Thuyết Minh Về Đại Nội Huế ❤️️ 34+ Bài Văn Mẫu Hay Nhất ✅ Tham Khảo Tuyển Tập Đặc Sắc Giới Thiệu Những Giá Trị Và Ý Nghĩa Của Di Tích Đại Nội.
Dàn Ý Thuyết Minh Về Đại Nội Huế
Việc lập dàn ý thuyết minh về đại nội Huế là rất quan trọng giúp các em học sinh phân tích đề và định hướng cho bài viết của mình. Tham khảo mẫu dàn ý chi tiết như sau:
I. Mở bài: Giới thiệu vấn đề cần thuyết minh – Đại Nội Huế.
II. Thân bài:
a. Lịch sử và những nét khái quát chung:
- Kinh thành Huế còn có tên gọi khác là Thuận Hóa kinh thành, ngày nay người ta vẫn thường gọi là Đại Nội Huế, là nơi đóng đô của nhà Nguyễn trong suốt 143 năm bắt đầu từ năm 1802 đến năm 1945.
- Vị trí: Mặt phía Nam là đường Trần Hưng Đạo và đường Lê Duẩn; hướng tây giáp với đường Lê Duẩn; mặt phía bắc giáp với đường Tăng Bạt Hổ;còn mặt phía đông giáp đường Phan Đăng Lưu.
- Nằm gọn bên bờ Bắc của sông Hương, phần tiền án là núi Ngự Bình cao gần 100m, đỉnh tròn dáng đẹp, che chắn trước mặt Kinh thành Huế. Hai bên là cồn Cồn Hến và Cồn Dã Viên, tượng trưng cho Thanh Long, Bạch Hổ hộ pháp.
- Kinh thành Huế được vua Gia Long (tức Nguyễn Ánh) bắt đầu cho khảo sát và xây dựng vào năm 1803, và chính thức hoàn thành vào năm 1832, dưới triều vua Minh Mạng.
b. Kiến trúc: Kinh thành Huế được xây dựng theo kiến trúc Vauban, với đặc trưng là lối kiến trúc thành lũy, nhiều vòng thành. Nằm trên bờ Bắc của sông Hương với tổng diện tích khoảng 520ha, mặt kinh thành xoay về hướng Nam.
-Vòng thành ngoài cùng:
- Có chu vi xấp xỉ 10km, cao 6,6m, dày 21m, được xây kiểu gấp khúc, kết hợp với các pháo đài cách đều nhau, thời kỳ đầu được đắp hoàn toàn bằng đất, xong đến đời vua Gia Long thì được nâng cấp xây lại bằng gạch.
- Ngoài vòng thành được bao quanh bởi một hệ thống kênh rạch dài 7km.
- Có mười cửa chính thông về các hướng khác nhau, ở mặt trước của thành, hay cửa chính hướng Nam có một cột cờ lớn, còn gọi là Kỳ Đài đối diện với Ngọ Môn quan, cửa chính vào Hoàng thành.
- Bên trong vòng thành là khu vực dân cư, nhà ở của các quan lại đại thần và Hoàng thành
-Hoàng thành:
- Bao gồm có 4 cửa nằm ở bốn hướng là Hiển Nhơn, Chương Đức, Hòa Bình và Ngọ Môn quan là cửa chính, gọi chung là khu vực Đại Nội.
- Được xây dựng trên một khu đất gần vuông, chu vi khoảng 2400m, tường thành cao 4m, dày 1m, xây hoàn toàn bằng gạch.
- Bên trong có Điện Thái Hòa là nơi vua thiết triều cùng các đại thần, các khu vực miếu thờ của hoàng gia như Thế Miếu, Triệu Tổ Miếu, Hoàng Khảo Miếu, điện Hoàng Nhân, và quan trọng nhất là Tử Cấm Thành, nơi ăn chốn ở của hoàng thất bao gồm: điện Cần Chánh, cung Trường Thọ, cung Khôn Thái, điện Thái Hòa, viện Thái Y, điện Quang Minh, Điện Trinh Minh, Điện Trung Hòa.
- Các di tích đáng chú ý như: Quốc Tử Giám, Điện Long An, Đình Phú Xuân, Hồ Tịnh Tâm, Tàng Thư Lâu, Viện Cơ Mật – Tam Tòa, Đàn Xã Tắc và Cửu Vị Thần Công.
- Đại Nội còn đáng chú ý với những lăng tẩm nằm rải rác trong khắp hoàng thành: To lớn, khang trang nhất là Lăng Tự Đức, độc đáo, với vẻ đẹp lai tạp Đông Tây là lăng Khải Định.
III. Kết bài: Nêu cảm nhận chung về Đại Nội Huế.
Mời bạn tham khảo 🌠 Thuyết Minh Về Một Danh Lam Thắng Cảnh Ở Địa Phương Em 🌠 22 Bài Mẫu Hay
Văn Mẫu Mở Bài Thuyết Minh Về Đại Nội Huế – Mẫu 1
Bài văn mẫu mở bài thuyết minh về đại nội Huế sẽ giúp các em học sinh tham khảo cách mở đầu bài viết ấn tượng, đồng thời đưa bạn đọc khám phá những nét đẹp kiến trúc và văn hoá của kinh thành Huế.
“Đến kinh thành Huế lần đầu
Ngọ Môn năm cửa tiến sâu vào thành
Bước chân cho vội cho nhanh
Đi vào mới biết kinh thành bao la.”
Huế được biết đến là một thành phố lãng mạn, trữ tình, nên thơ mang nhiều khúc hát tâm tình làm say đắm lòng người. Cố đô Huế từ xa xưa trải qua bao năm tháng vẫn luôn là địa điểm du lịch nổi tiếng với nhiều công trình kiến trúc cổ xưa mang nét độc đáo trong nghệ thuận, hằng năm luôn thu hút rất động khách du lịch trong và ngoài nước đến ghé thăm.
Triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam do vua Bảo Đại trị vì cũng được đóng đô ở đây, nơi đã chứng kiến sự đổi thay từng ngày của đất nước trong giai đoạn xây dựng và phát triển. Một trong số các công trình kiến trúc tiêu biểu nổi tiếng bật nhất ở cố đô Huế không thể bỏ qua quần thể di tích kinh thành Huế uy nghi, tráng lệ hay còn được gọi là đại nội Huế. Kinh thành Huế được biết đến là nơi có từ rất lâu đời, nhờ vào kết cấu đồ sộ vững chắc, chu vi trải rộng đến 11 cây số, thành cao 6.60m và chiều dày trung bình 21m.
Chính vì đây là kinh thành đầu tiên được xây dựng nên việc đảm bảo tuổi thọ bền lâu luôn được chú trọng, do đó công trình xây dựng tốn rất nhiều tài nguyên thiên nhiên quốc gia. Phần lớn trong thời kì này, vua Gia Long đã cho huy động toàn bộ lực lượng vận động từ quần chúng nhân dân để xây đắp nên một nơi vô cùng kiên cố này. Được biết trước khi xây dựng thành này thì đã từng có một thành cũ xây dựng từ đời triều chúa Nguyễn cai quản, bởi vì đã lâu đời lại có diện tích nhỏ hẹp ít quy mô nên vua Gia Long đã bàn bạc nhằm mở rộng thành theo lối kiến trúc độc đáo.
Điểm đặc biệt trong vị trí đia lý của kinh thành được tính toán rất kĩ lưỡng bởi nó ảnh hưởng đến cả một vận mệnh quốc gia. Vua không cho xây thành ở nơi cách xa Phú Xuân, nơi mà các chúa Nguyễn đã từng dựng phủ ở đây vào năm 1687. Bởi đây là nơi mang vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng, nơi mà nằm cách xa biển có thể tránh các cuộc cướp bóc từ cướp biển vào, xung quanh bao bọc bởi núi rừng phù hợp để tác chiến, nơi ẩn nấp khi có biến cố xảy ra. Cảng sông là nơi giao thương buôn bán lại không chịu sự ảnh hưởng tác động nhiều của quân sự chính trị.
Theo sơ đồ toàn kinh thành Huế, mặt chính của kinh thành thiết kế quay về hướng truyền thống từ xưa là hướng Nam và trục chính của cung vua nằm tại vị trí thuận lợi nhất trong bản đồ. Hướng của hai hòn đảo ở phía thượng nguồn và hạ nguồn của Sông Hương hay còn gọi là “tả thanh long hữu bạch hổ” nhằm tạo vị trí thuận lợi cho vua khi ngồi trên ngai vàng có thể nhìn về hướng Nam.
Kinh Thành Huế lấy hướng Tây Bắc- Đông Nam của núi Ngự Bình làm nơi tọa lạc của vua với độ cao núi 104 mét, nằm cách sông Hương về hướng Nam là khoảng 3 cây số, tạo ra một vòng vây bao quanh kiên cố, an toàn, như là bức bình phong chống lại mọi kẻ thù mưu đồ từ bên ngoài. Cố đô Huế cách trung tâm thành phố Đà Nẵng 100 km về phía Bắc, đây từng là nơi đóng đô kinh thành của triều đại nhà nguyễn, triểu đại đã mang đến vẻ vang của dân tộc, là triều đại khai sinh ra nước Đại việt trải dài trên mảnh đất hình chữ S này.
Kinh thành Huế với thiết kế đa dạng pha trộn kết hợp giữa kiến trúc Phương Tây và thành quách phương Đông. Kinh thành có cấu trúc gồm 10 cửa chính: cửa chính Bắc nằm ở mặt sau kinh thành, cửa Tây Bắc, cửa Chính Tây, cửa Tây Nam nằm phía bên phải kinh thành, cửa Chính Nam, cửa Quảng Đức, cửa Thể Nhơn, cửa Đông Nam, cửa chính Đông và cửa Đông Bắc. Ngoài các cửa chính trên, kinh thành có có một cửa đặc biệt thiết kế thông với thành Mang Cá, là một thành phụ tọa lạc ở phía Đông Bắc của kinh thành, nó có tên gọi khác là Trấn Bình Môn hay Trấn Bình Đài.
Tính ra đã có 11 cửa thuộc đường bộ, còn về đường thủy thì kinh thành cũng có hai cửa đặt tên là Tây Thành Thủy Quan (hay gọi là cống Thủy Quan) nơi xây dựng cửa vô cùng thuận thiện là nơi giao nối liền giữa sông Ngự Hà và sông đào kẻ Vạn ở Kim Long, cửa đường thủy thứ 2 được biết đến với tên gọi là Đông Thành Thủy Quan (hay còn gọi với cái tên mỹ miều là Cống Lương Y) cũng nằm tại nơi thông nhau giữa 2 con sông lớn là Ngự Hà và sông đào Đông Ba.
Nằm ngay chính giữa mặt nam của kinh thành Huế trong khu vực pháo đài Nam Chánh là nơi dựng cột cờ của Cố Đô Huế, nó còn có tên gọi khác là Kỳ Đài. Kỳ đài có cấu tạo đơn giản chỉ gồm 2 bộ phận là đài cờ và cột cờ, đài cờ là sự cấu thành của ba tầng hình chop cụt chữ nhật xếp chồng lên nhau, cột cờ được xây dựng bằng chất liệu gỗ gồm hai tầng cấu thành.
Phía bên trong kinh thành sẽ là nơi làm việc của vua chúa thời xưa, là khu vực quan trọng nhất của hoàng gia. Hoàng Thành là vòng thành thứ 2 nằm bao quanh ở phía trong kinh thành Huế, nơi đây được biết ngoài việc bàn chính sự làm việc của vua và đại thần còn là nơi thờ phụng tồ tiên của triều đại nhà Nguyễn. Tiếp đến vòng thành nằm phía trong cùng nhất được Hoàng Thành bao quanh đó là Tử Cấm Thành. Nghe tên mọi người cũng biết đây là nơi vô cùng tuyệt mật, bất khả xâm phạm nhất của kinh thành Huế.
Cấu trúc là một hình chữ nhật, ngay phía trước hướng Nam sẽ là Đại Cung Môn, mặt hướng Bắc sẽ là nơi tọa lạc của 2 cửa lớn là Nghi Phụng và Tường Loan, còn mặt đông cũng tiếp giáp hai cửa Đông An và Hưng Khánh, mặt tây là Tây An và Gia Tường. Bốn bề bao vây bởi các cửa to lớn, kiên cố, Tử Cấm Thành từ lâu được biết đến là một trong số những công trình kiến trúc được vua Gia Long chú trọng nhất trong quá trình xây dựng và thiết kế.
