Phân Tích Kiều Ở Lầu Ngưng Bích [27+ Bài Văn Hay Nhất]

Phân Tích Kiều Ở Lầu Ngưng Bích ❤️️27+ Bài Văn Hay Nhất ✅ Đón Đọc Trọn Bộ Những Bài Viết Nghị Luận Văn Học Đặc Sắc Được Chọn Lọc Tại SCR.VN.

Dàn Ý Phân Tích Kiều Ở Lầu Ngưng Bích

Tham khảo dàn ý phân tích Kiều ở lầu Ngưng Bích dưới đây sẽ giúp các em học sinh nắm được những luận điểm trọng tâm để triển khai bài viết.

I. Mở bài phân tích Kiều ở lầu Ngưng Bích:

  • Giới thiệu về tác giả Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều
  • Giới thiệu về nội dung cần phân tích – đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”

II. Thân bài phân tích Kiều ở lầu Ngưng Bích:

a. Phân tích khái quát hoàn cảnh của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích:

  • Sau khi gia đình lâm biến và bị Mã Giám Sinh dùng mưu hèn kế bẩn, gạ gẫm lừa tình rồi bị bán vào thanh lâu, Thúy Kiều đã định tự kết liễu đời mình, nhưng kế hoạch của nàng không thành công.
  • Đoạn trích là tâm trạng của Kiều những ngày đầu ở lầu Ngưng Bích, một tâm trạng sống không bằng chết, cô đơn chán nản cuộc đời và mất lòng tin ở con người.

b. Phân tích chi tiết đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích:

“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia”

  • Hai từ “khóa xuân” đã gợi lên trong lòng người đọc rất nhiều cảm xúc chua chát.
  • Không gian càng mênh mông tăm tối, mịt mù càng làm cho tâm trạng Thúy Kiều trở nên thê lương bi đát hơn bao giờ hết. Một cuộc sống bị giam cầm tù đày cả về tâm hồn, lẫn thể xác.

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”

  • Hai từ “bẽ bàng” đã lột tả được mọi sự ê chề, đau đớn của Thúy Kiều, khi cô vừa bị Mã Giám Sinh lừa tình, rồi lại còn bị bán vào lầu xanh.
  • “Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng” con người và cảnh vật đã thật sự hòa nhập vào làm một. Cảnh vật cũng như người đều mang cảnh u sầu, trống trải, cô đơn khắc khoải…
  • Trong những câu thơ tiếp theo tác giả đưa nhịp bài thơ nhanh hơn, chuyển hướng tâm trạng của Thúy Kiều hồi tưởng lại những ngày xưa bình yên hạnh phúc.

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”

  • Phân tích tâm trạng của Thúy Kiều khi nhớ về Kim Trọng mối tình đầu của nàng trong sự ê chề, bẽ bàng, tủi nhục này người nàng nhớ về đầu tiên chính là chàng Kim Trọng, nhớ người đã thề hẹn ước nguyện với nàng.

“Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ”

  • Tâm trạng của Kiều khi nghĩ về cha mẹ. Nàng nghĩ về những người sinh thành ra mình, cảm thấy xót xa.
  • Tâm trạng của Thúy Kiều lại trở về với thực tại của đời mình, trở về với nỗi đau hiện thực:

Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông ngọn cỏ dầu dầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”

  • Điệp từ “buồn trông” được nhắc đi nhắc lại trong khổ thơ.
  • Khắc hoạ tâm trạng của Kiều lúc này, đúng là “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”

Buồn trông sóng cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”

  • Câu thơ nói lên sự lênh đênh trên chặng đường đời nhiều sóng gió trước mặt Kiều.
  • Nói lên sự phong ba, gập ghềnh mà Kiều sẽ phải đi qua.

III. Kết bài phân tích Kiều ở lầu Ngưng Bích:

  • Đánh giá về nội dung và nghệ thuật của đoạn trích.
  • Nêu cảm nhận của bản thân.

Gợi ý cho bạn 🌹 Tóm Tắt Kiều Ở Lầu Ngưng Bích 🌹 15 Mẫu Kể Tóm Tắt Hay

Sơ Đồ Phân Tích Kiều Ở Lầu Ngưng Bích

Chia sẻ mẫu sơ đồ phân tích Kiều ở lầu Ngưng Bích dưới đây để các em học sinh cùng tham khảo và ghi nhớ kiến thức hiệu quả hơn.

Sơ Đồ Phân Tích Kiều ở lầu Ngưng Bích
Sơ Đồ Phân Tích Kiều ở lầu Ngưng Bích

Đọc nhiều hơn với 🔥 Sơ Đồ Tư Duy Kiều Ở Lầu Ngưng Bích 🔥 11 Mẫu Vẽ Tóm Tắt

Mở Bài Phân Tích Kiều Ở Lầu Ngưng Bích

Gợi ý mở bài phân tích Kiều ở lầu Ngưng Bích dưới đây sẽ giúp các em học sinh có cách bắt đầu bài viết thật ấn tượng.

“Chạnh lòng thương cô Kiều như đời dân tộc
Sắc tài sao mà lại lắm truân chuyên”

(Trích “Đọc Kiều” – Chế Lan Viên)

Những vần thơ xúc động của nhà thơ Chế Lan Viên đã gợi ra cảm nhận sâu sắc về cuộc đời “đoạn trường” đầy rẫy nước mắt, khổ đau của Thúy Kiều – “tấm gương oan khổ” đại diện cho số phận bi kịch của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Một trong những bi kịch đớn đau mà Thúy Kiều phải gánh chịu chính là rơi vào tay buôn người Mã Giám Sinh.

Sau khi biết mình bị chà đạp về nhân phẩm và rơi vào chốn thanh lâu, nàng tiếp tục bị Tú bà giam lỏng ở lầu Ngưng Bích. Trong không gian tù túng đó, nàng không ngừng nhớ về Kim Trọng và lo lắng cho song thân, đồng thời luôn có những dự cảm về tương lai phía trước. Trích đoạn “Kiều ở lầu Ngưng Bích” thuộc phần “Gia biến và lưu lạc” đã tái hiện thành công dòng nội tâm phức tạp đầy rẫy những lo âu của Thúy Kiều.

Kết Bài Phân Tích Kiều Ở Lầu Ngưng Bích

Đoạn văn mẫu kết bài phân tích Kiều ở lầu Ngưng Bích dưới đây sẽ giúp các em học sinh tham khảo những ý văn đáng giá tổng kết về đoạn trích.

Có thể nói, “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một trong những đoạn trích miêu tả tinh tế, xúc động nhất về tâm trạng đau khổ, xót xa của nàng Kiều khi bị cuốn vào cơn giông tố khủng khiếp của cuộc đời. Với bút pháp tả cảnh ngụ tình điêu luyện cùng với tinh thần nhân đạo sâu sắc, nhà thơ Nguyễn Du qua đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích đã có những miêu tả đầy tinh tế bức tranh thiên nhiên cũng như bức tranh tâm trạng của nàng Kiều khi bị giam lỏng nơi lầu Ngưng Bích.

Qua cơn gia biến, Kiều bị sóng gió khắc nghiệt của cuộc đời thổi dạt đến nơi lầu hoa ong bướm, theo dõi diễn biến tâm trạng nàng Kiều: từ nhớ thương Kim Trọng, người thân đến sự bẽ bàng, e ngại đến sợ hãi trước những dự cảm khủng khiếp về tương lai khiến người đọc không khỏi xót xa, đồng cảm. Đây cũng chính là thành công của Nguyễn Du khi xây dựng thế giới nội tâm của nhân vật Kiều quá đỗi chân thực, tự nhiên khiến cho độc giả như chứng kiến, cảm nhận được từng thay đổi trong tâm trạng, cảm xúc của nàng Kiều.

SCR.VN tặng bạn 💧 Cảm Nhận Của Em Về Đoạn Trích Kiều Ở Lầu Ngưng Bích 💧 13 Mẫu Phân Tích Hay

Phân Tích Truyện Kiều Ở Lầu Ngưng Bích – Mẫu 1

Tham khảo bài văn phân tích truyện Kiều ở lầu Ngưng Bích hoàn chỉnh dưới đây sẽ giúp các em học sinh có những định hướng làm bài cụ thể nhất.

Nguyễn Du là một danh nhân văn hóa, một đại thi hào của dân tộc ta. Ông đã để lại cho kho tàng văn học Việt Nam ta một kiệt tác của nền văn học trung đại – tác phẩm Truyện Kiều. Ngoài hai giá trị lớn là giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo, Truyện Kiều còn rất thành công về mặt nghệ thuật.

Chỉ xét riêng về nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật và bút pháp tả cảnh ngụ tình, Nguyễn Du đã đạt đến đỉnh cao chói lọi nhất trong lịch sử bằng trích đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích miêu tả thành công cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi và tấm lòng thủy chung, hiếu thảo của Kiều.

Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” nằm trong phần “Gia biến và lưu lạc”. Đoạn thơ dài 22 câu, không chỉ biểu lộ tình cảm xót thương của Nguyễn Du đối với kiếp người bạc mệnh mà còn thể hiện bút pháp đặc sắc về tự sự, về tả cảnh ngụ tình với ngôn ngữ độc thoại nội tâm để biểu đạt nỗi lòng và tâm trạng của Kiều. Cảnh ngộ của Kiều ở lầu Ngưng Bích vô cùng cô đơn, buồn tủi:

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.

Bằng nét bút tả cảnh ngụ tình điêu luyện, Nguyễn Du đã miêu tả thành công nội tâm của Kiều. Từ ngữ “khóa xuân” đã cho thấy tình cảnh Kiều lâm vào cảnh cá chậu chim lồng, bị giam lỏng nơi lầu cao, khóa kín tuổi xuân của nàng. “Khóa xuân” ở đây không phải nói tới những cô gái còn cấm cung mà là sự mỉa mai, chua xót cho thân phận nàng Kiều. Nàng trơ trọi giữa thời gian mênh mông, không gian hoang vắng trong hoàn cảnh tha hương, cô đơn, giờ lại bị đày vào chốn lầu xanh ô nhục.

“Lầu Ngưng Bích” vốn là một nơi phong cảnh tuyệt đẹp, khung cảnh trữ tình, thơ mộng được mở ra cả ba chiều cao, xa và rộng qua các từ ngữ “non xa”, “trăng gần”, “cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia”. Thế nhưng “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ!”, trong tình cảnh giam cầm Kiều khung cảnh thật buồn thảm, vắng lặng, nhìn trăng nàng chỉ thấy vầng trăng đơn côi, nhìn mặt đất thì bên là cồn cát nhấp nhô lượng sóng bên là bụi hồng cuốn xa hàng vạn dặm hoang vu, vắng lặng.

Lầu Ngưng Bích chỉ là là một chấm nhỏ giữa thiên nhiên trơ trọi, giữa mênh mang trời nước. Trong cái không gian quẩn quanh “mây sớm đèn khuya” gợi vòng tuần hoàn khép kín của thời gian, tất cả như giam hãm tuổi xuân mơn mởn của tuyệt sắc giai nhân, sự sống của Kiều như bị những bàn tay tàn bạo bóp nghẹt. Từ đó khắc sâu thêm nỗi đơn côi khiến Kiều càng thấy “bẽ bàng” chán nản, buồn tủi, không ai chia sẻ nàng chỉ biết là bạn với mây, với đèn, với cảnh vật hoang vu, nhạt nhòa.

Trong nỗi cô đơn tuyệt đối ấy, Kiều cảm thấy xa cách, hoang vắng, một mình một bóng bơ vơ, bị giam cầm cách biệt nơi đất khách quê người, xa quê hương, xa người yêu của mình:

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.

Ở lầu Ngưng Bích Kiều đã nhớ về Kim Trọng trước, đó là một nét bút đặc sắc, độc đáo và phù hợp với tâm lý, thể hiện tấm lòng chung thủy của Kiều. Các từ ngữ “tưởng”, “trông”, “chờ” trong ngôn ngữ độc thoại nội tâm của Kiều đã làm bật lên nỗi nhớ Kim Trọng khôn nguôi của nàng. Kiều càng nhớ về lời thề đôi lứa, lời hẹn ước trăm năm ở vườn Thúy lại càng thương cho Kim Trọng. Chén rượu thề như còn đây mà nay mỗi người như mỗi ngả khiến nàng ân hận, xót xa như kẻ phụ tình.

Nàng tưởng tượng Kim Trọng đang hướng về mình, “rày trông mai chờ” uổng công vô ích khiến nàng càng thêm xót xa, càng thấp thỏm lo âu. Dù cho mỗi người một phương nhưng tình cảm, tấm lòng son của nàng dành cho Kim Trọng là mãi mãi, không thể phai mờ. Càng nghĩ Kiều càng lo lắng, khiến nàng bật lên câu hỏi tu từ không biết trên bước đường trôi dạt nơi “bên trời góc bể”, bao giờ nàng mới có thể gột rửa sạch những hoen ố của tấm lòng son chung thủy để có thể đáp lại tình yêu của Kim Trọng dành cho nàng.

Ở nơi lầu cao ấy, nàng cũng không nguôi nhớ thương, lo lắng cho cha mẹ của mình:

Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm

Với ngôn ngữ độc thoại, kết hợp với lối viết cổ, tâm trạng ngổn ngang của Kiều hiện lên thật rõ nét. Các từ ngữ “hôm mai”, “cách mấy nắng mưa” chỉ nỗi nhớ mong cha mẹ dài theo năm tháng của nàng. Kiều xót thương cha mẹ mình ngày đêm lo lắng, “tựa cửa hôm mai” mong ngóng tin nàng, sợ cha mẹ già yếu ở nhà, không ai chăm sóc, phụng dưỡng. Thành ngữ “quạt nồng ấp lạnh”, cùng với điển tích “Sân Lai”, “Gốc tử” đã nói lên tâm trạng nhớ thương, tấm lòng hiếu thảo của Kiều với cha mẹ mình.

Nàng lo sợ ở nơi quê hương, mọi thứ đã đổi thay, cha mẹ nàng lại ngày càng già yếu nên nàng vô cùng day dứt, áy náy vì chưa làm tròn bổn phận phụng dưỡng cha mẹ của người con. Từ đó tấm lòng vị tha và hiếu thảo của Kiều đã hiện lên thật rõ nét. Trong cảnh ngộ bị giam lỏng nơi lầu Ngưng Bích, lưu lạc nơi chân trời góc bể, Kiều là người đáng thương nhất.

Thế nhưng với tâm hồn cao đẹp của mình, nàng luôn hi sinh bản thân, quên đi cảnh ngộ của bản thân để lo lắng, nghĩ về Kim Trọng, nghĩ về cha mẹ của mình. Nỗi nhớ của Kiều rất thực và có chiều sâu, từ đó cho thấy Kiều là một đứa con hiếu thảo, một người tình thủy chung và là một con người giàu lòng vị tha.

Tâm trạng buồn tủi của Kiều đã thể hiện rõ nét qua cảnh vật bên ngoài. Mỗi cảnh vật là một nét riêng nhưng đều diễn tả một khía cạnh trong tâm trạng của Kiều. Cánh buồm trên biển giữa mênh mông trời chiều hoàng hôn thật cô độc, lẻ loi:

Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

Khung cảnh mở ra vào thời điểm chiều hôm, thời điểm của những lưu luyến khó tả. “Cửa bể chiều hôm” gợi trước mắt ta hình ảnh những tia nắng leo lắt cuối ngày phản chiếu lên mặt biển xanh thẳm rồi lan ngay ra không gian xung quanh, khiến mọi thứ nhuốm màu sẫm tối, có cái gì da diết như đêm luyến ngày, như niềm lưu luyến tha thiết của Kiều về ngày tháng êm đềm xưa kia. Các từ ngữ “thấp thoáng”, “xa xa” gợi sự lẻ loi, đơn độc như chính niềm hy vọng mong manh, leo lét của Kiều.

Một mình bơ vơ ở nơi đó, Kiều chỉ mòn mỏi nhớ về quê hương, nhớ về cha mẹ, chờ mong một con thuyền đến cứu, thế nhưng những chiếc thuyền ấy chỉ thấp thoáng ở xa rồi mất hút về phía chân trời. “Thuyền ai” lênh đênh rồi mất hút về phía chân trời xa như cuộc đời Kiều, chẳng biết đến bao giờ có thể về được quê nhà, báo hiếu cho cha mẹ. Ánh nhìn của Kiều vẫn ở mặt nước nhưng đã gần hơn.

Tâm trạng sợ hãi, lo lắng của Kiều giữa biển trời vô định khiến người đọc phải xót thương, nơi xa kia Kiều nhìn thấy cánh hoa trôi và nghĩ đến thân phận mình:

“Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trời man mác biết là về đâu”

“Ngọn nước mới sa” chứa đựng một sức mạnh của tự nhiên có thể vùi dập, cuốn trôi, hủy diệt những gì nhỏ bé. Giờ đây, không gian không chỉ mênh mông rợn ngợp mà nó còn mạnh mẽ dữ dội, hình ảnh hoa lìa cội, lìa cành nổi trôi trên sóng nước bị dập vùi cũng chính là cuộc đời Kiều trôi nổi giữa dòng đời, Kiều bất lực và mặc thác cho số phận xô đẩy. Đau xót thay khi Kiều giờ đây như một con chim lạc bầy đang bay trong giông tố.

Đọc hai câu thơ tiếp theo, tâm trạng sợ hãi, lo lắng của Kiều đã nâng lên thành tâm trạng tuyệt vọng, bế tắc khi Kiều còn nhìn thấy ngon cỏ rầu rầu:

Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”

Cảnh khá ấn tượng không phải là ” cỏ nên xanh tận chân trời” của ngày xuân đầy sức sống mà là “nội cỏ rầu rầu” héo úa, tàn lụi, chết chóc càng làm cho Thúy Kiều thêm chán ngán, vô vọng. Màu ” xanh xanh” làm cho cả cổ cây không còn tươi tắn, cảnh vật thêm ảm đạm, như màu cỏ trên mộ Đảm Tiên”

Sè sè nấm đất bên đường
Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh”

Hai câu thơ cuối có thể coi là bút pháp tả cảnh ngụ tình đạt đến đỉnh điểm. Sóng gió âm thanh dữ dội duy nhất xuất hiện gắn liền với sự mạnh mẽ tượng trưng cho sức mạnh phong kiến rình rập bủa vây cuộc đời Thúy Kiều.

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”

Chiều đã muộn, cảnh không còn hiện rõ nữa, âm thanh dội lên mạnh hơn. Kiều nhìn thấy ” gió cuốn” từng đợt sóng trào dâng, nghe ” sóng kêu” vang dội bỗng thấy kinh hãi, lo sợ đến hãi hùng, Kiều chơi vơi như rơi vào vực thẳm một cách bất lực, và cũng chính lúc này, Kiều trở nên tuyệt vọng yếu đuối nhất. Vì thế nàng đã mắc lừa Sở Khanh, để rồi dấn thân vào cuộc đời ” thanh lâu hai lượt thanh y hai lần”

Không chỉ vậy, bốn câu lục bát được liên kết bằng điệp ngữ ” buồn trông” gợi nỗi buồn điệp trùng, triền miên, tạo âm hưởng của một bản nhạc buồn với điệp khúc tâm trạng. ” Buồn trông” ở đây là buồn mà nhìn xa trông ngóng một cái gì mơ hồ sẽ thay đổi hiện tại nhưng càng trông càng vô vọng.

Điệp ngữ ” buồn trông” kết hợp với nhiều từ láy ” thấp thoáng” , ” xa xa” ” man mác” “rầu rầu” ” xanh xanh” ” ầm ầm” đứng ở cuối câu tạo nên nhịp điệu trầm và đã diễn tả sâu sắc tâm trạng đau thương, buồn thảm của Kiều. Đồng thời với hình ảnh ẩn dụ đặc sắc, cảnh được miêu tả từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thành từ tĩnh đến động và tâm trạng từ tuyệt vọng cô đơn đến lo lắng, hoang mang.

Tóm lại, ” Kiều ở Lầu Ngưng Bích” không chỉ là bức tranh thiên nhiên mà còn là bức tranh tâm trạng. Đoạn trích thể hiện tài năng bậc thầy của Nguyễn Du trong tả cảnh ngụ tình, trong đó, tám câu thơ cuối đã gieo vào lòng người nỗi buồn thương cùng Kiều và tình yêu thương, thấu hiểu với thân phận người đàn bà của Nguyễn Du.

Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất

Phân Tích Kiều Ở Lầu Ngưng Bích Hay Nhất – Mẫu 2

Đón đọc bài văn mẫu phân tích Kiều ở lầu Ngưng Bích hay nhất được chọn lọc và chia sẻ dưới đây dành cho các em học sinh.

Đề tài về người phụ nữ luôn là nỗi trăn trở của các nhà thơ lớn. Không chỉ khắc họa những nét đẹp trong tâm hồn, tính cách mà các nhà thơ còn cảm nhận rõ được nỗi bất hạnh của người phụ nữ. Và Nguyễn Du đã rất thành công khi chọn người phụ nữ làm đề tài trong tác phẩm của mình với kiệt tác dựa theo cốt truyện của Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm ở Trung Quốc đó là Truyện Kiều.

Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích được trích trong tác phẩm đó là một đoạn trích hay và giàu cảm xúc. Bằng ngòi bút tả cảnh ngụ tình nhà thơ đã diễn tả tâm trạng của Thúy Kiều trong hoàn cảnh bị giam cầm, nỗi nhớ Kim Trọng, nhớ gia đình và đặc biệt là tâm trạng của Kiều trước cảnh vật ở lầu Ngưng Bích.

Mở ra trước mắt người đọc là thiên nhiên trước lầu Ngưng Bích:

“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.”

Câu thơ mở đầu: “Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân” lầu Ngưng Bích cao, đẹp, cái tên nghe cũng thật hay: Ngưng Bích. Nhưng chính nơi đây lại là nơi “khóa xuân” tức là khóa kín tuổi xuân của Thúy Kiều nàng chẳng khác nào bị giam lỏng. Đứng trên lầu cao hướng tầm mắt ra xa nàng nhìn thấy:

Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.”

