8+ Mẫu Phân Tích Bài Thơ Lai Tân Ngắn Gọn (Hay Nhất)

SCR.VN gợi cho các bạn đọc 8+ mẫu phân tích bài thơ Lai tân ngắn gọn và hay nhất giúp bạn hoàn thiện tốt bài văn của mình.

Giới Thiệu Bài Thơ Lai Tân

Bài thơ “Lai Tân” nằm trong tập “Nhật ký trong tù” của Hồ Chí Minh, được sáng tác trong thời gian ông bị giam cầm tại Trung Quốc từ năm 1942 đến 1943. Tập thơ này chứa đựng nhiều tâm tư, tình cảm, và những quan sát tinh tế của Hồ Chí Minh về cuộc sống tù đày cũng như sự khát khao tự do, lý tưởng cách mạng.

👉 Gửi đến bạn nội dung bài thơ Lai tân sau đây

來賓
監房班長天天賭,
警長貪吞解犯錢。
縣長燒燈辨公事,
來賓依舊太平天。

Lai Tân
Giam phòng Ban trưởng thiên thiên đổ,
Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền;
Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự,
Lai Tân y cựu thái bình thiên.

Dịch nghĩa
Ban trưởng nhà giam ngày ngày đánh bạc,
Cảnh trưởng tham lam ăn tiền phạm nhân bị giải;
Huyện trưởng chong đèn làm việc công,
Lai Tân vẫn thái bình như xưa.

Dịch thơ

Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc,
Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh;
Chong đèn, huyện trưởng làm công việc,
Trời đất Lai Tân vẫn thái bình.

Đón đọc ngay 💕 Nhật Ký Trong Tù Toàn Tập 💕 bất hủ

Ý Nghĩa Bài Thơ Lai Tân

Qua bài “Lai Tân” ta cảm nhận được ý nghĩa hiện thực chân xác, vừa mang tính chiến đấu sắc mạnh tố cáo châm biếm cao độ. Bài thơ đã cho ta hiểu hơn tâm hồn tài năng của Bác và hiểu thêm xã hội Tưởng Giới Thạch.

Cách Phân Tích Bài Thơ Lai Tân

Nếu bạn chưa biết cách phân tích bài thơ Lai tân như thế nào thì hãy tham khảo ngay bài viết mà chúng tôi chia sẻ dưới đây nhé.

  1. Giới thiệu bài thơ và tác giả:
    • Giới thiệu sơ lược về Hồ Chí Minh và hoàn cảnh sáng tác bài thơ “Lai Tân”.
    • Nêu mục đích và ý nghĩa của bài thơ trong bối cảnh lịch sử.
  2. Nội dung bài thơ:
    • Tóm tắt nội dung chính của bài thơ.
    • Chỉ ra những tình huống, sự kiện và nhân vật được nhắc đến trong bài thơ.
  3. Phân tích chi tiết:
    • Hình thức nghệ thuật:
      • Cấu trúc bài thơ: số câu, số chữ trong mỗi câu.
      • Thể thơ: Thơ ngũ ngôn, thất ngôn, hoặc thể thơ nào khác.
    • Ngôn ngữ và phong cách:
      • Ngôn ngữ sử dụng: giản dị, mộc mạc hay hoa mỹ, phức tạp.
      • Các biện pháp tu từ: ẩn dụ, hoán dụ, điệp ngữ, phép đối, vv.
    • Ý nghĩa biểu tượng:
      • Những hình ảnh, biểu tượng xuất hiện trong bài thơ và ý nghĩa của chúng.
      • Phân tích các từ ngữ mang tính biểu tượng và ảnh hưởng của chúng đến nội dung bài thơ.
  4. Ý nghĩa và giá trị bài thơ:
    • Ý nghĩa xã hội:
      • Tác động của bài thơ đến độc giả và xã hội trong thời kỳ đó.
      • Tình cảm, tư tưởng mà tác giả muốn truyền tải.
    • Giá trị nghệ thuật:
      • Sự sáng tạo trong cách thể hiện của tác giả.
      • Đóng góp của bài thơ vào nền văn học Việt Nam.
  5. Kết luận:
    • Tổng kết những điểm chính đã phân tích.
    • Đánh giá tổng quan về giá trị và ý nghĩa của bài thơ.

Gửi đến bạn 22+ mẫu 💛 Sơ Đồ Tư Duy Về Hồ Chí Minh 💛 Hay Nhất

Dàn Ý Phân Tích Bài Thơ Lai Tân

SCR.VN hướng dẫn cho bạn cách dàn ý phân tích bài thơ Lai tân tại bài viết sau đây. Mời bạn tham khảo.

1. Mở bài

“Nhật kí trong tù” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của Hồ Chí Minh. Nổi bật và đặc sắc phải kể đến bài thơ 97 – ” Lai Tân” trích trong tập thơ.

2. Thân bài

– Sự thối nát, xấu xí,….của giai cấp thống trị – những con người đứng đầu các cấp, nắm giữ quyền lực, thực thi luật pháp :
+ An trưởng đánh bạc
+ Cảnh trưởng cũng “tham lam ăn tiền phạm nhân”
+ Huyện trưởng chong đèn làm việc công
=> Cấp dưới lại dám lộng hành, cấp trên nhắm mắt cho qua => Nhà tù là nơi để dẹp loạn, giúp dân thì nơi đầy lại chính là nơi diễn ra những gì thối tha, bần tiện, xấu xa nhất.
– Trời đất “thái bình” chính là sự ẩn nấp của những thói hư tật xấu, tệ nạn đang diễn ra trong xã hội → Tiếng nói căm phẫn, đầy khinh bỉ.
=> Sự thật về chính quyền thối nát, lên án, đả kích tới chế độ nhà tù ở Tưởng Giới Thạch cũng như xã hội Trung Quốc bấy giờ.

3. Kết bài

Bài thơ “Lai Tân” đã khái quát được bộ mặt bộ mặt xấu xa, bỉ ổi của những con người cấp cao nhà tù Tưởng Giới Thạch. Bút pháp châm biếm nhẹ nhàng mà thâm thúy đã khiến “Lai Tân” trở nên vô cùng đặc sắc.

Bạn xem thêm 23+ mẫu 👉 Kể Về Anh Hùng Dân Tộc Hồ Chí Minh

8+ Bài Văn Phân Tích Bài Thơ Lai Tân Ngắn Hay

Dưới đây là 8+ bài văn phân tích bài thơ Lai tân ngắn hay nhất mà bạn không nên bỏ qua.

Viết Bài Văn Phân Tích Lai Tân Hay Nhất

Bài thơ Lai Tân đã ghi lại những điều mắt thấy tai nghe trong những ngày Bác bị giam cầm trong nhà tù của bọn Tưởng Giới Thạch. Bức tranh hiện thực nhà tù và một phần xã hội Trung Quốíc đã được thu nhỏ trong bốn câu thơ bảy chữ kèm theo thái độ

Thành công của bài thơ Lai Tân là nghệ thuật châm biếm sắc sảo, độc đáo, với giọng điệu tự sự xen lẫn trữ tình với một kết cấu chặt chẽ vững chắc.

Bài thơ Lai Tân có kết cấu gồm 2 phần, với hai cách cấu tứ khá bất ngờ. Như trên đã nói, ba câu đầu chỉ thuần kể việc. Điểm nút chính là câu thứ tư. Nó làm bật ra toàn bộ tư tưởng của bài. Nó làm bung vỡ tất cả cái hàm ý châm biếm mỉa mai hướng đến sự thối nát tận xương tủy của cái xã hội Tưởng Giới Thạch.

