6+ Mẫu Phân Tích Bài Thơ Đất Vị Hoàng Ngắn (Hay Nhất)

SCR.VN gợi ý cho bạn 6+ mẫu phân tích bài thơ Đất vị hoàng ngắn hay nhất của tác giả Trần Tế Xương và hướng dẫn cách phân tích bài thơ hay nhất.

Giới Thiệu Bài Thơ Đất Vị Hoàng

Bài thơ Đất Vị Hoàng của Trần Tế Xương là một bài thơ trào phúng, được viết theo thể thất ngôn bát cú. Bài thơ thể hiện thái độ phẫn uất, bất bình của nhà thơ trước những đổi thay của xã hội, sự đổi thay đó làm mất đi những thứ vốn có, đó là những giá trị, truyền thống tốt đẹp, thay vào đó là cái lối sống nửa tây nửa ta kệch cỡm, lố bịch, đáng lên án.

👉 Gửi đến bạn đọc nội dung bài thơ Đất vị hoàng

Đất vị hoàng
Trần Tế Xương

Có đất nào như đất ấy không?
Phố phường tiếp giáp với bờ sông.
Nhà kia lỗi phép con khinh bố,
Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng.
Keo cú người đâu như cứt sắt,
Tham lam chuyện thở rặt hơi đồng.
Bắc Nam hỏi khắp người bao tỉnh,
Có đất nào như đất ấy không?

Mời bạn đón đọc 🌜 Phân Tích Bài Thơ Thương Vợ Trần Tế Xương 🌜 10 Mẫu Hay

Ý Nghĩa Bài Thơ Đất Vị Hoàng

Bài thơ đã đem lại cho người đọc những tiếng cười sâu cay, nó không chỉ phản ánh tình trạng chung nhất của con người, mà nó còn để lại nhiều ý nghĩa mạnh mẽ, trong mọi tiềm thức, với những ngôn ngữ giàu chất tạo hình, gợi cảm nhưng bài thơ đã mang đậm tính chất sâu cay và một cái nhìn mới mẻ về chính nghệ thuật của mình, bài thơ đó là sự thấu hiểu và những nét riêng biệt độc đáo trong sự sáng tạo nghệ thuật của ông.

Cách Phân Tích Bài Thơ Đất Vị Hoàng

SCR.VN hướng dẫn bạn cách phân tích bài thơ Đất vị hoàng tại bài viết sau đây. Mời bạn tham khảo.

  1. Giới thiệu về tác giả và tác phẩm
  2. Phân tích nội dung bài thơ
    • Mô tả quê hương Vị Hoàng: Trình bày cách tác giả khắc họa hình ảnh quê hương với những đặc điểm nổi bật, cảm xúc của tác giả về nơi mình sinh ra và lớn lên.
    • Phê phán xã hội: Phân tích những câu thơ thể hiện sự châm biếm, phê phán các thói hư tật xấu của tầng lớp quan lại và những người dân tha hóa trong xã hội.
  3. Phân tích nghệ thuật
    • Ngôn ngữ: Nhận xét về ngôn ngữ mộc mạc, giản dị nhưng sâu sắc, dễ hiểu mà Trần Tế Xương sử dụng.
    • Giọng điệu: Phân tích giọng điệu châm biếm, hài hước đặc trưng của Tú Xương và cách ông lồng ghép những phê phán xã hội vào các câu thơ.
    • Hình ảnh: Khám phá cách tác giả sử dụng các hình ảnh sống động, chân thực để khắc họa bức tranh quê hương và phản ánh hiện thực xã hội.
  4. Đánh giá và ý nghĩa
    • Giá trị nghệ thuật: Đánh giá cao sự độc đáo, sáng tạo trong cách sử dụng ngôn ngữ và hình ảnh, cùng với giọng điệu trào phúng của tác giả.
    • Thông điệp: Phân tích thông điệp mà Trần Tế Xương muốn truyền tải qua bài thơ về tình yêu quê hương, lòng tự hào dân tộc và sự đấu tranh chống lại những bất công, tha hóa trong xã hội.

Gợi ý bạn 11+ mẫu văn 👉 Phân Tích Thơ Trào Phúng Ngắn Gọn

Dàn Ý Phân Tích Bài Thơ Đất Vị Hoàng

Chia sẻ cho bạn cách lập dàn ý phân tích bài thơ Đất vị hoàng của tác giả Trần Tế Xương sau đây.

I. Mở bài:

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm

– Trích thơ cần nghị luận

II. Thân bài:

– Hoàn cảnh sống của Trần Tế Xương

– Hoàn cảnh ra đời bài thơ

– 2 câu đề: hoàn cảnh đổi thay của vùng quê, sự thay đổi trong xã hội

==> đau xót, xót thương bởi vùng đất trốn thành vinh đó nay đã không còn của nhân dân nữa

– 2 câu thực: những đổi thay to lớn trong gia đình, xã hội

==> Mọi trật tự, những đạo lý truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta đã bị đảo lộn, đồng tiền đã khiến con người ta mờ mắt
– 2 câu thực: sự đổi thay to lớn trong xã hội, con người hiện lên với những tính cách xấu xa

==> hiện thực thối nát, với những đạo lý suy đồi
– 2 câu kết: thể hiện nỗi lòng, sự cảnh tỉnh đối với người dân đất Vị Hoàng

==> thái độ phẫn nộ trước cảnh tượng đất nước

Nghệ thuật:

– Thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật

– Giọng điệu trào phúng

– Câu hỏi đầu cuối tương ứng

III. Kết bài:

– Giá trị nội dung, bài học

Đọc nhiều hơn với 🔥 Nghị Luận Bài Thương Vợ 🔥 10 Bài Văn Mẫu Hay Nhất

6+ Bài Văn Phân Tích Bài Thơ Đất Vị Hoàng Ngắn Hay

Tổng hợp cho bạn đọc 6+ bài văn phân tích bài thơ Đất vị hoàng ngắn hay nhất dưới đây.

Phân Tích Bài Thơ Đất Vị Hoàng Ngắn Gọn

Trần Tế Xương là một nhà văn tiêu biểu của văn học trung đại Việt Nam. Thơ ông có sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố hiện thực, trào phúng và trữ tình. Bức tranh hiện thực trong thơ Trần Tế Xương là một bức tranh xám xịt, dường như chỉ toàn đau buồn vì hiện thực thối nát của xã hội thực dân nửa phong kiến.

Với giọng văn châm biếm sâu cay, thơ ông đã đả kích bọn thực dân phong kiến, bọn bán rẻ lương tâm chạy theo tiền bạc trong buổi giao thời. Bài thơ “Đất vị hoàng” là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách sáng tác của Trần Tế Xương. Tác phẩm cho thấy những đổi thay của xã hội, của quê hương tác giả.

“Có đất nào như đất ấy không?
Phố phường tiếp giáp với bờ sông.
Nhà kia lỗi phép con khinh bố,
Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng.

Keo cú người đâu như cứt sắt,
Tham lam chuyện thở rặt hơi đồng.
Bắc Nam hỏi khắp người bao tỉnh,
Có đất nào như đất ấy không?”

Nhà thơ Trần Tế Xương sinh thời trong thời kỳ đau thương, khó khăn nhất của đất nước khi nhân dân ta một lòng sôi sục đánh giặc. Trước tình cảnh nước mất nhà tan, những thay đổi rối ren của xã hội ông đã dùng thể thơ trào phúng với những vần thơ sâu sắc mà chua xót để phản ánh thực trạng xã hội.