Nhìn ra xa là những phía dãy núi chạy dài ngước mắt lên trông thấy tấm trăng rất gần. Trông ra xung quanh là bốn bề bát ngát rộng lớn có những cồn cát cứ nối tiếp nhau chạy dài. Gió thổi, cuốn lên bụi hồng. Dưới ngòi bút miêu tả của nhà thơ cảnh thiên nhiên trước lầu Ngưng Bích hiện lên thật đẹp, sống động nó có thể là thực hay mang tính ước lệ. Cảnh được nhìn từ xa đến gần, từ cao xuống thấp nhưng lại hoang vắng rợn ngợp không một tiếng người, không có cả một tiếng chim hót. Cảnh thiên nhiên tác động đến tâm trạng của con người:

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.”

Từ “bẽ bàng” nói đến tâm trạng xấu hổ, tủi thẹn của nàng Kiều khi bị giam cầm ở lầu Ngưng Bích. Trong hoàn cảnh cô đơn nàng Kiều chỉ có thể bầu bạn với mây buổi sớm, đèn buổi khuya nhưng hai người bạn ấy nàng chỉ có thể ngắm mà không thể tâm sự, giãi bày khiến cho Kiều cảm thấy cô đơn. Thành ngữ, cách biểu đạt của nghệ thuật ẩn dụ “mây sớm đèn khuya” chỉ về vòng tuần hoàn của thời gian.

Dường như thời gian và không gian đều đang giam hãm Thúy Kiều nàng không thể nào thoát ra được. “Nửa tình” là nói đến tình cảnh của Kiều bị giam cầm nơi lầu Ngưng Bích xa gia đình, chia tay với mối tình đầu. Còn “nửa cảnh” là nói đến cảnh thiên nhiên trong tâm trạng buồn, đau khổ nàng muốn tìm đến thiên nhiên để giãi bày nhưng nó lại hoang vắng, xa vời. Nửa tình nửa cảnh như hòa vào là một làm cho trái tim nàng đau đớn như bị chia cắt. Bị giam cầm nơi lầu Ngưng Bích Kiều cảm thấy cô đơn, nhớ người mình đã từng thề non, hẹn biển:

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trong mai chờ
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”

Nỗi nhớ Kim Trọng nàng nhớ những đêm ngồi dưới ánh trăng cùng nhau thề nguyện sẽ bên nhau trọn đời. Nàng tưởng ở quê nhà Kim Trọng vẫn mong ngóng mình trở về. Các động từ – vị ngữ: “tưởng”, “trông”, “chờ”, “bơ vơ”, “gột rửa”, “phai” đã liên kết thành một hệ thống ngôn ngữ độc thoại biểu đạt nội tâm nhân vật trữ tình.

Kiều nhớ người yêu khôn nguôi, xót xa cho mối tình đã nặng lời thề son sắt mà bị tan vỡ! Nàng cảm thấy hổ thẹn với Kim Trọng vì không giữ trọn lời thề năm xưa mà giờ đây không thể nào quay lại được nữa. Nhớ Kim Trọng rồi nàng lại nhớ về gia đình:

Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.”

Nhớ cha mẹ lại bắt đầu bằng chữ “xót” nàng xót xa khi tưởng tượng ra cảnh cha mẹ mình mỗi sớm mỗi chiều người mẹ đứng tựa cửa trông chờ con về nhưng đó là sự chờ đợi trong vô vọng. Trong lòng nàng tự hỏi “Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ”. Thành ngữ “Quạt nồng ấp lạnh” cách biểu đạt của nghệ thuật ẩn dụ chỉ hành động của người con mùa hè nóng nực thì quạt cho cha mẹ ngủ, mùa đông trời lạnh thì ủ ấm chỗ cha mẹ nằm và giờ đây ai có thể làm việc đó thay nàng.

Cứ nghĩ đến điều đó mà lòng nàng cảm thấy buồn, lo lắng. Viết về nỗi nhớ cha mẹ của người con xa quê nhà thơ đã đưa vào những điển tích “Sân Lai, gốc tử” nói về việc làm của người con hiếu thảo không những phụ dưỡng sớm hôm mà còn nhảy múa cho cha mẹ vui.

Còn với nàng Kiều đang bị giam cầm nơi lầu Ngưng Bích bơ vơ trên đất khách quê người giờ đây không phụ dưỡng được cha mẹ sớm hôm thời gian cứ trôi kể cả “gốc tử đã vừa người ôm” nàng không thể làm tròn bổn phận của người con. Nghĩ đến điều này mà nàng cảm thấy xót xa ân hận nhưng với nàng Kiều ta thấy nàng đã làm tròn bổn phận khi bán mình cứu cha. Nỗi nhớ người thân rồi cũng qua đi để rồi nàng lại trở về thực tại:

“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.”

Trong tâm trạng buồn hướng tầm mắt về nơi cửa bể là không gian rộng lớn chỉ có trời với biển. Không gian ấy lại đặt vào thời điểm chiều hôm gợi lên trong lòng nàng nỗi nhớ quê hương nhớ về người thân yêu. Trên mặt biển rộng lớn nàng còn nhìn thấy con thuyền và cánh buồm thấp thoáng ở phía xa.

Con thuyền không bến đậu, không nơi chốn quay về gợi nhớ nỗi nhớ, nỗi cô đơn của người đi xa, muốn trở về bên gia đình êm ấm, bên bạn bè thân thương, điều này vó cùng phù hợp với cảnh ngộ của Kiều.

Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Cuộc đời Kiều bây giờ như cánh hoa mỏng manh trước sóng to gió lớn, chỉ biết mặc cho bão bùng, mưa giông vùi dập. Câu thơ bộc lộ nỗi lo lắng, xót xa, buồn tủi về cảnh ngộ lênh đênh chìm nổi trước sóng gió cuộc đời.

Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.

Thảm cỏ, biển cả với màu xanh vô vọng thật buồn và ảm đạm. Liệu có phải cánh cửa tương lai đang khép lại trước mắt Kiều, hố đen tuyệt vọng cua số phận như lấp hết cả ước mơ và khát khao.

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ẩm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Ngoài kia, biển xanh đang cuộn sóng. Những âm thanh gợi sự việc kinh khủng, hãi hùng, như dự báo tai biến, nguy nan như chực đổ xuống thân phận bé nhỏ của Kiều.

Lần lượt từng câu hỏi tu từ vang lên như muốn xoáy sâu vào tâm can người đọc. Ta như hiểu, cảm thông, thương xót cho những lo lắng rối bời cùng nỗi hoảng sợ tuyệt vọng của Kiều trước tương lai vô định.

Có thể nói, “Kiều ở lầu Ngưng Bích là đoạn thơ tả cảnh ngụ tình hay nhất xuyên suốt tác phẩm. Qua bức tranh thiên nhiên, ta xót xa, thương cảm cho số phận người con gái tài hoa bạc mệnh, qua đó cũng bày tỏ niềm đồng cảm, trân trọng của Nguyễn Du đối với số phận người phụ nữ dưới chế độ phong kiến xưa.

Chia sẻ 🌹 Cảm Nhận Của Em Về 8 Câu Thơ Giữa Trong Đoạn Trích Kiều Ở Lầu Ngưng Bích 🌹 Văn Mẫu Hay

Phân Tích Đoạn Trích Kiều Ở Lầu Ngưng Bích Hay Chọn Lọc – Mẫu 3

Tham khảo bài văn phân tích đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích hay chọn lọc dưới đây để trau dồi nâng cao kỹ năng viết.

Truyện Kiều là một trong những tác phẩm thơ ca đặc sắc và tiêu biểu nhất cho văn học chữ Nôm của Việt Nam. Tác phẩm là lời thương cảm sâu sắc của Nguyễn Du dành cho những số phận bất hạnh của cuộc đời. Ông cũng đã thành công ở nhiều phương diện khi xây dựng lên tính cách, tâm trạng của nhân vật qua lời nói, hành động. Đặc biệt trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, có ý kiến đã nhận định rằng “Nguyễn Du đã xây dựng lên một bức tranh tâm tình xúc động qua hình ảnh của nàng Kiều”.

Thúy Kiều sau khi bán mình cứu cha, nàng những tưởng mình bị bán đi làm vợ lẽ cho người ta. Nào ngờ rằng nàng đã bị Mã Giám Sinh lừa gạt, làm nhục rồi bán cho Tú Bà buôn phấn bán hương. Rơi vào nanh vuốt của mụ buôn thịt người, quá uất ức và đau khổ, Kiều quyết định liều mình tự sát, cứu vớt chút danh dự cuối cùng cho bản thân. Thế nhưng, nàng lại được Tú Bà cứu sống chỉ vì không muốn mất đi một món hời lớn. Tú Bà đã dụ dỗ Kiều tới ở lầu Ngưng Bích với lời hứa sẽ tìm chỗ tử tế để gả nàng đi.

Tại đây, nàng sống những ngày tháng buồn bã, đầy đau khổ và tủi nhục, thương nhớ người yêu, thương nhớ mẹ cha ở quê nhà. Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” chính là đoạn trích miêu tả tâm trạng của nàng trong những ngày tháng sống tại đây. Bằng bút pháp tài hoa của mình, Nguyễn Du thực sự đã dựng xây lên một bức tranh tâm tình đầy xúc động, đúng như nhận định trên. Cảnh vật trong đoạn trích cũng bị nhuốm một màu hiu hắt, đìu hiu, gợi lên mối sầu cô đơn trong lòng nàng Kiều tội nghiệp.

Thúy Kiều sinh trưởng trong một gia đình gia giáo, được sống trong không khí đầm ấm, dịu êm của gia đình, lại đang say trong hạnh phúc cùng chàng Kim Trọng, ai ngờ đâu nàng lại lỡ sa chân vào vòng xoáy đen bạc của cuộc đời. Nàng bị Mã Giám Sinh rồi Sở Khanh lừa gạt một cách trắng trợn, bị đánh đập, bị xúc phạm, bị làm nhục, tất cả những gì đau khổ nhất dường như đổ lên người nàng cùng một lúc.

Tâm hồn nàng, thể xác nàng bị dày vò, bị chà đạp, bị giày xéo bởi những thế lực đen tối đến mức nàng chỉ muốn tìm đến cái chết để giải thoát cho mình. Thế nhưng, đúng là cuộc đời muốn vần xoay nàng khiến nàng chết cũng không được, nàng được Tú Bà cứu sống rồi đưa đến lầu Ngưng Bích để giam lỏng. Những ngày tháng ở đây, nơi đất khách quê người, không một ai thân thích, Kiều hoàn toàn cô đơn, bất lực, đau xót.

Nàng chỉ biết bầu bạn cùng những cảnh vật bên mình, gửi gắm vào chúng những tâm tình đầy đau khổ vì quanh nàng chẳng có lấy một ai cho nàng sẻ chia. Nhưng Nguyễn Du, ông đã vô cùng thấu hiểu nàng khi luôn theo sát bước chân nàng, là người phía sau miêu tả và thấu hiểu những nỗi tâm tư trăm đường tơ vò của Thúy Kiều – người phụ nữ tài sắc vẹn toàn mà ông trân trọng, yêu quý nhất.

Đọc đoạn trích, ở ngay những câu đầu tiên, người ta đã nhận ngay ra cái hoàn cảnh và tâm trạng đầy đau khổ của Kiều hiện lên trong từng câu chữ, từng chút cảnh vật xung quanh:

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”

Những người thân yêu với Kiều giờ đây đang ở một nơi phương xa, chỉ còn mình Thúy Kiều sống giữa bầy lang sói Tú Bà, Sở Khanh, … thế nên với nàng, một cảnh núi xa, một tấm trăng gần cũng trở thành người bạn tri kỉ, chia sẻ nỗi niềm cùng nàng. Cảnh vật ở lầu Ngưng Bích hiện lên thật rõ ràng chỉ bằng vài nét miêu tả chấm phá tài hoa của Nguyễn Du. Trước lầu ấy có núi non bát ngát, có trăng, có bụi hồng, cồn cát, … Cảnh đẹp là thế nhưng ngôi lầu như chiếc lồng son đã khóa chặt bước chân của Kiều.

Đây là sự giam lỏng mà Tú Bà dành cho Kiều trước khi dùng âm mưu khác buộc Kiều phải tiếp khách. Lầu Ngưng Bích đã “khóa xuân” tức là khóa chặt tuổi xuân của Kiều, khóa chặt những nỗi thương nhớ, tình yêu, hy vọng, thanh xuân của nàng. Cảnh vật hiện lên thật đẹp, thật mênh mông rộng lớn, thế nhưng, giữa mênh mông đó chỉ có mình Kiều. Chỉ có mình nàng cô đơn giữa chốn đây, đìu hiu, hoang vắng. Nguyễn Du đã mượn cảnh vật để Kiều nói lên tâm trạng của mình:

Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia”

Có cảnh vật đấy, có cảnh sắc đấy, “bát ngát” mênh mông đấy, thế nhưng lại chẳng có ai cho nàng thổ lộ, chia sẻ nỗi niềm trong lòng. Cảnh vật càng tĩnh lặng lại càng làm nổi bật lên nỗi cô đơn đau xót của nàng khi phải ở một mình nơi đất khách. Gần là núi, là trăng, xa xa là cồn cát vàng đang tung lên những bụi phấn hồng, thế nhưng sao mà lạnh lẽo, thê lương tới nhường ấy! Mọi cảnh vật ở đây đều ngổn ngang, đều mù mịt như chính tâm trạng và tương lai của nàng vậy.

Bút pháp tả cảnh ngụ tình đã phát huy tối đa tác dụng của mình khi miêu tả cảnh vật nhưng lại giấu trong đó bao nhiêu là nỗi niềm của người con gái xa quê tội nghiệp. Tả cảnh xung quanh nhưng cũng là tả những phút giây tâm trạng cô đơn, ngổn ngang suy nghĩ của Kiều. Cô đơn, đau xót là vậy, nghĩ tới thân phận của mình, cõi lòng của Kiều lại càng thêm xót xa hơn:

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”

“Bẽ bàng” – sự tủi nhục, đau khổ, hổ thẹn của Kiều khi nàng hết bị Mã Giám Sinh làm nhục rồi lại phải chịu cảnh bước chân vào một nơi chốn xa lạ, xấu xa, bẩn thỉu. Nàng cảm thấy thật xấu hổ, thật đau đớn tủi nhục biết bao khi chính mình phải chịu kiếp làm thân kỹ nữ mà muôn người cười chê. Bị giam lỏng ở đây, hết tối lại sáng, rồi lại lặp lại vòng xoay ấy, Thúy Kiều chỉ có thể ở lại đây, thui thủi, lẻ loi một mình. Không gian vắng lặng xung quanh bủa vây lấy nàng, vây hãm nàng.

Chính trong những lúc cô đơn buồn bã nhất, nàng lại lặng mình hồi tưởng, âm thầm gạt những giọt lệ khi nghĩ về quá khứ êm đềm ngày xưa. Nàng nhớ về người mình yêu, về những phút giây đầu tiên khi say trong men nồng của hạnh phúc lứa đôi lần đầu nàng bắt gặp. Nàng cũng nhớ về đêm trăng mình cùng tình lang hẹn hò, thề nguyền đôi lứa mãi mãi bên nhau. Nỗi nhớ người yêu bùng lên trong lòng Kiều khiến nàng càng thêm xót xa vô tận:

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”

Hạnh phúc mà nàng có được trong đêm nàng băng tường vượt rào đến với chàng Kim thật khiến nàng không khỏi bồi hồi khi nhớ lại. Những phút giây hạnh phúc nâng chén rượu dưới ánh trăng để hẹn thề, giờ nhớ lại thật là đau xót biết bao. “Tưởng” được Nguyễn Du đặt ngay đầu câu thơ khiến chúng ta như cảm thấy rằng hình ảnh của đôi trai tài gái sắc ấy hiện ra ngay trước mắt. Hay phải chăng chính Kiều cũng đang sống lại trong phút giây ấy trong sự hồi tưởng:

Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai miệng một lời song song”

Nàng cũng hình dung thấy rằng ở Lưu Dương cách trở xa xôi kia chàng Kim Trọng vẫn ngày ngày ngóng trông tin tức của nàng, mong ngóng nàng “rày trông mai chờ” trong vô vọng. Nguyễn Du đã đặt ở đây những lời độc thoại từ sâu thẳm bên trong trái tim nàng. Đó là tiếng nói thổn thức của một trái tim yêu hướng về mối tình đầu còn dang dở của mình.

Nàng đang nhớ người yêu tha thiết biết nhường nào! Chén rượu thề nguyền hôm đó vẫn còn đọng nguyên hương vị trong trái tim của nàng và nàng biết dù có đi xa, có cách trở chân trời “chân trời góc bể bơ vơ” thì trong lòng nàng, mối tình ấy vẫn vẹn nguyên, trong sáng. “Tấm son” – tình yêu đầu tiên trong lòng nàng sẽ không bao giờ nhạt phai.

Chân trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”

Nghĩ tới tình lang Kim Trọng đang mòn mỏi mong ngóng tin tức của nàng, trong lòng nàng lại chợt dâng lên dạt dào nỗi nhớ cha mẹ:

“Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm”

Nàng đã rời xa quê hương, gia đình, ra đi biền biệt, giờ đây ai là người chăm sóc, thăm nom người cha già người mẹ của nàng? Nàng ra đi vì chữ hiếu, nhưng nàng chẳng khỏi băn khoăn, thổn thức không nguôi khi nghĩ tới cảnh cha mẹ già yếu vẫn phải dựa cửa trông mong con gái trong vô vọng. Nếu như ở trên, nhớ người yêu, nàng chỉ hồi tưởng, ngẫm lại “tưởng” thì khi nghĩ về mẹ cha, nàng lại thấy “xót” thương vô cùng.

Kiều cảm thấy thật day dứt, trăn trở khi không thể chăm nom, phụng dưỡng cha mẹ già, lại còn khiến mẹ cha thêm lo lắng vì ngóng chờ tin tức của mình. Ở đây, Nguyễn Du đã dùng một loạt những điển cố, điển tích của Trung Quốc như “Sân Lai, gốc tử” để nhắc tới tâm trạng nhớ thương và tấm lòng hiếu thảo của Kiều đối với cha mẹ của mình.

Nàng đang tưởng tượng ra cha mẹ mình ngày thêm già yếu, “có khi gốc tử đã vừa người ôm”, thế mà nàng lại chẳng được kề bên mà chăm sóc, an ủi cha mẹ mình. Ẩn trong lời thơ là sự trách móc bản thân, sự ân hận của Kiều khi không làm tròn được đạo hiếu của người con.

Qua tám câu thơ nhắc về những nỗi nhớ của Kiều, người ta mới thấy Kiều quả thật là một người con hiếu thảo, một tình nhân thủy chung giàu lòng vị tha. Dù nàng đang phải sống trong những tháng ngày đày đọa, đau khổ, thế nhưng nàng chẳng hề màng tới nỗi đau của bản thân mà chỉ sống trong nỗi tâm tưởng về tình yêu đầu cùng với tấm lòng hiếu thảo hướng về mẹ cha nơi quê nhà.

Nàng nhớ chàng Kim trước bởi vì nàng là người có lỗi. Nàng ra đi mà chẳng thực hiện lời thề, chẳng một lời báo tin tới chàng. Còn mẹ cha ở quê, nàng đã thực hiện phần nào chữ hiếu khi bán thân cứu cha, cứu gia đình. Ở đây, thứ tự sắp xếp đảo ngược so với lễ giáo nhưng lại vô cùng hợp lý trong hoàn cảnh của Kiều.

Bức tranh tâm trạng của Kiều hiện lên trong từng câu chữ, từng cảnh vật xung quanh nàng. Dường như những nỗi buồn, nỗi nhớ của nàng đang thấm dần vào cảnh vật, để chúng cũng nhuốm một màu đầy tâm trạng. Đúng như Nguyễn Du cũng đã từng nói:

“Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”

Nguyễn Du đã tả rất chân thực những nỗi niềm của Kiều, để đến những câu thơ tiếp theo, người ta thấy hiện lên ở đó là bức tranh về nỗi niềm tâm trạng của Kiều khi nhìn về cuộc đời số phận của mình:

Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trông man mác biết là về đâu
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân may mặt nước một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng vây quanh ghế ngồi”

Một loạt những từ láy cùng điệp ngữ được Nguyễn Du sử dụng liên tiếp ở đây để nhấn mạnh, để khắc sâu hơn suy nghĩ, tâm trạng của Kiều. Bốn từ “buồn trông” được lặp lại liên tiếp ở bốn câu thơ liên tục,”buồn trông” – cái nhìn buồn bã, đầy tâm trạng khắc khoải, mỗi lần nhắc lại lại là sự mở đầu của một cảnh vật khác nhau.

Sự nhắc đi nhắc lại ấy là để diễn tả nỗi buồn trùng điệp của Kiều. Nỗi buồn ấy đang dâng lên trong không gian, thời gian, bao trùm lấy cảnh vật quanh nàng, vẽ lên một bức tranh sống động đầy tâm tình xúc động. Nỗi buồn trùng trùng lớp lớp ấy đang kéo đến, cuộn lên không dứt trong lòng Thúy Kiều.

Mỗi cặp câu lại diễn tả một nỗi buồn khác nhau của Kiều.

Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”

Lời thơ là ánh mắt của Kiều đang hướng ra ngoài xa của không gian cảnh vật. Trong cảnh vật chiều hôm, nhuốm tà dương ấy, một cánh buồm đang chấp chới, lẻ loi ngoài khơi xa. Cánh buồm ấy lúc ẩn lúc hiện trong mênh mông sóng nước, lẻ loi, cô quạnh. Phải chăng, đó cũng là tâm trạng là hoàn cảnh của nàng lúc này, cũng lẻ loi cô độc như vậy! Liệu chăng tới khi nào, nàng mới được trở về quê hương, trở về trong vòng tay của người thân yêu?

Lặp lại điệp từ “buồn trông” nhưng lần này, cảnh vật lại hiện ra khác với câu thơ trước:

Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trông man mác biết là về đâu”

Ánh mắt của Kiều đang dừng trên dòng nước mới đang chảy trôi chầm chậm. Trên mặt nước ấy là hình ảnh của một cánh hoa rơi rụng đang bị nước cuốn đi ra xa. Cánh hoa ấy cứ trôi nhẹ trên mặt nước, chẳng biết nước sẽ đưa cánh hoa ấy trôi đi xa tận những đâu. Phải chăng, Kiều nghĩ, đó cũng là thân phận của mình?

