Phân Tích Nhân Vật Bà Cụ Tứ ❤️️27+ Mẫu Phân Tích Tâm Trạng Hay ✅ Chọn Lọc Trọn Bộ Văn Mẫu Đặc Sắc Về Nhân Vật Bà Cụ Tứ Trong Tác Phẩm Vợ Nhặt.
Lập Dàn Ý Phân Tích Nhân Vật Bà Cụ Tứ Trong Vợ Nhặt
Lập dàn ý phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong Vợ nhặt là một bước rất quan trọng trong quá trình thực hiện bài viết. Phân tích nhân vật bà cụ Tứ dàn ý chi tiết sẽ giúp các em học sinh định hướng nội dung và luận điểm chính trọng tâm. Tham khảo dưới đây phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong Vợ nhặt dàn ý như sau:
1.Mở bài phân tích nhân vật bà cụ Tứ:
Giới thiệu về tác giả, tác phẩm và nội dung cần phân tích – nhân vật bà cụ Tứ:
- Kim Lân là một cây bút có tài, các sáng tác của ông hướng vào chủ đề chính là những người nông dân và cuộc sống ở nông thôn Việt Nam.
- Tác phẩm Vợ nhặt: nằm trong tập truyện Con chó xấu xí, là bức tranh chân thực về nạn đói năm 1945, là sự ngợi ca tình người, tình mẫu tử, khát vọng sống.
- Bà cụ Tứ là đại diện cho vẻ đẹp của những người nông dân, người mẹ Việt Nam.
2.Thân bài phân tích nhân vật bà cụ Tứ:
– Phân tích tình huống khi nhân vật Tràng dẫn người vợ nhặt về giới thiệu với bà cụ Tứ:
- Bà cụ Tứ thoáng nghĩ con trai lấy vợ trong lúc bấy giờ rất khó khăn, đã vậy với một người như anh Tràng thì không dễ gì có vợ, nên cụ ngạc nhiên
- Bà cụ Tứ như cũng vô cùng ngạc nhiên vì con mình xấu xí, lại còn nghèo mà vẫn có vợ trong thời khó khăn.
- Khi làm về, bà cụ Tứ thấy một người phụ nữ ngồi trong nhà mà còn thưa u. Thế rồi bà cụ vẫn không tin vào những gì con trai mình nói đó là: Kìa nhà tôi nó chào u”.
- Lúc này đây bà vẫn không hiểu chuyện gì đang xảy ra
– Phân tích tâm trạng của nhân vật bà cụ Tứ khi thấy con trai nhặt được vợ:
- Buồn vì khi biết rằng con bà “nhặt” được vợ và lúc này đây bà nghĩ đến chồng, bà nghĩ đến con gái trở nên buồn hơn
- Bà cụ Tứ thấy vui: Lý do chính là con trai của bà cũng đã được an bề gia thất. Rồi bà lại thoáng buồn khi nghĩ mình phận làm mẹ lại không thể cưới nổi vợ cho con. Có lẽ rằng cũng chính cái tủi, cái buồn của người mẹ bị dồn vào cảnh nghèo túng quẫn thêm chua chát hơn.
- Bà cụ Tứ buồn lắm, không biết lấy gì để cúng tổ tiên và để trình làng con đã có vợ
- Bà cụ Tứ đã bật khóc vì mừng con có vợ, cũng đã khóc vì thương con dâu không biết làm sao để có thể vượt qua nỗi khó khăn này.
- Bà cụ Tứ cũng lại xót thương cho con dâu, buồn tủi cho nhà mình
– Phân tích nỗi lo của nhân vật bà cụ Tứ:
- Bà cụ Tứ luôn luôn lo cho con trai, con dâu, cái gia đình nhỏ của mình và cũng không biết phải qua những ngày khó khăn như thế nào nữa.
- Bà cụ Tứ lúc này dường như cũng chỉ biết khuyên con, khuyên dâu thương nhau, vượt qua khó khăn mà thôi.
- Chính nỗi lo, nỗi thương của người mẹ từng trải, đã vậy lại có được một sự hiểu đời có tấm lòng sâu thẳm đối với mình
– Phân tích niềm tin vào tương lai, vào cuộc sống của nhân vật bà cụ Tứ:
- Bà cụ Tứ cũng đã suy nghĩ vui trong những điều tốt đẹp tương lai “Rồi ra may mà ông giời cho khá…”
- Bà cũng rất vui và bắt tay và trong công việc sửa sang vườn tược, nhà cửa
- Trong bữa cơm đạm bạc đầu tiên khi có con dâu và luôn tạo ra một không khí ấm cúng cho 2 con. Tiếp thêm niềm tin cho các con để có thể thoát khỏi thời kỳ gian khó này.
3.Kết bài phân tích nhân vật bà cụ Tứ:
- Nghệ thuật đặc sắc mà Kim Lân dùng trong diễn biến tâm trạng nhân vật
- Tác phẩm có nội dung nhân đạo sâu sắc và cảm động thông qua nhân vật bà cụ Tứ.
Bên cạnh bài phân tích nhân vật bà cụ Tứ, giới thiệu cùng bạn 🍀 Tóm Tắt Vợ Nhặt 🍀 20 Bài Tóm Tắt Tác Phẩm Ngắn Hay
Sơ Đồ Phân Tích Nhân Vật Bà Cụ Tứ Chi Tiết
Tham khảo mẫu sơ đồ phân tích nhân vật bà cụ Tứ chi tiết dưới đây sẽ giúp các em học sinh hệ thống hoá luận điểm chính khi viết bài.
Mời bạn tham khảo 🌠 Sơ Đồ Tư Duy Vợ Nhặt 🌠 15 Mẫu Vẽ Tóm Tắt Ngắn Hay
Mở Bài Phân Tích Tâm Trạng Bà Cụ Tứ Trong Vợ Nhặt
Với gợi ý mở bài phân tích tâm trạng bà cụ Tứ trong Vợ nhặt dưới đây, các em học sinh sẽ có thêm cho mình một cách bắt đầu bài viết ấn tượng.
Kim Lân mang tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài (1920 – 2007), quê ở TP Bắc Ninh. Ông là người dân có tính tự lập ngay từ nhỏ lúc biết làm thuê để trang trải cho cuộc sống gia đình vốn khó khăn của mình. Chính vì vậy, ông có cơ hội được làm qua nhiều nghề và được sống gắn bó với những người lao động.
Không chỉ vậy, Kim Lân còn là một người đặc biệt quan trọng quan tâm đến đời sống của người nông dân với nếp sống và sinh hoạt dân dã. Dù cuộc sống của họ phải lo toan bộn bề và đối diện với vô vàn sự lầm than, cơ cực thế nhưng ở họ vẫn toát lên những vẻ đẹp tâm hồn rất đáng để trân trọng. Kim Lân nhận ra được việc đó và chuyển tải nó vào trong những sáng tác của mình.
“Vợ nhặt” của Kim Lân được in trong tập “Con chó xấu xí” vào năm 1962. Đây là tác phẩm Kim Lân viết trong giai đoạn diễn ra nạn đói khủng khiếp vào năm 1945 và nhân dân ta phải chịu cảnh sống khổ sở, cơ cực vô cùng. “Vợ nhặt” vốn có tiền thân là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”, nhưng khi Kim Lân còn đang viết dở dang thì lại bị mất bản thảo. Sau thời điểm hòa bình lập lại vào năm 1954, Kim Lân đã dựa vào ý tưởng và tình tiết ban đầu để viết nên tác phẩm này.
Viết về nỗi thống khổ của nhân dân trong nạn đói kinh hoàng năm 1945, có lẽ “Vợ nhặt” của Kim Lân là một trong số những tác phẩm gây ấn tượng thâm thúy khi khắc họa chân thực và xúc động cảnh lầm than, cơ cực của con người. Thế nhưng, điều ý nghĩa hơn hết là thông qua việc miêu tả sự ngang trái, éo le của hoàn cảnh sống, Kim Lân đã làm toát lên những vẻ đẹp đáng trân trọng của con người.
Riêng với việc khắc hoạ tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ, nhà văn đã làm hiện lên ở người mẹ nghèo ấy lòng nhân ái và tình yêu thương dành cho con người. Trong tác phẩm, bà được đặt vào trong tình huống trớ trêu với những diễn biến tâm trạng phức tạp. Nhưng những nét tâm lí ấy lại là một biểu hiện chân thực cho tấm lòng nhân hậu của bà.
Cùng với văn mẫu phân tích nhân vật bà cụ Tứ, SCR.VN tặng bạn 💧 Nghị Luận Vợ Nhặt 💧 15 Bài Văn Hay Nhất
Kết Bài Phân Tích Tâm Trạng Bà Cụ Tứ Ngắn Gọn
Tham khảo gợi ý viết kết bài phân tích tâm trạng bà cụ Tứ ngắn gọn dưới đây sẽ giúp các em học sinh hoàn thiện tốt hơn bài viết phân tích nhân vật của mình.
Nhân vật bà cụ Tứ có thể xem là hình tượng chung của những người mẹ Việt Nam nghèo khổ, từng trải và hiểu biết: người mẹ hết lòng yêu thương con, cảm thông cho những số phận cùng cảnh ngộ và không ngừng hy vọng về cuộc sống gia đình hạnh phúc về sau. Qua hình tượng nhân vật bà cụ Tứ với biết bao tâm trạng đan xen trước tình huống con trai “nhặt được vợ”, nhà văn Kim Lân đã làm nổi bật lên tấm lòng của người mẹ nghèo khổ nhưng giàu lòng vị tha, nhân hậu.