Trong ba câu đầu miêu tả ngắn gọn, khách quan mà sâu sắc, có sức công phá không hề nhỏ vào sự lộn xộn, bát nháo của xã hội Tưởng Giới Thạch.

Hồ Chí Minh vẽ lên ba bộ mặt thật vô cùng sinh động. Lão giám ngục (ban trưởng nhà lao) đánh bạc ngày này qua ngày khác, viên cảnh sát trưởng thì lóc lẻm móc túi tiền của tù nhân và quan huyện thì chong đèn hút thuốc phiện. Ở đâu đánh giặc thì cứ đánh giặc, còn cái trời đất Lai Tân này thì muôn thuở vẫn thế. Ba nhân vật hoạt động ráo riết như trong một màn hài kịch câm vậy. Cả ba đang đóng vai một cách nghiêm túc đến vô thức dưới gầm trời “thái bình” của Lai Tân — cảnh tượng thu hẹp của cái giang sơn dưới bàn tay nhà họ Tưởng.

Câu thơ cuối là lời châm biếm, mỉa mai rất sắc sảo. Một chữ “thái bình” mà thâu tóm lại bao nhiêu việc làm vốn là chuyện muôn thuở của cái xã hội Trung Quốc còn giai cấp bóc lột thống trị. Chỉ một chữ ấy mà xé toang tất cả sự “thái bình” dối trá nhưng thực sự là đang “đại loạn” từ bên trong của xã hội.

Ba câu đầu chỉ là những câu kể việc, nói về hình tượng cũng không có gì dặc biệt lắm nhưng mỗi nhân vật đều có một việc làm khác nhau mà đặc biệt giống nhau về sự thối nát, nhất là lại ở vào cái hoàn cảnh “quốc gia hữu sự”. Người xưa đã nói “quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”. Giặc đang ở ngay trước mắt, thiên hạ đã dại loạn rồi, thế mà bọn quan lớn bé đều chỉ lo làm sao vơ vét cho đầy túi.

Bác không cần dùng chữ “đại loạn” Bác chỉ nói “thái bình”, nói như không “Trời đất Lai Tân vẫn thái bình”. Với câu nói đó (mà nghệ thuật thơ Đường gọi là “cảnh cú”), một câu thơ kêu lên có thể làm rung chuyển những câu thơ khác. Bài thơ vốn phẳng lặng bỗng vang ngân, bỗng giục giã, bỗng gây ra những cảm xúc đặc biệt.

Bài thơ cũng in đậm bút pháp chấm phá của thơ Đường. Lời thơ ngắn gọn, xúc tích, Không cầu kì câu chữ, nhưng có thể nói: chỉ với bốn câu thơ ngắn, nhà thơ đã vẽ nên cái bản chất của cả chế độ xã hội mục nát đến cùng. Sức chiến đấu, chất “thép” của bài thơ nhẹ nhàng mà quyết liệt chính là ở đó. Câu kết có vẻ dửng dưng, vô cảm kia, té ra vẫn ẩn giấu bên trong một tiếng cười khẩy, một tiếng cười mỉa mai có tác dụng lật tẩy bản chất của cả bộ máy nhà nước ở Lai Tân.

Xem Thêm 🌿 Tả Về Bác Hồ ❤️️15 Bài Văn Tả Chủ Tịch Hồ Chí Minh Hay Nhất

Phân Tích Bài Thơ Lai Tân Lớp 8 Hay

Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh là một tập nhật kí bằng thơ, và được viết trong thời gian hơn một năm trong các nhà tù của chính quyền Tưởng Giới Thạch ở tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Tập thơ này ban đầu được Bác viết cho chính mình, với mục đích chính là giữ cho tâm hồn an ổn và tinh thần mạnh mẽ trong thời gian Bác bị giam cầm, và cũng là để tự tìm động lực cho ngày Bác được tự do, như đã ghi ở bài “Khai quyển đầu cuốn sổ tay.”

Lai Tân là bài thơ thứ 97 trong tập nhật kí này, và Bác đã viết nó sau khi bị chuyển từ Thiên Giang đến Lai Tân. Bức tranh hiện thực trong bài thơ này, thể hiện rõ sự mỉa mai, châm biếm và phê phán của Hồ Chí Minh đối với giai cấp thống trị tại Lai Tân, và đồng thời cả xã hội Trung Quốc thời kỳ đó.

Phiên âm chữ Hán:

Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc,
Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh.
Chong đèn, huyện trưởng làm công việc,
Trời đất Lai Tân vẫn thái bình.

Bài thơ này tạo ra một bức tranh sắc nét về hiện thực trong nhà tù Lai Tân và một phần nhỏ của xã hội Trung Quốc thời điểm đó. Bức tranh này được Hồ Chí Minh phản ánh một cách sống động, sử dụng một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt ngắn gọn nhưng đầy ý nghĩa.

Bài thơ thành công chủ yếu nhờ vào nghệ thuật châm biếm sắc sảo và độc đáo, kết hợp với giọng điệu tự sự và trữ tình, cùng với một cấu trúc chặt chẽ và hợp lý. Cấu trúc của bài thơ gồm hai phần, nhưng khác với cấu trúc thông thường của tứ tuyệt Đường luật. Phần thứ nhất bao gồm ba câu, trong khi phần thứ hai chỉ có một câu duy nhất. Ba câu đầu tiên đơn thuần kể chuyện, trong khi câu thứ tư là điểm nút, là nơi tất cả tư tưởng của bài thơ được tập trung và nó làm bung vỡ tất cả các ý châm biếm và mỉa mai của Hồ Chí Minh đối với đám quan chức thuộc giai cấp thống trị.

Phần thứ nhất của bài thơ “Lai Tân” của Hồ Chí Minh đã khắc họa một cách sắc sảo thần tình chân dung của ba nhân vật “quan trọng.” Trong đó, ban trưởng nhà lao công khai đánh bạc hàng ngày, trong khi đánh bạc bên ngoài bị quan bắt tội. Cảnh trưởng thì trắng trợn ăn tiền đút lót của tù nhân, còn huyện trưởng thì đêm đêm chong đèn và hút thuốc phiện. Những người này đại diện cho chính quyền và luật pháp, nhưng lại hoàn toàn vi phạm pháp luật.

Điều này đã vượt ra khỏi khung cảnh của một nhà tù, trở thành biểu tượng cho cả xã hội Trung Quốc thời kỳ đó, khi quan trên thảnh thơi, vô trách nhiệm và tham lam, trong khi cấp dưới chỉ lo xoay xở kiếm ăn, không quan tâm đến các tệ nạn đang hoành hành. Hơn nữa, những hành vi tham lam và nhũng nhiễu của họ thậm chí còn đóng góp “tích cực” vào việc gia tăng tệ nạn xã hội.

Ba nhân vật này hoạt động trong một màn hài kịch câm, và cả ba đang đóng vai trò “nghiêm túc” trong khung cảnh thái bình (??!) dưới sự thống trị của họ Tưởng. Câu thơ ngắn gọn và hàm súc này tố cáo tình trạng hỗn độn, bát nháo của xã hội Trung Quốc thời điểm đó.

Phần thứ hai của bài thơ, câu cuối cùng, chứa nhận xét thâm thúy và trào lộng của người tù Hồ Chí Minh về tình trạng bộ máy cai trị tại Lai Tân. Đọc đến đoạn này, người ta có thể trông đợi một lời lên án mạnh mẽ. Tuy nhiên, tác giả đã không làm như vậy, mà thay vào đó, ông đưa ra một câu nhận xét có vẻ rất khách quan: “Trời đất Lai Tân vẫn thái bình.” Câu này thực sự đánh đồng với tình trạng thối nát của những quan chức ở Lai Tân, và nó thể hiện một sự mỉa mai, châm biếm sâu sắc.