Số phận của nàng cũng giống như cánh hoa kia, cứ dập dềnh theo dòng nước xô đẩy của cuộc đời chẳng biết sẽ dừng chân ở đâu, rơi vào một nơi thế nào? Đúng, nàng chỉ là cánh hoa mỏng manh, yếu đuối ấy, chẳng biết cuộc đời sẽ vùi dập nàng thêm bao nhiêu lần nữa đây? Hình ảnh cánh hoa là hình ảnh ước lệ miêu tả bản thân của Kiều như lời ví von của người xưa “hồng nhan” cũng là lời bày tỏ tâm trạng nỗi niềm lo lắng của nàng về cuộc đời của mình.

Hướng trông ra xa hơn, nàng nhìn thấy chân trời xa tắp, phía trước là một màu xanh của biển cả mênh mang. Thế nhưng, trong hình ảnh xanh mơn man ấy, là những “nội cỏ rầu rầu” – một màu sắc buồn bã, u ám như chặng đường sắp tới của nàng:

Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt nước một màu xanh xanh”

Một “nội cỏ rầu rầu” – từ láy chỉ sự úa tàn, tàn lụi, một nội cỏ chẳng xanh mướt mà lại “rầu rầu” héo úa. Phải chăng, nội cỏ ấy cũng chứa tâm trạng của Kiều đang thật u ám, thật mệt mỏi, cô đơn rằng cuộc đời của mình cũng sẽ như nội cỏ ấy lụi tàn theo năm tháng, hao mòn tại nơi đây? Màu xanh xanh nhờn nhợt của chân trời cũng như báo hiệu cho tương lai mịt mù, đầy bão tố của nàng.

Nghĩ tới bão tố dường như trong lòng nàng dâng lên một dự cảm chẳng lành, những dự cảm về những sóng gió bủa vây cuộc đời nàng:

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”

“Gió cuốn mặt duềnh” – gió cuốn sóng nước nổi lên mù mịt, tiếng sóng ầm ầm bủa vây xung quanh. “Ầm ầm” được dùng ngay đầu câu thơ để người đọc cảm thấy sự hãi hùng, sự to lớn của biển cả trong giông bão. Đọc câu thơ, ta như cảm thấy sự rung chuyển của từng dòng nước đang nổi lên xung quanh. Phép nhân hóa ở đây không chỉ khiến cho câu thơ thêm sinh động mà còn dùng để thể hiện tiếng kêu sợ hãi trong lòng Kiều.

Tiếng sóng gió ấy, tiếng gầm gào của sóng biển ấy dâng lên trong lòng khiến cho Kiều có một dự cảm chẳng lành về đoạn đường đời phía trước của nàng. Chắc hẳn nó cũng giông bão và thật khủng khiếp biết bao. Hình ảnh thiên nhiên nhưng lại mang tâm trạng của con người. Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, Nguyễn Du đã thật xuất sắc khi dựng lên bức tranh tâm trạng đầy sợ hãi trước sóng gió của Kiều về cuộc đời phía trước. Đó như một lời cảnh báo, một dự cảm của Nguyễn Du báo hiệu cho những thử thách ở cuộc đời nàng phía trước mặt.

Khép lại đoạn trích, những gì đọng lại trong lòng người đọc chúng ta là bức tranh cảnh vật nhuốm màu tâm trạng của Kiều. Bức tranh ấy toàn những sắc màu nhợt nhạt, u sầu, buồn bã, bởi “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” cùng những dự cảm của Kiều về quãng đời phía trước. Đoạn trích cũng hội tụ nghệ thuật miêu tả tâm lý con người, độc thoại nội tâm đầy đặc sắc cùng những phép so sánh, nhân hóa, ẩn dụ tài ba mà Nguyễn Du sử dụng để miêu tả tâm trạng của Thúy Kiều. “Kiều ở lầu Ngưng Bích” quả là một bức tranh tâm tình đầy xúc động.

Đọc đoạn trích người đọc thấy hiện lên ở đây một Thúy Kiều với tâm trạng thật cô đơn, buồn tủi, lạc lõng và sợ hãi biết chừng nào. Thế nhưng, nàng vẫn đau đáu trong lòng tình yêu thủy chung với Kim Trọng cùng tấm lòng hiếu kính với mẹ cha. Nguyễn Du đã miêu tả thật sát tâm trạng của Kiều.

Ông đã dùng những cảnh vật xung quanh để vẽ lên bức tranh tâm trạng đặc sắc của Kiều. Ông đã cùng đồng cảm, cùng suy tư, cùng sẻ chia những nỗi buồn của nàng. Đó là một trong những điều biểu thị giá trị nhân văn đáng quý. Ông quả là một người thi sĩ vừa tài ba vừa nhân đạo của nền văn học Việt Nam.

Đón đọc 🌜 Cảm Nhận Của Em Về 8 Câu Thơ Cuối Trong Đoạn Trích Kiều Ở Lầu Ngưng Bích 🌜 Văn Mẫu Đặc Sắc

Phân Tích Kiều Ở Lầu Ngưng Bích Ngắn Gọn – Mẫu 4

Tham khảo bài văn mẫu phân tích Kiều ở lầu Ngưng Bích ngắn gọn dưới đây với cách hành văn súc tích và giàu ý nghĩa biểu đạt.

Nguyễn Du là bậc thầy về tả cảnh. Nhiều câu thơ tả cảnh của ông có thể coi là chuẩn mực cho vẻ đẹp của thơ ca cổ điển. Nhưng Nguyễn Du không chỉ giỏi về tả cảnh mà còn giỏi về tả tình cảm, tả tâm trạng. Trong quan niệm của ông, hai yếu tố tình và cảnh không tách rời nhau mà luôn đi liền nhau, bổ sung cho nhau.

Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh tâm tình đầy xúc động. Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, Nguyễn Du đã miêu tả tâm trạng nhân vật một cách xuất sắc. Đoạn thơ cho thấy nhiều cung bậc tâm trạng của Kiều. Đó là nỗi cô đơn, buồn tủi, là tấm lòng thủy chung, nhân hậu dành cho Kim Trọng và cha mẹ.

Kết cấu của đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích rất hợp lý. Phần đầu tác giả giới thiệu cảnh Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích; phần thứ hai: trong nỗi cô đơn buồn tủi, nàng nhớ về Kim Trọng và cha mẹ; phần thứ ba: tâm trạng đau buồn của Kiều và những dự cảm về những bão tố cuộc đời sẽ giáng xuống đời Kiều.

Thiên nhiên trong sáu câu thơ đầu được miêu tả hoang vắng, bao la đến rợn ngợp. Ngồi trên lầu cao, nhìn phía trước là núi non trùng điệp, ngẩng lên phía trên là vầng trăng như sắp chạm đầu, nhìn xuống phía dưới là những đoạn cát vàng trải dài vô tận, lác đác như bụi hồng nhỏ bé như càng tô đậm thêm cuộc sống cô đơn, lẻ loi của nàng lúc này:

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia

Có thể hình dung rất rõ một không gian mênh mông đang trải rộng ra trước mắt Kiều. Không gian ấy càng khiến Kiều xót xa, đau đớn:

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.

Một chữ bẽ bàng mà lột tả thật sâu sắc tâm trạng của Kiều lúc bấy giờ: vừa chán nản, buồn tủi cho thân phận mình, vừa xấu hổ, sượng sùng trước mây sớm, đèn khuya. Và cảnh vật như cũng chia sẻ, đồng cảm với nàng: nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng. Bức tranh thiên nhiên không khách quan, mà có hồn, đó chính là bức tranh tâm cảnh của Kiều những ngày cô đơn ở lầu Ngưng Bích.

Trong tâm trạng cô đơn, buồn tủi nơi đất khách quê người, Kiều tìm về với những người thân của mình. Nỗi nhớ người yêu, nhớ cha mẹ được Nguyễn Du miêu tả rất xúc động trong những lời độc thoại nội tâm của nhân vật. Nỗi nhớ thương được chia đều: bốn câu đầu dành cho người yêu, bốn câu sau dành cho cha mẹ. Nhưng nỗi nhớ với chàng Kim được nói đến trước vì đây là nồi nhớ nồng nàn và sâu thẳm nhất. Nồi nhớ đó được xoáy sâu và đêm thề nguyền dưới ánh trăng và nỗi đau cũng trào lên từ đó:

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng.
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm thân gột rửa bao giờ cho phai.

Lời thơ như chứa đựng nhịp thổn thức của một trái tim yêu đương đang chảy máu! Nỗi nhớ của Kiều thật tha thiết, mãnh liệt! Kiều tưởng tượng ra cảnh chàng Kim đang ngày đêm chờ mong tin mình một cách đau khổ và tuyệt vọng. Mới ngày nào nàng cùng với chàng Kim nặng lời ước hẹn trăm năm mà bỗng dưng, nay trở thành kẻ phụ bạc, lỗi hẹn với chàng.

Chén rượu thề nguyền vẫn còn chưa ráo, vầng trăng vằng vặc giữa trời chứng giám lời thề nguyền vẫn còn kia, vậy mà bây giờ mỗi người mỗi ngả. Rồi bất chợt Kiều liên tưởng đến thân phận: Bên trời góc bể bơ vơ của mình và tự dằn vặt: Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.

Kiều nuối tiếc mối tình đầu trong trắng của mình, nàng thấm thía tình cảnh cô đơn của mình, và cũng hơn ai hết, nàng hiểu rằng sẽ không bao giờ có thể gột rửa được tấm lòng son sắt, thủy chung của mình với chàng Kim. Và thực sự, bóng chàng Kim cũng sẽ không bao giờ phai nhạt trong tâm trí Kiều trong suốt mười lăm năm lưu lạc.

Nhớ người yêu, Kiều càng xót xa nghĩ đến cha mẹ. Mặc dầu nàng đã liều đem tấc cỏ, quyết đền ba xuân, cứu được cha và em thoát khỏi vòng tù tội, nhưng nghĩ về cha mẹ, bao trùm trong nàng là một nỗi xót xa lo lắng. Kiều đau lòng khi nghĩ đến cảnh cha mẹ già tựa cửa trông con. Nàng lo lắng không biết khi thời tiết thay đổi ai là người chăm sóc cha mẹ.

Nguyễn Du đã rất thành công khi sử dụng thành ngữ, điển cố (tựa cửa hôm mai, quạt nồng ấp lạnh, gốc tử) để thể hiện tình cảm nhớ nhung sâu nặng cũng như những băn khoăn, trăn trở của Kiều khi nghĩ đến cha mẹ, nghĩ đến bổn phận làm con của mình. Trong hoàn cảnh của Kiều, những suy nghĩ, tâm trạng đó càng chứng tỏ Kiều là một người con rất mực hiếu thảo.

Nhớ người yêu, nhớ cha mẹ, nhưng rồi cuối cùng nàng Kiều lại quay về với cảnh ngộ của mình, sống với tâm trạng và thân phận hiện tại của chính mình. Mỗi cảnh vật qua con mắt, cái nhìn của Kiều lại gợi lên trong tâm trí nàng một nét buồn. Và nàng Kiều mỗi lúc lại càng chìm sâu vào nỗi buồn của mình. Nỗi buồn sâu sắc của Kiều được ngòi bút bậc thầy Nguyễn Du mỗi lúc càng tô đậm thêm bằng cách dùng điệp ngữ liên hoàn rất độc đáo trong tám câu thơ tả cảnh ngụ tình:

Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Nguyễn Du quan niệm: Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu… Mỗi cảnh vật hiện ra qua con mắt của Kiều ở lầu Ngưng Bích đều nhuốm nỗi buồn sâu sắc. Mỗi cặp câu gợi ra một nỗi buồn. Buồn trông là buồn mà nhìn ra xa, nhưng cũng là buồn mà trông ngóng một cái gì đó mơ hồ sẽ đến làm đổi thay tình trạng hiện tại.

Với hai câu thơ “Buồn trông cửa bể chiều hôm/Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”, tại sao Thúy Kiều lại có cái nhìn xa xăm thế, tại sao Kiều không nhìn thấy một cảnh vật khác như núi non, hoàng hôn mà lại thấy thuyền. Có thể trả lời rằng bản thân nàng đang có một nỗi nhớ da diết với quê hương, gia đình và cả tình yêu chết yểu của mình, nàng có khao khát tha thiết được thoát khỏi nơi này, nhưng không thể rời khỏi.

Thế nên buộc lòng Kiều phải gửi những ước mơ những nỗi niềm ấy và cánh buồm đang thấp thoáng, nhờ sự truân chuyển của nó mang về với những người mà nàng hằng tâm niệm, cũng như mang theo một nửa hồn nàng. Với cặp câu tiếp “Buồn trông ngọn nước mới sa/Hoa trôi man mác biết là về đâu”, câu này lại càng lộ rõ cái ý tứ của Nguyễn Du.

Thúy Kiều rõ ràng là một bông hoa tuyệt sắc, nhưng tiếc rằng nàng thiếu đi cái phúc phần được sống bình yên mà lại phải trở thành bông hoa nhẹ bẫng, trôi dạt giữa dòng đời, sống cuộc đời tủi hổm bấp bênh chưa biết sẽ dạt về phương nao. Đó chính là ý thức của Kiều về thân phận đớn đau của mình, một kiếp hồng nhan bạc mệnh đầy xót xa, trách gì nước chảy, hoa trôi.

Trong hai câu “Buồn trông nội cỏ rầu rầu/Chân mây mặt đất một màu xanh xanh” người ta dễ dàng đoán định ra một không gian buồn tẻ, chán ngắt, dẫu rằng rộng lớn đấy nhưng lại đơn sắc, dẫn đến cảm giác ngột ngạt, tù túng cho nhân vật trữ tình, từ đó mang đến sự cô đơn, lẻ loi, trơ trọi của người thiếu nữ trước cái sự lạnh lùng của sắc xanh cây cỏ, sắc xanh trời đất, không một thức gì thân thuộc ấm áp.

Trong hai câu thơ cuối cùng “Buồn trông gió cuốn mặt duềnh/Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”, tức là đã đi sâu hẳn vào nội cảm của nàng Thúy, chính bản thân nàng cảm nhận được “gió cuốn”, “tiếng sóng”, tất cả đều biểu trưng cho những sóng gió cuộc đời mà nàng đã chịu và sắp phải gánh chịu trong tương lai.

Từ đó người ta nhận ra được sự hoảng hốt, sợ hãi của Thúy Kiều trước những biến động của thiên nhiên, nàng trở nên ý thức ngày một rõ ràng hơn không chỉ là nỗi đau thân phận mà còn là cả những biến cố, những đau đớn khó mà tưởng tượng được sẽ xảy ra trong tương lai của mình. Từ đó nỗi buồn, tủi nhục của nàng lại càng thêm sâu sắc thấm thía, hình ảnh Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích đầy khốn khổ, bế tắc, cô đơn lại càng ấn tượng trong lòng độc giả, dễ khiến người ta thương cảm và cảm thông vô cùng.

Như vậy chỉ trong một đoạn thơ ngắn mà mà chúng ta đã có thể nhận ra được nhiều những bút pháp nghệ thuật đặc sắc được vận dụng xen kẽ, dày đặc và hợp lỹ bên cạnh thể thơ lục bát truyền thống. Khiến cho tổng thể bài thơ trở nên mềm mại, uyển chuyển, hợp lý, tâm trạng của nhân vật Thúy Kiều trong cảnh bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích được khai thác rất tinh tế, khéo léo, khiến độc giả dễ dàng tiếp nhận và đồng cảm sâu sắc với nỗi buồn tủi, nỗi đớn đau cho một kiếp người bạc mệnh mang tiếng hồng nhan thuở xưa.

Giới thiệu tuyển tập 🌜 Phân Tích 8 Câu Cuối Kiều Ở Lầu Ngưng Bích 🌜 15 Mẫu Hay

Phân Tích Bài Kiều Ở Lầu Ngưng Bích Ngắn Nhất – Mẫu 5

Dưới đây chia sẻ bài văn phân tích bài Kiều ở lầu Ngưng Bích ngắn nhất giúp các em học sinh nhanh chóng ôn tập cho bài viết trên lớp.

Không chỉ là bậc thầy trong tả người, Nguyễn Du còn có biệt tài trong tả cảnh. Khung cảnh ông miêu tả đã đạt đến mực mẫu mực, cổ điển, nói lên tâm trạng, cảm xúc của nhân vật. Tình và cảnh trở thành hai yếu tố bổ sung làm nên chất riêng cho sáng tác Nguyễn Du. Và tình cảnh ấy đã được ông kết hợp hài hòa để phản ánh tâm trạng của Kiều khi ở lầu Ngưng Bích.

Mỗi một bức tranh trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích gắn liền với một tâm trạng của Thúy Kiều. Bức tranh đầu tiên là khung cảnh thiên nhiên hoang vắng, mênh mông, rợn ngợp:

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng

Sau khi bị lừa và nhốt vào lầu Ngưng Bích, Thúy Kiều tự hiểu được hoàn cảnh của bản thân. Là một cô gái trẻ, ấy vậy mà nàng lại bị “khóa xuân” sống trong cung cấm, không được giao tiếp với bên ngoài, nàng bị giam lỏng. Khung cảnh thiên nhiên bao la, hoang vắng: núi xa, trăng sáng, cồn vàng, những bụi cỏ trải dài hết tầm mắt. Kiều vừa bị lừa phỉnh, vừa bị đánh đập la mắng, định tự tử mà không thành, nay bị giam ở lầu Ngưng Bích.

Trong khung cảnh ấy, tâm trạng của con người làm sao cho hết buồn, hết cô đơn, tủi cực, lòng nàng ngổn ngang trăm bề, tìm ra xa, rồi đi về gần để mong có được hơi ấm cuộc sống, nhưng cuối cùng lại chỉ làm bạn với canh khuya. Nàng đau đớn thắt lòng, chẳng thể làm tìm nguồn vui ở hiện tại nàng đành lòng nhớ về quá khứ, nhớ về người thân. Nàng nhớ về Kim Trọng:

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai

Nhưng nhớ về Kim Trọng càng làm nàng đau đớn hơn. Những kỉ niệm trong sáng, đẹp đẽ của mối tình đầu ùa về, làm thắt lại trái tim nhỏ bé của nàng. Nàng tự trách mình đi không một lời báo trước để chàng Kim vẫn ngày đêm mong ngóng. Bao giờ nàng mới có thể quên được đi mối tình trong sáng, đẹp đẽ đó. Sau khi nhớ về Kim Trọng, Thúy Kiều nhớ về cha mẹ già, tuổi cao sức yếu không có người chăm lo:

Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm”.

Thành ngữ “Quạt nồng ấp lạnh” cùng với điển cố “sân Lai”, “gốc tử” đã cực tả nỗi nhớ thương cũng như lòng hiếu thảo của Kiều. Cụm từ “cách mấy nắng mưa” vừa nói được sức mạnh của bao mùa mưa nắng, vừa nói đến sự tàn phá của thiên nhiên đối với cảnh vật và con người.

Nguyễn Du đã rất thành công khi sử dụng ngôn ngữ độc thoại nội tâm. Giọng thơ rưng rưng lệ, nỗi đau của nàng Kiều như thấm vào cảnh vật, thời gian và lòng người. Nàng dường như quên đi cảnh ngộ của bản thân để lo nghĩ cho những người thân yêu. Bức tranh thiên nhiên thứ hai là tám câu thơ cuối, khi nàng trở về với thực tại phũ phàng trước mắt mình:

Buồn trông cửa bể chiều hôm

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi

Khung cảnh về chiều, với cánh buồm bé nhỏ ẩn hiện giữa khung cảnh mênh mông sóng nước. Con thuyền càng trở nên lẻ loi, đơn độc hơn. Nó cũng chính như cuộc đời của Kiều, đơn độc trên bước đường đời đầy truân chuyên, chẳng biết khi nào mới có thể đoàn tụ cùng gia đình.

Rồi đôi mắt nàng hướng về những ngọn nước mới sa, những nhành hoa mỏng manh trôi dạt, rồi tự hỏi không biết chúng sẽ trôi về đâu. Nhìn những cánh hoa tàn lụi, nàng lại càng buồn hơn vì thấy hình ảnh của chúng mình trong đó, lênh đênh, vô định giữa sóng gió cuộc đời. Đây cũng chính là hoàn cảnh tội nghiệp, đáng thương của nàng. Số phận của mình không được làm chủ, bị đưa đẩy, vùi dập. Tâm trạng cô đơn, bơ vơ càng được tô đậm hơn nữa.

Nhìn ra một hướng khác cũng chỉ có nội cỏ bủa vây bốn phía. Màu xanh tàn tạ, héo úa, nhạt nhòa, đâu còn màu xanh non tươi tốt, mỡ màng đến tận chân trời của cảnh ngày xuân nữa. Màu xanh này gợi lên trong Kiều nỗi buồn vô vọng bởi cuộc sống quẩn quanh, bế tắc. hai câu thơ cuối cùng cả tình và cảnh đã đạt đến độ điêu luyện. Nỗi buồn mỗi lúc một tăng, dồn dập xô tới. Tiếng sóng ầm ầm đó cũng chính là biết bao phong ba bão táp đổ ập xuống cuộc đời Kiều. Lúc này không còn là lo âu mà là sự kinh sợ, dần rơi vào vực thẳm bất lực.

Từng chi tiết, hình ảnh khung cảnh thiên nhiên đều mang đậm trạng thái tình cảm của Thuý Kiều. Mỗi cảnh là mối tình, song tất cả đều buồn thương, đúng là: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Đặc biệt, cụm từ buồn trông lặp lại bốn lần trong tám câu thơ như những đợt sóng lòng trùng điệp, càng khiến nỗi buồn dằng dặc, mênh mông.

Kết hợp với cái nhìn từ xa đến gần, thu hẹp dần vào nội cảm con người để đến cuối đoạn thì tâm trạng cô đơn, sầu nhớ, cảm giác đau đớn trào lên. Sóng gió nổi lên như sự báo về những đau khổ ê chề rồi đây sẽ xảy ra đối với Kiều, là dự cảm cho một đoạn đời “thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần.”.

Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”(trích Truyện Kiều) đã thể hiện tâm trạng cô đơn, buồn nhớ và đặc biệt là những biến động dữ dội trong tâm trạng Thuý Kiều khi ở nơi “góc bể chân trời” bơ vơ, buồn tủi. Đoạn trích đã khẳng sự kì tài của Nguyễn Du trong việc miêu tả nội tâm nhân vật bằng bút pháp “tả cảnh ngụ tình” đặc sắc.

SCR.VN tặng bạn 💧 Mở Bài Kiều Ở Lầu Ngưng Bích 💧 20 Đoạn Văn Hay Nhất

Phân Tích Kiều Ở Lầu Ngưng Bích Nâng Cao – Mẫu 6

Tham khảo bài văn phân tích Kiều ở lầu Ngưng Bích nâng cao dưới đây với những nội dung nghị luận văn học chuyên sâu.

Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc, cũng là người đã mang văn học của Việt Nam vươn xa ra thế giới qua tác phẩm Truyện Kiều. Tác phẩm là lời phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội phong kiến với bộ mặt tàn bạo của tầng lớp thống trị, là tiếng kêu đau thương của những số phận bị áp bức trong thời kì ấy. Và thông qua đó, ta có thể thấy được lòng thương cảm, tình yêu thương con người sâu sắc của tác giả. Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một trong những đoạn trích hay nhất được trích từ tác phẩm này.

Đoạn trích nằm ở phần thứ hai “Gia biến và lưu lạc”. Sau khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự vẫn. Tú Bà sợ mất vốn, bèn lựa lời khuyên giải, cho người mua thuốc thang và hứa hẹn khi nàng bình phục, sẽ gả nàng cho một người đàn ông tốt nhưng thực chất là giam lỏng Kiều ở lầu Ngưng Bích, chờ thời cơ thực hiện âm mưu mới. Đoạn trích là những lời tự bộc bạch, là nỗi lòng cô đơn, buồn tủi của Kiều khi nhớ về người yêu, khi nghĩ về số phận đớn đau của đời mình.

Sáu câu thơ đầu gợi tả thiên nhiên nơi lầu Ngưng Bích với không gian và thời gian:

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia
Bẽ bàng mây sớm, đèn khuya
Nửa tình, nửa cảnh như chia tấm lòng”

Khung cảnh thiên nhiên được nhìn dưới con mắt của Thúy Kiều. Lầu Ngưng Bích, nơi giam lỏng nàng chính là nơi khóa tuổi xuân của Kiều lại. Hai chữ “khóa xuân” mà Nguyễn Du dành cho Kiều sao mà đớn đau, buồn bã đến thế! Một mình nơi lầu Ngưng Bích bao la, rộng lớn, Kiều chỉ có đám mây cùng với ngọn đèn bầu bạn. Nghệ thuật đối lập: “non xa” – “trăng gần” gợi một không gian rợn ngợp, không một bóng người, chỉ có mình Kiều với nỗi cô đơn, trống trải.

Những cồn cát vàng gối đầu lên nhau, những bụi hồng ở xa kia dù biết Kiều đang chơi vơi, trơ trọi nhưng cũng không thể nào đến gần, bầu bạn với nàng được. Trước khung cảnh đượm buồn của buổi chiều tà, Kiều cảm thấy lòng mình như chia đôi, diễn tả nỗi chua xót, đau đớn của Kiều trong một vòng tuần hoàn khép kín của “mây sớm đèn khuya”. Ngày nào cũng như vậy, vẫn những cảnh vật đó không hề thay đổi, chỉ có lòng người ngày càng buồn hơn.

Chính trong hoàn cảnh cô đơn nơi đất khách quê người, Kiều càng thấy nhớ người yêu:

“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ”

Nhớ người yêu, Kiều nhớ đến khi nàng cùng Kim Trọng uống chén rượu thề dưới ánh trăng, nguyện ở bên nhau đến trọn đời. Ấy vậy mà giờ đây, tất cả chỉ còn là quá khứ. Nàng không thể ở bên người mình yêu, cũng không thể cùng chàng thực hiện lời nguyện ước. Ở bên ngoài kia, Kim Trọng vẫn luôn chờ đợi nàng, chàng đâu hề hay biết lời hứa năm nào đã tan thành mây khói, mà vẫn ngóng trông tin tức về Thúy Kiều. Càng thương Kim Trọng, Kiều càng đau xót cho thân phận của chính mình, bởi lẽ tấm lòng thủy chung, son sắt của nàng giờ không thể nào gột rửa được:

Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”

Sau khi nhớ người yêu, nàng nhớ tới cha mẹ của mình:

Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt lồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm”

Ở đây, người đọc có thể cảm thấy một điều vô lí, rằng tại sao Kiều lại nhớ đến người yêu trước khi nhớ về cha mẹ của nàng? Ta có thể hiểu được khi Kiều phải bán mình chuộc cha, hy sinh chữ “Tình” để làm tròn chữ “Hiếu” thì hẳn là ở đây, Kim Trọng là người đau đớn hơn cả. Do đó, Kiều nhớ tới Kim Trọng trước tiên, là áy náy, cảm thấy có lỗi đối với chàng. Khi nhớ về cha mẹ, Nguyễn Du cho Kiều được thể hiện sự đau xót của nàng “Xót người tựa cửa hôm mai”.

Kiều đau đớn bởi vì nàng không thể phụng dưỡng cha mẹ, chăm sóc cha mẹ khi về già. Ở nơi quê nhà, không biết đã có ai thay Kiều quạt cho cha mẹ những khi trời nóng, chăm sóc cha mẹ khi ốm đau hay chưa? Một loạt thành ngữ “quạt nồng ấp lạnh”, “cách mấy nắng mưa” cùng điển cổ “Sân Lai”, “gốc tử” cho thấy tài năng tuyệt vời của tác giả.

Sau khi nhớ tới người thân, Kiều nghĩ về thân phận của mình. Tám câu thơ cuối là bức tranh thiên nhiên mang âm hưởng trầm buồn:

“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ dầu dầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.”

Điệp từ “buồn trông” được lặp lại bốn lần ở các câu thơ sáu chữ như trở thành điệp khúc, diễn tả nỗi buồn như đang dâng lên thành từng đợt, tạo thành con sóng lòng của Kiều. Nàng nhìn ra cửa bể, thấy thấp thoáng một bóng người bên cánh buồm của họ. Bóng người cô độc giữa non sông rộng lớn giống như sự đơn côi một mình của Kiều nơi lầu Ngưng Bích này.

Chỉ có điều, nếu Kiều phải ở mãi nơi đây một mình, chưa biết ngày mai, thì người ngư dân đó đang bận rộn trở về đoàn tụ với gia đình sau một ngày làm việc vất vả. Hướng tầm mắt lại gần, Kiều trông thấy những cánh hoa đang trôi dạt, như là lênh đênh, là vô định trước cuộc đời. Những cánh hoa kia y hệt như cuộc đời của Kiều vậy. Cảnh vật cũng như buồn hơn dưới con mắt của Kiều, nàng nhìn đâu đâu cũng thấy bóng dáng những sự vật đơn độc, lẻ loi…

Hai câu thơ cuối là tâm trạng hoang mang, lo lắng, là khi những đợt sóng lòng của nàng trở nên dữ dội hơn:

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”

Âm thanh của tiếng sóng dồn đến như cơn bão táp của nội tâm, là cực điểm cảm xúc trong lòng Kiều. Kiều sẽ phải làm gì với cuộc đời phía trước đây? Tám câu thơ cuối quả thực là tám câu thơ rất hay, mở ra một bức tranh thiên nhiên đối sóng với tâm trạng của Kiều, qua đó thấy được tài năng tả cảnh cũng như miêu tả tâm lí của nhà thơ.

Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” với đoạn mở đầu là bức tranh thiên nhiên, kế đến là lời độc thoại của nhân vật và kết thúc lại bằng một bức tranh thiên nhiên. Điệp khúc vòng cho thấy cái nét độc đáo trong cách làm thơ của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du, đồng thời gieo vào lòng ta niềm thương cảm sâu sắc trước số phận của nhân vật Kiều.

Mời bạn tham khảo 🔥 Kết Bài Kiều Ở Lầu Ngưng Bích 🔥 20 Đoạn Văn Hay Nhất

Phân Tích Kiều Ở Lầu Ngưng Bích Học Sinh Giỏi – Mẫu 7

Đón đọc bài văn mẫu phân tích Kiều ở lầu Ngưng Bích học sinh giỏi dưới đây để trau dồi cho mình những ý văn hay và đặc sắc.

Truyện Kiều là kiệt tác văn học của thiên tài Nguyễn Du và của nền văn học Việt Nam. Tác phẩm không những thể hiện tài năng văn chương kiệt xuất của thi hào Nguyễn Du mà còn thể hiện tấm lòng yêu thương con người thiết tha của ông.

Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” thuộc phần Gia biến và lưu lạc, miêu tả nỗi buồn nhớ người yêu, nhớ cha mẹ, trong cảnh sầu thương, buồn tủi, cô đơn của nhân vật Thúy Kiều khi bị giam lỏng ở lầu ngưng bích. Đây là một trong những đoạn thơ miêu tả tâm lý xuất sắc nhất của Nguyễn Du trong tuyệt tác “Truyện Kiều”.

Sau khi bị Mã Giám Sinh lừa gạt, làm nhục, bị Tú Bà mắng nhiếc, Kiều nhất quyết không chịu tiếp khách làng chơi, không chịu chấp nhận cuộc sống lầu xanh. Đau đớn, tủi nhục, phẫn uất, nàng định tự tử. Tú Bà sợ mất vốn bèn lựa lời khuyên giải, dụ dỗ Kiều. Mụ vờ chăm sóc thuốc thang hứa hẹn khi nàng bình phục sẽ gả chồng cho nàng về nơi tử tế.

Tú Bà đưa Kiều ra sống riêng ở lầu Ngưng Bích, thực chất là giam lỏng nàng để thực hiện âm mưu mới đê tiện hơn, tàn bạo hơn. Lầu Ngưng Bích là một điểm dừng chân của Kiều trên con đường lưu lạc đầy máu và nước mắt, cay đắng và tủi nhục suốt 15 năm trời.

Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân
Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia

Phong cảnh rất hữu tình, thơ mộng. Không gian được mở ra ba chiều, vừa có chiều xa, chiều cao, chiều rộng: “non xa”, “trăng gần”, “cát vàng cồn nọ”, “bụi hồng dặm kia”. Nghệ thuật liệt kê, đối lập tương phản “non xa”/”trăng gần”, đảo ngữ, từ láy “bát ngát” gợi không gian rợn ngợp, vắng lặng không một bóng người. Đối diện với cảnh ấy, Kiều cảm thấy trống trải cô đơn.

Cảnh hoang vắng, rợn ngợp, nhuốm màu tâm trạng. Khung cảnh mênh mông “bát ngát xa trông” nhưng lại thiếu vắng hơi ấm của con người. Chỉ có một mình Kiều cô độc, ngày đêm đối diện với chính mình. Bút pháp chấm phá đặc sắc, khung cảnh làm nền cho Kiều thổ lộ tâm tình. Thiên nhiên rộng lớn mà con người nhỏ bé, đơn côi.

Nàng đau buồn vì cảnh ngộ bị đày vào chốn lầu xanh, đau buồn vì bị giam giữ cô độc trước lầu Ngưng Bích hoang vắng:

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình, nửa cảnh, như chia tấm lòng

Bẽ bàng: Sự xấu hổ tủi thẹn với đèn khuya, mây sớm, với lòng mình và những người thân yêu, nỗi buồn đau không người chia sẻ. Chia tấm lòng: Sự ngổn ngang của tâm trạng không biết đi đâu về đâu.

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai?

Nàng nhớ về đêm trăng thề hẹn: “Tưởng người dưới nguyệt chén đồng”. Nhớ chàng Kim, nàng còn hình dung cảnh Kim Trọng đợi chờ tin nàng ờ quê nhà mà thấp thỏm không yên: “tin sương luống những rày trông mai chờ”.

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai? biểu hiện tâm trạng đau đớn, xót xa bởi tấm lòng nhớ thương Kim Trọng không bao giờ nguôi quên, bởi hoàn cảnh bị dập vùi hoen ố, biết bao giờ gột rửa được. Câu thơ là một câu hỏi tu từ thể hiện sự dằn vặt đau khổ của nàng khi phải chia li với Kim Trọng. Dù có li biệt nhưng tình cảm của nàng đối với Kim Trọng vẫn thủy chung son sắt. “Tấm lòng son” ấy bất biến trước không gian và thời gian. Trong bi kịch tình yêu, Thúy Kiều có nỗi đau về nhân phẩm.

Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa?
Có khi gốc tử đã vừa người ôm

Xót thương cảnh ngộ cha mẹ ngày ngày tựa cửa ngóng trông. Nàng tưởng tượng cảnh nơi quê nhà tất cả đã đổi thay mà sự đổi thay lớn nhất là “gốc tử đã vừa người ôm”, nghĩa là cha mẹ ngày một thêm già yếu, hiện thời không ai người trông nom, mà mình lại ở xa không làm tròn bổn phận của người con. Tâm hồn cao đẹp của nàng luôn luôn lo nghĩ cho người khác trong lúc bản thân mình đang tan nát và đớn đau..

Các từ ngữ chỉ thời gian xa cách: “hôm mai”, “cách mấy nắng mưa”, các thi liệu, điển cố văn học Trung Hoa như “sân lai gốc tử”và thành ngữ “quạt nồng ấp lạnh” đã cực tả nỗi nhớ thương cha mẹ, nỗi đau buồn, tấm lòng hiếu thảo của Kiều, của đứa con gái đầu lòng đã không thể, không được chăm sóc phụng dưỡng cha mẹ, khi song thân đã già yếu.

Nguyễn Du đã sử dụng ngôn ngữ độc thoại kết hợp hài hoà giữa phong cách cổ điển và phong cách dân tộc, tạo nên những vần thơ biểu cảm thể hiện một tâm trạng bi kịch, một cảnh ngộ đầy bi kịch của Thúy Kiều. Giọng thơ rưng rưng lệ, nỗi đau của nàng Kiều như thấm vào cảnh vật, thời gian và lòng người…

Trong cảnh ngộ ở lầu Ngưng Bích, Thúy Kiều là người đáng thương nhất, nhưng nàng đã quên cảnh ngộ bản thân để nghĩ về Kim Trọng, nghĩ về cha mẹ. Kiều là người tình thuỷ chung, người con hiếu thảo, người có tấm lòng vị tha đáng trọng.

Ở đây, Nguyễn Du đã miêu tả khách quan tâm trạng của Thúy Kiều vượt qua những định kiến của tư tưởng phong kiến: đặt chữ tình trước chữ hiếu. Trong cảnh ngộ khi ở lầu Ngưng Bích, Kiều là người đáng thương nhất nhưng nàng vẫn quên mình để nghĩ đến người yêu, nghĩ đến cha mẹ. Đầu tiên Kiều nhớ Kim Trọng. Điều này phù hợp với quy luật tâm lý, vừa thể hiện sự tinh tế của ngòi bút Nguyễn Du khi thể hiện khách quan tâm cảnh của Kiều.

Nguyễn Du là người ngợi ca thiên diễm tình tự do từ khi chớm nở, sau này khi Kiều lâm nạn, ty dang dở, ông cũng là người thông cảm với những đổ vỡ, tan nát của một mối tình mà trái tim Kiều lúc nào cũng như chảy máu, vì đau thương và hối hận. Cho nên khi viết về tâm trạng nhớ thương của Kiều, ông đã đặt tình trước hiếu, đảo ngược trật tự của đạo lí phong kiến để Thúy Kiều trước hết nghĩ đến người yêu.

Mặt khác đối với cha mẹ, Thúy Kiều đã bán mình chuộc cha, ơn sinh thành đã có phần được đền đáp, còn đối với người yêu, Kiều vẫn coi mình là kẻ lỗi hẹn, bạc tình, khi Mã Giám Sinh làm nhục, lại bị ép phải tiếp khách làng chơi nên nỗi đau nhất của Kiều lúc này là “tấm son gột rửa bao giờ cho phai”.. Trong tâm cảnh như thế, khi một mình một bóng, Nguyễn Du đã để nàng trước hết nghĩ tới chàng Kim. Cực kì tinh tế khi thể hiện tính biện chứng của tâm hồn nhân vật, Nguyễn Du thật xứng đáng là một thiên tài.

Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ dầu dầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Chiều hôm là khoảng thời gian gợi buồn, cửa bể mênh mông lúc ngày tàn chiều hôm càng làm tăng nỗi buồn đau cô đơn của kiếp người lưu lạc, bơ vơ. Cánh buồm thấp thoáng lúc ẩn lúc hiện nơi cửa bể chiều hôm như một ảo ảnh đầy ám ảnh, gợi lên những hành trình lưu lạc mờ mịt không biết đâu là bến bờ, khát vọng trong lòng người tha hương nhớ về gia đình, quê hương, người yêu….

Cánh hoa trôi man mác trên ngọn nước mới sa gợi thân phận nhỏ bé, mỏng manh, lênh đênh trôi dạt trên dòng đời vô định không biết đi đâu về đâu. Kiều nhìn cánh hoa trôi trên mặt nước mà cảm thương cho số phận hoa trôi bèo nổi của mình, vô định không phương hướng, băn khoăn không biết cuộc đời mình sẽ ra sao? Phân người con gái như gió thổi đầu non, như hoa lạc giữa dòng, phận nhỏ mà nạn lớn, không biết bao gì mới đực đoàn viên. Càng nghĩ, Kiều càng đớn đau, vô vọng.

Nội cỏ rầu rầu, úa tàn héo hắt một màu xanh nhợt nhạt, trải rộng nơi chân mây mặt đất gợi cuộc sống úa tàn, bi thương, vô vọng kéo dài không biết đến bao giờ. Nhìn màu sắc tê tái thê lương ấy, Kiều đau tê tái khi nghĩ đến tương lai mờ mịt, héo tàn của mình không biết kéo dài đến bao giờ? Sắc cỏ dầu dầu ấy, nàng đã một lần nhìn thấy mới ngày nào trên nấm mồ Đạm Tiên:

Sè sè nấm đất bên đường
Dầu dầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh

Nhìn xa rồi nhìn gần, vừa “buồn trông”vừa lắng tai nghe. Nghe tiếng gió gào, gió cuốn mạnh làm cho sóng nước duềnh lên dữ dội, xô đập vào bờ hết lớp nọ đến lớp kia. Không phải sóng reo mà là “sóng kêu”. Gió và sóng đang bủa vây “xung quanh ghế ngồi”. Một tâm trạng cô đơn lẻ loi đang trải qua những giờ phút hãi hùng, ghê sợ, lo âu. Phải chăng âm thanh dữ dội ấy của gió và sóng là biểu tượng cho những tai hoạ khủng khiếp đang bủa vây, sắp giáng xuống số phận người con gái nhỏ bé, đáng thương?

Hình ảnh “gió cuốn mặt duềnh” và âm thanh ầm ầm của tiếng sóng “kêu quanh ghế ngồi”gợi tâm trạng lo sợ hãi hùng như báo trước,chỉ ngay sau lúc này, giông bão của số phận sẽ nổi lên, xô đẩy, vùi dập cuộc đời Kiều. Tâm trạng cô đơn, dự cảm hãi hùng về tương lai và số phận chìm nổi của Kiều. Đến đây, nàng gần như bấn loạn tinh thần, hoàn toàn tuyệt vọng trước nghịch cảnh trớ trêu.

Điệp ngữ “buồn trông” (buồn mà nhìn ra xa, buồn mà trông ngóng, mong đợi một điều gì đó mơ hồ, xa xôi) tạo một âm hưởng trầm buồn, khiến nỗi buồn bủa vây từ phía bao trùm lên cả không gian. “Buồn trông” đã trở thành điệp khúc của đoạn thơ và cũng là điệp khúc của tâm trạng buồn tê tái, đau thương, cô đơn của nàng Kiều. Các cặp từ láy: xa xa, thấp thoáng, man mác, rầu rầu, xanh xanh, ầm ầm … xô đẩy nhau như những con sóng tâm tư cuộn trào lên trong lòng người. Giọng thơ tha thiết não nùng.

Kiều “buồn trông” mà lo âu sợ hãi về một cuộc đời đầy biến động, đầy cạm bẫy, nhiều máu và nước mắt đang rình rập ở chặng đường đời phía trước. Và quả thực ngay sau lúc này, Kiều đã mắc lừa Sở Khanh để rồi phải lâm vào cảnh “thanh lâu hai lượt thanh y hai lần”. Hình ảnh tăng tiến càng lúc càng dữ dội. Đặc biệt là 8 câu cuối tiếng sóng ở đây không vỗ, không đập mà kêu, không đến từ một phía mà từ nhiều phía, không một kẻ hở nào. “Kêu quanh” gợi lên sự hãi hùng, sự dự báo về cuộc đời đầy sóng gió đang chờ đợi nàng Kiều ở phía trước.

Đây là tâm cảnh chứ không phải là ngoại cảnh, mỗi cảnh có một nét riêng nhưng đều là diễn tả một khía cạnh trong tâm trạng của nàng Kiều, cảnh nhuộm màu tê tái: cánh buồm nhỏ phía trời xa xăm vô định, cánh hoa lìa cành tan tác không biết đi đâu về đâu, những ngọn cỏ phai tàn héo úa và mặt duềnh cuộn sóng hãi hùng.

Bằng nghệ thuật ẩn dụ, hệ thống câu hỏi tu từ, các từ láy “thấp thoáng”, “xa xa”, “man mác”,“rầu rầu”,”xanh xanh”,”ầm ầm”… vừa gợi tả màu sắc, hình ảnh, âm thanh lại vừa diễn tả tâm trạng con người. Điệp từ điệp ngữ liên hoàn nhấn mạnh, khắc sâu trạng thái vô vọng, cô đơn, bế tắc đến vô tận đang chao đảo trong tâm trạng của Kiều.

Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du vô cùng điêu luyện. Tác giả lấy ngoại cảnh để bộc lộ tâm cảnh. Thiên nhiên thấm đẫm tâm trạng, bộc lộ tâm trạng theo quy luật tâm lí “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Mỗi câu thơ, mỗi hình ảnh, ngôn ngữ miêu tả thiên nhiên, miêu tả ngoại cảnh mang ý nghĩa và giá trị như một ẩn dụ, một tượng trưng về tâm trạng đau khổ và số phận đen tối của một kiếp người trong bể trầm luân.

