Phân Tích Bảo Kính Cảnh Giới Bài 43 (15+ Mẫu Hay Nhất)

Phân Tích Bảo Kính Cảnh Giới Bài 43 ❤️ 15+ Mẫu Hay Nhất ✅ Đọc Thêm Những Bài Mẫu Phân Tích Bảo Kính Cảnh Giới Bài 43 Đặc Sắc.

Cách Phân Tích Bảo Kính Cảnh Giới Bài 43

Bảo Kính Cảnh Giới Bài 43 của nhà thơ Nguyễn Trãi là một bài thơ thể hiện tình yêu thiên nhiên, đất nước và con người của tác giả, cũng như tâm trạng thoải mái, hài lòng và tự tại của ông với cuộc sống đơn sơ và yên bình ở quê nhà.

Bài thơ cũng nhấn mạnh đến lòng yêu nước, nhân cách thanh cao và kiên trì với lý tưởng của nhà thơ. Để phân tích bài thơ này, bạn có thể tham khảo một số bước sau:

  • Bước 1: Giới thiệu tác giả, tác phẩm, hoàn cảnh sáng tác, nội dung chính của bài thơ.
  • Bước 2: Phân tích từng câu thơ về nghĩa, nghệ thuật, tâm tư tình cảm của tác giả.
    • Hai câu thơ đầu: Tác giả bày tỏ quan niệm về công danh, cho rằng không cần thiết phải theo đuổi vinh hoa phú quý, mà chỉ cần sống nhàn hạ, không để ý đến sự khen chê của thế gian.
    • Hai câu thơ tiếp theo: Tác giả miêu tả những thú vui đơn sơ của cuộc sống quê hương, như vớt bèo, cấy rau, ăn ương sen, rau muống. Những hình ảnh này thể hiện sự giản dị, gần gũi, chân thực của tác giả.
    • Bốn câu thơ cuối: Tác giả thể hiện tâm hồn thanh cao, ung dung, tự tại, biết tận hưởng những điều đẹp đẽ của thiên nhiên, như gió, trăng, nước. Tác giả cũng bộc bạch tấm lòng trung hiếu, yêu nước, thương dân, không để bụi trần làm đen tâm hồn mình.
  • Bước 3: Tổng kết lại ý nghĩa, giá trị nghệ thuật và nhân cách của bài thơ, khẳng định tác phẩm là một kiệt tác trong nền thơ Nôm của Việt Nam.

Bạn có thể tham khảo thêm các bài phân tích, đánh giá, cảm nhận về bài thơ Bảo Kính Cảnh Giới Bài 43 được SCR.VN chia sẽ bên dưới.

Quà VIP 👉 Thẻ Cào Viettel Miễn Phí [Tặng Card 50k 100k 200k 500k Free]

Thơ Chế Em Ăn Cơm Chưa

Dàn Ý Phân Tích Bảo Kính Cảnh Giới Bài 43

Mẫu dàn ý bài văn phân tích “Bảo kính cảnh giới bài 43” chi tiết sau đây sẽ giúp bạn viết bài văn nhanh chóng và đơn giản hơn!

I. Mở bài:

  • Giới thiệu vài nét về tác giả Nguyễn Trãi
    • Nguyễn Trãi (1380 – 1442) là một nhà chính trị, nhà văn, nhà quân sự lỗi lạc, danh nhân văn hoá thế giới, có đóng góp to lớn vào sự phát triển của văn học và tư tưởng Việt Nam.
  • Giới thiệu bài thơ “Bảo kính cảnh giới bài 43”.
    • Bài thơ “Bảo kính cảnh giới bài 43” là một trong những tác phẩm nổi tiếng của Nguyễn Trãi, phản ánh vẻ đẹp độc đáo của bức tranh ngày hè và tâm hồn yêu thiên nhiên, đất nước, con người của nhà thơ.

II. Thân bài:

1) Khái quát về bài thơ “Bảo kính cảnh giới bài 43”

  • Hoàn cảnh sáng tác:
    • Bài thơ ra đời trong những năm Nguyễn Trãi nhàn quan, không được vua tin dùng như trước.
    • Bài thơ “Bảo kính cảnh giới bài 43” là bài số 43 trong mục Bảo kính cảnh giới (gương báu răn mình), phần vô đề của Quốc âm thi tập.

2) Phân tích, cảm nhận về bài thơ

a) Bức tranh thiên nhiên và con người vào ngày hè

  • Bức tranh thiên nhiên tràn đầy sức sống, cảnh vật tươi tắn, rực rỡ
    • “Hoa hòe, thạch lựu, hồng liên” -> Hình ảnh thơ bình dị, gần gũi, quen thuộc.
    • Màu sắc: màu xanh của cây hòe, màu đỏ của cây thạch lựu, màu hồng của hồng liên -> những màu sắc tươi tắn, rực rỡ, căng tràn nhựa sống.
    • Các động từ mạnh: đùn đùn, giương, phun, tiễn -> Thể hiện trạng thái của cảnh vật: dù là cuối ngày nhưng sức sống căng tràn, bên trong sự vật tuôn trào ra ngoài không dứt.

=> Tác giả sử dụng những hình ảnh thơ gần gũi, quen thuộc, độc đáo và có sự phá cách, khác hẳn với những hình ảnh thơ mang tính ước lệ, tượng trưng vốn thường được sử dụng trong Đường thi.

  • Bức tranh cuộc sống con người sôi động, náo nhiệt
    • Âm thanh:
      • Tiếng ve dắng dỏi -> tiếng đàn.
      • Tiếng chợ cá lao xao -> Âm thanh của cuộc sống thanh bình.
    • Hình ảnh: chợ cá làng ngư phủ, lầu tịch dương

=> Âm thanh sôi động, dân dã gắn với cuộc sống đời thường thể hiện được nhịp sống ấm no hạnh phúc của nhân dân

=> Bức tranh cảnh ngày hè có sự kết hợp hài hòa giữa màu sắc và âm thanh, giữa cảnh vật và con người:

  • Cảnh vật ngày hè ngập tràn màu sắc, sự kết hợp màu độc đáo giữa màu đỏ của hoa lựu trước hiên với cây hòe xanh rợp bóng cùng với âm thanh của tiếng ve, của chợ cá khiến không gian tràn đầy sức sống.
  • Trong không gian cảnh hè ấy, hình ảnh con người hiện lên với sự sung túc, hạnh phúc trong lao động.

b. Vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ

  • Tình yêu thiên nhiên say đắm:
    • Cảm nhận qua thị giác với: những tán lá xanh cây hòe, màu đỏ rực của thạch lựu, hình ảnh người dân làng chài mỗi sớm thức dậy và bóng người kéo lưới buổi chiều tà.
    • Cảm nhận qua thính giác: tiếng ve kêu ran cả khoảng không gian, tiếng lao xao đông đúc của chợ cá.
    • Cảm nhận qua khứu giác với hương sen thoảng theo gió.

=> Tác giả đắm chìm trong vẻ đẹp của thiên nhiên ngày hè. Tâm hồn nhà thơ Nguyễn Trãi được hòa vào thiên nhiên, nói lên được tác giả là người rất yêu đời, yêu cuộc sống.

  • Ước nguyện của tác giả và tình yêu nước, thương dân sâu sắc:
    • Ung dung, tự tại, không muốn vướng bận đến chuyện quan trường nhưng vẫn luôn nghĩ về dân, về nước.

“Dễ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ, khắp đòi phương”

-> Tác giả khao khát muốn đem tài trí của mình để cống hiến cho đất nước, cho dân tộc.

2.3. Đặc sắc nghệ thuật:

– Ngôn ngữ mộc mạc, dân dã; hình ảnh đời thường quen thuộc.
– Hình thức thơ lục ngôn xen lẫn thất ngôn.
– Biện pháp đảo ngữ cùng hệ thống từ láy “lao xao”, “dắng dỏi” và các động từ mạnh “đùn đùn”, “phun”.

+ Tác giả mong có cây đàn của vua Ngu Thuấn để hát ca mong muốn mang lại cuộc sống ấm no, sung túc, yên vui cho nhân dân muôn nơi.

-> Tấm lòng yêu thương nhân dân. Ước mong, khát vọng cao đẹp về một cuộc sống thái bình, hạnh phúc cho muôn dân

=> Lúc nào, Nguyễn Trãi cũng khao khát mang lại cuộc sống hạnh phúc ấm no cho dân. Đó là tình yêu cuộc sống, yêu con người và trách nhiệm đối với dân với nước.

III. Kết bài

– Khẳng định lại giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ.

  • Nội dung: Thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống và khát vọng xã hội phồn vinh, nhân dân no đủ, đất nước thịnh vượng của người nghệ sĩ hết lòng vì nước, vì dân.
  • Đặc sắc nghệ thuật: Vận dụng sáng tạo thể thơ Đường luật, đan xen câu 6 chữ và câu 7 chữ; ngôn ngữ thơ giản dị, trong sáng, gần với lời ăn tiếng nói hàng ngày; bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc trưng của văn học trung đại.

– Nêu cảm nhận của em về bài thơ.

Văn mẫu 🌸 Phân Tích Bảo Kính Cảnh Giới Bài 28 🌸 bạn nên biết!

15+ Mẫu Phân Tích Bảo Kính Cảnh Giới Bài 43 Hay Nhất

SCR.VN gửi tặng bạn đọc tuyển tập những mẫu bài văn phân tích “Bảo kính cảnh giới bài 43” của Nguyễn Trãi hay nhất để các bạn tham khảo!

Phân Tích Bảo Kính Cảnh Giới Bài 43 Của Nguyễn Trãi Chọn Lọc

Dưới đây là bài văn phân tích “Bảo kính cảnh giới bài 43” của Nguyễn Trãi đã được chọn lọc, xem ngay nhé!

“Quốc Âm thi tập” – Nguyễn Trãi được coi là đỉnh cao của thơ Nôm Đường luật, mang đến nhiều đóng góp nổi bật cho nền thơ ca trung đại. Hầu hết, những sáng tác thuộc tập thơ này đều hướng tới chủ đề quen thuộc như: tình cảm đời thường, tình yêu thiên nhiên hay tấm lòng yêu nước, thương dân.

Nổi bật trong số 254 bài của tập thơ, chúng ta không thể bỏ qua thi phẩm “Bảo kính cảnh giới” (bài 43). Với những đặc sắc về nội dung và độc đáo về hình thức nghệ thuật, bài thơ đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc.

Nguyễn Trãi vốn là một nhà quân sự, chính trị, ngoại giao. Ông dành cả một đời canh cánh nỗi lo việc nước, vì thế, thời khắc tìm về thiên nhiên chính là giây phút thư nhàn hiếm hoi. Câu thơ mở đầu đã gợi ra hoàn cảnh của thi nhân:

“Rồi hóng mát thuở ngày trường.”

Câu thơ là sự phá cách táo bạo ít thấy trong thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Phần đề hai câu nhưng chỉ có một câu là lục ngôn. Nhịp điệu thong thả với cách ngắt nhịp 1/2/3 đã gợi lên phong thái thư thái, an nhàn của con người. Từ “rồi” được đặt ở đầu câu nhấn mạnh vào hoàn cảnh sống rỗi rãi, thảnh thơi. Như vậy, trong thời khắc nhàn rỗi ấy, thi sĩ tìm về với thú vui tao nhã của các Nho sĩ khi xưa: “hóng mát thuở ngày trường”.

Nhàn nhã ngồi ngắm cảnh, Nguyễn Trãi không khỏi rung động, xao xuyến trước bức tranh ngày hè đẹp đẽ, tươi tắn:

“Hòe lục đùn đùn tán rợp trương.
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ.
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”

Không còn là hình ảnh mang tính ước lệ, tượng trưng “tùng, cúc, trúc, mai” như trong thơ cổ, Nguyễn Trãi miêu tả khung cảnh thiên nhiên bằng các hình ảnh hết sức bình dị, gần gũi.

Trước hết, đó là cây hòe có hoa vàng, lá xanh đang ở độ tràn đầy sức sống. Nhà thơ cảm nhận thấy sự vận động âm thầm, mãnh liệt của cây và thể hiện điều đó qua động từ “đùn đùn”. Những tán hòe không ngừng vươn mình, tạo nên tầng tầng lớp lớp, che rợp mặt đất. Cụm từ “tán rợp trương” đã gợi ra một không gian rộng lớn được bao phủ bởi sắc xanh thẫm, tươi mát của tán hòe.

Tiếp đến, nhà thơ khéo léo khắc họa hình ảnh cây lựu trước hiên nhà. Bằng quan sát tinh tế, Nguyễn Trãi đã bắt trúng được thần thái riêng có của hoa lựu mùa hè. Động từ “phun” diễn tả sự sống căng tràn, không thể kìm lại của hoa. Những bông hoa đỏ rực liên tục bung nở. Bức tranh càng thêm đằm thắm, tươi đẹp nhờ sự điểm tô của sen hồng. Ngoài ao, sen đã nở rộ và tỏa ngát hương thơm. Vạn vật như đắm mình trong mùi hương dịu nhẹ, thuần khiết của loài hoa thanh cao.

Như vậy, thiên nhiên không chỉ được gợi nên từ những hình ảnh, màu sắc rực rỡ mà còn được khắc họa qua sức sống cuộn trào bên trong mỗi cảnh vật. Bức tranh ngày hè càng thêm rộn ràng nhờ bản hòa tấu âm thanh:

“Lao xao chợ cá làng ngư phủ;
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.”

Phía xa, tiếng “lao xao” của phiên chợ ở làng nghề chài lưới như vọng tới tâm hồn thi nhân. Từ láy tượng thanh “lao xao” gợi tả âm thanh rộn rã và bầu không khí tấp nập, đông vui của người dân. Trong buổi chiều tà, đàn ve cũng dạo lên bản nhạc “cầm ve”. Nhà thơ tiếp tục sử dụng nghệ thuật đảo trật tự ngữ pháp cùng từ láy “dắng dỏi” để làm nổi bật thanh âm inh ỏi, trong, cao của tiếng ve. Từ đây, bức tranh thiên nhiên đã có sự hòa hợp giữa sắc màu, hình ảnh và âm thanh.

Đến với hai câu thơ cuối, ta lại thấy được tấm lòng cao cả của thi sĩ:

“Lẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắp đòi phương.”

“Lẽ có” nghĩa là lẽ nên có, mong được có. Đặt từ này ở đầu câu thơ kết hợp với điển tích “Ngu cầm”, Ức Trai kín đáo thể hiện ước mơ về cuộc sống thái bình, ấm no. Ông ao ước có cây đàn của vua Ngu Thuấn, từ đó gẩy lên khúc Nam Phong để “dân ta bớt ưu phiền”, “dân ta ngày thêm nhiều của cải”.