Hiệu quả của câu thơ này là gì? Nó làm cho tình trạng thối nát của những quan chức ở Lai Tân trở nên bình thường đến mức nó trở thành bản chất của họ. Bản chất này thậm chí đã trở thành một phần “nề nếp” được chấp nhận trong xã hội từ lâu.

Câu kết luận trong bài thơ, dường như rất bình thản, lại ẩn chứa một lời châm biếm, mỉa mai và tiết lộ bản chất xấu xa của bộ máy thống trị ở Lai Tân. Từ “thái bình” có thể được coi là “thần tự,” “nhãn tự” của bài thơ này. Điều này cho thấy tác giả đã sử dụng một cách tài tình từ “thái bình” để lôi kéo tất cả các hoạt động bất hợp pháp và thối nát ra ánh sáng, và châm biếm bản chất của họ Tưởng Giới Thạch đang lẩn trốn sau vẻ ngoài thái bình. Bằng cách này, câu thơ “Lai Tân” in đậm bút pháp nghệ thuật của Hồ Chí Minh, tạo nên một tác phẩm thơ châm biếm sắc sảo và đầy ẩn ý.

Đón đọc ❤️️ Nhận Định Về Hồ Chí Minh ❤️️ 29+ Lời Bình, Nhận Xét Về Bác Hay

Phân Tích Bài Thơ Lai Tân Ngắn Nhất Lớp 8 Chọn Lọc

Nhật ký giam cầm của Hồ Chí Minh không chỉ là một tập hợp các bản nhật ký bằng thơ mà còn là một hiện thân của sự sáng tạo và tinh thần kiên trì. Được viết trong khoảng một năm tại những nhà tù dưới sự kiểm soát của chính quyền Tưởng Giới Thạch ở tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc, tập thơ này ban đầu được Bác viết với mục đích chủ yếu là duy trì tinh thần vững vàng, đồng thời tìm kiếm nguồn động lực để tự giải phóng, như mô tả trong bài “Khai quyển đầu cuốn sổ tay.”

Lai Tân, bài thơ thứ 97 trong nhật ký này, được sáng tác sau khi Bác được chuyển từ Thiên Giang đến Lai Tân. Bức tranh hiện thực trong bài thơ này là một tác phẩm nghệ thuật ghi chép sắc nét về sự châm biếm, mỉa mai và phê phán của Hồ Chí Minh đối với giai cấp thống trị tại Lai Tân cũng như xã hội Trung Quốc trong giai đoạn đó.

Phiên âm chữ Hán:

Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc,
Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh.
Chong đèn, huyện trưởng làm công việc,
Trời đất Lai Tân vẫn thái bình.

Bức tranh hiện thực về nhà tù Lai Tân cùng một phần cụ thể của xã hội Trung Quốc thời điểm ấy được tác giả vẽ lên qua một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt. Hồ Chí Minh đã sử dụng bài thơ ngắn nhưng đầy tính tượng trưng để phản ánh mọi chi tiết một cách sinh động.

Bài thơ ghi điểm chính là sự sắc sảo và độc đáo trong việc sử dụng châm biếm, phối hợp với giọng điệu tự sự và trữ tình, đồng thời giữ vững một cấu trúc hợp lý và chặt chẽ. Bài thơ được chia làm hai phần: phần đầu gồm ba câu kể chuyện, trong khi phần sau chỉ một câu duy nhất. Điểm nhấn ở câu cuối cùng, nơi mọi tư tưởng sắp đặt của bài thơ tập trung, tiết lộ sự châm biếm sâu sắc của Hồ Chí Minh đối với những quan chức đến từ giai cấp thống trị.

Phần đầu tiên của bài thơ “Lai Tân” của Hồ Chí Minh tinh tế mô tả chân dung ba nhân vật “quan trọng” một cách sắc sảo. Trong đó, người đứng đầu nhà lao công thản nhiên tham gia đánh bạc hàng ngày, trong khi ở ngoài, quan chức lại bị bắt tội vì hành động tương tự. Ban trưởng nhà tù không ngần ngại nhận tiền đút lót từ tù nhân, còn cảnh trưởng lại tận hưởng đèn sáng đêm để hút thuốc phiện. Những nhân vật này, mặc dù đại diện cho chính quyền và luật pháp, nhưng lại hoàn toàn vi phạm nguyên tắc pháp luật.

Hình ảnh này không chỉ giới hạn trong khuôn khổ nhà tù mà còn trở thành biểu tượng cho xã hội Trung Quốc thời kỳ đó, nơi quan trên sống thoải mái, thiếu trách nhiệm và tham lam, trong khi cấp dưới chỉ cố gắng kiếm sống mà không quan tâm đến những tệ nạn đang lan rộng. Hành vi tham lam và nhũng nhiễu của họ thậm chí đóng góp vào sự gia tăng của những tệ nạn xã hội.

Ba nhân vật này như đang tham gia vào một vở hài kịch câm, và tất cả đều đóng vai trò “nghiêm túc” trong bức tranh thái bình (?!), dưới sự thống trị của chính họ Tưởng. Câu thơ ngắn và sắc bén này tiếp tục tố cáo tình trạng hỗn độn và bất ổn trong xã hội Trung Quốc thời kỳ đó.

Phần thứ hai của bài thơ, đặc biệt là câu cuối cùng, đưa ra một cái nhìn sâu sắc từ người tù Hồ Chí Minh về tình trạng bộ máy cai trị tại Lai Tân. Thay vì lên án mạnh mẽ, tác giả chọn một lối diễn đạt khách quan với câu nhận xét: “Trời đất Lai Tân vẫn thái bình.” Câu này không chỉ tương ứng với tình trạng thối nát của quan chức ở Lai Tân, mà còn mang đến sự mỉa mai và châm biếm sâu sắc.

Hiệu quả của câu thơ này là tạo ra một hiện thực trong đó tình trạng thối nát của quan chức ở Lai Tân đã trở thành bản chất của họ. Nó đã làm cho bản chất này trở thành một phần “nề nếp” thậm chí được xã hội chấp nhận từ lâu.

Câu kết luận của bài thơ, mặc dù có vẻ bình thản, thực tế lại ẩn chứa một lời châm biếm và mỉa mai, tiết lộ bản chất xấu xa của bộ máy thống trị ở Lai Tân. Từ “thái bình” không chỉ là một miêu tả bình thường, mà còn mang ý nghĩa của sự “thần tự” hoặc “nhãn tự” trong ngữ cảnh của bài thơ.

Điều này làm cho tác giả thông qua từ ngữ “thái bình” tài tình khám phá tất cả các hành vi bất hợp pháp và thối nát, châm biếm bản chất của Tưởng Giới Thạch đang ẩn sau vẻ ngoài trái với sự thư thái. Bằng cách này, bài thơ “Lai Tân” không chỉ là một tác phẩm thơ châm biếm sắc sảo mà còn là một kiệt tác nghệ thuật đầy ý nghĩa và lôi cuốn.

Giới thiệu mẫu 🌸 Phân Tích Bài Thơ Ngắm Trăng 🌸 hay nhất!

Phân Tích Bài Thơ Lai Tân Theo Bố Cục Hay

“Nhật kí trong tù” là một trong các tác phẩm tiêu biểu của Hồ Chí Minh. Nổi bật và đặc sắc phải kể đến bài thơ 97 – ” Lai Tân” trích trong tập thơ. Bài thơ đã phản ánh, phê phán, mỉa mai, bóc trần,… bộ mặt của những người đứng đầu cai quản nhà tù cũng như xã hội thời bấy giờ.

