mưa”, các thi liệu, điển cố văn học Trung Hoa như: “sân Lai”, “gốc tử” và thành ngữ “quạt nồng ấp lạnh”, đặc biệt hình ảnh mẹ già “tựa cửa hôm mai” đợi chờ, trông ngóng đứa con lưu lạc quê người đã cực tả nỗi nhớ thương của cha mẹ, nỗi đau buồn của đứa con gái đầu lòng không thể, không được chăm sóc phụng dưỡng cha mẹ, khi song thân đã già yếu, khi “gốc tử đã vừa người ôm”.
Nguyễn Du đã sử dụng ngôn ngữ độc thoại kết hợp hài hòa giữa phong cách cổ điển và phong cách dân tộc, tạo nên những vần thơ biểu cảm thể hiện một tâm trạng bi kịch, một cảnh ngộ đầy bi kịch của Thúy Kiều. Trong chia lìa “trâm gãy gương tan” nàng vẫn dành cho “người tình chung” bao tình thương nhớ “muôn vàn ái ân”.
Là một đứa con chí hiếu, giàu đức hi sinh, khi cha mẹ già yếu không được sớm hôm phụng dưỡng, Kiều càng nhớ thương càng xót xa. Giọng thơ rưng rưng lệ, nỗi đau của nàng Kiều như thấm vào cảnh vật, thời gian và lòng người bấy lâu nay:
“Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm”
Tám câu cuối, đoạn điệp ngữ “buồn trông” xuất hiện bốn lần, đứng ở vị trí đầu câu sáu của mỗi cặp lục bát. Hai chữ “buồn trông” là cảm xúc chủ đạo của tâm trạng “tê tái” đau thương; thương mình và thương người thân, thương cho thân phận và duyên số … . “Buồn trông” vì càng buồn thì càng trông, càng trông lại càng buồn.
Đây là đoạn thơ tả cảnh ngụ tình hay nhất trong ” Truyện Kiều”. Cứ mỗi cặp lục bát là một nét tâm trạng “buồn trông”. Ngoại cảnh và tâm cảnh, khung cảnh thiên nhiên và diễn biến tâm trạng của nhân vật được diễn tả qua một hệ thống hình tượng và ngôn ngữ mang tính ước lệ, mở ra một trường liên tưởng bi thương:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”
Cửa bể mênh mông lúc ngày tàn chiều hôm càng làm tăng nỗi buồn đau cô đơn của kiếp người lưu lạc. “Thuyền ai” lúc ẩn lúc hiện “thấp thoáng cánh buồm xa xa” đầy ám ảnh. “Buồn trông” con thuyền ai xa lạ, cánh buồm xa xa “thấp thoáng” , Kiều càng nghĩ đến thân phận bơ vơ của mình nơi quê người đất khách.
Rồi nàng lại “buồn trông” về “ngọn nước mới sa”, dõi theo những cánh hoa trôi dạt và tự hỏi “về đâu” đến phương trời vô định nào. Cánh hoa trôi man mác ấy tượng trưng cho số phận chìm nổi trên dòng đời không biết về đâu – Kiều nhìn hoa trôi trên ngọn nước mà cảm thương cho số phận của mình:
“Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?”
Sau hai câu hỏi tu từ về “thuyền ai”, về hoa trôi “biết là về đâu?”, Kiều ” buồn trông” về bốn phía “chân mây mặt đất” về nội cỏ, nàng chỉ nhìn thấy trên cái nền xanh xanh mịt mờ bao la là màu sắc tàn úa, vàng héo “dầu dầu” của nội cỏ. Màu sắc tê tái thê lương ấy đã phản chiếu nỗi đau tê tái của người con gái lưu lạc:
“Buồn trông nội cỏ dầu dầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”
“Nội cỏ dầu dầu” tàn úa hiện lên giữa màu “xanh xanh” nhạt nhòa của “chân mây mặt đất” chính là tâm trạng lo âu của Kiều khi nghĩ đến tương lai mờ mịt. Sắc cỏ “dầu dầu” ấy, nàng đã một lần nhìn thấy mới ngày nào trên mộ Đạm Tiên.