Câu thơ cuối với 6 tiếng ngắn gọn chính là bao tâm tư, cảm xúc dồn nén của nhà thơ. Ông tha thiết hi vọng quần chúng nhân dân ở khắp nơi đều sống êm ấm, hạnh phúc. Tưởng như tâm hồn thi sĩ chỉ lắng đọng trong cảnh sắc thiên nhiên mà không phải vậy. Sau tất cả, tấm lòng cao đẹp ấy vẫn hướng về dân tộc, đất nước. Từ đây, ta càng thêm kính phục, ngưỡng mộ người anh hùng “trung quân ái quốc”, thấu hiểu thế sự, có tư tưởng tiến bộ “thân dân”, “lấy dân làm gốc”.

Bên cạnh chủ đề đặc sắc, bài thơ còn gây ấn tượng với độc giả bởi hình thức nghệ thuật độc đáo. Trước hết, bằng ngôn ngữ mộc mạc, dân dã, hình ảnh đời thường quen thuộc cùng hình thức thơ lục ngôn xen lẫn thất ngôn, nhà thơ đã sáng tạo nên một tác phẩm mang đặc trưng của “lối thơ Việt Nam” (Đặng Thai Mai). Biện pháp đảo ngữ cùng hệ thống từ láy “lao xao”, “dắng dỏi” và các động từ mạnh “đùn đùn”, “phun” cũng góp phần tô đậm vẻ đẹp cảnh sắc thiên nhiên, cuộc sống.

“Bảo kính cảnh giới” (bài 43) đã vẽ nên một bức tranh ngày hè tươi tắn, rạng ngời, đậm đà hồn quê Việt. Qua bài thơ, Nguyễn Trãi cũng khéo léo bộc lộ tấm lòng, tình yêu thiên nhiên cuộc sống và đất nước tha thiết. Theo thời gian, những giá trị, ý nghĩa nhân văn của tác phẩm sẽ luôn tỏa sáng và khắc sâu trong tâm trí bạn đọc.

Tham khảo mẫu 🌸 Phân Tích Bảo Kính Cảnh Giới Bài 46  🌸 hay nhất!

Phân Tích Bảo Kính Cảnh Giới Bài 43 Ấn Tượng

Mẫu bài văn phân tích bài thơ “Bảo kính cảnh giới bài 43” của Nguyễn Trãi ấn tượng nhất đã được biên soạn ở dưới:

Nguyễn Trãi là bậc vĩ nhân của đất nước ta. Trong con người ông vừa có sự chí khí, hào sảng của một bậc đại anh hùng vì dân vì nước vừa có tâm hồn lãng mạn của một thi nhân. Hai điều ấy kết hợp lại góp phần tạo nên một giọng thơ rất riêng ở Nguyễn Trãi: vừa thấm đượm chất trữ tình và cũng đau đáu nỗi lo việc nước. Ở “Bảo kính cảnh giới”, bài 43 ta sẽ thấy rõ điều đó.

“Bảo kính cảnh giới” có nghĩa là “gương báu răn mình”. Đây là một chùm thơ được rút ra từ tập thơ chữ Nôm nổi tiếng mang tên “Quốc âm thi tập”. Ở bài thơ số 43 này, tác giả đã miêu tả khung cảnh ngày hè tươi đẹp, rực rỡ và lòng yêu nước thương dân của mình.

Ở ngay câu thơ đầu tiên, Nguyễn Trãi đã cho người đọc thấy được tâm thế của mình “Rồi hóng mát thuở ngày trường”. Trạng thái “hóng mát” ung dung, tự tại cho thấy người thi sĩ đang có cuộc sống nhàn nhã, hạnh phúc. Nguyễn Trãi đã dành cả cuộc đời để lo cho đất nước, giờ đây, ông đang tận hưởng những giây phút hiếm hoi cho riêng bản thân mình, ngắm cảnh thiên nhiên mùa hè rực rỡ:

Hòe lục đùn đùn tán rợp trương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương

Tác giả bắt gặp không khí mùa hè ở cây hòe trước nhất. Cây hòe to lớn, xòe những tán lá rộng, xanh biếc. Động từ “đùn đùn” thường dùng để chỉ sự vận động to ra, cao hơn đã được nhà thơ gán cho cây hòe khiến ta cảm giác như những tán cây đang vươn lên, ngày một to ra che kín ánh mặt trời.

Màu xanh của cây hòe ở câu trước được tác giả đặt cạnh màu đỏ của cây lựu khiến cho hai câu thơ tràn đầy sắc màu. Hoa lựu không những trổ bông xinh đẹp mà còn “phun” thức đỏ. Từ “phun” ấy khiến ta cảm giác sắc đỏ trên cây càng lúc càng nên đậm đà, rõ nét hơn. Những bông hoa lựu rực rỡ, căng tràn sức sống khiến cho mùa hè càng thêm kiều diễm, chói mắt.

Ở một góc khác của bức tranh, tuy không rực rỡ bằng xanh, đỏ nhưng có sắc hồng của “hồng liên trì” lại rất đỗi dịu mắt, nhẹ nhàng. Bông hoa sen trong ao tỏa hương thơm ngát tràn khắp không gian. Vậy là bức tranh mùa hè của Nguyễn Trãi đã có đầy đủ màu sắc và hương thơm. Trong hai câu thơ tiếp theo, Nguyễn Trãi viết:

Lao xao chợ cá làng ngư phủ;
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương

Hai câu thơ này đã cho ta thấy bức tranh ngày hè sống động, rộn ràng. Nhà thơ đã sử dụng từ “lao xao” – một từ láy tượng thanh để diễn tả âm thanh từ chợ cá vọng lại. Đây là tiếng nói cười xôn xao, vui tươi của con người đang lao động. Tác giả lắng nghe những thanh âm của cuộc sống thường nhật như nghe thấy tiếng nói hạnh phúc của người dân. Ngoài tiếng nói của con người, thi nhân còn cảm nhận được tiếng ve đặc trưng của mùa hè. Tiếng “dắng dỏi” kêu liên tục không dứt như bản nhạc sôi nổi, vui vẻ của lũ ve khiến lòng người cũng tưng bừng, rộn rã.

Trong buổi hoàng hôn, con người thường chất chứa nhiều nỗi tâm sự. Thi sĩ cũng vậy, khi cảnh ngày hè dần tàn, ánh tịch dương buông xuống, ông đã nói ra tâm trạng của mình:

Lẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắp đòi phương.

Ở đây, tác giả đã mong ước có được “Ngu cầm” – cây đàn của vua Thuấn để gảy nên khúc nhạc Nam phong, khúc nhạc giúp cho nhân dân bớt ưu phiền và có thêm nhiều của cải. Tiếng lòng của Nguyễn Trãi có thể hiểu là khát vọng tất cả mọi người dân đều được hưởng cuộc sống thanh bình, hạnh phúc, đủ đầy. Điều này cũng được thể hiện rõ trong câu thơ cuối “Dân giàu đủ khắp đòi phương”. Đây là ước muốn phi thường, chứng tỏ tấm lòng yêu nước, thương dân của người anh hùng Nguyễn Trãi.

Nghệ thuật đặc sắc của bài thơ thứ 43 trong chùm thơ “Bảo kính cảnh giới” này cũng là điều không thể không nhắc đến. Tác giả đã sử dụng các câu thơ thất ngôn xen lẫn lục ngôn để làm nên sự khác biệt ở bài thơ này. Ngoài ra, những từ láy tượng hình, tượng thanh, các động từ cũng được đặt rất đúng chỗ nhằm vẽ lên bức tranh ngày hè sống động, rực rỡ sắc màu.

“Bảo kính cảnh giới”, bài số 43 là một sáng tác rất độc đáo thể hiện lối viết đặc trưng của Nguyễn Trãi. Đây không chỉ là bài thơ tả cảnh mùa hè tràn đầy sức sống mà còn nói lên niềm ao ước của con người trung quân ái quốc về cuộc sống hạnh phúc của muôn dân.

Cho nhiều bạn cần 👉 Tặng Acc Game Miễn Phí VIP

Thơ Chế Em Ăn Cơm Chưa

Phân Tích Bảo Kính Cảnh Giới Bài 43 Đặc Sắc

Tham khảo bài văn phân tích “Bảo kính cảnh giới bài 43” đặc sắc mà SCR.VN chia sẻ bên dưới nhé!

Nguyễn Trãi – một nhà thơ, nhà văn tài năng kiệt xuất của dân tộc. Ông đã có nhiều đóng góp lớn cho nền văn học nước nhà và được UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa thế giới. Ông đã viết tập thơ chữ Nôm nổi tiếng mang tên “Quốc âm thi tập”.

Trong đó có chùm thơ “Bảo kính cảnh giới” được ghi lại khi tác giả đã xa rời chốn quan trường, viết về những khoảnh khắc thư thái hiếm hoi và một vài suy tư về thế sự. Bài thơ số 43 trong chùm thơ này diễn tả bức tranh ngày hè sống động, rực rỡ. Đồng thời, giúp người đọc thấy được tấm lòng yêu nước thương dân của Nguyễn Trãi.

Sau những tháng ngày lăn lộn chốn quan trường, Nguyễn Trãi cáo quan về ở ẩn. Trong thời gian này, ông có một cuộc sống ung dung, tự tại.

Ta có thể thấy tâm trạng thảnh thơi của ông trong câu thơ đầu “Rồi hóng mát thuở ngày trường”. “Rồi” là từ cổ của từ “rỗi”, nghĩa là rảnh rỗi, “ngày trường” chỉ thời gian một ngày trôi qua thật dài. Nhà thơ mang tâm thế “hóng mát” an nhàn, thư thái, tận hưởng sự tươi đẹp của thiên nhiên:

Hòe lục đùn đùn tán rợp trương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương

Đầu tiên, nhà thơ chiêm ngưỡng vẻ đẹp của tự nhiên qua thị giác. Cây hòe màu xanh lục có thân to khỏe, tán lá giương cao. “Đùn đùn” chính là cảm giác lớn lên, sinh sôi và phát triển mạnh mẽ khó kiểm soát. Ý tác giả ở đây muốn miêu tả cây hòe to, cao, tỏa tán lá rộng tạo thành bóng râm xanh tươi, mát mẻ, che đi ánh nắng gắt. “Thạch lựu” chính là cây lựu ở hiên nhà ra hoa rực rỡ, tràn trề sắc đỏ, làm cho cảnh sắc trở nên rực rỡ, sống động hơn.

Ngoài thị giác, Nguyễn Trãi còn cảm nhận mùa hè qua khứu giác “tịn mùi hương”. Tác giả ngửi thấy hương thơm thanh khiết của hoa sen lan tỏa khắp không gian. Mùi hương ấy khiến con người trở nên thư thái, nhẹ nhàng hơn. Việc sử dụng các động từ “rợp”, “phun”, “tịn” cho ta thấy sự sinh sôi, nảy nở của thực vật ngày hè kết hợp với màu sắc “lục”, “đỏ”, “hồng” khiến cho khung cảnh thêm phần sinh động, rực rỡ.

Tiếp theo, tác giả sử dụng thính giác để cảm nhận không khí của mùa hè:

Lao xao chợ cá làng ngư phủ;
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương

Ở hai câu thơ này, Nguyễn Trãi đã sử dụng biện pháp tu từ đảo ngữ “lao xao chợ cá”, “dắng dỏi cầm ve” để nhấn mạnh thanh âm sống động của mùa hè. Tiếng người ở chợ cá buôn bán, trao đổi hàng hóa “lao xao” chính là dấu hiệu của cuộc sống lao động vui vẻ, nhộn nhịp của người dân. Đây có lẽ là âm thanh mà tác giả Nguyễn Trãi rất muốn lắng nghe, tận hưởng.

Ngoài ra, bản nhạc quê hương còn có sự góp mặt của tiếng ve – âm thanh đặc trưng mỗi khi hè tới. Tiếng ve râm ran, rộn rã như gọi ánh hoàng hôn đến với làng quê yên bình. Hai từ láy tượng thanh “lao xao” và “dắng dỏi” đã mô tả âm thanh ồn ào, sôi động, tràn đầy sức sống. Những câu thơ miêu tả cảnh sắc và âm thanh ngày hè cũng phần nào nói lên tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, tha thiết yêu thiên nhiên cuộc sống của Nguyễn Trãi.

Hoàng hôn buông xuống mang theo nhiều trăn trở của tác giả. Mùa hè không còn rực rỡ, sống động nữa mà mang nặng ưu tư:

Lẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắp đòi phương.

Câu thơ thể hiện ước nguyện của Nguyễn Trãi: mong muốn có cây đàn của vua Ngu Thuấn, đàn khúc nhạc cho mọi người dân có cuộc sống no đủ, giàu có. Từ truyền thuyết trong sách cổ, Nguyễn Trãi đã thể hiện khát khao đầy tính nhân văn của mình. Từ đó ta thấy được tấm lòng yêu nước thương dân của một bậc đại anh hùng.

Bài thơ thứ 43 trong chùm thơ “Bảo kính cảnh giới” có thể thơ sáng tạo là có những câu thất ngôn xen với câu lục ngôn. Ngôn ngữ thơ phong phú với các từ láy tượng thanh, các động từ đặc sắc, sự kết hợp giữa từ Hán Việt và từ thuần Việt tạo nên cho bài thơ một vẻ đẹp vừa trang trọng, cổ điển vừa bình dị, gần gũi.

Sự tinh tế, cảm quan nhạy bén của thi sĩ đã biến những sự vật bình thường trở nên có hồn, trở thành đặc trưng khi nhắc đến mùa hè rực rỡ đầy màu sắc. Không những thế, qua bài thơ này, ta còn nhận thấy vẻ đẹp tâm hồn của Ức Trai. Dù ông không còn ở trong chốn quan trường nhưng vẫn một lòng lo cho nhân dân, đất nước. 

Xem thêm bài 🌸 Phân Tích Bảo Kính Cảnh Giới Bài 31 🌸 đặc sắc!

Phân Tích Bảo Kính Cảnh Giới Bài 43 Ngắn Gọn

Gợi ý cho bạn bài văn phân tích “Bảo kính cảnh giới bài 43” ngắn gọn, xem thêm bên dưới:

Nguyễn Trãi không chỉ là một người anh hùng của dân tộc, ông còn là một thi nhân, là tác giả của rất nhiều áng văn thiên cổ bất hủ. Với lập luận sắc bén, ngồi bút tài hoa nổi danh trong triều chính, ông còn thể hiện phong cách thoải mái trong những tựa thơ thường ngày. Sự nhàn nhã ấy được thể hiện rõ trong “Bảo kính cảnh giới bài 43”, tác phẩm trữ tình tâm đặc hiếm có của ông.

