Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính [Lời Thơ, 23+ Mẫu Cảm Nhận Hay Nhất]

Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính ❤️️ Lời Thơ, 23+ Mẫu Cảm Nhận ✅ Chia Sẻ Trọn Bộ Những Nội Dung Bình Giảng Hay Và Đặc Sắc Nhất Về Bài Thơ.

Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính

Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính là một bài thơ hay và rất ý nghĩa của nhà thơ Phạm Tiến Duật.

Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Tác giả: Phạm Tiến Duật

Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.

Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái

Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.

Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.

Những chiếc xe từ trong bom rơi
Ðã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.

Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.

Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước,
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.

Mời bạn khám phá thêm về chủ đề thơ ca cách mạng qua tuyển tập 💕 Thơ Tố Hữu 💕 đặc sắc.

Hoàn Cảnh Sáng Tác Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính

Hoàn Cảnh Sáng Tác Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính dựa trên những hiện thực khốc liệt của chiến tranh đã mang lại cảm hứng để tác giả sáng tác nên bài thơ.

Bài thơ về tiểu đội xe không kính được sáng tác trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Bài thơ nằm trong chùm thơ của Phạm Tiến Duật được tặng giải Nhất cuộc thi thơ của báo Văn nghệ năm 1969. Sau này bài thơ được đưa vào tập thơ Vầng trăng quầng lửa (1970) của tác giả.

Hoàn cảnh lịch sử:

Giai đoạn cuộc chiến tranh chống đế quốc Mĩ đang diễn ra vô cùng ác liệt, hàng vạn sinh viên tình nguyện gác bút nghiên để cầm súng ra chiến trường chiến đấu bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc.

Khi đó, tuyến đường Trường Sơn được coi là con đường huyết mạch nối tiền tuyến với hậu phương, chính vì vậy, nơi đây ngày đêm đều phải hứng chịu bom đạn phá hoại của kẻ thù.

Hoàn cảnh sáng tác tác phẩm Bài thơ về tiểu đội xe không kính:

Bài thơ được viết năm 1969, trong thời kì cuộc chiến tranh chống Mĩ đang diễn ra ác liệt, lấy cảm hứng từ hiện thực những chiếc xe tải ngày đêm vận chuyển nhu yếu phẩm chi viện cho miền Nam ruột thịt trên tuyến đường Trường Sơn bị bom giật, bom rung khiến chúng đều không còn cửa kính, Phạm Tiến Duật đã sáng tác bài thơ này.

Ở đó, không lực Hoa Kì ngày đêm trút bom, vãi đạn hòng ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho chiến trường miền Nam. Vượt qua mưa bom bão đạn của kẻ thù, đoàn xe vận tải vẫn ngày đêm bất chấp gian khổ và hi sinh để ra trận. Phạm Tiến Duật đã ghi lại những hình ảnh tiêu biểu của nơi khói lửa Trường Sơn.

Có thể nói, hiện thực đã đi thẳng vào trang thơ của tác giả và mang nguyên vẹn hơi thở của cuộc chiến. Ra đời trong hoàn cảnh ấy, bài thơ với âm điệu hào hùng, khỏe khoắn đã thực sự trở thành hồi kèn xung trận, trở thành tiếng hát quyết thắng của tuổi trẻ Việt Nam thời kì chống Mĩ.

Cảm hứng từ những chiếc xe không kính đã làm nền để nhà thơ chiến sĩ khắc họa thành công chân dung người chiến sĩ lái xe: ung dung tự tại, lạc quan sôi nổi, bất chấp mọi khó khăn gian khổ , tình đồng chí đồng đội gắn bó tình yêu đất nước thiết tha…

Cùng với Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính, gửi đến bạn 🍃 Thơ Nguyễn Đình Chiểu 🍃 ý nghĩa.

Soạn Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính

Soạn Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính để chuẩn bị tốt nhất khi học đến bài thơ ý nghĩa này bạn nhé!

Bố cục: 3 phần

  • Phần 1 (hai khổ thơ đầu): Tư thế hiên ngang ra trận của những người lính lái xe tiểu đội xe không kính.
  • Phần 2 (bốn khổ thơ tiếp theo): Tinh thần dũng cảm, lạc quan của những người lính.
  • Phần 3 (khổ thơ cuối): Ý chí quyết tâm chiến đấu vì miền Nam.

Nội dung chính:

Bài thơ của Phạm Tiến Duật khắc họa một hình ảnh độc đáo: những chiếc xe không kính. Qua đó, tác giả khắc họa nổi bật hình ảnh những người lính lái xe ở Trường Sơn trong thời chống Mĩ, với tư thế hiên ngang, tinh thần lạc quan, dũng cảm, bất chấp khó khăn nguy hiểm và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam.

Câu 1:

Trả lời câu 1 (trang 133 SGK Ngữ văn 9, tập 1):

a. Nhan đề

  • Bài thơ có một nhan đề dài và rất độc đáo: “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”.
  • Nhan đề đề cập đến một đề tài hết sức đời thường, gần gũi với cuộc sống của người lính trên đường ra trận. Đó là chất thơ của hiện thực khắc nghiệt, chất lãng mạn của tuổi trẻ trước vận mệnh vinh quang: chiến đấu để giải phóng quê hương, chiến đấu vì độc lập tự do của Tổ quốc.

b. Hình ảnh những chiếc xe không kính là hình ảnh độc đáo vì:

  • Những hình ảnh trong thơ thường là những hình ảnh đẹp, sáng ngời, hào nhoáng ít ai miêu tả những chiếc xe không kính.
  • Những chiếc xe không kính diễn tả sự thật trần trụi, khốc liệt của chiến tranh.
  • Nhưng những chiếc xe bị bom đạn phá hủy, nhưng không vì thế mà dừng bước. Chúng vẫn hăng hái lên đường, cùng những người chiến sĩ vào miền Nam giải phóng đất nước.

Câu 2

Trả lời câu 2 (trang 133 SGK Ngữ văn 9, tập 1):

  • Hình ảnh người lính lái xe trong bài thơ:
  • Tư thế ung dung, lạc quan yêu đời trước hoàn cảnh gian nguy càng tôn thêm phẩm chất của người lính:

Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già.
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.

  • Tình cảm đồng đội thắm thiết:

Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy

  • Ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam:

Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.

=> Bức chân dung của người lính lái xe trong bài thơ là bức chân dung tràn đầy sức sống, bức chân dung của niềm tin thắng lợi.

Câu 3

Trả lời câu 3 (trang 133 SGK Ngữ văn 9, tập 1):

  • Ngôn ngữ giọng điệu của bài thơ đã góp phần quan trọng trong việc khắc họa hình ảnh người chiến sĩ lái xe Trường Sơn.
  • Giọng thơ ngang tàng có cả chất nghịch ngợm phù hợp với đối tượng miêu tả là những chàng trai trong chiếc xe không có kính.
  • Giọng điệu ấy làm cho lời thơ gần với lời văn xuôi, lời đối thoại, rất tự nhiên nhưng vẫn rất thú vị, rất thơ.

Câu 4

Trả lời câu 4 (trang 133 SGK Ngữ văn 9, tập 1):

  • Thế hệ trẻ Việt Nam thời kì chống Mĩ:
  • Tư thế ung dung, chủ động, lạc quan, yêu đời.
  • Coi thường mọi khó khăn, thiếu thốn, hiểm nguy.
  • Ý chí chiến đấu vì sự thống nhất của đất nước.
  • So sánh:

Giống nhau: lí tưởng chiến đấu cao cả, ý chí vượt lên mọi khó khăn, thiếu thốn, gian khổ, tinh thần lạc quan, tình đồng đội sâu sắc.

Khác nhau:
Bài thơ về tiểu đội xe không kính khắc họa hình ảnh người lính trẻ trung, tinh nghịch, lạc quan, yêu đời mang phong cách của tầng lớp trí thức vừa rời ghế nhà trường, xếp bút nghiên tham gia chiến đấu.
Đồng chí lại vẽ lên hình ảnh những người lính đầy tình cảm, mang hơi thở từ những người nông dân đi ra từ mảnh đất miền trung nghèo khó, bởi vậy mà họ trầm lắng, suy tư hơn.

Luyện tập

  • Những cảm giác, ấn tượng của người lái xe trong chiếc xe không kính trên đường ra trận đã được tác giả diễn tả rất cụ thể, sinh động.
  • Không có kính chắn, người lính lái xe trên đường ra mặt trận đa có những cảm giác, ấn tượng rất đặc biệt, thể hiện rõ nét qua khổ thơ thứ hai.
  • Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng: gió trên đường đi ùa vào buồng lái, khiến đôi mắt người chiến sĩ trở nên cay. Tác giả sử dụng từ “đắng” để diễn tả cảm giác ấy, khiến cảm giác cay vì gió ở mắt được vị giác hóa, chân thực hơn.
  • Thấy con đường chạy thẳng vào tim, sao trời và đột ngột cánh chim như sa như ùa vào buồng lái: Giữa người lính lái xe và những sự vật, khung cảnh trên đường không có rào cản. Mọi thứ trở nên gần hơn, rõ nét hơn.