Mở đầu bài thơ chính là sự thối nát, xấu xí,….của giai cấp thống trị-những con người đứng đầu các cấp, nắm giữ quyền lực, thực thi luật pháp:

“Ban trưởng nhà giam ngày ngày đánh bạc
Cảnh trưởng tham lam ăn tiền phạm nhân bị giải
Huyện trưởng chong đèn làm việc công”

Ba câu thơ đầu của bài thơ đã cho ta một cái nhìn hiện thực về những con người thực thi pháp luật cũng như xã hội Trung Quốc bấy giờ. Đầu tiên là “ban trưởng đánh bạc”. Chúng công khai đánh bạc trước mặt những người phạm nhân không phải chỉ một ngày mà là ngày ngày. Kẻ cầm đầu chính là ban trưởng – người thực thi pháp luật.

Ban trưởng bấy giờ cũng như phạm nhân, tất cả lao đầu vào những lá cờ đỏ đen, bài bạc, nơi thực thi công lí, pháp luật lại biến thành sòng bài. Không phải chỉ ở đây ta mới bắt gặp cảnh này mà ở bài thơ “Đánh bạc” của Bác cũng đã khắc họa bức chân dung rõ nét nhất về cảnh bài bạc trong ngục tù:

“Đánh bạc ở ngoài quan bắt tội
Trong tù đánh bạc được công khai
Vào tù con bạc ăn năn mãi:
Sao trước không vô quách chốn này”

Châm biếm, lên án một cách hóm hỉnh, qua mỗi hình ảnh ta lại càng cảm nhận sâu sắc, hiểu rõ hơn về vấn đề bài bạc trong nhà tù. Không chỉ có ban trưởng, mà đến cảnh trưởng cũng “tham lam ăn tiền phạm nhân”. Ban trưởng thì bài bạc còn cảnh trưởng thì kiếm tiền từ những dân đen nghèo khó. Thay vì là nơi pháp luật nghiêm minh đây lại là nơi để chúng lợi dụng, trục lợi cá nhân.

Những tưởng nhà tù là nơi để dẹp loạn, giúp dân thì nơi đầy lại chính là nơi diễn ra những gì thối tha, bần tiện, xấu xa nhất,…..Thật là một cảnh tượng xấu xí, thối nát của xã hội Trung Quốc thời bấy giờ. Những tưởng cấp dưới hành động như thế thì cấp trên sẽ chỉnh đốn, sắp xếp, phạt nặng nhưng không, huyện trưởng vẫn “chong đèn làm việc”.

Thái độ châm biếm, mỉa mai của tác giả càng làm ta thấy rõ bức tranh mục nát của nhà tù cũng như xã hội bấy giờ. Tại sao cấp dưới lại dám lộng hành như vậy? Chẳng phải là do sự ngầm cho phép, mắt nhắm mắt mở của cấp trên sao. Hắn chỉ để ý tới công việc của mình mà bỏ bê muôn dân. Từ sự châm biếm, lên án một cách hóm hỉnh, nhẹ nhàng mà thâm thúy của tác giả qua các câu chữ, hình ảnh ta đã thấy được sự thối nát, xấu xí của quan lại cũng như xã hội thời bấy giờ.

“Trời đất Lai Tân vẫn thái bình”

Câu thơ cuối cùng bài thơ khiến người đọc băn khoăn. Tại sao trước một xã hội thối nát như vậy thì lại có thể “thái bình” cho được. Nhưng đây chỉ là thủ pháp nói ngược của Bác mà thôi. Hóa ra từ xưa tới giờ Lai Tân “vẫn thái bình” như vậy. Từ “vẫn” thể hiện rõ sự khinh bỉ, châm biếm của tác giả.

Tưởng chừng như những thói hư tật cái xấu trong nhà tù, xã hội là bất thường nhưng lại là bình thường. “thái bình” chính là sự ẩn nấp của những thói hư tật xấu, tệ nạn đang diễn ra trong xã hội. Qua tất cả, Hồ Chí Minh đã cho ta thấy sự thật về sự thối nát, lên án, đả kích tới chế độ nhà tù ở Tưởng Giới Thạch cũng như xã hội Trung Quốc bấy giờ.

Bài thơ “Lai Tân” đã khái quát được bộ mặt bộ mặt xấu xa, bỉ ổi của những con người cấp cao nhà tù Tưởng Giới Thạch. Bút pháp châm biếm nhẹ nhàng mà thâm thúy đã khiến “Lai Tân” trở nên vô cùng đặc sắc. Lời thơ ngắn gọn, không quá cầu kì trau chuốt, chỉ với bốn câu thơ thôi mà vị anh hùng dân tộc đã nói lên tiếng nói căm phẫn thay cho tiếng lòng của hàng triệu người vô tội, những con người chán ghét thói ích kỷ, cậy quyền, yêu chính nghĩa và đấu tranh vì chính nghĩa.

Đề tài 🌸 Phân Tích Phong Cách Hồ Chí Minh 🌸 ấn tượng!

Phân Tích Lai Tân Học Sinh Giỏi

Nhật kí trong tù (1942 – 1943) tập thơ xuất sắc, giàu tính chiến đấu, chất trí tuệ và đậm chất trữ tình của nhà thơ lớn Hồ Chí Minh. Tập thơ có hình thức nhật kí, đa dạng về bút pháp, giọng điệu trong đó bút pháp tự sự trào phúng chủ yếu để chê giễu, châm biếm, lên án nhà tù và chế độ xã hội Trung Hoa dân quốc. Bài thơ Lai Tân sử dụng bút pháp tự sự trào phúng giàu chất trí tuệ.

   Ba câu thơ đầu được thuật chuyện các nhân vật

    Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc

    Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh

    Chong đèn huyện trưởng làm công việc

Tác giả không nêu tên mà chỉ điểm danh từng người một, chức vụ gắn với trọng trách xã hội trong bộ máy công quyền, họ phải làm gương cho dân chúng trong việc thực thi pháp luật.

Cách điểm danh và kể việc rành mạch tưởng như ai lo phận nấy, theo đuổi một cách mẫn cán. Nhưng họ đã làm việc gì

Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc. Đánh bạc là phạm pháp, đánh bạc ở ngoài quan bắt tôi thế mà trong tù đánh bạc được công khai nên chủ ngục đánh bạc nhiều hơn ai hết. Bọn quan coi ngục đã coi thường luật pháp.

Cảnh sát trưởng bắt người vô tội để họ chạy vạy, lo lót, xin xỏ. Tên này rất ranh ma, dụng chuyện để ăn hối lộ. Còn khi chuyển lao thì tìm cách ăn chặn tù nhân. Hành vi của hắn thật bẩn thỉu, đê tiện.

Huyện trưởng chong đèn làm việc thâu đêm, ông ta làm việc gì không được biết. Hút thuốc phiện? Đồi bại đến thế! Soạn công văn ? Chăm chỉ làm việc mà không biết cấp dưới thao túng, lũng đoạn, nhũng nhiễu dân chúng. Hắn chỉ là một viên quan làm vì, dốt nát nên dễ bị cấp dưới qua mặt. Bất tài, vô trách nhiệm như thế là cùng. Hay là có biết nhưng làm ngơ, có mắt mà như mù. Vậy thì cá mè một lứa, một bè lũ quan lại tham nhũng thối nát. Ý thơ lấp lửng gợi được nội dung nhiều chiều.