Nội dung chính của bài thơ là tình yêu của con người đối với thiên nhiên hùng vĩ. Nhân vật trữ tình xuất hiện tại khoảng không gian tráng lệ ấy, như một nét mực điểm xuyết trên trang tuyên thành. Nguyễn Trãi là một người yêu thích thiên nhiên, đằm chìm vào sự rộng lớn và mở lòng với vẻ đẹp ấy trong mọi hoàn cảnh.

Trái ngược với đặc điểm thơ lúc đó nghiêng về vịnh, thì Nguyễn Trãi lại dùng bút pháp tả thực vô cùng chân thật. Bức tranh thiên nhiên hiện lên với đầy đủ những nét đẹp chỉ qua vài câu thơ:

Rồi hóng mát thuở ngày trường
Hòe lục đùn đùn tán rợp trương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương

Hai câu thơ đầu tiên, cảnh vật đã có sự giao hoà của cả màu sắc và cảnh vật. Màu lục của tán cây hoè, màu đỏ của hoa hoa thạch lựu đan vào nhau tạo nên những dải màu sắc sặc sỡ nhất. Những từ mang đậm tính chất gợi tả như rợp, phun, rợp rợp đã gợi lên sự trần trề cả về sức sống và vẻ đẹp. Không tập trung vào khắc hoạ những cảnh vật ấy, tác giả nhấn mạnh sức sống mãnh liệt của muôn loài trong một ngày mát mẻ. Góc nhìn tinh tế ấy đã khiến cho những câu thơ thêm sức sống phù hợp với ngữ cảnh, cũng làm rõ được sự tài hoa của Nguyễn Trãi.

Không những vậy, chỉ trong 4 câu thơ, tác giả đã vận dụng nhiều giác quan khác nhau để cảm nhận thiên nhiên. Đó là xúc giác trong câu thơ đầu, thị giác trong câu 2 và 3, khứu giác trong câu thơ cuối. Chỉ vỏn vẹn 4 câu thơ, người đọc đã thấy được bức tranh toàn cảnh thông qua đôi mắt của thi sĩ đa tài.

Trong khung cảnh đất trời, thiên nhiên tưởng chừng tĩnh lặng ấy bất chợt xuất hiện hình bóng của con người. Đó là người anh hùng vĩ đại hết lòng vì dân, vì nước. Hiếm hoi có được thời gian nghỉ ngơi, nhưng không chìm đắm hoàn toàn vào thiên nhiên, tác giả vẫn luôn quan sát cuộc sống của muôn dân.

Lao xao chợ cá làng ngư phủ;
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương

Hình ảnh mà người thấy được là một bức tranh sinh hoạt tuy bình dị nhưng lại đầy ắp âm thanh vui tươi. Chợ cá của làng chài đang độ “lao xao” nhất, tiếng dắng dỏi của cầm ve vang lên khắp chốn. Đây là bức tranh người dân no đủ, cuộc sống sung túc dưới sự bảo hộ của những người đứng đầu như Nguyễn Trãi. Qua hình ảnh này, người đọc có thể thấy vị tướng quân từng chinh chiến không những biết tận hưởng vẻ đẹp đất trời, mà còn tinh tế đến mức theo dõi cả những hoạt động bình thường của con dân.

Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắp đòi phương.

Hình ảnh khúc Nam Phong ca của vua Thuấn khi dùng đàn Ngu Cầm được lồng vào 2 câu thơ cuối. Đây là điển tích về những ngày thịnh vượng, giàu sang vua Thuấn mang đàn ra gảy. Hình ảnh này làm rõ ước mơ của tác giả, một lòng lo nghĩ cho đất nước. Ông mong muốn cuộc sống của người dân sẽ được hoà bình và sung túc như vậy. 3 câu kết có nhịp điệu dồn nén hơn, cũng là nỗi lòng khó nói. Thiên nhiên và cảnh vật làm nền, nỗi lo nước nhà càng thêm đặc biệt.

Tình yêu đất nước, muôn dân giao hoà với vẻ đẹp của thiên nhiên tạo nên một bức tranh đẹp và ý nghĩa. Là một thi sĩ, Nguyễn Trãi cũng là một người của nhân dân. Trong mọi hoàn cảnh, lý tưởng và sự quan tâm với người dân của ông cũng được làm nổi bật. Vậy nên, thiên nhiên đã làm nền cho tình yêu đất nước của Nguyễn Trãi càng thêm sâu sắc.

Mời bạn tham khảo mẫu 🌸 Phân Tích Bảo Kính Cảnh Giới Bài 38 🌸 thú vị!

Phân Tích Bảo Kính Cảnh Giới Bài 43 Xuất Sắc

Nếu vẫn gặp khó khăn trong việc viết bài văn phân tích “Bảo kính cảnh giới bài 43”, mời các bạn xem thêm mẫu xuất sắc sau đây:

Nguyễn Trãi (1380- 1442) là đại thi hào dân tộc, người anh hùng cứu quốc thuở “bình Ngô”, danh nhân văn hóa Đại Việt. Thơ chữ Hán cũng như thơ chữ Nôm của Nguyễn Trãi đẹp đẽ, sâu sắc, biểu tượng cao quý của nền văn hiến Việt Nam.

“Quốc âm thi tập” của Nguyễn Trãi hiện còn 254 bài thơ, được chia nhiều loại, nhiều thể tài khác nhau: Ngôn chí (21 bài), Thuật hứng (25 bài), Bảo kính cảnh giới (61 bài)… Phần lớn các bài thơ trong “Quốc âm thi tập ” không có nhan đề. Đây là bài thơ 43 trong “Bảo kính cảnh giới”. Các bài thơ trong “Bảo kính cảnh giới ” hàm chứa nội dung giáo huấn trực tiếp, những bài thơ này rất đậm đà chất trữ tình, cho ta nhiều thú vị.

Đề tài mùa hè, cảnh hè được nói nhiều trong thơ văn cổ dân tộc. “Quốc âm thi tập”, “Hồng Đức quốc âm thi tập”, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến… đều có một số bài thơ viết về mùa hè rất hay. Bài thơ này là một thi phẩm khá tiêu biểu cho ngôn ngữ thi ca Ức Trai, đậm đà dấu ấn thời đại, thời Lê, thế kỷ XV nói lên cảnh sắc mùa hè làng quê và nỗi ước mong của nhà thơ.

Câu 1 (lục ngôn) nói lên một cách sống của thi nhân. Câu thơ bình dị như một lời nói vui vẻ, thoải mái, hồn nhiên:

“Rồi bóng mát thuở ngày trường”

Đằng sau vần thơ là hình ảnh một cụ già, tay cầm quạt giấy “Hài cỏ đẹp chân đi đủng đỉnh – Áo bô đen cật vận xềnh xoàng” đang đi dạo mát. Lúc bấy giờ, Ức Trai không bị ràng buộc bởi “áng mận đào ”, vòng “danh lợi ” nữa, mà đã được vui thú nơi vườn ruộng, làm bạn với cây cỏ, hoa lá nơi quê nhà.

“Ngày trường” là ngày dài. “Rồi” là tiếng cổ, nghĩa là rỗi rãi, nhàn hạ, cả trong công việc lẫn tâm hồn. Câu thơ phản ánh một nếp sống sinh hoạt nhàn nhã: trong buổi ngày rỗi rãi, lấy việc hóng mát làm niềm vui di dưỡng tinh thần. Ta có thể phán đoán Ức Trai viết về bài thơ này khi ông đã lui về Côn Sơn ở ẩn.

Năm câu thơ tiếp theo tả cảnh làng quê Việt Nam xa xưa. Các câu 2, 3, 4 nói về cảnh sắc, hai câu 5, 6 tả âm thanh chiều hè.

Cảnh sắc hè trước hết là bóng hoè, màu hoè. Lá hoè xanh thẫm, xanh lục. Cành hoè sum sê, um tùm, lá “đùn đùn ” lên thành chùm, thành đám xanh tươi, tràn đầy sức sống:

“Hoè lục đùn đùn tán rợp trương”

Tán hoè toả bóng mát, che rợp sân, ngõ, vườn nhà, “trương” lên như chiếc ô, chiếc lọng căng tròn. Mỗi từ ngữ là một nét vẽ màu sắc tạo hình, gợi tả sức sống của cảnh vật đồng quê trong những ngày hè: lục, đùn đùn, tán, rợp trương. Ngôn ngữ thơ bình dị, hàm súc và ấn tượng.

Cây hoè vốn được trồng nhiều ở làng quê; vừa làm cảnh, vừa cho bóng mát. Hoè nở hoa vào mùa hè, màu vàng, làm dược liệu, làm chè giải nhiệt. Trong văn học, cây hoè thường gắn liền với điển tích “giấc hòe” (giấc mộng đẹp), “sân hoè” (chỉ nơi cha mẹ ở). Truyện Kiều có câu: “Sân hòe đôi chút thơ ngây – Trân cam ai kẻ đỡ thay việc mình Trong thơ Ức Trai, Lê Thánh Tông… hình ảnh cây hoè xuất hiện nhiều lần được miêu tả bằng một thứ ngôn ngữ trau chuốt, đậm đà:

“Lại có hoa hoè chen bóng lục”
(“Cảnh hè” – Ức Trai)

“Có thuở ngày hè trương tán lục,
Đùn đùn bóng rợp cửa tam công”
(“Hoè” – Ức Trai)

“Đằng đẵng ngày chầy rương rán nắng,
Đùn đùn bóng rợp phủ màn hoè ”
(“Vịnh cảnh mùa hè” – “Hồng Đức quốc âm thi tập”).

“Rợp rợp màn hoè bóng mới xây,
Choi chói hoa vàng đưa gió
Đùn đùn tán lục gương mây’’.
(“Màn hoè” – Lê Thánh Tông)

Câu 3 nói về khóm thạch lựu ở hiên nhà trổ hoa rực rỡ: “Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ”. “Thức” là tiếng cổ chỉ màu vẻ, dáng vẻ. Trong cành lá xanh biếc, những đoá hoa lựu như chiếc đèn lồng bé tí phóng ra, chiếu ra, “phun ” ra những tia lửa đỏ chói, đỏ rực. Chữ “phim ” được dùng rất hình tượng và thần tình. Lê Thánh Tông viết về hoa lựu:

“Ngoài hiên lửa lựu luống thè be ”
(“Mùa hè”)

“Truyện Kiều ” cũng có câu: “Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông” – Từ hoa lựu “phun thức đỏ”, “lửa lựu luống thè be” đến hình ảnh “đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông ” là cả một quá trình sáng tạo ngôn ngữ thi ca của các thế hệ thi sĩ dân tộc qua 5 thế kỷ từ “Quốc âm thi tập ” đến “Truyện Kiều vẻ đẹp ngôn ngữ thi ca được trau chuốt như ngọc quý sẽ ánh lên màu sắc huyền diệu là như thế đó!.

Câu 4 nói về sen: “Hồng liên trì đã rịn mùi hương”. “Tin ” là hết (tiếng cổ). Sen hồng vẫn nở thắm ao làng, nhưng hương đã nhạt, đã dần phai. Sen là biểu tượng cho cảnh sắc mùa hè làng quê ta. Khi sen trong ao làng đã “tịch mùi hương” tức là đã cuối hè.

Nguyễn Trãi đã chọn hoè, thạch lựu, sen hồng (hồng liên) để tả và đưa vào thơ. Cảnh sắc ấy vô cùng xinh đẹp và bình dị. Nhà thơ đã gắn tâm hồn mình với cảnh vật mùa hè bằng một tình quê đẹp. Thiên nhiên trong thơ Ức Trai rất hữu tình và thân thuộc, cỏ cây gần gũi, mến yêu:

“Tá lòng thanh vị núc nác,
Vun đất ải lãnh mồng tơi”
(Ngôn chí – số 9)

“Ao cạn vớt bèo cấy muống,
Đìa thanh phát cỏ ương sen”
(“Thuật hứng” – số 24)

Hè rất đẹp, rộn ràng trong khúc nhạc làng quê. Ngoài tiếng cuốc, tiếng chim tu hú, tiếng sáo diều còn có tiếng ve, tiếng cười nói “lao xao ” của đời thường:

Lao xao chợ cá làng ngư phủ;
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương

Sau khi tả hoè màu “lục”, lựu “phun thức đỏ”, sen hồng đã “tịch mùi hương”, nhà thơ nói đến âm thanh mùa hè, khúc nhạc đồng quê. Tiếng “lao xao” từ một chợ cá làng chài xa vọng đến, đó là tín hiệu cuộc đời dân dã đầy muối mặn và mồ hôi. Nhà thơ lắng nghe nhịp sống đời thường ấy với bao niềm vui. “Lao xao” là từ láy tượng thanh gợi tả sự ồn ào, nhộn nhịp.

Hòa nhịp với tiếng lao xao chợ cá là tiếng ve-vang lên rộn rã, nhịp nhàng. “Cầm ve”, hình ảnh ẩn dụ, tả âm thanh tiếng ve kêu như tiếng đàn cầm. “Dắng Dỏi ” nghĩa là inh ỏi, âm sắc tiếng ve trầm bổng, ngân dài vang xa. Ngôi lầu buổi xế chiều trở nên náo động, rộn ràng. Nhà thơ lấy tiếng ve để đặc tả khung cảnh một chiều hè làng quê lúc hoàng hôn buông dần xuống mái lầu (lầu tịch dương) là một nét vẽ tinh tế đầy chất thơ làm nổi bật cái không khí êm ả một chiều hè nơi thôn dã:

“Dắng dỏi cầm ve //lầu tịch dương”

Và đây, là tiếng chim cuốc, tiếng ve ngày hè nơi đồng quê được nói đến trong thơ “Hội Tao Đàn” dưới triều vua Lê Thánh Tông:

“Tường nọ nhặt khoan vang tiếng cuốc,
Cành kia dắng dỏi gảy cầm ve
(Vịnh cảnh mùa hè).

Trở về “Côn Sơn quê cũ”, Ức Trai đã từng bồi hồi “trong tiếng cuốc kêu xuân đã muộn ”, giờ đây ông lại thả hồn mình trong khúc ca dân dã “cầm ve ” buổi chiều tà cuối hè. Tiếng ve lúc hoàng hôn thường gợi nhiều bâng khuâng, vì ngày tàn, màn đêm đang dần dần buông xuống. Nhưng với Ức Trai, nó đã trở thành “cầm ve” nhặt khoan trầm bổng, dắng dỏi vang xa, làm cho khung cảnh làng quê một buổi chiều tà bỗng rộn lên bao niềm vui cuộc đời.