Qua “Vợ nhặt”, Kim Lân đã xây dựng thành công hình ảnh người mẹ nghèo trong trận đói khủng khiếp 1945. Người mẹ nghèo tiền bạc nhưng giàu lòng yêu thương và hết mình vì con – người mẹ Việt Nam truyền thống. Đằng sau bà cụ Tứ, ta thấy thấp thoáng những Lão Hạc, chị Dậu, mẹ Dần… những người sống tận lòng cho những người thân yêu của họ. Và có lẽ người mẹ già ấy lại chính là tia sáng xua đi cái tối tăm bi thảm của những kiếp đời nghèo khổ.
“Vợ nhặt” đã khiến nhà văn Nguyễn Khải thốt lên: “Tôi không tin Nguyễn Tuân có thể viết “Chữ người tử tù” cũng như Kim Lân có thể viết “Vợ nhặt”. Đó là thần viết, thần mượn tay người để viết”. Điều đó chắc chắn được làm nên không chỉ bởi ngòi bút kể chuyện tài hoa mà còn là một tâm hồn luôn “một lòng đi về với đất, với người, với thuần hậu nguyên thủy”, một cái nhìn đôn hậu, hóm hình và đầy thấu hiểu với người nông dân.
Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất
Phân Tích Bà Cụ Tứ Qua Đoạn Trích – Mẫu 1
Phân tích bà cụ Tứ qua đoạn trích “Vợ nhặt” là đề tài nghị luận nhân vật văn học phổ biến trong chương trình Ngữ văn. Tham khảo bài văn mẫu phân tích nhân vật bà cụ Tứ qua đoạn trích đặc sắc dưới đây:
Đặt câu chuyện trong bóng tối của thời sự đói khát và chết chóc ấy, nhà văn đã thể hiện cảm động tấm lòng yêu thương, đùm bọc lẫn nhau và niềm khao khát hạnh phúc của những người nghèo khổ. Vẻ đẹp nhân bản ấy được tác giả phát hiện và tập trung xây dựng thành công ở nhân vật bà cụ Tứ, mẹ của anh Tràng – người đã “nhặt” vợ.
Bà cụ Tứ là người mẹ nghèo khổ thương con như muôn ngàn người mẹ Viện Nam khác. Nhưng người mẹ ấy được đặt trong một tình cảnh hết sức éo le. Đó là việc Tràng, con trai của bà, giữa lúc nạn đói hoành hành lại lấy vợ. Nhưng dường như chính nghịch cảnh này càng làm nổi rõ ánh sáng tâm hồn ở người mẹ đáng thương.
Trong tác phẩm, bà cụ Tứ chỉ xuất hiện từ giữa truyện, lúc anh Tràng đưa vợ về, song từ đấy, dù rất ít nói, bà vẫn là người thu hút nhiêu nhat tâm trí của người đọc. Bởi trong lòng người mẹ ấy, cảm trăm mối tơ vò, chuyện nay, chuyện xưa đan xen lẫn lộn, niềm vui, nỗi buồn, sự cay đắng tủi cực lẫn xót thương vây lấy.
Như thường lệ, buổi chiều ấy trời sẩm tối, bà cụ Tứ về nhà. Chưa thấy người, nhưng anh Tràng biết là mẹ, bởi ngoài đầu ngõ có tiếng người húng hắng ho. Từ ngoài rặng tre, bà lọng khọng đi vào. Tính bà vẫn thế, vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng. Nhưng hôm nay khác, thấy mẹ, Tràng reo lên như một đứa trẻ và gọi với vào trong nhà: U đã về đấy! Anh con trai lật đật chạy ra đón mẹ từ ngoài cổng và trách sao bà về muộn.
Ồ, hẳn có chuyện gì rồi, mọi bữa anh cu Tràng đâu có thế. Mà còn gọi với vào trong nữa. Trong nhà nào có ai. Lâu nay, khi ông lão và đứa con gái út lần lượt ra đi, nhà chỉ còn mỗi hai mẹ con. Bà nhấp nháy hai con mắt nhìn Tràng, chậm hỏi: Có việc gì thế vậy? Anh cu Tràng chưa chịu nói, giục bà vào nhà.
Bà cụ Tứ phấp phỏng bước vào theo con vào nhà. Phấp phỏng vì linh tính cho bà biết trong nhà hẳn xảy ra chuyện gì. Mà quả đúng như vậy. Mới đến giữa sân, bà đứng sững lại và càng ngạc nhiên hơn. Trong nhà bà có người, lại là đàn bà. Người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Bà chưa gặp, bà không quen bao giờ. Người ấy lại đưng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u?.Ai thế nhỉ?
Hàng loạt câu hỏi đặt ra trong đầu bà lão. Hay bà già rồi, trông gà hoá cuốc. Bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn ra thì phải.. Không phải bà trông gà hoá cuốc, không phải mắt bà nhoèn. Đúng là có người rồi. Bà lão nhìn kỹ người đàn bà lần nữa, vẫn chưa nhận ra người nào. Bà lão quay lại nhìn con tỏ ý không hiểu.
Cái anh cu Tràng hôm nay thật lạ. Tự dưng khách sáo với mẹ, cứ buộc bà lão phải ngồi lên giường lên chiếc ghế chĩnh chệnh rồi mới nói. Bà lập cập bước vào. Cái người đàn bà lạ ấy tưởng mẹ Tràng già cả, điếc lác lên cất tiếng chào đến lần thứ hai. Hoá ra, bà không điếc, bà mải băn khoăn vì người đàn bà ấy chào bà bằng u. Bà vẫn chưa hiểu vì sao lại thế. Đến khi anh Tràng nói: Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi u ạ! Thì bà hiểu rất nhanh. Đột ngột quá! Bà cúi đầu nín lặng.
Bà không chỉ hiểu chừng ấy. Trong lòng người mẹ nghèo ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp của đứa con mình. Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn con mình thì… Chỉ nghĩ đó, bà đã thấy biết bao lo lắng, xót thương. Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt… Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?
Vợ chồng anh cu Tràng nào biết nỗi lòng bà cụ Tứ . Trông cảnh của chúng, bà khẽ thở dài rồi nhìn đăm đăm vào người đàn bà mà từ giờ phút này đã là con dâu. Bà nhìn thị và bà nghĩ: Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có được vợ… Nghĩ thế, bà càng cay đắng cho thân phận của mình.
Bà là mẹ, bà đã chẳng lo được gì cho con… May ra mà qua được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà la cho hết được? Trong cái khổ, có cái may. Bà khẽ dặng hắng một tiếng, nhẹ nhàng nói với “nàng dâu mới”: một khi các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, bà cũng mừng lòng.
Bà cụ Tứ còn dặn dò đôi vợ chồng trẻ: Nhà ta nghèo liệu mà bảo nhau làm ăn. Khi anh Tràng bước dài ra sân, bà động viên nàng dâu: Rồi may ra ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Rồi ra thì con cái chúng mày về sau.
Nói với con dâu là thế, nhưng lòng bà cụ Tứ thật ngổn ngang. Bà đăm đăm nhìn ra sông. Bóng tối trùm lấy hai con mắt. Mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào két lẹt. Bà lão thở dài ra một hơi. Bà lão nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út. Bà lão nghĩ đến cuộc đời cực khổ dài dằng dặc của mình. Vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không?
Những câu hỏi lại bám lấy trong đầu bà. Bà lão nhìn người đàn bà, lòng đầy xót thương. Bà nói với con dâu, lẽ ra đám cưới phải làm được dăm ba mâm, nhưng nhà mình nghèo quá. Chắc cuũngchả ai người ta chấp nhặt, chỉ mong vợ chồng hoà thuận là bà mừng. Nhưng lúc đói to thế này mà chúng mày lấy nhau thì bà thương quá.
Ôi biết bao là buồn, vui, cay đắng, tủi cực cùng sự lo lắng, thương xót đang tràn ngập trong lòng người mẹ nghèo khổ. Bà cụ nghẹn lời không nói được nữa. Bà không khóc mà nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng. Nhưng bà đâu muốn để cho đôi vợ chồng son biết bà đang buồn.
Khi anh cụ Tràng đánh liềm đốt đèn, bà lão vội vàng lau nước mắt ngẩng lên. Bà chủ động nói vui: Có đèn à? Ừ thắp lên một tí cho sáng sủa… Dầu bây giờ đắt gớm lên mà ạ. Nói thế, rồi bà lão đứng dậy uể oải sang giường bên kia nằm. Bà đem cả cái tâm trạng ngổn ngang sang chiếc giường cũ kỹ!
Anh cu Tràng khi mặt trời lên bằng con sào, mới trở dậy, người êm ái lửng lơ như người từ trong mơ đi ra. Nàng dâu mới có vẻ “biết điều”, dậy sớm hơn, quét lại sân. Chỉ có bà lão, chắc đêm qua không ngủ được. Đầu hôm, bà nghĩ tới việc kiếm lấy ít nứa về đan cái phên ngăn căn nhà ra. Chưa biết chừng nửa khuya bà đã dậy.
Khi anh cu Tràng thức dậy, xung quanh đã thay đổi mới mẻ, khác lạ. Nhà cửa, sân vườn đều được quét sạch sẽ gọn gàng… Hai cái ang nước vẫn để khô ong ở dưới góc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung hoàn ngay lối đi đã hót sạch. Bà cụ Tứ đang lúi húi giẫy những bụi cỏ dại mọc nham nhở ngoài vườn.