=> Phép phóng đại, ẩn dụ: chạy thẳng vào tim, như sa như ùa vào buồng lái khiến không gian trong xe và ngoài xe như hòa vào làm một, người lính và chiếc xe không kính có thêm những người bạn đồng hành.

Xem nhiều hơn chùm 🍀 Thơ Hồ Xuân Hương 🍀 độc đáo và thú vị.

Cảm Nhận Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính

Cảm Nhận Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính đi từ những hình ảnh thơ đẹp nhất đến giá trị tổng thể mà bài thơ mang lại.

Nói đến Phạm Tiến Duật là nói đến một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ những năm kháng chiến chống Mĩ. Từng chiến đấu trong đội ngũ những người chiến sĩ vận tải dọc đường Trường Sơn, chở vũ khí quân trang từ hậu phương ra tiền tuyến. Thơ ông giọng điệu khoẻ khoắn tràn trề sức ống, tinh nghịch vui tươi và giàu chất suy tưởng.

Thật vậy, Bài thơ về tiểu đội xe không kính – một bài thơ tiêu biểu của Phạm Tiến Duật đã nêu lên hình tượng những người chiến sĩ lái xe vui vẻ tếu táo mà đĩnh đạc hiên ngang can đảm, thắm tình đồng đội bạn bè bền vững ý chí chiến đấu vì miền Nam ruột thịt.

Bài thơ có nhan đề thật độc đáo ấy biểu hiện vẻ đẹp tâm hồn của những người chiến sĩ lái xe Trường Sơn. Đó chính là những con người dũng cảm đến ngang tàng mà giản dị, yêu đời và lạc quan rất mực.

Hình ảnh các anh gắn liền với hình những chiếc xe không kính. Đây là hình ảnh có thực. Bom đạn của chiến tranh ác liệt thời đó đã khiếncho những chiếc xe không chỉ không có kính mà còn trần trụi hơn nữa không có đèn, không có mui xe, thùng xe có xước:

Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi.

Nhà thơ miêu tả những chiếc xe không kính nhằm làm nổi bật hình ảnh những người lái xe trên đó. Tuy công việc đầy hiểm nguy gian khổ, nhưng những anh chiến sĩ trẻ này dưới bom đạn triền miên vẫn luôn giữ một tư thế ung dung lạc quan và tươi trẻ.

Phạm Tiến Duật trong bài thơ này đã miêu tả những cảm xúc rất cụ thểcủa họ khi ngồi trên chiếc xe không có kính.

Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng.
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái.

Những câu thơ có nhịp điệu nhanh gấp mà vẫn nhịp nhàng đều đặn này gợi đến nhịp tiếng bánh xe bon bon chạy trên đường dài. Có thực sự ung dung nhìn đất, nhìn trời không chút lo âu hốt hoảng trước bom đạn cận kề thì anh chiến sĩ trẻ của chúng ta mới cóthể nhìn và thấy đến đủ đầy như thế.

Anh từ nhìn thấy gió, nhìn thấy con đường đến nhìn thấy cả sao trời và cánh chim… từ buồng lái đã vỡ hết kính chắn gió, gió vào xoa mắt đắng. Làn gió đã ùa vào như thể làm giảm đi vị đắng nơi khoé mắt. Mắt đắng vì mắt đã thức nhiều đêm để lái xe liên tục từ đêm này sang đêm khác.

Tất cả thế giới bên ngoài ấy đã ùa vào buồng lái của anh với tốc độ làm chóng mặt. Con đường cũng vì thế như chạy ngược về phía người lái và trở thành Con đường chạy thẳng vào tim.

Trong tư thế hiên ngang chủ động đó, người chiến sĩ lái xe đã bình thản coi thường mọi khó khăn, nguy hiểm và gian khổ. Giọng điệu của anh thật ngang tàn, tếu táo:

Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già.
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc.
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.

Không có kính, ừ thì ướt áo.
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa.
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi!

Các anh còn là những chàng trai trẻ sôi nổi, vui nhộn và lạc quan thểhiện qua cái nhìn Bụi phun tóc trắng như người già và đặc biệt là tiếng cười sảng khoái đầy trẻ trung hồn nhiên và yêu đời: “Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”, dẫu là sinh hoạt từ cái ăn, cái ngủ bình thường của các anh đều có tính tạm bợ, nhiều gian khổ:

Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi, trời xanh thêm.

Trời xanh thêm phải chăng bởi vì lòng người đã phơi phới thêm, say mê thêm trước những chặng đường đã đi, những chặng đường đang đến.

Cái gì đã làm nên sức mạnh ấy? Đấy chính là ý chí chiến đấu để giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, là tình yêu nước nồng nàn của tuổi trẻ Việt Nam thời đánh Mĩ:

Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.

Tuy bị bom đạn Mĩ làm cho biến dạng: không có kính, không có đen, không có mui xe, thùng xe có xước nhưng chiếc xe ấy vẫn chạy vì miền Nam phía trước, nghĩa là vẫn băng băng ra tiền tuyến. Tác giả đã lí giải về điều ấy thật bất ngờ mà cũng chí lí: Chỉ cần trong xe có một trái tim. Đó là trái tim nồng nàn yêu nước, sôi nổi yêu đời, một trái tim dũng cảm.

Tóm lại, Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật đã thành công trong việc khắc hoạ hình tượng những chiến sĩ lái xe trên đường Trường Sơn đầy gay go thử thách, một lực lượng tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam trong giai đoạn ác liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

Cuộc kháng chiến chống Mĩ đã thành công hơn ba mươi năm qua nhưng hình tượng tiêu biểu của một thế hệ trẻ lạc quan yêu đời, hồn nhiên, coi thường thiếu thốn gian khổ, sôi nổi, đầy quyết tâm chiến đấu vì miền Nam ruột thịt ngày nào vẫn chưa mờ phai trong lòng mỗi người Việt Nam chúng ta…

Bên cạnh Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính còn có Chùm 💌 Thơ Nguyễn Khoa Điềm 💌 đặc biệt được chọn lọc dành cho bạn.

Soạn Văn 9 Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính

Soạn Văn 9 Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính cung cấp những kiến thức chính xác và đầy đủ khi học bài thơ này.

Đọc hiểu văn bản

Câu 1 (trang 133 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):

  • Nhan đề bài thơ quá dài, vừa gợi lên hình ảnh những chiếc xe, vừa cho ta thấy được phong thái ngang tàng của người lái xe.
  • Chiếc xe không kính là một hình ảnh độc đáo, đó là chứng tích chiến tranh, cho thấy sự tàn khốc của chiến tranh, nhưng qua đó mà nhìn thấy những người lính dũng cảm, ung dung trước khó khăn gian khổ.

Câu 2 (trang 133 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):

Hình ảnh người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn :

  • Tư thế ung dung, hiên ngang, sảng khoái đến bất tận Ung dung buồng lái ta ngồi … ùa vào buồng lái.
  • Thái độ bất chấp khó khăn, nguy hiểm Không có kính ừ thì có bụi…ừ thì ướt áo… mặc kệ gió vào mắt, mặc kệ mưa bom, xe vẫn cứ đi.
  • Tình đồng đội thắm thiết : bắt tay qua cửa kính vỡ, chia sẻ khó khăn.
  • Ý chí chiến đấu vì miền Nam : một trái tim căm thù giặc, quyết tâm chiến đấu.

Câu 3 (trang 133 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):

Ngôn ngữ, giọng điệu của bài thơ giàu tính khẩu ngữ tự nhiên, đầy tính ngang tàng pha chút nghịch ngợm. Điều đó góp phần thể hiện hình ảnh người lính ung dung, hóm hỉnh, trẻ trung.

Câu 4 (trang 133 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):

  • Hình ảnh người lính cho ta thấy sự gan dạ, bất chấp khó khăn, luôn tiến lên phía trước vì lí tưởng cao đẹp của thế hệ trẻ thời kháng chiến chống Mĩ. Họ cũng là những người thật hóm hỉnh, trẻ trung và yêu đời.
  • So với người lính trong bài Đồng chí, những người lính với chiếc xe không kính đều mang lòng yêu nước, lòng căm thù giặc với tình đồng đội thắm thiết. Chỉ có điều, người lính ở bài này trẻ trung hơn, hóm hỉnh hơn.