Hai câu kết diễn tả ước mong nhà thơ:

Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắp đòi phương.

“Dễ có ” nghĩa là hãy để (cho ta) có; học giả Đào Duy Anh ghi chú là “Lẽ có” và giải thích “Đáng lẽ có… Ngu cầm là cây đàn thần của vua Thuấn (Nghiêu Thuấn là hai ông vua thời cổ đại Trung Quốc – triều đại lí tưởng: nhân dân được sống trong hạnh phúc, thanh bình). Câu kết, cảm xúc trữ tình được diễn tả bằng một điển tích phản ánh khát vọng cao đẹp của nhà thơ. Ức Trai chân thành bày tỏ: Hãy để cho ta cây đàn thần của vua Thuấn, ta sẽ gảy lên khúc ‘‘Nam phong”, cầu mong cho mọi nhà, mọi chốn, khắp các phương trời (đòi phương) được ấm no, giàu có.

Hai câu kết toát lên một tình yêu lớn. Con người Ức Trai lúc nào cũng hướng về nhân dân, mong ước cho nhân dân được ấm no và nguyện hi sinh phấn đấu cho hòa bình, hạnh phúc của dân tộc.

Trong thơ Ức Trai, hai câu kết luôn luôn là sự hội tụ bừng sáng của những tư tưởng tình cảm cao cả, đẹp đẽ. Vì thế mà câu kết đã để lại trong tâm hồn người đọc những ấn tượng vô cùng mạnh mẽ:

“Cảnh thanh dường ấy chẳng về nghỉ,
Lẩn thẩn làm chi áng mận đào “
(Mạn thuật – số 13)

“Bui một tấc lòng ưu ái cũ,
Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông”.
(“Thuật hứng” – số 5)

Bài thơ Nôm ra đời gần 600 năm về trước miêu tả cảnh tình mùa hè nơi đồng quê, đã đem đến cho chúng ta nhiều thú vị văn chương. Một giọng thơ thâm trầm, hồn hậu đáng yêu. Nhiều tiếng cổ, cấu trúc câu thơ thất ngôn xen lục ngôn. Phép đối ở phần thực và phần luận khá chặt chẽ về ngôn từ, thanh điệu, hình ảnh và ý tưởng. Cảnh sắc và âm thanh mùa hè quê ta xa xưa như sống dậy qua những vần thơ nhuần nhị đầy cá tính sáng tạo.

Ức Trai đã gửi gắm một tình yêu thiên nhiên nồng hậu, một tấm lòng thiết tha với cuộc sống, một niềm ước mong tốt đẹp cho hạnh phúc của nhân dân. Vĩ đại thay Ức Trai. Bài học thương yêu nhân dân mà ông nói đến lúc nào cũng mới mẻ và đậm đà.

Đọc thêm 🌸 Phân Tích Ngôn Chí Bài 20 🌸 của Nguyễn Trãi!

Phân Tích Bảo Kính Cảnh Giới Bài 43 Nâng Cao

Bạn có thể tham khảo bài văn phân tích “Bảo kính cảnh giới bài 43” nâng cao bên dưới để trau dồi khả năng viết văn!

Nguyễn Trãi là một nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc song ông cũng là một nhà chính trị tài ba, lỗi lạc. Dưới thời nhà Lê ông là một vị hiền thần, đã có nhiều kế sách đúng đắn, sáng suốt giúp cho nhà Lê phát triển triều đình, ổn định phát triển cuộc sống của dân chúng.

Tuy nhiên, vì bản lĩnh cứng cỏi, lại liêm khiết, quyết không chịu bắt tay với bọn nịnh thần nên Nguyễn Trãi đã trở thành đối tượng và chúng công kích và tìm mọi cách để hãm hại. Ông đã nhiều lần bị bắt vào ngục vì những trò tiểu nhân của chúng.

Sau những thăng trầm chốn quan trường, ông đã quyết định từ chốn quan trường để trở về quê sống cuộc sống ẩn dật, giản dị của một Nho sĩ. Và ở quê nhà Côn Sơn, Chí Linh, Nguyễn Trãi đã cho ra đời rất nhiều những sáng tác hay, viết về cuộc sống dân dã nhưng đầy niềm vui và ý nghĩa. Bài thơ bảo kính cảnh giới số 43 cũng được sáng tác trong thời gian Nguyễn Trãi lui về ở ẩn đấy.

Bài thơ bảo kính cảnh giới số 43 viết về cuộc sống bình dị nơi thôn dã của Nguyễn Trãi, cũng thể hiện được tác phong ung dung, bình tĩnh, tự tại của nhà thơ trước những nhịp sống, nhịp vận động của thiên nhiên, đất trời.

Bài thơ vừa thể hiện được những nét đẹp trong tâm hồn của nhà thơ, đó là một thi nhân đầy nhạy cảm với tình yêu thiên nhiên da diết. Song đó cũng là một con người nhập thế, bởi dù đã trở về ở ẩn nơi núi rừng Côn Sơn thì Nguyễn Trãi vẫn một lòng hướng về thế sự, một lòng mong mỏi người dân có cuộc sống bình yên, êm ấm, no đủ.

Ở câu thơ đầu tiên, nhà thơ Nguyễn Trãi đã vẽ ra khung cảnh bình yên, tươi đẹp của cuộc sống dân dã, đồng thời cũng cho thấy được tâm trạng cũng như tư thế tự tại của nhà thơ trong khung cảnh tươi đẹp đó:

Rồi hóng mát thuở ngày trường
Hòe lục đùn đùn tán rợp trương

Ở trong hai câu thơ này phần nào đã hé mở bức tranh ngày hè đầy rực rỡ và tâm hồn đầy thư thái của thi nhân. Từ “rồi” mà Nguyễn Trãi sử dụng ở đây không phải từ chỉ thời gian sau này, không phải sự dự báo cuộc sống an nhàn, thảnh thơi của mình sau đó. Bởi lúc này thì Nguyễn Trãi đã từ quan, bỏ lại nơi bát nháo, thị phi của chốn quan trường mà trở về ở ẩn, sống dung dị với thiên nhiên, cuộc sống giản dị nơi thôn dã. Bởi vậy mà từ “rồi” ở đây ta có thể hiểu theo nghĩa là sự rảnh rỗi, thời gian đầy tự do mà không vướng phải những công chuyện trần thế, chỉ an tâm thưởng ngoạn khung cảnh của thiên nhiên.

“Rồi bóng mát thuở ngày trường” câu thơ đã thể hiện được tư thế đầy tự do, tự tại của nhà thơ Nguyễn Trãi khi đang an nhàn mà đón nhận “bóng mát” của những ngày thường, đó chính là sự tươi mát, dịu nhẹ nơi tâm hồn, khác hẳn với cái nóng nực, bức bối đầy khó chịu nơi thị thi như chốn quan trường. Câu thơ vừa thể hiện được những đặc điểm về thời tiết, đó là sự mát mẻ nơi núi rừng, song đó cũng chính là sự thanh mát nơi tâm hồn, khi nhà thơ không còn vướng bận chuyện chính sự.

Trong cái không gian thoáng và mát mẻ ấy, nhà thơ có điều kiện quan sát những cảnh vật, sự sống xung quanh mình “Hòe lục đùn đùn tán rợp giương”.

“Hòe lục” là sắc xanh của những chiếc lá hòe. “Đùn đùn” vừa diễn tả được cái um tùm, xum xuê của tán lá, nhưng đồng thời cũng thể hiện được chiều vận động của những chiếc lá này.

Trong sự quan sát và cảm nhận của nhà thơ Nguyễn Trãi thì những chiếc lá hòe này dường như đang bảo nhau mà đùn lên xanh tốt, bóng của cây hòe cũng phủ bóng râm cho cả một vùng không gian “Tán rợp giương”. Và màu sắc tươi mới, rực rỡ của ngày hè không chỉ dừng lại ở cái sắc xanh của lá, nó còn được điểm xuyết bởi sắc đỏ của những bông hoa thạch lựu, sự điểm xuyết này càng làm cho bức tranh ngày hè thêm tươi đẹp, tràn trề sức sống và thêm thu hút đối với cảm nhận về thị giác của độc giả:

Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương

Ta có thể thấy, đây là những câu thơ đẹp nhất trong bài khi miêu tả về khung cảnh ngày hè đầy rực rỡ, tươi đẹp. “Thạch lựu” là một loại hoa thường nở vào những ngày hè, vì vậy mà nhắc đến hoa thạch lựu thì người ta hay liên tưởng đến những ngày hè đầy tươi đẹp.

“Hiên” ở đây là từ chỉ địa điểm, hiên cũng tức là hiên nhà, xét ý nghĩa toàn câu thơ ta sẽ thấy được những bông hoa thạch lựu đỏ rực ngay trước hiên nhà. Cũng như câu thơ trên, nhà thơ Nguyễn Trãi đã sử dụng những động từ đầy sức biểu cảm, “phun” thể hiện sự lan tỏa, khuếch trương của sắc đỏ ấy trong không gian.

Trong cách mô tả này ta có thể cảm nhận được dường như sắc đỏ rực của những bông hoa thạch lựu không hề tồn tại cố hữu ở một địa điểm mà nó nở, mà có xu hướng làm lan tỏa màu sắc rực rỡ ấy vào không gian, vào tâm hồn người thi nhân, tạo ra những cảm giác vấn vương, rạo rực.

“Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”.

Như vậy không chỉ có màu sắc xanh lục của lá hòa, sắc đỏ thắm của những bông hoa thạch lựu mà bức tranh ngày hè càng trở nên sống động và chân thực hơn nữa khi nhà thơ miêu tả hương thơm thoang thoảng của ao sẽ. Vẫn là những động từ dùng để chỉ sự vận động “tiễn” và đối tượng đó chính là hương sen. Chính việc sử dụng các động từ để chỉ sự vận động của cảnh sắc, mùi hương này đã đem đến cho người đọc những cảm nhận chân thực và sống động nhất khung cảnh ngày hè tươi đẹp mà nhà văn đã thể hiện qua bài thơ.

Lao xao chợ cá làng ngư phủ;
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương

Nhà thơ Nguyễn Trãi không chỉ đắm mình trong khung cảnh thiên nhiên đầy tươi đẹp mà ông còn vui với những niềm vui thuộc về cuộc sống lao động. Nếu ở những câu thơ trên nói về vẻ đẹp của cảnh sắc ngày hè thì đến câu thơ này, Nguyễn Trãi lại hướng đến vẻ đẹp của cuộc sống lao động của người dân.

“Lao xao” diễn tả hành động khẩn trương, tấp nập, và cái đối tượng của sự tấp nập, huyên náo đó chính là “chợ cá làng ngư phủ, đây cũng là âm thanh đặc trưng của cuộc cuộc sống vui tươi, thanh bình.

Ở hai câu thơ này nhà văn không chỉ gợi tả đến hình ảnh mà còn rất chú trọng đến âm thanh, đó chính là “Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”, đó chính là tiếng đàn được phát ra từ tự nhiên, “cầm ve” tiếng động, âm thanh của những tiếng ve. Đây cũng là âm thanh đặc trưng của ngày hè, làm cho bức tranh ngày hè thêm sinh động.

Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắp đòi phương.

Nếu như những câu thơ trên thể hiện được cảnh sắc của ngày hè thì hai câu thơ cuối cùng của bài thơ lại thể hiện được mong muốn, khát khao của nhà thơ về một cuộc sống đầy tươi đẹp của nhân dân.

“Ngu cầm” là đàn của vua Nghiêu Thuấn, vị vua tài giỏi, nhân đức của Trung Hoa, dưới sự trị vì của ông thì dân chúng có cuộc sống no ấm, đủ đầy. Ở đây nhà thơ Nguyễn Trãi đã mượn điển tích ngu cầm để thể hiện mong ước về một cuộc sống, về một phép nghiệm màu làm cho nhân dân được yên ấm, hạnh phúc “Dân giàu đủ khắp đòi phương”, đó chính là mong ước đầy nhân văn của nhà thơ. Nhà thơ mong cho người dân khắp nơi đều có cuộc sống sung túc, đủ đầy, không còn cảnh lầm than, đói khổ.

Như vậy, qua bài thơ “Bảo kính cảnh giới bài 43” ta có thể cảm nhận được tâm hồn thanh bạch, tâm thế tự do tự tại của nhà thơ Nguyễn Trãi trước cảnh sắc ngày hè tươi đẹp nơi dân dã. Nhưng ta cũng thấy được nét đẹp trong tâm hồn của nhà thơ này, đó là dù có lui về ở ẩn thì tấm lòng nhân nghĩa của ông vẫn luôn hướng về nhân dân, đó là ước mơ đầy nhân văn, đầy con người khi mong mỏi cho người dân có một cuộc sống tốt đẹp.

Tìm hiểu về ý thơ Nguyễn Trãi thông qua 🌸 Phân Tích Ngôn Chí Bài 10 🌸 chọn lọc!

Phân Tích Bảo Kính Cảnh Giới Bài 43 Ngắn Hay

Chia sẻ đến độc giả bài văn phân tích “Bảo kính cảnh giới bài 43” ngắn gọn mà hay, xem ngay!

Nguyễn Trãi là một nhà thơ kiệt xuất của dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới. Ông đã để lại cho đời nhiều tác phẩm có giá trị lớn. Nếu như Bình Ngô đại cáo của ông mang đầy nhiệt huyết, lòng tự tôn dân tộc thì “Bảo kính cảnh giới” (bài số 43) là một bức tranh về vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi. Bài thơ đã thể hiện tư tưởng, tình cảm yêu đời, yêu thiên nhiên và ước vọng cao đẹp của nhà thơ.

Mở đầu, bài thơ đến với ta với những hình ảnh về thiên nhiên rực rỡ:

Rồi hóng mát thuở ngày trường
Hoè lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương

Từ “rồi” mở đầu câu thơ phải chăng nói đến tâm trạng “bất đắc chí” của nhà thơ. Câu thơ đầu chỉ vỏn vẹn với sáu từ nhưng đã khá đầy đủ về thời gian, hoàn cảnh, tâm trạng của nhà thơ. Đây chính là sự phá cách đầy sáng tạo của Nguyễn Trãi, ông đã Việt hoá thơ Đường luật vốn mỗi câu có đủ bảy từ. Lại thêm sự mới lạ với cách ngắt nhịp: một, hai, ba kết hợp với thanh bằng ở cuối câu làm câu thơ nghe như tiếng thở dài nhưng lại không giống lời than thở.