Bài thơ “đất vị hoàng” được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú đường luật, là bài thơ thể hiện nỗi xót xa trước vận mệnh dân tộc. Vị hoàng là tên cũ của làng quê Tế Xương, đó là cũng là tên dòng sông chảy qua làng. Đây là một vùng quê yên bình, giàu có cùng những thứ đặc sản nổi tiếng. Thế nhưng từ ngày giặt đến xâm chiếm nước ta, vùng quê yên bình đó giờ trở nên xơ xác tiêu điều.

Với tấm lòng nặng tình nặng nghĩa với quê hương đất nước, Tế xương đã dùng ngồi bút của mình viết lên những vần thơ đầy chua xót. Bài thơ đất vị hoàng ra đời để tố cáo cái xã hội lúc bấy giờ. Hai câu thơ đề cho thấy hoàn cảnh đổi thay của vùng quê, mang đến cho ta những cảm nhận sâu sắc về sự thay đổi trong xã hội:

Có đất nào như đất ấy không?
Phố phường tiếp giáp với bờ sông

Làng quê của Tế Xương giờ đây đã có rất nhiều đổi thay, ngôi làng yên bình xưa nay đã trở thành một chốn phồn vinh đô thị. Mở đầu tác phẩm là một câu hỏi tu từ gợi thái độ hoài nghi băn khoăn. Phải chăng đó là sự thay đổi quá nhanh chóng đến ngỡ ngàng, khiến cho nhà thơ không còn nhận ra nơi chôn rau cắt rốn của mình nữa. Làng quê của Tế Xương nay đã trở thành một chốn phồn vinh đô thị, tại sao nhà thơ không cảm thấy vui mừng tự hào khi quê hương mình phát triển.

Tác giả lại cảm thấy đau xót, xót thương bởi vùng đất trốn thành vinh đó nay đã không còn của nhân dân nữa, nó trở thành chốn ăn chơi của bọn thực dân xâm lược Pháp. Đó chỉ là cái phồn vinh hào nhoáng, giả tạo ẩn sâu bên trong là một vùng đất xác xơ tiêu điều hơn xưa. Phố phường tiếp giáp với bờ sông, đây là những dấu hiệu đổi thay của cuộc sống mới, của lối sống mà người Pháp dựng lên trên đất nước ta.

Trần Tế Xương không hề sử dụng hình ảnh ước lệ mà thể hiện những câu thơ tả rất thực. Hai câu thơ trên cho thấy một vùng quê nay trở nên tiêu điều, không có hồn như xưa. Thế nhưng dường như Trần Tế Xương miêu tả những đổi thay của đất đai vẫn chưa đủ. Hai câu thơ thực đã nói lên những đổi thay to lớn trong gia đình, xã hội:

Nhà kia lỗi phép con khinh bố,
Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng

Hiện thực xã hội thời kỳ đó hiện lên thật đau đớn, xót xa đến đau lòng. Nhà thơ đã dùng “nhà kia”, “mụ nọ” để ám chỉ những tên đầy khinh bỉ trước cảnh đời xấu xa vô nhân đạo. Xã hội đó không còn một giá trị đạo đức nào, đồng tiền đã vượt mặt lên tất cả các chuẩn mực của cha ông từ xưa đến nay. Thật đáng buồn thay vì cái chữ hiếu được nhân dân ta coi là đạo lý ngàn đời. Vậy mà trong xã hội lúc đó “con lại khinh bố” những giá trị đạo đức cơ bản nhất mà một con người cần có nay cũng không còn nữa.

Tình mẫu tử thiêng liêng, cao đẹp “cha mẹ nuôi con biển hồ lai láng” cái tình cảm thiêng liêng bây giờ còn đâu. Hay trong tình phu thê sâu đậm “mụ vợ chanh chua chửi chồng”, làm mất hết đi vẻ đẹp người con gái nước Việt. Với tính cách dịu dàng, nữ tính, luôn chăm lo cho gia đình, người con gái đó theo xã hội đã trở thành một mụ vợ chanh chua. Mọi trật tự, những đạo lý truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta đã bị đảo lộn, đồng tiền đã khiến con người ta mờ mắt chỉ nghĩ đến quang vinh phú quý mà bỏ quên đi những đạo lý nghĩa tình nghĩa thuỷ chung, những chuẩn mực đạo đức cao đẹp.

Điều đó khiến chúng ta cảm thấy thật phẫn nộ, ghê sợ cái xã hội đó. Mọi tình cảm cao đẹp nhất của con người Việt Nam đều bị bôi đen, hủy hoại. Trần Tế Xương đã khắc họa sự đổi thay to lớn trong xã hội, con người hiện lên với những tính cách xấu xa:

Keo cú người đâu như cứt sắt,
Tham lam chuyện thở rặt hơi đồng.

Ở cái đất Vị Hoàng với những đổi thay ghê gớm đó, không thiếu những loại người keo cú, tham lam. Phép đảo ngữ “keo cú”, “tham lam” lên đầu câu để nhấn mạnh, là một tiếng chửi đời cay độc lên án loại người bần tiện của xã hội.

Hai câu thơ trên là những vần thơ trào phúng với giọng điệu châm biếm và lên án sâu cay. Cái làng Vị Hoàng nhỏ bé ấy nay là một hiện thực thối nát, với những đạo lý suy đồi, con người sống trong xã hội thực dân nửa phong kiến cũng trở nên đổi thay. Phép so sánh “người đâu như cứt sắt” gợi lên một xã hội thật đáng sợ, đáng khinh bỉ. “Thợ rặn hơi đồng” lột tả bản chất của những loại người tham lam đê tiện.

Chỉ vì tiền, đặt đồng tiền lên trên tất cả, có thể xóa mờ đi mọi chuẩn mực đạo đức, mọi mối quan hệ trong xã hội.Tác giả đã vạch trần những nét tính cách thay đổi theo hướng tiêu cực ở làng Vị Hoàng thời kỳ đó. Kết thúc bài thơ Trần Tế Xương đã thể hiện nỗi lòng, sự cảnh tỉnh đối với người dân đất Vị Hoàng:

Bắc Nam hỏi khắp người bao tỉnh,
Có đất nào như đất ấy không

Cách dùng nghệ thuật mở kết dưới hình thức câu hỏi tu từ là một lời băn khoăn, đau xót. Tác giả thể hiện thái độ phẫn nộ trước cảnh tượng đất nước, xã hội mà mọi chuẩn mực đạo đức đều bị đảo lộn, con người sống trong hoàn cảnh đen tối với những tính cách xấu xa. Hai câu thơ kết đã mở ra tầm tư tưởng mới cho cả bài thơ.

Bằng việc sử dụng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật cùng với giọng điệu trào phúng mang đến cho người đọc cảm giác đau đớn, xót xa trước thời thế. Cùng với việc sử dụng nghệ thuật câu hỏi đầu cuối tương ứng, gợi bao nỗi chua xót đau đớn đến đau lòng trước những đổi thay của xã hội.

Bài thơ “Đất vị hoàng” là một tác phẩm trào phúng đặc sắc, thể hiện cho phong cách sáng tác của nhà thơ Trần Tế Xương. Bài thơ là một lời phê phán những thói hư tật xấu của xã hội. Cái xã hội mà con người vì đồng tiền làm mất đi những giá trị của bản thân, những giá trị đạo đức tốt đẹp của con người. Qua đây Tế Xương thể hiện nỗi lòng đau đớn, căm ghét trước thời cuộc. Đồng thời cũng thể hiện tấm lòng yêu nước thầm kín mãnh liệt nơi tác giả.