Kinh Thành Huế thuộc một trong số những quần thể di tích cấp quốc gia của Cố Đô Huế đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Dù đã trải qua bao năm tháng, nhưng kinh thành Huế vẫn mãi trường tồn với thời gian, luôn sừng sững giữa đất trời, xứng đáng là công trình kiến trúc quy mô, đặc sắc, độc đáo và bền lâu nhất của dân tộc Việt Nam.
Chúng ta vừa tìm hiểu xong về một công trình kiến trúc nổi tiếng góp phần làm nên tên tuổi của thành phố Huế mộng mơ thông qua bài thuyết minh về Kinh Thành Huế ở trên. Có thể thấy, Huế là một nơi có rất nhiều địa danh hay di tích lịch sử nổi tiếng, cũng là địa điểm thu hút được rất nhiều du khách tới mảnh đất này.
Đọc nhiều hơn dành cho bạn ☀️ Thuyết Minh Về Di Tích Lịch Sử ☀️ 17 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Thuyết Minh Về Danh Lam Thắng Cảnh Đại Nội Huế – Mẫu 2
Để viết bài thuyết minh về danh lam thắng cảnh đại nội Huế, các em học sinh cần mở rộng những kiến thức và hiểu biết của mình về di tích này, tham khảo bài văn mẫu dưới đây:
Hoàng thành Huế hay còn được gọi là Đại Nội, là vòng thành thứ hai bên trong Kinh thành Huế, có chức năng bảo vệ các cung điện quan trọng nhất của triều đình, các miếu thờ tổ tiên nhà Nguyễn và bảo vệ Tử Cấm thành – nơi dành riêng cho vua và hoàng gia. Người ta thường gọi chung Hoàng thành và Tử Cấm thành là Đại Nội.
Hoàng thành được xây dựng năm 1804, nhưng mãi đến năm 1833 đời vua Minh Mạng mới hoàn chỉnh toàn bộ hệ thống cung điện với khoảng 147 công trình. Hoàng thành có mặt bằng gần vuông, mỗi bề khoảng 600 mét, xây bằng gạch, cao 4m, dày 1m, xung quanh có hào bảo vệ, có 4 cửa để ra vào: Cửa chính (phía Nam) là Ngọ Môn, phía Đông có cửa Hiển Nhơn, phía Tây có cửa Chương Đức, phía Bắc có cửa Hòa Bình. Các cầu và hồ được đào chung quanh phía ngoài thành đều có tên Kim Thủy.
Hoàng thành và toàn bộ hệ thống cung điện bên trong được bố trí trên một trục đối xứng, trong đó trục chính giữa được bố trí các công trình chỉ dành cho vua. Các công trình ở hai bên được phân bố chặt chẽ theo từng khu vực, tuân thủ nguyên tắc (tính từ trong ra): “tả nam hữu nữ”, “tả văn hữu võ”. Ngay cả trong các miếu thờ cũng có sự sắp xếp theo thứ tự “tả chiêu hữu mục” (bên trái trước, bên phải sau, lần lượt theo thời gian).
Có rất nhiều công trình lớn nhỏ được xây dựng trong khu vực Hoàng thành nhưng tất cả đều được đặt giữa thiên nhiên với các hồ lớn nhỏ, vườn hoa, cầu đá, các hòn đảo và các loại cây lưu niên tỏa bóng mát quanh năm. Mặc dù quy mô của mỗi công trình có khác nhau, nhưng về tổng thể, các cung điện ở đây đều làm theo kiểu “trùng lương trùng thiềm” (hay còn gọi là “trùng thiềm điệp ốc” – kiểu nhà kép hai mái trên một nền), đặt trên nền đá cao, vỉa ốp đá Thanh, nền lát gạch Bát Tràng có tráng men xanh hoặc vàng, mái cũng được lợp bằng một loại ngói đặc biệt hình ống có tráng men thường gọi là ngói Thanh lưu ly (nếu có màu xanh) hoặc Hoàng lưu ly (nếu có màu vàng).
Các cột được sơn thếp theo mô típ long – vân (rồng-mây). Nội thất cung điện thường được trang trí theo cùng một phong cách nhất thi nhất họa (một bài thơ kèm một bức tranh) với rất nhiều thơ bằng chữ Hán và các mảng chạm khắc trên gỗ theo đề tài bát bửu, hay theo đề tài tứ thời).
Ngọ Môn là cổng chính phía nam của Hoàng thành Huế được xây dựng vào năm Minh Mạng 14. Ngọ Môn có nghĩa đen là Cổng xoay về hướng Ngọ, là cổng lớn nhất trong 4 cổng chính của Hoàng thành Huế. Về mặt từ nguyên, Ngọ Môn có nghĩa là chiếc cổng xoay mặt về hướng Ngọ, cũng là hướng Nam, theo Dịch học là hướng dành cho bậc vua Chúa.
Điện Thái Hòa là cung điện nằm trong khu vực Đại Nội của kinh thành Huế. Điện cùng với Sân Đại Triều Nghi (sân chầu) là địa điểm được dùng cho các buổi triều nghi quan trọng của triều đình như: lễ Đăng Quang, sinh nhật vua, những buổi đón tiếp sứ thần chính thức và các buổi đại triều được tổ chức 2 lần vào ngày mồng 1 và 15 âm lịch hàng tháng. Trong chế độ phong kiến cung điện này được coi là trung tâm của đất nước.
Bên trong Điện Thái Hòa. Ngai vàng của nhà vua đặt bên dưới bửu tán. Điện được xây dựng vào năm 1805 thời vua Gia Long. Năm 1833 khi vua Minh Mạng quy hoạch lại hệ thống kiến trúc cung đình ở Đại Nội, trong đó có việc cho dời điện về mé nam và làm lại đồ sộ và lộng lẫy hơn.
Tử Cấm thành thuộc quần thể di tích cố đô Huế là trung tâm sinh hoạt hằng ngày của vua và hoàng gia triều Nguyễn. Tử Cấm thành có vị trí sau lưng điện Thái Hòa, được khởi xây năm Gia Long thứ 3 gọi là Cung thành và các vua triều Nguyễn xây dựng thêm. Đến năm Minh Mạng thứ 3, nhà Vua đổi tên là Tử Cấm thành, nghĩa là “Tòa thành cấm màu tía”.
Theo nghĩa Hán tự, chữ Tử có nghĩa là màu tím, lấy ý theo thần thoại: Tử Vi Viên ở trên trời là nơi ở của Trời, Vua là con Trời nên nơi ở của Vua cũng gọi là Tử, Cấm Thành là khu thành cấm dân thường ra vào. Trong Tử Cấm thành có khoảng 50 công trình kiến trúc với quy mô lớn nhỏ khác nhau được phân chia làm nhiều khu vực, tổng số công trình đó biến động qua các thời kỳ lịch sử.
Đại Cung môn là cửa chính vào Tử Cấm Thành, có 5 gian (không chái) được làm năm 1833 thời Minh Mạng, gồm 3 cửa. Cửa ở gian chính giữa chỉ dành cho vua. Mặt sau hai bên có hai hành lang nối với Tả Vu, Hữu Vu. Công trình này và nhiều công trình khác trong Tử Cấm Thành đều bị phá hủy trong chiến tranh năm 1947 và 1968, hiện nay đang được Trung tâm Bảo Tồn Di Tích Huế cùng chuyên viên của Đại học Waseda nghiên cứu chuẩn bị cho phục dựng.
Cố Đô Huế là một biểu tượng văn hóa độc đáo không chỉ của Việt Nam mà còn là thế giới, đánh dấu mốc son quan trọng trong sự nghiệp mở rộng bờ cõi của nước nhà. Và mãi cho đến ngày hôm nay, Cố Đô Huế vẫn mãi trường kỳ theo thời gian, sánh vai với các kỳ quan trên thế giới, xứng đáng là biểu tượng tự hào của người dân Việt Nam trên khắp đất nước.
Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất
Bài Thuyết Minh Về Đại Nội Huế Hay Nhất – Mẫu 3
Bài thuyết minh về đại nội Huế hay nhất sẽ là một trong những tư liệu văn mẫu hay để bạn đọc và các em học sinh cùng tham khảo.
“Núi Ngự Bình trước tròn sau méo
Sông An Cựu nắng đục mưa trong
Kìa ai lắng đục tìm trong
Chứ em đây thuỷ chung như nhất, một lòng sơ giao”
Trở lại với xứ Huế mộng mơ, mang màu sắc cổ kính, trầm buồn với dòng Hương Giang lững lờ “vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân”, khiến người lữ khách dễ sinh nhiều xúc cảm bâng khuâng. Đặc biệt tại cố đô, những nét đặc sắc trong nghệ thuật kiến trúc Cung đình Huế, lại càng bộc lộ rõ nét nền văn hóa truyền thống Việt Nam, cùng với một triều đại trị vì kéo dài 143 năm với nhiều những suy vi biến đổi mạnh mẽ nhất trong cả lịch sử của dân tộc.
Bước chân vào cố cung, là bước chân vào một nơi lắm vẻ vang một thời của những ông hoàng bà chúa, đồng thời cũng là nơi chứng kiến sự suy tàn, héo úa của chế độ quân chủ phong kiến, khiến nhiều người không khỏi chạnh lòng, xót xa, dẫu rằng đó đã là điều tất yếu trong dòng chảy lịch sử của dân tộc.
Kinh thành Huế còn có tên gọi khác là Thuận Hóa kinh thành, ngày nay người ta vẫn thường gọi là Đại Nội Huế, hoặc cố cung Huế. Đây là nơi đóng đô của nhà Nguyễn trong suốt 143 năm bắt đầu từ năm 1802 đến năm 1945, khi vua Bảo Đại chính thức thoái vị. Hiện tọa lạc tại trung tâm thành phố Huế, mặt phía Nam là đường Trần Hưng Đạo và đường Lê Duẩn; hướng tây giáp với đường Lê Duẩn; mặt phía bắc giáp với đường Tăng Bạt Hổ;còn mặt phía đông giáp đường Phan Đăng Lưu. Với vị trí đắc địa khi nằm gọn bên bờ Bắc của sông Hương, phần tiền án là núi Ngự Bình cao gần 100m, đỉnh tròn dáng đẹp, che chắn trước mặt Kinh thành Huế, như một bức bình phong tự nhiên.
Hai bên là cồn Cồn Hến và Cồn Dã Viên, tượng trưng cho Thanh Long, Bạch Hổ hộ pháp làm thành thế rồng chầu hổ phục, thể hiện sự thần phục, vẻ uy nghiêm tối cao của vương quyền nhà Nguyễn. Thêm vào đó kinh thành nằm bên cạnh dòng sông Hương với lịch sử ngàn đời, càng tăng thêm phần sinh khí mà theo quan niệm phong thủy thì khúc sông ấy được gọi là minh đường thủy tụ.
Có thể nói rằng, mảnh đất nơi Kinh thành Huế tọa lạc mang đầy đủ những vẻ đẹp địa thế tuyệt vời và thuận lợi, phong cảnh sơn thủy hòa hợp hữu tình, gần núi, cạnh sông, giữa cồn, quy tụ long mạch và sinh khí 4 phương, nếu so với Hoàng thành Thăng Long thì cũng không kém là bao. Kinh thành Huế được vua Gia Long (tức Nguyễn Ánh) bắt đầu cho khảo sát và xây dựng vào năm 1803, ngay khi triều Nguyễn được thành lập một năm, và chính thức hoàn thành vào năm 1832, dưới triều vua Minh Mạng.
Kinh thành Huế được xây dựng theo kiến trúc Vauban, với đặc trưng là lối kiến trúc thành lũy, nhiều vòng thành để phục vụ cho việc phòng thủ mang tính toàn diện, gồm tường thành, vũ khí, hệ thống kênh rạch, hầm hào được lồng ghép vào nhau, đảm bảo sự an toàn tuyệt đối cho phần Đại Nội bên trong. Nằm trên bờ Bắc của sông Hương với tổng diện tích khoảng 520ha, mặt kinh thành xoay về hướng Nam, hướng được xem là tốt nhất trong các hướng khi xây dựng công trình kiến trúc, lại càng phù hợp khi đây là nơi ở của vua chúa, bởi theo quan niệm của Kinh Dịch rằng: “Thánh nhân nam diện nhi thính thiên hạ”, ý chỉ người quân chủ nhìn về hướng Nam để cai trị thiên hạ.