Luyện tập (trang 133 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):

Phân tích khổ thơ thứ hai :
Khổ thơ thứ hai tràn ngập những hình ảnh gió, con đường, sao trời, cánh chim. Đó là những khó khăn phía trước, nhưng mọi thứ đều thật nhỏ bé trước lòng quyết tâm không lùi của những chiến sĩ trẻ. Lại thêm hình ảnh lãng mạn Thấy sao trời và đột ngột cánh chim – Như sa như ùa vào buồng lái làm cho chặng đường trở nên vui tươi, nhẹ nhàng hơn.

Ngoài Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính, xem nhiều hơn những bài thơ đặc sắc trong 🌹 Thơ Hoàng Cầm 🌹

Giáo Án Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính

Chia sẻ Giáo Án Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính được biên soạn một cách khoa học và đầy đủ giá trị nội dung.

I. Mục tiêu bài học

– Thông qua bài học giúp học sinh hiểu đuợc:

1. Kiến thức

– Hs có những hiểu biết bước đầu về nhà thơ Phạm Tiến Duật. Đặc điểm của thơ PTD qua một sáng tác cụ thể: Giàu chất hiện thực và tràn đầy cảm hứng lãng mạn.

– Hiện thực cuộc k/c chống Mĩ đc p/a trong t/p; vẻ đẹp hiên ngang, dũng cảm, tràn đầy niềm lạc quan cách mạng…của những con ng đã làm nên con đg Trường Sơn huyền thoại đc khắc hoạ trong bài thơ.

2. Kĩ năng

– Đọc – hiểu một bài thơ hiện đại.

– Phân tích được vẻ đẹp hình tượng ng chiến sỹ lái xe Trường Sơn trong bài thơ.

– Cảm nhận đc ngôn ngữ hình tượng thơ độc đáo trong bài thơ.

3. Thái độ

– Có ý thức trách nhiệm đối với bạn bè, trân trọng těnh bạn, ý thức được trách nhiệm của công dân với đất nước.

II. Chuẩn bị tài liệu

1. Giáo viên

   + Soạn bài, đọc các tài liệu tham khảo, tài liệu chuẩn kiến thức kĩ năng, bảng phụ.

2. Học sinh

   + Đọc trước bài, chuẩn bị bài (trả lời câu hỏi đọc hiểu SGK)

III. Tiến trình tổ chức dạy học

1. Ổn định tổ chức

Kiểm diện: Sĩ số

2. Kiểm tra

– GV kiểm tra việc chuẩn bị bài của học sinh

Hãy đọc thuộc lòng bài thơ?

Giải thích: Vì sao tác giả lại đặt tên cho bài thơ của mình là “Đồng chí”?

3. Bài mới

Trong mỗi người chắc không ai không thuộc bài hát “Trường Sơn đông Trường Sơn tây” phổ thơ của nhà thơ Phạm Tiến Duật. Giờ học này chúng ta sẽ tìm hiểu thêm về người lính trường sơn năm xưa qua một bài thơ khác của ông: đó là “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”

Hoạt động của GV và HSKiến thức cần đạt
HĐ1. HDHS đọc và tìm hiểu chú thích:- HD H/s đọc: giọng vui, khoẻ khoắn, dứt khoát, thể hiện tư thế ung dung tự tại, tinh thần dũng cảm của tuổi trẻ trước khó khăn nguy hiểm.- Ngắt nhịp: 4/4; 2/6; 2/2/2 → nhịp thơ biến chuyển linh hoạt- GV đọc mẫu → H/s đọc tiếp.H: Giới thiệu những nét cơ bản về T/g?I. Đọc và tìm hiểu chú thích1. Đọc2. Chú thích:a) Tác giả: Phạm Tiến Duật (1941- 2007)- Quê: Thanh Ba- Phú Thọ- Năm 1964 gia nhập quân đội và hoạt động trên tuyến đường Trường Sơn- Là gương mặt tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ thời kháng chiến chống Mĩ cứu nước- Thơ ông có giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, tinh nghịch mà sâu sắc.
H: Em hãy giới thiệu vài nét về tác phẩm?H: Em hiểu thế nào là Bếp Hoàng Cầm, tiểu đội, chông chênh…?b) Tác phẩm:Bài thơ nằm trong chùm thơ của Phạm Tiến Duật được tặng giải nhất cuộc thi thơ do báo văn nghệ năm 1969 và được đưa vào tập “Vầng trăng quầng lửa”c) Chú thích khác ( SGK)
HĐ2. HDHS đọc- hiểu văn bản:H: Xác định thể thơ của VB?  H: Chia bố cục của bài thơ?  H: Bài thơ làm theo thể thơ nào?H: Phương thức biểu đạt?II. Đọc- hiểu văn bản:1. Thể loại:- Thể thơ tự do, câu dài ngắn khác nhau, vần gieo ở tiếng cuối cùng của dòng thơ.2. Bố cục:- Bài thơ gồm 3 phần:   + Phần 1(4 khổ thơ đầu)⇒ H/ả những chiếc xe k kính và những ng lính lái xe.   + Phần 2( Hai khổ thơ giữa)=>Tình đồng đội của những ng lính lái xe.   + Phần 3(Khổ thơ cuối)→ Quyết tâm của những ng lính lái xe.* Thể thơ: Thể thơ tự do* Phương thức biểu đạt : Biểu cảm, tự sự và miêu tả
H: Em có nhận xét gì về nhan đề bài thơ?H: T/g thêm 2 chữ “bài thơ” vào nhan đề trên có tác dụng gì?2. phân tích:a) Nhan đề bài thơ và hình ảnh những chiếc xe không kính:* Nhan đề bài thơ “Bài thơ…không kính”- Dài, tưởng như có chỗ thừa (các từ “bài thơ về”)-> mới lạ và độc đáo→ Làm nổi bật và rõ h/ả toàn bài: những chiếc xe không kính và những ng lính lái xe trên tuyến đường TS.⇒ Hai chữ “bài thơ”thêm vào nhan đề giúp người đọc thấy rõ hơn cách nhìn cách khai thác hiện thực của tgiả. Ông đã khai thác chất thơ từ hiện thực chiến tranh qua những chiếc xe không kính. Đó cũng là chất thơ của tuổi trẻ hiên ngang, dũng cảm, trẻ trung, vượt lên thiếu thốn, gian khổ, nguy hiểm của chiến tranh.
H: Hình ảnh những chiếc xe không kính trong bài thơ được hiện lên qua những câu thơ nào?H: Nguyên nhân nào khiến những chiếc xe kh kính?H: Nhận xét cách nói trong bthơ và tác dụng của nó?H: Xe k kính là h/tượng bình thường hay bất bình thường trong chiến tranh?H: Hiện thực nào về c/tr đc thể hiện qua h/ả những chiếc xe k kính?H: T/g giới thiệu về h/a xe k kính với giọng điệu thơ ntn?H: Vậy h/ả những chiếc xe k kính trở nên đọc đáo là do đâu?H: Nhân vật trữ tình trong bài thơ là những chiếc xe k kính hay nh ng lính lái xe? (Người lính lái xe)* Hình ảnh những chiếc xe không kính:“Không có kính khg phải vì xe khg có kínhBom giật bom rung kính vỡ mất rồi”.“… xe không kínhKhông có đèn, không muiThùng xe có xước”- Xe vốn có kính nhưng đã bị bom đạn tàn phá-> không có kính- Nghệ thuật:dùng động từ mạnh(giật, rung, vỡ) ; dùng từ phủ định “không phải”⇒ Hình ảnh những chiếc xe trở nên độc đáo.- Đây là hiện tượng bình thường trong h/cảnh c/tr ác liệt.- Gợi lên sự tàn phà khốc liệt của c/tr.- Giọng điệu:Hóm hỉnh,tinh nghịch lạc quan.⇒ Hồn thơ nhạy cảm, giọng thơ ngang tàng, tinh nghịch của người lính đã khiến những chiếc xe k kính trở thành h/tg thơ độc đáo của thời c/tr chống Mĩ.
H: Hình ảnh người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn được hiện lên trong những câu thơ nào?H: Những ng lính lái xe mang tư thế và phong thái ntn khi ngồi lái những chiếc xe k kính?H: Tầm nhìn của các anh ra sao khi lái những chiếc xe k kính?H: Các anh có cảm giác ntn trong khi lái xe? – Đọc khổ thơ thứ 3,4:H: Mặc dù vậy các anh cũng gặp k ít k/k nguy hiểm khi lái những chiếc xe k kính, đó là những k/k nào?H: Nhận xét về nhịp thơ, BP tu từ mà t/g sử dụng?tác dụng?H: Điều gì đã khiến những ng lính lái xe quên đi những khó khăn nguy hiểm để chấp nhân thực tại?H: Vẻ đẹp nào đc bộc lộ trong phẩm chất của những ng lính lái xe TS?b. Hình ảnh những chiên sĩ lái xe Trường Sơn:”Ung dung buồng lái ta ngồiNhìn đất nhìn trời nhìn thẳng.””Nhìn thấy gió xoa vào mắt đắng…như sa như ùa vào buồng lái.”- Tư thế:hiên ngang sẵn sàng băng ra trận → tìm thấy niềm vui, niềm hp, khi được/đấu vỡ ho bỡnh.- Phong thái: ung dung, làm chủ hoàn cảnh.- Tầm nhìn bao quát k/gian “ nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng”- Cảm giác tự do như được bay lên bầu trời,cảm giác sảng khoái được hoà nhập với t/n, vũ trụ- giao cảm với t/g bên ngoài chiêm ngưỡng vẻ đẹp của t/n.”Không có kính ừ thì có bụi…chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc….ha ha.…không có kính, ừ thì ướt áoMưa tuôn mưa xối… trời…chưa cần thay lái trăm cây số nữa…………………..khô mau thôi.”- Khó khăn: mưa, bụi, sự khắc nghiệt của thởi tiết(gió rét)=> T/đ xấu đến sức khoẻ.- NT: Sdụng điệp từ, so sánh, cấu trúc câu thơ được lặp lại: ừ thì, chưa cần, nhịp thơ dồn dập, khoẻ khoắn, vui tươi→ khắc hoạ nột tâm hồn sôi nổi của tuổi trẻ.- Tinh thần lạc quan, thái độ bình thản, sẵn sàng chấp nhận gian khổ nguy hiểm, vượt lên hoàn cảnh.⇒ Những con ng có phẩm chất cao đẹp, sức mạnh tinh thần lớn lao, dũng cảm vượt gian khó để hoàn thành n/vụ.
H: Đọc những câu thơ nói về tình đồng đội của những người lính lái xe?H: Em nhận xét như thế nào về đời sống sinh hoạt của những ng lái xe ntn ?H: Trong h/c ấy tinh thần đồng đội của họ đc thể hiện ntn?H: Em cảm nhận đc điều gì từ những cái bắt tay qua cửa kính vỡ của những ng lính lái xe?c. Tình đồng đội:Những chiếc xe từ trong bom rơi……………..tiểu đội…gặp bè bạn suốt dọc đường đi tớiBắt tay qua cửa kính vỡ rồi.”Bếp hoàng cầm………..………….gia đình đấy……………..trời xanh thêm.”- Việc ăn uống, nghỉ ngơi tất cả chỉ là tạm thời->Sinh hoạt khẩn trương nhưng vẫn đàng hoàng.- Tác phong sống nhanh nhẹn, hoạt bát, sôi nổi, lạc quan, tinh nghịch, ấm áp tình đồng đội.- Bắt tay quyết tâm – truyền cho nhau sức mạnh tinh thần lớn lao, vượt qua gian khó.⇒ Tình đồng chí, đồng đội, gắn bó như anh em g/đình ruột thịt.“ Chung bát đũa… gia đình đấy”
H: Ở khổ thơ cuối t/g còn cho ta thấy những khiếm khuyết nào của xe?H: Điều gì khiến người lính lái xe vượt qua tất cả những trở ngại đó?H: phép tu từ ở khổ thơ cuối là gì?H: Em có suy nghĩ gì về nội dung hai câu thơ cuối?⇒ Xe vẫn chạy vì miền Nam …Chỉ cần trong xe có 1 trái tim+ Hình ảnh hoán dụ .GV: Khó khăn kh thể ngăn cản ý chí quyết tâm c/đ.Vẻ đẹp của sự trung thành với lí tưởng CM gpdt.- “Không có kính…tim”: thiếu đi những phương tiện vật chất tối thiểu lại là hoàn cảnh để người lái xe bộc lộ những phẩm chất cao đẹp: sức mạnh tinh thần lớn lao, lòng dũng cảm, tinh thần bất chấp gian khổ, khó khăn.H: Qua phần phân tích trên đây, hãy nhận xét chung về người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn năm xưa?d. Ý chí giải phóng miền Nam- Lái những chiếc xe, k kính, k đèn, k mui, thùng xe xước…Tất cả đều a/h đến k/năng lăn bánh của xe.- Tình yêu nc nồng nhiệt của tuổi trẻ,ýchí chiến đấu và giải phóng Miền Nam thống nhất nước nhà khiên những người lái xe vượt qua khó khăn gian khổ.“ Xe vẫn chạy vì miền Nam …Chỉ cần trong xe có 1 trái tim”- NT :Hình ảnh hoán dụ .→ Khẳng định quyết tâm giải phóng miền nam không gì lay chuyển, tình yêu miền Nam là sức mạnh vô song (xe có thể thiếu nhiều thứ, nhưng không thể thiếu được trái tim hướng về miền Nam – xe chạy = trái tim = xương máu của những người chiến sĩ lái xe anh hùng)* Hình ảnh những người chiến sĩ lái xe: trẻ trung, tinh nghịch , ngang tàng mà kiên định lạc quan, yêu đời→ Ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam của toàn dân, toàn quân ta, khẳng định con người mạnh hơn sắt thép.
HĐ3. HDHS tổng kết:H: Cảm nhận về giá trị nội dung và nghệ thuật sau khi học văn bản?III. Tổng kết1. Nghệ thuật:- Thể thơ tự do (kết hợp linh hoạt thể bảy chữ và thể tám chữ)- Điệp từ, điệp cấu trúc câu- Ngôn ngữ, giọng điệu giàu tính khẩu ngữ, tự nhiên khoẻ khoắn, tinh nghịch.2. Nội dung:- Hình ảnh người lính lái xe Trường Sơn với tư thế hiên ngang, tinh thần lạc quan, dũng cảm bất chấp khó khăn nguy hiểm và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam

4. Củng cố – luyện tập

  • Hệ thống bài:
  • Nhan đề bài thơ → độc đáo thu hút
  • Hình ảnh những chiếc xe không có kính
  • Hình ảnh người lính lái xe
  • Đọc diễn cảm bài thơ.

5. Hướng dẫn học sinh về nhà:

  • Làm Bài tập 1, 2 SGK/133
  • Học bài + làm bài tập (SBT)
  • Ôn tập chuẩn bị cho kiểm tra 2 tiết văn học trung đại. Học thuộc lòng bài thơ.

Cùng với Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính, tặng bạn 💔 Bài Thơ Theo Chân Bác 💔

Khổ 1 Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính

Khổ 1 Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính với những hình ảnh đầu tiên đã gây ấn tượng mạnh đối với người đọc.

Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.

Có những tác phẩm đọc xong, gấp sách lại là ta quên ngay, cho đến lúc xem lại ta mới chợt nhớ là mình đã đọc rồi. Nhưng cũng có những cuốn sách như dòng sông chảy qua tâm hồn ta để lại những ấn tượng chạm khắc trong tâm khảm.“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một tác phẩm như thế.

Bài thơ đã sáng tạo một hình ảnh độc đáo: những chiếc xe không kính, qua đó làm nổi bật hình ảnh những người lính lái xe ở tuyến Trường Sơn với tư thế hiên ngang, dũng cảm, trẻ trung, sôi nổi:

Hình ảnh những chiếc xe trần trụi, xây xước, móp méo, không kính, không đèn mà vẫn băng băng trên đường ra tiền tuyến, chở quân, chở súng đạn, lương thực hướng về miền Nam là hình ảnh thực và thường gặp trong những năm tháng chống Mĩ gian lao và hào hùng. Hình ảnh những chiếc xe không kính được miêu tả cụ thể, chi tiết rất thực.

Lẽ thường, để đảm bảo an toàn cho tính mạng con người, cho hàng hoá nhất là trong địa hình hiểm trở Trường Sơn thì xe phải có kính mới đúng. Ấy thế mà chuyện “xe không kính” lại là môt thực tế, những chiếc xe “không kính” rồi “không đèn”, “không mui” ấy vẫn chạy băng ra tiền tuyến.

Hình ảnh ấy, lần đầu tiên và cũng là duy nhất cho đến nay khơi dậy cảm hứng thơ của Phạm Tiến Duật.

Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi

Lời thơ tự nhiên đến mức buộc người ta phải tin ngay vào sự phân bua của các chàng trai lái xe dũng cảm. Thật ra có thể nói một cách đơn giản: Xe không có kính vì bom giật, bom rung. Nhưng nhà thơ lại chọn cách nói như là muốn tranh cãi với ai. Gịong điệu ngang tàng, lí sự với cấu trúc không có…không phải vì không có…

Giọng này phù hợp với tính cách ngang tàng dũng cảm, đầy nghị lực, tính tếu nhộn của những lái xe Trường Sơn. Cách giải thích này cũng gợi lên cái ác liệt của chiến tranh, người lính luôn cận kề với hiểm nguy, với cái chết nhưng coi đó như chuyện bình thường.

