5+ Mẫu Phân Tích Bài Thơ Tiến Sĩ Giấy Ngắn (Hay Nhất)

Tổng hợp cho các bạn đọc 5+ mẫu phân tích bài thơ Tiến sĩ giấy ngắn hay nhất của tác giả Nguyễn Khuyến tại bài viết sau đây. Mời bạn tham khảo.

Giới Thiệu Bài Thơ Tiến Sĩ Giấy Của Nguyễn Khuyến

Tiến sĩ giấy là một bài thơ thuộc chùm thơ trào phúng của Nguyễn Khuyến. Sinh ra trong một gia đình có truyền thống Nho học, từng đỗ đạt làm quan với các triều đình phong kiến nhưng đứng trước hiện thực điên đảo của xã hội Việt Nam đầu thế kỉ XIX, ông đã rơi vào tình trạng bi quan, mất hết niềm tự hào về chữ nghĩa thánh hiền.

Vì vậy ông đã viết nhiều bài thơ có giọng điệu trào phúng để thể hiện thái độ và tâm trạng của mình trước hiện thực. Tiến sĩ giấy là bài thơ mang giọng điệu ấy. Mượn chuyện vịnh về một thứ đồ chơi của trẻ em, nhà thơ vừa phê phán những kẻ mang danh tiến sĩ nhưng vô dụng với đất nước, vừa là lời tự trào chua chát của chính tác giả, một nho sĩ đang thấy mình bất lực trước cuộc đời.

Sau đây là nội dung bài thơ.

Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai.
Cũng gọi ông nghè có kém ai.
Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng,
Nét son điểm rõ mặt văn khôi.
Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ?
Cái giá khoa danh ấy mới hời!
Ghế tréo, lọng xanh ngồi bảnh choẹ,
Nghĩ rằng đồ thật, hoá đồ chơi!

Chia sẻ bạn 👉 Sơ Đồ Tư Duy Về Tác Giả Nguyễn Khuyến

Ý Nghĩa Bài Thơ Tiến Sĩ Giấy

Bài thơ ‘Tiến sĩ giấy’ là sự trào phúng, châm biếm của Tam Nguyên Yên Đổ đối với những người mang danh tiến sĩ mà không có thực lực, đồng thời là lời tự trào của tác giả.

Cách Phân Tích Bài Thơ Tiến Sĩ Giấy

Sau đây là cách phân tích bài thơ Tiến sĩ giấy dành cho những bạn nào chưa biết. Mời bạn tham khảo.

  1. Giới thiệu tác giả và tác phẩm
  2. Phân tích nội dung và nghệ thuật
    • Nội dung
    • Nghệ thuật
      • Ngôn ngữ: Nguyễn Khuyến sử dụng ngôn ngữ giản dị, mộc mạc nhưng lại rất sâu sắc, châm biếm.
      • Hình ảnh: “Tiến sĩ giấy” được xây dựng với những hình ảnh vừa cụ thể, vừa mang tính tượng trưng. Hình ảnh “tiến sĩ giấy” là một sự so sánh chua cay, ám chỉ những kẻ chỉ có hình thức mà không có thực tài.
      • Giọng điệu: Giọng điệu châm biếm, mỉa mai nhưng cũng rất đau đớn, thể hiện sự bất bình của tác giả trước hiện thực xã hội.
  3. Phân tích cụ thể từng câu thơ:
    • Câu 1-2: Mở đầu, tác giả giới thiệu về “tiến sĩ giấy” một cách trào phúng, coi họ như một món đồ trang trí, không có giá trị thực tế.
    • Câu 3-4: Tác giả miêu tả chi tiết về “tiến sĩ giấy”, từ ngoại hình đến bản chất giả dối, không thực tài.
    • Câu 5-6: Tác giả chỉ ra sự bất công và phi lý trong xã hội, nơi những người không có thực tài nhưng lại được tôn vinh.
    • Câu 7-8: Tác giả kêu gọi sự tỉnh táo, phê phán thói học giả, đề cao giá trị của tri thức chân chính.
  4. Kết luận:
    • Tóm tắt: Bài thơ “Tiến sĩ giấy” của Nguyễn Khuyến là một tác phẩm trào phúng sắc sảo, phản ánh hiện thực xã hội, phê phán thói học giả và tôn vinh tri thức chân chính.
    • Giá trị: Tác phẩm có giá trị lớn về mặt nội dung và nghệ thuật, góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn học trào phúng Việt Nam và để lại nhiều bài học sâu sắc cho hậu thế

Đón đọc thêm 10+ mẫu 👉 Phân Tích Thu Vịnh Của Nguyễn Khuyến

Dàn Ý Phân Tích Bài Thơ Tiến Sĩ Giấy

Bài viết dưới đây SCR.VN sẽ hướng dẫn bạn cách lập dàn ý phân tích bài thơ Tiến sĩ giấy của tác giả Nguyễn Khuyến.

1. Mở bài:

  • Giới thiệu tác giả, tác phẩm
  • Nêu vấn đề cần nghị luận 

2. Thân bài:  

  • Hai câu đề: hiện thực của “tiến sĩ” trong giai đoạn đó
  • Hai câu thưc: hiện thực xã hội đối rẻ mạt, những danh hiệu cao quý ấy đều được mua bằng tiền, đều trở nên vô nghĩa
  • Hai câu luận: vạch mặt thực trạng xã hội giả dối trái ngược lại với vẻ bề ngoài cao quý, lộng lẫy
  • Hai câu kết: lời khẳng định đầy chua xót

3. Kết bài:

  • Giá trị nghệ thuật
  • Giá trị nội dung
  • Bài học          

Chia sẻ bạn 11+ mẫu 👉 Phân Tích Thơ Trào Phúng Ngắn Gọn

5+ Bài Vài Văn Phân Tích Bài Thơ Tiến Sĩ Giấy Ngắn Hay

SCR.VN tổng hợp cho bạn 5+ bài văn phân tích bài thơ Tiến sĩ giấy ngắn hay nhất dưới đây.