Đón đọc ngay những mẫu văn 💚 Phân Tích Bài Thơ Năm Mới Chúc Nhau 💚 ngắn hay nhất

Phân Tích Bài Thơ Đất Vị Hoàng Của Trần Tế Xương Điểm Cao

Bài “Đất Vị Hoàng” được tác giả viết theo thể thơ thất ngồn bát cú Đường luật, thủ vĩ ngâm. Câu 1 và câu 8 là câu hỏi tu từ “Có đất nào như đất ấy không?”‘, nhà thơ hỏi để mà nguyền rủa, giọng thơ trở nên đau đớn, chua xót. Nơi chôn nhau cắt rốn thân thương nay đã thay đổi nhiều rồi, ngày ngày diễn ra bao cảnh đau lòng. Còn đâu nữa hình ảnh đẹp một thời, để tự hào và “nhớ”:

    “Anh đi anh nhớ non Côi

    Nhớ sông Vị Thuỷ, nhớ người tình chung”.

Trong bài “Sông Lấp”, Tú Xương viết “Sông kia rày đã nên đồng – Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai..” Cảnh ấy có khác gì ở đây: “Phố phường tiếp giáp với bờ sông”. Tây và bọn tay sai chiếm ruộng, chiếm bãi, chiếm đất, chiếm phố, chiếm nhà. Phố xá càng mọc lên thì bọn bất lương càng ra sức vơ vét làm giàu.

Trong nhà ngoài phố, kẻ chợ làng quê, nơi gần chốn xa, nhất là ở Vị Hoàng nhỡn tiến đó. “Nhà kia… mụ nọ…” vừa ám chỉ vừa vạch mặt chỉ tên đầy khinh bỉ trước những cảnh đời xấu xa vô đạo. Có cảnh nhà “lỗi phép”, con cái bất hiếu “Con khinh bố”. Có cảnh đời, đảo điên tình nghĩa “chanh chua” như mụ nọ “Vợ chửi chồng”. Có lẽ chỉ vì tiền mà đồi bại đến cùng cực thế! Hai mối quan hệ làm rường cột của đạo lí: tình phụ tử, nghĩa phu — thê đã trở nên nhem nhuốc vô cùng. Hỏng từ gia đình hỏng ra. Không còn là hiện tượng cá biệt nữa.

Thời bấy giờ nhan nhản phố phường những “tiết hạnh khả phong” như mụ Phó Đoan, những gái tân thời như cô Hoàng Hôn, cô Tuyết (Sốđỏ) những me Tây như mụ Tư Hồng “Có tàn, có tán, có hương án thờ vua, lẫy lừng hăm sáu tỉnh” (câu đối của Nguyễn Khuyến). Những “em chã” những trưởng giả, thượng lưu rởm đang “Âu hoá” sống phè phỡn, nhố nhăng!

Hai câu thơ 3,4 trong phần thực như bức biếm hoạ nhị bình đăng đối, với bao vết ố, nét nhơ ghê tởm, đặc tả sự đồi bại về luân thường đạo lí:

    “Nhà kia tôi phép, con khỉnh bố

    Mụ nọ chanh chua, vợ chửi chồng”.

Hai câu trong phần luận mở rộng ý thơ trong phần thực, làm cho bức tranh “Đất Vị Hoàng” được tô đậm sắc màu hiện thực. Không còn ước lô nữa. Hai nét vẽ về cảnh đời đáng buồn, đáng thương hại đối nhau. Một bộ tứ bình biếm hoạ hoàn chỉnh.

Ở cái đất Vị Hoàng ấy nhan nhản những loại người “tham lam” và “keo cú”. “Keo cú” đến bán tiện, ghê tởm và hôi hám. Nhà thơ ngạc nhiên hỏi và so sánh: “người đâu như cứt sắt” sao mà đáng sợ, đáng khinh bỉ! Lại có loại người “tham lam” đến cùng cực, nhịp sống cuộc đời họ chỉ là “chuyện thở rặt hơi đống”, “Thở” là nhãn tự; rất linh diệu; nếu thay bằng chữ “nói” hay là một từ nào khác thì không lột tả được bản chất loại người tham lam đê tiện này.

Vì đã “thở” nên phải đi liền với “hơi” – “hơi đồng”, tiền bạc. Chỉ vì tiền, coi tiền bạc là trên hết, và trước hết trong mọi mối quan hệ gia đình và xã hội. “Rặt” là từ cổ, nghía là “toàn là”, “đều là”. Phép đảo ngữ rất có giá trị thẩm mĩ, tạo nên ngữ điệu dữ dội, khinh bỉ, một tiếng chửi đời cay độc lên án loại người tham lam, keo cú mất hết nhân tính:

    “Keo cú người đâu như cứt sắt,

    Tham lam chuyện thở rặt hơi đồng”.

Hai câu kết đẩy vần thơ lên cao trào của giọng điệu châm biếm và lên án. Không còn là chuyện riêng, chuyện cá biệt ở cái làng Vị Hoàng nhỏ bé nữa, mà là hiện thực thối nát, đồi bại xấu xa, đạo lí suy đồi, đảo điên… trong cái xã hội thực dân nửa phong kiến của một nước bị mất chủ quyền.

Cái xấu cái ác đã trở thành nỗi đau nỗi nhục của nhiều người, trên một không gian rộng lớn “Bắc, Nam” và “người bao tỉnh”. Nghệ thuật thủ — vĩ ngâm dưới hình thức câu hỏi tu từ nghẹn ngào cất lên như một lời đay nghiến, vừa xót xa đau đớn, vừa căm giận khinh bỉ cái xã hội kim tiền, cái xã hội chó đểu mà 30 năm sau Vũ Trọng Phụng phải nguyền rủa!

    “Bắc Nam hỏi khắp người bao tỉnh

    Có đất nào như đất ấy không?”.

“Đất Vị Hoàng” là bài thơ trào phúng độc đáo của Tú Xương. Muốn yêu quê, muốn tự hào về quê hương mà không được nữa. Nhà thơ sống trong tâm trạng đầy bi kịch. Bốn câu trong phần thực và luận là bộ tứ bình biếm hoạ về bốn loại người trong xã hội dở Tây dở ta buổi đầu.

Trong gia đình, con thì bất hiếu, “lỗi phép”, vợ thì “chanh chua” lăng loàn; ngoài xã hội, đâu đâu cũng chỉ có hạng người “tham lam” và “keo cú” vênh váo. Đạo lí suy đồi mà nguyên nhân sâu xa là nước mất chủ quyển, là sự tác oai tác quái của mặt trái đồng tiền. Nhà thơ vừa đau xót, vừa khinh bỉ. Đúng là Tú Xương “đã đi bằng hai chân” hiện thực trào phúng và trữ tình, tạo nên giọng điệu riêng hiếm thấy.

Bài thơ toàn Nôm, ngôn ngữ bình dị mà sắc sảo. Bốn câu hỏi xuất hiện trong bài thơ làm cho ngữ điệu thêm dữ dội, đầy ám ảnh. Thơ liền mạch, đúng là Tú Xương đã xuất khẩu thành thơ. Bút pháp điêu luyện mà tự nhiên, hồn nhiên, nhất khí mà bình dị. Trong thơ ca dân tộc ít có bài thơ thủ vĩ ngâm hay như bài thơ “Đất Vị Hoàng” này. Tú Xương mãi mãi là nhà thơ trào phúng bậc thầy trên thi đàn dân tộc.

“Vị Hoàng” là quê cha đất tổ của nhà thơ Tú Xương. Làng Vị Hoàng xa xưa có sông Vị Thủy chảy qua. Ngày Tây chiếm đóng thành Nam, khi cờ ba sắc xuất hiện thì sông Vị Thuỷ lấp dần. Vị Hoàng vốn là một miền quê có thứ chuối ngự ngon nổi tiếng, cùng với thơ Tú Xương đã trở thành thổ ngơi, đặc sản quê nhà, một trăm năm về trước, được truyền tụng trong dân gian: “Ăn chuối ngự, đọc thơ Xương”. Vị Hoàng cũng vốn là “nơi sang trọng, chốn nhiều quan”. Nhưng rồi biển dâu biến đổi, trong buổi giao thời hổ lốn dở Tây dở ta, ngày càng lộn xộn tang thương, đạo lí sa sút, suy đổi.