Thấy con trai đã dậy, bà cụ Tứ vội giục nàng dâu đi dọn cơm ăn chẳng muộn. Sáng nay, lòng bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của và rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xăm thu dọn, quét tước nhà cửa. Bà và cả đôi vợ chồng Tràng, hình như ai nấy đều có ý nghĩ rằng thu xếp nhà cửa cho quang quẻ, nề nếp thì cuộc đời có thể khác đi, làm ăn có cơ khấm khá hơn.
Bữa cơm sáng hôm nay cũng là bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại. Nhưng có điều lạ là hôm nay, bà cụ vừa ăn vừa kể chuyện làm ăn, gia cảnh với con dâu. Bà nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau này. Bà bàn tính với nàng dâu khi nào có tiền mua lấy đôi gà, rồi ngoảnh đi ngoảnh lại chẳng mấy chốc có một đàn gà cho mà xem. Vì thế chưa bao giờ trong nhà này mẹ con lại đầm ấm, hoà hợp đến thế.
Khi niêu cháo lõng bõng, mỗi người được có lưng nửa bát đã hết nhẵn, bà lão lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút. Đấy là nồi cám, mỗi khi đưa vào miệng, đắng chát và nghẹn bứ trong cổ, nhưng bà lão cho mọi người mà miệng tươi cười, đon đả nói, gọi là “chè khoán” và khen ngon đáo để. Bà không muốn bữa ăn đang vui bỗng ngừng lại. Thực ra, lòng đau lắm. Cả một nỗi tủi hờn đang len vào tâm trí bà.
Khi ngoài đình bỗng dội lên một hồi trống, dồn dập, vội vã khiến đàn quạ trên những cây gạo cao chót vót ngoài bãi chợt hốt hoảng bay vù lên, lượn thành từng đám bay vẩn trên nền trời như những đám mây đen, bà cụ Tú giải thích cho nàng dâu biết đấy là tiếng trống thúc giục thuế. Đói khát như thế này, vẫn phải đóng thuế, làm sao mà sống qua ngày được. Bà ngoảnh vội ra ngoài vì không dám để con dâu thấy bà khóc. Mà đó lại là những giọt nước mắt khóc bởi cái tương lai mờ mịt, xanh xám của các con bà!
Bằng nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật bậc thầy, Kim Lân đã lách sâu ngòi bút của mình để thấy được vẻ đẹp tâm hồn, tấm lòng bao dung nhân hậu của bà cụ Tứ với đôi vợ chồng trẻ. Bà cụ Tứ chính là hình ảnh đẹp đẽ nhất, đại diện tiêu biểu cho hàng triệu bà mẹ Việt Nam. Đồng thời qua nhân vật này cũng thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của Kim Lân.
Giới thiệu tuyển tập ☀️ Phân Tích Vợ Nhặt Kim Lân ☀️ 15 Mẫu Phân Tích Tác Phẩm Hay
Bài Phân Tích Bà Cụ Tứ Hay Nhất – Mẫu 2
Đón đọc dưới đây bài phân tích bà cụ Tứ hay nhất được chọn lọc và chia sẻ dành cho các em học sinh để học tốt tác phẩm và hiểu sâu sắc hơn về nhân vật.
Kim Lân là một trong số những tác giả nổi bật nhất của nền văn học hiện thực Việt Nam trong cả hai giai đoạn trước và sau cách mạng tháng Tám, mặc dù số lượng tác phẩm để lại không nhiều, nhưng tác phẩm nào của ông cũng hay và ấn tượng.
Sở dĩ những sáng tác của ông để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc là bởi Kim Lân vốn là một người con của làng quê, ông sống trong cái nghèo đói và mang trong mình những tình cảm nồng hậu chất phác của một người thôn quê chính hiệu. Cuộc sống của người nông dân được tái hiện trong các tác phẩm của ông rất gần gũi, chân thực, trong đó ẩn chứa tất cả những sự cảm thông, thấu hiểu, bộc lộ được nhiều khía cạnh mà có lẽ các nhà văn khác không thể chạm tới.
Một trong số các tác phẩm nổi tiếng nhất của Kim Lân phải kể đến Vợ nhặt, truyện tái hiện lại cuộc sống khắc nghiệt của người nông dân trong nạn đói năm 1945. Trong đầy rẫy những tuyệt vọng, đau thương, người ta vẫn thấy được ánh sáng của niềm hy vọng sống, niềm tin vào một tương lai tốt đẹp hơn, đặc biệt là vẻ đẹp tâm hồn, lòng yêu thương con người cũng được thể hiện rõ nét trong các nhân vật, tiêu biểu là nhân vật bà cụ Tứ – mẹ Tràng.
Cụ Tứ là nhân vật có ít “đất diễn” trong tác phẩm Vợ nhặt, thế nhưng bà lại là điểm sáng của cả tác phẩm, ở nhân vật này ta thấy được nhiều vẻ đẹp tổng hòa, bao gồm vẻ đẹp của tình mẫu tử thiêng liêng sâu sắc, vẻ đẹp của tấm lòng lương thiện, biết cảm thông chia sẻ, và niềm tin mãnh liệt vào một cuộc sống tốt đẹp.
Có thể nói rằng cụ Tứ là nhân vật tiêu biểu, đại diện cho một thế hệ các bà các mẹ trong giai đoạn đất nước nhiều đau thương. Hình ảnh cụ Tứ trong truyện cũng xuất hiện với những nét vẽ rất đơn giản “húng hắng ho, một bà lão lọng khọng từ rặng tre đi vào. Vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng”, nhưng cũng đủ tái hiện hình ảnh của một người đàn bà trải qua biết bao thăng trầm của cuộc đời.
Bà xuất thân trong một gia đình nông dân, sống cuộc đời nghèo khó, lấy chồng sinh con, chồng mất sớm, một tay bà tần tảo làm lụng vất vả nuôi con, sau lại gặp nạn đói hoành hành. Bà cụ Tứ sống dựa vào người con trai duy nhất là Tràng trong căn nhà tồi tàn, rách nát, cuộc sống bấp bênh bữa đói bữa no.
Không chỉ thế trong lòng bà cụ còn luôn mang trong mình mặc cảm không cưới nổi cho con một cô vợ, chỉ vì bà nghèo quá, cả cuộc đời vẫn trắng tay, điều đó làm bà càng thêm yêu thương và tội nghiệp đứa con trai duy nhất của mình.
Đi sâu vào nội tâm nhân vật bà cụ Tứ, ta dần thấy những vẻ đẹp tâm hồn đáng quý hiện ra, trước hết là vẻ đẹp của tình mẫu tử thiêng liêng. Khi nghe anh Tràng thông báo chuyện cưới vợ, bà lão vẫn chưa hiểu ra cớ sự, phần vì bất ngờ, phần vì không thể tin được lại có một người đàn bà chịu về làm vợ con trai mình, chịu sống trong căn nhà tồi tàn, rách nát của bà.
Nhưng sau năm lần bảy lượt anh Tràng giải thích và khẳng định, bà cụ cuối cùng cũng tin đó là sự thật, tuy nhiên thay vì vui mừng, trong lòng bà lại dấy lên biết bao nhiêu tâm sự, một nỗi buồn bắt đầu len lỏi trong tâm hồn già nua của người đàn bà khắc khổ “Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi”. Đời bà đã trải qua biết bao nhiêu những đắng cay, tủi hờn, bà cũng hiểu rõ con người đến tuổi dựng vợ gả chồng, ai cũng mong muốn được một hạnh phúc nho nhỏ, dẫu là giàu sang hay nghèo khó.
Thế nhưng nhìn lại phận mình, phận con trai bà, lòng bà cụ lại tràn đầy những chua xót không tên. Bà tủi phận vì nghèo khó mà không lo cho con nổi một đám cưới, để nó phải tự lấy về một người vợ, một người đàn bà chắc cũng đến bước đường cùng mới phải về đây. Càng nghĩ bà lại càng thấy “ai oán xót thương cho số kiếp con trai mình”, cái sự xúc động, tủi thân ấy khiến “trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai hàng nước mắt”.
Tấm lòng thương con của bà còn thể hiện trong nỗi lo lắng “biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau qua cơn đói khát này không”. Bà không trách móc con trai tự làm chủ chuyện hôn nhân đại sự, mà lòng người mẹ nhân từ chỉ xuyên suốt một nỗi lo đau đáu rằng biết rồi mai đây vợ chồng chúng có vượt qua cơn đói khát này để sống đời với nhau được hay không, hay lại làm khổ nhau. Cụ Tứ thương con, lòng bồi hồi vì có dâu mới, cũng lại trăn trở một nỗi lo lắng cho cuộc đời của người con trai duy nhất.
Thế nhưng cụ không suy nghĩ, buồn rầu quá lâu, người ta nhanh chóng nhìn thấy ở cụ sự thông suốt, thấu hiểu, tự vực dậy tinh thần của mình “Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mấy lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được. Thôi bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con… Chẳng may ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo cho hết được?”.
Cụ đã chấp nhận cái đám cưới chớp nhoáng giữa nạn đói kinh hoàng, đồng thời mở lời động viên các con, săn sóc đến người phụ nữ vừa bước vào nhà làm dâu, vun vén cho vợ chồng Tràng bằng những lời của tổ tiên “Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?”. Bà kín đáo giấu đi những trăn trở lo toan vào lòng, mở ra cho các con của mình một hy vọng tốt đẹp vào tương lai.
Cụ Tứ có tấm lòng bao dung, cảm thông sâu sắc với số phận con người, điều đó bộc lộ rõ nét nhất thông qua cái cách mà bà đối xử với thị – vợ Tràng. Hai người đàn bà một già một trẻ gặp mặt nhau trong một tình huống kỳ lạ – một đám cưới chớp nhoáng, họ đã trở thành mẹ chồng – nàng dâu ngay từ lần đầu tương ngộ.