Phân Tích Tiến Sĩ Giấy Nguyễn Khuyến Hay Nhất

Tam nguyên yên đổ Nguyễn Khuyến là nhà khoa bảng, nhà thơ yêu nước tài danh thuộc thế kỷ XIX. Thơ ông thể hiện tình cảm tha thiết gắn bó với quê hương, ẩn chứa trong những lời thơ là tấm lòng yêu nước cùng nỗi u uẩn trước thời thế.

Ngồi bút tả cảnh của ông vừa chân thực vừa tài hoa, ngôn ngữ giản dị mà điêu luyện. “Tiến sĩ giấy” là một trong những bài thơ nổi bật của Nguyễn Khuyến nằm trong chùm thơ trào phúng. Cứ mỗi dịp tết trung thu về hình nộm của ông tiến sĩ giấy lại xuất hiện.

Hình tiến sĩ giấy thể hiện truyền thống hiếu học, trọng khoa bảng của dân tộc ta. Vào cuối thế kỷ XIX chế độ thực dân nửa phong kiến khiến cho nền văn hóa nho học nước lụi tàn. Chứng kiến thực trạng này, nhà thơ Nguyễn Khuyến đã sáng tác ra bài thơ để thấy hiện thái độ mất niềm tin về chữ nghĩa thánh hiền:

“Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai.

Cũng gọi ông nghè có kém ai.

Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng,

Nét son điểm rõ mặt văn khôi.

Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ?

Cái giá khoa danh ấy mới hời!

Ghế tréo, lọng xanh ngồi bảnh choẹ,

Nghĩ rằng đồ thật, hoá đồ chơi!”

Tam nguyên yên đổ Nguyễn Khuyến sống trong thế kỷ 19, khi mà xã hội Việt Nam bị thực dân nửa phong kiến chiếm đóng. Chúng luôn tìm cách bay ra những trò lố lăng, làm cho nền văn hóa cũng như đạo đức truyền thống của người Việt Nam bị đảo lộn. Bài thơ “tiến sĩ giấy” thể hiện phong cách sáng tác trào phúng, châm biếm xã hội phong kiến Việt Nam. Ngay từ tên bài thơ, ông đã đem đến cho người đọc sự tò mò thú vị.

Tiến sĩ để chỉ những người có học thức cao, là niềm vinh quang của bản thân và cho cả dòng họ. Họ sẽ vinh danh, tiến sĩ luôn chứa trong mình nguồn tri thức của thời đại. Hằng năm nước ta vẫn luôn tổ chức các đợt thi để tìm ra người tài, tìm ra những nhân tố góp phần phục vụ và xây dựng đất nước. 

“Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai.

Cũng gọi ông nghè có kém ai.”

Mở đầu tác phẩm, nhà thơ không giới thiệu rõ nhân vật này là ai, theo cảm nhận của người đọc đây hẳn là một vị tiến sĩ tài cao. Đối tượng ấy có cờ, có biển, có cân đai. Biển- tấm thiếp vàng bằng gỗ in chữ “ân tứ vinh quý”. Có “cân đai” là dây đeo ngang lưng đây đều là những vật cao quý, là những thứ tạo nên y phục của quan lại, chức quan lớn trong thời kỳ phong kiến. Tất cả đều là những thứ đó được vua ban cho người đỗ tiến sĩ để vinh quy bái tổ.

Câu thơ mở đầu khiến cho nhân vật hiện lên vẻ uy nghi, cao quý. Thế nhưng tác giả lại dùng điệp từ “cũng” bốn lần trong hai câu thơ chắc hẳn đằng sau ẩn chứa một ý nghĩa sâu sắc. Điệp từ “cũng” kết hợp với “có kém ai” khiến cho những người tiến sĩ, quan lại trong triều đình mất đi vẻ cao quý. Hóa ra họ cũng chỉ là những ông tiến sĩ giấy, là sự giả dối, học đòi giống hệt như những tiến sĩ thật nhưng thực chất ẩn sâu bên trong là sự trống rỗng, không thực sự có gì nổi bật.

Sống trong thời đại của Nguyễn Khuyến, những giá trị truyền thống về văn hóa nho học không còn được coi trọng như trước nữa. Mọi thứ từ quan cao chức lớn đều có thể mua được bằng tiền, cái chức tiến sĩ ấy giờ chỉ còn là những điều tầm thường. Một xã hội rối ren, đảo lộn khiến cho Nguyễn Khuyến không khỏi thất vọng lo lắng. Những người tài thực sự lại không được trọng dụng, một xã hội như thế thử hỏi làm sao xã đất nước có thể phát triển? Nguyễn Khuyến đã từng tự trách mình qua bài thơ “tự trào”:

“Nghĩ mình cũng gớm cho mình nhỉ?

Thế cũng bia xanh, cũng bảng vàng”

Vốn là người tài đáng ra Nguyễn Khuyến có thể góp nhiều công sức của mình vào việc phục vụ xây dựng đất nước. Thế nhưng chính xã hội ấy, ông đã phải từ quan về ở ẩn để bảo vệ phẩm chất, giữ cho mình thanh cao.

“Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng,

Nét son điểm rõ mặt văn khôi.”

Trong hai câu thực này, Nguyễn Khuyến đã dùng “mảnh giấy” đối với thân giáp bảng, “nét son” đối với “mặt văn khôi”. Giáp bảng hay còn gọi là bảng công bố kết quả thi cử ngày xưa lại được làm lên từ mảnh giấy. Đây là cách nói giễu cợt đầy mỉa mai của Nguyễn Khuyến để nói về tiến sĩ thời kỳ đó. Chỉ bằng vài nét son đã có thể tạo nên mặt văn khôi- người đứng đầu làng văn. Nguyễn Khuyến đã tái hiện hiện thực xã hội đối rẻ mạt, những danh hiệu cao quý ấy đều được mua bằng tiền, đều trở nên vô nghĩa.

Nguyễn Khuyến đã mượn hình ảnh tiến sĩ giấy để nói về những người tiến sĩ đương thời, vạch mặt thực trạng xã hội giả dối trái ngược lại với vẻ bề ngoài cao quý, lộng lẫy. Chức quan tiến sĩ vốn được người xưa tôn trọng, vinh danh nay bị người đời coi thường, khinh rẻ:

Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ?

Cái giá khoa danh ấy mới hời!

Đến hai câu luận, với tài năng dùng từ đắc địa của mình, Nguyễn Khuyến đã dùng cụm từ “sao mà nhẹ”, “ấy mới hời” để nói lên cái giá để mua được chức danh. Nếu như ngày xưa, để thi được tiến sĩ những người quân tử phải không ngừng rèn luyện, học tập. Họ là những người có tài năng thật sự, góp phần xây dựng và bảo vệ đất nước. Thế nhưng ngày nay cái chức danh tiến sĩ ấy sao nghe thật nhẹ nhàng, đơn giản nó có thể dễ dàng được mua bởi những kẻ lười nhác, mơ mộng thích sống trong mơ ảo. Đây là những lời chế giễu mỉa mai đầy chua xót trước thời thế lúc đó.

“Ghế tréo, lọng xanh ngồi bảnh choẹ,

Nghĩ rằng đồ thật, hoá đồ chơi!”

Ghế tréo, lọng xanh gây cho người đọc dáng vẻ học cao, quyền quý. Sống trong cái xã hội, xã hội mà triều đình cùng các quan bị che mờ bởi những thứ hào nhoáng thật đáng sợ.

     

Bằng lối viết thơ trào phúng, cùng giọng điệu mỉa mai giễu cợt châm biếm sâu cay tam nguyên yên đổ Nguyễn Khuyến đã tái hiện lại bức tranh đầy giả dối, bi hài của nước ta thời kỳ đó. Bài thơ “tiến sĩ giấy” không sử dụng những lời nói nặng nề mà là tiếng nói giễu cười châm biếm mang nặng nỗi buồn ưu tư.

Tác giả đã phê phán nền giáo dục khoa cử của đất nước ta thời kỳ đó, cho thấy sự mục nát của chế độ thực dân nửa phong kiến. Qua đây Nguyễn Khuyến để lại chúng ta bài học sâu sắc về tầm quan trọng của nền giáo dục giúp ta bảo vệ và cống hiến cho đất nước.

Chọn lọc những mẫu đoạn văn 🌸 Mở Bài Thu Vịnh Của Nguyễn Khuyến 🌸 hay nhất!

Phân Tích Tiến Sĩ Giấy Ngắn Gọn

Nguyễn Khuyến (1835-1909) là một người vốn từ nhỏ thông minh, hiếu học, ông đỗ đạt rồi ra làm quan, ông nổi tiếng là thanh liêm và có lối sống gần gũi chan hòa với nhân dân. Nguyễn Khuyến đã để lại một kho tàng các tác phẩm cho Việt Nam như Quế sơn thi tập, Yên đỗ thi tập, những bài thơ vịnh mùa thu. Trong số các tác phẩm của ông, bài thơ Tiến sĩ giấy vừa mang âm hưởng trào phúng lại mang sự hài hước dí dỏm, dễ đi vào lòng người, và đói với tất cả mọi tầng lớp độc giả.

Tiến sĩ giấy nằm trong phần thơ trào phúng của Nguyễn Khuyến, được biết đến với nhiều ý nghĩa khác nhau. Mặc dù chỉ là cách nói ẩn dụ nhẹ nhàng nhưng hiện thực của một giai đoạn cảu xã hội, một thực trạng đang lan tràn, ngay cả tới thời kì này vẫn tồn tại.

Với cách mở đầu đầy bất ngờ, hình ảnh tiến sĩ giấy hiện ra nhưng lại ngụ theo một ý nghĩa khác. Chúng ta ai cũng biết tiến sĩ giấy là đồ chơi dành cho trẻ con mỗi khi trung thu, vậy mà tiến sĩ giấy trong bài thơ lại mang một ý nghĩa chế giễu:

Cũng cờ, cúng biển, cũng cân đai,
Cũng gọi ông nghè có kém ai!

Ông tiến sĩ ở đây có tất cả mọi thứ mà một ông tiến sĩ thật ngoài đời có, có cờ, biển , cân đai và cũng được gọi là ông nghè cũng được xưng danh lớn. Nếu như với ý tả thực thì người ta chỉ hiểu đơn thuần ở đây chính là hình ảnh của một ông tiến sĩ bình thường, được vua ban cho bổng lộc chức danh, uy nghi.