Vòng thành ngoài cùng có chu vi xấp xỉ 10km, cao 6,6m, dày 21m, được xây kiểu gấp khúc, kết hợp với các pháo đài cách đều nhau, thời kỳ đầu được đắp hoàn toàn bằng đất, xong đến đời vua Gia Long thì được nâng cấp xây lại bằng gạch. Ngoài ra để tăng thêm tính phòng hộ, bên ngoài vòng thành còn được bao quanh bởi một hệ thống kênh rạch dài 7km.
Với lối xây dựng này, vòng thành đã trở thành lớp áo giáp vô cùng kiên cố và vững chắc bao bọc lấy Hoàng Thành và Tử Cấm Thành ở bên trong. Thành gồm có mười cửa chính thông về các hướng khác nhau, phục vụ cho việc giao thông và để đề phòng những lúc có biến việc tháo chạy được dễ dàng. Ở mặt trước của thành, hay cửa chính hướng Nam có một cột cờ lớn, còn gọi là Kỳ Đài đối diện với Ngọ Môn quan, cửa chính vào Hoàng thành.
Bên trong vòng thành là khu vực dân cư, nhà ở của các quan lại đại thần và quan trọng nhất thể hiện được nét đặc sắc của kiến trúc cố cung ấy là Hoàng thành, bao gồm có 4 cửa nằm ở bốn hướng là Hiển Nhơn, Chương Đức, Hòa Bình và Ngọ Môn quan là cửa chính. Tổng thể Hoàng Thành và Tử Cấm thành vẫn được gọi chung là khu vực Đại Nội, được xây dựng trên một khu đất gần vuông, chu vi khoảng 2400m, tường thành cao 4m, dày 1m, xây hoàn toàn bằng gạch.
Bên trong có Điện Thái Hòa là nơi vua thiết triều cùng các đại thần, các khu vực miếu thờ của hoàng gia như Thế Miếu, Triệu Tổ Miếu, Hoàng Khảo Miếu, điện Hoàng Nhân, và quan trọng nhất là Tử Cấm Thành, nơi ăn chốn ở của hoàng thất bao gồm: điện Cần Chánh, cung Trường Thọ, cung Khôn Thái, điện Thái Hòa, viện Thái Y, điện Quang Minh, Điện Trinh Minh, Điện Trung Hòa. Ngoài ra còn có các di tích đáng chú ý như: Quốc Tử Giám, Điện Long An, Đình Phú Xuân, Hồ Tịnh Tâm, Tàng Thư Lâu, Viện Cơ Mật – Tam Tòa, Đàn Xã Tắc và Cửu Vị Thần Công (9 khẩu thần công được đúc dưới thời vua Gia Long, kỷ niệm chiến thắng nhà Tây Sơn của Nguyễn Ánh).
Tuy nhiên sau hai cuộc chiến tranh ác liệt hầu như các di tích này đều bị phá hủy hoàn toàn, hiện nay chỉ còn spts lại một số ít, và đang được nhà nước cố gắng khôi phục, trùng tu.
Bên cạnh những công trình phục vụ sinh hoạt của hoàng thất thì trong Đại Nội còn đáng chú ý với những lăng tẩm nằm rải rác trong khắp hoàng thành tại những vị trí phong thủy hữu tình, thơ mộng, với lối kiến trúc đậm nét phương Đông: sơn triều thủy tụ, tiền án hậu chẩm, tả long hữu hổ,… To lớn, khang trang nhất là Lăng Tự Đức, độc đáo, với vẻ đẹp lai tạp Đông Tây là lăng Khải Định. Tất cả đều là những cảnh điểm đáng để tham quan và chiêm ngưỡng, thể hiện sự vẻ vang, rực rỡ của một hoàng triều tồn tại suốt 143 năm cho đến ngày suy tàn.
Đại Nội kinh thành Huế là một trong những di tích lịch sử quan trọng, biểu trưng cho chế độ quân chủ chuyên chế của nước ta, đồng thời cũng là nơi đánh dấu sự kết thúc của chế độ phong kiến đã kéo dài hàng ngàn năm trên đất Việt. Mà nếu có một lần được ghé thăm cố đô Huế thì chớ nên bỏ qua quần thể di tích đặc sắc bậc nhất Việt Nam này..
Gợi ý cho bạn 🌻 Thuyết Minh Về Cố Đô Huế 🌻 15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Văn Mẫu Thuyết Minh Về Đại Nội Huế Ngắn Gọn – Mẫu 4
Văn mẫu thuyết minh về đại nội Huế ngắn gọn sẽ giúp các em học sinh dễ dàng và nhanh chóng ôn tập cho bài kiểm tra viết trên lớp.
Hoàng Thành nằm bên trong Kinh Thành, có chức năng bảo vệ các cung điện quan trọng nhất của triều đình, các miếu thờ tổ tiên nhà Nguyễn và bảo vệ Tử Cấm Thành – nơi dành riêng cho vua và hoàng gia Hoàng Thành và Tử Cấm Thành thường được gọi chung là Đại Nội. Các di tích trong Hoàng Thành gồm: Ngọ Môn, Điện Thái Hoà và sân Đại Triều Nghi, Triệu Tổ Miếu, Hưng Tổ Miếu, Thế Tổ Miếu, Thái Tổ Miếu, Cung Diên Thọ, Cung Trường Sanh, Hiển Lâm Các, Cửu Đỉnh, Điện Phụng Tiên. Hoàng Thành giới hạn bởi một vòng tường thành gần vuông với mỗi chiều xấp xỉ 600m với 4 cổng ra vào độc đáo nhất thường được lấy làm biểu tượng của Cố đô: Ngọ Môn, chính là khu vực hành chính tối cao của triều đình Nguyễn.
Bên trong Hoàng Thành, hơi dịch về phía sau, là Tử Cấm Thành. Từ Cấm Thành là vòng tường thành thứ ba của Kinh đô Huế giới hạn khu vực làm ăn ở và sinh hoạt của vua và hoàng gia. Các di tích trong Tử Cấm Thành gồm: Tả Vu và Hữu Vu, Vạc đổng, Điện Kiến Trung, Điện Cần Chánh, Thái Bình Lâu, Duyệt Thị Đường.
Xuyên suốt cả ba tòa thành, con đường Thần đạo chạy từ bờ sông Hương mang trên mình những công trình kiến trúc quan yếu nhất của Kinh thành Huế: Nghinh Lương Đình, Phu Văn Lâu, Kỳ Đài, Ngọ Môn, điện Thái Hòa, Điện Cẩn Chánh, điện Càn Thành, cung Khôn Thái, lầu Kiến Trung… Hai bên đường Thần đạo này là hàng trăm công trình kiến trúc lớn nhỏ bố trí cân đối đều đặn, đan xen cây cỏ, chập chờn khi ẩn khi hiện giữa những sắc màu thiên nhiên, luôn tạo cho con người một cảm giác nhẹ nhàng thanh thản.
Những công trình kiến trúc của kinh thành Huế được đặt trong một khung cảnh thiên nhiên kỳ thú với nhiều yếu tố biểu tượng sẵn có tự nhiên đến mức người ta mặc nhiên xem đó là những bộ phận của Kinh thành Huế – đó là núi Ngự Bình dòng Hương Giang, cồn Giã Viên, cồn Bộc Thanh… Nhìn từ phía ngược lại những công trình kiến trúc ở đây như hoà lẫn vào thiên nhiên tạo nên những tiết tấu kỳ diệu khiến người ta quên mất bàn tay con người đã tác động lên nó.
Ngày nay, Huế trở thành một thành phố Festival đặc trưng của Việt Nam. Cứ hai năm một lần, nhân dân thành phố Huế lại đón chào ngày lễ hội trọng đại này trong niềm háo hức. Với một di sản văn hoá vật thể và tinh thần mang ý nghĩa quốc hồn quốc túy của dân tộc, Huế là một hiện tượng văn hoá độc đáo của Việt Nam và thế giới. Huế sẽ mãi mãi được giữ gìn – cho Việt Nam và cho thế giới, mãi mãi là niềm tự hào của chúng ta. Huế hấp dẫn và chiếm được tình cảm của nhiều người, trong nước cũng như quốc tế.
Mời bạn xem nhiều hơn 🌟 Thuyết Minh Về Sông Hương 🌟 15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Bài Văn Thuyết Minh Đại Nội Huế Đạt Điểm Cao – Mẫu 5
Với bài văn thuyết minh đại nội Huế đạt điểm cao, các em học sinh sẽ nắm vững phương pháp làm bài cũng như hoàn thành tốt bài văn của mình.
Trong hành trình du ngoạn từ Bắc đến Nam sẽ có rất nhiều địa điểm tham quan, du lịch nổi tiếng như chùa Một Cột, Vịnh Hạ Long, Thánh Địa Mỹ Sơn hay chùa Linh Ứng ở trên ngọn núi cao với tượng Phật Bà Quan Âm cao nhất đất nước trú ngụ tại bán đảo Sơn Trà của tỉnh Đà Nẵng,…
Nhưng đi đâu về đâu, dấu chân đầu tiên xuất phát cho cuộc hành trình vẫn là Huế – nơi vẫn còn tồn tại nhiều công trình kiến trúc đến những nét văn hóa riêng của dân tộc Việt Nam thời xưa – đã thu hút biết bao nhiêu thế hệ đến tham quan và chiêm ngưỡng. Trong số đó ta không thể nào không kể đến Đại Nội Huế – một trong những cụm quần thể di tích của Cố Đô Huế đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa Thế giới.
Lịch sử dân tộc trải qua hàng ngàn năm đô hộ, từ những năm kháng chiến chống thực dân Pháp đến những năm trường kì chống Đế Quốc Mỹ, từ thời kỳ Hùng Vương đến chế độ cai trị của những vị vua chúa nhà Nguyễn cuối cùng của thế hệ để tạo nên đất nước Việt Nam Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam như ngày hôm nay, chúng ta đã phải vất vả và cực nhọc biết bao nhiêu.
Giờ đây những tháng năm thăng trầm đó đã không còn, con cháu của ngày hôm nay lại càng thấy thêm tự hào không chỉ về những chiến tích chống giặc ngoại xâm của ông bà ta mà còn là những giá trị tinh thần, giá trị vật chất dù mưa bom, bão đạn có hủy diệt, dù sức mạnh của thời gian có tàn phá thì vẫn còn tồn tại và duy trì đến mai sau.
Một trong những di sản vĩ đại ấy là Đại Nội Huế của quần thể di tích Cố Đô Huế được xây dựng vào năm 1805 dưới thời nhà Nguyễn. Theo sử xưa, sau hơn 400 năm là trung tâm văn hóa chính trị của nhà nước phong kiến Việt Nam, kinh đô Huế thất thủ rơi vào tay thực dân Pháp năm 1885, buộc vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương. Từ đó, ở Huế xảy ra các cuộc chiến tranh dữ dội và cũng là tiền đề để đào tạo và nuôi dưỡng những nhà lãnh đạo tài ba trẻ tuổi như Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, hai cụ Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh…
Sau thời gian chiến đấu gan dạ và vất vả, vua Gia Long đã đánh bại quân Tây Sơn, dành lại Phú Xuân, thống nhất vương triều và chính thức lên ngôi Hoàng đế. Gia Long là vị vua đầu tiên của triều đình nhà Nguyễn. Đối với việc tái lập lại cơ đồ, xây dựng Quốc gia thì việc xây dựng cho mình một kinh thành vững chắc, kiên cố để bảo vệ hoàng tộc và ngai vàng là một điều tất yếu đối với các vị vua chúa và vua Gia Long đã chính thức bắt đầu cho xây dựng Kinh thành Huế vào năm 1805 nhưng mãi đến năm 1833 ( dưới thời vua Minh Mạng ) Kinh thành mới được hoàn thành.