Chất thơ của câu thơ này hiện ra chính trong vẻ tự nhiên đến mức khó ngờ của ngôn từ. Câu thơ rất gần với văn xuôi lại có giọng thản nhiên, ngang tàng trong đó ngày càng gây ra sự chú ý về vẻ đẹp khác lạ của nó.

Hình ảnh “bom giật, bom rung” vừa giúp ta hình dung được một vùng đất từng được mệnh danh là “túi bom” của dịch vừa giúp ta thấy được sự khốc liệt của chiến tranh và đó chính là nguyên nhân để những chiếc xe vận tải không có kính.

Bom đạn ác liệt của chiến tranh đã tàn phá làm những chiếc xe ban đầu vốn tốt, mới trở thành hư hỏng. Không tô vẽ, không cường điệu mà tả thực, nhưng chính cái thực đã làm người suy nghĩ, hình dung mức độ ác liệt của chiến tranh, bom đạn giặc Mỹ.

Mục đích miêu tả những chiếc xe không kính là nhằm ca ngợi những chiến sĩ lái xe Trường Sơn – chủ nhân những chiếc xe không kính. Những người lính lái xe điều khiển những chiếc xe không kính kì lạ trong tư thế ung dung, hiên ngang, bình tĩnh, tự tin.

Đó là những con người trẻ trung, tư thế ung dung, coi thường gian khổ, hy sinh. Trong buồng lái không kính chắn gió, họ có cảm giác mạnh mẽ khi phải đối mặt trực tiếp với thiên nhiên bên ngoài. Những cảm giác ấy được nhà thơ ghi nhận tinh tế sống động qua những hình ảnh thơ nhân hoá, so sánh và điệp ngữ:

Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.

Nhà thơ diễn tả chính xác các cảm giác mạnh và đột ngột của người ngồi trong buồng lái, khiến người đọc có thể hình dung được rõ ràng những ấn tượng, cảm giác ấy như chính mình đang ở trên chiếc xe không kính. Hình ảnh “con đường chạy thẳng vào tim” gợi liên tưởng về con đường ra mặt trận, con đường chiến đấu, con đường cách mạng.

Không có kính chắn gió, bảo hiểm, đoàn xe vẫn lăn bánh bình thường. Lời thơ nhẹ nhõm, trôi chảy như những chiếc xe vun vút chạy trên đường.

Vậy đấy, khổ thơ tả thực những khó khăn gian khổ mà những người chiến sĩ lái xe Trường Sơn đã trải qua. Trong khó khăn, các anh vẫn ung dung, hiên ngang bình tĩnh nêu cao tinh thần trách nhiệm, quyết tâm gan góc chuyển hàng ra tiền tuyến.

Người lái xe trong bài thơ là những người chiến sĩ trẻ trung. Các anh rất trẻ trung, hồn nhiên, tâm hồn gần gũi với thiên nhiên. Khó khăn gian khổ các anh coi thường. Xe hư hỏng không có kính, không có đèn, không có mui xe, thùng xe có xước, nhưng xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước.

Tất cả vì tiền tuyến, vì mặt trận, đó là khẩu hiệu của họ. Và những chiếc xe mang đầy thương tích vẫn lăn bánh ra mặt trận. Có thể nói những người lái xe, người làm chủ phương tiện là yếu tố quyết định làm nên thắng lợi trên mặt trận vận tải và cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

Gợi ý cho bạn những nội dung thú vị có trong bài viết chọn lọc 🌹 Thơ Cao Bá Quát 🌹

Vẻ Đẹp Của Người Lính Trong Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính

SCR.VN phân tích Vẻ Đẹp Của Người Lính Trong Bài Thơ Đồng Chí Và Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính với những nét tương đồng đã góp phần tạo nên hình tượng người lính cách mạng trong thơ ca.

Bài tham khảo số 1

Là những nhà thơ quân đội trưởng thành trong những cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, Chính Hữu và Phạm Tiến Duật từng sống, trải nghiệm và thấm thía đời sống của người lính trên chiến trường. Trên đôi bàn tay của hai nhà thơ không chỉ vững vàng những cây súng đánh giặc mà còn từng bừng nở cho đời những vần thơ diệu kì về người lính.

Hai trong số những áng thơ ấy là Đồng chí của Chính Hữu và Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật. Cùng khắc họa hình ảnh người lính trong lực lượng quân đội nhân dân Việt Nam nhưng bên cạnh những điểm chung vốn dễ nhận thấy, ở hai bài thơ, mỗi bài lại có những nét đẹp riêng.

Bài thơ Đồng chí của Chính Hữu ra đời năm 1948, những năm tháng đầu tiên của cuộc kháng chiến chống Pháp đầy vất vả, chính quyền ta vừa thành lập còn non trẻ. Những người lính của “Đồng chí” là những người lính chống Pháp, họ đến với kháng chiến từ màu áo nâu của người nông dân, từ cái nghèo khó của những miền quê lam lũ:

Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá

Còn Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật ra đời năm 1969, thời điểm cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước đang vào hồi ác liệt. Những người lính thời kì này còn rất trẻ. Họ phần lớn vừa rời ghế nhà trường, tâm hồn còn phơi phới tuổi xuân. Đó là những con người:

“Xẻ dọc Trường Sơn đi đánh Mĩ
Mà lòng phơi phới dậy tương lai”.

Hoàn cảnh, điều kiện khác nhau như vậy tất yếu dẫn đến sự khác nhau về ý thức giác ngộ cách mạng của những người lính ở hai bài thơ. Nhận thức về chiến tranh của những người lính chống Pháp còn đơn giản, chưa sâu sắc như thời kì kháng chiến chống Mĩ.

Trong “Đồng chí”, tình cảm thiêng liêng nhất được nhắc tới là tình đồng chí, đồng đội. Trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” mới thấy xuất hiện ý niệm về ý chí, tinh thần yêu nước:

“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”

Sống giữa chiến trường với tình đồng đội thiêng liêng, người lính chống Pháp nhớ về gia đình với mẹ già, vợ dại, con thơ. Người lính kháng Mĩ thì đã khác. Họ hiểu rằng kháng chiến là gian khố và còn trường kì nữa. Vậy nên xe hàng cùng con đường ra mặt trận đã trở thành ngôi nhà chung và những người đồng đội đã trở thành gia đình ruột thịt:

“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”.

Và điều khác nhau cơ bản giữa hai thi phẩm chính là bút pháp thơ của hai tác giả. Chính Hữu dùng bút pháp hiện thực – lãng mạn dựng lên hình ảnh những người lính thời kì đầu của cuộc kháng chiến với nhiều khó khăn thiếu thốn:

“Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày”

Cảm hứng lãng mạn được lắng đọng trong cảm xúc về tình đồng chí thiêng liêng: “Đồng chí!” cùng những hình ảnh thơ giàu sức gợi “đầu súng trăng treo”. Bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” lại được xây dựng bằng bút pháp lãng mạn – hiện thực. Cái khó khăn thiếu thốn không bị lảng tránh:

“Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe thùng xe có xước”.

Nhưng vượt lên trên tất cả vẫn là sự ngang tàng, tinh nghịch của những người lính trẻ lạc quan yêu đời:

“Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng”

“ừ thì gió bụi”
“ừ thì ướt áo”,…

Có thể nói, trong “Đồng chí” của Chính Hữu, nhà thơ đã dựng lên hình ảnh người lính với tình đồng đội thiêng liêng chia sẻ với nhau những khó khăn, cực nhọc của một cuộc sống kháng chiến gian nan, thiếu thốn.

Bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật lại khắc họa tuổi trẻ trẻ trung, yêu đời, yêu sống tinh nghịch và đầy ước mơ, lí tưởng của những người lính chống Mĩ.

Tuy có những sự khác nhau do hoàn cảnh lịch sử chi phối như vậy song những người lính trong hai bài thơ vẫn mang những đặc điểm chung đáng quý của người lính quân đội nhân dân. Đó là tấm lòng yêu nước, yêu đồng chí, đồng đội.

Vì tiếng gọi của non sông tất cả đã bỏ lại phía sau những “bến nước gốc đa”, những con phố, căn nhà và cả những người thân yêu nhất. Trong điều kiện chiến đấu vô cùng gian khổ, thiếu thốn, thì tinh thần chiến đấu của những người lính lại bùng lên mạnh mẽ, sục sôi khí thế.

Họ không nề nguy hiểm, khó khăn, vẫn vững lòng cầm chắc tay súng để bảo vệ quê hương, đất nước:

“Súng bên súng đầu sát bên đầu”
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”.