Phép liệt kê quan chức từ nhỏ đến lớn và phép tăng tiến cho thấy phạm vi hiện thực được mở rộng dần theo từng cấp bậc, chức càng cao càng hủ bại. Phép điệu cú cho thấy công việc của bọn họ khá nhịp nhàng, rành rạch và bức tranh hiện lên sinh động như màn kịch câm.Việc làm của họ quên thuộc đến mức gần như vô thức. Bộ máy cai trị vẫn cứ chạy đều, nhịp sống vẫn diễn ra bình thường.

Trong quy luật sinh học, cái đột biến mà phổ biến thì trở thành thường biến. Sinh học chỉ ghi nhận cái thường biến để nhận thức bản chất đối tượng. Cái bất thường được lặp đi lặp lại hóa ra bình thường, ở Lai Tân cái thối nát đến cực đại trở thành sự thường, thành nền nếp quy củ hẳn hoi, họ rất khéo léo che đậy nên cuộc sống vẫn yên ổn. Đó là cái đáng sợ nhất. Tiếng cười phê phán châm biếm có chiều sâu trí tuệ là ở đó.

Hai câu thơ đầu tác giả vạch rõ ra cái thối nát của ban trưởng, cảnh sát trưởng. Câu thứ ba lại bỏ lửng càng tăng thêm ý vị mỉa mai trào lộng.

Câu thơ kết bình luận, đánh giá sự việc đã được kể. Theo mạch tự sự thì câu thơ cuối mang nội dung phê phán nhưng tác giả kết luận ngược.

    Trời đất Lai Tân vẫn Thái Bình

    (Lai Tân y cựu thái bình yên)

Thối nát như vậy thì “thái bình” sao nổi. Đang loạn đấy chứ. “Y cựu” đối với “Lai Tân”. Lai Tân mà văn như xưa. Nghĩa là cái thối nát thành nề nên không đổi. Tiếng cười mỉa mai chua chát toát ra tư cách nói ngược và nghệ thuật chơi chữ ẩy.

Hay đây là lời nhận xét bao biện của bọn chúng. Tiêu cực thi có nhưng cuộc sống vẫn yên ổn, đất nước thì “vẫn thái bình, thịnh trị”. Lời ngụy biện mị dân ấy thật là tội lỗi quá lớn. Cái vỏ bề ngoài bình yên nhưng bên trong rường cột bị đục khoét rỗng cả rồi. Cái trời đất Lai Tân này sắp sụp đổ.

Bài thơ ra đời trong hoàn cảnh thế giới đang chao đảo vì chiến tranh. Nước Trung Hoa cũng đang tang tốc vì bọn phát xít.1 Trong khi:

    Tráng sĩ đua nhau ra mặt trận

    Hoàn cầu bốc lừa rực trời xanh.

Thì bọn chúng ở góc huyện này vẫn rung đùi hưởng thụ và đục khoét dân chúng, ở đâu đánh giặc cứ đánh, chúng vẫn an nhiên hưởng “thái bình”. Bọn chúng là lũ giặc nội xâm. Lai vung đang đại loạn.

Một chữ thái bình đã xé toạt bức màn dối trá, phơi bày những ung nhọt của xã hội thời Tưởng. Hiện thực này có ý nghĩa tự tố cáo.

Bài thơ thể hiện nội dung chiến đấu sắc sảo, trí tuệ. Lời thơ giản dị nhưng thể hiện bút pháp trào phúng bậc thầy. Nghệ thuật châm biếm nhẹ nhàng mà sâu cay.

Xem ngay những mẫu văn phân tích 👉 Bài Thơ Cảnh Khuya Hồ Chí Minh

Phân Tích Lai Tân Chi Tiết

Tập thơ “Nhật kí trong tù” (1942 – 1943) của Hồ Chí Minh là một tác phẩm nghệ thuật nổi bật, phản ánh sự chiến đấu quyết liệt, sự sâu sắc về tư duy và tâm hồn trữ tình của Người. Với hình thức ghi chép như một nhật kí, tập thơ này phong phú về kỹ thuật và giọng điệu, trong đó sử dụng phong cách tự sự trào phúng chủ yếu để chỉ trích, châm biếm và lên án cả nhà tù lẫn chế độ xã hội Trung Hoa dân quốc. Bài thơ “Lai Tân” trong tập này đặc trưng với phong cách tự sự trào phúng kết hợp sự sâu sắc và trí tuệ.

Ba câu thơ đầu thuật chuyện các nhân vật:

Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc
Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh
Chong đèn huyện trưởng làm công việc

Tác giả không đề cập trực tiếp đến tên của từng nhân vật, thay vào đó, Người điểm danh từng cá nhân, mỗi người mang trách nhiệm xã hội trong bộ máy công quyền, nơi mà họ nên làm mẫu cho việc thực thi pháp luật. Cách diễn đạt thông qua việc điểm danh và minh họa những hành động cụ thể tạo nên một tuyến nhỏ.Tuy nhiên, những nhân vật này lại thực hiện những hành vi gì?

Ban trưởng nhà lao công thì nổi bật với việc tham gia đánh bạc. Mặc dù đánh bạc là hành vi phạm pháp, nhưng trong nhà tù, nó lại trở nên công khai. Những quan coi ngục không chỉ không tôn trọng luật pháp mà còn coi thường nó. Cảnh sát trưởng, thay vì bảo vệ những người vô tội, lại tận dụng để hối lộ, nắm bắt, và làm những việc không đứng đắn. Hành vi này đằng sau vẻ ranh ma, thật sự đen tối và đê tiện.

Huyện trưởng chong đèn làm việc thâu đêm mà mọi người không rõ công việc của ông ta là gì. Có phải ông ta đang hút thuốc phiện? Mức độ đồi bại đến mức đáng kinh ngạc! Trong khi có thể ông ta soạn công văn, thì lại không quan tâm đến việc cấp dưới của mình thao túng, lũng đoạn và nhũng nhiễu dân chúng. Ông ta chỉ là một viên quan làm vì mình, dốt nát đến nỗi dễ bị cấp dưới lừa dối. Sự bất tài và thiếu trách nhiệm của ông ta là rất đáng lẽ.

Cả bức tranh của những nhân vật này được mô tả như một vở kịch câm, một dãy công việc thực hiện một cách mạch lạc, rành mạch và tạo nên một bức tranh sống động như một màn kịch câm. Công việc của họ đã trở thành thói quen đến mức gần như tự động, không còn cảm nhận được nữa.

Bộ máy cai trị vẫn tiếp tục chạy đều, và cuộc sống vẫn diễn ra bình thường. Trong quy luật sinh học, cái gì đột biến và phổ biến thì trở thành điều bình thường. Điều bất thường, khi lặp đi lặp lại, hóa ra trở thành điều bình thường. Tại Lai Tân, những hành vi thối nát đã đạt đến mức cực kỳ bình thường, trở thành một phần của lối sống quy củ, và họ tài tình che đậy để cuộc sống vẫn trôi chảy êm đềm. Điều đó mới là đáng sợ nhất. Tiếng cười phê phán và châm biếm, có chiều sâu trí tuệ, xuất phát từ đây.

Trong hai câu thơ đầu, tác giả đã nêu rõ sự thối nát của ban trưởng và cảnh sát trưởng. Câu thứ ba, dù không nói rõ, lại mang đến một ý vị mỉa mai sâu sắc. Câu cuối cùng, dù trước đó tác giả đã phê phán, nhưng kết luận lại đưa ra một quan điểm ngược lại.