Theo nguyên tắc kiến trúc dựa vào Dịch học, phong thủy học, vũ trụ quan phương Đông, vua Gia Long cho xây dựng Cố Đô Huế là Kinh thành Huế theo hướng Nam. “Thánh nhân nam diện nhi thính thiên hạ”- vua quay mặt về hướng Nam để cai trị thiên hạ. Theo các kỹ sư ở thế kỷ XIX, hướng Nam là một hướng tốt như ông bà ta thường hay nói ” Lấy vợ hiền hòa xây nhà hướng Nam” – theo phong thủy để cai trị thiên hạ trong sự bình an, không có chiến tranh, đoạt quyền đoạt vị.
Nhắc đến Kinh thành Huế, ta lại nghĩ ngay đến bốn yếu tố góp phần quan trọng trong việc bảo vệ kinh thành: núi Ngự Bình (che chắn kinh thành tránh những luồng khí độc), dòng sông Hương thơ mộng, Cồn Hến (làm Tả Thanh Long) và Cồn Dã Viên (làm Hữu Bạch Hổ) trên sông Hương theo thế rồng chầu hổ phục. Được xây dựng với diện tích khoảng 520 ha, chu vi 10km, cao 6,6m và dày 21m, Kinh thành Huế xây dựng được chia làm 3 vòng thành: Kinh thành, Hoàng thành và Tử Cấm Thành (tính từ ngoài vào trong).
Đại Nội Huế trước đây là trung tâm chính trị, hành chính của hoàng gia và cũng là nơi ăn ở của nhà vua. Hoàng thành là vòng thành thứ hai của Kinh thành Huế với hơn 147 công trình với diện tích chừng 38 ha. Hoàng thành được xây bằng gạch cao khoảng 4m và dày hơn 1m. Bên ngoài được bao bọc bởi hệ thống hồ Kim Thủy.
Bên trong Hoàng thành bao gồm các khu vực trọng yếu: Khu vực phòng vệ, khu vực cử hành đại lễ, khu vực dành để thờ cúng, nơi dành cho Hoàng thái hậu (mẹ của vua), nơi để các hoàng tử, công chúa học tập, thư giãn, Phủ Nội Vụ,…được xây dựng theo một nguyên tắc chặt chẽ, nghiêm minh “Tả nam hữu nữ”, “Tả võ hữu vô”, “Tả chiêu hữu mục”. Hoàng thành được xây dựng với bốn cửa chính: cửa Hiển Nhơn (nằm ở phía Đông, dành cho nam giới và quan lại ra vào), cửa Chương Đức ( nằm ở phía Tây, dành cho Hoàng Quý Phi và các tỳ nữ), cửa Hòa Bình (ở phía Bắc) và cửa Ngọ Môn (ở phía Nam).
Trong bốn cửa ra vào của Hoàng thành thì cửa Ngọ Môn là cửa chính dành cho vua và đoàn tùy tùng hầu hạ theo sau ra vào. Vốn dĩ trước đây, Nam Khuyết Đài là nơi dành cho vua nhưng dưới thời của vua Minh Mạng năm 1833 đã cho xây dựng lại và đổi tên là Ngọ Môn. Ngọ là giờ Ngọ (tính theo giờ hồi xưa) là lúc mặt trời lên cao nhất ( ví như vua). Ngọ Môn là chỉ hướng Nam – hướng tốt lành, tràn đầy sinh khí và thuận lợi, thiên hạ thái bình. Cửa Ngọ Môn đươc xây dựng với kiến trúc khá phức tạp bao gồm phần nền đài phía dưới và phần lầu bên trên.
Phần nền đài phía dưới được xây theo dạng hình chữ U bằng đá và gạch, cạnh đáy khoảng 56m, cao chừng 5m. Hình chữ U dài tới 27m có tổng cộng ba cửa ra vào. Cửa chính giữa đặt tên là Ngọ Môn dành cho vua ra vào và hai cửa hai bên là Tả Giáp Môn và Hữu Giáp Môn dành cho quan văn quan võ theo hầu. Phần lầu phía trên hay còn gọi là lầu Ngũ Phụng là một trong những công trình có kiến trúc đẹp nhất trong Hoàng thành. Dựa theo kiến trúc của cửa Ngọ Môn, lầu Ngũ Phụng được xây dựng theo hình chữ U gồm hai tầng lầu và hai tầng mái.
Được xây dựng trên độ cao 1,14m, lầu Ngũ Phụng có khung lầu được dựng trên 100 cây gỗ lim như tượng trưng cho bách tính người dân trong thiên hạ. Tại đây, cửa Ngọ Môn được xem là bộ mặt của Quốc gia và là nơi diễn ra các lễ hội như: lễ Truyền Lô, lễ Ban Sóc (nhà vua phát lịch hàng năm cho năm mới), lễ Tiếp xứ thần các nước (trong đó có Trung Quốc), lễ Duyệt Binh…
Dưới sự cai trị hơn 143 năm của vương triều nhà Nguyễn, cửa Ngọ Môn như là nhân chứng chứng kiến những năm tháng thăng trầm của đất nước và cũng chính nơi đây, ngày 30 tháng 8 năm 1945 vua Bảo Đại đã thoái vị, trao chính quyền lại cho chính phủ lâm thời Việt Nam. Tại đây, ông đã từng nói:
“Trẫm thà làm dân cho một nước tự do còn hơn làm vua cho một nước nô lệ”
Phía sau Ngọ Môn là cầu Trung Đạo, qua sân Đại Triều là đến Điện Thái Hòa. Điện Thái Hòa là nơi thiết triều và tổ chức các cuộc đại lễ dựng trên nền hình chữ nhật cao hơn mặt đất phía ngoài sân khoảng hai mét rưỡi và được trang trí hình rồng vờn mây. Đến với Điện Thái Hòa , du khách sẽ được chiêm ngưỡng kiến trúc vô cùng độc đáo của nơi đây như tiền điện nằm ở phía trước cao hơn 10m, gồm 7 gian chính; bờ mái và bờ nóc được trang trí bằng hình rồng; chính giữa nóc điện gắn hình trang trí hình bầu rượu bằng pháp lam; đồ nội thất trong điện được trang trí theo lối nhất thi-nhất họa…
Điện Thái Hòa tuy đã nhiều lần được trùng tu những tới ngày hôm nay nó vẫn giữ được vẻ đẹp nguyên đầu của vương triều nhà Nguyễn. Trong Hoàng thành, ở phía sau Điện Thái Hòa là Tử Cấm Thành.
Tử Cấm Thành là khu vực quan trọng nhất được xây theo dạng hình vuông, mỗi cạnh khoảng 300m, vòng thành cao chừng 3,5m. Bên trong Tử Cấm Thành được cho xây dựng hơn 50 công trình kiến trúc khác nhau như Điện Cần Chánh, Điện Càn Thánh ( nơi vua ở), cung Khôn Thái, Thượng Thiện Đường (nơi phục vụ ăn uống), Duyệt Thị Đường (nhà hát hoàng cung), nơi dành cho vua đọc sách,….
Đến với Đại Nội Huế, du khách còn có thể đi qua tham quan lăng của chín trong 13 vị vua chúa của triều Nguyễn, trong đó có lăng của vua Gia Long ( vị vua triều Nguyễn đầu tiên). Là một cụm di tích quần thể của Cố Đô Huế, Đại Nội Huế vẫn giữ được khá nguyên vẹn những công trình kiến trúc thời xưa của vị vua chúa nhà Nguyễn. Là một trong những di sản chứa đựng nhiều giá trị tượng trưng cho trí tuệ và tâm hồn của thời phong kiến, Cố Đô Huế đến ngày nay đã được Trung tâm bảo tồn di tích Cố Đô Huế trùng tu, khôi phục được 132 công trình, hạng mục.
Đặc biệt, khi đến nơi đây, du khách không chỉ tận mắt chứng kiến thành quả trí tuệ của đời nhà Nguyễn mà còn được hòa nhập, tham gia các lễ hội đặc trưng, tái hiện các nghi thức của cung đình như Đêm hoàng cung, lễ đổi gác ( bắt đầu từ 9h-9h30), biểu diễn Nhã nhạc cung đình Huế,…rất sôi nổi và vô cùng độc đáo như khiến cho bạn quay trở về với thời kỳ nhà Nguyễn với bức tranh lễ hội hoàng cung rực rỡ, sáng lung linh khiến người phải thích thú và cũng không kém phần ấm cúng giữa chốn đông người tham gia.
Là cụm quần thể di tích Cố Đô Huế được công nhận là di sản văn hóa Thế giới từ năm 1993 đã thu hút hàng nghìn khắp du lịch đến tham quan và chiêm ngưỡng. Mỗi khi đi đâu về đâu, chỉ cần nhắc đến Huế, ta lại nhớ đến Cố Đô Huế – tiêu biểu hơn là Đại Nội Huế – một công trình kiến trúc vô cùng độc đáo và tuyệt vời.
Những vẻ đẹp văn hóa, những công trình kiến trúc cổ xưa, những nghi thức cung đình,.. tất cả đều được lưu giữ tại nơi đây.
Chia sẻ cơ hội 🌟 Nạp Thẻ Ngay Miễn Phí 🌟 Tặng Card Nạp Tiền Ngay Free Mới
Bài Thuyết Minh Về Đại Nội Kinh Thành Huế Đặc Sắc – Mẫu 6
Dưới đây là bài thuyết minh về đại nội kinh thành Huế đặc sắc giúp các em học sinh trau dồi cho mình những ý văn hay.
Đại Nội Huế nằm ở bên bờ dòng sông Hương thơ mộng trữ tình, nơi đây chính là một trong số các di tích thuộc cụm Quần thể di tích Cố đô Huế từ thời nhà Nguyễn. Khu Đại Nội Huế được xây dựng từ đầu thế kỷ 19 đến nửa đầu thế kỷ 20, là một trong số các di tích thuộc cụm Quần thể di tích Cố đô Huế được công nhận là Di sản Văn hoá Thế giới UNESCO từ năm 1993. Toàn cảnh Đại Nội Huế còn lưu giữ nhiều dấu ấn đặc sắc của phong kiến triều đình nhà Nguyễn hàng trăm năm.
Đại Nội Huế chính là nơi sinh hoạt và diễn ra các hoạt động của vua chúa Nguyễn cùng triều đình phong kiến cuối cùng của nước ta. Đại Nội Huế có thể xem là một công trình có quy mô đồ sộ nhất trong lịch sử Việt Nam từ trước đến nay. Đại Nội Huế có quá trình xây dựng kéo dài trong nhiều năm với hàng vạn người thi công cùng hàng loạt các công việc như lấp sông, đào hào, đắp thành, bên cạnh đó là khối lượng đất đá khổng lồ lên đến hàng triệu mét khối. Khu quần thể di tích Đại Nội Huế có hàng trăm công trình với sự dày công xây dựng của nhân dân ta, với vẻ đẹp tráng lệ và kiến trúc cung điện đặc sắc đến cuốn hút lòng người về với xứ Huế.
Năm 1803 thời kỳ vua Gia Long lên ngôi, ông nhận thấy vùng đất Huế là chốn thanh bình phong cảnh lại thơ mộng chữ tình bên dòng sông Hương. Từ đó, vua Gia Long đã nảy ra ý định chọn vùng đất này là vùng đất làm cố đô của triều đình nhà Nguyễn. Sau 30 năm khởi công xây dựng với bao nhiêu công sức, tổng thể công trình kinh đô mới chính thức được hoàn thành trọn vẹn, Đại Nội Huế mang vẻ đẹp hữu tình, hòa hợp với vẻ đẹp của thiên nhiên.
Đại Nội Huế có hai khu vực chính là Hoàng Thành và Tử Cấm thành, mỗi khu vực lại bao gồm nhiều công trình khác nhau. Khu Hoàng Thành gồm có Cổng Ngọ Môn, Điện Thái Hòa. Tử Cấm Thành là khu vực dành riêng cho vua và hoàng tộc, gồm Đại Cung Môn, Tả Vu và Hữu Vu , Điện Cần Chánh, Thái Bình Lâu, Cung Diên Thọ…
Kiến trúc Đại Nội Huế trở thành một trong những điểm thu hút du khách khi đến tham quan cùng đất Cố đô Huế. Cổng Ngọ Môn hay cửa Ngọ Môn là công trình được xây dựng đồ sộ, hoành tráng với các đường nét hoa văn hết sức kỳ công, tinh xảo và vững chắc. Ngọ Môn không chỉ đơn giản là cổng ra vào mà còn là bộ mặt đại diện cho Đại Nội Cung Đình Huế nên được thiết kế gồm nhiều lớp với hệ thống hào nước xung quanh.