“Sè sè nấm đất bên đường,
Dầu dầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh”
Nhìn xa rồi nhìn gần, vừa “buồn trông” vừa lắng tai nghe. Nghe tiếng gió, gió gào, “gió cuốn” trên mặt duềnh. Nghe tiếng “ầm ầm” của sóng, không phải là sóng reo mà là “sóng kêu”. Gió và sóng đang bủa vây “xung quanh ghế ngồi”. Một tâm trạng cô đơn lẻ loi đang trải qua những giờ phút hãi hùng, ghê sợ, lo âu. Phải chăng âm thanh dữ dội ấy của gió và sóng là biểu tượng cho những tai họa khủng khiếp đang bủa vây, sắp giáng xuống số phận người con gái nhỏ bé đáng thương? Kiều buồn trông mà lo âu sợ hãi:
“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
Bức tranh “nước non người”, cận cảnh là lầu Ngưng Bích, viễn cảnh là con thuyền và cánh buồm xa xa trên cửa bể chiều hôm, là ngọn nước và hoa trôi, là nội cỏ dầu dầu giữa màu xanh xanh của chân mây mặt đất, là gió cuốn và tiếng sóng ầm ầm kêu nơi mặt duềnh … mang ý nghĩa tượng trưng và giàu giá trị thẩm mĩ. Màu sắc ấy, âm thanh ấy của thiên nhiên vừa bao la vừa mờ mịt, vừa dữ dội, tất cả như đang bủa vây người con gái lưu lạc đau thương trong nỗi buồn đau hãi hùng, lẻ loi.
Những chặng đường đầy cạm bẫy, nhiều máu và nước mắt có “ma đưa lối, quỷ đem đường” … đối với Kiều đang ở phía trước. Đoạn thơ : “Kiều ở lầu Ngưng Bích ” như chứa đầy lệ. Lệ của người con gái lưu lạc, đau khổ vì cô đơn lẻ loi, buồn thương chua xót vì mối tình đầu tan vỡ, xót xa vì thương nhớ mẹ cha, lo sợ cho thân phận, số phận mình. Lệ của nhà thơ, một trái tim nhân đạo bao la đồng cảm, xót thương cho người thiếu nữ tài sắc, hiếu thảo mà bạc mệnh.
Các từ láy: bát ngát, bẽ bàng, bơ vơ, thấp thoáng, xa xa , man mác, dầu dầu, xanh xanh, ầm ầm … kết hợp với điệp ngữ “buồn trông” đã tạo nên sắc điệu trữ tình thẩm mĩ và tô đậm cảm hứng nhân đạo sâu sắc. Đó là giá trị văn chương đích thực của đoạn thơ “Kiều ở lầu Ngưng Bích”.
Tham khảo trọn bộ 🌟 Phân Tích Kiều Ở Lầu Ngưng Bích 🌟 17 Bài Văn Hay Nhất
Giá Trị Nhân Đạo Của Bài Truyện Kiều Qua Nỗi Thương Mình – Mẫu 10
Đón đọc bài văn mẫu về giá trị nhân đạo của bài Truyện Kiều qua Nỗi thương mình dưới đây để luyện tập nâng cao kỹ năng nghị luận văn học.
Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc, ông là một nhà thơ lớn, là một danh nhân văn hoá kiệt xuất của Việt Nam. Tác phẩm đã làm nên tên tuổi của ông đó là tuyệt tác Truyện Kiều. Tác phẩm là câu chuyện cuộc đời và số phận của người con gái tài sắc mang tên Vương Thuý Kiều. Qua Truyện Kiều, Nguyễn Du không chỉ phê phán xã hội đen tối đương thời mà còn bênh vực, đồng cảm với những con người bất hạnh. Đoạn trích Nỗi thương mình là một trong những trích đoạn thể hiện rõ nhất giá trị nhân đạo mà Nguyễn Du muốn truyền tải.
Đoạn trích Nỗi thương mình có vị trí từ câu số 1229 đến câu 1248, thuộc phần hai Gia biến và lưu lạc. Đó là khi Thuý Kiều bán mình cho Mã Giám Sinh làm vợ lẽ để lấy tiền cứu cha và em ra khỏi ngục tù, cứu gia đình khỏi cơn gia biến. Nhưng còn gì đau đớn hơn khi tên Mã Giám Sinh đã lật lọng, lừa bán nàng đến lầu xanh. Trong những ngày tháng sống như địa ngục ấy, Thuý Kiều đã vô cùng đau khổ, nàng cô đơn, tủi nhục khi nghĩ tới số phận của mình.