Họ cùng sát cánh bên nhau, bên những người đồng đội để cùng chiến đấu dũng cảm. Nếu trong “Đồng chí” là:

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay

thì trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính hình ảnh đó đã trở nên thân quen:

Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi

Không kể thiếu thốn, khó khăn, họ vẫn chấp nhận, vẫn vui vẻ lạc quan, yêu đời hơn. Cái bắt tay ấy là cả một tình đồng đội thiêng liêng, họ truyền cho nhau niềm tin chiến thắng, tình yêu và lòng dũng cảm ấy. Sống và chết, dường như trong tim mỗi người lính chiến đấu không hề có khái niệm ấy.

Dù có những điểm giống và khác nhau rõ rệt nhưng điều đó càng khiến những người lính cụ Hồ hiện lên qua nhiều màu vẽ, sinh động và gần gũi. Điều đó trước hết giúp người đọc càng hiểu rõ hơn về những người lính. Hình ảnh của họ hiện lên thật đẹp đẽ, họ chính là biểu tượng, là niềm tin, khát vọng của nhân dân gửi gắm nơi họ.

Ở các anh, người đọc nhận thấy một ánh sáng lí tưởng cao đẹp và thiêng liêng vô cùng. Không chỉ vậy, những nét khác biệt còn thể hiện từng phong cách riêng của mỗi tác giả trong phương thức thể hiện. Điều đó làm giàu, làm đẹp thêm cho vườn hoa nghệ thuật nước nhà.

Bài tham khảo số 2

Người lính là một trong những hình tượng trung tâm của văn học cách mạng Việt Nam. Đi vào trang văn trang thơ là những anh bộ đội Cụ Hồ với những phẩm chất đáng quý. Hai tác phẩm Đồng chí (1948) của Chính Hữu và Bài thơ về tiểu đội xe không kính (1969) của Phạm Tiến Duật cũng nằm trong dòng chảy đó.

Hai bài thơ, mỗi bài mỗi vẻ. Ở Đồng chí của Chính Hữu, người đọc bắt gặp hình ảnh người nông dân mặc áo lính giản dị, chân thành, chất khác với hoàn cảnh xuất thân bình dị:

Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá

Họ đều là những người nông dân chân lấm tay bùn, ra đi từ những miền quê nghèo khó. Vì chung lí tưởng, chung nhiệm vụ mà họ trở thành người đồng chí sát cánh bên nhau.

Khác với những người chiến sĩ trong bài Đồng chí, những người lính trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính là những chiến sĩ trẻ hồn nhiên, hóm hỉnh, ngang tàng, trẻ trung, phần nhiều là những thanh niên học sinh đi thẳng từ nhà trường ra chiến trường.

Họ ngang tàng, hóm hỉnh ngay từ chính câu thơ đầu tiên: “Không có kính không phải vì xe không có kính” – câu thơ mang giọng tranh luận sôi nổi, say sưa của tuổi trẻ. Dòng thơ đầu dài mười tiếng như lời phân trần nguyên nhân khiến xe không có kính.

Và người chiến sĩ lái xe trẻ trung đã biến cái không bình thường thành cái bình thường, thậm chí thấy thú vị trước cái không bình thường đó.

Tuy mang một vài điểm khác nhau về độ tuổi, về hoàn cảnh xuất thân nhưng hình tượng người lính trong hai bài thơ đều mang những nét đẹp chung của anh bộ đội Cụ Hồ như tinh thần sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn gian khổ, tình đồng đội keo sơn gắn bó, ý chí chiến đấu kiên cường và tinh thần lạc quan, yêu đời.

Trong cuộc kháng chiến trường kì của nhân dân ta, dù ở thời điểm nào, người lính cũng phải đương đầu với vô vàn khó khăn, thử thách. Trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, những người lính trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu đã phải sống những ngày tháng kháng chiến gian truân, vất vả, thiếu thốn.

Ai đã từng trải qua đời lính trong những năm tháng đó mới thấm thía hết những gian nan mà người lính phải trải qua. Một trong những khó khăn mà họ phải đối mặt là căn bệnh sốt rét rừng:

Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi

Những người nhiễm bệnh đầu tiên cảm thấy ớn lạnh, sau đó người lạnh run cầm cập, đắp bao nhiêu chăn cũng không đủ, người vã mồ hôi vì nóng và vì yếu. Sau cơn sốt rét là da xanh, da vàng, viêm gan…

Viết về điều này, Tố Hữu đã có những câu về anh vệ quốc quân: “Giọt giọt mồ hôi rơi – Trên má anh vàng nghệ”. Thôi Hữu trong bài Lên Cấm Sơn cũng để cập đến căn bệnh ác tính này: “Nước da đã lên màu tật bệnh – Đâu còn tươi nữa những ngày hoa”.

Không chỉ để lại nước da xanh, căn bệnh này còn cướp đi sinh mạng của biết bao chiến sĩ. Có những người không chống chọi lại được với bệnh tật và nằm lại ở rừng xanh: “Anh bạn dãi dầu không bước nữa – Gục lên súng mũ bỏ quên đời” (Quang Dũng – Tây Tiến).

Không chỉ phải đối mặt với bệnh tật, những ngày đầu kháng chiến, cuộc sống của người lính rất gian khổ thiếu thốn:

Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày

Những khó khăn thiếu thốn đó của các anh bộ đội đã hiện lên trong thơ Chính Hữu bằng bút pháp tả thực, một sự thật trần trụi đến xót xa. Nhà thơ Hồng Nguyên trong bài thơ Nhớ cũng kể về những anh lính thiếu thốn quân trang quân dụng, phải đánh giặc bằng vũ khí tự tạo:

Lột sắt đường tàu
Rèn thêm dao kiếm
Ảo vải chân không
Đi lùng giặc đánh

Khi viết về những người lính trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Phạm Tiến Duật không nhắc đến những thiếu thốn về quân trang quân dụng mà đề cập đến sự khốc liệt của chiến trường. Bom đạn chiến tranh đã làm cho những chiếc xe của đoàn xe ra trận trở thành những chiếc xe không kính.

Xe không kính vì: “Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”. Không có kính nên “Bụi phun tóc trắng như người già”, “Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời”. Và tác giả đã lạc quan vui vẻ gọi tiểu đội của mình là “tiểu đội xe không kính”.

Trên con đường Trường Sơn – nơi mà “một mét vuông có ba quả bom lớn” nhiều chiến sĩ đã phải nằm lại về điều này, có nhà thơ đã viết những câu thơ đầy đau xót.:

Nếu tất cả trở về đông đủ
Sư đoàn tôi sẽ thành mấy sư đoàn ?

Dù ở thời điểm nào, chiến tranh cũng luôn là mất mát, là đau thương. Mặc dầu vậy, những chiến sĩ lái xe vẫn vượt qua mọi khó khăn, nguy hiểm để hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình một cách lạc quan, trẻ trung.

Họ hiện ra với tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm, bất chấp khó khăn, nguy hiểm: “Ung dung buồng lái ta ngồi – Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”. Tư thế đó là tư thế đi vào lịch sử, tư thế hùng tráng của những anh hùng Trường Sơn.

Dù khó khăn, vất vả như vậy nhưng những chiến sĩ vẫn luôn lạc quan, yêu đời. Dù đứng giữa rừng rét buốt nhưng trên môi họ vẫn nở nụ cười: “Miệng cười buốt giá” (Đồng chí). Họ coi thường thử thách, khó khăn. Câu thơ cho thấy sự lạc quan, bình thản của những con người hồn nhiên, giản dị.

Những người lính ấy lạc quan, cười trước khó khăn, chấp nhận mọi thách thức : “Không có kính, ừ thì có bụi – Bụi phun tóc trắng như người già – Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc – Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”, rồi “Không có kính, ừ thì ướt áo – Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời – Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa – Mưa ngừng, gió lùa, khô mau thôi”.

Ai đã từng đặt chân đến đường Trường Sơn vào thời chống Mĩ mới thấu hiểu hết gian khổ của người lính lái xe. Đường Trường Sơn gập ghềnh hiểm trở. Mưa rừng Trường Sơn như trút nước. Mùa khô, bụi bay mù trời.

Ngày trời quang mây tạnh thì bom giặc Mĩ liên tục trút xuống những đoàn xe nối nhau ra trận. Xe có kính, những chiến sĩ lái xe đã vất vả, xe không có kính lại càng vất vả biết chừng nào.

Sống giữa lửa đạn chiến tranh, những người lính càng thêm yêu thương đùm bọc nhau. Sống những ngày tháng gian khổ, họ sẵn sàng chia sẻ từng cái chăn, tấm áo: “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”, “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” (Chính Hữu – Đồng chí).

Đó là cái nắm tay xiết chặt hàng ngũ và gạt bớt những khó khăn, gian khổ. Dù bom đạn giặc Mĩ có khốc liệt đến đâu cũng không thể ngăn được những cái bắt tay thân ái của những chiến sĩ lái xe Trường Sơn: “Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới – Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”.