Cổng Ngọ Môn của Hoàng Thành Huế nhìn về phía Nam kinh thành, từ vị trí Ngọ Môn trông xa ra chúng ta có thể ngắm nhìn dòng sông Hương. Cổng Ngọ Môn của khu vực Hoàng thành sẽ có 5 cửa đặt nơi đây, trong đó cửa chính ở giữa từng dành cho vua đi, hai cổng bên dành cho quan văn và quan võ. Còn lại, khu vực hai cổng bên quanh là dành cho binh lính cùng voi ngựa theo hầu vua để bảo vệ cũng như hầu hạ vua.
Trải qua gần 2 thế kỷ và chứng kiến bao mốc sự kiện lịch sử được ghi vào sổ sách của dân tộc của đất nước. Cổng Ngọ Môn vẫn tồn tại theo thời gian và đã trở thành một kiệt tác kiến trúc cổ xuất sắc nơi đây còn là nhân chứng sống cho bao nhiêu dấu mốc quan trọng của lịch sử dân tộc.
Điện Thái Hòa là một biểu tượng về quyền lực của Hoàng triều nhà Nguyễn thời bấy giờ, nằm trong khu vực Hoàng thành của Đại Nội Huế. Điện Thái hòa là công trình quan trọng bậc nhất trong tổng thể Đại Nội Kinh Thành Huế, nơi đây cùng Sân Đại Triều Nghi từng là nơi diễn ra các buổi thiết triều của triều đình nhà Nguyễn mà đa số đây điều là những buổi thuyết triều quan trọng.
Điện Thái Hòa được coi là điểm nổi bật nhất mang nghệ thuật kiến trúc cung đình Huế, chất liệu sử dụng chính để xây điện là gỗ lim. Phần mái điện, cột và … được điêu khắc hình rồng uốn lượn đầy tinh tế, tỉ mỉ. Chính giữa điện là ngai vàng của vua được đặt ở vị trí trang nghiêm, nơi vua ngồi trong các buổi thiết triều.
Đại Cung Môn là cửa chính (hướng nam) vào Tử Cấm thành, gồm có 5 gian 3 cửa và được xây dựng vào thời vua Minh Mạng, năm 1833. Cửa ở gian chính giữa chỉ dành cho vua đi, mặt sau hai bên có hai hành lang nối với Tả Vu, Hữu Vu. Đại Cung Môn nhìn ra sân trước hướng ra Điện Thái Hòa, được xây dựng hoàn toàn bằng gỗ, phía trên lợp bằng ngói hoàng lưu ly. Công trình Đại Cung Môn đã bị phá hủy trong chiến tranh, hiện đang được Trung tâm bảo tồn Di tích Huế nghiên cứu để phục dựng lại.
Tả Vu và Hữu Vu là hai tòa nhà ngay đối diện điện Cần Chánh, xây dựng đầu thế kỷ 19. Tòa nhà Tả Vu được xây dựng cho các quan văn, Hữu Vu là nơi dành cho các quan võ trong triều. Hai tòa nhà này là nơi để chuẩn bị cho các nghi thức trước buổi thiết triều, nơi tổ chức các cuộc thi Đình hay yến tiệc. Hai tòa nhà này là số ít công trình còn sót lại sau chiến tranh, ngày nay Tả Vu được dùng để trưng bày hiện vật, Hữu Vu trở thành nơi dành cho du khách tham quan, chụp hình.
Huế – vùng đất cố đô mang đậm dấu ấn lịch sử của dân tộc. Trong đó, đặc biệt phải kể để Đại Nội Huế nơi còn ghi dấu ấn văn hóa, kiến trúc độc đáo nhất định không thể bỏ lỡ trong hành trình du lịch Huế.
Khám phá thêm 💕 Thuyết Minh Về Chùa Thiên Mụ 💕 15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Văn Thuyết Minh Về Kinh Thành Và Đại Nội Huế Chọn Lọc – Mẫu 7
Tham khảo bài văn thuyết minh về kinh thành và đại nội Huế chọn lọc giúp các em học sinh luyện tập cách diễn đạt sinh động, giàu hình ảnh.
Tháng 12 – 1993 quần thể di tích cố đô Huế được Unesco công nhận xếp vào danh mục di sản văn hóa thế giới. Huế là trung tâm văn hóa, nghệ thuật lớn của Việt Nam. Huế đẹp về thiên nhiên, thơ mộng về cảnh quan, con người anh hùng sáng tạo.
Huế nằm ở miền Trung của đất nước phía Bắc giáp Quảng Trị, phía Nam giáp Đà Nẵng, phía Đông giáp biển đông ( thuộc Thái Bình Dương), phía Tây dựa vào dãy Trường Sơn hùng vĩ. Huế cách Hà Nội 660km, cách thành phố Hồ Chí Minh 1080 km. Huế là từ Hóa trong Thuận Hóa được chệch ra. Đầu thế kỷ XIV Thuận Hóa là một khu dân cư trù phú Phúc Xuân là một làng quê thuộc Thuận Hóa được các chúa Nguyễn đặt làm thủ Phủ vào năm 1687. Nhưng phải hơn 100 năm sau vào 1789 Quang Trung đại phá quân Thanh thì Phú Xuân mới trở thành kinh đô của cả nước.
Kinh thành Huế là một hệ thống gồm ba vòng thành: Kinh thành, Hoàng Thành và Tử Cấm Thành. Kinh Thành là nơi dân chúng sinh sống. Hoàng Thành là nơi ở của quan lai. Tử Cấm Thành là nơi ở của Vua. Hoàng Thành và Tử Cấm Thành được gọi chung là Đại Nội. Trong Tử Cấm Thành có điện Cần Chánh là nơi vua làm việc hằng ngày có ngai vàng, có sân rồng để các quan dâng sớ có triện Ngọc tiếng chuông cho uy quyền.
Còn điện Càn Thành là nơi vua ở. Nơi đây có các cung tần mỹ nữ chỉ hoạn quan mới được tự do đi lại hầu hạ cai quản hậu cung. Kinh Thành Huế là một công trình kiến trúc độc đáo kết hợp nghệ thuật Đông Tây. Mang tên thành phố, thành lũy ngôi sao. Thành được xây theo kiểu văn bản hình ngôi sau chủ yếu của Châu Âu kết hợp với nguyên tắc kiến trúc trong kinh dịch và thuật phong thủy khi chọn đất định hướng và sử dụng các yếu tố tự nhiên.
Lăng minh mạng được xây dựng 1840 trước khi ông mất một năm. Lăng có nét quyến rũ của vùng đất thiên nhiên núi cẩm khê bên cạnh sông Hương cách kinh đô 12 km. Lăng Tự Đức được xây dựng cách kinh đô Huế 7 km trên núi Vạn Niên. Lăng được xây dựng 1864 hoàn thành 1867 lăng có Hồ nước, rừng cây. Có nơi cho vua ngồi câu cá, có nhà nghỉ dưỡng rất đẹp. Lăng Khải Định bức tranh trên tường vẽ bốn mùa trên nóc là tranh rồng trời. Trong căn phòng có bức tượng Khải Định bằng đồng đúng với khuôn mẫu ngoài đời có lọng che bằng đồng, hoa văn đường nét hết sức tinh xảo.
Sông Hương, nếu không có Sông Hương thì không có Thành Phố thơ và mộng, Sông Hương được hình thành từ các nguồn nước chảy trên dãy Trường Sơn đổ xuống. Nước từ trên nguồn đổ xuống có cây Thạch Xương bồ mùi hương lan tỏa vì thế nước Sông Hương có mùi hương lạ thường nên con sông có cái tên rất thi vị – Hương Giang.
Núi ngự cách Sông Hương 30 km về phía nam cao 104 m, dáng núi bằng phẳng uy nghi như hình đại bàng vỗ cánh vì thế nó có tên là Bằng Sơn. Vua Gia Long đã đổi tên thành núi Ngự Bình. Chùa Thiên Mụ được xây dựng vào thời chúa Nguyễn Hoàng. Chùa được xây dựng trên đồi Hà Khê bên dòng sông Hương cách kinh thành Huế 4 km về phía Nam.
Huế vừa là cố đô vừa là thành phố đẹp của nước ta. Huế đẹp và thơ đã đi vào lịch sử của những con người thành phố anh hùng. Chúng ta hãy cố gắng được đặt chân một lần đến đây để thưởng thức những điều tuyệt vời nhất về cố đô Huế.
Tiếp theo đón đọc 🌹 Thuyết Minh Về Thành Cổ Quảng Trị 🌹 15 Bài Văn Hay Nhất
Bài Thuyết Minh Về Đại Nội Huế Học Sinh Giỏi – Mẫu 8
Bài thuyết minh về đại nội Huế học sinh giỏi sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho các em học sinh trong quá trình thực hiện bài viết của mình.
Quần thể kiến trúc Cố đô Huế bao gồm hệ thống các di tích liên quan đến triều Nguyễn, trong đó, đại nội Huế được xem là nơi trung tâm với những giá trị lịch sử, văn hoá và kiến trúc đặc trưng nhất.
Kiến trúc Huế là sự kết hợp độc đáo giữa những nguyên tắc của kiến trúc truyền thống Việt, tư tưởng triết lý phương Đông, cùng những đặc điểm mang ảnh hưởng của kiến trúc quân sự phương Tây, hài hòa với các yếu tố tự nhiên: núi Ngự Bình, sông Hương, cồn Giã Viên, cồn Bộc Thanh, cồn Hến… Trải qua thời gian và những biến thiên của lịch sử, Huế vẫn bảo tồn được diện mạo của một kinh đô xưa, với hàng trăm công trình nghệ thuật tuyệt mỹ, vừa có giá trị đặc biệt về lịch sử và văn hóa, vừa phong phú, đa dạng, mang đậm bản sắc Huế…
Về di sản kiến trúc của Cố đô Huế, có thể kể đến những di tích tiêu biểu sau: Kinh thành, Hoàng thành và Tử Cấm thành, hệ thống lăng tẩm của các vua Nguyễn, cung An Định, Trai cung, bến thuyền Cung đình, Trấn Bình đài, Trấn Hải thành, điện Hòn Chén, nhà bà Từ Cung, Văn miếu, Võ miếu, Hải Vân quan,…
Kinh thành Huế được khởi công xây dựng từ năm 1805, hoàn thành năm 1832, nằm bên bờ Bắc của sông Hương, quay mặt về hướng Nam, gồm ba toà thành lồng vào nhau, được bố trí đăng đối trên một trục dọc, xuyên suốt từ mặt Nam ra mặt Bắc, xung quanh có 10 cửa chính và hệ thống vọng canh, hào nước…
Đại nội (Hoàng thành, Hoàng cung) nằm giữa trục chính của Kinh thành Huế, bao gồm nhiều khu vực chính. Khu vực phòng vệ gồm hệ thống hồ Kim thủy (hào), tường bao bọc và 10 cây cầu. Khu vực cử hành đại lễ được tính từ Ngọ môn đến điện Thái Hòa, là nơi cử hành các nghi lễ Nguyên đán, Vạn thọ, Hưng quốc Khánh niệm, Ban sóc, Duyệt binh, Truyền lô, Đăng quang, Tứ tuần, Ngũ tuần Đại khánh tiết của các Vua nhà Nguyễn.
Khu vực các miếu thờ của vua chúa Nguyễn gồm Triệu miếu, Thái miếu, Hưng miếu, Thế miếu, điện Phụng tiên. Khu vực ăn ở của Hoàng thái hậu và Thái Hoàng thái hậu gồm cung Diên Thọ và cung Trường Sanh (Sinh). Khu vực phủ Nội vụ gồm nhà kho lưu giữ đồ quý, xưởng thủ công mỹ nghệ chế tạo đồ vàng, bạc, ngọc, ngà, gấm, vóc. Khu vực vườn Cơ Hạ và điện Khâm Văn là nơi học tập và chơi đùa của các Hoàng tử khi chưa xuất phủ. Khu vực Tử Cấm Thành là chốn cung cấm, dành riêng cho Vua và hoàng gia ăn ở, sinh hoạt.