Tú Xương đau cho nỗi đau quê nhà, xót cho thói đời đen bạc, buồn cho cảnh đất nước bị mất chủ quyền, quê cũ làng xưa đổi thay, bao chuyện đau lòng ngày một thêm nhiều cứ bày ra đó. Tú Xương đau cho nỗi đau quê nhà, xót cho thói đời đen bạc, buồn cho cảnh đất nước bị mất chủ quyền, quê cũ làng xưa đổi thay, bao chuyện đau lòng ngày một thêm nhiều cứ bày ra đó. Tú Xương đã có bài “Vị Hoàng hoài cổ” man mác buồn thương, lại thêm bài thơ “Đất Vị Hoàng” này để nói lên những chuyện xấu xa đồi bại ờ Vị Hoàng, ở thành Nam.

Chia sẻ bạn những mẫu 👉 Phân Tích Bài Thơ Tiến Sĩ Giấy Ngắn

Phân Tích Đất Vị Hoàng Ngắn Nhất

Tú Xương là một nhà thơ lớn, sinh vào thời kì đau thương, khó khăn nhất của đất nước khi dân ta đang một lòng sục sôi đánh giặc. Trước tình cảnh nước mất nhà tan, những rối ren của thời cuộc, ông đã viết lên nhiều vần thơ sâu sắc mà chua xót phản ánh thực trạng đó, một trong những tác phẩm tiêu biểu phải kể đến bài thơ “ Đất Vị Hoàng”. Bài thơ là tinh thần, lẽ sống của con người đồng thời thể hiện thái độ châm biếm các thói hư tật xấu trong xã hội lúc bấy giờ.

Trước hết, Đất Vị Hoàng được viết ở thể thơ Thất ngôn bát cú Đường luật, là bài thơ thể hiện niềm xót xa trước vận mệnh dân tộc. Vị Hoàng là nơi sinh ra của Tú Xương, – một vùng quê đầy bình yên có những thứ đặc sản nổi tiếng. Ngày giặc đến nhà, vùng quê bình yên đó trở nên xơ xác, tiêu điều. Là một người nặng tình với quê hương đất nước, Tú Xương đau đớn cho quê nhà, xót thương trước vận mệnh đất nước bị đảo lộn. Những việc xấu, “ đổi trắng thay đen” cứ thế bày ra trước mắt, nỗi đau chồng chất nỗi đau. Từ đó bài thơ “ Đất Vị Hoàng” ra đời để tố cáo cái xã hội lúc bấy giờ.

Mở đầu bài thơ, nhà thơ đi thẳng vào vấn đề:

Có đất nào như đất ấy không?
Phố phường tiếp giáp với bờ sông

Câu hỏi tu từ ngay phần mở đầu, “có đất nào như đất ấy không?” gợi cho ta thật nhiều suy nghĩ. Mảnh đất của sự phồn vinh, bình yên, tuyệt đẹp với những bờ sông trải dài nay còn đâu. Giọng thơ trở nên thật chua chát trước cảnh nơi chôn rau cắt rốn của mình ngày càng đổi thay, các câu chuyện ngày càng đau lòng. Phồn vinh thì cũng không còn là của ta nữa, mà trở thành một nơi “ăn chơi sa đọa”, chốn để quân Pháp chơi bời.

Còn gì đớn đau thay khi một quê hương phồn vinh hơn nhưng lại chẳng phải của chúng ta. Và cũng thật chua xót biết bao khi đó là nỗi đau không chỉ ở quê hương Tú Xương mà đó còn chính là nỗi đau của toàn dân tộc – một vùng trù phú rộng lớn trở nên tiêu điều xơ xác, một vùng chỉ có xác “ phồn vinh” nhưng lại thiếu đi phần hồn. Đất nước bị chiếm đóng, phồn vinh kéo theo những hệ lụy, những đạo lí truyền thống của chúng ta bị đảo lộn.

Nhà kia lỗi phép con khinh bố
Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng

Giặc chiếm đất, chiếm nhà, chiếm ruộng,… của ta, phố phường cứ thế mọc lên và chúng càng vơ vét, càng bóc lột ta để làm giàu. Những đạo lí truyền thống chữ “ hiếu” luôn đặt lên hàng đầu của ta từ ngàn đời nay còn đâu khi “ con khinh bố”. Bố mẹ là người chăm lo cho ta, vậy lí do nào đã khiến cho tình cảm thiêng liêng ấy bị coi thường.

Đó còn là “mụ vợ chanh chua”, người con gái nước Nam dịu dàng, nữ tính đi đâu mất rồi, thay vào đó lại là “ mụ vợ chửi chồng”. Lí do gì đã khiến mọi trật tự, mọi đạo lí truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta bị đảo lộn, bị xáo trộn như vậy? Phải chăng đồng tiền đã làm cho con người ta mờ mắt, chỉ ham đến vinh hoa phú quý mà bỏ quên những điều xưa cũ, những đạo lí ân nghĩa thủy chung, những chuẩn mực đạo đức của ta. Ta thật sợ, ghê tởm cái xã hội nhem nhuốc, dơ bẩn lúc bấy giờ. Một gia đình không tốt, “ hỏng” từ vợ – chồng đến con cái, vậy xã hội làm sao tốt đẹp đây?

Keo cú người đâu như cứt sắt
Tham lam chuyện thở rặt hơi đồng

Hai câu thơ sau là cảnh vẽ về con người đối nhau, một tứ thơ đầy hoàn thiện nhưng cũng đầy chua xót. Những kẻ tham lam, keo cú trên đất nước ta nhiều vô kể. Họ bần tiện, ghê gớm đến nỗi “như cứt sắt”- một chất thải ra từ đất nung không còn thể đẽo gặm gì nữa.

Đó còn là những con người tham lam, vơ vét cho bản thân mà quên đi cái giá trị của con người, mở miệng ra là thấy nói chuyện tiền, lấy tiền làm chuẩn mực của đạo đức, đánh giá một con người. Thối tha thay cái xã hội lúc bấy giờ, đớn đau thay cho những con người bị tha hóa.

Nhà thơ Tú Xương thật tài tình khi vận dụng nghệ thuật so sánh kết hợp với biện pháp đảo ngữ làm cho các câu thơ trở nên có giá trị thẩm mĩ cao. Giọng thơ trở nên dữ dội, khinh bỉ hơn bao giờ hết. Đó là một bản cáo trạng mà nhà thơ viết lên để tố cáo những kẻ tham lam, vì tiền mà đánh mất đạo đức con người.

Bắc Nam hỏi khắp người bao tỉnh
Có đất nào như đất ấy không?

Tú Xương kịch liệt lên án, tố cáo những thói hư tật xấu của con người lúc bấy giờ, hiện thực thối nát, cái xấu, cái ác, trắng đen lẫn lộn… Câu hỏi tu từ ở cuối đoạn như một tiếng khóc tỉ tê, thương thay cho vận mệnh đất nước. Mở đầu và kết thúc đều là câu hỏi “ Có đất nào như đất ấy không?” vừa xót xa, đay nghiến cái xã hội thối nát lúc bấy giờ.

Nói tóm lại, bằng nghệ thuật châm biếm, câu hỏi tu từ đầu cuối tương ứng, bài thơ Đất Vị Hoàng đã vạch trần được bộ mặt thật của xã hội nửa phong kiến đồng thời qua đây nhà thơ Tú Xương cũng bày tỏ thái độ tố cáo, đả kích sâu cay với những con người vì đồng tiền mà đánh mất giá trị bản thân, giá trị đạo đức xã hội. Đó là nỗi đau của người trong cuộc, đớn đau trước vận mệnh đất nước.