Giá trị nhân đạo chính là thái độ của tác giả đối với nhân vật của mình và với Nguyễn Du ở đây, ông đã thể hiện nó qua sự cảm thông sâu sắc trước số phận của Kiều cũng như trân trọng những giá trị con người nàng. Bên cạnh đó, Nguyễn Du còn phê phán và tố cáo xã hội phong kiến đương thời tàn ác khiến con người rơi vào cảnh cùng cực và qua đó, ông lên tiếng đòi quyền sống, quyền tự do chính đáng của con người.
Trong đoạn trích Nỗi thương mình, giá trị nhân đạo đầu tiên mà ta thấy được là sự thương cảm, sự cảm thông của Nguyễn Du đối với Kiều khi nàng buộc phải sống trong cảnh lầu xanh:
“Biết bao bướm lả ong lơi
Cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm
Dập dìu lá gió cành chim
Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Tràng Khanh”
Đây là bức tranh sống động những cảnh sinh hoạt chốn lầu xanh, nơi thân phận bẽ bàng của người con gái chốn phong trần được miêu tả vô cùng chi tiết bằng bút pháp tượng trưng. Với Kiều, ở chốn lầu xanh ấy, nàng phải mua vui cho biết bao hạng người, cuộc vui triền miên “sớm, tối”. Bao nhiêu “bướm lả ong lơi” mà nàng không thể nào đếm được. Ở đó, những “cuộc say”, những “trận cười” diễn ra vô tận nhưng trong tâm nàng lại là sự xót xa đến vô cùng “giật mình, mình lại thương mình xót xa”.
Nguyễn Du cũng rất tinh tế khi sử dụng ở đây hai điển tích “Tống Ngọc”, “Tràng Khanh” để chỉ những loại khách phong lưu, đào hoa. Thúy Kiều ý thức được tình cảnh bi kịch của mình, ý thức được nỗi bất hạnh của mình nhưng đành phải bất lực mà chịu đựng. Nhân phẩm bị chà đạp nhưng nàng còn có thể làm gì hơn là buông xuôi, chấp nhận số phận mình.
Những câu thơ đọc lên mà người ta có thể thấy ngay được nỗi đau đớn, sự thương xót cho chính bản thân mình của Kiều rằng:
“Khi tỉnh rượu lúc tàn canh
Giật mình mình lại thương mình xót xa
Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường?
Mặt sao dày gió dạn sương?
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!
Mặc người mưa Sở mây Tần
Những mình nào biết có xuân là gì?”
Nàng xót thương cho số phận mình, xót thương cho cảnh vừa mới ngày hôm qua còn “phong gấm rủ là”, giờ đây “tan tác như hoa giữa đường”. Nhân phẩm cao quý của nàng bị vùi dập, đọa đầy trong một đống bùn nhơ nhuốc, khó lòng gột rửa. Sống trong chèn ép, trong tủi nhục, nàng uống rượu để quên đi tất cả nhưng khi tỉnh lại, nàng lại thấy ê chề, nhục nhã. Nàng “giật mình” cảm thấy tự thương cho chính mình.
Ba chữ “mình” đồng thời trong một câu thơ khiến ta có thể cảm nhận được sự ý thức của Kiều về số phận mình đồng thời cũng cho thấy sự cảm thông sâu sắc và chia sẻ của Nguyễn Du với nàng. Thương thân có lẽ là cảm xúc xuyên suốt nửa đầu của đoạn trích. Kiều khóc cho số kiếp đau đớn của mình, thương cho thân phận mình. Cảm giác tự thương xót bản thân cũng thể hiện được sự tủi nhục đến cùng cực của nàng, đồng thời cũng thể hiện ý thức cá nhân rất mạnh mẽ trong con người nàng.
Một cô gái khuê các, tài sắc vẹn toàn, tưởng như có một cuộc đời trọn vẹn thì nay lại rơi vào cảnh mà chính Kiều còn phải bàng hoàng và sửng sống. Những câu thơ đối lại nhau trong đoạn trích này đã thể hiện được số phận trước và sau của Kiều. Quá khứ với hiện tại đối lập nhau gay gắt cùng với cụm từ “tan tác như hoa giữa đường” đã thể hiện cái hiện thực phũ phàng.