Ngọ môn là cổng chính phía Nam của Hoàng thành, được xây dựng vào năm Minh Mạng thứ 14 (1833), phía trên có lầu Ngũ Phụng, là nơi xưa kia triều đình tổ chức nghi lễ. Cửa Ngọ môn là cửa chính của Hoàng Thành Huế là cửa quan trọng nhất trong 4 cửa của Hoàng thành nơi dành để cho vua đi trong các dịp lễ quan trọng và là nơi diễn ra các buổi lễ quan trọng như lễ: đón tiếp sứ thần các nước, lễ xướng tên các Tiến Sĩ, lễ Ban Sóc và lễ Duyệt Binh.
Vị trí của cửa Ngọ Môn trước đây có tên là Nam Khuyết Đài được xây dựng vào thời vua Gia Long, phía trên đài có điện Càn Nguyên, hai bên có hai cửa tả hữu Đoan Môn. Đến năm Minh Mạng thứ 14 tức năm 1833 khi vua Minh Mạng cho quy hoạch lại toàn bộ kinh thành Huế đã cho phá bỏ Nam Khuyết Đài và xây dựng của Ngọ Môn và Lầu Ngũ Phụng như ngày hôm nay.
Cửa Ngọ Môn gồm có 2 phần chính là phần Đài Cổng và Phần lầu Ngũ Phụng. Phần cửa Ngọ Môn hay còn gọi là phần nền đài được xây dựng bằng gạch vồ và đá Thánh, móng được gia cố chịu lực bằng đồng thau. Nền đài có hình chữ U vuông góc có chiều dài đáy 57,77m chiều dài cánh 27,06m chiều cao 5m với diện tích tính phần chữ U là 1560m2. Ở phần giữ nền đài nhìn từ ngoài vào có 3 cổng chính: Cổng chính giữa đặt tên là Ngọ Môn và chỉ được dành cho Vua, hai cửa hai bên được đặt tên là Tả Giáp Môn và Hữu Giáp Môn dành cho quan văn và quan võ theo nguyên tắc Tả Văn Hữu Võ.
Điện Thái Hòa được xây dựng năm 1805. Điện được xây theo lối ‘‘trùng thiềm điệp ốc’’, với hệ thống vì kèo truyền thống, được sơn thếp và trang trí đồ án rồng vờn… Điện Thái Hòa là công trình kiến trúc quan trọng nhất trong quần thể Hoàng Thành Huế. Là nơi đặt ngai vàng của các vị vua nhà Nguyễn, là trung tâm chính trị của cả nước trong 143 năm. Điện Thái hòa được đặt ở Trung Tâm khu vực Hoàng Thành, theo phong thủy là nơi trung tâm của vũ trụ.
Điện quay mặt về hướng chánh nam được nối với cửa Ngọ Môn bằng một cây cầu đá bắc qua hồ Thái Dịch được gọi là cầu Trung Đạo. Xưa kia cầu Trung Đạo chỉ dành cho vua đi. Các quan văn võ phải đi hai lối hai bên tả hữu để vào sân chầu hay còn gọi là sân Đại Triều Nghi. Phía đầu và cuối cầu Trung Đạo được dựng hai chiếc cổng có hình lưỡng long chầu Nhật. Phía trên có khắc 4 chữ “ Chính đại quang minh” và “Chính trực đẳng bình” có ngụ ý rằng thiên tử khi đi qua đây để trị vì thiên hạ phải có cái tâm chính trực bình đẳng và quang minh chính đại. Phía trước điện Thái Hòa là sân Đại Triều Nghi, nơi thiết hành lễ Đại Triều vào ngày mồng 1 và 15 hàng tháng.
Bên cạnh kho tàng di sản văn hóa kiến trúc đồ sộ có giá trị và mang tầm vóc quốc tế, trong khu vực đại nội Huế còn lưu giữ được nhiều hiện vật có giá trị, tiêu biểu như đồ gốm, sứ, tác phẩm nghệ thuật…Ngoài ra, Cố đô Huế còn là một trung tâm văn hóa chứa đựng nhiều di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc, bao gồm sinh hoạt văn hóa cung đình, lễ hội cung đình, âm nhạc và vũ đạo cung đình, cùng các ngành nghề thủ công truyền thống…
Tìm hiểu hướng dẫn 🔥 Kiếm Thẻ Cào Miễn Phí 🔥 Kiếm Tiền Online Kiếm Thẻ Cào
Bài Văn Thuyết Minh Về Đại Nội Huế Sinh Động – Mẫu 9
Để viết bài văn thuyết minh về đại nội Huế sinh động, các em học sinh có thể vận dụng nhiều phương thức biểu đạt để làm ý văn thêm phong phú.
Nằm ở Bắc sông Hương, tổng thể kiến trúc của cố đô Huế được xây dựng trên một mặt bằng di tích hơn 500 ha và dựoc giới hạn bởi ba vòng thành theo thứ tự từ lớn đến nhỏ: Kinh thành, Hoàng thành và Cấm tử thành.
Kinh thành Huế được xây dựng gần 30 năm (từ 1803 đến 1832), là một thành luỹ dài cao 6,60m, dày 21m với chu vi gần 9.000m. Trên mặt thành ngày xưa có đến 24 pháo đài. Bên ngoài, dọc theo bờ thành có hào sâu bảo vệ. Kinh thành liên lạc với bên ngoài qua 8 cửa trổ theo 8 hướng: Chính Đông, Chính Tây,Chính Nam, Chính Bắc, Tây Bắc, Tây Nam, Đông Bắc, Đông Nam. Ngoài ra hai bên kỳ Đài có hai cửa Thể Nhơn và Quảng Đức.
Ngoài ra còn có hai cửa bằng đường thuỷ ở hai đầu sông Ngự Hà là Đông Thành Thuỷ Quan và Tây Thành Thuỷ Quan. Phía Hoàng Thành ở góc đông bắc có một thành nhỏ, thời Gia Long gọi là Thái Bình, đến thời Minh Mạng đổi thành Trấn Bình Đài có chu vi gần 1 km, bên ngoài có hào rộng ăn thông với Hoàng Thành.
Theo nguyên tắc địa lý phong thuỷ của Đông Phương và thuyết âm dương ngủ hành của Dịch học. Kinh thành quay mặt về hướng Nam, dùng núi Ngự Bình làm tiền án và dùng hai hòn đảo nhỏ trên sông hương (Cồn Hến – Cồn Dã Viên) làm rồng chầu hổ phục (Tả Thanh Long – Hữu Bạch Hổ) để bảo vệ cố đô. Dòng sông Hương chảy ngang trước mặt dùng làm Minh Đường. Bốn mặt kinh thành đều được bao bọc bởi hệ thống sông ngòi gọi là sông Hộ Thành.
Ở trong Kinh thành, Hoàng thành và Tử cấm thành được gọi chung là Đại Nội. Hoàng Thành dùng để bảo vệ khu vực các cơ quan lễ nghi, chính trị quan trọng nhất của triều đình và các điện thờ. Tử cấm thành là nơi làm việc, ăn ở sinh hoạt hàng ngày của nhà vua và gia đình….
Được Xây dựng từ 1804- 1833, Đại Nội có mặt bằng xây dựng theo hình gần vuông, mặt trước và mặt sau dài 622m, mặt trái và phải 604m. Thành xung quanh xây bằng gạch (cao 4,16m dày 1,04m), bên ngoài có hệ thống hộ thành đào, gọi là Kim Thuỷ Hồ, để bảo vệ thành. Mỗi mặt trổ một của để ra vào: Ngọ Môn (trước), Hoà Bính (sau), Hiển Nhơn (trái), Chương Đức (phải). Của chính Ngọ Môn chỉ dành cho vua đi.
Với hơn 100 công trình kiến trúc đẹp, mặt bằng Đại Nội chia thành nhiều khu vực khác nhau. Từ Ngọ Môn đến Điện Thái Hoà làm nơi cử hành các đại lễ lớn của triều đình. Triệu Miếu, Thái Miến, Hưng Miếu , Thế Miếu và ĐIện Phụng Tiên là nơi thờ các vua chúa nhà Nguyễn. Cung Diên Thọ và Cung Tường Sanh là nơi ở của Hoàng Thái Hậu và Thái Hoàng Thaí Hậu. Phủ nội vụ là nhà kho tàng trữ đồ quý, Xưỡng chế tạo đồ dùng hoàng gia. Vườn Cơ Hạ và Điện Khâm Văn là nơi các Hoàng tử học tập và chơi đùa.
Tử Cấm Thành: Có mặt bằng cũng gần vuông, cao 3,7 m mặt trứơc và sau dài 324 m; mặt trái và phải dài 290m. Quanh thành trổ 10 cửa. Đại Cung Môn là cửa chính ở mặt tiền chỉ dành cho vua ra vào, hiện nay đã hư hại hoàn toàn. Bức bình phong to rộng dăng ngang sau lưng điện Cần Chánh (nơi vua làm việc hàng ngày) là dấu hiệu cho biết thế giới sau đó chỉ dành riêng cho vua và gia đình. Trong đó có hàng trăm cung nữ và hàng chục thái giám trhường trú để phục vụ hoàng gia.
Trong khu vực này có gần 50 công trình kiến trúc vàng son lộng lẫy bao gồm: điện Càn Thành (nơi vua), điện Khôn Thái (nơi vợ chính vua ở), Duyệt Thị Đường (nhà hát), Thượng Thiện (nơi nấu ăn cho vua), Thái Bình Lâu (Nơi vua đọc sách…), điện Minh Quang nơi ở các hoàng tử), điện Trinh Minh (nơi các hoàng hậu ở) điện Kiến Trung, vườn Cẩm Uyên….
Hệ thống kiến trúc Đại Nội được hoạch định theo những nguyên tắc chặt chẽ, đăng đối: chia ra các vị trí tiền, hậu, tả, hữu, thượng, hạ, chiêu mục tất cả đều nhất quán. Nó thể hiện những khái niệm triết lý chính trị Nho giáo phương đông. Phần lớn các công trinhg kiến trúc ở đây đều làm bằng gỗ quý, nhưng cũng không chịu đựng nổi với thiên tai, khí hậu khắc nghiệt hàng thế kỷ qua và các cuộc chiến tranh tàn phá nặng nề. Cho nên một số công trình đã bị hư hỏng, các di tích quý này hiện nay đang được nhà Nhà nước quan tâm đầu tư kinh phí để phục hồi, tôn tạo lại từng bước.
Giới thiệu tuyển tập ☀️ Thuyết Minh Về Thành Nhà Hồ ☀️ 15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Thuyết Minh Về Đại Nội Huế Luyện Viết – Mẫu 10
Bài văn thuyết minh về đại nội Huế luyện viết không chỉ giúp các em học sinh nâng cao kỹ năng viết mà còn nuôi dưỡng niềm tự hào đối với những thắng cảnh của đất nước.
Được định hình từ khi Huế là Kinh đô của Việt Nam thời phong kiến. Là một trung tâm chính trị – văn hóa – kinh tế… của cả nước suốt thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX, Kinh đô Huế có những công trình kiến trúc mỹ thuật kỳ vĩ nhất đất nước, nay còn tồn tại với mật độ dày đặc.
Ngôn ngữ của kiến trúc là định vị các công trình trong không gian sao cho hài hòa với thiên nhiên. Như Điện Thái Hòa là trung tâm của Kinh thành, chung quanh là Thanh Long (Ðông), Bạch Hổ (Tây), Chu Tước (Nam), Huyền Vũ (Bắc). Hướng Kinh thành phải quay mặt về phía Nam vì Kinh dịch viết “Thánh nhân nam diện nhi thính thiên hạ” nghĩa là bậc đế vương xoay mặt về hướng Nam để nghe (cai trị) thiên hạ.
Kiến trúc cung đình Huế đã tiếp thu và kế thừa kiến trúc truyền thống Lý, Trần, Lê là tất yếu để chống sự đồng hoá và cũng chống sự lạc hậu nên đồng thời tiếp thu tinh hoa của mỹ thuật Trung Hoa nhưng đã được Việt Nam hóa một cách có ý thức dân tộc của các nghệ nhân từ các miền Nam Bắc quy tụ về xây dựng Kinh đô, kể cả những người thợ gốc Minh Hương Trung Quốc và Chămpa. Ðặc biệt đã được hiện đại hóa kỹ thuật của những công trình sư người Pháp phục vụ dưới thời Gia Long, theo phương châm cơ bản tiếp thu có chọn lọc những kiến trúc thích nghi với tâm hồn người Việt và Việt hóa dần để phù hợp với tâm lý bản địa đem lại những đặc trưng bản sắc kiến trúc Huế.