Tặng bạn học sinh 🍀Sơ Đồ Tư Duy Thương Vợ🍀 Trọn Bộ

Phân Tích Đất Vị Hoàng Học Sinh Giỏi

Tú Xương là nhà thơ nổi tiếng của dân tộc Việt Nam, ông nổi bật với phong cách nghệ thuật trào phúng, khi thơ ca của ông mang đậm những ý nghĩa sâu cay và ý nghĩa trào lộng sâu sắc, cảm quan nghệ thuật trong các tác phẩm của ông luôn đậm đà và thể hiện một cách có ý nghĩa và có nhiều giá trị nhất trong sự sống của mỗi con người, nổi bật lên trong các tác phẩm của ông là bài thơ: Đất vị hoàng.

Có đất nào như đất ấy không

Phố phường tiếp giáp với bờ sông

Câu thơ như nói lên nỗi chua xót nghẹn lại của một người vừa kịp chứng kiến tất cả nhưng lại là của một vùng đất một quê hương không còn là của mình nữa. Chứng kiến sự giàu đẹp nhưng bống nhiên trong tâm trạng của người thi sĩ lại xót xa vô cùng . Bởi sự phồn thịnh vốn có đó lại thuộc về tay của một kẻ khác một kẻ xâm lăng- Thực dân Pháp

Bằng những câu thơ tả thực Tế Xương đã vẽ ra những gì mà tác giả chứng kiến có một thứ gì đó chua xót đọng lại trong tâm hồn của người và đáng thương thay vùng đất nơi mà quê hương của tác giả cũng là cách để nói lên thực trạng của đất nước Nam mình.

Cho tới bây giờ thì vùng nước Nam rộng lớn giờ chỉ là một cái xác không hồn , sống trong một xã hội nhưng lại không sống một cách tự do trong xã hội đó. “ bờ sông mà phố phường hiện đang trên bờ vực thẳm. Nhưng đâu chỉ có những thay đổi của núi sông bờ cõi khi mà còn nhiều thứ hệ lụy khác nữa.

Nhà kia lỗi phép con khinh bố

Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng

Ở đây những hình ảnh đó đã biểu tượng để nói lên một cái nhìn đầy mới mẻ và mang một ý nghĩa to lớn khi nói lên một thực trạng ở xã hội, khi nó đang thấm nhuần những cảm thức nghệ thuật rằng nói ra những thực trạng tại nơi mà tác giả sống, nó không hợp với quy luật tự nhiên, những cảm thức đó gợi ra cho người đọc nhiều suy ngẫm về cảm thức sống ở đời, những điều đó làm cho chúng ta cảm thấy hiểu và thấu sâu sắc về rất nhiều cảm quan sống mạnh mẽ, ở đây gia đình không có một quy phép nào, con khinh bố, vợ chửi chồng, tôn ti trật tự trong xã hội, dường như đang bị thay đổi, đây là nghệ thuật trào phúng vừa tạo nên tiếng cười sâu cay, vừa có nhiều sự phê phán mạnh mẽ, điều đó đã làm nên những điều có ý nghĩa vô cùng to lớn khi để lại cho người đọc nhiều cảm xúc khi đọc những tác phẩm này.

Ở đât trật tự trong câu và những lối văn ngập tràn cảm xúc nó đã gợi mở ra rất nhiều ý nghĩa hàm chứa trong đó, cảm hứng nghệ thuật của ông đó là với một hiện thực không hay đó để nói lên thực trạng xã hội, qua cái nhìn sâu sắc của chính tác giả.

Nhà văn không chỉ sử dụng lối nói cường điệu mà nó còn ẩn dụ để mang nhiều ý nghĩa to lớn và sâu sắc cho rất nhiều con người, mỗi chúng ta đều thấy và thấu hiểu được sâu sắc những điều đó, nó mang lại nhiều ý nghĩa to lớn và sự thấu hiểu một cách vô điều kiện về khoảng không gian chung của tác giả:

Keo cú người đây như cứt sắt

Tham lam chuyện thở rặt hơi đồng.

Với một lối viết mạnh rạn, và ngôn ngữ bình dị, ông đã tạo cho người đọc cái nhìn mới mẻ và có nhiều ý nghĩa về cuộc sống khi tại chính vùng đất nơi đây lại xuất hiện nhiều những sự việc lạ lùng và mang nhiều ý nghĩa đến như thế.

Ở đây đang tồn tại những con người tham lam và có sự ích kỉ lớn, ở đây nói về những thói hư tật xấu của con người, những điều đó thực sự trở thành những nguồn sống mạnh mẽ và nó mang tính chất nhằm tố cáo về xã hội này. Đặc biệt tác giả đang muốn nói tới cuộc sống ở nơi đây, những hình ảnh đó làm cho mỗi chúng ta thấu hiểu được những cách trào phúng sâu cay của người.

Những tác phẩm trào phúng có ý nghĩa to lớn, nó đang phần nào phản ánh được sự sống đang tràn ngập và có ý nghĩa to lớn đối với mỗi con người, chúng ta đều có thể thấu hiểu và ngập tràn trong cảm xúc của mình những dư âm và trào lộng sâu sắc, về thơ ca cũng như trong cách sáng tác của mỗi người, mỗi chúng ta đều biết được điều kiện và giá trị đó có ý nghĩa nhằm phê phán và lột tả được bộ mặt của những hiện tượng xấu trong xã hội, những cảm thức đó đang lan tỏa và ngập tràn trong tâm trí của mỗi con người.

Mỗi chúng ta đều thấy và thấu hiểu sâu sắc được cảm xúc của con người xuất hiện ở đây, những hình ảnh và tiềm thức mạnh mẽ đang dần tác động lớn đến cảm thức của tác giả về chính nghệ thuật sử dụng của mình, ý nghĩa của nó đem lại sự sống và giá trị của nó vô cùng có ý nghĩa nó làm nên đươc những điều sâu sắc và thực sự có nhiều cảm xúc nhất:

Bắc Nam hỏi khắp người bao tỉnh

Có đất nào như đất ấy không.

Ở đây tác giả lại tiếp tục đề cập đến những tiêu cực xuất hiện trong xã hội, ở trong các chiều Nam Bắc đã bao nhiêu người hiểu và thức tỉnh được những điều đó, chính nó đã tạo nên những giá trị sống sâu sắc và mang tầm ý nghĩa to lớn đối với mỗi con người.

Những hình ảnh được sử dụng trong tác phẩm ngoài có ý nghĩa tố cáo, vừa tạo dựng được những niềm tin sâu sắc trong cuộc đời của mỗi người, giá trị của nó để lại cho chúng ta đó là cái nhìn rộng hơn, và có thể hiểu được dụng ý sâu sắc mà tác giả sử dụng ở đây.

Với sự sáng tạo và phong cách độc đáo Tú Xương đã nêu ra hiện thực sâu sắc của vùng đất mà mà đang sống, nó thực sự là những điều đáng bị chê trách và có sự tố cáo một cách mạnh mẽ, mỗi chúng ta đều có thể thấy được điều đó qua những cảm quan nghệ thuật và sự sáng tạo của chính mình, ông đang dần làm nổi bật lên ý nghĩa về sự tố cáo mạnh mẽ về cuộc sống cũng như giá trị của tác phẩm để lại đó là dụng ý muốn phơi bày được hiện thực của xã hội.