Xem bức tranh thiên nhiên của Nguyễn Trãi, trước hết ta thấy hình ảnh một con người ngồi đó – Câu mở đầu hóng mát ngoạn cảnh nhàn nhã, thảnh thơi. Phải chăng, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào ông cũng vẫn hoà mình cùng thiên nhiên, bức tranh thiên nhiên đã hiện ra trước mắt ông thật rực rỡ.

Ba câu thơ tiếp theo, dưới ngòi bút đầy tài năng của Nguyễn Trãi, một bức tranh thiên nhiên thật sống động và đầy màu sắc đã đến với chúng ta một cách chân thật nhất. Đó là màu xanh của cây hoè, màu đỏ của hoa lựu, màu hồng của hoa sen, màu vàng lung linh của ánh nắng chiều. Tất cả hòa quyện lại với nhau, tạo nên cảnh vật đặc trưng của mùa hè.

Mở đầu câu thơ là hình ảnh cây hòe – một loại cây đặc trưng ở vùng Bắc Bộ, rất dễ bắt gặp ở mọi nơi. Tính từ” đùn đùn “kết hợp với động từ mạnh “giương” đã góp phần diễn tả sự sum suê, nảy nở, làm cho cây hoè như có hồn hơn, làm bức tranh như sống động hơn.

Bên cạnh đó, không chỉ cảm nhận bằng thị giác, Nguyễn Trãi còn cảm nhận cảnh vật bằng thính giác và khứu giác. Nhịp thơ 3/4 kết hợp với động từ mạnh” phun “làm cảnh vật dường như nổi bật hơn nhưng lại không chói chang, oi nồng mà mát dịu, tinh tế. Bức tranh cảnh ngày hè đã trở nên sinh động, đặc sắc hơn với âm thanh và mùi vị. Mặc dù khung cảnh mà tác giả miêu tả là cuối ngày, khi mặt trời lặn nhưng mọi vật vẫn tràn đầy sức sống với những từ ngữ “đùn đùn”, “giương”, “phun”, “tiễn”, “lao xao”, “dắng dỏi”.

Những từ ngữ đó cũng góp phần thể hiện những điều trong lòng tác giả – ước mong được cống hiến cho nhân dân, cho đất nước. Nhiệt huyết đó như muốn phun ra, trào ra và lan toả đi khắp nơi. Trong sáu câu thơ này, tác giả đã thay đổi, không đi theo tính quy phạm của văn học phong kiến nữa. Ông đã miêu tả cảnh ngày hè với những sự vật vô cùng gần gũi với cuộc sống hằng ngày.

Và Cảnh ngày hè trong thơ Nguyễn Trãi không chỉ thể hiện trong những màu sắc của thiên nhiên tươi đẹp mà còn qua nhịp sống sinh đẹp của nhân dân.

Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương

Hai từ láy “lao xao”, “dắng dỏi” kết hợp với nhau đã thể hiện những âm thanh của làng chài quen thuộc – lao xao của chợ cá, rộn rã của tiếng ve. Ở đây, Nguyễn Trãi đã ngắm nhìn cuộc sống, cảm nhận cuộc sống với một tâm hồn rộng mở một tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống. Tiếng lao xao, tiếng ve phải chăng là tiếng lòng ông, tiếng lòng của một vị tướng cầm quân từng xông pha trận mạc một thời, tiếng lòng của một người yêu thiên nhiên tha thiết. Thiên nhiên, cảnh vật ở vào thời điểm cuối ngày nhưng sự sống thì không dừng lại.

Cũng như Nguyễn Trãi, mặc dù đã lui về ở ẩn nhưng lòng ông lúc nào cũng có một tấm lòng yêu thiên nhiên, yêu quê hương, đất nước tha thiết. Hai câu cuối của bài thơ đã được tác giả gửi gắm trọn vẹn tâm tư và suy nghĩ, qua đó, thể hiện hết phần nào về vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi.

Dễ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương

Ở đây, tác giả đã mượn điển tích để nói lên khát vọng của mình. Câu thơ cuối sáu chữ ngắn gọn, nhịp 3/3 thể hiện sự dồn nén cảm xúc của cả bài – tác giả khát khao đem tài trí thực hành tư tưởng yêu nước, thương dân, và đó cũng chính là tưởng chủ đạo của bài thơ.

Tuy tác giả đón nhận cảnh ngày hè với tư thế ung dung trong một ngày nhàn rỗi nhưng ông vẫn luôn suy nghĩ, lo lắng cho nhân dân, cho đất nước. Cảm nhận cảnh ngày hè nhưng tác giả vẫn quan tâm tới cuộc sống của nhân dân. Thế nên ông nghe thấy âm thanh tấp nập, lao xao của làng chài.

Ông quan tâm tới nhân dân, lo cho dân cho nước. Chính vì vậy, ông ước mong mình có cây đàn của vua Ngu Thuấn. Với cây đàn đó, Nguyễn Trãi có thể mang tới cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân và đất nước.

Không có một lòng yêu quê hương, đất nước sâu đậm, ông không thể có một ước muốn như vậy. Không có lòng yêu quê hương, đất nước, ông không thể cảm nhận được hết vẻ đẹp mùa hè nơi một làng chài quê hương thanh bình. Và, không có lòng yêu quê hương, đất nước, ông không thể viết nên bài thơ Bảo kính cảnh giới” (bài số 43) làm xúc động lòng người như vậy.

Bài thơ tả cảnh ngày hè cho thấy tâm hồn Nguyễn Trãi chan chứa tình yêu thiên nhiên, yêu đời, yên nhân dân, đất nước. Việt hoá thơ Đường luật, sáng tạo thơ thất ngôn xen lục ngôn, vận dụng hình ảnh, màu sắc, đường nét, âm thanh của cảnh vật thiên nhiên và cuộc sống của con người, hệ thống ngôn ngữ giản dị tinh tế xen lẫn từ Hán và điển tích chính là những nét nghệ thuật đặc trưng cho Bảo kính cảnh giới” (bài số 43) của Nguyễn Trãi.

Bài thơ Bảo kính cảnh giới” (bài số 43) đặc sắc về cả nội dung và nghệ thuật. Qua đó, ta thấy được vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi. Ông là người yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước. Nhưng trên hết, ông là một người vừa có tài, vừa có tâm bởi ông luôn lo lắng cho nhân dân, cho đất nước. Ông muốn cống hiến nhiệt huyết của mình để nhân dân hạnh phúc, ấm no, đất nước giàu mạnh. Tư tưởng của Nguyễn Trãi như một bài học gửi gắm cho thế hệ trẻ về lòng yêu nước, ước mong cống hiến cho đất nước.

Chọn lọc những bài văn 🌸 Phân Tích Ngôn Chí Bài 3 🌸 ấn tượng!

Phân Tích Bảo Kính Cảnh Giới Bài 43 Hấp Dẫn

Mời các bạn xem thêm bài văn phân tích “Bảo kính cảnh giới bài 43” được đánh giá hấp dẫn nhất!

Nguyễn Trãi là một tác giả lớn, những tác phẩm của ông chất chứa giá trị nhân nghĩa, tình yêu thiên nhiên cùng những cảm hứng về thế sự. Nói về tình yêu thiên nhiên, “Bảo kính cảnh giới” (bài số 43) được coi là một bài thơ thể hiện cảm xúc mãnh liệt của ông về cảnh vật nhưng hàm chứa bên trong là những cảm hứng thế sự sâu sắc.

“Bảo kính cảnh giới” là chùm thơ được rút ra từ tập Quốc âm thi tập bao gồm có 61 bài thơ trong tổng số 254 bài. Bố cục bài thơ số 43 gồm có 2 phần, phần 1 gồm 6 câu đầu nói về vẻ đẹp bức tranh ngày hè, phần 2 gồm 2 câu cuối thể hiện niềm tha thiết lớn của nhà thơ với đời.

Bảo kính cảnh giới được viết theo thể loại thơ Nôm Đường luật. Tức là viết bằng chữ Nôm và thể Đường luật. Đây được xem là một lối thơ riêng do tác giả trung đại Việt Nam sáng tác dựa trên thể loại thơ Đường luật.

Những dòng thơ đầu thể hiện phong thái ung dung tự tại của chủ thể trữ tình:

Rồi hóng mát thuở ngày trường

“Rồi” tức là rảnh rỗi, thư thái, “ngày trường” là ngày dài. Nhịp thơ bất thường 1/2/3 tạo giọng điệu chậm rãi thong thả kết hợp với từ “rồi” nhấn mạnh thời gian tác giả thảnh thơi, nhàn nhã, đang dạo bước thưởng ngoạn phong cảnh. Đó là những khoảnh khắc hiếm thấy trong cuộc đời Nguyễn Trãi.

Bức tranh ngày hè được tác gia miêu tả đầy sinh động, tràn trề nhựa sống:

Hòe lục đùn đùn tán rợp trương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương

Màu xanh của hòe, màu đỏ của lựu, màu hồng của sen, màu vàng của nắng… tạo nên bức tranh ngày hè tươi tắn, đầy màu sắc. Trạng thái sự vật được miêu tả bằng các từ láy giàu sức gợi hình: đùn đùn, giương, phun, tiễn… Cây hòe “đùn đùn tán rợp giương” – sức sống như từ bên trong hối hả trào ra bên ngoài, khiến tán cây vươn ra mạnh mẽ, che rợp cả không gian.

Hoa lựu “phun thức đỏ” – động từ “phun” khiến màu đỏ như tạo thành dòng tuôn chảy, tô đậm thêm sắc đỏ của hoa. Những đóa sen đã tàn, hết mùi hương. Ngắt nhịp ¾ gây ấn tượng cùng sự chú ý cho người đọc làm nổi bật cảnh vật buổi chiều hè.

Bức tranh ngày hè không chỉ được miêu tả bằng những hình ảnh màu sắc mà còn có cả âm thanh vô cùng sôi động và quen thuộc – tiếng chợ cá “lao xao” vọng lại cùng với tiếng ve inh ỏi lúc mặt trời sắp lặn như tiếng đàn:

Lao xao chợ cá làng ngư phủ;
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương

Những âm thanh sôi động, dân dã ấy gắn liền với cuộc sống đời thường của nhân dân. Nghệ thuật đảo ngữ đảo các tính từ, từ láy lên đầu nhằm nhấn mạnh không khí rộn rã, tươi vui trong đời sống người lao động. Dù thời gian “lầu tịch dương” là khi cuối ngày, mặt trời sắp lặn nhưng sự sống dường như không dừng lại.

Bức tranh ngày hè được miêu tả từ gần tới xa, có sự kết hợp hài hòa giữa đường nét, màu sắc, âm thanh; giữa con người và cảnh vật trở nên vô cùng rực rỡ, sinh động, tràn trề sức sống. Tất cả đều gần gũi, bình dị, tĩnh ở bên ngoài mà tràn đầy, căng tràn nhựa sống từ bên trong.

Tác giả đã huy động mọi giác quan để cảm nhận về sự thay đổi của thiên nhiên từ thị giác, thính giác đến khứu giác. Qua đó, những dòng thơ đã thể hiện sự giao cảm mạnh mẽ và tinh tế của nhà thơ với cảnh vật cũng như tình yêu thiên nhiên và yêu cuộc sống tha thiết của tác gia.

Hai câu thơ cuối là niềm mong ước, khát vọng của nhà thơ: có cây đàn của vua Thuấn. Tác gia sử dụng điển cố “Ngu cầm” (cây đàn của Vua Ngu Thuấn) để gảy 1 khúc Nam Phong. Mỗi khi cây đàn ấy gảy khúc Nam Phong thì mưa thuận gió hòa, nhân dân làm ăn sung túc, no đủ.

Lấy vua Nghêu, Thuấn làm “gương báu răn mình”, Nguyễn Trãi đã thể hiện khát khao, chí hướng cao cả là mang đến cuộc sống ấm no hạnh phúc cho nhân dân khắp mọi nơi. Đó là khát vọng cao đẹp thể hiện tấm lòng suốt đời vì dân vì nước.

“Dân giàu đủ khắp đòi phương” – Cách ngắt nhịp 3/3 thể hiện sự dồn nén cảm xúc của cả bài đó thể hiện niềm khát vọng mong mỏi da diết cuộc sống thanh bình hạnh phúc.Hai câu lục ngôn xuất hiện ở phần đề và kết bài góp phần nhấn mạnh nội dung cần biêu đạt đồng thời góp phần tạo nhịp điệu cho bài thơ.

Bài thơ là bức tranh thiên nhiên cảnh vật ngày hè đầy màu sắc và âm thanh sống động. Ở phần đầu bài thơ, người đọc tưởng như tác giả đang đắm say với thiên nhiên, cảnh vật nhưng đến cuối bài lại bộc lộ niềm thương yêu và nỗi lo đau đáu cho nhân dân. Đây chính là biểu hiện của một trái tim lớn, một nhân cách cao cả, thân nhàn mà tâm không nhàn.

“Bảo kính cảnh giới” – bài số 43 đã được nhà thơ sử dụng một cách sáng tạo thể thơ Đường luật với sự đan xen của câu sáu chữ và câu bảy chữ. Ngôn ngữ thơ giản dị, trong sáng, gần gũi với khẩu ngữ (lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân) nhưng lại rất giàu cảm xúc và giàu sức gợi.

Đồng thời, nhà thơ vận dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc trưng của văn học trung đại: Miêu tả thiên nhiên, đất trời và cảnh đời sống sinh hoạt của con người để qua đó bộc lộ một cách kín đáo tâm tư, tình cảm, nỗi lòng của mình về con người, về cuộc đời.

Tư tưởng lớn xuyên suốt sự nghiệp của Nguyễn Trãi: tư tưởng nhân nghĩa, yêu thương, thương dân đã được thể hiện qua những rung động trữ tình dạt dào trước cảnh thiên nhiên ngày hè. Thông qua bài thơ, ta càng cảm nhận sâu sắc hơn tấm lòng vì nước, vì dân của người anh hùng cứu quốc thuở “bình Ngô”, danh nhân văn hóa Đại Việt.

Thơ chế vui 😂 Bắc Thang Lên Hỏi Ông Trời 😂 Cười Mỏi Miệng

Cap Thả Thính Chất

Phân Tích Bảo Kính Cảnh Giới Bài 43 Tuyển Chọn

Gửi tặng bạn bài văn phân tích “Bảo kính cảnh giới bài 43” do chúng tôi tuyển chọn!

Nguyễn Trãi là đại thi hào dân tộc, là danh nhân văn hóa của Đại Việt, đồng thời ông còn là tác giả áng thiên cổ hùng văn “Bình ngô đại cáo”. Ngoài ngòi bút sắc bén, lập luận đanh thép với dẫn chứng thuyết phục trong những áng văn chính luận, ta còn bắt gặp một Nguyễn Trãi với phong thái nhàn tản, giao cảm hòa hợp cùng thiên nhiên trong “Bảo kính cảnh giới 43”. Không chỉ mang chất trữ tình sâu sắc, bài thơ chứa đựng cả nội dung mang tính giáo huấn người đời, ngời sáng tâm hồn lí tưởng của bậc thi sĩ lớn Ức Trai.