Có thể nói đoạn thơ “Kiều ở lầu Ngưng Bích” như chứa đầy lệ: lệ của người con gái lưu lạc, đau khổ vì cô đơn lẻ loi, buồn thương chua xót vì mối tình đầu tan vỡ, xót xa vì thương nhớ cha mẹ, lo sợ cho thân phận, số phận mình; lệ của nhà thơ, một trái tim nhân đạo bao la đồng cảm, xót thương, chia sẻ cho nỗi đau của người thiếu nữ tài sắc, hiếu thảo mà bạc mệnh: “Tố Như ơi! Lệ chảy quanh thân Kiều”

Kiều ở lầu Ngưng Bích là một trong những đoạn miêu tả nội tâm nhân vật thành công nhất của Truyện Kiều, đặc biệt là bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình. Với đoạn thơ trên, Nguyễn Du đã đạt đến trình độ biện chứng tâm hồn. Nhà thơ thấu hiểu con người đến tận thẳm sâu tiềm thức, làm lộ rõ sự vận động bên trong tâm hồn đớn đau, khổ nhục của Thúy Kiều trong những ngày đầu lưu lạc phải chịu nhiều khổ nhục, đắng cay.

Lời thơ xiết mạnh vào từng giác quan người đọc, khiến người đọc càng thêm cảm thương cho số kiếp bèo dạt mây trôi của thiếu nữ tài sắc vẹn toàn mà bất hạnh, từ đó làm toát lên tấm lòng cảm thương vô hạn của tác giả đối với kiếp người nhỏ bé trong xã hội phong kiến vốn tồn tại nhiều bất công.

Có thể bạn sẽ thích 💧 Phân Tích Truyện Kiều Nguyễn Du 💧 15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất

Phân Tích Bài Thơ Kiều Ở Lầu Ngưng Bích Chi Tiết – Mẫu 8

Bài văn mẫu phân tích bài thơ Kiều ở lầu Ngưng Bích chi tiết dưới đây sẽ giúp các em học sinh nắm vững giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích.

Trong nền văn học trung đại Việt Nam, Nguyễn Du là một đại thi hào với tài hoa kiệt xuất và tấm lòng nhân ái vĩ đại. “Truyện Kiều” là tác phẩm tiêu biểu của ông, có tên gọi khác là “Đoạn trường tân thanh”.

Trong tác phẩm truyện thơ nổi tiếng này, Nguyễn Du đã khắc họa hình tượng nhân vật Vương Thúy Kiều, một cô gái mà “người sao hiếu nghĩa đủ đường” nhưng số phận đầy truân chuyên đau khổ, trong một xã hội phong kiến thối nát bị chi phối bởi thế lực của đồng tiền. Một trong những đoạn thơ đặc sắc miêu tả tâm trạng của người con gái đó trên bước đường lưu lạc là đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”:

“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”

Đoạn thơ trên viết về tình cảnh của nàng Kiều sau khi bị Mã Giám Sinh lừa mua về lầu xanh của mụ Tú Bà. Vì Kiều phản kháng quyết liệt, Tú Bà đành đem Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, một nơi hoang vắng, xa thôn xóm, làng mạc. Cảnh vật nơi này thật buồn tẻ:

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia

Ngay câu thơ mở đầu, nhà thơ Nguyễn Du đã xót xa nói về tình cảnh của Kiều qua hai chữ “khóa xuân”. Người con gái nào cũng có một tuổi xuân phơi phới tươi đẹp, tràn đầy hạnh phúc và hi vọng. Nhưng tuổi xuân của Kiều đã bị khóa lại, mất tự do, những nỗi đau trong số phận bắt đầu ập đến cuộc đời nàng. Phong cảnh lầu Ngưng Bích thật buồn, đó cũng là sự thể hiện xuất sắc của nghệ thuật tả cảnh ngụ tình: non thì xa mà trăng thì gần, lại thêm bốn bề cảnh vật mênh mông, trống trải, chẳng có một dấu tích của con người.

Phóng tầm mắt xa hơn, chỉ thấy vài cồn cát, cùng bụi cuốn lên theo gió bay. Cảnh càng hùng vĩ, bao la thì tâm trạng người con gái càng lẻ loi, đáng thương, vì hình ảnh của nàng trở nên nhỏ bé quá. Cách thức kết hợp từ ngữ, hình ảnh như: non xa với trăng gần, rồi cát vàng, bụi hồng… đã liệt kê ra một cảnh tượng có phần ngổn ngang, trống trải như nỗi lòng của Kiều trong lúc này. Đó chính là một nét tâm trạng của Kiều trên bước đường lưu lạc, khơi gợi ở người đọc niềm trắc ẩn và xót thương trước cảnh ngộ ngang trái mà nàng phải chịu.

Từ cách miêu tả phong cảnh để thể hiện nội tâm nhân vật ở những câu thơ trên, nhà thơ chuyển sang trực tiếp thể hiện nỗi đau của nhân vật trong cảnh tình này:

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.

Từ láy “bẽ bàng” miêu tả nỗi chua xót, sầu khổ của người con gái ngây thơ, giàu lóng tự trọng, nhưng lại bị chà đạp nhân phẩm, đến nỗi định giải thoát bản thân bằng cái chết nhưng cũng không thể. Đó cũng là tình cảnh đơn độc, kêu trời không thấu, kêu đất, đất không hay, chỉ có áng mây buổi sớm, ngọn đèn khuya làm bạn, thui thủi lo âu.

Chỉ bằng một vài từ đơn sơ như thế, nhưng nhà thơ đã làm hiện lên tất cả những đắng cay của nàng Kiều một cách thật tinh tế. Và Nguyễn Du cũng lý giải nỗi buồn ngày một đậm sâu của Kiều, ấy là bởi “nửa tình nửa cảnh” làm cho cõi lòng Kiều thêm đau khổ. Tú Bà khi giam lỏng nàng ở đây có lẽ cũng là để khiến nàng bị nỗi buồn dày vò, để thực hiện âm mưu của mụ, muốn đẩy Kiều vào lầu xanh, sống kiếp ô nhục. Thật đáng thương cho nàng!

Trong những ngày tháng đen tối đầy lo sợ ở nơi chốn lầu Ngưng Bích, Kiều không chỉ xót xa thương thân, mà cõi lòng nàng vẫn ngập tràn niềm thương nhờ những người thương yêu nhất của mình:

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai

Cụm từ “dưới nguyệt chén đồng” gợi nhắc tới kỷ niệm Kiều và Kim Trọng từng uống chén rượu đồng tâm, thề nguyền dưới trăng. Một mối tình đẹp và trong sáng đến vậy, mà vì chữ hiếu, Kiều đành lòng phụ tấm tình của chàng Kim. Đó là nỗi ân hận và áy náy khôn nguôi của nàng, thế nên nhà thơ dành bốn dòng thơ trên để thể hiện nỗi nhớ Kim Trọng của Kiều. Nguyễn Du rất tinh tế khi dùng từ “tưởng”, bởi từ này vừa đề cập đến nỗi nhớ nhung, vừa thể hiện sự cách xa đằng đẵng giữa nàng và chàng Kim.

Bút pháp miêu tả tâm lý của nhà thơ còn sâu sắc ở chỗ ông để cho Kiều thấu hiểu tấm lòng của chàng Kim: hẳn là từ khi Kiều ra đi, chàng trở lại bên vườn Thúy với nỗi đau đớn của mối tình lỡ làng, mong đợi tin nàng, nhưng “tin sương” mãi chẳng đến, chàng hẳn vò võ theo ngày tháng mãi chẳng nguôi buồn.

Chính vì vậy, Kiều cứ mãi dày vò bản thân, rồi tự nhìn vào trái tim mình, nàng thấy được tình cảnh bơ vơ nơi chân trời của chính bản thân, vừa lạc loài, vừa lênh đênh chưa biết về đâu, và mối tình với chàng Kim vẫn còn vẹn nguyên ở đó, mà đại thi hào gọi là “tấm son” thắm thiết, mãi không phai đi được, dù chẳng biết bao giờ mới được gặp lại người xưa.

Nàng Kiều là người con gái chí tình chí nghĩa như thế đấy, vẻ đẹp tâm hồn nàng khiến cho độc giả vừa kính phục, vừa xót thương. Đó cũng là tài năng miêu tả của nhà thơ khi làm nổi bật không phải chỉ tâm trạng mà còn là phẩm chất của Kiều.

Kiều còn là người con hiếu thảo trong nỗi lòng xót xa hướng về cha mẹ nay đã tuổi già sức yếu:

Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm…

Ta chú ý cách dùng từ của Nguyễn Du: nếu như ông dùng chữa “tưởng” để thể hiện nỗi nhớ người yêu của Kiều, thì lại dùng từ “xót” khi nàng nhớ cha mẹ, bởi từ “xót” bao hàm trong đó nỗi thương cảm, lo âu của người con ở xa hướng về các bậc sinh thành. Mà nàng biết là họ đang “tựa cửa hôm mai” để trông ngóng đứa con xa đã bặt tin tức từ hôm lên kiệu hoa ra đi trong nước mắt. Có một điểm tài hoa của Nguyễn Du là cách ông dùng bút pháp ước lệ và điển tích điển cố của văn học cổ.

Vốn dĩ bút pháp ước lệ dễ dẫn tới tính tượng trưng, khách sáo, như đại thi hào đã sử dụng các yếu tố đó hết sức tự nhiên và biểu cảm, miêu tả rất thực những nỗi niềm cảm xúc của nhân vật trữ tình. Đó là hình ảnh “quạt nồng ấp lạnh’, “sân Lai”, “gốc tử”… để gợi tình thương của Kiều với cha mẹ, và nỗi nhớ da diết mái nhà xưa của nàng.

Kiều đã bán mình chuộc cha, nhưng nàng nào nghĩ nhiều tới phận mình. Những cảm nghĩ trước tiên, nàng đều hướng tới người thân ở nơi xa. Đó chính là con người của Kiều, vốn gắn với đức hi sinh âm thầm và cao cả… Và dù phải đi bước đường lưu lạc khổ đau, nàng vẫn không thay đổi, vẫn là nàng Kiều “hiếu nghĩa đủ đường” mà bị tạo hóa ghét ghen nên phải truân chuyên, lận đận.

Trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, có lẽ tám dòng thơ cuối mới là tám dòng đặc tả sâu sắc nhất về tâm trạng của Thúy Kiều khi lưu lạc đến lầu Ngưng Bích:

Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Nét nghệ thuật chủ yếu của đoạn thơ này là bút pháp tả cảnh ngụ tình, tức là mỗi chi tiết tả cảnh đều có hàm nghĩa một nét cảm xúc của nhân vật trữ tình là nàng Kiều. Chúng ta có thể thấy điều đó qua điệp từ “Buồn trông” láy đi láy lại trong bốn cặp câu thơ lục bát. Cách dùng điệp từ như thế vừa tạo nhạc điệu cho câu thơ lục bát, vừa cho thấy cái nhìn cảnh vật của Kiều là cái nhìn thấm đẫm tâm trạng.

Trong “Truyện Kiều”, Nguyễn Du cũng từng viết rằng: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu. Người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ…”. Nên cảnh vật xung quanh Kiều thường được ông lồng vào đó bức tranh tâm lý của nàng.

Tám dòng lục bát vẽ lên bốn bức tranh phong cảnh rất nên thơ, mang một vẻ đẹp riêng của thiên nhiên, vừa hùng tráng, vừa thi vị. Bức tranh đầu tiên là cảnh “cửa bể” mênh mông trong chiều hôm, trên sóng nước là con thuyền với cánh buồm thấp thoáng đi về xa xăm.

Người Trung Quốc cổ thường di chuyển bằng thuyền, nên nỗi nhớ quê của họ cũng thường gửi trên những con thuyền rời bến, cưỡi sóng gió đi về nơi xa. Trong giây phút ngắm cánh buồm hiền từ trôi về phía cuối trời, hẳn tâm trạng Kiều là nỗi nhớ nhung và khao khát trở lại mái nhà xưa. Đó là tâm trạng luôn canh cánh của người con gái lưu lạc đáng thương.

Rồi nhà thơ miêu tả trên ” ngọn nước mới sa” đầy bất trắc là mấy cánh hoa bọt bèo trôi nổi chẳng biết sẽ về đâu. Bức tranh đẹp thì đẹp thật mà sao buồn đến thế, bởi hoa trôi trên sóng từ lâu đã gợi cho người ta hình dung về thân phận của người con gái lênh đênh, trôi giạt giữa dòng đời.

Nhìn hoa trôi trong giây phút đó, nàng Kiều liên tưởng tới sự bất hạnh và nỗi niềm của người hồng nhan bạc phận, chẳng biết sẽ còn bao khổ đau chở đợi ở phía trước. Những linh cảm về cuộc đời lạc loài trôi nổi luôn dày vò nàng, như một thứ định mệnh tất yếu không làm sao thoát khỏi.

Nguyễn Du còn miêu tả ở một phía khác của lầu Ngưng Bích là sự hoang vắng đến rợn ngợp. Đó là cảnh “nội cỏ rầu rầu”, “một màu xanh xanh”. Từ láy “rầu rầu” khiến cho cỏ úa héo như lòng người, chẳng có một chút sức sống và sự tươi mới. Màu ‘xanh xanh” chứ không phải là “xanh tươi” càng nhấn mạnh ấn tượng về sự mù mịt.

Tựa như trên khắp mặt đất này chẳng có một lối đi cho Kiều. Nàng cứ ở đó, trước lầu Ngưng Bích mà lo nghĩ về số phận khổ đau, bế tắc, không tìm được lối đi, chẳng ai cứu giúp. Đến đây, thì chẳng hề nói quá, ta có thể thấy được sự xót thương nghẹn ngào mà nhà thơ dành cho nàng…

Ý thơ tả cảnh ngụ tình bộc lộ ra rõ hơn cả trong hai câu lục bát cuối đoạn. Cảnh thiên nhiên trở nên khác biệt so với ba cặp câu lục bát phía trên nó, bởi đây là một cành tượng dữ dội, với “gió cuốn mặt duềnh” và âm thanh tiếng sóng “ầm ầm” như thể bão tố đang kéo về quanh lầu Ngưng Bích, vây quanh ghế ngồi của nàng Kiều. Mà nàng thì mới nhỏ bé, đơn độc làm sao. Đó chính là điềm dự báo về những sóng gió cuộc đời đang vây quanh nàng Kiều. Tâm trạng của người con gái trên đường lưu lạc ấy tràn ngập lo âu, chua xót…

Xét về nghệ thuật thơ lục bát, thì Truyện Kiều nói chung và đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” nói riêng đã đạt tới đỉnh cao của thể loại Truyện thơ Nôm. Ngòi bút tả cảnh, tả tâm lý và cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh vô cùng tinh tế góp phần miêu tả tâm trạng của nàng Kiều một cách rất tự nhiên và đặc sắc.

Từ đó, đại thi hào Nguyễn Du không chỉ bộc lộ tài hoa văn chương xuất sắc của mình, mà còn bộc lộ một tấm lòng yêu thương con người, ngòi bút nhân đạo vô cùng cao cả. Ông không chỉ xót thương nỗi đau của Kiều, mà còn ngợi ca phẩm chất tốt đẹp của nàng. Và từ đó, ngơi ca con người dù bị vùi dập mà vẫn giữ được nét đẹp trong tâm hồn của mình.

Khám phá thêm 🔥 Sơ Đồ Tư Duy Truyện Kiều Nguyễn Du 🔥 14 Mẫu Vẽ Tóm Tắt

Phân Tích Đoạn Kiều Ở Lầu Ngưng Bích Đầy Đủ – Mẫu 9

Bài văn mẫu phân tích đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích đầy đủ dưới đây sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích dành cho các em học sinh.

Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc, ông đã đóng góp vào nền văn học Việt Nam nhiều tác phẩm văn học đặc sắc, độc đáo bằng cả chữ Nôm và chữ Hán. Nhiều tác phẩm của ông đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng bạn đọc mọi thế hệ và có lẽ để lại ấn tượng sâu sắc nhất chính là tác phẩm viết bằng chữ Nôm – “Truyện Kiều” (Đoạn trường tân thanh).

“Truyện Kiều” hấp dẫn người đọc bởi nội dung hấp dẫn, nghệ thuật độc đáo và đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, trích từ câu 1033 đến 1054 là một trong số những đoạn trích tiêu biểu của tác phẩm.

Trước hết, đoạn trích đã thể hiện rõ nét cảnh ngộ và nỗi niềm tâm sự đau thương của Thúy Kiều ở chốn lầu Ngưng Bích.

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia

Hai chữ “khóa xuân” được tác giả sử dụng thật tài tình, chỉ với hai chữ ấy thôi nhưng đã đủ để khái quát được tình cảnh của Thúy Kiều. “Xuân” chính là tuổi trẻ của con người, của Kiều và để rồi từ đó cho ta thấy “khóa xuân” chính là đang muốn nói đến tình cảnh đang bị giam lỏng, khóa chặt và chôn vùi tuổi trẻ của mình. Đặc biệt, trong những câu thơ tiếp theo đã vẽ nên một không gian, cảnh sắc hoang vắng, lạnh lẽo – dãy núi ở xa, bốn bề không gian mênh mông, rộng lớn, những cồn cát tiếp những bụi hồng trải dài ra xa.

Đặc biệt, sự hoang vắng của cảnh vật, không gian còn được thể hiện qua việc tác giả sử dụng nghệ thuật tương phản, đối lập “non xa” – “trăng gần” cùng việc sử dụng từ láy “bát ngát” làm cho không gian như càng thêm mênh mông, rộng lớn. Và để rồi, trước không gian mênh mông, rộng lớn ấy, trong Thúy Kiều ùa về bao nỗi niềm đau thương cho cảnh ngộ, số phận của mình.

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.

Chỉ với hai câu thơ nhưng tác giả đã lột tả một cách chân thực và rõ nét nỗi niềm tâm trạng của Thúy Kiều. Với việc sử dụng cụm từ “mây sớm đèn khuya” gợi sự tuần hoàn, lặp đi lặp lại cùng từ “bẽ bàng” ở đầu câu đã diễn tả sự buồn tủi, tuyệt vọng, cô đơn, chán chường của Kiều. Không dừng lại ở đó, nỗi niềm của Thúy Kiều, sự chua xót, buồn đau càng được thể hiện rõ nét qua câu thơ “nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”. Dường như chỉ có cảnh vật mới có thể chứng kiến, cảm nhận và thấu hiểu hết những nỗi đau của Kiều.

Không chỉ diễn tả nỗi đau thương về cảnh ngộ, thân phận của mình, đoạn trích còn thể hiện nỗi nhớ Kim Trọng và nỗi nhớ cha mẹ của Thúy Kiều. Nỗi nhớ thương chàng Kim của Thúy Kiều được thể hiện rõ nét qua những câu thơ tiếp theo.

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ

Chữ “tưởng” đặt ở đầu câu thơ dường như đã làm cho nỗi lòng của Thúy Kiều thêm đau đáu, nàng như đang hồi tưởng, tưởng tượng và nhớ lại những ngày tháng hẹn thề, hạnh phúc cùng chàng Kim. Nàng nhớ tới cảnh nàng cùng Kim Trọng uống rượu thề nguyền dưới ánh trăng và nàng còn nghĩ tới hình ảnh Kim Trọng đang ngày đêm ngóng chờ tin tức của mình. Và để rồi, sau nỗi nhớ người yêu da diết ấy, nàng bỗng giật mình xót thương cho cảnh ngộ của mình ở hiện tại.

Bến trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai

Càng nhớ Kim Trọng, Kiều càng thương cho cảnh ngộ “bơ vơ” nơi “bến trời góc bể” và tủi phận cho mình. Động từ “gột rửa” đã cho chúng ta thấy cho thấy nỗi đau đến tột cùng của Thúy Kiều khi danh dự, phẩm giá của nàng đã bị hoen ố. Như vậy, qua những dòng thơ này đã cho chúng ta thấy được tâm trạng buồn nhớ người yêu đến tột cùng và nỗi tủi phận của Kiều.

Cùng với đó, đoạn thơ còn thể hiện rõ nét nỗi nhớ thương cha mẹ của Thúy Kiều.

Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.

Nếu lúc nhớ về Kim Trọng, tác giả dùng từ “tưởng” để diễn tả nỗi niềm của Kiều thì khi diễn tả nỗi lòng của Kiều với cha mẹ tác giả đã thật khéo léo khi dùng động từ “xót”. Kiều xót xa biết bao khi cha mẹ đã già mà vẫn phải ngày đêm tựa cửa ngóng chờ tin con. Đặc biệt, với việc sử dụng thành ngữ “quạt nồng ấp lạnh” và điển tích “Sân Lai” tác giả đã cho thấy tấm lòng hiếu thảo của Kiều với cha mẹ và nỗi lo lắng của nàng.

Với tấm lòng của một người con hiếu thảo, Thúy Kiều nghĩ tới cảnh cha mẹ ở quê nhà giờ đây đã già mà không có ai chăm sóc. Như vậy, có thể thấy, Thúy Kiều mặc dù đã bán mình chuộc cha và em nhưng trong sâu thẳm tấm lòng mình nàng vẫn luôn nhớ thương, lo lắng và quan tâm cha mẹ. Nỗi nhớ thương người yêu và cha mẹ của Thúy Kiều thêm một lần nữa cho chúng ta thấy Kiều là một người tình thủy chung và là một người con hiếu thảo.

Nếu những đoạn thơ trên cho chúng ta thấy nỗi nhớ thương người yêu và cha mẹ của Kiều thì trong những câu thơ còn lại của đoạn trích đã làm bật nổi tâm trạng cô đơn, buồn tủi của Thúy Kiều qua cách nhìn, cách cảm nhận về cảnh vật, thiên nhiên.

Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi

Điệp từ “buồn trông” được tác giả nhắc lại bốn lần như khắc sâu và làm bật nổi thêm nỗi niềm tâm trạng của Thúy Kiều. “Buồn trông” là buồn nhìn ra xa, để trông ngóng một điều gì đó nhưng xa xôi và vô vọng. Để rồi từ đấy, trong Kiều hiện lên bao nỗi buồn, dường như mỗi câu thơ đã gợi lên một nỗi buồn rất riêng.