Thế nhưng không vì sự đường đột xuất hiện của thị mà cụ Tứ tỏ ý xa cách, trái lại bà rất thấu hiểu, bà thương cho thị gặp phải bước khó khăn mới chịu lấy đến con trai bà, cho con trai bà một gia đình. Để cho thị đỡ lúng túng, xấu hổ bà mở lời đồng ý chuyện hôn nhân “ừ, thôi các con đã phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng”.
Rồi khi thấy bộ dạng xấu hổ, tả tơi của thị “lòng đầy thương xót” vội giục “Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống cho đỡ mỏi chân”, bà đã dang rộng vòng tay thương cảm cho thị một con đường, xóa đi cái sự xa lạ trong lòng thị, để thị được vững tin vào cái đám cưới kỳ lạ này, đồng thời xem thị chính thức là dâu con trong nhà mà đối xử.
Bà nghĩ đến sự thiệt thòi của một người phụ nữ không có cỗ cưới trong ngày trọng đại nhất cuộc đời mà thầm thương xót thị, chính lẽ ấy nên bà đã thân mật với cô con dâu mới những lời từ đáy lòng “cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u vui lắm rồi. Năm nay đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá”, nói đoạn không kìm nổi nỗi xúc động, xót xa bà lão “nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt chảy xuống ròng ròng”.
Lòng thương con của người mẹ, sự xót xa cho cuộc đời mình, cùng tấm lòng đồng cảm với thị đã khiến cụ Tứ không nén nổi nước mắt, cuộc đời này bà có lẽ đã khóc nhiều, nhưng khóc lần này chắc là mang nhiều xúc cảm hỗn độn nhất.
Ngoài tình mẫu tử cao đẹp, tấm lòng bao dung nhân hậu, Kim Lân còn khắc họa ở cụ Tứ một vẻ đẹp đáng quý khác, ấy chính là niềm tin vào cuộc sống, vào tương lai ngay giữa những năm tháng tối tăm nhất. Dù đã già cả, không còn được bao nhiêu năm tháng nhưng cụ Tứ vẫn tin tưởng sẽ có một ngày nạn đói đi qua, cuộc sống sẽ khấm khá hơn, bà cũng gieo niềm tin đó vào tâm trí con trai, con dâu của mình. Bà hăm hở cùng con dâu dọn dẹp nhà cửa, cái mặt bủng beo của bà tươi tắn rạng rỡ hẳn lên.
Đối diện với một bữa ăn sáng đạm bạc, khắc khổ “giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, một dĩa muối ăn với cháo” nhưng cả nhà ăn rất ngon lành, bà cụ vừa ăn vừa hăng say kể chuyện làm ăn, vẽ ra một tương tươi sáng trước mắt vợ chồng Tràng, lên kế hoạch nuôi gà đẻ trứng,…
Hình ảnh nồi cháo cám đắng nghét mà cụ Tứ dùng để chiêu đãi các con mừng tân hôn, không chỉ thể hiện tấm lòng của người mẹ, vì không có tiền mà chỉ tìm được ít cám nấu cho con một bữa ăn. Mà nó còn là lời nhắc nhở sâu kín của bà với vợ chồng Tràng rằng, cuộc sống mới chỉ bắt đầu, những khó khăn, vất vả về sau sẽ còn nhiều hơn, vợ chồng phải cố gắng cùng nhau vượt qua những khổ ải, đắng cay như nồi cháo cám nay thì mới mong vào một tương lai hạnh phúc ấm êm được.
Có thể nói rằng, tuy là người già cả nhất, thế nhưng bà cụ lại người có sức sống mạnh mẽ với niềm hy vọng vào tương lai mãnh liệt nhất, chính bà là người mở ra trước mắt con trai con dâu những niềm tin vào tương lai, vào cuộc sống, biết bản thân không thể làm gì hơn, nên cách duy nhất bà có thể giúp họ ấy chính là ra sức động viên các con. Cuối cùng tổng kết lại tất cả những vẻ đẹp của cụ Tứ đều bắt nguồn từ tình mẫu tử thiêng liêng sâu sắc.
Có thể nói rằng mỗi nhân vật trong tác phẩm Vợ nhặt đều là một điển hình cho những người nông dân Việt Nam trong nạn đói năm 1945, ở họ hiện lên những vẻ đẹp phẩm giá, nhân cách, nghị lực, niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống, mà ở cụ Tứ là tình mẫu tử thiêng liêng, tấm lòng bao dung, cùng với hy vọng vào một tương lai tốt đẹp hơn.
Điều đó thể hiện tấm lòng nhân đạo của Kim Lân trong sáng tác của mình, giữa đói khổ, chết chóc tăm tối, thế nhưng nhà văn không hướng người đọc đến sự bi quan tiêu cực, thay vào đó lại thắp sáng đêm đen bằng những vẻ đẹp tiềm ẩn trong từng số phận nghèo khổ.
Tham khảo trọn bộ 🌹 Phân Tích Tình Huống Truyện Vợ Nhặt 🌹 12 Bài Mẫu Hay
Phân Tích Vợ Nhặt Bà Cụ Tứ Ngắn Gọn Nhất – Mẫu 3
Với bài văn phân tích Vợ nhặt bà cụ Tứ ngắn gọn nhất dưới đây, các em học sinh có thể nhanh chóng ôn tập nhân vật và tác phẩm để chuẩn bị cho bài viết trên lớp.
Là một cây bút chuyên viết truyện ngắn, những trang viết của nhà văn Kim Lân luôn hướng về cuộc sống và người dân quê với cuộc sống nghèo khổ thiếu thốn mà lạc quan, yêu đời, và truyện ngắn “Vợ nhặt” là một trong số những tác phẩm như thế. Truyện ngắn “Vợ nhặt” đã khắc họa thành công những hình tượng nhân vật độc đáo để từ đó, người đọc có thể cảm nhận hết cuộc sống, số phận con người trong nạn đói ấy và nhân vật bà cụ Tứ là một trong những nhân vật để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc.
Nhân vật bà cụ Tứ tuy không xuất hiện nhiều trong tác phẩm như nhân vật Tràng hay nhân vật người vợ nhặt song nhân vật bà cụ Tứ vẫn để lại nhiều ấn tượng trong lòng người đọc. Ngoại hình của nhân vật bà cụ Tứ hiện lên dưới ngòi bút của Kim Lân thật nghèo khổ, lam lũ, cơ cực bằng hàng loạt các chi tiết, hình ảnh độc đáo. Đó là cái “dáng người lọng khọng”, “vừa đi vừa húng hắng ho, vừa lẩm bẩm tính toán”.
Nhưng có lẽ, ở nhân vật bà cụ Tứ, người ta ấn tượng với bà nhiều hơn cả chính là ở diễn biến tâm trạng, những dòng cảm xúc vui buồn lẫn lộn của bà trước sự kiện Tràng – con trai mình có vợ. Khi trở về nhà, nhìn thấy Tràng cùng người vợ nhặt của mình ở nhà, trong lòng bà cụ Tứ hiện lên một nỗi ngạc nhiên đến khôn cùng, hàng loạt câu hỏi cứ thế gọi nhau hiện về trong bà “sao lại có người đàn bà nào ở trong nhà mình thế kia? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u?”
Có lẽ, bà cụ Tứ không hiểu, không biết người đàn bà kia là ai không phải vì bà không hiểu mà bởi bà lão ngạc nhiên, không ngờ và không dám tin rằng con trai mình lại có vợ trong những ngày nạn đói diễn ra khủng khiếp như thế. Và rồi, bà lão hiểu và bà hiểu ra bao nhiêu điều khác nữa.
Bà đã tin rằng Tràng đã có vợ và không ai khác người phụ nữ kia chính là con dâu của bà, để rồi trong lòng người mẹ ấy hiện lên bao nỗi niềm xót thương. Đó là sự ai oán, xót thương cho con, cho thị và cho cả chính bà “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mày mở mặt sau này. Còn mình thì…”.
Rồi bà lão khóc, bà khóc vì thương con, vì lo cho con và vì bà chưa làm tròn trách nhiệm của một người mẹ nhưng có lẽ đó còn là những giọt nước mắt của niềm vui, niềm hạnh phúc khi con trai bà có vợ. Qua những dòng cảm xúc đan xen vui buồn của bà cụ Tứ người đọc sẽ không chỉ cảm nhận được tình cảm của bà với con mà hơn thế nữa người ta còn nhận thấy bà là một người giàu tình người, bà đã mở lòng đón nhận nàng dâu mới “Thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng.”
Như vậy, ở nhân vật bà cụ Tứ với những nỗi niềm cảm xúc khác nhau đã cho chúng ta thấy bà không chỉ là một người mẹ giàu lòng yêu thương con mà còn là một người giàu tình thương, sự che chở với những người cùng cảnh ngộ.
Nếu như lúc thấy Tràng cùng người vợ nhặt ở nhà mình, bà cụ Tứ vừa buồn vừa vui thì trong buổi sáng ngày hôm sau – khi có nàng dâu mới, trong ngôi nhà của mẹ con Tràng và trong lòng bà cụ Tứ ngập tràn một niềm vui to lớn. Nếu những ngày trước, gương mặt bà cụ Tứ đầy vẻ khắc khổ thì giờ đây, gương mặt ấy rạng rỡ hẳn lên, nó “nhẹ nhõm, tươi tỉnh hơn ngày thường”. Gương mặt ấy của bà đã toát lên bao niềm vui mừng, phấn khởi và hạnh phúc.