Các cụm từ như “bướm chán ong chường”, “dày gió dạn sương” là những sáng tạo riêng của Nguyễn Du nhưng nó đã thể hiện được mức độ đau đớn, sự chà đạp mà Kiều phải chịu đựng. Người con gái chỉ vừa mới tròn tuổi xuân, ấy vậy mà lại từ hỏi “những mình nào biết có xuân là gì?”, đây chẳng phải là sự đau đớn, ê chề đến tuyệt vọng sao?
Tiếp sau, Nguyễn Du đã miêu tả bức tranh thiên nhiên phong – hoa – tuyết – nguyệt ở chốn lầu xanh này:
“Đòi phen gió tựa hoa kề
Nửa rèm tuyết ngậm, bốn bề trăng thâu
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu?
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ!
Đôi phen nét vẽ câu thơ
Cung cầm trong nguyệt, nước cờ dưới hoa.
Vui là vui gượng kẻo là,
Ai tri âm đó mặn mà với ai?”
Bức tranh thiên nhiên đẹp rực rỡ với đủ âm thanh, sắc màu, sinh động, lại có thêm con người “cung cầm”, “nước cờ” nhộn nhịp. Thế nhưng, thiên nhiên ấy lại là sự giễu cợt, là sự mỉa mai đối với số phận của Kiều. Bởi những cảnh đó dù có đẹp tươi đến đâu, con người ở đó có vui vẻ đến đâu cũng chỉ là sự ngụy trang của một chốn phong trần “buôn thịt bán người” mà thôi. Vì thế, Kiều cũng luôn phải sống trong hai mặt, một vui vẻ giả tạo, hai lại xót xa khi “canh tàn”.
Nỗi sầu của nàng lan tràn khắp chốn, thấm vào cả những cảnh vật xung quanh:
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?”
Nguyễn Du đã hợp lý hoá cả ngoại cảnh và tâm trạng vào trong hai câu thơ, biến nó trở thành chân lý của muôn đời. Câu thơ là đỉnh điểm của trích đoạn nơi nó đã thể hiện toàn bộ những tâm trạng, những đau đớn trong lòng Kiều. Những tủi nhục, cô đơn cứ dâng lên trong lòng nàng, đánh bật mọi vẻ bên ngoài. Qua cái nhìn của nàng, mọi vật đều u tối, tang tóc.
Cuối cùng, Kiều đành lòng tự hỏi lòng rằng:
“Vui là vui gượng kẻo là
Ai tri âm đó mặn mà với ai?”
“Vui gượng” là sự vui trong giả tạo, trong lạc lõng và bế tắc của Kiều. Nàng phải sống trong những cảnh “ong bướm” này là điều bất đắc dĩ mà chưa bao giờ nàng nghĩ tới. Thậm chí nàng chưa bao giờ có suy nghĩ rằng mình sẽ rơi vào bi kịch hôm nay, dù đã có lúc nàng nghĩ rằng mình sẽ chết. Thế nên cuối cùng, nàng tự hỏi mình rằng: “Ai tri âm đó mặn mà với ai?”. Đó là câu hỏi trong tuyệt vọng, trong đau đớn của Kiều. Ai trong chốn này, trong xã hội này có thể cảm thông, sẻ chia với nàng, là “tri âm” với nàng đây?
Qua đoạn trích, ta có thể cảm nhận được sự cảm thông sâu sắc của Nguyễn Du dành cho Thuý Kiều. Ông để nàng tự nhận thức rõ bản thân, ý thức rõ tình cảnh đau đớn hiện tại của mình, từ đó tự thương lấy bản thân mình. Đây là giá trị nhân đạo mới mẻ mà Nguyễn Du thể hiện khi ông đã thương xót cho số phận của những người phụ nữ trong xã hội xưa.
Ông cảm thông với số phận bi kịch của họ, trân trọng những giá trị của họ. Đồng thời, qua đoạn trích này, Nguyễn Du cũng lên tiếng phê phán xã hội phong kiến đương thời, nơi mà đồng tiền lên ngôi, đã đẩy người phụ nữ vào con đường nhơ nhớp, bẩn thỉu. Đồng thời, ông cũng lên tiếng đòi quyền sống tự do và hạnh phúc chính đáng cho con người.
Với những lời thơ linh hoạt, sử dụng một loạt những điển tích, điển cố, Nguyễn Du đã tái hiện được cuộc sống tràn ngập nỗi đau của Kiều khi phải rơi vào chốn lầu xanh. Nhưng dù là trong tình cảnh như thế, Kiều vẫn luôn giữ được khao khát hạnh phúc, ý thức được thân phận của mình, đó là một vẻ đẹp cũng như sự nhân đạo mà không phải tác giả nào cũng có thể làm được.