Nhưng “ từ cũng” xuất hiện bốn lần trong bài thơ khiến cho độc giả tò mò, rằng chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo. Nhưng ngụ ý của Nguyễn Khuyến ở đây chính là, ông tiến sĩ này làm bằng giấy, cũng có đủ mọi thứ để giống với một ông tiến sĩ thật nhưng thực ra lại là một tiến sĩ giấy, chẳng có tài năng phẩm hạnh gì

Tiếp đến hai câu tiếp theo , Nguyễn Khuyến lại tiếp tục miêu tả về hình ảnh ấy:

Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng,
Nét son điểm rõ mặt văn khôi.

Lại tiếp tục mang sắc thái trào phúng, Nguyễn Khuyến giải thích cho chúng ta hiểu, chỉ cần mảnh giấy xanh xanh, đỏ đỏ, người làm đồ chơi có thể cắt dán vẽ nặn ra hình của ông tiến sĩ một cách dễ dàng. Còn với mảnh giấy thì cũng đủ để làm nên “thân giáp bảng “ và khuôn mặt của một tiến sĩ giấy là “ văn khôi” thông minh đức độ.

Nhưng một ông tiến sĩ ở ngoài đời thực không chỉ có một mảnh giấy , cũng không thể dùng mấy miếng giấy mà tạo thành, vỏ của nó có thể giống tiến sĩ nhưng ruột lại trống rỗng. Như vậy, một tiến sĩ ở ngoài đời là người chịu bao nhiêu năm đèn sách khổ luyện, bao khó khăn vất vả rồi mới trở thành tiến sĩ, từ đó ta thấy được sự đối lập hoàn toàn giữa tiến sĩ giấy và tiến sĩ thật.

Không còn chọn cách nói bóng gió nữa, Nguyễn Khuyến đi sâu vào đánh giá bên trong xem tiến sĩ giấy có những gì:

Tấm thân xiêm sao sao mà nhẹ,
Cái giá khoa danh ấy mới hời.

Mọi thứ bên trong tiến sĩ giấy hiện ra với: tấm thân nhẹ, cái giá hời bởi làm bằng giấy và bán giá rẻ mạt nhưng ý tứ đã vượt ra ngoài hình hài người giấy. Đó là nhằm vào những kẻ khoác trên mình xiêm áo ông nghè nhưng tài năng, đạo đức nhẹ tênh, suốt đời không làm nổi việc gì.

Ý nghĩa trào phúng, châm biếm sâu sắc của đoạn thơ đến đây đã thể hiện rất rõ. Thì ra một tiến sĩ mà cũng mua được bằng tiền, nên chỉ là tiến sĩ trên giấy tờ, nhưng làm sao có thể đánh đổi với bao nhiêu năm dùi mài kinh sử.

Hình ảnh tiến sĩ giấy ở trong các dịp lễ trung thu lễ tết chỉ là cái cớ cho tác giả đi đến những ngụ ý sâu xa. “ tiến sĩ giấy– những con người không tự bản thân mình mà đi lên lại có mặt khắp mọi nơi, ngay ở cả những nơi nghiêm ngặt và quan trọng nhất. Nhưng có lẽ hai câu kết mới chính là những gì mà Nguyễn Khuyến muốn nói thẳng ra

Ghế chéo, lọng xanh ngồi bảnh choẹ,
Nghĩ rằng đồ thật hóa đồ chơi!

Giọng thơ Nguyễn Khuyến rõ ràng có ý phê phán, cười cợt nhưng không phải phê phán, cười cợt một cách thoải mái, và phảng phất trong lời chế giễu ấy có cả sự tự chế giễu bản thân. Người ta có thể nghĩ sâu xa về việc Nguyễn Khuyến cũng là một ông nghề đích thực , một người có đức có tài, nhưng trước hoàn cảnh và vận mệnh đất nước lại đành ngậm ngùi buông xuôi.

Những ngôn từ hình ảnh tạo ra nụ cười mỉa mai chát đối với một bộ phận trong xã hội phong kiến thời xưa. Giọng thơ nhẹ nhàng nhưng lại mang tính chất trào phúng sâu cay, mỗi câu mỗi từ ngày càng đưa độc giả nhìn nhận vấn đề một cách sâu xa.

Xem thêm ✅ Phân Tích Bài Thơ Khóc Dương Khuê ✅ chi tiết

Phân Tích Tiến Sĩ Giấy Lớp 8 Điểm Cao

Thơ trào phúng là một thể loại thơ mà những câu thơ được sử dụng để châm biếm, mỉa mai hoặc chế nhạo một cá nhân, một nhóm người hoặc một tình huống. Một trong những tác phẩm tiêu biểu cho thể loại thơ trào phúng phải kể đến là tác phẩm Tiến sĩ giấy của Nguyễn Khuyến.

“Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai,
Cũng gọi ông nghè có kém ai.
Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng,
Nét son điểm rõ mặt văn khôi.

Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ?
Cái giá khoa danh ấy mới hời
Ghế tréo lọng xanh ngồi bảnh chọe,
Nghĩ rằng đồ thật hoá đồ chơi!”

Bài thơ được sáng tác vào cuối thế kỉ XX, dưới chế độ thực dân, nền văn hóa Nho học lụi tàn, các kì thi thời bấy giờ vô cùng mục nát. Đứng trước thực trạng này, danh nho Nguyễn Khuyến đã viết bài thơ này. Mở đầu tác phẩm tác giả đã miêu tả sự quyền lực, địa vị và uy tín của một người, được so sánh với các yếu tố như cờ, biển và cân đai. ‘’Cũng cờ cũng biển cũng cân đai”: Từ ngữ này sử dụng các yếu tố như cờ, biển và cân đai để ám chỉ sự quyền lực, uy quyền hoặc sự địa vị xã hội.