Trời đất Lai Tân vẫn Thái Bình
(Lai Tân y cựu thái bình yên)

Với mức độ thối nát như vậy, làm sao có thể nói đến “thái bình”? Mọi thứ đều rối tung, một sự loạn lạc đang diễn ra. “Y cựu” chính là cảm giác của người viết đối với “Lai Tân”. Mặc dù Lai Tân vẫn giữ nguyên vẻ bề ngoài văn minh xưa cũ, nhưng sự thối nát đã trở nên ẩn sau vẻ nền nếp không đổi. Tiếng cười mỉa mai trong bài thơ trỗi dậy từ sự nói ngược và sự chơi chữ tinh tế. Với những tiêu cực hiện hữu nhưng cuộc sống vẫn bình yên, quốc gia vẫn “thái bình, thịnh trị”. Dù bề ngoài trông thấy là yên bình, nhưng bên trong, hệ thống rường cột đã bị đục khoét và trống rỗng. Trời đất Lai Tân, dường như, đang trên bờ vực sụp đổ.

Bài thơ được sáng tác trong bối cảnh thế giới chao đảo vì chiến tranh, khi Trung Quốc đang phải đối mặt với sự tăng cường của bọn phát xít. Trong khi:

Tráng sĩ đua nhau ra mặt trận
Hoàn cầu bốc lừa rực trời xanh.

Thì tại góc huyện này, những kẻ ấy vẫn tự do diễn biến, lợi dụng dân chúng. Họ là kẻ thù nội chiếm. Tình hình ở Lai Vung đang trong trạng thái bất ổn. Chữ “thái bình” đã phơi bày sự giả dối và những bất công trong xã hội của thời Tưởng. Điều này là một cách tự khai trừ. Bài thơ phản ánh tinh thần chiến đấu sắc bén và sự sâu sắc. Nó đơn giản nhưng vẫn mang đến sự châm biếm tài tình và sắc sảo.

Có thể bạn sẽ thích 🌟 Cảm Nhận Về Bài Thơ Tức Cảnh Pác Bó 🌟 15 Bài Văn Hay

Phân Tích Lai Tân Dài

Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh được kết hợp từ hai yếu tôi “trữ tình” và “hiện thực”, Lai Tân là một trong những bài thơ thể hiện rõ những yếu tố đó. Nó là một thành công của Bác trong việc kết hợp bút pháp tả thực và trào phúng vẽ nên bức tranh thời sự về chế độ xã hội Tưởng Giới Thạch.

Với tư cách là người thư ký trung thành của thời đại, Bác đã ghi lại một cách khách quan những cảnh:

Giam phòng ban trưởng thiền thiên đổ
Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền
Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự

Khác với Tú Xương trong hoàn cảnh tự do nên có thể thẳng tay độp vào mặt bọn thông trị những cái tát giáng trời:

Ở phố Hàng Song thật lắm quan
Thành thì đen kịt, Đốc thì lang
Chồng chung vợ chạ kìa cô Bố
Đậu lạy quan xin nọ chú Hàn
(Phố Hàng Song)

Hồ Chí Minh chỉ có thể mỉa mai, châm biếm sâu cay bọn thông trị bằng ngòi bút trong hoàn cảnh tù đày, gông xiềng. Từ cái mặt bên ngoài đến tận cùng những ngộc ngách bôn trong của bộ máy thông trị Trung Hoa quốc dân đảng đã chứa đầy những mâu thuẫn.

Tác giả Lai Tân đưa ra ba gương mặt điển hình của bộ máy chính quyền Tưởng Giới Thạch đó là: “Ban trưởng”, “cảnh trưởng”, “huyện trưởng cái chức “trưởng” của họ khá oai vệ, đầy uy lực, nhưng việc làm của họ đầy khuất tất, bất chính. Khuôn khổ bài thơ rất ngắn gọn nhưng lại được đặt liên tiếp ba chữ “trường” trong ba câu thơ đầu là sự “cố tình” dùng phép lặp của Bác trong việc dựng lên những chân dung tiêu biểu của giai cấp thống trị.

Ba câu thơ – mỗi câu là một bức tranh sống động mang tính thời sự nóng hổi, chân thật đến từng cõi tiết được vẽ bằng nét bút bình thản, lạnh lùng. Bức thứ nhất bày ra trước mắt mọi người là hình ảnh một “ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc”. Bức thứ hai là hình ảnh “cảnh trưởng tham lam ăn tiền phạm nhãn bị giải”.

Cả ban trưởng và cảnh trưởng đều là những công cụ thi hành pháp luật rất đắc lực của cái xã hội đầy rẫy những bỉ lậu, xấu xa. Chúng khoác trên mình chiếc áo “công lý” để làm những việc “bất công lý” một cách thường xuyên hết ngày này đến ngày khác. Chức “trưởng” của chúng đã to, sự phạm pháp của chúng còn lớn hơn ngàn vạn lần.

Tiếng cười trào lộng bật lên từ nghịch cảnh đó. Thoạt tiên, mới nhắc đến “ban trưởng”, “cảnh trưởng” thiết tưởng đó là những người cầm cân nẩy mực chắc hẳn phải công minh, trong sạch nhưng ta thực sự bất ngờ khi biết chúng chẳng qua là những con mọt dân, gây rối, bắt bớ dân để mà tham nhũng, cờ bạc. Chúng mượn cái danh để tự đặt ra cho mình cái quyền thích làm gì thì làm.

Đất Lai Tân có ban trưởng, cảnh trưởng tưởng chừng cuộc sông hình yên nhưng trớ trêu thay trật tự an ninh không được đảm bảo, những vi phạm pháp luật vẫn diễn ra đầy rẫy mà những kẻ đứng đầu bộ máy thống trị ở Lai Tân cũng chính là những kẻ cầm đầu những chuyện phạm pháp đó.

Nực cười thay, nhà tù là nơi giam giữ những kẻ phạm tội vậy mà lại chính là nơi để tội phạm cổ thể thịnh hành rộng rãi nhất, tiêu biểu hơn cả, nhiều hơn cả vẫn là tội phạm cờ bạc mà chính giai cấp thống trị nhà lao cũng là những “đổ phạm”. Cái nghịch cảnh “đánh bạc ở ngoài quan bắt tội, trong tù được đánh bạc công khai” là hiện thực thôi nát của nhà tù Tưởng Giới Thạch không thể phủ nhận được.

Cấp dưới sông và hành động bê tha, tàn ác như thế, vậy mà cấp trên – huyện trưởng – vẫn đêm đêm “chong đèn lo công việc”. Mức độ mỉa mai, châm biếm của tác giả tăng dần. Kích thước của những bức tranh về sau to hơn, rộng hơn bức trước.

Từ chân dung một ban trưởng trông coi một phạm vi nhà tù nhỏ hẹp tới một cảnh trưởng cai quản một địa phận lớn hơn đến một huyện trưởng cai trị một vùng rộng lớn và bao quát cả quyền của ban trưởng cảnh trưởng. Bức tranh thứ ba mở ra hình ảnh “Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự” vẻ ngoài tưởng mẫu cách, sát sao với “công việc” nhưng thực ra lại là một kẻ quan liêu, vô trách nhiệm, không biết tay chân, cấp dưới làm những gì, phạm pháp những gì.

Câu thơ phạm luật “nhị tứ lục phân minh” ở một chữ “công”. Bao mỉa mai, đả kích sâu cay dồn nén vào một chữ “công” đó. Huyện trưởng “lo công việc” hay là mượn “việc công” để tạo một tấm bình phong che cho mình “lo việc riêng”, “chong đèn” hút thuốc phiện? Tác giả đặt chữ “đăng” chính giữa câu thơ không nhằm mục đích toả sáng chận dung huyện trưởng mà nhằm đối lập, phản chiếu cái tối tăm của bộ máy thống trị Lai Tân (nói riêng), hệ thống chỉnh quyền Tưởng Giới Thạch (nói chung).