Trong bữa cơm sớm hôm ấy, dù thật thiếu thốn nhưng bà nói toàn “chuyện vui, chuyện sung sướng” về sau. Những câu chuyện ấy cùng với niềm vui, niềm tin đang len lỏi trong tâm trí bà như đã thắp sáng lên trong lòng Tràng và người vợ nhặt niềm lạc quan, yêu đời và có lẽ đó chính là động lực, là niềm tin vào tươi lai tươi sáng hơn của gia đình Tràng. Đồng thời, qua đó cũng thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của bà cụ Tứ – dẫu bên vực thẳm con người ta vẫn luôn yêu đời và tin vào tương lai tươi sáng.
Tóm lại, với ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật độc đáo cùng ngôn ngữ tự nhiên, nhà văn Kim Lân qua truyện ngắn “Vợ nhặt” đã xây dựng thành công nhân vật bà cụ Tứ – một người mẹ giàu lòng yêu thương con, một người phụ nữ giàu tình người, sẵn sàng yêu thương, đùm bọc những người cùng cảnh ngộ.
Đừng bỏ qua 🔥 Giá Trị Nhân Đạo Của Vợ Nhặt 🔥 14 Mẫu Phân Tích Hay
Bài Văn Phân Tích Hình Tượng Bà Cụ Tứ Chọn Lọc – Mẫu 4
Chia sẻ bài văn phân tích hình tượng bà cụ Tứ chọn lọc sẽ giúp các em học sinh trau dồi cho mình những ý văn hay và đặc sắc về nhân vật này.
Lịch sử đã lùi xa vào quá khứ, nhưng những ám ảnh về nạn đói kinh hoàng năm 1945 vẫn còn để lại nỗi đau trong tiềm thức của người dân dân Việt Nam. Vào những năm tháng đó, cái đói khổ cứ bủa vây nơi nơi, không gian làng quê chìm trong không khí tang thương. Nhưng tạm gác lại những đau thương đó, chúng ta vẫn bắt gặp những tia sáng của tình người ấm áp. Điều này đã được thể hiện qua tác phẩm “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân.
Qua tác phẩm, độc giả không chỉ ấn tượng với nhân vật anh cu Tràng cục mịch, với chị vợ “chao chát, chỏng lỏn” nhưng “hiền hậu, đúng mực” mà còn cảm nhận sâu sắc hơn về tình mẹ, tình người thông qua dòng tâm trạng của nhân vật bà cụ Tứ.
Đến khoảng giữa câu chuyện, nhân vật Bà cụ Tứ mới xuất hiện, nhưng sự xuất hiện đó vẫn đủ sâu sắc để hoàn chỉnh hơn ý niệm về một gia đình. Dáng vẻ của người mẹ nông dân nghèo khó đã được nhà văn phác họa qua những chi tiết: “lọng khọng đi vào ngõ, vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng” gợi lên bóng dáng hao gầy, còng còng vì sương gió cuộc đời của người bà quen thuộc.
Trong tác phẩm “Vợ nhặt”, ngoài việc xây dựng một tình huống truyện độc đáo, tác giả Kim Lân còn thể hiện tài năng của mình trong việc miêu tả tâm lí nhân vật. Ngòi bút tinh tế của ông đã khắc hoạ thành công hình ảnh của nhân vật bà cụ Tứ với những diễn biến tâm trạng đầy tinh tế. Khi nhìn thấy người vợ nhặt, khúc dạo đầu mở đầu chuỗi tâm lí của người mẹ nghèo ấy là sự ngạc nhiên, bất ngờ với hàng loạt câu hỏi: “Người đàn bà nào lại đứng ở đầu giường con mình thế kia?”, “Ai thế nhỉ? sao lại chào mình bằng u?”.
Sự việc anh cu Tràng “nhặt vợ” giữa những năm tháng đói kém đã tạo nên một tình huống hết sức đặc biệt để đẩy diễn biến tâm lí nhân vật lên cao trào. Khi chưa hiểu ra cơ sự, bà lão đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, tới mức: “không còn tin vào mắt, vào tai mình nữa”. “Bà lão nhấp nháy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn thì phải. Bà lão nhìn kĩ người đàn bà lần nữa, vẫn chưa nhận ra người nào. Bà quay lại nhìn con tỏ ý không hiểu”.
Người mẹ nghèo cứ băn khoăn như thế cho đến khi mọi chuyện được vỡ lẽ thông qua lời xác nhận của con trai: “Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ…”. Sau khi hiểu ra cơ sự, bà lão “cúi đầu nín lặng”. Đó là hành động chất chứa biết bao tâm sự nỗi niềm. Trước hết, đó là cái im lặng tủi phận đầy xót xa. Là người từng trải, bà ý thức rất rõ về cái nghịch cảnh éo le, nghiệt ngã ẩn sau cuộc hôn nhân của Tràng và thị.
Với tấm lòng yêu thương, bà thầm thương cho số kiếp của người con trai độc nhất: “Chao ôi! người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc gia đình ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này – còn mình thì…”. Phía sau sự ngập ngừng đó là biết bao nhiêu tủi cực, chua xót vì không thể làm tròn bổn phận người mẹ. Cái buồn tủi vây lấy tâm trí khiến bà không kìm được nước mắt: “Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rũ xuống hai hàng nước mắt”.
Ngòi bút tinh tế của nhà văn Kim Lân giống như một thước phim quay chậm để chạm vào những khoảnh khắc thầm kín sâu sắc nhất trong trái tim của người mẹ nghèo. Hai hàng nước mắt đã thể hiện nỗi đau của người mẹ khi chứng kiến cảnh con mình lấy vợ trong hiện thực cái đói bủa vây và tương lai mờ mịt, ảm đạm.
Trước tình huống đầy trái ngang, nghịch lí đó, người mẹ không giấu nổi sự lo lắng: “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống được qua cơn đói khát này không”. Bà tủi phận, thương con rồi thương người “vợ nhặt”. Đó cũng chính là biểu hiện cao đẹp của tấm lòng yêu thương con người.
Những lời độc thoại nội tâm chan chứa tình người ấm áp cứ như những đợt sóng cuộn trào trong lòng người mẹ, thể hiện những rung cảm xót xa của một trái tim nhân hậu: “Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được… Thôi thì bổn phận bà làm mẹ, bà đã chẳng lo được cho con…”.
Bằng sự cảm thông, trân trọng, người mẹ đã chấp nhận nàng dâu mới với tâm trạng “mừng lòng”. Người mẹ nghèo cố nén những giọt nước mắt cùng sự lo lắng vào trong để an ủi các con: “Có đèn đấy à? Ừ, thắp lên một tí cho sáng sủa…Dầu bây giờ đắt gớm lên mày ạ”. Nỗi lo sự ngày mai đã trở thành một nỗi niềm riêng không thể chia sẻ.
Qua đó, chúng ta có thể thấy được sự hiền hậu nhân từ của trái tim người mẹ. Tình yêu thương đã vượt qua những ranh giới của cái đói, cái nghèo: “kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo… lấy nhau lúc này u thương quá….”. Trước sự tàn phá khủng khiếp của nạn đói, người mẹ chỉ biết khuyên vợ chồng Tràng chở che, yêu thương để cùng nhau vượt qua.
Trong cái đói, cái khổ, chúng ta vẫn có thể thấy được niềm vui, niềm hi vọng của bà cụ Tứ về một ngày mai tươi sáng hơn: “Rồi may ông giời cho khá….ai giàu ba họ, ai khó ba đời…”. Câu nói vang lên như một lời động viên giản dị, chứa đựng niềm tin và sự lạc quan.
Dường như niềm tin đã chuyển hoá thành niềm vui. Trong buổi sáng sau khi Tràng có vợ, bà vui trong công việc “sửa sang nhà cửa vườn tược”. Tâm trạng người mẹ trở nên nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, “cái mặt bủng beo, u ám của bà bỗng rạng rỡ hẳn lên”.
Trong buổi sáng đầu tiên đón nàng dâu mới, bà dậy từ rất sớm, bà “xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa, giẫy những búi cỏ mọc nham nhở trong vườn”. Trong “cái bữa cơm ngày đói thật thảm hại” lại chỉ là có với món cháo loãng và món “chè khoán” đắng chát, nhưng bà vẫn cố tạo ra không khí ấm cúng, vui vẻ để động viên các con. Người mẹ cố gắng lan tỏa ngọn lửa của niềm hi vọng thông qua những câu chuyện về tương lai. Ngay bên bờ vực thẳm của cái chết, bà vẫn nghĩ đến ánh sáng ngày mai, đến sự sống.
Bằng tất cả sự nâng niu trân trọng, Kim Lân đã xây dựng thành công hình tượng bà cụ Tứ – người mẹ nghèo với những phẩm chất tốt đẹp, là hiện thân của tình yêu thương, lòng nhân ái, thương con vô hạn. Người mẹ già ấy đã tạo nên ánh sáng le lói của niềm tin, sự lạc quan trong thiên truyện.
Tiếp tục đón đọc 🌳 Giá Trị Hiện Thực Của Vợ Nhặt 🌳 10 Mẫu Phân Tích Hay
Văn Mẫu Vợ Nhặt Nhân Vật Bà Cụ Tứ Phân Tích Đặc Sắc – Mẫu 5
Bài văn mẫu Vợ nhặt nhân vật bà cụ Tứ phân tích đặc sắc dưới đây sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích dành cho các em học sinh.
Kim Lân là cây bút truyện ngắn xuất sắc. Ông viết rất hay về thú “phong lưu đồng ruộng”. “Nên vợ nên chồng” và “Con chó xấu xí” là hai tập truyện ngắn nổi tiếng của nhà văn. Vợ nhặt – một truyện ngắn độc đáo rút trong tập “Con chó xấu xí” xuất bản năm 1962.