Câu thơ sử dụng từ “cũng” để nhấn mạnh sự tương đồng.”Ông Nghè” là một người có quyền lực, địa vị cao trong xã hội. Câu thơ này có thể miêu tả sự tương đồng, sự đồng nhất giữa các yếu tố như cờ, biển và cân đai, và sự tương đồng này cũng ám chỉ sự quyền lực, uy quyền hoặc sự địa vị xã hội.

Câu thơ cũng nhấn mạnh sự không thể vượt qua, không thể sánh bằng của ông Nghè, ngụ ý rằng ông Nghè là một người có địa vị, quyền lực và không ai có thể vượt qua hay sánh bằng. Câu thơ miêu tả về sự quyền lực, địa vị và uy tín của một người trong xã hội, đồng thời nhấn mạnh sự không thể vượt qua, không thể sánh bằng của ông Nghè.

‘’Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng,
Nét son điểm rõ mặt văn khôi.’’

Nghệ thuật đối được Nguyễn Khuyến sử dụng hết sức đắc địa. “Mảnh giấy” đối với “thân giáp bảng”, “nét son” đối với “mặt văn khôi”. “Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng’’.Thân giáp bảng có thể hiểu là bề mặt của bảng, nơi mà những điều quan trọng được ghi chú và truyền đạt. ‘’Nét son điểm rõ mặt văn khôi” ám chỉ sự trang trọng, quý phái của một tấm giấy được sử dụng để làm giáp bảng hoặc viết văn bản quan trọng.

Đoạn thơ này có thể miêu tả sự quyền lực, địa vị và uy tín của một người, được so sánh với các yếu tố như cờ, biển và cân đai. Ông Ghè có vẻ ngoài của một tiến sĩ thực thụ nhưng kiến thức thực sự của ông lại nhẹ như một tờ giấy và một nét son.

Qua đó, ta thấy nhà thơ đã bộc lộ rõ nét một chế độ giáo dục mục ruỗng. Ông đã cảm nhận tiến sĩ chỉ như mảnh giấy, nét son. Bởi mảnh giấy và nét son được sử dụng để tạo ra một hình ảnh trang trọng, quý phái, nhưng sâu bên trong thì vô cùng ngu ngốc, không còn một chút tài đức nào.

‘’Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ?
Cái giá khoa danh ấy mới hời’’

Đoạn thơ này có hai câu: Câu thứ nhất đặt câu hỏi: Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ? Đây có thể là một câu hỏi đặt ra để thể hiện sự ngạc nhiên hoặc sự kinh ngạc về sự nhẹ nhàng, thoải mái của tấm thân xiêm áo. Tấm thân xiêm áo có thể được hiểu là một biểu tượng cho cuộc sống đơn giản, không phức tạp. “Cái giá khoa danh ấy mới hời” có thể được hiểu là giá trị của danh vọng, uy tín, danh tiếng chỉ là một cái giá rẻ.

Điều này có thể ám chỉ rằng danh vọng và danh tiếng không đáng giá bằng những giá trị khác trong cuộc sống. Đoạn thơ nhấn mạnh sự giản dị và giá trị thực sự của cuộc sống, đồng thời phê phán sự quan trọng quá mức đối với danh vọng và danh tiếng. Đến hai câu cuối, sự mỉa mai của bài thơ mới thực sự đạt đến đỉnh điểm, phá hủy sự thật và sự giả dối của câu trước:

‘’ Ghế tréo lọng xanh ngồi bảnh chọe,
Nghĩ rằng đồ thật hoá đồ chơi!’’

“Ghế tréo lọng xanh ngồi bảnh chọe” mô tả một hình ảnh về việc ngồi trên một chiếc ghế tréo lọng màu xanh, và người ngồi được mô tả là “bảnh choẹ”, “Ghế treo lọng xanh” có thể. Cụm từ “bảnh choẹ” có thể ám chỉ sự thoải mái, thoải mái, hoặc sự tươi trẻ, tinh tế.

Câu thứ hai nói về việc nghĩ rằng “đồ thật hoá đồ chơi. “Đồ chơi” ở đây có thể đại diện cho những thứ nhẹ nhàng, không quan trọng, trong khi “đồ thật” là những điều quan trọng, nghiêm túc. Đoạn thơ này có thể là một lời nhắc nhở về việc giữ cho cuộc sống và giá trị thực của chúng ta không bị mất đi nhất là thời kì công nghệ đang phát triển, nơi mà đôi khi sự giả mạo có thể che đậy giá trị thực sự.

Bài thơ “Tiến sĩ giấy” đã đóng góp cho xã hội Việt Nam lúc bấy giờ trong việc khơi dậy nhận thức xã hội và đấu tranh cho sự công bằng, bình đẳng. Đây cũng là một trong những tác phẩm văn học nổi tiếng của Nguyễn Khuyến và được coi là biểu tượng của phong trào cải cách xã hội, giáo dục trong lịch sử Việt Nam.

Bạn tham khảo thêm những bài phân tích 💛 Câu Cá Mùa Thu 💛 hay nhất

Phân Tích Bài Thơ Tiến Sĩ Giấy Của Nguyễn Khuyến Ngắn Nhất

Nguyễn Khuyến là một con người, một tâm hồn Việt Nam tiêu biểu. Đứng trước hiện thực của xã hội Việt Nam đầu thế kỉ 19 ông đã rơi vào  tình trạng bi quan mất hết niềm tin vào thánh hiền. Vì thế ông đã viết nhiều bài thơ trào phúng thể hiện nỗi lòng.