Đằng sau hai chữ “buồn trông” ấy, tác giả đã sử dụng hàng loạt hình ảnh thiên nhiên gợi lên nỗi niềm thân phận của Thúy Kiều. Đó là hình ảnh “thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa” gợi lên một hành trình lưu lạc nay đây, mai đó không có bến bờ. Là hình ảnh “ngọn nước mới sa”, “hoa trôi man mác” gợi lên sự nhỏ bé, vô định giữa dòng đời nổi trôi, tấp nập. Là hình ảnh “nội cỏ rầu rầu” gợi nên cuộc sống vô vọng, buồn tủi kéo dài từ ngày này qua ngày khác.

Và đặc biệt, với hình ảnh “gió cuốn mặt duềnh” cùng âm thanh “ầm ầm” của tiếng sóng dường như đã là một sự dự báo trước cho tương lai, số phận của Thúy Kiều với biết bao khó khăn, sóng gió ở phía trước. Như vậy, với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, tám câu thơ kết thúc đoạn trích đã diễn tả một cách sâu sắc và chính xác nỗi niềm tâm trạng buồn tủi, cô đơn của Thúy Kiều.

Tóm lại, đoạn trích “Kiều ở Lầu Ngưng Bích” với việc sử dụng hàng loạt điệp từ, từ láy, thành ngữ cùng các điển cố điển tích và bút pháp tả cảnh ngụ tình, tác giả đã diễn tả một cách sâu sắc nỗi niềm tâm trạng của Thúy Kiều – nỗi nhớ thương người yêu, cha mẹ và nỗi buồn thương cùng dự đoán về tương lai lênh đênh, nổi trôi, khó khăn của chính mình.

Gửi tặng bạn 💕 Mở Bài Truyện Kiều Nguyễn Du 💕 20 Đoạn Văn Hay Nhất

Bài Phân Tích Tác Phẩm Kiều Ở Lầu Ngưng Bích Đơn Giản – Mẫu 10

Tham khảo bài phân tích tác phẩm Kiều ở lầu Ngưng Bích đơn giản dưới đây với những ý văn ngắn gọn và luận điểm cơ bản nhất.

Trong Truyện Kiều có nhiều đoạn thơ hay miêu tả nỗi cô đơn, nhớ nhà của Kiều, nhưng không đoạn nào thể hiện được tâm trạng bi đát, bế tắc, đơn côi như đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích. Sau khi biết mình bị bán vào lầu xanh, Kiều đã tự tử, nhưng không chết. Biết Kiều tính cách khẳng khái, cứng rắn, Tú Bà đã cho Kiều ở riêng trong lầu Ngưng Bích để thực hiện một âm mưu khác.

Trong thời gian này, sức khỏe của Kiều mới hồi phục trở lại, nhưng tình cảm lại hết sức cô đơn. Chết thì nàng đã không muốn chết nữa vì sợ bị lụy cho cha mẹ, nhưng sống thì sẽ sống như thế nào, một thân một mình ở nơi hoàn toàn xa lạ, tứ cố vô thân? Đây là đoạn thơ hay nổi tiếng của Truyện Kiều, cực tả nỗi lòng cô đơn, buồn thảm, bi đát đó của nàng Kiều.

Trước hết, Nguyễn Du miêu tả tình cảnh cô đơn của Kiều khi ở lầu Ngưng Bích bằng cách vẽ ra khung cảnh xung quanh theo con mắt của Kiều:

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình, nửa cảnh như chia tấm lòng

Hai chữ “khóa xuân” rất đẹp nhưng nói lên thực chất Kiều bị giam lỏng. Câu “Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung” cũng rất đẹp, cực tả cảnh cô đơn của Kiều. Lầu Ngưng Bích cao quá, trơ trọi quá, Kiều như chỉ còn “ở chung” làm bạn với “vẻ non xa, tấm trăng gần” (gần trăng vì lầu quá cao). Một cảm giác trơ trọi, rợn ngợp, lơ lửng tràn ngập câu thơ. Nhìn ra xung quanh chỉ thấy một không gian bao la, xa vời: non xa, xa trông, cát vàng, cồn nọ, bụi hồng dặm kia, tịnh không một bóng cây, bóng nhà, bóng người.

Về thời gian, sớm làm bạn với mây, khuya làm bạn với đèn, thức ngủ một mình thui thủi triền miên, thật là bẽ bàng – ngao ngán và vô vọng. Nhưng nàng buồn về cảnh một phần, một phần khác buồn hơn là vì tình. Đó là hai nỗi buồn chia sẻ tâm hồn nàng.Thứ hai, nhà thơ cực tả nỗi lòng nhớ nhung, thương xót đối với người thân. Người đầu tiên được nhớ trong giờ phút cô quạnh ấy là Kim Trọng, người tình mà nàng đã nặng lòng thề hẹn:

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ

Trong tâm trí nàng vẫn còn như in hình ảnh hai người cùng uống rượu thề nguyền dưới trăng: “Đinh ninh hai miệng một lời song song”. Kiều thương nhất là việc Kim Trọng vẫn chưa biết Kiều đã thuộc về người khác, vẫn đang ngày đêm trông chờ nàng một cách uổng công.Hết thương Kim Trọng, nàng lại thương mình:

Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai

“Tấm son” đây là tấm lòng thủy chung, son sắt của Thuý Kiều đối với Kim Trọng. Nói bao giờ mới quên được mối tình có nghĩa là chẳng bao giờ quên được. Kế đến là nhớ thương cha mẹ già:

Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt lồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm

“Tựa cửa” là hình ảnh của ngóng trông. Nàng tưởng tượng cha mẹ đang tựa cửa ngóng trông nàng về. Và giờ đây ai là người “quạt nồng ấp lạnh” cho cha mẹ. Nàng cảm thấy thời gian xa nhà đã rất lâu: “Cách mấy nắng mưa”, và tưởng như thấy cha mẹ đã già (“có khi gốc tử đã vừa người ôm”). Hiển nhiên là Kiều cũng nhớ hai em, song chàng Kim và cha mẹ vẫn là mối tình cảm tha thiết nhất, gắn bó nhất.

Cuối cùng, Kiều nhìn đến cảnh trống trải, xa vắng mà nghĩ đến thân phận. Đây là những câu thơ réo rắt bậc nhất về nỗi buồn luôn lạc, bơ vơ. Mỗi câu như gợi lên một nỗi buồn thảm, hãi hùng lắng sâu trong vô thức:

Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông nội cỏ dầu dầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi

Tám câu thơ, mỗi cặp câu gợi ra một nỗi buồn sâu thẳm. “Buồn trông” là buồn nhìn xa, cũng như buồn nhìn trông ngóng một cái gì mơ hồ sẽ đến làm đổi thay tình trạng hiện tại, nhưng trông mà vô vọng. Hình như nàng mong một cánh buồm, nhưng cánh buồm chỉ thấp thoáng xa xa, không rõ, như là một ước vọng mơ hồ, mỗi lúc một xa.

Tám câu thơ tuyệt bút với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình kết hợp với nghệ thuật điệp ngữ liên hoàn đầu mỗi câu lục và nghệ thuật ước lệ tượng trưng cùng với việc sử dụng nhiều từ láy tượng hình, tượng thanh (thấp thoáng, xa xa, man mác, rầu rầu, ầm ầm) đã khắc họa rõ cảm giác u uất, nặng nề, bế tắc, buồn lo về thân phận của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích.

Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh thiên nhiên đồng thời cũng là một bức tranh tâm trạng có bố cục chặt chẽ và khéo léo. Thiên nhiên ở đây liên tục thay đổi theo diễn biến tâm trạng của con người. Mỗi nét tưởng tượng của Nguyễn Du đều phản ánh một mức độ khác nhau trong sự đau đớn của Kiều. Qua đó, cho thấy Nguyễn Du đã thực sự hiểu nỗi lòng nhân vật trong cảnh đời bất hạnh để ca ngợi tấm lòng cao đẹp của nhân vật, để giúp ta hiểu thêm tâm hồn của những người phụ nữ tài sắc mà bạc mệnh.

Giới thiệu cùng bạn 🍀 Kết Bài Truyện Kiều Nguyễn Du 🍀 20 Đoạn Văn Hay Nhất

Phân Tích Nghệ Thuật Bài Kiều Ở Lầu Ngưng Bích – Mẫu 11

Bài văn phân tích nghệ thuật bài Kiều ở lầu Ngưng Bích dưới đây sẽ giúp các em học sinh đi sâu tìm hiểu những đặc sắc trong giá trị nghệ thuật của đoạn trích.

Có thể nói, điều khiến chúng ta nhớ đến các nhân vật văn học là những nét phác thảo về ngoại hình nhưng thứ giúp chúng ta hiểu về các nhân vật lại là diễn biến tâm lí, tâm trạng của họ. “Truyện Kiều” luôn hấp dẫn bạn đọc suốt hơn hai thế kỉ đến nay không chỉ bởi nội dung tác phẩm đặc sắc mà còn bởi nghệ thuật miêu tả tâm trạng nhân vật của Nguyễn Du. Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” đã thể hiện ngòi bút miêu tả tâm trạng Thúy Kiều của tác giả một cách rất tài tình.

Lầu Ngưng Bích là nơi Tú Bà giam lỏng Thúy Kiều để tạo cơ hội thực hiện một âm mưu khác sau khi nàng có ý định tự tử. Một mình giữa không gian bao la, rộng lớn như vậy, Thúy Kiều cảm thấy cô đơn, buồn tủi:

“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia”.

Kiều rơi vào hoàn cảnh đáng thương đến mức tội nghiệp. “Khóa xuân” là khóa kín tuổi thanh xuân của người phụ nữ. Cuộc đời con người đẹp nhất là quãng thời gian tuổi trẻ vậy mà tuổi trẻ của Kiều lại phải trải qua biết bao biến cố trong quãng thời gian mười lăm năm lưu lạc. Phải chịu sự giam lỏng của Tú Bà ở lầu Ngưng Bích cũng đồng nghĩa với việc nàng không được sống cuộc sống tự do như bao người con gái khác. Lầu Ngưng Bích như nhà tù khóa kín sự tự do của một con người vô tội là Thúy Kiều.

Từ đó ta thấy được cảnh ngộ bất hạnh và xót thương cho số phận của một thiếu nữ tài sắc vẹn toàn. Đối mặt với không gian rợn ngợp, nàng thấu hiểu nỗi cô đơn hơn ai hết. Nàng chỉ có “tấm trăng gần” bầu bạn. Cả bốn bề nam – bắc – đông – tây đều bát ngát, xa xăm. Càng hướng tầm nhìn của mình ra xa nàng lại càng cảm thấy vô vọng bởi nơi đây không có chút dấu vết của cuộc sống con người.

Thúy Kiều bị cô lập hoàn toàn, xung quanh nàng là những khoảng không gian xa xăm, trống vắng: “non xa”, “tấm trăng gần”, “cát vàng cồn nọ”, “bụi hồng dặm kia”. Kiếm tìm một bóng dáng con người để sẻ chia tâm sự là điều vô cùng khó khăn.

Thực tại đau khổ khiến nàng cảm thấy không còn hi vọng vào tương lai:

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”.

“Bẽ bàng” là tính từ diễn tả cảm giác hổ thẹn, buồn tủi. Thúy Kiều buồn tủi, xấu hổ vì mắc lừa Mã Giám Sinh để hắn bán vào lầu xanh và nàng hổ thẹn vì bản thân không còn sự trong trắng, không còn xứng đáng với mối duyên tình của chàng Kim Trọng. Cụm từ “mây sớm đèn khuya” diễn tả sự lặp lại tuần hoàn của thời gian.

Một mình ở lầu Ngưng Bích, sáng sớm Kiều làm bạn với mây, tối đến nàng làm bạn với ngọn đèn để vơi đi nỗi cô đơn. Tâm trạng lẻ loi, buồn tủi ấy đã khiến tâm trạng nàng chia thành hai nửa: “nửa tình” – “nửa cảnh”. Cảnh vật hoang vắng càng tô thêm nỗi buồn cho bức tranh tâm trạng của nhân vật. Nguyễn Du thật tinh tế khi nhận ra:

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.

Nỗi cô đơn, trống vắng ngày càng lên tới đỉnh điểm được thể hiện qua ngôn ngữ độc thoại nội tâm khi Thúy Kiều nhớ về cha mẹ và người yêu:

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”.

Kiều nhớ về mối tình đầu bằng nỗi xót xa dâng trào. Chén rượu uống cùng Kim Trọng và lời thề “Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương” cùng chàng vẫn còn khắc ghi trong tâm trí và trái tim nàng. Đã đính ước, thề nguyền bên nhau trăm năm vậy mà giờ đây Kiều đang lưu lạc ở một phương trời xa còn Kim Trọng thì chưa biết hoàn cảnh Kiều gặp phải do chàng về quê chịu tang chú.

Nàng mường tượng ra cảnh người yêu đang trò chuyện, mong nhớ về mình. Nhớ về Kim Trọng bao nhiêu thì nàng lại hổ thẹn bấy nhiêu. Thúy Kiều thủy chung một lòng với chàng Kim, “tấm son” ấy vẫn mãi nguyên vẹn dù có phải trải qua bao chông gai, trắc trở. Nhưng nàng cũng đau đớn và tự dằn vặt chính mình khi nhận ra “tấm son” mình dành cho Kim Trọng đã bị mất đi sự trinh bạch:

Tiếc thay một đoá trà mi
Con ong đã tỏ đường đi lối về
Một cơn mưa gió nặng nề
Thương gì đến ngọc tiếc gì đến hương”.

Tấm lòng thủy chung sắt son bị hoen ố như vậy biết đến khi nào nào mới gột rửa sạch? Nỗi đau của nàng liệu rằng chàng Kim có thấu hiểu được?

Là một người con hiếu thảo, Thúy Kiều không thể không nhớ về cha mẹ:

Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm”.

Nàng xót xa khi cha mẹ ngày ngày mong ngóng tin tức của con gái và nàng cũng xót xa cho cảnh ngộ của chính mình. Nàng lo lắng khi cha mẹ về già không có người bên cạnh chăm sóc, phụng dưỡng. Người con hiếu thảo với cha mẹ là người con quạt mát cho cha mẹ khi mùa hè nóng bức và vào chăn nằm trước cho ấm để cha mẹ nằm đỡ bị lạnh khi mùa đông đến. Kiều là chị cả trong gia đình nhưng hiện tại đang bơ vơ bên trời góc bể, không biết khi nào mới có thể trở về đoàn tụ cùng cha mẹ và các em.

Cụm từ “cách mấy nắng mưa” đã diễn tả được sự xa cách về thời gian và không gian địa lí giữa Thúy Kiều và cha mẹ. Đó là một khoảng cách xa xôi, cách trở. Nàng tự vấn rằng không biết khi nào mình mới có thể chăm sóc tuổi già cho đấng sinh thành để làm tròn bổn phận của một người con hiếu thảo. Nàng đang độc thoại với chính bản thân mình bằng một tâm trạng day dứt, đau đớn. Nguyễn Du đã miêu tả tâm lí nhân vật một cách rất rõ nét khiến người đọc, người nghe có thể dễ dàng thấu hiểu và đồng cảm với tâm trạng của Thúy Kiều.

Bút pháp tả cảnh ngụ tình được tác giả sử dụng một cách triệt để ở tám dòng thơ cuối của đoạn trích không chỉ nhằm tái hiện lại khung cảnh lầu Ngưng Bích mà còn giúp bạn đọc đi sâu vào thế giới nội tâm của nhân vật:

“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”.

Điệp ngữ “buồn trông” được lặp lại ở đầu bốn cặp lục bát cùng các câu hỏi tu từ đã khiến bạn đọc hình dung được đôi mắt u buồn của Thúy Kiều đang hướng về xa xăm với những nỗi lòng chất chứa không biết giãi bày cùng ai. Nỗi buồn chồng chất nỗi buồn tạo thành một khúc ca vang vọng trong lòng bạn đọc. “Chiều hôm” là khoảng thời gian gợi nỗi buồn, nỗi buồn ấy càng dâng lên đến đỉnh điểm khi Thúy Kiều trông ra cửa bể – một không gian rộng lớn.

Phía xa xa ngoài biển khơi thấp thoáng cánh buồm nhỏ, cánh hoa nổi trôi vô định giữa dòng nước không biết đâu là bến bờ khiến nàng liên tưởng đến số phận của mình. Cuộc đời của nàng cũng nổi trôi bất định và chịu sự vùi dập như cánh hoa mỏng manh kia. Dòng nước cuộn xoáy và vũ trụ bao la đối lập với cánh hoa mỏng manh là ẩn dụ cho sự nhỏ bé của Thúy Kiều trước không gian rợn ngợp của lầu Ngưng Bích và trước những dập vùi của số phận.

Nàng “trông nội cỏ” nhưng nội cỏ cũng chỉ có một màu héo úa, tàn tạ. “Rầu rầu” không chỉ riêng màu sắc của ngọn cỏ mà còn là tâm trạng của con người. Đó là nỗi buồn thảm, bất lực trước thực tại của Thúy Kiều. Màu “xanh xanh” của “chân mây mặt đất” ở đây không phải màu của sự sống, hi vọng mà nó là màu của sự vô vọng, chán chường. m thanh của tiếng gió, tiếng sóng khiến Kiều sợ hãi trước những biến cố sẽ xảy đến với cuộc đời mình.

Sóng vỗ “ầm ầm” đến mức dữ dội ngoài biển khơi cũng giống như tiếng sóng vỗ trong lòng Kiều. Nàng không khỏi lo lắng cho những tai ương đang chuẩn bị ập xuống đôi vai bé nhỏ, yếu ớt của mình. Các từ láy “xa xa”, “man mác”, “rầu rầu”, “xanh xanh”, “ầm ầm” đã góp phần làm nổi bật tâm trạng Thúy Kiều khi đối diện với không gian rộng lớn và nghĩ về thân phận của mình.

Nguyễn Du đã sử dụng ngôn từ rất tinh tế kết hợp với các biện pháp tu từ điệp ngữ, ẩn dụ nhằm khám phá nội tâm nhân vật Thúy Kiều một cách chi tiết. Bốn bức tranh về cảnh vật là sự tăng tiến trong tâm trạng của Thúy Kiều từ cô đơn, buồn thảm đến tâm trạng sợ hãi, lo lắng. Nguyễn Du quả là người có “con mắt nhìn xuyên sáu cõi” (Mộng Liên Đường chủ nhân) khi miêu tả tâm trạng nhân vật Thúy Kiều một cách điêu luyện đến như vậy.

Có thể nói “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là đoạn trích thể hiện thành công nghệ thuật miêu tả tâm lí, tâm trạng nhân vật Thúy Kiều của Nguyễn Du. Qua đó, đoạn trích cũng khơi gợi được sự đồng cảm, xót thương cho số phận nàng Kiều từ các thế hệ bạn đọc. Đó cũng là lí do mà “Truyện Kiều” được dịch sang nhiều thứ tiếng và vẫn vẹn nguyên giá trị đến ngày nay.

Đọc nhiều hơn dành cho bạn ☀️ Phân Tích Trao Duyên ☀️ Top 10 Bài Văn Mẫu Hay Nhất

Phân Tích Tâm Trạng Kiều Ở Lầu Ngưng Bích – Mẫu 12

Bài văn mẫu phân tích tâm trạng Kiều ở lầu Ngưng Bích dưới đây sẽ là nội dung tham khảo cần thiết hỗ trợ các em học sinh trong quá trình làm bài.

Nguyễn Du – Đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, người có “con mắt nhìn thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời”. “Truyện Kiều” là tác phẩm thành công nhất của ông; đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” được trích từ “Truyện Kiều” diễn tả tinh tế, sâu sắc tâm trạng của Thúy Kiều trước cảnh vật.

Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” thuộc vào phần hai “Gia biến và lưu lạc”. Trích đoạn là khúc tâm tình đầy xúc động của cô gái trẻ lần đầu bước ra khỏi chốn “êm đềm trướng rủ màn che”. Với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, đoạn thơ như bản đàn nhiều cung bậc tâm trạng của nàng. Đó là nỗi cô đơn, buồn tủi, là tấm lòng thủy chung, hiếu thảo nàng dành cho người yêu và cha mẹ.

Dù đang miêu tả bức tranh tâm cảnh, là cảm xúc chủ đạo nhưng lí trí của nhà thơ vẫn sáng suốt khi xây dựng một kết cấu khá khoa học và chặt chẽ. Phần đầu là quang cảnh ở lầu Ngưng Bích; phần hai, trong nỗi nhớ nhung, cô đơn, sầu tủi, nàng nhớ về Kim Trọng và cha mẹ; và phần cuối là tâm trạng đau khổ khi nghĩ đến tương lai nhiều tai ương, sóng gió sẽ ập đến trong cuộc đời nàng.

Quang cảnh trong những vần thơ đầu đem đến cảm giác hoang vu, vắng lặng đến buồn thảm. Đứng trên lầu cao, nhìn ra phía xa là những dãy núi, nhìn lên cao là vầng trăng cô đơn giữa trời. Bốn bề xung quanh cũng chỉ là cồn cát bay mịt mù. Tất cả như tô đậm thêm nỗi quạnh vắng, cô quạnh đang xâm lấn trong tâm hồn nàng.

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia

Cảnh buồn khiến lòng người thêm lẻ loi, hiu quạnh hay lòng người vốn nặng trĩu ưu tư nên nỗi sầu muộn như lan tỏa, thấm đẫm vào cảnh vật:

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.

Một từ láy “bẽ bàng” nhưng đã diễn tả được thật chân xác nỗi lòng nàng Thúy Kiều. Đó hẳn là tâm trạng vừa buồn tủi, vừa ngượng ngùng, vừa ê chề, vừa cay đắng, xót xa. Và chính tâm trạng ấy bắt gặp cảnh vật ngoài kia đã làm cõi lòng như càng thêm quặn thắt. Thiên nhiên không còn là những sự vật vô tri, vô giác nữa mà như sống động, có hồn bởi nó là tấm gương phản chiếu tâm trạng cô đơn, sầu tủi của nàng Kiều.