Truyện thấm đẫm tinh thần nhân đạo đã phản ánh cuộc đời nghèo khổ, cơ cực và khát vọng về hạnh phúc gia đình của người nông dân Việt Nam trong thời Pháp thuộc. Bối cảnh của truyện là trận đói kinh khủng năm 1945. Nhà văn kể về chuyện anh cu Tràng “nhặt” được vợ khi cả xóm ngụ cư người chết đói như rạ. Trong ba nhân vật của truyện, hình ảnh bà cụ Tứ – mẹ anh cu Tràng để lại cho người đọc nhiều ấn tượng.
Cuộc đời bà cụ Tứ thật đáng thương: tuổi già, nhà nghèo, góa bụa, hiền lành và thầm lặng … Bà cụ lần đầu xuất hiện trong bóng hoàng hôn tê tái, khi người con trai làm nghề kéo xe dẫn người đàn bà xa lạ về gia đình bà. Một mái nhà tranh “đứng rúm ró trên mảnh vườn cỏ mọc lổn nhổn những cái bụi cỏ dại”. Sau tấm phên rách nát là những “niêu bát, sống áo vứt bừa bãi cả trên giường dưới đất”. Người mẹ già nghèo khổ “hung hắng ho” chẳng khác nào một chiếc bóng “lọng khọng đi vào ngõ”.
Bà cụ ngạc nhiên khi chợt thấy một người đàn bà xa lạ đứng ngay đầu giường thằng con mình. Bà lão “đứng sững lại “, càng ngạc nhiên hơn. Bà băn khoăn tự hỏi: “Sao lại chào mình bằng u? Không phải cái Đục mà. Ai thế nhi?”. Bà hấp háy mắt, thấy mắt mình “nhoèn ra”, … rồi “lập cập” bước vào nhà. Lại nghe một tiếng chào nữa, bà lão “băn khoăn” ngồi xuống giường, lòng bà phân vân không kể xiết! Sau khi nghe Tràng giới thiệu người khách lạ, bà cụ Tứ vừa mừng vừa lo lại tủi thân.
Lòng bà xáo trộn bao nỗi niềm. Một đời người trải qua nhiêu đau khổ, mất mát, cay đắng, bà lấy làm xót xa, thấy mình làm mẹ mà không tròn bổn phận với con. Bà khóc. Tâm trạng cay đắng, chua xót: “Lòng người mẹ già nghèo khổ ấy… vừa ai oán, vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình”.
Bà cụ Tứ nghĩ đến gia cảnh mà thêm buồn ủi. Tiếng than, tiếng thở dài như tràn qua dòng nước mắt. Thương con, thương cho số phận mình, những tháng năm dài dằng dặc với bao chuyện buồn. Bà thương mình trải qua một cuộc đời đầy cay đắng: “Chao ôi! Người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái nở mặt sau này. Còn mình thì…”
Nạn đói đang đe dọa. Bà phấp phỏng lo âu: “Chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không!”. Góa bụa, nghèo khổ, cô đơn. Chồng chết rồi mụn con gái chết theo. Bà sống với đứa con trai thô kệch “mắt nhỏ tí, quai hàm bạnh ra” lại có tật vừa đi vừa lẩm bẩm như người dở hơi. Bà mỗi ngày một già mà Tràng vẫn sống độc thân. Tục ngữ có câu: “Trẻ cậy cha, già cậy con”. Bà mẹ già càng thấy buồn, lo vô hạn.
Tuy mặc cảm cho số phận, bà chợt nghĩ ngay đến cái may của gia đình mình: Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình, mà con mình mới có vợ được”. Hạnh phúc đến với tuổi già quá lớn lao và đột ngột! Niềm vui xôn xao dậy lên trong lòng người mẹ già nghèo khổ.
Bà vui sướng nhận nàng dâu mới. Cử chỉ bà rất dịu dàng, âu yếm. Bà gọi người đàn bà xa lạ là “con” rồi xưng một cách thân tình, ruột thịt: “Ừ! Thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”. Bà nhìn nàng dâu mà lòng đầy thương cảm. Vượt qua mọi tục lệ, bà vui mừng từ nay con trai bà đã có vợ. Bà sung sướng về hạnh phúc của con. Mừng mừng tủi tủi, nước mắt chảy ra ròng ròng.
Mẫu tử tình thâm! Lòng mẹ già đối với con trai và nàng dâu thật là mênh mông. Bà hạ thấp giọng xuống thân mật, vừa khuyên con vừa an ủi: “cốt làm sao cho chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá…”.
Kim Lân rất tinh tế khi miêu tả những biến thái trong tâm hồn bà cụ Tứ. Cảnh mẹ chồng đón nàng dâu mới, đơn sơ nghèo nàn mà cảm động. Tâm trạng người mẹ già lúc thì ngạc nhiên lo lắng, lúc thì vui buồn lẫn lộn. Mặc cảm về phận nghèo, nhưng lòng bà vẫn ít nhiều hi vọng về cuộc đời của con: “rồi ra may mà ông trời cho khá… biết thế nào hả con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời. Có ra thì con cái chúng mày về sau…”
Bữa cơm đón nàng dâu mới sau “tối tân hôn” của Tràng là một nét vẽ rất tài tình, giàu tình nhân bản. Trên cái mẹt rách làm mâm là một đĩa muối, một lùm rau chuối thái rồi và một nồi cháo cám. Mỗi người được hai bát cháo lõng bõng. Thế mà bà cụ Tứ rất vui.
Trong bữa bà nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng này. Bà gọi nồi cháo cám “đắng chát” là “chè khoán”, rồi rít khen ngon đáo để,ít nhiều tự hào, an ủi động viên con trai và nàng dâu: “Cám đấy mày ạ! ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy!”.
Mượn ngoại cảnh, sự việc để phô diễn tâm trạng nhân vật cũng là một thành công của Kim Lân khi khắc họa tâm trạng bà cụ Tứ khi cuộc đời mới đang hé mở. Cảnh tượng mới mẻ, đổi thay trong nhà ngoài sân: “hai cái ang đầy nước, đống rác mùn tung hoành ngay lối đi đã được hốt sạch. Mấy chiếc áo quần rách bươm như tổ đĩa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc nhà đã được đem ra phơi…”.
Nhà cửa, sân ngõ được quét dọn sạch sẽ, quang quẻ. Bà cụ Tứ cùng con dâu “lúi húi” giẫy cỏ… Cuộc đời của bà, của con bà, gia đình bà bắt đầu đổi thay. Tiếng hờ khóc tỉ tê của những nhà có người thân mới chết đói. Nước mắt bà cụ Tứ lại chảy ra, nhưng hà “không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc”.
Trên cái nền đen tối ấy là hình ảnh lá cờ đỏ và đoàn người đi phá kho thóc của Nhật. Trong lo âu có niềm vui phấp phỏng, thoáng hiện mơ hồ. Nạn đói chưa thể vượt qua, nhưng người mẹ già phúc hậu, từng trải là chỗ dựa cho hai vợ chồng Tràng đi tới… để khẳng định niềm tin: “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời…”
Hạnh phúc cầm tay. Con trai đã có vợ. Bà cụ Tứ lo chết đói nhưng lòng vẫn vui và hi vọng. Có một chi tiết đầy ý nghĩa. Có lẽ lần đầu tiên trong nhà người mẹ nghèo khổ đã có hai hào dầu thắp đèn, bóng tối đang bị xua tan dần. Đó là ánh sáng của hạnh phúc, ánh sáng của hi vọng.
Trong bài thơ “Ba mươi năm đời ta có Đảng”, Tố Hữu viết:
“Đời ta gương vỡ lại lành
Cây khô cây lại đâm cành nở hoa”
Cuộc đời của mẹ con Tràng nhất định sẽ “đâm cành nở hoa”. Có biết trận đói năm Ất Dậu 1945, hơn hai triệu đồng bào ta chết đói mới thấy hết lòng mẹ được miêu tả, mới cảm nhận được giá trị nhân đạo của truyện ngắn Vợ nhặt này.
Không chỉ có phân tích nhân vật bà cụ Tứ, SCR.VN chia sẻ ☔ Phân Tích Nhân Vật Thị Trong Vợ Nhặt ☔ 15 Bài Hay Nhất
Phân Tích Nv Bà Cụ Tứ Đạt Điểm Cao – Mẫu 6
Để viết phân tích nv bà cụ Tứ đạt điểm cao, các em học sinh có thể tham khảo và vận dụng những ý văn phân tích nhân vật đặc sắc dưới đây:
Kim Lân không sáng tác nhiều, thế nhưng hầu hết các tác phẩm của ông đều để lại tiếng vang, đưa ông trở thành một trong mười nhà văn tiêu biểu của nền văn học hiện thực trước cách mạng. Với cuộc đời gắn bó với làng quê, tấm lòng thấu hiểu sâu sắc về cuộc đời của những người nông dân lầm lũi, Kim Lân đã tạo dựng nên bức tranh hiện thực đặc sắc, chân thật về con người của thế kỷ trước, đặc biệt là trong những giai đoạn khó khăn nhất của đất nước.