Trong số đó tác phẩm “tiến sĩ giấy” là một trong những tác phẩm tạo được tiếng vang khá lớn trong nghệ thuật làm thơ trào phúng lúc bấy giờ. Trong bài thơ tác giả mượn hình ảnh tiến sĩ giấy nhằm chỉ những tên mang danh tiến sĩ nhưng bất tài vô dụng đồng thời cũng thể hiện sự bất lực trước cuộc đời của thi sĩ

Đọc nhan đề của tác phẩm là tiến sĩ giấy ta liên tưởng ngay đến thứ đồ chơi của trẻ em ngày xưa. Vào nhưng ngày tết đặc biệt là tế trung thu thì cha mẹ thường mua cho các em nhỏ thứ đồ chơi này. Đây không chỉ đơn thuần là một thứ đồ chơi mà còn giáo dục trẻ em cố gắng học tập cho giỏi để sau này được gi tên trên bảng vàng như các tiến sĩ giấy vậy.

Mở đầu bài thơ tác giả viết:

“Cũng cờ cũng biển cũng cân đai

Cũng gọi ông nghè có kém ai”
                   

Khi thi đỗ tiến sĩ thì sẽ được triều đình vinh danh rước cờ kiệu ngưa khiêng về làng vinh quy bái tổ, được triều đình ban cho mũ mão cân đai và được xứng danh gọi là ông nghè. Tiến sĩ giấy cũng tương tự như thế và đây hẳn là một vị tiến sĩ rất uy danh và đã được khắc tên trên bảng rồng. Nhân vật xuất hiện lên với vẻ bề ngoài phô trương và ra oai tự đắc.

Tác giả sử dụng rất nhiều từ “cũng” trong hai câu thơ này nghe có vẻ không được trang nghiêm lắm, liệu rằng phải chăng tác giải đang đưa chúng ta đến tư tưởng nghi ngờ và châm biếm ông nghè. Ta thấy rằng trong xã hội có rất nhiều những tiến sĩ với biển, cân đai đem danh dự về làng và sau này phục vụ đất nước. Nhưng những tiến sĩ giấy này lại chẳng có bất kì thứ gì là thật cả tất cả đều giả đều không có giá trị.

Cũng giống như những tên ngoài cái mang danh tiến sĩ nhưng lại không làm gì được cho đất nước chỉ là một lũ tham ô nịnh bợ há khác nào chỉ như tiến sĩ giấy thôi sao? Và đối với những kẻ như thế thì cái bản chất cái tâm hồn bên trong chắc chắn cũng rỗng tuếch.

Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng
Nét son điểm rõ mặt văn khôi

Chỉ với một mảnh giấy cộng thêm chút màu sắc ta đã tạo nên một ông tiến sĩ giấy quả thực rất đơn giản. Ở đây tác giả đã sử dung nghệ thuật đối lập một cách rất sáng tạo một bên là mảnh giấy với thân giáp bảng một bên là nét son với mặt văn khôi. Giáp bảng là bảng ghi tên những người đạt tiến sĩ trong kì thi, mặt văn khôi chỉ người đứng đầu làng văn.

Những thứ tưởng chừng như được coi trọng và đưa lên hàng đầu lại được tác giả đặt cạnh những thứ không mang nhiều giá trị há chẳng phải là quá kệch cỡm hay sao? Nhưng khi ta xuyên suốt ý thơ của tác giả thì ta mới thấy được cái hay trong cách hành văn của thi sĩ. Trải qua bao nhiên năm đèn sách miệt mài người học đi thi để lấy được thành tích , được triều đình công nhận để được làm quan giúp dân giáp nước, thế mà có những người bao nhiêu năm đèn sách vẫn không có kết quả như mình mong muốn.

Vậy mà những kẻ chỉ bằng một vài mảnh giấy viết son hay là những đồng tiền vật chất đã dễ dàng có được há chẳng bất công đến nhường nào. Nhưng người đời cũng đâu khuất mắt chông coi đâu phải cứ được gọi là ông nghè là đã được người đời công nhận. Họ không những không công nhận mà còn bị họ coi thường khinh rẻ.
                                     

Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ
Cái giá khoa danh ấy mới hời

Cũng chẳng biết từ lúc nào mà cái danh hiệu tiến sĩ ấy lại được đem ra cân đong đo đêm qua các từ “sao mà nhẹ”, “ấy mới hời”. Trước đây khi một người đỗ tiến sĩ được triều đình giao cho những trách nhiệm nặng nề bao nhiêu thì ngày nay nó lại được giảm bớt nhẹ nhàng bấy nhiêu. Đó cũng là lẽ đương nhiên khi mà cái khoa danh đó cũng chỉ được mua với giá”hời”thì nó cũng chỉ như một thứ đồ giả không hơn không kém .

Đọc đoạn thơ chế giễu mà sao ta như cảm thấy có chút buồn man mác của tác giả. Đó chắc hẳn là nỗi niềm xót xa cho xã hội hiện thực lúc bấy giờ khi đồng tiền có thể chi phối tất cả mọi thứ “có tiền là có tất cả”chỉ cần có chút tiền là có thể đè đầu cưỡi cổ người khác. Tác giả căm giận cái xã hội này đã khiến cho những tên không có chút tài mọn nào lại có thể ra uy trước mọi người.