Cái bắt tay đó cho thấy sự bất lực của kẻ thù, đồng thời cũng cho thấy sự cộng hưởng niềm vui chiến thắng. Dù trút mưa bom bão đạn song đế quốc Mĩ không sao ngăn được “Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời – Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy – Võng mắc chông chênh đường xe chạy – Lại đi, lại đi trời xanh thêm”.

Dừng chân giữa rừng Trường Sơn, những người chiến sĩ động viên, khích lệ nhau cùng hướng về ngày mai tươi sáng. “Chỉ cần trong xe có một trái tim”, dù không có kính, không có đèn, không có mui xe, thùng xe có xước thì những chiếc xe vẫn sẽ luôn hướng về miền Nam yêu thương.

Những ngày tháng gian khổ hi sinh mà thắm tình đồng đội sẽ là những tháng ngày không thể nào quên đối với mỗi người chiến sĩ đã từng sống và chiến đấu bên nhau. Hai bài thơ khác nhau về giọng điệu, về hoàn cảnh sáng tác, về hoàn cảnh xuất thân của những người lính song đều khắc họa rất thật và rất thành công hình ảnh anh bộ đội Cụ Hồ – những “Thạch Sanh của thế kỉ XX” (Tố Hữu).

Mời bạn đọc xem nhiều hơn những trang thơ hay có trong tuyển tập 🌟 Thơ Nguyễn Khuyến 🌟

Thuyết Minh Về Bài Thơ Tiểu Đội Xe Không Kính

Thuyết Minh Về Bài Thơ Tiểu Đội Xe Không Kính chia sẻ đầy đủ dàn ý cùng bài văn tham khảo.

Thuyết minh Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật để khắc họa rõ nét hơn những chiếc xe không kính, khắc họa những người lính lái xe ở Trường Sơn trong thời kỳ chống Mĩ, với tư thế hiên ngang, tinh thần lạc quan, dũng cảm.

DÀN Ý THUYẾT MINH BÀI THƠ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH

A. Mở bài

Từ đề tài tác phẩm liên quan đến người lính trong kháng chiến để dẫn dắt về tác giả Phạm Tiến Duật và bài thơ
Nêu đánh giá chung ban đầu

B. Thân bài

  • Tác giả Phạm Tiến Duật

Sinh năm 1941 mất năm 2007
Quê ở huyện Thanh Ba tỉnh Phú Thọ
Năm 1946 ông gia nhập vào quân đội hoạt động trên tuyến đường Trường Sơn
Không biết về hình ảnh của người lính và những cô gái thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn
Giọng điệu thơ sôi nổi trẻ trung tinh nghịch vào chất lính

  • Bài thơ về tiểu đội xe không kính

Được sáng tác vào năm 1969 trong lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra gay go ác liệt
Được in trong tập thơ “vầng trăng quầng lửa”
Đề tài của tác phẩm là chiến tranh và người lính
Có thể chia tác phẩm thành 3 phần
Khắc họa nổi bật hình ảnh người lính lái xe ở Trường Sơn trong thời kỳ chống Mỹ với tư thế hiên ngang tinh thần lạc quan dũng cảm
Thể thơ tự do ngôn ngữ ngang tàn tinh nghịch giàu tính khẩu ngữ
Biện pháp nghệ thuật so sánh nhân hóa hoán dụ Điệp Từ liệt kê đối lập đảo ngữ động từ mạnh điệp cấu trúc

  • Khái quát lại giá trị tác phẩm

C. Kết bài

  • Đánh giá chung
  • Cảm nhận cá nhân

BÀI THAM KHẢO THUYẾT MINH BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH

Trong chùm thơ bốn bài của Phạm Tiến Duật đoạt giải nhất cuộc thi thơ Tuần báo Văn nghệ năm 1969, có ba bài viết về đường Trường Sơn, cụ thể là những chiến sĩ lái xe, thanh niên xung phong trên con đường huyền thoại ấy. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một trong ba bài ấy.

Khi in lại bài thơ này, có nhà biên tập có ý muốn bỏ đi ba chữ đầu tiên, chỉ để lại “Tiểu đội xe không kính”, với lý luận rằng “ba chữ bài thơ về là thừa ra, vì ai đọc lên chẳng biết đây là bài thơ”. Như vậy là chưa hiểu được ý của tác giả.

Ở bài thơ này, để nói sự lạc quan của lính vận tải trên đường Trường Sơn, tác giả nhìn thực tế bằng con mắt chiến sĩ lái xe: Mọi gian khổ, khó khăn chỉ là chuyện vặt, xe không có kính có cái hay, cái được mà xe có kính không có!

Hay nói một cách khác, tác giả viết bài thơ này để ngợi ca tiểu đội xe không kính mà nội dung sự ngợi ca đó đã báo trước trong ba chữ bài thơ về nằm ở đầu đề. Chính Phạm Tiến Duật từng viết: “Mỗi trọng điểm là một nghĩa địa ô tô. Xác xe cháy ngổn ngang lưng đèo, đỉnh núi”.

Biết bao chiếc xe đã được thu gom, chắp nhặt từ các nghĩa địa ô tô đó. Chỉ cần có bánh xe, máy nổlà coi như còn xe. Và tất nhiên, người ta phải chắp nhặt những bộphận sót lại ởnhững chiếc xe khác nhau đểlàm nên một chiếc xe có thể chạy được.

Đã có biết bao tiểu đội xe vận tải có những chiếc xe như thế chạy, chở hàng đã hoạt động trên đường Trường Sơn, thế thì mất kính có thấm tháp gì đâu ngoài việc tạo sự phóng túng cho lính lái:

Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất nhìn trời, nhìn thẳng.

Thì ra chiến sĩ lái xe không hề bận tâm về việc xe mình không có kính, ngược lại, chính xe không có kính càng tạo cho anh cái thế ung dung ngồi trong buồng lái mà không có gì ngăn cách với thiên nhiên:

Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái

Sao trời và cánh chim là biểu tượng của ban đêm và ban ngày. Xe chạy không phân biệt ngày đêm, nhưng thực tế những năm tháng ấy, xe chạy đêm là chính để tránh máy bay Mỹ. Lòng yêu những con đường của người lái xe được tác giả mô tả bằng cảm giác khi xe chạy nhanh: “con đường chạy thẳng vào tim”, chạy thẳng được vì không có kính ngăn lại!

Thế thì không có kính không đem lại những khó khăn gì hay sao? Có chứ, nhưng khó khăn xoàng không mảy may ảnh hưởng đến tinh thần người lính:

Không có kính, ừ thì có bụi…
Không có kính, ừ thì ướt áo..

Điệp ngữ ừ thì thể hiện sự tất yếu đã biết, là một lẽ tất nhiên đã lường trước. Bụi chỉ làm trắng tóc lính trẻ, chỉ gây chuyện vui, chuyện buồn cười:

Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Còn mưa ướt áo, ừ thì chuyện xoàng:
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa mau khô thôi.

Chúng ta lưu ý rằng, cái gió lùa hong khô áo đó chính do xe không có kính mang lại! Qua hai khổ thơ coi chuyện khó khăn do việc xe không có kính mang lại là chuyện vặt, tác giả trở lại khai thác cái thuận lợi, cái được sinh ra từ xe không có kính, đó là việc thể hiện tình đồng đội, đồng chí, tình những người lính lái xe trên tuyến lửa:

Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.

Động tác bắt tay nhau vồn vã này không thể làm được khi xe có kính! Phạm Tiến Duật là nhà thơ tiêu biểu thế hệ nhà thơ thời chiến tranh chống Mỹ, những người luôn khai thác ở lính tinh thần lạc quan, coi thường gian khổ, chắt lọc ngọt ngào từ cay đắng, tìm kiếm thuận lợi từ khó khăn.

Bên cạnh đó, ý thức trách nhiệm của thế hệ nhà thơ này cũng luôn thường trực: Tất cả vì công cuộc giải phóng miền Nam. Đọc khổ cuối bài thơ này, chúng ta không chỉ biết được rằng tiểu đội xe không kính chỉ là một ví dụ, còn bao chiếc xe nữa thiếu nhiều thứ khác, mặc dù vũ khí và phương tiện là quan trọng, nhưng con người mới quyết định:

Không có kính rồi không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.

Trong khổ thơ này có một chữ mà tác giả và bạn đọc đều chưa ưng ý, đó là chữ xước, bởi từ đó quá nhẹ, nên dùng cho những chiếc xe con sang trọng bị va quệt nhẹ tróc sơn, hơn là dùng cho những chiếc xe tải đã đi qua bom đạn mà có khi thùng xe chỉ còn lại vài thanh xơ tướp hoặc gẫy gập, cháy sém.