Tác phẩm Vợ nhặt là một trong những tác phẩm thành công và xuất sắc nhất của Kim Lân, truyện không chỉ phản ánh số phận con người, hiện thực thảm khốc trong nạn đói năm 1945 mà quan trọng hơn trong tác phẩm của mình, tác giả đi sâu vào các giá trị nhân đạo, bộc lộ những vẻ đẹp tiềm ẩn trong tâm hồn người nông dân, dù thực tại có tàn khốc, bị cái đói hành hạ, cái chết luôn cận kề, nhưng ở họ ta vẫn thấy sáng lên vẻ đẹp của niềm tin, hy vọng vào một cuộc sống tốt đẹp, tấm lòng bao dung, thông cảm, vẻ đẹp của tình mẫu tử đong đầy.
Trong tác phẩm Vợ nhặt người thể hiện rõ những vẻ đẹp này chính là nhân vật bà cụ Tứ, dù không có nhiều phân cảnh, thế nhưng bà vẫn thể hiện được những vẻ đẹp tiềm ẩn mà Kim Lân muốn truyền tải.
Bà cụ Tứ là một điển hình của người nông dân thế kỷ trước, sống một đời với những gánh nặng mưu sinh vất vả lại phải vật lộn với cái đói khủng khiếp những năm 1944-1945. Bà cụ Tứ là người đàn bà góa chồng, sống trong một căn “nhà” rách nát trong xóm Ngụ Cư.
Hình ảnh bà cụ xuất hiện trong truyện cũng chỉ vỏn vẹn mấy từ, nhưng in đậm trong tâm trí người đọc bức chân dung của một người phụ nữ trải qua gần hết đời người với những nhọc nhằn, tủi khổ, đó là một bóng dáng gầy yếu, bệnh tật miệng “húng hắng ho”, dáng người “lọng khọng”, luôn “lẩm bẩm tính toán gì trong miệng”.
Nhìn vào cảnh ấy, tức thời trong trí óc người đọc đã hiện lên cái số phận khốn khổ của bà, khi mà cả đời cụ Tứ có lẽ đã chịu nhiều đau thương vất vả, hoàn cảnh neo đơn, cố sức nuôi lớn con cái, rồi đến khi đã tuổi gần đất xa trời, bà vẫn không được hưởng cuộc sống an nhàn, mà vẫn phải chịu cảnh khốn khổ, gồng mình chống chọi với cơn đói khủng khiếp.
Không chỉ vậy cả cuộc đời bà cụ Tứ vẫn luôn phải chịu những dày vò, day dứt về chuyện không thể lo nổi cho cậu con trai duy nhất một người vợ, chỉ vì bà nghèo quá. Nhưng càng trong những hoàn cảnh ngặt nghèo, khốn khó, thông qua cách miêu tả diễn biến tâm lý tinh tế từ ngòi bút Kim Lân, vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ này lại càng hiện lên rõ nét, đó là vẻ đẹp thiêng liêng của tình mẫu tử, niềm hy vọng về cuộc sống tốt đẹp hơn và tấm lòng bao dung, cảm thông cho những số phận bất hạnh.
Câu chuyện bắt đầu từ việc anh cu Tràng bất ngờ dẫn về một người vợ nhặt, Tràng lấy vợ ngay giữa cơn đói ngặt nghèo nhất, một đám cưới không hoa, không đèn, không có mâm bàn. Thị theo không Tràng về nhà chỉ với 4 bát bánh đúc, về ở với Tràng bằng hi vọng rằng sẽ có một cuộc sống tốt hơn, tránh khỏi cái nạn đói khủng khiếp đang bủa vây khắp xóm làng.
Trong hoàn cảnh ấy, khi bà cụ được con trai giới thiệu cho người con dâu mới cưới, thoạt tiên bà chẳng hiểu đầu đuôi cớ sự, sự chậm rãi của một người già cả, cùng với sự kiện lạ lùng khiến bà cụ trong tức thời không thể lý giải, lòng bà có biết nhau nhiêu cớ sự thắc mắc.
Tuy nhiên bà không vội vã hỏi dồn, hay tỏ ra hoang mang, mà trái lại bà im lặng nhìn con, ra ý để con trai mình từ từ giải thích đầu đuôi câu chuyện. Đó là biểu hiện của sự từng trải, của tấm lòng biết lắng nghe, chia sẻ, cũng là tấm lòng tin tưởng, yêu thương con của một người mẹ hiểu lý lẽ.
Sau khi nghe anh Tràng giải thích hết câu chuyện cưới vợ lạ lùng, bà bỗng “hiểu ra bao nhiêu là cớ sự”, rồi thì người mẹ ấy im lặng với biết bao nhiêu suy nghĩ ngổn ngang trong lòng, bao nhiêu những lo âu cùng dồn về tấm lòng của người mẹ thương con tha thiết. Bà “ai oán xót thương cho số kiếp con trai mình”, đến cưới một tấm vợ cũng phải tự thân lo lấy, mà lại cưới ngay giữa cảnh đói kém, cái chết đang rình rập khắp nơi, trong đó có cả bà, con trai và người đàn bà xa lạ.
Càng nghĩ bà cụ Tứ càng thấy xót xa, tủi cho phận mình, phận con, nỗi xúc động ấy khiến“trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai hàng nước mắt”. Thế nhưng sống ở đời đã mấy chục năm, có chuyện lạ nào, sự kiện nào mà bà chưa từng trông thấy, bà nhanh chóng thoát ra khỏi những nỗi buồn rầu trong lòng, nhìn đến người đàn bà sẽ là con dâu trong nhà nay mai, người sẽ bầu bạn với con trai, bà nhanh chóng vực lại tinh thần, chấp nhận mối hôn sự chớp nhoáng của cậu con trai.
Bà cụ hiểu rằng Tràng cũng đã đến tuổi lấy vợ từ lâu, nay Tràng và thị đã phải duyên phải kiếp với nhau thì bà cũng bằng lòng, bà chỉ trăn trở mãi một mối lo “biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau qua cơn đói khát này không”.
Khi ấy tình thương của người mẹ lại càng hiện rõ, bà không trách con trai tự ý làm chủ hôn nhân, cũng không dò hỏi về câu chuyện cưới xin lạ lùng này mà bà chỉ có một ý nghĩ, sợ rằng vợ chồng Tràng không gồng gánh nổi nhau qua cơn đói khát khủng khiếp này, để mà xây dựng một mái ấm hạnh phúc. Bà thương cho số phận con trai mình thiếu thốn đủ điều, đến cuộc sống vợ chồng cũng bấp bênh chẳng thể đoán được tương lai phía trước.
Thế nhưng trong ngày trọng đại, ngày vui của cuộc đời con trai, bà đã không để bản thân buồn rầu quá lâu, cũng không muốn phá hỏng buổi tân hôn, bà cụ nhanh chóng vực lại tinh thần với những điều tự nhủ thật lạc quan“Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mấy lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được. Thôi bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con… Chẳng may ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo cho hết được?”.
Rồi nhanh chóng trò chuyện, săn sóc với thị, kéo thị ra khỏi cảnh ngượng ngùng của người dâu mới về nhà chồng. Đồng thời nói những lời an ủi động viên, vun vén cho cuộc hôn nhân mới bằng những lời của cha ông rằng “Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?”
Đồng thời bà cũng nhanh chóng giấu nhẹm vào lòng những lo toan, sầu khổ đang bộn bề trong lòng, để mở ra cho các con một cuộc sống đầy hy vọng và tốt đẹp phía trước, dẫu rằng ngoài kia là hoạt cảnh thực tối tăm, đầy chết chóc, đau thương. Tấm lòng người mẹ của bà cụ Tứ quả thực ấm áp và đầy sự thấu hiểu, bao dung.
Không chỉ ở tấm lòng yêu thương, lo nghĩ cho con mà hình ảnh cụ Tứ còn hiện lên là một con người có tấm lòng bao dung, thấu hiểu và cảm thông sâu sắc với những số phận con người bất hạnh, mà điển hình ở đây là thị. Trước cảnh tượng con trai dẫn về một người đàn bà không lai lịch, rách rưới, tàn tạ, giới thiệu là vợ bà cụ Tứ không hề tỏ ý không hài lòng hay cự tuyệt trái lại bà chỉ im lặng nghe con trai kể chuyện rồi thầm quan sát người đàn bà.
Sau khi đã rõ đầu đuôi câu chuyện bà nhanh chóng chấp nhận cuộc hôn nhân chớp nhoáng đồng thời tỏ ra thấu hiểu cho cái khó của thị “Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mấy lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được”. Bà cũng thương cho người đàn bà khốn khổ, phải đến bước đường cùng, bị cái đói hành hạ đến mức nào thì mới chấp nhận kiếp làm vợ theo không của Tràng.
Ánh nhìn bà cụ Tứ đăm đăm vào thị, là cái nhìn của sự thấu hiểu, xót xa cho một kiếp người tàn tạ, thương cảm cho phận một người phụ nữ không được cưới hỏi đàng hoàng, không có mâm cao cỗ đầy, lầm lũi trở thành vợ người ta mà không một đồng sính lễ. Nghĩ đến đấy dường như bà lão càng thông cảm hơn cho thị bởi lẽ cũng may có thị xuất hiện thì con trai bà mới có được tấm vợ, có được cuộc sống gia đình điền viên.
Chính những suy nghĩ thấu đáo, hiểu lý lẽ như vậy, bà cụ đã nhanh chóng thấy thân thiết với người con dâu mới, nhẹ nhàng săn sóc thị “Con ngồi xuống đây, ngồi xuống cho đỡ mỏi chân”, để khiến cho thị đỡ ngại ngùng bỡ ngỡ trước tổ ấm mới. Rồi khi nhìn thấy sự rụt rè của thị, lòng bà lại tràn đầy thương xót, tội nghiệp cho một kiếp đàn bà, sinh ra vốn đã khổ, vào cảnh đói nghèo lúc này lại càng khổ cực hơn, có lẽ rằng cuộc đời thị cũng sẽ lại giống như cuộc đời bà mấy mươi năm trước.