Giữa thực trạng ấy, thử hỏi bình yên ở đâu? Câu trả lời là: Bình yên vẫn ở chốn Lai Tân này!

Trời đất Lai Tân vẫn thái bình

Câu trả lời bất ngờ đến mức khiến người đọc ngã ngửa người. Thì ra là thế! Lời bình giá đã đi ngược lại với tất cả những mục ruỗng, thối nát của chính quyền Tưởng Giới Thạch được phơi bày ở trên. Từ lời bình giá đó đã vút lên một lời đã kích mạnh mẽ.

Tác giả Lai Tân đã kết luận đầy châm biếm, mỉa mai sắc sảo và rất hùng hồn về cái xã hội ấy. Thủ pháp nói ngược của Bác đã làm bật ra tiếng cười trào phúng. “Trời đất Lai Tân vẫn thái bình”. Đúng vậy! Nhưng chỉ một chữ “vẫn” cũng đủ “điếng người”. Một cái bĩu môi dài, một cái cười khẩy, một giọng mỉa kéo dài bắt đầu từ chữ “vẫn” ấy.

Nghệ thuật nâng cao – quật mạnh, nâng cao một quật càng được Bác sử dụng rất công hiệu ở câu thơ cuối bài này đã lay tỉnh người đọc nhìn sâu vào xã hộ ấy mà xem xét, đánh giá đúng thực chất của nó. Như con đà điểu thấy nguy hiểm là húc đầu vào sâu trong cát, giai cấp thống trị ở Lại Tân thấy trời đất thái bình là tưởng thây yên ổn chúng bằng lòng với cách thái bình đó mà không ngờ rằng đó chỉ là cảnh thái bình giả dối, trong đó chất chứa rất nhiều sóng gió, hiểm nguy.

Điều ấy cũng thể hiện sự ngu dốt, vô trách nhiệm hết sức của bọn chúng. Ba bức tranh – ba chân dung của ba kẻ đại diện cho giai cấp thông trị chế độ Tưởng Gịới Thạch ghép lại với nhau thành một bức tranh lớn – một chân dung lớn đầy đủ, trọn vẹn về xã hội Trung Hoa quốc dân đảng.

Với “nghệ thuật vẽ đường tròn đồng tâm” tác giả Lai Tân đã vẽ được một bức tranh sinh động mỗi lúc một toàn diện hơn chế độ xã hội Tưởng Giới Thạch. Nhà “dột từ nóc dột xuống” chỉ qua một huyện Lai Tân mà cả bộ mặt thối nát, bỉ lậu của xã hội Tưởng được phơi bày.

Tác giả đã phủ định triệt để tận gốc giai cấp thống trị ấy. Cái “loạn” của mảnh đất Lai Tân được tô đậm bằng màu xám, màu tối của những bê tha, xấu xa, vô trách nhiệm, rất quan liêu của văn võ bá quan. Và hơn thế, nó được “trang trí” bằng sự “thái bình” nhưng ai cũng hiểu trời đất Lai Tân “thái bình” như thế nào. Cách kết thúc bài thơ của Hồ Chí Minh giống lối thơ trào phúng truyền thống của các nhà thơ trào phúng Việt Nam như Tú Xương, Nguyễn Công Trứ, Hồ Xuân Hương… đồng thời đậm chất (gây cười) của phương Tây.

Hai chữ “Lai Tân” dường như không chỉ là một tên huyện đơn thuần mà tự bản thân nó đã mang một lớp nghĩa là mảnh đất mới, sáng sủa, bình yên. Và quả thật, huyện Lai Tân rất bình yên – bình yên “như xưa”. Nhưng “như xưa” ở đây nghĩa là sự trì trệ, là chậm chạp không phát triển đã thành truyền thống; “như xưa” là không hề đổi thay, là duy trì những cái xấu xa, bỉ lậu của ngày trước.

Hồ Chí Minh đã đả kích trực tiếp và khách quan chế độ Tưởng, do đó sức tố cáo, châm biếm của nó rất mạnh mẽ, quyết liệt. Bác đã giáng những đòn liên tiếp, chính xác vào xã hội ấy khiến nó phải “quần lên” ở nhát đòn quyết định có tên là “thái bình”.

Không phải chỉ ở Lai Tân mà ở rất nhiều bài thơ khác của Nhật kí trong tù Bác cũng đã đả kích châm biếm sâu sắc xã hội Tưởng Giới Thạch như Trưng binh gia quyến, Đổ, Đổ phạm. Đó là “những ngón đòn trào phúng thâm thuý mà Bác đă đánh thẳng vào kẻ thù, vạch trần cái vô lý, tàn tệ” của chế độ ấy khiến “ta cười ra nước mắt”. Tiếng cười trào lộng cất lên vừa trữ tình, vừa đẫm chất trí tuệ khiến ta thoải mái, hả hê.

Ta chợt nhớ tới Tú Xương ngày trước cũng từng có một tiếng cười trào lộng như thế:

Tri phủ Xuân Trường được mấy niên
Nhờ trời hạt ẩy cùng bình yên
(Đùa ông phủ)

Tiếng cười dân tộc đã thâm nhuần trong thơ hiện thực trào phúng của Hồ Chí Minh mà càng đọc ta càng thây nó sâu cay. Lai Tân là một bài thơ cũng năm trong số đó. Vừa có ý nghĩa hiện thực chân xác, vừa mang tính chiến đâu sắc mạnh tố cáo châm biếm cao độ, bài thơ đã giúp ta hiểu thêm về xã hội Tưởng Giới Thạch và hiểu hơn tâm hồn tài năng của Bác.

Có thể bạn sẽ thích 🌼 Cảm Nhận Về Bài Thơ Rằm Tháng Giêng 🌼 15 Bài Biểu Cảm Hay

Phân Tích Lai Tân Điểm Cao

Khi ta nói đến Nhật kí trong tù là ta nói đến tập nhật kí bằng thơ của Bác. Trong tập nhật kí bằng thơ này, ta thấy hiện lên một tinh thần thép của người chiến sĩ cách mạng trước cách tù đày. Ta bắt gặp một con người có một niềm khao khát tự do, khao khát chiến đấu với tinh thần và bản lĩnh của một nhà cách mạng.

Ta bắt gặp một tấm lòng nhân đạo bao la với tình thương và lòng bao dung nhân hậu của Người trước mọi đau thương của thể nhân vạn vật, và bên cạnh đó, trong tập nhật kí này ta còn bắt gặp rõ nét cái hiện thực xã hội Trung Hoa dưới thời quân tướng.

Cái xã hội ấy tuy ta còn thấy thấp thoáng cảnh bình yên ả của vùng đất phương Đông. Nhưng trong tập thơ này lại hiện lên hình ảnh một xã hội thối nát và mọt rỗng dưới bàn tay nhơ bẩn của kẻ cầm quyền, nhất là bộ mặt thối nát của nhà tù Trung Quốc. Trong đó bài thơ Lai Tân thể hiện rất rõ nét vấn đề này:

Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc

….

Trời đất Lai Tân vẫn thái bình.