Câu cuối có sự trùng lặp với câu đầu, nó như một ý nghĩa muốn nhấn mạnh được sự thật sâu sắc và những tầm ý nghĩa to lớn đối với cuộc đời của mỗi người, giá trị của nó để lại cho chúng ta đó là dư âm về những thay đổi và cả những cuộc đời có giá trị, một sự thật khó có thể tạo nên được nghệ thuật sây sắc này, nhưng Tú Xương lại làm được điều đó, đây là sự thành công đáng kể trong phong cách nghệ thuật của người.

Bài thơ đất vị hoàng là một bài thơ viết về chính quê hương của nhà thơ Trần Tế Xương, nơi nhà thơ lớn lên, gắn bó với biết bao nhiêu kỉ niệm. Trước sự đổi thay chóng vánh nhà thơ không kiềm nén được sự bất bình, sau những dòng thơ châm biếm sâu cay là sự đau xót khôn nguôi của môt con người yêu quê.

Đón đọc 🌼Tóm Tắt Thương Vợ ❤️️ 15 Mẫu Tóm Tắt Bài Thơ Ngắn Hay

Phân Tích Đất Vị Hoàng Hay Nhất

Tú Xương tên thật là Trần Tế Xương (1870-1907), sinh ra và lớn lên tại số nhà 247 phố Hàng Nâu thành phố Nam Định, ông là một trong những nhà thơ tiêu biểu của văn học trung đại Việt Nam. Thơ của ông mọi người chú ý tới bởi sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố hiện thực, trào phúng và trữ tình.

Trong tác phẩm của ông hầu hết nội dung đều nói về khoa cử, nho học và hình ảnh một nền nho học đang thoái hóa và cảnh nghèo khó của dân trong hoàn cảnh đất nước. Ngoài ra, ông còn nổi tiếng là thể loại trào phúng, châm biếm chế độ phong kiến mục nát, bọn thực dân Pháp tàn ác, quan lại, tay sai cho giặc. Ông luôn đứng về phía người dân nghèo. Những tác phẩm tiêu biểu: Vịnh khoa thi Hương, Giễu người thi đỗ, Ông cò, Phường nhơ, Thương vợ, Văn tế sống vợ,…Tiêu biểu cho thơ văn của Trần Tế Xương ta có thể kể đến bài thơ “Đất Vị Hoàng”.

Vị Hoàng là tên cũ của làng quê Tú Xương, đó cũng là tên dòng sông đào chảy qua làng. Sông Vị trước năm 1894 có vị trí đặc biệt với tỉnh Nam Định và cả vùng đồng bằng Bắc Bộ. Lúc chưa có cảng biển Hải Phòng, Nam Định là đầu mối giao thông lớn nhất nhì miền Bắc như giờ, họ không thể thiếu con sông Vị. Vì thế, đất Vị Hoàng vừa chỉ làng quê nhà thơ, vừa chỉ cả thành Nam, tỉnh Nam Định.

Qua sự thay đổi làng quê của mình, tác giả cảm nhận được số phận chung của cả đất nước khi đó. “Đất vị Hoàng” là bài thơ được viết theo bút pháp trào phúng, qua đó thấy được nỗi đau xót phẫn uất, bất bình trước hoàn cảnh thay đổi của xã hội. Bài thơ đã phơi bày những thay đổi theo chiều hướng tiêu cực, suy thoái đạo đức xã hội một cách đầy đủ, đồng thời nhà thơ bộc lộ sự đau xót trước sự thay đổi đó.

Hai câu đề đã được Tú Xương gợi hoàn cảnh đã dẫn đến vùng quê Đất Vị Hoàng có nhiều thay đổi 

“Có đất nào như đất ấy không?

Phố phường tiếp giáp với bờ sông”

Làng quê xưa của Tú Xương sinh sống nay đã trở thành một chốn đô thị phồn vinh. Ngay câu thơ đầu tiên tác giả đã sử dụng câu hỏi tu từ“ Có đất nào như đất ấy không”, câu hỏi không đợi để trả lời, khiến độc giả phải tự đặt câu hỏi : Phải chăng sự thay đổi quá nhanh đã khiến cho mảnh đất chôn nhau cắt rốn trở nên xa lạ, tạo ra cho con người một sự xa cách đến bất ngờ.

Bằng những câu thơ tả thực Tế Xương đã vẽ ra những gì mà tác giả chứng kiến có một thứ gì đó chua xót đọng lại trong tâm hồn của người và đáng thương thay vùng đất nơi mà quê hương của tác giả cũng là cách để nói lên thực trạng của đất nước Nam mình.

Dùng câu hỏi tu từ để nổi bật sự ngỡ ngàng trước đổi thay, sự lạ lẫm ở mảnh đất vốn thân quen, đó chính là sự xuất hiện của những “phố phường tiếp giáp với bờ sông” Vị Hoàng, đây cũng là dấu hiệu của một cuộc sống mới, của một lối sống mới mà người Pháp đang xây dựng ở trong xã hội ta.

Nhà thơ khắc họa bức biếm họa nhị bình đăng đối, với bao vết ố, nét nhơ ghê tởm, đặc tả sự đồi bại về luân thường đạo lí được thể hiện qua hai đâu thực

“Nhà kia lỗi phép con khinh bố,

Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng.”

Hiện thực xấu xa, đau lòng được Tế Xương phơi bày.. Cách dùng “nhà kia, mụ nọ ” vừa ám chỉ vừa vạch mặt chỉ tên đầy khinh bỉ trước những cảnh đời xấu xa vô đạo. Có cảnh nhà “lỗi phép”: con cái bất hiếu “Con khinh bố” và cảnh mâu thuẫn giữa vợ chồng: ”vợ chửi chồng”. Có lẽ vì đồng tiền mà đồi bại đến cùng cực khiến hai mối quan hệ gia đình: tình phụ tử, nghĩa phu thê đã trở nên nhem nhuốc vô cùng. Qua hai câu thơ của nhà thơ Trần Tế Xương ta có thể thấy xã hội đó đã để đồng tiền vượt lên trên tất cả các chuẩn mực đạo đức.       

Qua hai câu luận tác giả đã khắc họa sự thay đổi trong chính con người, nó hiện ra với đủ mọi tính cách xấu xa, bần tiện, hôi hám:

“Keo cú người đâu như cứ t sắt

Tham lam chuyện thở rặt hơi đồng”

Với một lối viết mạnh rạn, và ngôn ngữ bình dị, ông đã tạo cho người đọc cái nhìn mới mẻ và có nhiều ý nghĩa về cuộc sống khi tại chính vùng đất nơi đây lại xuất hiện nhiều những sự việc lạ lùng và mang nhiều ý nghĩa đến như thế. Ở cái đất Vị Hoàng thuở ấy nhan nhải những loại người “keo cú” và “tham lam”, tồn tại những con người tham lam và có sự ích kỉ lớn. Hàm ý đầy khinh bỉ “cứ t sắt” ví người keo kiệt, bủn xỉn hết mức.

Hai câu thơ sử dụng phép đối “như cứ t sắt” với “rặt hơi đồng” đã nhấn mạnh những thói hư, tật xấu của con người, qua đó thể hiện nỗi đau xót của Tú Xương, làm cho lời thơ thêm cân xứng, hài hòa. Tác giả sử dụng phép so sánh: “người đâu như cứ t sắt” sao mà đáng sợ vậy ! Lại có loại người “tham lam” đến cùng cực như vậy, nhịp sống cuộc đời họ chỉ là chuyện tiêu cực xung quanh những thử bủn xỉn.  Đảo ngữ “keo cú”, “tham lam” lên đầu để nhấn mạnh, tạo nên nhịp điệu dữ dội, khinh bỉ, một tiếng chửi đời cay độc, lên án loại người tham lam, keo cú. Tình cảm quanh giữa con người với con người không còn là chút tình nghĩa và sự yêu thương nữa mà khô cứng như thép, vụ lợi lẫn nhau.