Nhà thơ Nguyễn Khuyến đã dùng hai câu luận này để chế giễu cái xã hội suy tàn hiện tạ và cùng với đó là sự lăm le xâm lấn của các thế lực giặc ngoại xâm. Có lẽ cũng vì lí do này mà nhà thơ đã lui về ở ẩn để làm vơi đi sự đau xót trước hiện tại. Hai câu thơ luận này làm tiền đề cho một làn sóng khinh thường xâm lấn tâm hồn nhà thơ và nó đã được thốt ra trong hai câu kết.

Ghế chéo lọng xanh ngồi bảnh chọe
Nghĩ  rằng đồ thật hóa đồ chơi

Hình ảnh ghế chéo lọng xanh ngồi bành chọe cho ta thấy dáng vẻ oai vệ vốn có của một nhân vật có học vấn cao lúc bấy giờ. Ở đây thêm một lần nữa tác giả lại khắc sâu thêm vào trong tâm trí người đọc cái vẻ hào nhoáng cái bên ngoài và cái bản chất bên trong của ông tiến sĩ giấy này.

Những tên ngồi bảnh chẹo như thế thực chất cũng chỉ là tay sai của một bè lũ bán nước mà thôi . Nguyễn khuyến đã khéo léo nhìn thấy tất cả những điều ấy và ông khéo léo đưa nó vào trong văn thơ để châm biếm những lũ giặc bán nước
                    

Bản thân tác giả cũng là một nhân tài của đất nước nhưng đứng trước thời thế hiện tại ông xác định rõ giúp triều đình lúc này chính là giúp giặc bởi triều ông đã quyết định từ quan ở ẩn và dùng ngòi bút của mình để viết lại hoạt cảnh ông có được cái nhìn tỉnh táo như vậy.

Không phải ai cũng thấy được sự thấp kém của giai cấp mình, thừa nhận sự bất lực của nó trước lịch sử. Rõ ràng bên cạnh màu sắc bi hài tự trào bài thơ còn mang triết lí sâu sắc về xã hội trong đó nổi bật là triết lí về thân phận của những người trí thức ở lớp nho giá
                  

Bài thơ còn là lời tự trào của chính Nguyễn Khuyến khi cáo quan về quê ở ẩn. Bài thơ mang đến cho người đọc những quan niềm sâu sắc về cái danh cái thực về thái độ cần có của người có học trong thời cuộc. Sống ở trên đời là không nên coi trọng hư danh mà điều quan trọng là làm được những gì có ích .

Tiến sĩ giấy không chỉ là thành tựu nghệ thuật tiêu biểu của thơ ca Nguyễn Khuyến mà còn là một trong những hình tượng điển hình có giá trị nhất của văn học trào phúng Việt Nam ở giai đoạn đỉnh cao.

Chiêm ngưỡng bức tranh thu trong 🌸 Phân Tích Thu Ẩm Của Nguyễn Khuyến 🌸 hay nhất!

Phân Tích Tiến Sĩ Giấy Nguyễn Khuyến Dài

Trung thu trăng sáng như gương. Tết Trung thu là Tết của trẻ nhỏ, người lớn thường bày cỗ trông trăng và làm nhiều đổ chơi cho các em. Ngày xưa, để khuyến khích con cháu chăm lo học hành, ông bà, cha mẹ hay tặng thứ đồ chơi đặc biệt là hình nộm ông tiến sĩ, gọi là ông tiến sĩ giấy hay ông nghè tháng Tám. Chỉ cần vài que tre, dăm ba miếng giấy màu là bàn tay khéo léo của nghệ nhân đã làm ra bộ dạng ông tiến sĩ ở thời điểm vinh quang nhất: lúc vinh quy bái tổ.

Bài thơ Tiến sĩ giấy nằm trong phần thơ trào phúng của Nguyễn Khuyến. Nhưng trào phúng thường phải ngụ trữ tình mới hay. Mọi người đều biết Tam Nguyên Yên Đổ cũng là một ông nghè nổi tiếng tài ba, thừa hiểu tiến sĩ giấy chỉ là thứ đồ chơi cho trẻ con, vậy mà sao còn làm thơ chế giễu?

Mở đầu bài thơ, Nguyễn Khuyến viết:

Cũng cờ, cúng biển, cũng cân đai,

Cũng gọi ông nghè có kém ai!
Tác giả đang tả thực ông tiến sĩ giấy với đủ các thứ sang trọng vua ban cho ngày vinh quy như cờ, biển, cân đai và cũng gọi là ông nghè. Tại sao chỉ trong hai câu mà nhà thơ lại dùng một loạt bốn từ cũng? Đọc lên âm điệu giống như thể hiện thái độ ngạc nhiên trước một sự lạ.

Người đọc ngầm hiểu là trong đời có những ông tiến sĩ những ông nghè thật, xứng đáng với các thứ cờ, biển, cân đai đó, còn ông tiến sĩ này tuy cũng đầy đủ các thứ và cũng được người đời gọi bằng ông nghè nhưng chẳng có chút giá trị nào, vì đó chỉ là một ông nghè giả làm bằng giấy. Nghĩa đen là thế, còn nghĩa bóng là tuy cũng có đủ thứ quý giá thật đấy nhưng tài cán, đức hạnh chẳng ra gì.

Ngụ ý thâm thuý của Nguyễn Khuyến là vừa tả hình dáng ông tiến sĩ giấy, vừa gợi cho người đọc liên tưởng đến những kẻ tuy mang danh tiến sĩ, áo mũ xênh xang nhưng thật sự chẳng có một chút tài đức nào.