Trước hết, bài thơ thể hiện tình yêu cũng như tâm hồn tinh tế và sự giao cảm mạnh mẽ đối với thiên nhiên của tác giả Nguyễn Trãi. Nhân vật trữ tình xuất hiện trong phong thái ung dung tự tại:

“Rồi hóng mát thuở ngày trường”.

Như chúng ta đã biết, Nguyễn Trãi là nhà thơ nặng lòng với thiên nhiên và luôn mở lòng với thiên nhiên trong mọi hoàn cảnh, nhưng khoảnh khắc rảnh rỗi vào một ngày khí trời mát mẻ, trong lành thì quả là hiếm hoi. Nếu người xưa thường thiên về vịnh cảnh thì Nguyễn Trãi lại vận dụng bút pháp tả. Và rồi bằng sự quan sát tinh tế của nhân vật trữ tình, bức tranh thiên nhiên đầy sức sống đã hiện lên:

Rồi hóng mát thuở ngày trường
Hòe lục đùn đùn tán rợp trương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương

Những sắc màu của cảnh vật hiện lên trong sự giao hòa: Màu lục của lá hòe cùng màu đỏ của hoa thạch lựu đan cài vào nhau trong ánh mặt trời buổi chiều. Đặc biệt hơn, cảnh vật được miêu tả trong sự chuyển động tạo nên một bức tranh căng tràn sức sống. Tác giả đã sử dụng những động từ mạnh: “đùn đùn”, “trương”, “phun” gợi nên sự tràn đầy và sức sống từ nội tại đang ứa căng và không kìm lại được và phải bộc phát ra bên ngoài.

Đại thi hào Nguyễn Du cũng đã từng miêu tả cảnh sắc mùa hè bằng sắc hoa lựu: “Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông” (trích “Truyện Kiều”). Với từ “lập lòe”, tác giả Nguyễn Du đã tạo nên sự độc đáo trong việc tạo hình sắc, còn Nguyễn Trãi lại nhấn mạnh sức sống của cảnh vật, thể hiện rõ cái nhìn tinh tế đối với cảnh vật của hai thi sĩ tài ba. Thi nhân đã vận dụng nhiều giác quan: thị giác, thính giác và khứu giác kết hợp cùng trí tưởng tượng phong phú để đón nhận vẻ đẹp của thiên nhiên, cho thấy sự giao cảm mạnh mẽ nhưng vô cùng tinh tế của Ức Trai đối với cảnh vật.

Không chỉ dừng lại ở đó, bên cạnh màu sắc tác giả còn tô điểm cho bức tranh thiên nhiên âm thanh, đường nét hệt như một người họa sĩ tài ba tạo nên một kiệt tác có hồn của tạo vật. “Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ” với sự kết hợp của động từ “phun” và “thức”- màu vẻ, dáng vẻ, câu thơ đã diễn tả thành công cái hồn và thần thái của cảnh vật. Cảnh vật mùa hè còn được miêu tả qua hình ảnh rất đặc trưng: Đóa sen trong ao đã tỏa hương thơm ngát, tạo nên một bức tranh hài hòa về màu sắc và hương vị.

Bài thơ còn khắc họa bức chân dung của một con người luôn hết lòng vì dân, vì nước. Mặc dù đang hòa mình đắm say trong vẻ đẹp sinh động, đáng yêu và tràn trề sức sống của thiên nhiên nhưng tác giả vẫn hướng đôi mắt quan sát của mình đến cuộc sống của con người:

Lao xao chợ cá làng ngư phủ;
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương

Bức tranh mùa hè được bổ sung thêm những nét vẽ về cuộc sống của con người với thanh âm của “lao xao” của chợ cá tại một làng chài ven sông cùng tiếng dắng dỏi của cầm ve. Cuộc sống yên vui, no đủ của người dân đã gợi lên trong lòng tác giả một mong ước hết sức cao đẹp:

Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắp đòi phương.

Tác giả mong ước có được chiếc đàn của vua Thuấn để gảy nên khúc Nam Phong ca ngợi đời sống ấm no hạnh phúc của nhân dân. Câu thơ kết thúc bài được kiến tạo theo cách ngắt nhịp 3/3, thể hiện rõ sự rồn nén cảm xúc của bài thơ.

Mở đầu bằng bức tranh thiên nhiên giàu hình ảnh, màu sắc, hình khối, đường nét nhưng kết thúc bằng câu thơ nói về con người cho thấy điểm kết mà tác giả muốn hướng đến không phải ở thiên nhiên tạo vật mà chính ở con người. Điều này đã thể hiện rõ tâm hồn hết sức cao cả và vĩ đại của Nguyễn Trãi- vị anh hùng dân tộc luôn mong muốn cho dân được ấm no, hạnh phúc.

Như vậy, thông qua bài thơ, chúng ta có thể thấy được tình yêu cùng sự giao hòa đối với thiên nhiên của tác giả, giống như ông đã từng bộc bạch: “Non nước cùng ta đã có duyên” (“Tự thán”- bài 4). Là một thi sĩ, ông đến với thiên nhiên trong mọi hoàn cảnh nhưng cuối cùng, tâm hồn của ông vẫn hướng đến nhân dân, đến đất nước.

Qua lời tâm sự và mong ước về cuộc sống của nhân dân, độc giả có thể thấy được tâm hồn và lí tưởng cao đẹp của tác giả Nguyễn Trãi. Tình yêu thiên nhiên, tạo vật đã quyện hòa và làm ngời sáng hơn nữa tình yêu đối với đất nước, nhân dân.

Gợi ý bài văn 🌸 Phân Tích Bài Thơ Thủ Vĩ Ngâm 🌸 xuất sắc!

Phân Tích Bảo Kính Cảnh Giới Bài 43 Điểm Cao

Tuyển tập dưới đây là mẫu bài văn phân tích “Bảo kính cảnh giới bài 43” đạt điểm cao, mời các bạn cùng xem:

Nguyễn Trãi không chỉ biết đến với tác phẩm nổi tiếng, một áng thiên cổ hùng văn bình ngô đại cáo mà còn được biết đến vơi những bài thơ thiên nhiên và con người như Côn Sơn Ca, Cây Chuối… một trong những tác phẩm thiên nhiên và con người ấy còn phải kể đến bài thơ bảo kính cảnh giới 43 của ông. Đó là bài thơ “Bảo kính cảnh giới bài 43” với những thiên nhiên con người và tâm trạng của Nguyễn Trãi.

Trong những bài thơ về tình yêu thiên nhiên Côn Sơn chính là nơi dừng chân của Nguyễn Trải trong những ngày tháng buồn bã mệt mỏi nơi quan trường.

Sự ung dung nhàn hạ ấy được thể hiện trong câu thơ đầu tiên:

Rồi hóng mát thuở ngày trường

Câu thơ như mở ra những ngày tháng thảnh thơi, hóng mát những ngày dài, những hình ảnh dài của những ngày tháng ấy dần được mở ra ở những câu sau. Những ngày tháng ấy là những ngày tháng an nhàn khi gác lại chuyện chính sự sang một bên, khiến cho không chỉ tâm hồn mà thể xác cũng rất nhàn hạ. cuộc sống với ông chỉ cần thế mùa hè đến ông không cảm nhận thấy cái nóng của đát trời mà ông chỉ cảm nhận được gió mát.

Thiên nhiên nơi chốn quê hương chính là nguồn cảm hứng vô tân cho tác giả. àm cho ông cảm thây vui vẻ phần nào trong cuộc sống ở quê.

Hòe lục đùn đùn tán rợp trương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương

Đây là những câu thơ đặc tả những cảnh đẹp mùa hè nơi chốn quê hương ông, là hương sắc mùa hè rất sinh động và hấp dẫn. hình ảnh của mùa hè hiển ra với những gam màu nóng:màu đỏ của hoa hòe, màu lựu đỏ, màu hồng của cánh sen và chúng được kết hợp với những động từ mạnh như “ đùn đùn”, “ phun”, “ tiễn” cho thấy một bức tranh quê hương với màu sắc và hương vị đặc trưng và sự sinh sôi nảy nở manh mẽ trong mùa hè.

Bức họa đồn quê hiện ra với biết bao nhiêu màu sắc bao nhiêu thay đổi đẹp đẽ, và đó còn là sự sinh trưởng mạnh mẽ của hoa cỏ cây cối. nó mang tới cho chúng ta những cảm giác thật yên bình, không những thế ta còn cảm nhận được cái hương vị của mùa hè qua động từ “tiễn”.

Không những thế mùa hè còn mang đến cho tác giả những những phiên chợ những làng ngư phủ. Cuộc sống thôn dã hiện ra với vẻ tấp nập hiếm có của con người nơi đây. Chính chợ phản ánh cuộc sống của con người có no đủ, giàu có hay không

Lao xao chợ cá làng ngư phủ;
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương

Cuộc sống thật sự náo nhiệt, những phiên chợ của những ngư dân vùng biển, hình ảnh ảnh những con người lao động hiện lên thật đẹp với phiên chợ vui vẻ của những lưới cá bội thu.

Dân giàu đủ khắp đòi phương”.

Cất lên một khúc đàn của cây đàn vua Ngu Thuấn mang lại cho nhân dân cuộc sống âm no hạnh phúc. Mượn được hình ảnh vua Ngu Thuấn cây cầm ấy để làm cho nhân dân ta giàu mạnh khắp phương. Dù đã trở về với cuộc sống nơi thôn dã nhưng ông luôn luôn giữ tình yêu thương và lòng mong mỏi một cuộc sống ấm no hạnh phúc cho nhân dân tram họ.

Bài thơ là những dòng chảy cảm xúc về thiên nhiên cũng như nối khát khao mong mỏi và tấm lòng yêu nước nồng nhiệt của Nguyễn Trãi. Bìa thơ tuy ngắn nhưng để lại cho người đọc nhiều ấn tượng mạnh. Kết thúc bài thơ là tinh thần nhân nghĩa cao cả và tình yêu nhân dân vô bờ bến của ông.

Phân Tích Bảo Kính Cảnh Giới Bài 43 Học Sinh Giỏi

Nếu bạn đang tìm kiếm bài văn phân tích “Bảo kính cảnh giới bài 43” dành cho học sinh giỏi thì nên tham khảo mẫu mà chúng tôi gợi ý sau đây:

Nguyễn Trãi (1380 – 1442) là một vị anh hùng tên tuổi lẫy lừng trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta, là một con người tài năng kiệt xuất. “Quốc âm thi tập” là một tác phẩm thơ Nôm vô cùng nổi tiếng của Nguyễn Trãi. Bài thơ”Bảo kính cảnh giới bài 43″ là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất trong tập thơ. Bài thơ là nơi mà tác giả đã gửi gắm mọi tư tưởng, tình cảm yêu đời, yêu thiên nhiên và ước vọng cao đẹp của mình

Bài thơ “Bảo kính cảnh giới bài 43” thể hiện vẻ đẹp độc đáo của bức tranh ngày hè và vẻ đẹp tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu nhân dân, đất nước của Nguyễn Trãi. Bài thơ mang vẻ đẹp bình dị, tự nhiên, có sự đan xen câu lục ngôn và bài thơ thất ngôn. Mạch cảm xúc của bài thơ từ thư thái, thanh thản pha sắc thái bất đắc dĩ, có phần chán ngán đến hứng khởi, phấn chấn đó là mạch cảm xúc của “Bảo kính cảnh giới bài 43”.

Cảnh ngày hè hiện ra thật đẹp, đầy sức sống với những chi tiết cụ thể, sinh động: tán hoè xanh thẫm che rợp, thạch hựu bên hiên nhà còn phun màu đỏ, sen hồng trong ao ngát mùi hương, tiếng lao xao vọng lại từ làng chài, tiếng ve như tiếng đàn vang dội lên. Bức tranh cho thấy sức sống sinh sôi, rạo rực khắp nơi nơi.

Bức tranh ngày hè được hiện lên một cách nhàn tản nhưng vẫn sinh động và đầy sức sống. Cảnh sắc hè trước hết là bóng hòe, màn hòe. Lá hòe xanh thẫm, xanh lục. Cảnh hòe sum sê, um tùm, lá “đùn đùn” lên thành chùm, thành đám xanh tươi, tràn đầy sức sống:

Rồi hóng mát thuở ngày trường.
Hòe lục đùn đùn tán rợp trương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”

Màu xanh của hòe, đỏ của lựu, sen hồng dưới ao.Tất cả hiện lên rực rỡ, màu sắc có sự hài hòa, tươi thắm. Ba loài cây với ba dáng vẻ khác nhau nhưng tất cả đều có hồn. Thiên nhiên ấy chứa chan bao cảm xúc, lúc dịu nhẹ lan tỏa lúc bừng bừng phun trào.

Nguyễn Trãi đã chọn hòe, thạch lựu, sen hồng đưa vào thơ. Sen là biểu tượng cho cảnh sắc mùa hè làng quê ta. Sen trong ao làng đã “tiễn mùi hương” gợi không cảnh làng quê thanh bình, không khí thanh cao thoát tục. Cảnh sắc ấy vô cùng xinh đẹp và bình dị. Nhà thơ đã gắn tâm hồn mình với cảnh vật mùa hè bằng một tình quê đẹp và cảm nhận vẻ đẹp của nó bằng nhiều giác quan.

Giữa khung cảnh thiên nhiên ấy, nhà thơ để lòng mình hòa cùng thiên nhiên đầy sức sống. Nguyễn Trãi không chỉ nhìn bằng mắt mà còn trải lòng mình để lắng nghe âm thanh muôn vẻ của thiên nhiên:

“Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”

Chợ là hình ảnh thái bình trong tiềm thức của người Việt. Chợ đông vui thì đất nước thái bình thịnh trị, dân giàu đủ.Nhà thơ lắng nghe nhịp sống đời thường ấy với bao niềm vui. “Lao xao” là từ láy tượng thanh gợi tả sự ồn ào, nhộn nhịp Cảnh vật yên vui bởi sự thanh thản đang xâm chiếm tâm hồn nhà thơ.Bức tranh thiên nhiên ấy đã thổi bùng lên trong ông khát vọng cháy bỏng:

“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương”

Ngu cầm là cây đàn thần của Thuấn, vua Nghiêu, Thuấn là hai ông vua thời cổ đại Trung Quốc với triều đại lý trị vì lý tưởng nhân dân được sống trong hạnh phúc, thanh bình. Nguyễn Trãi mơ chiếc đàn của vua Thuấn để gảy khúc nam phong cho dân được ấm no hạnh phúc.