Qua đoạn trích Nỗi thương mình, chúng ta có thể thấy được tâm trạng của Thuý Kiều trong những ngày ở chốn lầu xanh của Tú Bà. Ta cũng thấy rõ được tấm lòng nhân đạo mà Nguyễn Du muốn gửi gắm, đó là sự cảm thông, chia sẻ, trân trọng giá trị của Kiều, phê phán xã hội xưa đã chà đạp lên nhân phẩm của người phụ nữ.
Mời bạn đón đọc 🌜 Phân Tích Nỗi Thương Mình 🌜 12 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Giá Trị Nghệ Thuật Và Giá Trị Nhân Đạo Của Truyện Kiều – Mẫu 11
Tham khảo bài văn phân tích giá trị nghệ thuật và giá trị nhân đạo của Truyện Kiều dưới đây để củng cố và nắm vững những kiến thức trọng tâm của tác phẩm.
Truyện Kiều (Đoạn trường tân thanh) được Nguyễn Du sáng tác vào đầu thế kỉ 19). Đây được coi là một trong những kiệt tác của nền văn học Việt Nam trung đại. Tác phẩm đã để lại nhiều giá trị nghệ thuật độc đáo và giá trị nhân đạo sâu sắc.
Truyện Kiều kể về cuộc đời của Thúy Kiều – một thiếu nữ tài sắc vẹn toàn nhưng cuộc đời nhiều bất hạnh. Trong một lần du xuân, Kiều vô tình gặp gỡ Kim Trọng và có một mối tình đẹp đẽ bên chàng Kim. Hai người chủ động gặp gỡ và đính ước với nhau. Gia đình Kiều bị nghi oan, cha bị bắt, Kiều quyết định bán mình để chuộc cha.
Trước khi bán mình, Kiều trao duyên cho em gái là Thúy Vân. Thúy Kiều bị bọn buôn người là Mã Giám Sinh và Tú Bà lừa bán vào lầu xanh. Sau đó, nàng được Thúc Sinh cứu vớt khỏi cuộc đời kỹ nữ. Những rồi Kiều lại bị Hoạn Thư – vợ Thúc Sinh ghen tuông, đày đọa. Nàng một lần nữa bị rơi vào chốn thanh lâu. Ở đây, Kiều gặp được Từ Hải – một “anh hùng đầu đội trời, chân đạp đất”. Từ Hải lấy Kiều và giúp nàng báo ân báo oán.
Do mắc lừa tổng đốc Hồ Tôn Hiến, Kiều vô tình đẩy Từ Hải vào chỗ chết. Đau đớn, nàng trẫm mình xuống sông thì được sư Giác Duyên cứu. Lại nói Kim Trọng khi từ Liêu Dương chịu tang chú xong quay về, biết Thúy Kiều gặp phải biến cố thì đau lòng. Chàng kết hôn cùng Thúy Vân nhưng vẫn ngày nhớ đêm mong gặp lại Kiều. Chàng liền quyết tâm đi tìm nàng, gia đình đoàn tụ. Túy Kiều nối lại duyên với Kim Trọng nhưng cả hai đã nguyện ước “duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy”.
Giá trị nội dung của Truyện Kiều thể hiện ở giá trị hiện thực và nhân đạo. Trước hết, về giá trị nhân đạo, tác phẩm đã khắc họa bức tranh hiện thực về một xã hội bất công, tàn bạo và coi trọng đồng tiền. Đồng thời, Nguyễn Du còn cho thấy một xã hội phong kiến bất công đã chà đạp con người, đặc biệt là người phụ nữ.
Cuộc sống của gia đình Thúy Kiều đang bình yên. Nhưng chỉ vì một lời không đâu vào đâu của thằng bán tơ “vu oan giá hoạ”, cha Kiều bị bắt. Cuộc đời Kiều phải rẽ sang hướng khác. Nàng phải từ bỏ duyên đẹp đẽ với Kim Trọng, bán mình chuộc cha. Thúy Kiều còn bị bọn buôn người là Mã Giám Sinh và Tú Bà lừa bán vào lầu xanh. Từ một cô tiểu thư khuê các, Kiểu trở thành hàng hoá để cho người ta mua bán. Nàng còn trở thành vợ lẽ, bị người ta lăng nhục, đày đọa và cuối cùng phải tự vẫn.