Trong Kinh thành Huế có rất nhiều địa điểm cho bạn tham quan bao gồm các lăng tẩm, cung điện của vua và hoàng tộc, cùng các đền đài. Các bạn có thể khám phá, tìm hiểu về nét đẹp và lịch sử của những cung điện, di tích trong Đại Nội Huế. Những công trình này còn thể hiện nét nghệ thuật của một triều đại nước ta, cái duy mỹ của cha ông ta năm xưa một cách cảm nhận mà con cháu đời sau cần kế thừa và phát huy.
Dù không rõ rệt nhưng ở Huế vẫn có chút nét đẹp của mùa xuân rất thơ mộng và trữ tình như chính nàng thơ nơi đây vậy. Mùa xuân ở Huế thường kéo dài từ tháng 1 đến cuối tháng 3, thời tiết lúc này mát mẻ, dễ chịu. Vào thời điểm này những luồng gió lạnh vừa rời xa dòng sông hương mộng mơ thì lúc này cũng là lúc Huế trở nên dịu nhẹ, căng tràn sức sống cùng với thiên nhiên mùa xuân. Cây cỏ cũng dần đâm chồi nảy lộc, những con đường ngập đầy hoa, tô đậm vào bức tranh mùa xuân xanh mơn mởn.
Nếu mà nói đi du lịch Huế mùa nào, tháng mấy hợp lý nhất thì câu trả lời sẽ là cả năm Huế đều đẹp. Tuy nhiên, từ tháng 4 đến tháng 5 là khoảng thời gian được chuộng nhiều hơn. Bởi thời gian này sẽ diễn ra lễ hội Festival Huế. Festival ở Huế được tổ chức hằng năm, được biết là lễ hội lớn và đặc sắc nhất ở Huế cũng như khu vực miền Trung là một trong những lễ hội lớn nhất ở Việt Nam. Những bộ áo dài màu tím thướt tha trong lễ hội Festival Huế mang nét đẹp nàng thơ.
Từ lâu, đại nội, kinh thành Huế đã là nơi lưu giữ những nét truyền thống văn hóa từ lâu đời của triều đại phong kiến xưa của Việt Nam. Nhất là với văn hóa cung đình lưu truyền từ thời nhà Nguyễn đến bây giờ vẫn còn vẹn nguyên giá trị.
Có thể bạn sẽ thích 🌼 Thuyết Minh Về Thành Cổ Loa 🌼 15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Thuyết Minh Về Đại Nội Huế Ngắn Hay – Mẫu 11
Tham khảo cách hành văn súc tích và giàu ý nghĩa biểu đạt với bài văn thuyết minh về đại nội Huế ngắn hay dưới đây:
Với những giá trị mang tính toàn cầu của mình, quần thể di tích Cố đô Huế trở thành di sản văn hoá đầu tiên của Việt Nam được UNESCO ghi tên vào danh mục Di sản thế giới năm 1993. Quần thể di tích Cố đô Huế nằm dọc hai bên bờ sông Hương thuộc thành phố Huế và một vài vùng phụ cận thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế. Đây là trung tâm văn hoá, chính trị, kinh tế của tỉnh, là cố đô của Việt Nam dưới triều nhà Nguyễn, từ 1802 đến 1945.
Năm 1306, sau cuộc hôn phối giữa công chúa Huyền Trân (Nhà Trần) với vua Chàm là Chế Mân, vùng đất Châu Ô, Châu Lý (gồm Quảng Trị, Thừa Thiên Huế và một phần phía bắc Quảng Nam ngày nay) được lấy tên là Thuận Hoá. Vào nửa cuối thế kỷ 15, thời vua Lê Thánh Tông, địa danh Huế lần đầu tiên xuất hiện. Năm 1636, phủ Chúa Nguyễn đặt ở Kim Long (Huế), tới năm 1687 thì dời về Phú Xuân – thành Nội Huế ngày nay.
Vào những năm đầu của thế kỷ 18, Phú Xuân trở thành trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của xứ “Đàng Trong”. Từ năm 1788 đến 1801, Phú Xuân trở thành kinh đô của triều đại Tây Sơn. Nhà sử học Lê Văn Lan cho biết: Các vị hoàng đế nhà Nguyễn, đặc biệt là hai vị hoàng đế đầu tiên là Gia Long và Minh Mạng đã rất có lý khi muốn Phú Xuân, khi chuyển Phú Xuân thành kinh đô Huế của cả nước Đại Nam. Huế lúc đó có vai trò cực kỳ quan trọng của một trung tâm đầu não về mặt chính trị của cả nước. Một triều đình rất công phu được xây dựng, mà đứng đầu là các vị vua chuyên chế, rồi các bộ máy và các hạng mục kinh thành cũng đã được thiết kế và ổn định.
Từ năm 1802 đến 1945, Huế là kinh đô của nước Việt Nam thống nhất dưới sự trị vì của 13 đời vua nhà Nguyễn. Cũng vào thời gian này, tại đây đã hình thành các công trình kiến trúc lịch sử văn hoá có giá trị. Có thể kể đến ở phía bờ Bắc của con sông Hương là hệ thống kiến trúc biểu thị cho quyền uy của chế độ trung ương tập quyền Nguyễn gồm ba tòa thành: Kinh thành Huế, Hoàng thành Huế, Tử Cấm thành Huế, lồng vào nhau được bố trí đăng đối trên một trục dọc xuyên suốt từ mặt Nam ra mặt Bắc.
Đại nội Huế và hệ thống thành quách ở đây là một mẫu mực của sự kết hợp hài hòa nhuần nhuyễn giữa tinh hoa kiến trúc Đông và Tây, được đặt trong một khung cảnh thiên nhiên kỳ thú với nhiều yếu tố biểu tượng sẵn có tự nhiên đến mức người ta mặc nhiên xem đó là những bộ phận của Kinh thành Huế – đó là núi Ngự Bình, dòng Hương Giang, cồn Giã Viên, cồn Bộc Thanh… Hoàng thành giới hạn bởi một vòng tường thành gần vuông với mỗi chiều xấp xỉ 600m với 4 cổng ra vào mà độc đáo nhất thường được lấy làm biểu tượng của Cố đô: Ngọ Môn, chính là khu vực hành chính tối cao của triều đình Nguyễn.
Quần thể di tích Cố đô Huế tiêu biểu cho những thành tựu nghệ thuật độc đáo, là những kiệt tác do bàn tay con người tạo dựng, có giá trị to lớn về mặt kỹ thuật xây dựng và nghệ thuật kiến trúc. Cố đô Huế cũng là một quần thể kiến trúc tiêu biểu của một thời kỳ lịch sử quan trọng, có sự kết hợp chặt chẽ với các sự kiện trọng đại, những tư tưởng và tín ngưỡng có ảnh hưởng lớn và các danh nhân lịch sử.
SCR.VN tặng bạn 💧 Nhận Thẻ Cào 50k Miễn Phí 💧 Kiếm Thẻ Cào Free
Thuyết Minh Về Đại Nội Huế Đơn Giản – Mẫu 12
Bài văn thuyết minh về đại nội Huế đơn giản sẽ giúp các em học sinh dễ dàng nắm được những nội dung cơ bản để ôn tập nhanh chóng.
Huế hay con gọi là Thừa Thiên Huế nằm ở miền Trung đất nước ta. Phía bắc giáp với Quảng Trị, phía Nam giáp với Đà Nẵng, phía Tây dựa vào núi Trường Sơn và nhìn ra ngoài biển về hướng Tây. Từ thủ đô Hà Nội đến đây, khoảng 66 km.
Có tên Huế ngày nay, là bao lần lịch sử sang trang và những kiếp đời đổi dời. Tên gọi ban đầu của Huế là Thuận Hóa. Đến đầu thế kỉ XVI, Thuận Hóa trở thành vùng đất trù phú. Trong đó, Phú Xuân là một làng của Thuận Hóa, được Nguyễn Hoàng chọn làm thủ phủ đầu tiên năm 1687. Một trăm năm sau, Phú Xuân chính thức trở thành kinh đô của nhà nước dưới thời vua Minh Mạng.
Huế là sự kết hợp hài hòa của núi, sông và biển. Đến với Huế, ta có thể đến thăm núi Bạch Mã để đón gió biển; từ đèo Hải Vân mây phú để lắng nghe tiếng sóng biển rì rào. Nơi đây, buổi sáng có thể lên núi Trường Sơn, buổi chiều xuống biển Thuận An và đêm đến, ngủ trên chiếc thuyền xuôi trên sông Hương. Đặc biệt, đến với Huế, du khách không thể bỏ qua những công trình tiêu biểu nơi này.
Đó là kinh thành Huế- một hệ thống gồm ba vòng thành từ ngoài vào trong: Kinh thành, Hoàng thành và Tử Cấm thành hay còn gọi là Đại Nội. Trong Tử Cấm thành có điện Cần Chánh, là nơi vua làm việc hằng ngày. Còn điện Cần Thành là nơi vua ở và nghỉ ngơi. Kinh thành Huế là một công trình kiến trúc có sự kết hợp đông- tây, được gọi với cái tên đầy ngưỡng mộ: Thành phố thành lũy, thành phố ngôi sao.
Đại Nội Huế là một biểu tượng và minh chứng rõ ràng nhất cho một vùng đất của lịch sử và văn hiến.
Chia sẻ cùng bạn 🍀 Thuyết Minh Về Đền Hùng 🍀 15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Thuyết Minh Về Cung Đình Huế – Mẫu 13
Đón đọc bài văn thuyết minh về cung đình Huế và cùng tìm hiểu về những giá trị lịch sử và văn hoá gắn liền với vùng đất này.
Đường vô xứ Huế quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ…
Huế nổi tiếng là nơi phong cảnh hữu tình với những nét đặc sắc về danh lam, thắng cảnh của một kinh thành cổ xưa. Vậy chúng ta hãy đến với Huế thơ mộng.
Đầu tiên ta hãy tìm hiểu nét đặc sắc trong di tích, thắng cảnh Huế về nghệ thuật thời này được nhận xét chung là có sự hài hoà với thiên nhiên, được kết cấu với nghệ thuật trang trí và chặt chẽ trong kết cấu tổng thể. Kiến trúc kinh đô Huế là một quần thể kiến trúc rộng lớn gồm Hoàng thành, các cung điện, lăng tẩm… được xây dựng theo ý muốn của triều đình và sở thích của các vua.
Kiến trúc cung đình thường sử dụng những mẫu trang trí mang tính quy phạm gắn với tư tưởng Nho giáo. Bên cạnh kiến trúc cung đình là những làng cổ được xây dựng cách không xa Hoàng thành. Rất nhiều làng nghề thời này làm ra những sản phẩm để sử dụng trong cung đình. Một số nghệ thuật thời này đã phát triển đa dạng như điêu khắc, đồ hoạ, hội hoạ nhằm trang trí cho cung đình nơi cố đô.
Kiến trúc cung đình Huế là một quần thể có quy mô to lớn, bao gồm rất nhiều lăng tẩm, Hoàng thành. Bên cạnh Phòng thành (xây dựng từ những năm 1805 – 1817), Hoàng thành và Tử cấm thành (1840), đàn Nam Giao,… là những công trình giá trị. Những lăng tẩm, phủ chúa nổi tiếng như lăng Gia Long (1814 – 1820) lăng Minh Mạng (1820 – 1840), lăng Tự Đức (1864 – 1867) rất uy nghi. Ngoài ra cửa Ngọ Môn cũng là một tác phẩm lớn, trang nghiêm.
Hơn nữa thiên nhiên và cảnh quan luôn được coi trọng, tạo ra một nét riêng của kiến trúc cung đình Huế. Bên lăng Tự Đức, hàng trăm cây lớn bé, xanh um. Ớ đây có những hồ rộng khoảng vài chục mét vuông, uốn lượn. Bên hồ là lầu để trước đây vua đến chơi nghỉ; những tảng đá phẳng được dùng như những bộ bàn ghế kê ở ven hồ. Những tranh ghép sứ kính trong lăng Khải Định gồm những bức lớn, màu sắc ẩn hiện rất độc đáo. Những hình trang trí thì cầu kì, màu sắc sặc sỡ. Hình bao gồm chủ yếu là rồng vây quanh cột, in trên tương và rải rác theo dọc tường là những khung chữ Nho.