Câu thơ 6 chữ kết thúc nhấn mạnh niềm ước mơ ấy. Ước mơ rất đỗi bình thường mà vĩ đại, lãng mạn mà thực tế. Nó thể hiện tư tưởng nhân nghĩa của ông. Lý tưởng dân giàu đủ khắp đòi phương của Nguyễn Trãi với hôm nay vẫn còn mang ý nghĩa thẩm mỹ. Câu kết cảm xúc trữ tình được diễn tả bằng một điển tích phản ánh khát vọng cao đẹp của nhà thơ.

Nguyễn Trãi là một con người kiệt xuất của dân tộc ta, cả cuộc đời ông là một cuộc hành trình dài, nhiều gian lao về lý tưởng lo cho dân, cho nước. Công trạng cũng nhiều, ông là người đã có những đóng góp to lớn trong lĩnh vực quân sự và nhiếp chính khi ông còn đương nhiệm làm quan. Một lòng một dạ trung quân, ái quốc, tấm lòng ấy có trời biết, đất biết, cũng rất được công nhận.

Tuy nhiên, ông cũng phải chấp nhận lẽ đời mà ông không sao chống lại được. Cũng như bao con người trí thức, có tấm lòng biệt nhỡn liên tài nhưng không được trọng dụng, họ lại tìm đến những thú vui tao nhã điền viên – lâm tuyền để cân bằng lại cho mình những niềm tin, những hy vọng.

Nguyễn Trãi cũng vậy, ông sớm nhận ra sự phù du của vòng danh lợi và rồi chọn cuộc sống ẩn dật, lánh đời, tự do tự tại, giúp tâm hồn có những khoảnh khắc thanh thản nhẹ nhàng lạ thường. Tuy nhiên, không phải ông đi lánh đờ là rũ bỏ hết trách nhiệm với đời mà ông vẫn quan tâm đến việc thế sự theo một cách rất riêng biệt.

Bài thơ miêu tả bức tranh ngày hè sinh động và tràn đầy sức sống. Sức sống của sự vật trong trong bức tranh tả cảnh mùa hè cũng thể hiện cảm xúc, niềm yêu đời trong tâm hồn nhà thơ.

10+ bài văn 🌸 Phân Tích Gương Báu Khuyên Răn🌸 hay nhất!

Phân Tích Bảo Kính Cảnh Giới Bài 43 Hay Nhất

Cùng SCR.VN viết bài văn phân tích “Bảo kính cảnh giới bài 43” thật hay nhé!

Nguyễn Trãi là một nhân vật toàn tài hiếm có của lịch sử trung đại Việt Nam. Ông là nhà quân sự, nhà văn hóa lớn với tấm lòng yêu nước thương dân trong bất cứ hoàn cảnh nào. Ông cũng là người đặt nền móng và mở đường cho sự phát triển của thơ ca tiếng Việt.

Nhắc đến Nguyễn Trãi, người ta không thể không nhắc đến một tập thơ được xem là tác phẩm mở đầu cho văn học chữ Nôm – “Quốc âm thi tập”. “Bảo kính cảnh giới bài 43” là một bài thơ tiêu biểu. Bài thơ là nỗi niềm và cảm xúc của Nguyễn Trãi trước bức tranh ngày hè.

“Bảo kính cảnh giới bài 43” là bài thơ thứ 43 trong 61 bài trong chùm thơ “Bảo kính cảnh giới” là một bài thơ hay của “Quốc âm thi tập”. Bài thơ tả cảnh ngày hè, cho thấy tâm hồn Nguyễn Trãi chan chứa tình yêu thiên nhiên, yêu đời yêu, nhân dân, yêu đất nước.

Sau câu thơ đầu tiên là cảm xúc của nhà thơ trước bức tranh cảnh ngày hè. Mở đầu bài thơ là câu thơ sáu chữ với nhịp 1/2/3 chậm rãi: “Rồi hóng mát thuở ngày trường”. Chữ “rồi” là điểm nhấn đặt ở đầu câu, gợi trạng thái con người nhàn nhã, không vướng bận điều gì. “Ngày trường” có nghĩa là ngày hè dài.

Câu thơ mở ra tâm thế nhàn hạ, ung dung của Ức Trai trước cảnh ngày hè. Đó cũng là tư thế ung dung, nhàn hạ của con người trong văn học trung đại. Bức tranh ngày hè hiện lên qua hình ảnh ba loại cây đặc trưng của mùa hè. Mỗi loài cây đều được miêu tả bằng những tính từ chỉ màu sắc và những động từ mạnh:

“Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”

Cây hòe với màu xanh lục như cuộn lên từng khối biếc, từng chùm cứ như sinh sôi ngay trước mắt, cành lá xanh tươi tỏa rộng. Hoa lựu rừng rực sắc đỏ đồng loạt phun trào. Động từ “phun” diễn tả sức sống như bật ra, trào ra. Màu đỏ của hoa lựu như một nét rực rỡ trên nền xanh của lá.

Điểm nhìn của nhà thơ từ tầng không tới hiên nhà tới tầng thấp là hoa sen để nhận ra sen hồng đã ngát mùi hương. “Tiễn” là ngát, là nức. Hương thơm tỏa ra khắp không gian, sức sống chất chứa từ bên trong đang phun trào.

Thiên nhiên ở đây không tĩnh mà động, tưởng như sức sống bên trong đang trào ra: màu xanh của hòe, màu đỏ của lựu, màu hồng của sen đã được thôi thúc từ bên trong không kìm lại được mà tuôn trào hết lớp này đến lớp khác. Tất cả như hô ứng, đua nhau khoe sắc tỏa hương hợp thành vẻ toàn thực của mùa hè.

Bức tranh ngày hè rực rỡ sắc màu giờ đây còn rộn rã âm thanh. Đó là tiếng lao xao chợ cá làng chài vọng đến gợi sự đông đúc, nhộn nhịp với cuộc sống ấm no của con người: “Lao xao chợ cá làng ngư phủ”. Nó có thể là một phiên chợ có thật nhưng rất có thể đó là những âm thanh vọng lên trong tâm tưởng nhà thơ khi hướng về cuộc sống. Đó là âm thanh cuộc sống nơi dân dã, nơi làng quê. Cái “lao xao” gọi sự ồn ào, náo nhiệt, gợi vẻ sầm uất của cuộc sống xung quanh, là những xôn xao vang lên giữa nhịp sống hài hòa trường cửu của vũ trụ,…

Vẫn bằng một cái nghiêng tai rất sầu, nhà thơ đón bắt được một âm thanh rất quen dắng dỏi trong chiều tà: “Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”. Nắng tắt, chiều tàn, màn đêm đang buông xuống, cho dù là chốn lầu tịch dương thì cũng khó lòng tránh khỏi cảm giác quạnh hiu, cô độc.

Dường như ấn tượng ảm đạm của triều tà hoàn toàn xua tan khi nhạc ve dắng dỏi, là âm thanh mạnh mẽ, dứt khoát, trầm bổng ngân vang trong cảm nhận của tác giả. Âm thanh ấy trong cảm nhận của tác giả như tiếng đàn. Phải có một tâm hồn nhạy cảm, háo hức hướng về cuộc sống, Nguyễn Trãi mới có thể nghe được âm thanh như thế.

Thời gian và cảnh vật đang ở cuối ngày nhưng sự sống dường như vẫn không dừng lại. Thêm một lần ta hiểu hơn niềm tha thiết hướng về cuộc sống của tác giả, hiểu hơn về tâm hồn luôn hướng về cuộc đời với nhiều ước vọng của Nguyễn Trãi.

Và trong khoảnh khắc đẹp đẽ ấy, tiếng Ngu cầm trong tưởng tượng được cất lên:

“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ, khắp đòi phương”

Hai câu thơ kết sử dụng điển “Ngu cầm” kể câu chuyện về cây đàn của vua Ngu Thuấn ca ngợi nền thái bình Thịnh trị với niềm vui sống tự hào. Hai từ “dễ có” – lẽ ra nên có, nổi lên trong câu thơ khi sử dụng điển tích “Ngu cầm” là mong ước có được cây đàn vua Nghiêu, vua Thuấn.

Đó là ước mong được hòa điệu, được san sẻ niềm vui sống trong cảnh thái bình nhân dân. Cao hơn là một niềm mong mỏi về một cuộc sống an lạc cho người dân khắp mọi phương trời được duy trì vĩnh viễn như thời vua Nghiêu, vua Thuấn. Có phải vì thế khi nghe kỹ tình thơ, ý thơ, ta nhận ra trong hai chữ “dễ có” một chút gì ưu tư, luyến tiếc và cả một chút ngậm ngùi.

Những cảm xúc từ từ trở thành nét bất biến trong vẻ đẹp nhân cách lớn lao của Nguyễn Trãi được hậu thế muôn đời tôn quý, mới thấy cội nguồn vui sống của Nguyễn Trãi vẫn là cảnh quốc thái dân an. Chừng nào nhân dân chưa được thái bình thì ngày hè dẫu tưng bừng đến mấy thì niềm vui cũng không được trọn vẹn. Ước vọng ấy nâng tầm Nguyễn Trãi ngang tầm tư tưởng của một đấng quân vương.

Cả bài thơ có tám câu, đến tận câu cuối chữ “dân” mới xuất hiện nhưng thực sự nó là cái nền chính, linh hồn bài thơ, thực sự là chìa khóa giải mã cho cái bất thường, cho cái dằng dặc của ngày hè.

Cả bài thơ tạo thành một liên tưởng thơ độc đáo với kết cấu đầu cuối tương ứng. Bài thơ có sự sáng tạo hình thức thơ thất ngôn xen lục ngôn tạo sự phá cách trong nhịp điệu, ngôn từ biểu cảm giàu sức gợi tài tình. Tất cả tạo nên một nhân cách nhà thơ ưu ái với dân, với nước.

Nguyễn Trãi yêu thiên nhiên nhưng trên hết vẫn là tấm lòng của ông tha thiết với con người, với dân, với nước. Ước mơ đó, tấm lòng đó thể hiện tư tưởng thân dân của Nguyễn Trãi. Với ngày hôm nay nó vẫn mang ý nghĩa thẩm mỹ và nhân văn sâu sắc.

Bài thơ đẹp như một bức tranh thi trung hữu họa. Bài thơ giúp ta hiểu hơn về tâm hồn, nhân cách của Nguyễn Trãi, bồi đắp cho chúng ta niềm yêu nước, thương dân trong trái tim.

Gửi tặng bạn mẫu 🌸 Phân Tích Dục Thúy Sơn 🌸 ngọn núi đi vào thơ ca!

Phân Tích Bảo Kính Cảnh Giới Bài 43 Sưu Tập

Một trong những bài văn phân tích “Bảo kính cảnh giới bài 43” đặc sắc đã được sưu tập, mời bạn cùng xem:

Trong những ngày từ quan về ở ẩn tại Côn Sơn, Nguyễn Trãi đã viết nhiều bài thơ đặc sắc, trong số đó có bài số 43 trong chùm thơ Bảo kính cảnh giới. Bài thơ là bức tranh phong cảnh mùa hè độc đáo nhưng thấp thoáng là niềm tâm sự của tác giả.

Câu thơ đầu tiên, ta đọc lên thoáng qua sao có vẻ an nhàn, êm đềm thanh thoát đến thế:

“Rồi hóng mát thuở ngày trường”.

Nguyễn Trãi kia! Ông đang ngồi dưới bóng cây nhàn nhã như hóng mát thật sự. Việc quân, việc nước chắc đã xong xuôi, ông mới trở về với cuộc sống đơn sơ, giản dị, mộc mạc mà chan hòa, gần gũi với thiên nhiên. Một số sách dịch là “Rỗi, hóng mát thuở ngày trường”. Nhưng “rỗi” hay “rồi” cũng đều gây sự chú ý cho người đọc. Rảnh rỗi, sự việc đều xong xuôi, đã qua rồi. “Ngày trường” lại làm tăng sự chú ý.

Cả câu thơ không còn đơn giản là hình ảnh của Nguyễn Trãi ngồi hóng mát mà nó lại toát lên nỗi niềm, tâm sự của tác giả “Nhàn rỗi ta hóng mát cả một ngày dài”. Một xã hội đã bị suy yếu, nguyện vọng, ý chí của tác giả đã bị vùi lấp, không còn gì nữa, ông đành phải rời bỏ, từ quan để về ở ẩn, phải đành “hóng mát” cả ngày trường để vơi đi một tâm sự, một gánh nặng đang đè lên vai mình. Cả câu thơ thấp thoáng một tâm sự thầm kín, không còn là sự nhẹ nhàng thanh thản nữa.

Về với thiên nhiên, ông lại có cơ hội gần gũi với thiên nhiên hơn. Ông vui thú, say mê với vẻ đẹp của thiên nhiên.

“Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”

Cảnh mùa hè qua tâm hồn, tình cảm của ông, thiên nhiên bừng bừng sức sống. Cây hòe lớn lên nhanh, tán nó càng lớn dần lên có thể như một tấm trướng rộng căng ra giữa trời với cành lá xanh tươi. Những cây thạch lựu còn phun thức đỏ, ao sen tỏa hương, màu hồng của những cành, hoa điểm tô sắc thắm.

Qua lăng kính của Nguyễn Trãi: sức sống vẫn bừng bừng, tràn đầy, cuộc đời là một vườn hoa, một khu vườn thiên nhiên muôn màu muôn vẻ. Cảnh vật như cổ tích có lẽ bởi nó được nhìn bằng con mắt của một thi sĩ đa cảm, giàu lòng ham sống với đời…

Qua cảnh mùa hè, tình cảm của Nguyễn Trãi cũng thể hiện một cách sâu sắc:

“Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”.

“Chợ” là hình ảnh của sự thái bình trong tâm thức của người Việt. Chợ đông vui thì nước thái bình, thịnh trị, dân giàu đủ ấm no; chợ tan rã thì dễ gợi hình ảnh đất nước có biến có loạn, có giặc giã, có chiến tranh, đao binh… lại thêm tiếng ve kêu lúc chiều tà gợi lên cuộc sống nơi thôn dã. Chính những màu sắc nơi thôn dã này làm cho tình cảm ông thêm đậm đà sâu sắc và gợi lại ý tưởng mà ông đang đeo đuổi:

“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương”.