Truyện Kiều đã bộc lộ sự trân trọng con người. Nguyễn Du đã xây dựng nhân vật Thúy Kiều từ những vẻ đẹp từ ngoại hình, phẩm chất, tài năng khát vọng đến ước mơ và tình yêu chân chính. Tác phẩm còn thể hiện niềm thương cảm sâu sắc trước những đau khổ của con người đặc biệt là người phụ nữ.
Cuối cùng, truyện là tiếng nói đề cao tình yêu tự do, khát vọng công lí và ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất của con người. Mối tình Kim Trọng và Thúy Kiều đã đi vào lòng người đọc. Sự thủy chung, si tình của Kim Trọng khiến ta không khỏi ngưỡng mộ. Ngoài ra, với Truyện Kiều, tác giả còn thể hiện khát vọng công lí tự do với hình tượng nhân vật Từ Hải, người anh hùng dám chống lại xã hội phong kiến tàn bạo.
Tiếp đến là giá trị nghệ thuật mà đầu tiên phải kể đến về mặt ngôn ngữ. “Truyện Kiều” được đánh giá là đạt đến trình độ mẫu mực về ngôn ngữ. Nguyễn Du đã kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa ngôn ngữ bình dân và ngôn ngữ bác học. Nhiều điển tích, điển cố được sử dụng để miêu tả tâm trạng, phẩm chất (“sông Tương”, “sân Lai”, “gốc tử”, “nàng Ban”, hay “ả Tạ”…).
Cách dùng từ tinh tế là một trong những biệt tài của Nguyễn Du khi miêu tả nhân vật và cảnh vật. Ví dụ như khi miêu tả nhân vật Tú Bà, tác giả đã sử dụng từ láy “nhờn nhợt” (Thoắt trông nhờn nhợt màu da). Hay động từ “lẻn” (Mặt mo đã thấy Sở Khanh lẻn vào) để làm nổi bật sự xảo quyệt của Sở Khanh…
Nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nguyễn Du cũng để lại những ấn tượng sâu sắc. Nhiều hình ảnh ước lệ, tượng trưng được sử dụng. Điều đó được thể hiện rõ nét nhất trong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”:
“Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo, mặn mà,
So bề tài, sắc, lại là phần hơn.
Làn thu thủy, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”
Nguyễn Du cũng rất thành công khi xây dựng tâm trạng nhân vật với bút pháp tả cảnh ngụ tình. Tám câu thơ cuối trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một ví dụ điển hình:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác, biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
Ngoài ra, việc sử dụng thể bát cũng đã mang lại những thành công to lớn cho việc chuyển tải nội dung tác phẩm “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. Đây là thể thơ vốn có rất nhiều yếu tố tạo hình và rất giàu tính nhạc, nhất là ở những đoạn khắc họa chân dung nhân vật.
Qua phân tích trên, có thể khẳng định, Truyện Kiều của Nguyễn Du chứa đựng nhiều giá trị về nội dung và nghệ thuật. Tác phẩm chính là di sản quý giá của nền văn chương nước nhà.
Chia sẻ cùng bạn 🌹 Phân Tích Đoạn Trích Chí Khí Anh Hùng 🌹 15 Bài Văn Mẫu
Giá Trị Hiện Thực Và Giá Trị Nhân Đạo Của Truyện Kiều – Mẫu 12
Đón đọc dưới đây bài văn phân tích giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của Truyện Kiều với những ý văn hay và giàu ý nghĩa.
Phạm Quỳnh đã từng khẳng định: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn. Tiếng ta còn, nước ta còn”. Từ trước đến nay, Truyện Kiều của Nguyễn Du được đánh giá là kiệt tác văn chương của dân tộc. Thật vậy, để làm nên giá trị đó là những đóng góp, sáng tạo mới mẻ của Nguyễn Du về cả nội dung và hình thức nghệ thuật.
Trước tiên, dù sáng tác dựa trên cốt truyện của tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc Kim Vân Kiều truyện (Thanh Tâm tài nhân) song Nguyễn Du đã sáng tạo nên một tác phẩm mới với những sáng tạo về giá trị nội dung. Truyện Kiều mang giá trị hiện thực phản ánh bức tranh xã hội phong kiến Việt Nam bất công, tàn bạo và xã hội kim tiền chà đạp lên quyền sống con người, đặc biệt là người phụ nữ.