Qua hai câu luận, Tế Xương đã vạch trần nét tiêu cực trong tính cách con người trong thời đô thị hóa ở làng Vị Hoàng thời đó .Trong xã hội đó con người chỉ biết đến lợi ích cho bản thân mình, con người sống với nhau bằng lí tính thì xã hội đang trên đà suy vong, bởi xét cho cùng cuộc sống như vậy có hơn cuộc sống của những con vật và có khả năng tuyệt chủng là bao?

Mỗi độc giả có lẽ đọc đến hai câu thực cũng thấu hiểu về tình cảnh và nỗi lòng của nhà thơ:

“Bắc Nam hỏi khắp người bao tỉnh,

 Có đất nào như đất ấy không?”

Tác giả đã sử dụng nghệ thuật mở đầu – kết thúc dưới hình thức câu hỏi tu từ nghẹn ngào cất lên như một lời đay nghiến, vừa xót xa đau đớn. Tác giả Tú Xương đã thể hiện thái độ bất mãn, phẫn nộ trước cảnh tượng, lề lối đạo đức suy đồi, phép tắc gia đình đảo lộn, xã hội ngập tràn những xấu xa, bần tiện. Câu hỏi “Có đất nào như đất ấy không ?” tác giả Tế Xương không dành riêng cho người dân làng quê Vị Hoàng, mà đó còn là câu chuyện xã hội của cả đất nước lúc bấy giờ. Chính hai câu thơ kết bài này đã mở rộng thêm tầm tư tưởng tình cảm của bài thơ.

Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngồn bát cú Đường luật. Với giọng điệu chủ đạo của bài thơ trào phúng này xuất phát từ cái gốc trữ tình, mang đến sự thấu cảm đau đớn, xót xa của tác giả đến với độc giả. Câu mở đầu và kết thúc đều  là câu hỏi tu từ “Có đất nào như đất ấy không?”, Tú Xương hỏi mà nghe chua xót đến chạnh lòng biết bao trước những cảnh xã hội thay đổi tiêu cực, còn đâu hình ảnh đẹp một thời, để người ta nhớ và tự hào như xưa. Bài thơ đã phê phán những thói hư tật xấu thối nát như tham lam, bất hiếu, keo kiệt.

Tú Xương kịch liệt lên án, tố cáo những thói hư tật xấu của con người lúc bấy giờ, phê phán những con người vì đồng tiền mà làm mất đi giá trị bản thân, giá trị đạo đức con người và xã hội. Thể hiện nỗi đau đớn trước hiện thực đất nước, đồng thời còn thể hiện lòng yêu nước thầm kín mà mãnh liệt của Tú Xương

Như vậy bài thơ “Đất Vị Hoàng” là một bài thơ trào phúng đặc sắc, tiêu biểu của Trần Tế Xương. Bài thơ vô cùng xuất sắc ngắn gọn với kết cấu đường luật chặt chẽ cùng bút pháp hiện thực đã giúp ta cảm thấy được những thay đổi tiêu cực của vùng đất Vị Hoàng, đồng thời giúp độc giả thấu hiểu được những điều đã xảy ra ở xã hội thời đó thật tiêu cực, càng cho ta thêm cảm phục tấm lòng lo lắng cho quê hương, đất nước của chính nhà thơ.

Bạn tham khảo thêm 8+ mẫu 👉 Phân Tích Bài Thơ Lai Tân Ngắn Gọn

Phân Tích Đất Vị Hoàng Chọn Lọc

Trần Tế Xương là một nhà thơ tiêu biểu của văn học trung đại Việt Nam, những áng thơ văn của ông không đơn thuần là để thỏa mãn tâm hồn thi nhân mà còn truyền tải đươc nhiều quan niệm, tư tưởng, cách đánh giá của cá nhân nhà thơ về thời đại mà mình sinh sống.

Cái mới ở Trần Tế Xương, đó chính là ông không thể hiện những quan điểm ấy theo lối thơ văn thông thường mà ông thể hiện đặc sắc qua bút pháp trào phúng. Vì vậy mà đọc các trang thơ của Trần Tế Xương ta vừa bắt gặp cái đả kích châm biếm từ nhẹ nhàng đến mạnh mẽ sâu cay, cái được đả kích là những thói hư tât xấu, những tiêu cực, hạn chế trong xã hội đương thời.

Đồng thời, thông qua các áng văn trào phúng ấy, tư tưởng, cảm xúc của nhà thơ lại được bộc lộ rõ nét hơn bao giờ hết, đó là thái độ bất bình, phẫn uất và cả sự xót xa, đau đớn trước nghịch cảnh thực tại. Tiêu biểu cho khuynh hướng thơ văn của Trần Tế Xương ta có thể kể đến bài thơ “Đất Vị Hoàng”.

Bài thơ “Đất vị Hoàng” là bài thơ được viết theo bút pháp trào phúng, qua đó tác giả Trần Tế Xương đã thể hiện thái độ phẫn uất, bất bình của mình trước những đổi thay của xã hội, sự đổi thay đó làm mất đi những thứ vốn có, đó là những giá trị, truyền thống tốt đẹp, thay vào đó là cái lối sống nửa tây nửa ta kệch cỡm, lố bịch, đáng lên án.

Qua bài thơ ta cũng có thể dễ dàng nhận thấy sự xót xa, đau đớn đọng lại trong từng câu, từng chữ, đó chính là sự đau xót của một con người đầy ý thức, không chấp nhận được sự đổi thay chóng vánh, tiêu cực của xã hội Việt Nam đương thời.

Hai câu đề của bài đã gợi ra hoàn cảnh đổi thay của vùng quê, đồng thời cũng gợi lên sự đổi thay trong xã hội:

“Có đất nào như đất ấy không?

Phố phường tiếp giáp với bờ sông”

Tác giả đã nói vùng quê Đất Vị Hoàng có rất nhiều thay đổi. Ngay ở câu đầu” Có đất nào như đất ấy không” . Đây là một câu hỏi tu từ, câu hỏi không đợi để trả lời . Phải chăng vùng quê của Tế Xương có thay đổi gì mà nhà thơ lại đau đáu, lại đớn đau vậy? Câu thơ thứ hai, tác giải đã thốt lên” Phố phường tiếp giáp với bờ sông” . Thì ra làng của Tú Xương ở nay đã trở thành một chốn phồn vinh đô thị nhưng tại sao nó lại khiến cho tác giả lại cảm thấy đau xót như thế.

Câu hỏi tu từ gợi tả thái độ hoài nghi: Phải chăng sự đổi thay quá nhanh đã khiến cho mảnh đất chôn nhau cắt rốn của nhà thơ trở nên xa lạ, tạo ra cho con người một sự xa cách đến ngỡ ngàng. Sự lạ lẫm ở mảnh đất vốn thân quen, đó chính là sự xuất hiện của những phố phường, đây cũng là dấu hiệu của một cuộc sống mới, của nếp sống mới mà người Pháp đang xây dựng ở trong xã hội ta. Thay thế những mái nhà ngói xan xan, những mảnh vườn thưở ruộng cùng với khung cảnh lao động thường nhật thì phố phường xuất hiện làm thay đổi tất cả.

Cảnh vật còn xót lại của làng quê, đó chính là dòng sông Vị Hoàng vẫn lặng lẽ chảy, chứng kiến mọi sự đổi thay. Cảnh vật thay đổi, lối sống mới xâm nhập làm đổi thay cuộc sống của con người nơi đây. Chính bởi là vì đất có phồn vinh thêm như đó lại không còn là của nhân dân nữa.