“Dân giàu đủ”, cuộc sống của người dân ngày càng ấm no, hạnh phúc là điều mà Nguyễn Trãi từng canh cánh và mong ước. Ở đây, ông đề cập đến Ngu cầm vì thời vua Nghiêu, vua Thuấn nổi tiếng là thái bình thịnh trị. Vua Thuấn có một khúc đàn “Nam Phong” gảy lên để ca ngợi nhân gian giàu đủ, sản xuất ra nhiều thóc lúa ngô khoai. Cho nên, tác giả muốn có một tiếng đàn của vua Thuấn lồng vào đời sống nhân dân để ca ngợi cuộc sống của nhân dân ấm no, vui tươi, tràn đầy âm thanh hạnh phúc.

Những mơ ước ấy chứng tỏ Nguyễn Trãi là nhà thơ vĩ đại có một tấm lòng nhân đạo cao cả. Ông luôn nghĩ đến cuộc sống của nhân dân, chăm lo đến cuộc sống của họ. Đó là ước mơ vĩ đại. Có thể nói: dù triều đình có thể xua đuổi Nguyễn Trãi nhưng ông vẫn sống lạc quan yêu đời, mong sao cho ước vọng lí tưởng của mình được thực hiện để nhân dân có một cuộc sống ấm no.

Bài thơ này đã làm rõ nỗi niềm tâm sự của Nguyễn Trãi trong thời gian ở Côn Sơn với tấm lòng yêu nước thương dân vẫn ngày đêm “cuồn cuộn nước triều Đông”. Ông yêu thiên nhiên cây cỏ say đắm. Và có lẽ chính thiên nhiên đã cứu Nguyễn Trãi thoát khỏi những phút giây bi quan của cuộc đời mình. Dù sống với cuộc sống thiên nhiên nhưng Ức Trai vẫn canh cánh “một tấc lòng ưu ái cũ”. Nguyễn Trãi vẫn không quên lí tưởng nhân dân, lí tưởng nhân nghĩa, lí tưởng mong cho thôn cùng xóm vắng không có một tiếng oán than, đau sầu.

Cảm Nhận Bảo Kính Cảnh Giới Bài 43 Ý Nghĩa

Bài văn cảm nhận “Bảo kính cảnh giới bài 43” dưới đây được đánh giá hay và ý nghĩa, mời bạn xem ngay

“Bảo kính cảnh giới bài 43” là tập thơ được ông viết vào khoảng thời gian về nghỉ ngơi ở Côn Sơn. Tại đây Nguyễn Trãi được hoà với cảnh tươi đẹp của thiên nhiên cùng con vật ở vùng thôn quê và sống một cuộc sống nhẹ nhàng bình dị, tạm lánh nơi kinh thành đông đúc xe cộ, mỏi mệt trước các thủ đoạn đua tiền quyền thế.

Trong suốt thời gian nghỉ ngơi nhàn nhã “bất đắc dĩ” đó, nhà thơ tận hưởng từng khoảnh khắc yên bình của cuộc sống và âm thầm gửi gắm bao tâm tư của mình vào thi ca, ước vọng xây dựng một đất nước bình yên, dân giàu, nước thịnh, tâm hồn tràn ngập tình yêu thiên nhiên, con người, yêu quê hương, đất nước.

Với kỹ thuật dùng phép đối từ ta đặt các âm thanh “lao xao” và “dắng dỏi” lên đầu mỗi câu gợi ra không khí sôi động của bức tranh ngày hè. Âm thanh rộn ràng, tươi vui cho ta biết một đất nước đã trở nên phồn vinh hơn nữa. Vì tại sao phải nói như thế? Đây cũng là tiếng “Lao xao” tiếng người, rộn rã tiếng nói nụ cười. Là tiếng lao xao của lớp người dân việt nam chăm chỉ làm ăn và cuộc sống của họ đang không ngừng thay đổi. “Lao xao” cùng với tiếng ve nghe rộn ràng mà vui tươi.

Tiếng ve lúc chiều tà với tiếng trống rộn ràng khiến tâm trạng thi nhân cũng phấn chấn dần lên. Cùng với âm thanh của cuộc sống ấm no, tròn đầy là tiếng ve giữa khoảnh khắc chiều tà. Lúc tịch dương, cho dù là miền núi hay nơi tịnh đài người ta vẫn nghĩ về không khí ảm đạm bao trùm và sự vui đang sắp tàn.

Nhưng buổi chiều “tịch dương” trong thơ Nguyễn Trãi không như vậy. Không gian lạnh lẽo ấy đã bị bao phủ bằng tiếng ve “dắng dỏi”. Tiếng ve to hơn một bản đàn làm hoàng hôn cũng trở nên rộn rã. Ta thấy Nguyễn Trãi một con người có tình yêu cuộc sống, tình yêu con người đến nồng nàn cháy bỏng, khao khát giao cảm với thiên nhiên với cuộc đời đã khơi gợi nên trong ông nhiều cảm xúc và sự rung động xao lòng nhất, một tâm hồn thiết tha cuộc sống.

Nội dung chủ yếu của ý thơ là tình yêu của Nguyễn Trãi với thiên nhiên kỳ vĩ. Nhân vật trữ tình xuất hiện tại vào khoảng không gian lộng lẫy đó giống như một nét mực tô điểm trên trang tuyên thành. Nguyễn Trãi là một người yêu mến thiên nhiên, ông chìm đắm giữa sự bao la và mở rộng tình cảm với cái đẹp đó trong mọi trường hợp. Nhưng với đặc điểm thơ lúc bấy giờ thiên về tả, thì Nguyễn Trãi đã dùng thủ pháp này hết sức tài tình. Bức hoạ thiên nhiên hiện nên với tất cả các vẻ đẹp đều qua mấy câu:

Hình ảnh khúc Nam Phong ca của vua Thuấn khi chơi đàn Ngu Cầm được đưa vào 2 câu thơ cuối. Đây là hình ảnh của những ngày thịnh vượng và giàu sang vua Thuấn đem đàn đến chơi. Hình ảnh càng làm nổi bật tâm tư của ông, luôn nghĩ về đất nước. Ông mong muốn cuộc sống của nhân dân sẽ được bình yên và thịnh vượng như vậy. 3 câu kết có tiết tấu chậm rãi hơn nữa, cũng là nỗi niềm khó bày tỏ. Thiên nhiên và cảnh sắc làm nền tảng, nỗi sợ đất nước lại càng xa xôi.

Tình yêu đất nước, con người giao hoà với cái đẹp của thiên nhiên vẽ lên một bức tranh đẹp và ý nghĩa. Là một thi sĩ, Nguyễn Trãi cũng là một người của thiên nhiên. Cuối mọi tình huống, lý tưởng về việc gần gũi với nhân dân của ông cũng được làm sáng tỏ. Vậy là, thiên nhiên đã làm nền tảng cho tình yêu đất nước của Nguyễn Trãi ngày càng thêm sâu đậm.

“Bảo kính cảnh giới bài 43” đã trở thành tác phẩm kinh điển có sức ảnh hưởng đối với người xem đến mãi hôm nay. Đọc sách ta như nhận thức rõ ràng hơn nữa được một tấm lòng yêu đất nước trong sáng mãi không phai của nguyễn trãi, làm nóng lên ngọn lửa tình yêu tổ quốc với mình – các học giả. Vì thế mới nói, Nguyễn Trãi thực xứng với danh vua Lê Thánh Tông đã cho: “Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo”.

Trọn bộ 🌸Phân Tích Mạn Thuật 13 🌸 một tuyệt phẩm khác của Nguyễn Trãi!

Cảm Nhận Bảo Kính Cảnh Giới Bài 43 Hay

Cuối cùng là mẫu văn cảm nhận “Bảo kính cảnh giới bài 43” hay, bạn xem qua nhé!

Nguyễn Trãi là một nhà tư tưởng vĩ đại, nhà quân sự lỗi lạc, nhà văn, thi sĩ kiệt xuất của việt nam, ông cũng là nhà chính trị, nhà ngoại giao tài ba – một danh nhân văn hoá thế giới. Có thể nói, Nguyễn Trãi là một hiện tượng hiếm có trong lịch sử dân tộc và thế giới một con người đã có đóng góp vô cùng to lớn trong sự nghiệp cách mạng xây dựng và phát triển đất nước nhưng đã phải chịu hoạ tàn khốc nhất lịch sử.

Cuộc đời đầy gian nan, là con người am hiểu sâu rộng và có nhiều sáng tạo trong văn học những điều này đã đưa Nguyễn Trãi thành một thi sĩ tài ba. Trong tập thơ ta thấy một thi sĩ với một tâm thế thảnh thơi:

“Rồi hóng mát thuở ngày trường”

Một vị quan suốt ngày bận rộn với chuyện thiên hạ, giờ lại rảnh ngồi hóng mát phải chăng ông đã biết gạt việc triều chính và sự ồn ào qua một bên, tạm thời lánh xa về ở ẩn để sống cuộc đời của một hiền nhân thanh cao không vướng danh lợi. Người thi sĩ với tinh thần ung dung, tự tại có một dịp nhàn rỗi hiếm hoi đang hóng mát “thuở ngày trường” – một ngày dài dằng dặc, thời gian dường như vô tận.

Ở đây ta có thể thấy sự sáng tạo mới của Nguyễn Trãi khi câu thơ bảy chữ của thể lục bát giờ đã giảm xuống sáu chữ. Nhịp thơ 1/2/3, chậm phản ánh sự thong dong, thư thái sẵn có của thi nhân, nhàn nhã và dường như không vướng chuyện chi.

Ông chỉ biết mà hưởng thụ các thú vui của bản thân, ông ao ước được hoà vào thiên nhiên, được sống trong khoảnh khắc giản dị ấy nhưng cũng rất éo le thay, ngay khi thế sự vẫn chưa ngã ngũ, sau cuộc chiến còn thiếu lắm thứ, việc nhà việc nước bộn bề mà ông lại buộc mình hóng mát từ ngày này sang ngày kia thật đúng là trớ trêu. Bởi vậy, ông rơi phải tình cảnh thân nhàn mà tâm không yên. Đằng dưới câu trên như thấp thoáng một nụ cười chua xót của Nguyễn Trãi trước cảnh éo le đó.

Tiếp đến ở ba câu cuối cùng ta thấy một bức tranh quê nổi nên với sự tươi sáng và hoà hợp.

Một vị quan suốt ngày bận rộn với chuyện triều chính, giờ đang nhàn rỗi ngồi hóng gió phải chăng ông đã biết gạt việc thiên hạ, sự thị phi qua một bên, tạm thời ẩn mình sang trong để sống cuộc đời của một hiền nhân thanh cao không vướng danh lợi.

Người thi sĩ với tinh thần thảnh thơi, thư thái có một dịp nhàn rỗi hiếm hoi đang hóng mát “thuở ngày trường” – một ngày dài dằng dặc, thời gian dường như vô tận. Ở đây đó ta có thể thấy sự sáng tạo mới của Nguyễn Trãi khi câu thơ bảy chữ của thể lục bát giờ đã xuống còn sáu chữ. Nhịp thơ 1/2/3, chậm phản ánh sự an nhiên, bình thản sẵn có của ông, ung dung, dường như không ràng buộc điều gì.

Ông chỉ biết tự do hưởng thụ các nhu cầu của bản thân, ông muốn được hoà vào thiên nhiên, để đắm chìm những khoảnh khắc giản dị ấy nhưng cũng rất éo le thay, ngay khi thế sự vẫn chưa thể yên ổn, cuộc chiến đấu đang cần nhiều cải tiến, việc nhà việc nước bộn bề vậy mà ông lại buộc mình hóng mát từ ngày này sang ngày kia thì thật là tréo ngoe.

Bởi vậy, ông rơi vào tình cảnh thân thảnh thơi mà tâm không yên. Đằng sau câu trên như thấp thoáng một nụ cười chua xót của Nguyễn Trãi với hoàn cảnh éo le đó. Tiếp nữa ở ba câu cuối ta thấy một bức tranh quê nổi nên với màu sắc tươi sáng, rực rỡ.

Người sử dụng điển tích đàn Ngu cầm của vua Nghiêu Thuấn để miêu tả lại cảnh đời sống của nhân dân no đủ, đất nước bình yên. Nguyễn Trãi vẫn đau đáu trong lòng một niềm mong ước làm sao để dân chúng khắp nước đều hạnh phúc và ấm no. Ẩn giấu đằng sau niềm mong ước đó là lời nguyền rủa dịu dàng mà khắc nghiệt đám đại thần tham sắc ở triều đình đương thời không thèm quan tâm đến dân, đến nước.

Theo ông, với cảnh nước non đẹp đẽ và nhân dân cần cù, chăm chỉ thì cuộc sống đáng ra phải sớm được no ấm, sung túc đã rồi. Chính ước mơ đó đã góp phần giúp ông thấu hiểu thêm được tấm lòng Nguyễn Trãi, một nhà thơ vĩ đại có một tấm lòng nhân đạo cao cả. Ông thường nghĩ về cuộc sống của nhân dân và quan tâm hơn cuộc sống của họ. Khát vọng rất cao đẹp nhưng càng đẹp hơn khi khát vọng đó là ước mơ chung với tất thảy mọi người. Đó là ước mơ chung, khát vọng rất cao đẹp và thật đáng kinh ngạc.

Bài thơ đã dựng lên bức hoạ thiên nhiên nhiều sắc màu, hùng vĩ, thơ mộng cùng quang cảnh của cuộc sống thường nhật bình an và hạnh phúc. Điều ấy thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống và khát vọng xã hội phát triển, nhân dân no ấm, đất nước phồn vinh của người nghệ sỹ hết mình vì nước, vì đời.

Đồng thời, bài thơ cũng khắc hoạ tài năng cùng nhân cách cao đẹp và giàu lòng yêu dân, yêu đất nước của Nguyễn Trãi. Ngay kể cả khi đang bị o ép, ngờ vực, Nguyễn Trãi cũng luôn lo lắng đến nhân dân, với khát vọng muốn đóng góp trí tuệ và sức lực của bản thân vì đời, cho nước.

Tác giả đã vận dụng cách sáng tạo thể thơ Đường luật với sự kết hợp của câu sáu chữ và câu bảy chữ. Thể thơ giản dị, mộc mạc, gắn bó với đời sống song cũng thật nhiều xúc cảm và đầy tính gợi mở. Bút pháp tả cảnh ngụ tình điển hình của văn chương hiện đại: Miêu tả thiên nhiên, trời đất và cảnh cuộc sống thường nhật của con người để từ đấy bày tỏ một cách tinh tế tâm trạng, cảm xúc, suy nghĩ của tác giả đối với con người, về cuộc đời

Cuối cùng là văn 🌸 Phân Tích Thuật Hứng 5 🌸 trích trong Quốc âm thi tập!

.

Viết một bình luận