Hai câu thực tiếp tục phát triển ý nghĩa ấy :

Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng,

Nét son điểm rõ mặt văn khôi.
Với vài mảnh giấy xanh xanh, đỏ đỏ, người làm đồ chơi bồi bồi, dán dán thành hình một ông tiến sĩ giấy, mặt mày phết màu trắng rồi dùng màu son tô điểm cho đẹp. Phần ấy là giả. Còn thân giáp bảng (giáp bảng là bảng thứ nhất sơn vàng nên còn được gọi là bảng vàng), dùng để ghi danh những người đỗ đại khoa, từ tiến sĩ trở lên. Văn khôi nghĩa là tài giỏi về văn chương.

Mặt văn khôi là cách gọi những tiến sĩ có tài xứng với học vị cao quý đó. Làm nên thân giáp bảng và điểm rõ mặt văn khôi đâu phải chĩ cần mấy mảnh giấy và vài nét son mà thành. Phải bao năm đèn sách, có khi suốt cả đời, lại phải là kẻ thông minh, tài cao, chí lớn, gặp thầy gặp bạn mới nên danh chứ đâu có dễ dàng gì.

Tuy vậy, ở đời không ít những vị tiến sĩ bằng xương bằng thịt, học hàm học vị hẳn hoi nhưng cũng chẳng khác gì loại tiến sĩ giấy. Cái thân giáp bảng và mặt văn khôi chẳng qua cũng chỉ là kết quả của những mảnh giấy do chạy chọt bằng thế lực đồng tiền và những nét son vẽ vời bôi bác để che mắt thiên hạ. Dù sao, cái thật và cái giả ở đây cũng vẫn còn lẫn lộn, chưa phân biệt rạch ròi! Cái giả chưa được tác giả đem ra phê phán.
Hai câu luận:

Tấm thân xiêm ảo sao mà nhẹ,

Cái giá khoa danh ấy mới hời.
Không còn lấp lửng, bóng gió nữa, từ miêu tả bên ngoài, nhà thơ đã đi vào đánh giá bên trong, vẫn nói vể ông tiến sĩ giấy như: tấm thân nhẹ, cái giá hời bởi làm bằng giấy và bán giá rẻ mạt nhưng ý tứ đã vượt ra ngoài hình hài người giấy mà chĩa thẳng vào các vị khoác trên mình xiêm áo ông nghè nhưng tài năng, đạo đức nhẹ tênh, suốt đời không làm nổi việc gì xứng đáng với danh vị cao quý ấy. Vậy mà cũng vênh vang với Gái danh ông nghè, ông thám, thì quả là cái giá khoa danh ấy quá rẻ, quá hời, chĩ nhờ dịp may mà mua được. Ý nghĩa trào lộng, châm biếm sâu cay của đoạn thơ đến đây đã thể hiện rất rõ.

Như thế là không phải chỉ đến Tết Trung thu mới xuất hiện hàng loạt rrhững ông tiến sĩ giấy, mà tiến sĩ giấy hằng ngày có mặt khắp nơi. Trong đám quan lại của triều đình nhà Nguyễn cuối thế kĩ XIX, thiếu chi thân giáp bảng, mặt văn khôi nhưng cũng chẳng hơn gì loại tiến sĩ giấy. Lớp trước sợ giặc, hèn nhát đầu hàng. Lớp sau dựa vào lí lẽ tùy thời, ra làm quan với triều đình bù nhìn, ngoan ngoãn chấp nhận kiếp làm tay sai cho thực dân Pháp. Đến đây thì xiêm áo không chỉ nhẹ, khoa danh không chỉ hời mà đã thành dơ bẩn. Cho nên tác giả mới kết thúc bài thơ bằng hai câu nhận xét thâm thuý:

Ghế chéo, lọng xanh ngồi bảnh choẹ,

Nghĩ rằng đồ thật hóa đồ chơi!

​Trở lại với tựa đề bài thơ và hai đối tượng một hiện, một ẩn là ông tiến sĩ giấy và ông tiến sĩ bằng xương bằng thịt, chúng ta thấy giá trị chẳng khác gì nhau.
Có một điều lạ là giọng thơ Nguyễn Khuyến rõ ràng có ý phê phán, cười cợt nhưng không phải phê phán, cười cợt một cách thoải mái, hả hê mà phảng phất trong lời chế giễu ấy có cả sự tự chế giễu bản thân. Bởi cụ cũng là một ông nghè đích thực, hơn nữa là Tam Nguyên Yên Đổ nổi danh, nhưng trước tình cảnh tang thương của đất nước lúc bấy giờ, cũng đành thở dài ngậm ngùi, buông xuôi, bất lực.

Ghế chéo, lọng xanh ngồi bảnh choẹ là lời bình phẩm theo kiểu nâng nhân vật lên cao để rồi bật ra cái cười mỉa mai chua chát, đắng cay khi phải phơi bày sự thực là tiến sĩ thật hay tiến sĩ giấy giờ đây cũng đểu là thứ đồ chơi mà thôi! Nỗi đau tuy chưa chảy thành nước mắt nhưng cứ rưng rức ở trong lòng nhà thơ.

Bài thơ Tiến sĩ giấy mới đọc qua tưởng chỉ ià một bài thơ vịnh vật đơn thuần nhưng suy ngẫm kĩ, ta sẽ thấy nó hàm ẩn chất trào phúng trữ tình sâu thẳm, thật đáng trân trọng.

Tuyển tập 15 bài văn 🌸 Phân Tích Thu Điếu Nguyễn Khuyến 🌸 đặc sắc!

Viết một bình luận