Bài thơ tuy ngắn nhưng chứa đựng một dung lượng phản ánh lớn. Trước hết nhà thơ vạch rõ bộ mặt xấu xa, tàn ác, mọt rỗng của nhà tù Trung Quốc dưới thời Tưởng Giới Thạch. Bên cạnh đó bài thơ hiện lên một tiếng cười mỉa mai chua xót cho luật pháp nhà tù ở noi đây. Hai nội dung đó có mối quan hệ mật thiết với nhau và được gắn kết chặt chẽ bằng nghệ thuật trào phúng độc đáo rất Hồ Chí Minh

Trước hết bài thơ Lai tân vạch rõ bộ mặt thật của nhà tù Trung Quốc dưới thời Tưởng Giới Thạch. Như chúng ta đã biết tập Nhật kí trong tù được Hồ Chí Minh sáng tác trong hoàn cảnh bị chính quyền Tưởng Giới thạch bằng một con mắt tinh tế và độc đáo, trong đó có nhà tù Lai Tân:

Giam phòng ban trưởng thiên thiên đố

Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền

Huyện trưởng thiêu đăng viện ông sự

(Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc

Cảnh trưởng tham lam ăn chặn tiền phạm nhân

Trong đèn ông huyện trưởng bàn công việc).

Ba câu thơ đầu của bài thơ cho ta thấy rõ cảnh tượng của nhà giam Lai Tân. Đây là nơi giam giữ những ngừơi phạm pháp, là nơi mà pháp luật thể hiện uy quyền và hiệu lực nhất. Ấy thế mà cảnh đập vào trước mắt người đọc là gì? Câu thơ thứ nhất hiện lên hình ảnh ban trưởng nhà lao, con người thực thi của pháp luật nhà tù, cai quản tù nhân, thế mà lại là một người chuyên đánh bạc.

Thật là nực cười cái chính quyền ấy đặt ra luật pháp để bắt tội những con người nhỏ bé trong xã hội ấy thì những kẻ thực thi lại giẫm đạp lên. Cái chính quyền ấy bắt giam những con người khốn cùng còn những kẻ thực thi luật pháp của chính quyền ấy thì tha hồ làm bậy. Cảnh tượng này đã được Bác phản ánh trong nhiều bài thơ khác:

Đánh bạc ở ngoài quan bắt tội

Trong tù đánh bạc đường công khai.

Ở tù con bạc ăn năn mãi

Sao trước không vô quách chốn này.

Như vậy dưới ngòi bút của Hồ Chí Minh, nhà tù Tưởng Giới Thạch không phải là nơi giam giữ và cải tạo tù nhân mà là một sòng bạc với những con bạc đó lại là những người thực thi pháp luật. Những người cờ bạc lén lút ngoài ở ngoài dưới bàn tay giáo dục thì họ có tốt được hay chăng? Tất cả những cái đó đã vẽ lên hình ảnh của nhà tù nơi đây, hình ảnh đó bên ngoài thì nghiêm minh nhưng bên trong thì giả dối, bất công, phi lí. Sang câu thơ thứ hai Hồ Chí Minh tiếp tục cho ta thấy sự thối nát đê tiện của chính quyền nơi này:

Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền

(Cảnh trưởng tham lam ăn tiền của phạm nhân)

Hành động của cảnh trưởng là hành động của một tên ăn cướp, hành động của một tên trấn lột, ăn chặn bẩn thỉu và tàn nhẫn. Trong Nhật kí trong tù, Hồ Chí Minh nói nhiều về vấn đề này:

Hút thuốc nơi này cấm gắt gao

Thuốc anh nó tước bỏ vào bao

Cái nực cười mỉa mai nhất là hành động này lại diễn ra ở chốn ngục tù, giữa cảnh trưởng và tù nhân. Tù nhân thì làm gì có tiền thế mà chúng cũng chẳng tha. Hành động của cảnh trưởng đã nói hết sự thối nát của nhà tù dưới thời Tưởng Giới Thạch. Cái nhà tù đó quan lại là những tên ăn cướp một cách tàn nhẫn và đê tiện.

Trong đèn huyện trưởng bàn công việc.

Như trên chúng ta đã phân tích, ban trưởng thì chuyên đánh bạc, cảnh trưởng thì là kẻ cướp ngày, thế còn huyện trưởng thì sao. Thoạt đầu ta cứ tưởng huyện trưởng là con người của công việc, người đang thâu đêm suốt sáng để bàn công việc. Nhưng ta thử nhìn kĩ lại xem nào? Bàn công việc gì mà lại chỉ có một mình thôi? Hay là ngài đang thao thức điều gì? Không! Hình như ngài đang hút thuốc phiện thì phải? Thế đấy, người to nhất thì lại thờ ơ vô trách nhiệm, ngài đang bận nhưng mà bận hút thuốc. Quả là đáng mỉa mai phỉ nhổ cho bộ máy nhà tù nơi này.

Tóm lại, chỉ qua ba câu thơ Hồ Chí Minh đã khái quát được sự thối nát của bộ máy chính quyền nơi đây. Các bộ máy chính quyền ấy chính là bộ mặt của xã hội Trung hoa dưới thời giặc Tưởng. Cái xã hội ấy toàn những con người ăn cướp, cờ bạc, nghiện hút. Nhưng mỉa mai thay lại là những người đứng đầu bộ máy chính quyền luật pháp. Thật là sự mỉa mai ghê tởm xót xa.

Bên cạnh việc phản ánh bộ mặt xấu xa của nhà tù Trung Quốc dưới thời Tưởng giới thạch thì Hồ Chí Minh đã không quên tung ra những tiếng cười mỉa mai chua cay cái xã hội ghê tởm tàn bạo đó. Ba câu thơ đầu tiếng cười bật ra thật bình thản. Dường như ta chỉ thấy nhà thơ thuật lại cảnh mà mắt thấy tai nghe ở nhà tù Lai tân mà không hề tỏ thái độ gì. Chính cái đó đã tạo nên giá trị mỉa mai chua chát.

Ngay ở chốn lao tù được coi là noi nghiêm minh nhất của pháp luật, thế mà lại diễn ra bao cảnh xâu xa bẩn thỉu. Ban trưởng thì cờ gian bạc bịp, cảnh trưởng là tên vô lại, huyện trưởng là kẻ vô tâm xấu xa hút sách. Tất cả những cảnh đó đã nói lên tình trạng thối nát của bộ máy quan lại thời tưởng giới thạch.

Song câu thơ cuối cùng của bài thơ tiếng cười mỉa mai chua xót lại bật lên giòn giã. Nếu như hai câu thơ trên là ba câu thơ tự sự còn câu kết lại phát biểu cảm tưởng của nhà thơ. Trời đất Lai Tân vẫn thái bình. Có gì mâu thuẫn không khi mà ba câu trên nói về chuyện không bình thường của tình trạng nhà tù nơi đây.

Bọn người thực thi luật pháp lại là những tên vô lại xấu xa. Nhưng tại sao trời đất vẫn thái bình? Vậy thái bình là ở Lai Tân là thái bình gì? Phải chăng đó là hiện tượng thái bình giả tạo? Nhưng kì thực đó là lời mỉa mai chua xót. Hóa ra thái bình ở Lai tân là thái bình mà ban trưởng đánh bạc, cảnh trưởng cứ ăn tiền và huyện trưởng cứ chong đèn mà hút thuốc. Cái xã hội ấy vẫn cứ vận hành đều đều như vậy đấy, rất yên ổn, rất thái bình.

Như vậy, bài thơ bật lên tiếng cười mỉa mai, châm biếm sự thối nát của bộ máy chính quyền đã đến mức trầm trọng, đã trở thành phổ biến, trở thành nếp sống, trở thành bình thường đến nỗi kẻ làm bậy mà thái độ cứ như không vậy. Tiếng cười mỉa mai đó đã bật ra từ nghệ thuật trào phúng độc đáo của Bác. Giọng thơ có vẻ bình thản vô cảm nhưng sự mỉa mai đã kích mạnh mẽ vô cùng.

Chia sẻ cho bạn 21+ mẫu 👉 Sơ Đồ Tư Duy Rằm Tháng Giêng Hồ Chí Minh

Viết một bình luận