Nói về ngôn ngữ của bài thơ này, nhà thơ Phạm Tiến Duật tâm sự: “Tôi không tự cho tôi cái quyền quy định phạm vi ngôn ngữ cho từng bài thơ. Mỗi bài thơ có một văn hóa riêng, ngôn ngữ riêng”.

Ngôn ngữ trong bài thơ này là ngôn ngữ của lính, chính xác hơn là ngôn ngữ của cánh lính lái xe rất phù hợp với nội dung coi thường gian khổ, hy sinh… trong hoàn cảnh thiếu thốn mọi thứ và cái chết luôn cận kề khi thực thi nhiệm vụ của mình.

Gửi đến bạn tuyển tập 🌹 Thơ Bà Huyện Thanh Quan 🌹 hay nhất rất thích hợp để gối đầu giường.

Khổ Cuối Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính

Khổ Cuối Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính là một kết thúc thật trọn vẹn với hình tượng người lính thật đẹp xuyên suốt cả bài thơ.

Khổ thơ cuối đã hoàn thiện vẻ đẹp của người lính, đó là lòng yêu nước, ý chí chiến đấu giải phòng miền Nam:

Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chủ cần trong xe có một trái tim.

Giờ đây những chiếc xe không chỉ mất kính mà lại không đèn, không mui, thùng xe có xước. Chiếc xe đã biến dạng hoàn toàn. Người lính xế lại chất chồng khó khăn. Sự gian khổ nơi chiến trường ngày càng nâng lên gấp bội lần nhưng không thể làm chùn bước những đoàn xe nối đuôi nhau ngày đêm tiến về phía trước.

Nguyên nhân nào mà những chiếc xe tàn dạng ấy vẫn băng băng chạy như vũ bào? Nhà thơ đã lí giải: “Chỉ cần trong xe có một trái tim”.

Ở các anh có sự tương phản rõ rệt giữa vật chất và tinh thần, giữa bên ngoài và bên trong, giữa cái không có và cái có. Bom đạn kẻ thù đã làm cho xe không có rất nhiều. Không kính, không đèn, không mui nên chiếc xe đã trở nên trần trụi đến kì lạ, xe không còn nguyên vẹn…

Nhưng một thứ rất cần mà các anh đã có, đó là trái tim yêu nước. Trái tim đầy nhiệt thành cách mạng, sẽ chiến thắng những thiếu thốn về vật chất. Trái tim yêu nước đã điều khiển chiếc xe không nguyên vẹn ấy băng về phía trước, nơi miền Nam ruột thịt. Sức mạnh để xe băng mình ra trận chính là sức mạnh của trái tim người lính.

Câu thơ dồn dập cứng cáp hẳn lên như nhịp chạy của những chiếc xe không kính. Từ hàng loạt những cái “không có” ở trên, nhà thơ khẳng định một cái có, đó là “một trái tim”.

“Trái tim” là một hoán dụ nghệ thuật tu từ chỉ người chiến sĩ lái xe Trường Sơn năm xưa. Trái tim của họ đau xót trước cảnh nhân dân miền Nam sống trong khói bom thuốc súng, đất nước bị chia cắt thành hai miền.

Trái tim ấy dào dạt tình yêu Tổ quốc như máu thịt, như mẹcha, như vợ như chồng… Trái tim ấy luôn luôn sục sôi căm thù giặc Mỹ bạo tàn.

=> Yêu thương, căm thù chính là động lực thôi thúc những người chiến sĩ lái xe khát khao giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Để ước mơ này trở thành hiện thực,chỉ có một cách duy nhất: vững vàng tay lái, cầm chắc vô lăng. Vì thế thử thách ngày càng tăng nhưng tốc độ và hướng đi không hề thay đổi.

=> Đằng sau những ý nghĩa ấy, câu thơ còn muốn hướng con người về chân lý thời đại của chúng ta: sức mạnh quyết định chiến thắng không phải là vũ khí mà là con người giàu ý chí, anh hùng, lạc quan, quyết thắng.

=> Có thể coi câu thơ cuối là câu thơ hay nhất của bài thơ. Nó là nhãn tự, là con mắt thơ, bật sáng chủ đề, toả sáng vẻ đẹp hình tượng người lính lái xe thời chống Mỹ.

Mời bạn đọc nhiều hơn với trọn bộ 🔥 Thơ Thích Nhất Hạnh 🔥 đặc sắc và ý nghĩa.

Giải Thích Ý Nghĩa Nhan Đề Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính

Giải Thích Ý Nghĩa Nhan Đề Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính với những ý nghĩa đặc biệt phía sau một nhan đề độc đáo.

Nhan đề bài thơ có gì khác lạ? Một hình ảnh nổi bật trong bài thơ là những chiếc xe không kính.Vì sao có thể nói hình ảnh ấy là độc đáo?

Bài thơ có cách đặt đầu đề hơi lạ. Bởi hai lẽ:

+Rõ ràng đây là một bài thơ, vậy mà tác giả lại ghi là “Bài thơ” – cách ghi như thế có vẻ hơi thừa.
+Lẽ thứ hai là hình ảnh tiểu đội xe không kính. Xe không kính tức là xe hỏng,không hoàn hảo, là những chiếc xe không đẹp, vậy thì có gì là thơ. Vì đã nói đến thơ, tức là nói đến một cái gì đó đẹp đẽ, lãng mạn, bay bổng.

Vậy, đây rõ ràng là một dụng ý nghệ thuật của Phạm Tiến Duật. Dường như, tác giả đã tìm thấy, phát hiện, khẳng định cái chất thơ, cái đẹp nằm ngay trong hiện thực đời sống bình thường nhất, thậm chí trần trụi, khốc liệt nhất, ngay cả trong sự tàn phá dữ dội, ác liệt của chiến tranh.

Ý nghĩa nhan đề bài thơ:

Bài thơ có một nhan đề khá dài, tưởng như có chỗ thừa nhưng chính nhan đề ấy lại thu hút người đọc ở cái vẻ lạ, độc đáo của nó. Nhan đề bài thơ đã làm nổi bật rõ hình ảnh của toàn bài: những chiếc xe không kính.

Hình ảnh này là một sự phát hiện thú vị của tác giả, thể hiện sự gắn bó và am hiểu của nhà thơ về hiện thực đời sống chiến tranh trên tuyến đường Trường Sơn.Nhưng vì sao tác giả còn thêm vào nhan đề hai chữ “Bài thơ”?

Hai chữ “bài thơ”nói lên cách nhìn, cách khai thác hiện thực của tác giả: không phải chỉ viết về những chiếc xe không kính hay là cái hiện thực khốc liệt của chiến tranh, mà chủ yếu là Phạm Tiến Duật muốn nói về chất thơ của hiện thực ấy, chất thơ của tuổi trẻ Việt Nam dũng cảm, hiên ngang, vượt lên những thiếu thốn, gian khổ của chiến tranh.

Chia sẻ cùng bạn 🌹 Thơ Đỗ Trung Quân 🌹 hay và ý nghĩa!

Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính Lớp 4

Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính Lớp 4 trong chương trình giáo dục tiểu học với trích đoạn hay và đặc sắc của bài thơ.

Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính Lớp 4
Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính Lớp 4

Khám phá tiếp 🔥 Thơ Ý Nhi 🔥 đầy cảm xúc, có thể chạm đến trái tim bạn.

Bố Cục Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính

Gợi ý Bố Cục Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính với những nội dung cụ thể.

Bố cục

Đoạn 1 (Khổ 1+2): Tư thế thế ung dung hiên ngang của người lính lái xe không kính

Đoạn 2 (Khổ 3+4): Tinh thần dũng cảm bất chấp khó khăn gian khổ và tinh thần lạc quan, sôi nổi của người lính

Đoạn 3 (Khổ 5+6): Tinh thần đồng chí đồng đội thắm thiết của người lính lái xe

Đoạn 4 (Khổ 7): Lòng yêu nước và ý chí chiến đấu vì miền Nam

Cả bài thơ là lời nói, cảm xúc của người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn. Thử thách ngày càng tăng, nhưng mức độ và hướng đi không thay đổi.Vẫn là khẳng định tinh thần bất khuất, quyết thắng của quân đội ta, nhưng Phạm Tiến Duật đã đem lại nhiều hình ảnh mới và giọng điệu mới: trẻ trung, tinh nghịch, ngang tàn mà kiên định.

Bài thơ đâu chỉ nói về tiểu đội xe không kính,nó phản ánh cả khí thế quyết tâm giải phóng miền Nam của toàn quân và toàn dân ta, khẳng định rằng ý chí của con người mạnh hơn cả sắt thép.

❤️️ Đọc nhiều hơn với kho: Thơ Lưu Trọng Lư❤️️

Viết một bình luận