Sự đổi thay này dường như chính là nguyên nhân dẫn tới những đổi thay to lớn trong lề lối gia đình xã hội, điều này được Tú Xương khắc họa một cách đầy trào phúng trong hai câu thực:

“Nhà kia lỗi phép con khinh bố,

Mụ nọ chanh chua vợ chửi chồng.”

Hiện thực đau đớn, xấu xa được Tế Xương phơi bày đến đau lòng. Cách dùng “nhà kia, mụ nọ” vừa ám chỉ vừa vạch mặt chỉ tên đầy khinh bỉ trước những cảnh đời xấu xa vô đạo. Có cảnh nhà “lỗi phép”, con cái bất hiếu “Con khinh bố”. Có cảnh đời, đảo điên tình nghĩa “chanh chua” như mụ nọ “Vợ chửi chồng”. Có lẽ chỉ vì tiền mà đồi bại đến cùng cực thế! Hai mối quan hệ làm rường cột của đạo lí: tình phụ tử, nghĩa phu — thê đã trở nên nhem nhuốc vô cùng. Hỏng từ gia đình hỏng ra. Không còn là hiện tượng cá biệt nữa.

Qua hai câu thực, ta có thể thấy mọi trật tự, mọi luân lí đều bị đảo ngược. Phải chăng khi lối sống mới được đưa vào thì mọi thứ đều bị đảo ngược, nếu con khinh cha mất đi cái nề nếp, gia giáo thì “vợ chửi chồng” lại là sự đổ vỡ của mô hình gia đình trong xã hội. Một gia đình không có sự kính trọng của con cái với bố mẹ, người vợ lấn quyền, chanh chua thì gia đình ấy cũng chỉ là tồn tại cưỡng ép trên hình thức mà thôi.

Thật đáng buồn thay cái chữ hiếu được nhân dân dân ta coi là đạo lí ngàn đời nay. Vậy mà hỡi ôi sao lại có cảnh con cái dám chửi lai bố mẹ dám khinh thường bố mẹ. Câu thơ khiến ta như hiểu được một phần nào đó giá trị đạo đức chuẩn mực đạo đức khi đó đã không còn nữa. Đọc câu thơ của Trần tế Xương, ta nghe ý thơ như một lời của chính tác giả đang than thở cho một xã hội đã suy tàn đã trên bờ diệt vong.

Vẫn là giọng điệu châm biếm đả kích phũ phàng, Tế Xương đã khắc họa sự đổi thay to lớn trong xã hội, nơi mà con người hiện ra với đủ mọi tính cách xấu xa, bần tiện, hôi hám:

“ Keo cú người đâu như cứt sắt

Tham lam chuyện thở rặt hơi đồng”

Một bức tranh biếm họa hoàn chỉnh. Ở cái đất Vị Hoàng thuở ấy nhan nhản những loại người “tham lam” và “keo cú”. “Keo cú” đến bần tiện, ghê tởm và hôi hám. Nhà thơ ngạc nhiên hỏi và so sánh: “người đâu như cứt sắt” sao mà đáng sợ, đáng khinh bỉ! Lại có loại người “tham lam” đến cùng cực, nhịp sống cuộc đời họ chỉ là chuyện thở rặt hơi đồng”. “Thở” là nhãn tự, rất linh diệu; nếu thay bằng chữ “nói” hay một từ nào khác thì không lột tả được bản chất loại người tham lam, đê tiện này. Vì đã “thở” phải đi liền với “hơi” – “hơi đồng”, tiền bạc.

Những câu thơ khiến ta liên tưởng đến những câu thơ trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du: “Máu tham hễ thấy hơi đồng thì mê!”. Chỉ vì tiền, coi tiền bạc là trên hết, là trước hết trong mọi mối quan hệ gia đình và xã hội. Ở hai câu luận này, tác giả đã sử dụng từ “rặt” là từ cổ, là nói cách dân gian, nghĩa là “toàn là”, “đều là”. Phép đảo ngữ ở từ “ keo cú, tham lam” lên đầu để nhấn mạnh, rất có giá trị thẩm mĩ, tạo nên ngữ điệu dữ dội, khinh bỉ, một tiếng chửi đời cay độc, lên án loại người tham lam, keo cú. Cùng với đó là hình ảnh so sánh, ẩn dụ để vạch trần nét tiêu cực tính cách con người trong thời đô thị hóa ở làng Vị Hoàng thời đó.

Hai câu kết của bài thơ là một câu hỏi không chỉ cho người dân đất Vị Hoàng mà câu hỏi cho người dân cả nước, đồng thời cũng chính là nỗi lòng của nhà thơ:

“Bắc Nam hỏi khắp người bao tỉnh,

Có đất nào như đất ấy không?”

Cách dùng nghệ thuật mở đầu – kết thúc dưới hình thức câu hỏi tu từ nghẹn ngào cất lên như một lời đay nghiến, vừa xót xa đau đớn. Và câu hỏi này, tác giả Tế Xương đã thể hiện thái độ bất mãn, phẫn nộ trước cảnh tượng, lề lối đạo đức suy đồi, phép tắc gia đình đảo lộn, xã hội ngập tràn những xấu xa, bần tiện.

Điều này không chỉ đả kích mạnh vào xã hội đương thời mà còn đồng thời thể hiện rõ nét nỗi lòng lo lắng cho quê hương của chính nhà thơ. Câu hỏi ấy, có lẽ Trần Tế Xương không chỉ dành riêng cho người dân làng quê Vị Hoàng mà đó là câu chuyện xã hội của cả đất nước. Chính hai câu thơ kết bài này đã nâng cao, mở rộng tầm tư tưởng tình cảm của bài thơ.

Bài “Đất Vị Hoàng” được viết theo thể thơ thất ngồn bát cú Đường luật, thủ vĩ ngâm. Câu 1 và câu 8 là câu hỏi tu từ “Có đất nào như đất ấy không?”‘, nhà thơ hỏi mà nghe đau đớn, xót xa . Bởi nơi chôn nhau cắt rốn thân thương nay đã thay đổi nhiều rồi, ngày ngày diễn ra bao cảnh đau lòng. Còn đâu nữa hình ảnh đẹp một thời, để tự hào và “nhớ”: “Đất Vị Hoàng” là bài thơ trào phúng độc đáo của Tế Xương. Nhà thơ vừa đau xót, vừa khinh bỉ xã hội thối nát đạo đức bấy giờ. Đúng là Tú Xương “đã đi bằng hai chân” hiện thực trào phúng và trữ tình, tạo nên giọng điệu riêng hiếm thấy.

“Đất Vị Hoàng” là bài thơ viết bằng chữ Nôm, ngôn ngữ bình dị mà sắc sảo cùng với bút pháp điêu luyện mà tự nhiên, hồn nhiên. Tác giả đã phê phán xã hội đương thời nhiều suy thoái đạo đức, luân thường, đạo lí. Lời bài thơ đã tạo nên ấu ấn thơ Tế Xương – một nhà thơ trào phúng bậc của nước ta.

Có thể khẳng định rằng Đất Vị Hoàng là một bài thơ trào phúng đặc sắc, tiêu biểu của Trần Tế Xương. Bài thơ ngắn gọn với kết cấu đường luật chặt chẽ cùng bút pháp hiện thực đã giúp ta cảm thấy được những thay đổi tiêu cực của vùng đất Vị Hoàng, đồng thời cũng là sự thay đổi của xã hội, càng cho ta thêm cảm phục tấm lòng lo lắng cho quê hương, đất nước của chính nhà thơ.

Gợi ý cho bạn những mẫu văn 👉 Phân Tích Bài Thơ Ông Phỗng Đá Ngắn

Viết một bình luận