Từ trong nỗi cô đơn, phiền muộn, nàng hướng về quê hương, gia đình, những người thân quý. Nỗi nhớ đầu tiên, nàng dành cho Kim Trọng. Có lẽ bởi trước đó nàng bán mình chuộc cha để làm tròn chữ hiếu với cha mẹ, chỉ có chữ duyên với Kim Trọng, nàng phải trao lại cho em, nên hẳn trong lòng còn nhiều băn khoăn, day dứt khi để duyên ai phải lỡ làng.

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng.
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.

Nhịp thơ như nhịp trái tim yêu đang thổn thức, rỉ máu. Nỗi nhớ ấy thật thiết tha, nồng cháy. Nỗi nhớ trào lên khiến hình ảnh đêm thề nguyền, đính ước hiện ra chân thật, sống động ngay trước mắt nàng. Đó là hiệu quả diễn đạt vượt trội của từ “tưởng” mà Nguyễn Du đã khéo léo sử dụng trong những vần thơ đầu tiên diễn tả nỗi nhớ của nàng Kiều. Mới hôm nào, lứa đôi cùng thề nguyền, hẹn ước dưới trăng, vầng trăng còn đó mà giờ đây đã đôi người đôi ngả.

Nàng tưởng tượng chàng Kim vẫn ngày ngóng đêm trông tin nàng trong đau khổ, tuyệt vọng. Nghĩ đến chàng, rồi lại nghĩ đến thân phận của mình, bơ vơ, lưu lạc nơi chân trời góc bể, đất khách quê người, biết bao giờ tấm lòng son sắt, chung thủy của nàng dành cho chàng Kim phai nhạt đi thì lúc ấy, có lẽ nàng mới bớt đau khổ, dằn vặt.

Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ
Sân lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm

Sau nỗi nhớ người yêu đến quặn thắt, nàng càng xót xa khi nghĩ về cha mẹ. Không xót xa sao nổi khi nghĩ đến cảnh cha già, mẹ héo tựa cửa nhìn xa, ngóng trông tin con mòn mỏi. Rồi khi trời oi nóng, biết ai quạt mát cho cha mẹ yên giấc, khi trời giá lạnh, biết ai ấp ủ chăn ấm cho cha mẹ nằm. Các thành ngữ và điển cố “tựa cửa hôm mai”, “quạt nồng ấp lạnh”, “sân lai”, “gốc tử” để thể hiện nỗi xót xa, lo lắng, bồn chồn của người con có hiếu dù đang trong hoàn cảnh éo le, vẫn đau đáu nghĩ về cha mẹ trong niềm nhớ thương khôn nguôi.

Nỗi nhớ đầy vơi nàng dành cho những người thân yêu nhất, rồi nàng lại quay về với cảnh ngộ của chính mình. Mỗi cảnh vật đang hiện hữu trước mắt đều như khơi lên trong lòng nàng một nỗi buồn thê lương. Nỗi buồn ấy càng lúc càng nhấn chìm nàng xuống đáy sâu của vực thẳm đau khổ.

Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Bằng lối điệp ngữ liên hoàn “Buồn trông”, khổ thơ cuối như bức tranh cảnh buồn không hoang vắng, cô liêu như ban đầu mà nó như tiềm ẩn dự cảm đầy sợ hãi về một tương lai mịt mù, sóng gió, tai họa. Hướng tầm mắt ra xa muôn dặm, tới cửa biển lúc hoàng hôn, có cánh buồm của ai đó nhưng chỉ “thấp thoáng” mờ mịt, xa xôi. Cánh buồm ẩn hiện trong bóng chiều giữa mịt mù khói sóng chiều hôm như là hình ảnh con người cô đơn giữa biển đời, lữ thứ, nhiều sóng gió, ba đào.

Cùng với nỗi nồi ấy, nàng hướng nhìn tới ngọn nước mới “sa”, mới đổ xuống, một cánh hoa rụng, mỏng manh, yếu đuối bị sóng gió đưa đẩy dập dồn, không biết sẽ trôi dạt về phương nào. Hình ảnh cánh hoa rụng, trôi dạt theo con con nước dữ hay là hình ảnh người con gái bị quăng vào cuộc đời khi còn quá trẻ, quá yếu đuối.

Rồi nội cỏ cũng nhuốm màu xanh “rầu rầu” ảm đạm, u buồn, héo hắt trải dài ra mênh mông, rợn ngợp đến hòa sắc xanh ấy vào sắc của mây trời. Màu không gian hay màu tâm trạng đang hắt hiu, tàn lụi, hết khát khao, hi vọng sống.

Những cơn gió thủy triều trào lên mặt biển, tiếng sóng vỗ từ xa bỗng vang dội lên ầm ầm như ập đến “kêu quanh ghế ngồi”. Tiếng sóng gió ngoài biển xa mà đổ dội vào chân nàng thì có lẽ nỗi sợ hãi, lo lắng về thân phận, cuộc đời mình không còn là nỗi lo lắng mơ hồ, nỗi buồn quạnh vắng mênh mang nữa mà nó đã biến thành nỗi kinh hoàng khiến tâm hồn nàng hoảng loạn.

Tiếng sóng gầm lên “ầm ầm” như muốn nhấn chìm con thuyền lẻ loi, nuốt chửng cánh hoa mỏng manh, bé nhỏ, muốn cuốn phăng đi nội cỏ, và dập vùi nàng xuống tận đáy sâu đau khổ, tuyệt vọng.

Các từ láy: bát ngát, bẽ bàng, bơ vơ, thấp thoáng, xa xa , man mác, dầu dầu, xanh xanh, ầm ầm … kết hợp với điệp ngữ “buồn trông” đã tạo nên sắc điệu trữ tình thẩm mĩ và tô đậm cảm hứng nhân đạo sâu sắc. Đó là giá trị văn chương đích thực của đoạn thơ “Kiều ở lầu Ngưng Bích”.

Có lẽ người đọc sẽ còn khắc ghi mãi ấn tượng về bức tranh ngoại cảnh đồng điệu cùng bức tranh tâm cảnh trong Kiều ở lầu Ngưng Bích. Tất cả được vẽ nên bởi một tài năng trác việt, một tấm lòng nhân văn cao đẹp của Nguyễn Du. Vì thế, đoạn trích đã góp phần làm nên sức sống bất tử của kiệt tác “Truyện Kiều”.

Mời bạn đón đọc 🌜 Phân Tích Nỗi Thương Mình 🌜 12 Bài Văn Mẫu Hay Nhất

Phân Tích Kiều Ở Lầu Ngưng Bích Facebook – Mẫu 13

Chia sẻ dưới đây bài văn phân tích Kiều ở lầu Ngưng Bích Facebook giúp các em học sinh có thêm cho mình tư liệu tham khảo phong phú hơn.

Kiều ở lầu Ngưng Bích là một trong những đoạn tả cảnh ngụ tình hay nhất trong Truyện Kiều. Bằng ngòi bút tài hoa, Nguyễn Du đã khắc họa được tâm trạng buồn tủi, đau đớn và tủi nhục của Thuý Kiều, đồng thời thể hiện tâm trạng chung thuỷ son sắc và sự nhân hậu, hiếu thảo của Thuý Kiều.

Bị Mã Giám Sinh làm nhục, Tú bà bắt ép làm gái lầu xanh, Kiều vô cùng tủi nhục và đã tự vẫn để dứt nợ hồng nhan, nhưng lại không chết. Sợ mất vốn, Tú bà liền đưa Kiều ra ở lầu Ngưng Bích nhằm che giấu sự qua lại dòm ngó của mọi người và cũng để thực hiện âm mưu mới.

Tại đây Kiều bị giam lỏng, chỉ có một mình tại lầu Ngưng Bích hiu quạnh. Khủng cảnh bốn bề bát ngát, mênh mông càng làm cho Kiều buồn não. Để diễn tả nỗi buồn của Kiều Nguyễn Du không trực tiếp tả Kiều mà ông tả cảnh, từ đấy lại thấy được nỗi buồn của Kiều được nhân lên bội phần.

Ngay từ câu đầu ta đã thấy được hoàn cảnh tội nghiệp của Kiều. Lầu Ngưng Bích đã chôn chặt một cô gái đang tuổi thanh xuân như Kiều. Lẽ ra thời điểm này Kiều phải được hạnh phúc, đi đó đây, tận hưởng tuổi tuổi thanh xuân, lứa tuổi đẹp nhất của một cô gái. Đã bao đêm Kiều trằn trọc, cô đơn với nỗi trống trải, buồn tủi và sợ hãi. Nguyễn Du đã chọn thời gian một đêm trăng để miêu tả tâm trạng Kiều.

Ngồi trên lầu cao nhìn ra xa bốn bề bát ngát, Kiều thấy dãy núi mảnh trăng như ở cùng bức tranh, cảnh rất đẹp nhưng Kiều thì càng buồn tủi. Núi và trăng được ở chung một bức tranh còn Kiều và Kim Trọng lại phải cách xa nghìn trùng. Kiều lại càng buồn não hơn. Lại những cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia, tất cả như mở rộng không gian ra nhiều phía, càng tô đậm sự cô đơn của Kiều. Cảnh ấy tình ấy làm cho lòng Thuý Kiều như tan nát, càng thấm thía cãi bẽ bàng của thân phận.

Trong khung cảnh vắng lặng không một bóng người, không một tâm hồn thân thuộc bầu bạn, cái đau khổ tủi nhục vẫn cận đó thì Kiều nghĩ đến Kim Trọng, và sau đó nghĩ đến mẹ cha. Có người bảo rằng lẽ ra Kiều phải nghĩ về mẹ cha trước thì mới đúng là đứa con hiếu thảo. Thế nhưng có phải Nguyễn Du vô tình quên mất điều này và sự sắp xếp đó là vô tình hay có ý khác?

Nguyễn Du lại có một ý khác. Kiều đã bán thân mình để cứu mẹ cha, đó là một sự hi sinh quả to lớn của Kiều cho cha mẹ, do đó có thể nói Kiều đã phần lớn làm được bổn phận người con khi hi sinh hạnh phúc cả đời mình. Kiều đã vô cùng đau khổ khi cân nhắc bên tình bên hiếu để rồi cuối cùng Kiều quyết định làm tròn chữ hiếu:

Đệ lời thề hải minh sơn
Làm con trước phải đền ơn sinh thành.

Kiều luôn ám ảnh, mặc cảm phụ tình Kim Trọng, cho dù nếu thời gian có trở lại Kiều sẽ vẫn làm như thế. Đó là lí do tại sao Kiều lại nhớ đến Kim Trọng đầu tiên. Từ khi bị Mã Giám Sinh làm nhục và giờ lại bị ép làm gái lầu xanh, nỗi đau đớn lớn nhất là Thuý Kiều không còn xứng đáng với Kim Trọng nữa. Do đó việc để Thuý Kiều nhớ Kim Trọng trước tiên là hợp logic tình cảm. Nhớ Kim Trọng, Kiều nhớ đến lời thề của tình yêu: Tưởng người dưới nguyệt chén đồng, rồi Kiều lại đau đớn nghĩ đến cảnh Kim Trọng đang khổ sở, buồn đau chờ mong bóng dáng mình:

Tin sương luống những rày trông mai chờ.

Trong khi đó mình lại đang bên trời góc bể bơ vơ. Câu thơ tấm son gột rửa bao giờ cho phai còn diễn tả tấm lòng son sắt của Kiều dù bị vùi dập nhưng vẫn mãi không phai mờ cũng như tình yêu của Kiều dành cho Kim Trọng là khôn nguôi và luôn còn mãi.

Bốn câu thơ tiếp theo Nguyễn Du miêu tả tâm trạng Kiều nhớ đến cha mẹ. Lòng Kiều ngập tràn thương xót khi nghĩ đến cảnh cha mẹ sớm chiều đau đáu mong chờ tin con. Rồi Kiều lo lắng không ai phụng dưỡng, lo chăm sóc cha mẹ thay mình. Thành ngữ quạt nồng ấp lạnh, những điển cố sân Lai, gốc tử để diễn tả tấm lòng hiếu thảo và niềm nhớ thương cha mẹ của Kiều.

Từ khi Kiều bị đưa đi xa nhà sân Lai cách mấy nắng mưa, mưa nắng đã làm thay đổi cảnh vật quê nhà ít nhiều, gốc tử đã lớn vừa người ôm chứng tỏ thời gian Kiều đi cũng đã khá lâu. Do đó mà Kiều lại lo cha mẹ mình sẽ thêm già yếu, càng nghĩ Kiều càng xót xa cho cha mẹ.

Có thể nói tám câu thơ độc thoại của Kiều ngắn gọn nhưng có giá trị nghệ thuật lớn lao. Nguyễn Du chú trọng ngôn ngữ độc thoại của nhân vật từ đó bộc lộ được tình cảm của nhân vật. Tám câu thơ cuối cũng tả tâm trạng Kiều nhưng bằng cách khác: tả cảnh ngụ tình. Sau khi thương nhớ, lo lắng cho người thân, người yêu mình, Kiều mới quay lại thực tại và càng đau đớn hơn cho số phận, tương lai mình:

Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Bốn cặp câu thơ lục bát, mỗi cặp gợi lên một nỗi buồn man mác, một cảnh bi ai. Điệp khúc buồn trông cất lên như một bản nhạc nhẹ đầy xúc cảm mãnh liệt của một tâm hồn và trái tim tan vỡ. Buồn trông là buồn mà nhìn ra xa ngóng trông một cái gì đó mơ hồ sẽ đến làm thay đổi thực tại.

Hình như Kiều mong một cánh buồm nơi cửa bể, cánh buồm đưa Kiều trở lại quê hương, xứ sở của mình, thế nhưng cánh buồm lại thấp thoáng, xa xa không thể rõ được và mỗi lúc một xa như ước vọng mơ hồ và dần tuột khỏi tầm tay của Kiều. Kiều lại trông ngọn nước mới từ cửa sông chảy ra biển, một cánh hoa đang lênh đênh trên sóng nước bị xô đẩy không biết sẽ đi theo hướng nào. Phải chăng cuộc đời Kiều sẽ như bông hoa giữa dòng ấy?

Kiều buồn trông về bốn phía, chân mây mặt đất, về nội cỏ rầu rầu. Nội cỏ một màu héo úa, trải dài bất tận từ mặt đất đến chân mây. Thật đúng là nhìn cảnh lại đau thêm lòng. Kiều lại buồn lòng nghĩ đến một cuộc sống tẻ nhạt, vô vị ở chốn này, không biết sẽ còn kéo dài đến khi nào.

Nhìn xa rồi nhìn gần, nàng nghe thấy tiếng gió gào, tiếng sóng ầm ầm nổi lên như muốn vây chụp lấy nàng? Phải chăng những âm thanh dữ dội ấy tượng trưng cho những tai hoạ khủng khiếp sắp giáng xuống đầu nàng.

Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc, Nguyễn Du đã khắc hoạ nội tâm của Kiều một cách tinh tế. Qua đó, người đọc đã cảm nhận được cảnh ngộ éo le mà nàng phải chịu đựng. Tâm tư của Thuý Kiều vẫn không phai mờ trong tâm trí của chúng ta mỗi khi đọc lại Truyện Kiều. Ta cảm thương cho số phận của Kiều. Nàng như “bèo dạt mây trôi” giữa dòng đời tẻ nhạt. Xã hội phong kiến bất công đã chà đạp lên nhân phẩm của người phụ nữ “tài sắc vẹn toàn”. Xã hội đen tối ấy nhất định sẽ bị diệt vong, còn người tốt như Kiều sẽ giải được oan khác của mình.

Chia sẻ cùng bạn 🌹 Phân Tích Đoạn Trích Chí Khí Anh Hùng 🌹 15 Bài Văn Mẫu

Phân Tích Bài Kiều Ở Lầu Ngưng Bích Lớp 9 – Mẫu 14

Với bài văn mẫu phân tích bài Kiều ở lầu Ngưng Bích lớp 9 dưới đây, các em học sinh có thể tham khảo và linh hoạt vận dụng cho bài viết của mình.

Trong phần đầu của Truyện Kiều, Nguyễn Du đã dự cảm về số phận nàng Kiều không chỉ ở nhan sắc hơn người, mà còn trực tiếp ở câu thơ: “Sắc đành đòi một, tài đành họa hai”, và quả thật câu thơ đó đã vận vào đời nàng. Gia đình gặp tai biến, cha và em bị bắt, nàng phải bán mình chuộc cha. Không chỉ vậy, còn bị Mã Giám Sinh lừa bán vào lầu xanh. Cuộc đời nàng bắt đầu bước vào chuỗi ngày tăm tối khi bị giam ở lầu Ngưng Bích. Tất cả những điều đó được thể hiện rõ nét trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”.

Đoạn trích thuộc phần thứ hai “Gia biến và lưu lạc”, bố cục bài chia làm ba phần: phần đầu nói về cảnh ngộ và nỗi niềm của Thúy Kiều; phần hai là nỗi nhớ da diết, khắc khoải Kim Trọng và cha mẹ; phần ba cho thấy nỗi cô đơn, hãi hùng, dự cảm về tương lai đầy tai ương, bất trắc của chính mình.

Tình cảnh của Thúy Kiều hết sức đáng thương, sau khi biết mình bị lừa bán vào lầu xanh, Kiều uất ức định tự vẫn, nhưng Tú Bà đã ngăn lại và vờ hẹn đợi Kiều bình phục sẽ tìm người tốt gả chồng cho nàng, nhưng thực chất nàng bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, để mụ ta chờ thời cơ thực hiện âm mưu mới.

Thúy Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, khóa kín cả tuổi thanh xuân của mình ở nơi đây, thật đáng thương và xót xa cho số phận của nàng. Nơi ở của nàng tách biệt khỏi thế giới xung quanh:

Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.

Cả không gian mênh mông, rợn ngợp hiện ra trước mắt, những hình ảnh “non xa” “trăng gần” gợi ra không gian ở cả chiều cao và chiều xa, không gian lầu Ngưng Bích chơi vơi, chênh vênh, đơn độc, tách khỏi mọi giao tiếp với xã hội xung quanh. Không chỉ vậy, không gian ấy còn không có dấu hiệu của sự sống. Nguyễn Du đã liệt kê hoàng loạt các chi tiết: cát vàng, bụi hồng, cồn nọ, dặm kia như sự phủ định sự sống, gợi nên cái ngổn ngang của cảnh vật. Không gian quạnh hiu, vắng vẻ chỉ có “mây sớm” “đèn khuya” làm bạn với Thúy Kiều.

Trong khung cảnh ấy, có ai lại không cảm thấy cô đơn, lẻ loi, trống trải. Nàng không có lấy một người bầu bạn, không có ai chia sẻ mọi nỗi niềm, chỉ có ánh trăng vàng ngoài kia làm với với nàng. Nhưng nó cũng chỉ là sự vật vô tri, nàng có trải lòng với ánh trăng thì cũng đâu có thể làm nàng vơi bớt nỗi cô đơn, sầu muộn.

Lòng nàng ngổn ngang trăm mối tơ vò, nàng khắc khoải, thiết tha tìm kiếm một dấu hiệu sự sống, khắc khoải tìm kiếm hơi ấm tình người, tìm sự sẻ chia từ thế giới xung quanh. Nhưng càng tìm nàng lại càng rơi vào nỗi tuyệt vọng, cô đơn vẫn hoàn cô đơn, tình cảnh của nàng quả thực vô cùng đáng thương.

Trải lòng với thiên nhiên, tìm kiếm hơi ấm tình người nàng chỉ toàn gặp phải những tuyệt vọng, trong hoàn cảnh như vậy, chàng nhớ về Kim Trọng người nàng yêu thương nhất và nhớ về cha mẹ ở nhà không có người chăm lo.

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.

Chỉ một chữ “tưởng” thôi mà thể hiện biết bao cảm xúc nhớ thương, khát vọng tình yêu đôi lứa. Kỉ niệm thề nguyền hôm nao dường như vẫn còn vẹn nguyên trong trái tim Kiều, nhưng tất cả đã là quá khứ, tưởng đó cũng chỉ là mơ tưởng về quá khứ đã xa mà thôi. Điều ấy khiến nàng càng trở nên đau đớn, xót xa, tự trách bản thân đã phụ bạc chàng Kim. Kim Trọng về tang chú, không hề biết gia đình Kiều xảy ra tai biến, bởi vậy có lẽ vẫn ngày đêm mong ngóng tin người mình yêu thương. Thúy Kiều day dứt, dằn vặt trong đau khổ.

“Tấm son” là hình ảnh thơ đa nghĩa, có thể hiểu “tấm son” là tấm lòng thủy chung son sắt một lòng hướng về Kim Trọng. Nhưng cũng có thể hiểu khi tấm lòng son đã bị vùi dập, làm cho hoen ố thì không có cách nào gột rửa được, nàng cảm thấy không xứng với Kim Trọng. Dù hiểu theo cách nào ta cũng thấy được tình yêu thủy chung và số phận bất hạnh của nàng.

Sau nỗi nhớ chàng Kim, Kiều nhớ về cha mẹ:

Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm”.

Dù ở trong tình cô đơn, tuyệt vọng, bị đẩy đến bước đường cùng nàng Kiều vẫn chẳng may may quan tâm cho số phận mình mà vẫn một lòng hướng về cha mẹ. Nàng lo lắng, xót xa không có ai ở nhà chăm sóc, đỡ đần cha mẹ khi tuổi cao, sức yếu. Nàng thương cha mẹ cảnh ngày ngày ngóng con về trong vô vọng. Điển tích “Sân Lai” càng cho thấy rõ hơn tấm lòng hiếu thảo của nàng với cha mẹ. Nàng quả là người con có tình, có nghĩa, hiếu thảo.

Sự sắp xếp của Nguyễn Du cũng thật tài tình, khéo léo, ông để nàng Kiều nhớ Kim Trọng trước chứ không phải nhớ cha mẹ trước. Liệu đây có phải là sự bất hợp lí, nàng Kiều chẳng lẽ lại trọng tình hơn trọng hiếu. Nhưng thực tế lại không phải như vậy. Để nàng nhớ Kim Trọng trước là hoàn toàn phù hợp, Kiều đã bị Mã Giám Sinh làm nhục và bị bán vào lầu xanh, nên nàng vô cùng đau đớn, tủi nhục, tấm lòng son sắt của nàng đã bị phá bỏ.