Cuối cùng là những làng nghề tập trung không xa khu Hoàng thành, trong đó có làng Việt cổ Phước Lĩnh. Cách Huế ba lăm ki-lô-mét về phía Bắc, làng được bao quanh sông Ô Lâu, trông như một bán đảo riêng biệt. Ngày xưa nơi đây được gọi là Cồn Dương. Dân làng ít ai làm ruộng mà chủ yếu sống nhờ vào vườn tược và nghề gốm. Gốm Phước Lĩnh đã trở nên lâu đời, nổi tiếng và thường được cung cấp cho vua chúa nhà Nguyễn. Ngày nay làng không còn làm gốm nữa mà chỉ còn các dấu tích của một thời.
Những lối ngõ với những hàng chè tàu tăm tắp được cắt tỉa cẩn thận. Nhiều loại cây ăn quả như cây vả, cây thị… Hoa hoàng lan, mộc lan… hoa màu vàng nhỏ xíu, mùi hương nhẹ thầm kín. Những miếu cổ um tùm cỏ cây, những ngôi mộ cổ,… Đặc biệt ở đây còn lại 30 nhà, có chừng cả 100 năm tuổi. Bên trong những căn nhà này nhiều vật dụng được chạm khắc khá công phu và tinh tế. Nghệ thuật kiến trúc dân gian ở đây đã đạt đến độ tinh xảo. Còn ở cái hồ làng, mùa sen, hoa nở tím biếc cả một vùng, ở đây, nhà cổ, vườn tược, đình chùa, miếu mạo vẫn còn là sức sống diệu kì. Nơi này hẳn phải là nét nổi bật trong di tích Huế.
Qua đây ta thấy, Huế có những nét đặc sắc trong di tích, thắng cảnh, trong kiến trúc cung đình. Tất cả là sự hài hoà của cảnh sắc thiên nhiên, là một quần thể kiến trúc có quy mô to lớn. Càng hiểu về nơi đây, mỗi chúng ta càng phải cùng nhau giữ gìn để nơi cố đô ấy mãi mãi trường tồn.
Mời bạn tiếp tục đón đọc ☘ Thuyết Minh Về Yên Tử, Chùa Yên Tử ☘ 15 Bài Văn Hay Nhất
Thuyết Minh Về Đại Nội Huế Lớp 8 – Mẫu 14
Để hoàn thành tốt đề văn yêu cầu thuyết minh về đại nội Huế lớp 8, các em học sinh có thể tham khảo những gợi ý trong bài văn mẫu sau đây:
Quần thể di tích Cố đô Huế tiêu biểu cho những thành tựu về kiến trúc, điêu khắc, thẩm mỹ và sức lao động sáng tạo của con người Việt Nam trong suốt một thời gian dài, đặc biệt là trong nghệ thuật và kiến trúc, quy hoạch thành phố và bài trí cảnh quan, được đánh giá như một “kiệt tác đô thị”.
Trong gần 400 năm (1558 – 1945), Huế đã từng là Thủ phủ của 9 đời chúa Nguyễn ở Đàng Trong, là Kinh đô của triều đại Tây Sơn, rồi đến Kinh đô của quốc gia thống nhất dưới 13 triều vua Nguyễn. Nói đến Huế, người ta nghĩ ngay đến những thành quách, cung điện vàng son, những đền đài miếu vũ lộng lẫy, những lăng tẩm uy nghiêm, những danh lam cổ tự trầm tư u tịch, những thắng tích thiên nhiên thợ trời khéo tạc…
Bên cạnh thành quách cung điện lăng tẩm nguy nga tráng lệ, Huế còn lưu giữ nhiều công trình kiến trúc độc đáo gắn liền với chế độ quân chủ nhà Nguyễn, cách phối trí của các khoảng không gian đã tiến đến đỉnh cao của sự hài hòa trong bố cục. Ngoài ra, Huế còn lưu giữ trong lòng những di sản văn hóa phi vật thể biểu trưng cho trí tuệ và tâm hồn của dân tộc Việt Nam. Quần thể Di tích Cố đô Huế bao gồm: Kinh thành Huế, Hoàng thành Huế và Tử Cấm thành Huế.
Kinh thành được vua Gia Long tiến hành khảo sát từ năm 1803, khởi công xây dựng từ 1805 và hoàn chỉnh vào năm 1832 dưới triều vua Minh Mạng. Kinh thành Huế bao gồm các di tích: Kỳ Đài Trường; Quốc Tử Giám; Điện Long An; Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế; Đình Phú Xuân; Hồ Tịnh Tâm; Tàng thư lâu; Viện Cơ Mật – Tam Tòa; Đàn Xã Tắc; Cửu vị thần công…
Hoàng thành – khu vực hành chính tối cao của triều đình Nguyễn, nằm bên trong Kinh thành, được giới hạn bởi một vòng tường thành gần vuông, mỗi chiều xấp xỉ 600m với 4 cổng ra vào mà độc đáo nhất thường được lấy làm biểu tượng của Cố đô đó là Ngọ Môn. Hoàng thành có chức năng bảo vệ các cung điện quan trọng nhất của triều đình, các miếu thờ tổ tiên nhà Nguyễn và bảo vệ Tử Cấm Thành – nơi dành riêng cho vua và hoàng gia. Hoàng thành và Tử cấm thành thường được gọi chung là Đại Nội. Các di tích trong Hoàng thành gồm: Ngọ Môn; Điện Thái Hòa và sân Đại Triều Nghi; Triệu Tổ Miếu; Hưng Tổ Miếu; Thế Tổ Miếu; Thái Tổ Miếu; Cung Diên Thọ; Cung Trường Sanh; Hiển Lâm Các; Cửu Đỉnh; Điện Phụng Tiên.
Tử cấm thành là vòng tường thành thứ 3 của Kinh đô Huế, giới hạn khu vực làm việc, ăn ở và sinh hoạt của vua và hoàng gia. Các di tích trong Tử cấm thành gồm: Tả Vu và Hữu Vu; Vạc đồng; Điện Kiến Trung; Điện Cần Chánh; Thái Bình Lâu và Duyệt Thị Đường. Xuyên suốt cả ba tòa thành, con đường Thần đạo chạy từ bờ sông Hương mang trên mình hàng trăm công trình kiến trúc lớn nhỏ bố trí cân đối đều đặn, đan xen cây cỏ, khi ẩn khi hiện giữa những sắc màu thiên nhiên, tạo cho con người một cảm giác nhẹ nhàng thanh thản.
Trong quần thể di tích Cố đô Huế có 16 điểm di tích được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới, đó là: Kinh thành ở bờ Bắc sông Hương bảo vệ cho Khu vực hành chính của nhà Nguyễn và là nơi ở của Hoàng Gia; Hoàng thành nằm ở trung tâm của Kinh thành là nơi ở và làm việc của các Vua Nguyễn; Lăng Gia Long; Lăng Minh Mạng; Lăng Thiệu Trị; Lăng Dực Đức; Lăng Tự Đức; Lăng Đồng Khánh; Lăng Khải Định.
Cùng với đó là Văn Miếu – nơi thờ Khổng Tử và dựng bia khắc tên các Tiến sĩ thời Nguyễn; Đàn Nam Giao – nơi vua tế trời; Chùa Thiên Mụ – Biểu trưng Phật giáo của Huế; Hổ Quyền – đấu trường duy nhất còn lại ở Châu Á dành cho voi và hổ; Điện Hòn Chén – nơi thờ Thánh Mẫu; Trấn Bình Đài – án ngữ bảo vệ đường sông của Kinh thành; Trấn Hải Thành – pháo đài trấn giữ mặt biển phía Đông.
Ngoài ra Huế còn có nhiều di tích liên quan đến Triều Nguyễn như: Cung An Định, Điện Voi Ré, Võ Miếu, Hải Vân Quan, Cầu Ngói Thanh Toàn, các chùa Phật… hòa điện trong những thắng cảnh thiên nhiên nổi tiếng như sông Hương, núi Ngự, Vọng Cảnh Thiên An, Cửa Thuận An…
Huế còn nổi tiếng với những khu nhà vườn thâm nghiêm ẩn hiện giữa xóm phường bình yên trong lòng Cố đô mang phong cách kiến trúc rất đặc trưng. Điều rất đặc biệt là mỗi khu nhà vườn lại mang bóng dáng Kinh thành Huế thu nhỏ, có bình phong thay núi Ngự, bể nước thay thế cho dòng sông Hương, đôi tảng đá cụm thay cho cồn Dã Viên… Những khu nhà vườn đủ bốn mùa hoa trái, ríu rít chim ca còn là thế giới của những thi nhân mặc khách, là nơi diễn xướng điệu ca Huế…
Quần thể di tích cố đô Huế là một di sản văn hóa độc đáo của Việt Nam và thế giới. Với công cuộc bảo tồn theo những tiêu chuẩn của UNESCO, di sản văn hoá Huế sẽ được giữ gìn – cho Việt Nam và cho thế giới để Huế sẽ mãi mãi là niềm tự hào của nhân loại.
Đừng bỏ lỡ cơ hội 🍀 Nhận Thẻ Cào 100k Miễn Phí 🍀 Card Viettel Mobifone
Thuyết Minh Về Đại Nội Huế Bằng Tiếng Anh – Mẫu 15
Tham khảo bài mẫu thuyết minh về đại nội Huế bằng tiếng Anh giúp các em học sinh trau dồi phong phú vốn từ vựng và luyện tập sử dụng chính xác các cấu trúc ngữ pháp cơ bản.
Tiếng Anh
Hue is the city under the Thua Thien – Hue. The city is the center of the central region in many aspects such as culture, politics, health, education, tourism, science … With Perfume River and leave the legacy of feudal dynasties, Hue, Neurology also called land or land of poetry, is one of the cities mentioned many poetry and music in Vietnam for romance and dreaming of it.
Famously being one of Vietnam’s seven UNESCO World Heritage Sites, the Imperial City of Hue has long been a must-see attraction for tourists visiting a hidden charm of Vietnam. The Imperial City of Hue was actually a walled fortress and palace belonged to the ancient city of Hue which was a capital city of the Nguyen Dynasty for 140 years date back from 1805 until 1945.
The city has five titles in Vietnam UNESCO: Complex of Hue Monuments (1993), Hue court music (2003), woodblocks of the Nguyen Dynasty (2009), World of Nguyen Dynasty (2014) and the poetry System Posted on Hue royal architecture (2016). Hue is a national urban Vietnam and was the capital of feudal Vietnam under the Nguyen Dynasty (1802-1945).
Tiếng Việt
Huế là thành phố trực thuộc Thừa Thiên – Huế. Đây là trung tâm của miền Trung về nhiều mặt như văn hóa, chính trị, y tế, giáo dục, du lịch, khoa học … Với sông Hương và những di sản để lại của các triều đại phong kiến, Huế còn được gọi là xứ sở hay xứ thơ, là một trong những thành phố được nhắc đến nhiều trong thơ ca và nhạc họa Việt Nam vì sự lãng mạn và thơ mộng.
Nổi tiếng là một trong bảy Di sản Thế giới được UNESCO công nhận của Việt Nam, Cố đô Huế từ lâu đã trở thành một điểm tham quan không thể bỏ qua đối với du khách khi đến thăm bởi nét duyên dáng tiềm ẩn đặc trưng của văn hoá Việt Nam. Đại nội Huế thực chất là một pháo đài có tường bao quanh và cung điện thuộc cố đô Huế, là kinh đô của nhà Nguyễn trong 140 năm từ năm 1805 đến năm 1945.
Thành phố đã có 5 danh hiệu được UNESCO công nhận: Quần thể Di tích Cố đô Huế (1993), Nhã nhạc cung đình Huế (2003), Mộc bản triều Nguyễn (2009), Thế giới triều Nguyễn (2014) và Hệ thống thơ đăng trên kiến trúc cung đình Huế ( 2016). Huế là một đô thị quốc gia của Việt Nam và là kinh đô của Việt Nam thời phong kiến dưới triều Nguyễn (1802-1945).
Tìm hiểu nhiều hơn 🔥 Thuyết Minh Về Côn Đảo, Nhà Tù Côn Đảo 🔥 15 Bài Hay Nhất