Đó là lời tố cáo các thế lực đen tối như sai nha, quan xử kiện, … ích kỉ, tham lam, coi rẻ sinh mạng, phẩm giá con người. Tác phẩm còn cho thấy những tác động tiêu cực của đồng tiền: đó là những lời ngon ngọt “Có ba trăm lạng việc này mới xuôi”, là những lần lừa gạt Thúy Kiều vào lầu xanh của Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Bạc Bà, Bạc Hạnh,… Tất cả chung quy lại cũng vì đồng tiền làm tha hóa nhân cách của con người.
Không chỉ dừng lại ở giá trị hiện thực rộng lớn, tác phẩm còn mang những giá trị nhân đạo vô cùng sâu sắc. Truyện Kiều là tiếng nói lên án, tố cáo những thế lực xấu xa chà đạp con người như Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Bạc Bà, Bạc Hạnh,… Tác phẩm còn thể hiện tiếng nói thương cảm, xót xa của Nguyễn Du trước số phận bi kịch của con người: “Tiếc thay một đóa trà mi/ Con ong đã tỏ đường đi lối về”, để rồi sau này ông thốt lên: Đau đớn thay phận đàn bà/ Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”.
Thúy Kiều là người con gái tài sắc nhưng số phận lại vô cùng éo le, lấy chữ hiếu làm đầu để rồi sau bao nhiêu trắc trở, nàng lại cô đơn vò võ một mình. Càng xót xa bao nhiêu, nhà thơ lại càng khẳng định, đề cao tài năng, nhân phẩm và những khát vọng chân chính của con người: khát vọng về quyền sống, quyền tự do, công lý, khát vọng tình yêu, hạnh phúc.
Mối tình Kim Kiều vượt lên trên lễ giáo phong kiến cùng thái độ chủ động của người con gái khi yêu: “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” thể hiện khát vọng tình yêu của con người cùng hình ảnh người anh hùng Từ Hải ẩn chứa ước mơ của tác giả về một xã hội công bằng,… Bởi những giá trị hiện thực và nhân đạo cao cả đó, Mộng Liên Đường chủ nhân đã từng ca ngợi Nguyễn Du là người “có con mắt nhìn xuyên sáu cõi, có tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời”.
Không chỉ có những đặc sắc về nội dung mà Truyện Kiều còn mang những nét sáng tạo vô cùng độc đáo về nghệ thuật. Tác phẩm là sự kết tinh các thành tựu nghệ thuật văn học dân tộc trên các phương diện ngôn ngữ, thể loại. Về thể loại, tác phẩm được viết dưới hình thức một truyện thơ Nôm với thể thơ lục bát truyền thống quen thuộc. Về ngôn ngữ, tác phẩm được viết bằng chữ Nôm có vận dụng kết hợp linh hoạt với các ca dao, thành ngữ quen thuộc.
Nghệ thuật trong Truyện Kiều đã có bước phát triển vượt bậc: Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên, khắc họa tính cách, miêu tả tâm lí nhân vật. Trong nghệ thuật xây dựng nhân vật, nhà thơ có sự kết hợp giữa ngôn ngữ độc thoại để miêu tả nội tâm và ngôn ngữ đối thoại để thể hiện tính cách, hoàn cảnh nhân vật.
Với các nhân vật chính diện, Nguyễn Du sử dụng ngòi bút ước lệ, ẩn dụ tượng trưng quen thuộc trong thơ trung đại; với các nhân vật phản diện, nhà thơ thường sử dụng ngôn từ bình dân tả thực. Bên cạnh đó, ông còn có những đặc sắc nghệ thuật khi tả cảnh với bút pháp tả cảnh ngụ tình sinh động, giúp nhân vật thể hiện cảm xúc, tâm trạng của mình một cách gián tiếp. Tất cả đã làm nên một “Truyện Kiều” với những sáng tạo mới mẻ về hình thức thể hiện.
Với những đóng góp to lớn cả về nội dung và nghệ thuật, Truyện Kiều xứng đáng được coi là kiệt tác văn học của dân tộc. Thời gian cứ thế trôi và những gì là thơ, là văn, là tuyệt tác thì luôn còn mãi. Và “Truyện Kiều” cũng vậy..
SCR.VN chia sẻ 🌳 Phân Tích Thề Nguyền 🌳 10 Bài Văn Mẫu Ngắn Hay Nhất