Bởi vậy người đầu tiên nàng nhớ là chàng Kim. Đối với cha mẹ: Kiều đã đền ơn sinh thành, đã tự nguyện bán mình chuộc cha, làm tròn chữ hiếu, vẹn đạo làm con. Cho nên ở lầu Ngưng Bích nàng nhớ Kim Trọng trước là hoàn toàn phù hợp với quy luật tình cảm nhưng nàng cũng không quên nhớ về cha mẹ, lo lắng, xót xa khi cha mẹ già yếu mà không có con ở bên đỡ đần.

Tám câu thơ cuối là bức tranh tâm trạng thẫm đẫm nỗi lo âu, sợ hãi của Kiều về tương lai của mình:

Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Điệp từ “buồn trông” mở đầu cho bốn cặp lục bát, mỗi cặp lại mở ra một chiều kích của nỗi buồn. Nỗi buồn và cảnh vật hòa vào làm một, quả thật “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.

Đầu tiên là nỗi buồn về thân phận tha hương, hình ảnh con thuyền phía xa gợi lên số phận bấp bênh của Kiều, đồng thời cho thấy khát vọng đoàn tụ của nàng. Cặp lục bát thứ hai với hình ảnh ẩn dụ “hoa” cho thấy rõ hơn thân phận trôi dạt giữa dòng đời. Câu hỏi tu từ “về đâu” nhấn mạnh hơn nữa sự mất phương hướng, vô định không biết cuộc đời mình sẽ đi đâu về đâu.

Cảnh vật ngày càng tiến gần đến Kiều hơn: “Buồn trông nội cỏ rầu rầu/ Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”, màu xanh không còn căng tràn sức sống, xanh tươi mà đó là màu xanh úa tàn, chết chóc. Từ láy “rầu rầu” nhấn mạnh hơn nữa vào sự úa tàn của cảnh vật, u buồn của lòng người.

Câu thơ cuối cùng là hình ảnh thơ khiến Thúy Kiều xiết bao rợn ngợp, hãi hùng: “Buồn trông gió cuốn mặt duềnh/ Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”. Thiên nhiên hung hãn, dữ dội, tiếng sóng ầm ầm vỗ vào bờ. Thậm chí Kiều còn có cảm giác như những đợt sóng đó bủa vây lấy mình, đổ ập xuống cuốn mình đi. Hình ảnh những con sóng đó cũng chính là dự cảm của nàng về những biến cố nàng sắp phải gánh chịu sau này. Linh cảm đó càng khiến Kiều lo lắng, sợ hãi hơn.

Đoạn trích tiêu biểu cho nghệ thuật tả cảnh ngụ tình tài ba của Nguyễn Du, tình và cảnh hòa quyện vào nhau, bổ sung cho nhau. Ngôn ngữ trần thuật đặc sắc đặc biệt là hệ thống từ láy, điệp từ trong tám câu cuối góp phần thể hiện tâm trạng, số phận nhân vật. “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một tuyệt bút về tả cảnh ngụ tình. Cho thấy số phận bất hạnh, sóng gió của nàng Kiều. Đồng thời cho thấy tấm lòng hiếu thảo, tình nghĩa, thủy chung với cha mẹ và người yêu. Qua đây còn cho thấy sự cảm thương của tác giả về số phận bất hạnh của Thúy Kiều.

Tiếp tục tham khảo 🍀 Phân Tích Nhân Vật Từ Hải 🍀 15 Bài Văn Ngắn Hay Nhất

Phân Tích Kiều Ở Lầu Ngưng Bích 6 Câu Đầu – Mẫu 15

Bài văn mẫu phân tích Kiều ở lầu Ngưng Bích 6 câu đầu dưới đây sẽ mang đến cho các em học sinh những gợi ý và góc nhìn đa chiều khi phân tích đoạn thơ.

Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du là một trong những trích đoạn hay thể hiện rõ tâm trạng cô đơn, buồn tủi và nỗi nhớ thương của Kiều khi lâm vào nghịch cảnh. Trong trích đoạn, sáu câu đầu là bức tranh thiên nhiên mang màu tâm trạng của nhân vật.

“Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia”.

Hai từ “Khóa xuân” diễn tả tình cảnh đáng thương của Thúy Kiều khi bị giam lỏng, chôn vùi tuổi xuân tại lầu Ngưng Bích.Tú Bà hứa hẹn với Kiều đủ điều mật ngọt để rồi giam lỏng nàng chốn không người. Còn gì đau đớn hơn khi đang độ sắc xuân, hương xuân, tuổi của những mộng mơ, căng tràn nhựa sống lại phải chịu cảnh giam mình, thiếu tự do. Ba câu thơ tiếp tác giả khắc họa một bức tranh thiên nhiên bát ngát, mênh mông nhưng hiu quạnh, không một bóng người.

Các sự vật “non’, “tấm trăng”, “cát vàng”, “bụi hồng”,… kết hợp cùng các tính từ “xa”, “gần”, để diễn tả không gian rộng lớn mà hiu hắt của cảnh vật. Tất cả đều gợi lên nét hoang vắng, buồn bã của thiên nhiên. Biện pháp liệt kê kết hợp với phép đối lập tương phản được sử dụng tài tình đã thành công tái hiện khung cảnh thiên nhiên mênh mông, rợn ngợp nhưng buồn vắng, không một bóng người trước lầu Ngưng Bích.

Thiên nhiên càng rộng lớn, con người càng cô đơn. Kiều như chơ vơ, trơ trọi giữa không gian mênh mông, một màu hoang vắng đượm trên cảnh, một màu buồn thương nhuốm trên thân người. Từ trên lầu cao, trông ra xa chẳng thấy nổi một tin lành hay bóng người tâm giao, chỉ thấy những dãy núi mờ xa, mấy bụi hồng hắt hiu, đôi ba cồn cát vàng trên sông…

Dường như, tất thảy mọi điều đều ngoài tầm với, xa vời với thực tại nghiệt ngã nàng đang chịu. Tìm đến mảnh trăng gần bầu bạn, nghĩ chăng Kiều có thể được vơi đi nỗi lòng. Nhưng rồi trăng nào có thấu! Là trăng không hiểu hay lòng người đa mang?

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”.

Không gian buồn thương, thời gian cũng nào dừng lại, sớm khuya, ngày đêm nàng vẫn một mình lẻ bóng. Suốt ngày “thui thủi quê người một thân”nào có ai để bầu bạn, tỏ bày. Nàng chỉ đành làm bạn với đèn khuya, mây sớm trong “bẽ bàng”. Tính từ láy “bẽ bàng” được đặt đầu câu đặc tả nỗi chán ngán, tủi hổ, xót xa cho thân phận mình của Kiều.

Thành ngữ “Mây sớm đèn khuya” : Thời gian tuần hoàn, lặp đi lặp lại một cách vô nghĩa.. Cả thời gian và không gian dường như đang kìm hãm con người, khiến tâm trạng kẻ trong chốn Ngưng Bích nào được chút niềm vui dẫu là ít ỏi. Nàng đang lâm vào bi kịch cô đơn tuyệt đối, nỗi nhớ ngày một thêm dài và nỗi buồn ngày một thêm lớn.

Sáu câu thơ lục bát ngắn gọn đầu đoạn trích đã gợi tả được bức tranh tâm cảnh của Kiều trong những ngày tháng ở lầu Ngưng Bích. Kiều thật đáng thương biết bao! Một người con hiếu thảo, có tấm lòng vị tha ấy đáng ra phải được sống trong hạnh phúc, ấm êm nhưng nàng thật đáng thương biết bao. Phải chăng đúng như câu nói của tác giả “tài hoa bạc mệnh” đã gắn với thân phận Kiều?

SCR.VN chia sẻ 🌳 Phân Tích Thề Nguyền 🌳 10 Bài Văn Mẫu Ngắn Hay Nhất

Phân Tích Kiều Ở Lầu Ngưng Bích 8 Câu Giữa – Mẫu 16

Tham khảo bài văn mẫu phân tích Kiều ở lầu Ngưng Bích 8 câu giữa dưới đây sẽ giúp các em học sinh hoàn thành tốt và đạt kết quả cao cho bài viết trên lớp.

Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa Thế giới, tên tuổi của ông gắn liền với tác phẩm “Truyện Kiều”– kiệt tác số một của văn học trung đại Việt Nam, ngoài giá trị nội dung sâu sắc “Thúy Kiều”còn rất thành công về nghệ thuật.

Với nghệ thuật tả người qua bút pháp ước lệ tương đương, tả cảnh thiên nhiên qua bút pháp tả và hợi thì nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật cũng rất xuất sắc. Tiêu biểu là đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” và điển hình là tám câu thơ trên đã khắc họa một cách xúc động về nỗi nhớ người yêu, nhớ bố mẹ của Thúy Kiều, qua ngôn ngữ độc thoại nội tâm của chính nhân vật.

Sau khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh Kiều uất ức định tự vẫn. Tú Bà vì sợ mất vốn lẫn lời nên đã hứa đợi Kiều bình phục sẽ gả nàng vào nơi tử tế rồi mụ đưa Kiều ra lầu Ngưng Bích, thực chất là giam lỏng nàng. Thân gái một mình nơi đất khách quê người Kiều sống ở lầu Ngưng Bích với tâm trạng cô đơn buồn tủi.

Trước mắt nàng chỉ là một không gian mênh mông với non xa trăng gần, với những cồn cát bụi bay mù mịt, còn thời gian thì tuần hoàn khép kín không gian và thời gian ấy như giam hãm con người, khiến nàng cảm thấy cô đơn buồn tủi đau đớn, tan nát cõi lòng

Đầu tiên, Kiều nhớ đến Kim Trọng:

“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ”

Chữ tưởng ở đây có nghĩa là hồi tưởng, nhớ lại. Nhớ về Kim Trọng là nhớ về người yêu nên bao giờ Kiều cũng nhớ về lời thề đôi lứa. “chén đồng”là chén rượu thề nguyền, đồng lòng, đồng dạ mà Kiều và Kim Trọng đã uống dưới ánh trăng vằng vặc:

“Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh linh hai miệng một lời song song”

Vầng trăng kia vẫn còn, chén rượu thề nguyền chưa ráo mà nay tình duyên đã chia cắt đột ngột. Câu thơ như có nhịp thổn thức của trái tim yêu thương đang rỉ máu.

Nhớ về Kim Trọng đau đớn hình dung là cảnh ở Liêu Dương xa xôi cách trở, Kim Trọng không hề hay biết Kiều đã bán mình chuộc cha mà vẫn hướng về Kiều chờ tin mà uổng công vô ích. Càng nhớ chàng bao nhiêu thì Kiều càng thương cho số phận mình bấy nhiêu:

Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”

Thương thân mình bơ vơ trên trời, góc bể, càng nuối tiếc cho mối tình đầu. câu thơ Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.”có thể hiểu tấm son của Kiều đã bị hoen ố nàng không còn là một thiếu nữ phòng khuê, nhưng có thể hiểu “tấm son”là tấm lòng chung thủy son sắc của nàng dành cho Kim Trọng chẳng bao giờ nguôi ngoai. Đặt trong hoàn cảnh cô đơn Kiều đã tạm để tấm lòng mình lắng xuống và nhớ đến Kim Trọng. Đó là sự vị tha và tấm lòng chung thủy của một người.

Chưa vơi nỗi nhớ người yêu, tâm can Kiều lại càng chồng chất nỗi nhớ thương cha mẹ, nên nhớ tới Kim Trọng nàng “tưởng”thì nhớ tới cha mẹ nàng “xót”.

Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm”

Kiều xót xa khi bố mẹ đã già yếu mà ngày ngày vẫn tựa cửa ngóng tin con, nàng còn xót xa bởi mình không tự tay chăm sóc được cha mẹ và hiện thời ai là người chăm nom. Thành ngữ “Quạt nồng ấp lạnh ” và điển cố “sân lai””gốc tử”đều nói lên tâm trạng nhớ thương tấm lòng hiếu thảo của Kiều.

Nhớ về cha mẹ còn tưởng tượng ra cảnh giờ đây quê nhà đã đổi thay, mà sự đổi thay khiến nàng lo lắng nhất là “Có khi gốc tử đã vừa người ôm”nghĩa là cha mẹ mỗi ngày thêm một già yếu nàng thì chẳng thể nào chăm sóc. Cụm từ “cách mấy nắng mưa” vừa nói được thời gian xa cách qua bao mùa mưa nắng vừa nói lên sự tàn phá của tự nhiên, của nắng mưa đối với con người và cảnh vật, lần nào nhớ về cha mẹ Kiều cũng “nhớ ơn chín chữ cao sâu”và luôn ân hận day dứt vì đã phụ công sinh thành nuôi dưỡng của cha mẹ.

Nỗi nhớ của nàng được gửi gắm vào chiều dài thời gian, chiều sâu không gian bởi vậy mà càng thêm sâu xa. Đến đây ta hiểu tại sao trong nỗi nhớ thương Kiều lại nhớ Kim Trọng trước cha mẹ sau, phải chăng trong hai chữ tình – chữ hiếu nàng đã tạm yên với chữ hiếu bởi khi bán mình chuộc cha Kiều đã phần nào đền đáp được công ơn sinh thành nuôi dưỡng của cha mẹ. Còn với Kim Trọng trước khi về Liêu dương chịu tang chú, chàng đã kỳ vọng vào Kiều bao nhiêu.

Giữ vàng giữ ngọc cho hay
Cho đành lòng kẻ chân mây với trời”

Vậy là giờ đây, tấm thân Kiều đã bị hoen ố, nàng đã phụ bạc chàng Kim vì thế nàng luôn ân hận, day dứt như một kẻ phụ tình. Nỗi đau ấy cứ xé tâm can nàng khiến nàng luôn nhớ đến Kim Trọng, nhớ người yêu trước nhớ cha mẹ sau, điều đó hoàn toàn phù hợp với quy luật tâm lý của Kiều.

Đồng thời thể hiện sự tinh tế trong ngòi bút miêu tả tâm lý của Kiều. Đồng thời thể hiện sự tinh tế trong ngòi bút miêu tả tâm lý của Nguyễn Du. Điều đáng lưu ý là dù trong hoàn cảnh cô đơn ở lầu Ngưng Bích Kiều là người đáng thương nhất nhưng trái tim Kiều đầy yêu thương nhân hậu vị tha. Nàng là người tình thủy chung, là người con rất mực hiếu thảo, thật đáng trân trọng biết bao.

Tóm lại bằng việc sử dụng ngôn ngữ độc thoại nội tâm, những từ ngữ hình ảnh tinh tế. Qua đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” nói chung và tám câu thơ trên nói riêng Nguyễn Du đã khắc họa thành công và thật xúc động lỗi nhớ người yêu, nhớ cha mẹ của Thúy Kiều. Qua đây cho thấy, Kiều không chỉ là một cô gái tài sắc vẹn toàn mà còn là người thủy chung hiếu nghĩa. Đồng thời đoạn thơ cho ta thấy được tấm lòng ngợi ca trân trọng vẻ đẹp phẩm chất của con người, đặc biệt là người phụ nữ trong xã hội xưa.

Giới thiệu đến bạn 🌟 Phân Tích Chuyện Người Con Gái Nam Xương 🌟 Chọn Lọc Và Tuyển Tập 14 Mẫu

Phân Tích Kiều Ở Lầu Ngưng Bích 8 Câu Cuối – Mẫu 17

Đón đọc dưới đây bài văn mẫu phân tích Kiều ở lầu Ngưng Bích 8 câu cuối với những phân tích đặc sắc và giàu hình ảnh.

Nhà nghiên cứu Phạm Quỳnh từng khẳng định: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn”, còn nhà thơ Chế Lan Viên lắng sâu và tinh tế khi cất lên lời thơ: “Nguyễn Du viết Kiều đất nước hoá thành văn”. Bao thế kỉ qua, Truyện Kiều đã trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu với mỗi người dân Việt Nam.

Những trang thơ có sức cuốn hút diệu kì, vương vấn mãi tâm hồn ta, mang đến cho ta niềm cảm thương sâu sắc với “tấm gương oan khổ” Thúy Kiều, đem lại cho ta những khoái cảm thẩm mĩ đặc biệt trước những lời thơ như hoa, như gấm:

Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Tám câu thơ trích trong đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích. Đây là những vần thơ có sức ám ảnh nhất của đoạn trích, diễn tả thành công “nỗi lòng tê tái” của Kiều trong những ngày đầu tiên của kiếp đoạn trường.

Hai tiếng “buồn trông” được lặp lại bốn lần trong đoạn trích, vừa như gói trọn tâm thế của Kiều “trước lầu Ngưng Bích”, vừa tạo nhịp điệu đều đều, buồn thương cho đoạn thơ. Ở nơi “khoá xuân”, Kiều chỉ biết lấy thiên nhiên làm điểm tựa, và từ điểm tựa đó nàng nhận thức về số kiếp của mình. Tầm nhìn của nàng trước hết hướng ra xa, vì nơi xa đó là nhà nàng, là nơi có những người thân yêu nhất:

Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

Không gian xa rộng, quạnh hiu nơi cửa bể như càng làm nổi rõ hơn thân phận nhỏ bé, cô đơn của Kiều. Không gian ấy cộng hưởng cùng thời gian “chiều hôm” – thời khắc gợi nhớ, gợi buồn – khiến như thấm sâu hơn vào tâm hồn người con gái nơi xứ lạ nỗi niềm xót xa. Giữa khung cảnh ấy, trái tim cô đơn, tâm hồn trống vắng cần lắm một hơi ấm, một sự hiện diện của sự sống:

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa ?

“Thuyền” chính là hình ảnh biểu tượng cho sự sống con người. Nhưng đó là sự hiện hữu mờ mờ, như có như không, được diễn tả qua hai từ “thấp thoáng”, “xa xa”. Sự xuất hiện mờ ảo của cánh buồm không làm cho khung cảnh thêm thân mật, ấm áp mà càng gợi sầu, gợi cảm giác cô liêu cho con người. Không tìm thấy sự sẻ chia từ nơi cửa biển xa xăm, Kiều hướng tầm mắt về “ngọn nước” gần mình hơn:

Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Giữa dòng nước, cánh hoa trôi man mác như gợi nhắc thân phận cảnh bèo trôi dạt của người trong cảnh. Câu hỏi tu từ như xoáy vào tâm hồn người đọc. Thân phận cánh hoa hay chính là những trăn trở, xót xa cho số kiếp mỏng manh, phiêu bạt của Kiều? Hai tiếng “về đâu” cuối câu thơ với thanh không càng tạo cảm giác xa vắng, vô định, như tương hợp với tâm thế hiện thời của Kiều.

Tìm đến với thiên nhiên đó mong sao vơi bớt mối sầu chất chứa trong lòng nhưng càng nhìn cảnh, tâm trạng lại càng rối bời. Dường như nước gợi lên sự lạnh lẽo, bất định, chảy trôi nên Kiều tìm về với bờ cỏ xanh, với mặt đất:

Buồn trông nội cỏ rầu rầu

Nhưng cỏ cũng mang tâm trạng buồn thương của người: “rầu rầu”. Đâu còn là “cỏ non” xanh tận chân trời trong tiết thanh minh khi Kiều còn sống những ngày tháng “Êm đềm trướng rủ màn che”. Cảnh nơi xứ lạ như thấu cảm nỗi niềm của Kiều nên nhuốm màu tâm tư của kiếp người phiêu bạt. Nỗi “rầu rầu” ấy tràn ngập, lan toả khắp không gian:

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh

Cái nhìn bao quát từ “chân mây” xa xăm đến “mặt đất” gần gũi, tất cả đều “một màu xanh xanh”. Nó khác lắm cái sắc xanh tràn ngập nhựa sống của tiết trời mùa xuân:

Cỏ non xanh tận chân trời và cũng không giống màu áo xanh tinh khôi của chàng Kim trong ngày đầu gặp gỡ:

Tuyết in sắt ngựa câu giòn.
Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời.

Màu xanh của không gian nơi lầu Ngưng Bích là màu xanh gợi buồn. Nỗi buồn của người pha vào cảnh vật, mang theo bao tái tê. Không gian trở nên rợn ngợp, cô liêu. Sự vắng lặng bao trùm cảnh vật càng tô đậm tiếng lòng thổn thức của người trong cảnh. Kiều cảm thấy cần một tiếng vọng của sự sống con người nhưng đáp lại nàng chỉ có những thanh âm hào hùng của thiên nhiên:

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh.
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Gió thổi, nước trôi… tất cả đều gợi sự chảy trôi, như thân phận “Bên trời góc bể bơ vơ” của nàng Kiều. Âm thanh của tiếng sóng ầm ầm như tiếng gào thét của lòng người trong cảnh ngộ bẽ bàng, tê tái. Tầm nhìn của Kiều hướng từ xa về gần, từ cao đến thấp, mong mỏi kiếm tìm một sự đáp vọng.

Thanh âm duy nhất đáp lại nàng là tiếng sóng “ầm ầm” “kêu quanh ghế ngồi”. Nó không làm cho không gian vang động hơn mà càng khắc sâu thêm tâm trạng đau đớn lẫn dự cảm lo âu về tương lai của Kiều. Xót xa biết bao, đớn đau biết bao! Chỉ có thiên nhiên bên nàng, sẻ chia “tấm lòng” với nàng. Đó chính là thời khắc Kiều thấm thía nhất nỗi niềm tự thương thân.

Thơ ca chỉ tìm được bến neo đậu nơi lòng người khi đó là tiếng lòng tha thiết, được tạo tác bởi tài năng nghệ thuật chân chính. Đoạn thơ này của Nguyễn Du đã làm được điều đó. Nó không chỉ khắc họa thành công nỗi lòng xót xa, tâm trạng bẽ bàng của Kiều mà còn cho ta thấy nghệ thuật tả cảnh ngụ tình bậc thầy của đại thi hào dân tộc. Âm hưởng của những câu thơ này đã, đang và sẽ vang đọng mãi trong tâm trí người đọc.

Tiếp theo đón đọc 🌼 Phân Tích Nhân Vật Vũ Nương 🌼 14 Bài Văn Mẫu Hay Nhất

Viết một bình luận