Nghĩ thế bà lại càng thương yêu thị hơn, nhẹ nhàng mà bảo ban, thân mật, giải thích cho thị về chuyện không có cỗ bàn đám cưới, lòng hy vọng thị sẽ không trách cho cái nghèo khó của mẹ con bà, mà cùng yêu thương vun vén hạnh phúc với Tràng, đồng thời cũng để thị đỡ tủi thân trước cảnh theo không về làm dâu nhà người.
Rồi bà cũng thỉ thỉ tâm sự “cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u vui lắm rồi. Năm nay đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá”, ấy là tấm lòng yêu thương con trai, con dâu, sự xót xa của người làm mẹ trước cảnh khổ cực của con cái. Có thể nói rằng dù ít học, nghèo khó thế nhưng cụ Tứ lại có một tấm lòng thấu hiểu lý lẽ, đồng cảm, yêu thương con người sâu sắc, làm câu chuyện càng thêm ấm áp tình người, xua tan đi cái lạnh lẽo của nạn đói khủng khiếp đang hoành hành ngoài kia.
Không chỉ ấn tượng ở tình mẫu tử sâu sắc, lòng bao dung, thấu hiểu, bà cụ Tứ còn bật lên với vẻ đẹp của niềm tin, niềm hy vọng mãnh liệt vào cuộc sống, vào một tương lai tốt đẹp phía trước, dù đang ở trong cảnh tượng khốn khổ, kinh hoàng nhất của nạn đói năm 1945.
Cụ Tứ đã ở cái tuổi gần đất xa trời, cũng chẳng thể sống thêm mấy mươi năm nữa, thế nhưng trong lòng bà lúc nào cũng ngập tràn niềm tin về một tương lai sáng sủa, về chuyện một ngày nạn đói qua đi, gia đình bà sẽ lại có những ngày sống không phải lo bữa đói bữa no, cuộc sống sẽ đỡ bấp bênh vất vả hơn. Đồng thời cụ cũng gieo niềm tin, niềm hy vọng ấy vào tâm trí con trai con dâu mình bằng những lời thủ thỉ tâm tình rằng “Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời”.
Rồi trong bữa cơm sau đêm tân hôn của vợ chồng Tràng, bà cụ luôn nói đến những chuyện vui vẻ, gợi cho các con những dự định tốt đẹp trong tương lai, nào là chuyện nuôi gà đẻ trứng, chuyện làm ăn. Những lời nói đầy ắp hy vọng, niềm tin vào một tương lai khấm khá hơn khiến bữa cơm sáng chỉ “có độc một lùm rau chuối thái rối, một dĩa muối ăn với cháo”, dù khắc khổ, đạm bạc nhưng cũng thật vui vẻ và ấm áp.
Trong bữa cơm sáng, bà cụ Tứ còn chiêu đãi các con bằng nồi chè khoán nấu từ cám đắng ngắt và nghẹn bứ nơi cổ họng, nó không chỉ thể hiện tấm lòng của người mẹ già nghèo khổ yêu thương con sâu sắc, mà còn bộc lộ ý tứ sâu xa của bà cụ về cuộc sống nhiều khó khăn sao này. Bà hy vọng rằng các con mình sao này dù gặp nhiều khó khăn, vất vả hơn nữa, cũng phải cố gắng mà vượt qua, cũng giống như ngày hôm nay họ cố nuốt xuống miếng cháo cám đắng nghét, khó ăn, để bắt đầu cuộc sống mới vậy.
Có thể nói rằng dù già cả nhất, nhưng cụ Tứ lại chính là người có sức sống và niềm tin mãnh liệt nhất, trở thành người truyền cảm hứng, gieo vào lòng Tràng và thị những hy vọng, những khao khát vượt qua số phận, xây dựng một cuộc sống mới tốt đẹp hơn, hướng tới một tương lai tươi sáng, không còn sợ cảnh đói rách hành hạ.
Vợ nhặt của Kim Lân là một trong những tác phẩm phản ánh rõ nét tính kinh hoàng, thảm hại của người nông dân Việt Nam trong nạn đói năm 1945. Thế nhưng bên cạnh những cái tàn tạ, ghê gớm của cảnh đói rét, hiện thực tối tăm, Kim Lân cũng đồng thời thể hiện những giá trị nhân đạo sâu sắc khi thông qua hiện thực để làm bật lên vẻ đẹp của con người trong cảnh bần hàn, khốn khổ.
Bà cụ Tứ giữa cái đói nghèo, tủi phận, giữa cảnh con trai mang về một người vợ nhặt, bà đã hiện lên với hình ảnh một người mẹ thấu hiểu và yêu thương con sâu sắc, một người đàn bà biết cảm thông, chia sẻ và bao dung với những kiếp người khốn khổ như thị, và cuối cùng là hình ảnh của một con người có niềm tin, sức sống mãnh liệt, là người gieo rắc vào thế hệ sau những tư tưởng tốt đẹp, tạo lập cho các con hy vọng vào cuộc sống, vượt qua nghịch cảnh để tiến tới tương lai tươi sáng hơn.
Ngoài phân tích nhân vật bà cụ Tứ, giới thiệu cùng bạn 🍀 Cảm Nhận Về Nhân Vật Người Vợ Nhặt 🍀 12 Bài Hay Nhất
Nghệ Thuật Phân Tích Nhân Vật Bà Cụ Tứ Trong Đoạn Trích – Mẫu 7
Nghệ thuật phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong đoạn trích “Vợ nhặt” là một trong những giá trị cốt lõi của tác phẩm. Tham khảo bài văn mẫu phân tích nhân vật bà cụ Tứ như sau:
Trong nền văn học hiện đại Việt Nam, Kim Lân được biết đến là một cây bút chuyên viết về truyện ngắn với mảng đề tài quen thuộc hướng về người nông dân. Tác phẩm “Vợ nhặt” được in trong tập “Con chó xấu xí” (1962) là minh chứng cho điều này. Trong truyện ngắn này, một trong những sáng tạo đặc sắc của nhà văn Kim Lân là nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, đặc biệt là diễn biến tâm lí của bà cụ Tứ – người mẹ nông dân hiền lành, phúc hậu.
Trong “Vợ nhặt”, Kim Lân đã xây dựng được hình tượng người mẹ – bà cụ Tứ với diễn biến tâm trạng thật phức tạp và sinh động từ buổi tối ngày hôm trước cho đến buổi sáng ngày hôm sau khi anh cu Tràng có vợ. Nét tâm trạng đầu tiên của bà cụ Tứ khi lật đật theo con từ ngõ vào nhà là sự ngạc nhiên, bất ngờ.
Khi nhìn thấy có người phụ nữ lạ trong nhà mình, người mẹ bỗng nhiên “đứng sững lại” và chất vấn bản thân bằng những câu hỏi đầy băn khoăn: “Quái, sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ. Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia. Sao lại chào mình bằng u?”, “Ai thế nhỉ”, “Ô hay, thế là thế nào nhỉ”. Tất cả những ngạc nhiên, ngỡ ngàng của bà cụ xuất phát từ việc bà chưa bao giờ nghĩ đến việc có một ngày anh cu Tràng sẽ lấy vợ trong hoàn cảnh trớ trêu và tội nghiệp này.
Sau khi nghe lời giải thích của Tràng, bà lão “cúi đầu nín lặng” và lo lắng. Biết bao dòng cảm xúc của sự tủi thân, tủi phận tuôn trào trong tâm hồn của một người mẹ nghèo thương con. Bà cụ Tứ dần “hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình”. Rồi người mẹ ấy tự trách bản thân qua việc so sánh “người ta” với “mình” và thương cho số kiếp “nhặt vợ”: “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?”.
Trong hoàn cảnh khốn cùng và cái đói đang hoành hành, trong tâm hồn bà cụ Tứ vẫn ngời sáng vẻ đẹp của tình người. Đối với người vợ nhặt, bà cụ không khỏi động lòng trắc ẩn và “lòng đầy thương xót” đối với số phận lênh đênh của chị con dâu.
Bởi vậy, những lời lẽ đầu tiên mà bà nói với thị là những câu nói chất chứa sự quan tâm, ân cần và yêu thương: “Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân”, “Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”. Câu nói tuy vô cùng giản dị nhưng loại toát lên vẻ đẹp của sự ấm áp, sự cưu mang đối với những thân phận nhỏ bé, tội nghiệp giữa nạn đói.
Cũng trong đêm hôm đó, bà dặn dò các con về việc làm ăn và gieo lên những niềm hi vọng cho con cái: “ai giàu ba họ, ai khó ba đời”. Nhưng dù vậy, trong suy nghĩ của người mẹ nghèo vẫn trĩu nặng nỗi lo lắng về tương lai phía trước của các con. Trong bóng tối nhập nhoạng, bà lão “đăm đăm nhìn ra ngoài”, “Bóng tối trùm lấy hai con mắt” với sự phấp phỏng lo âu cho tương lai của các con.
Trong buổi sáng sớm ngày hôm sau, tâm trạng của bà cụ Tứ vẫn diễn ra với sự phức tạp và sinh động. Bà cảm thấy vui hơn “nhẹ nhàng tươi tỉnh khác hẳn ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên” và bà nói với hai con những lời động viên ân cần và mở ra những viễn cảnh về tương lai.
Nhà văn Kim Lân đã làm nổi bật nét tâm lí lạc quan của người mẹ nghèo, nhưng niềm vui, niềm hi vọng đó vẫn xen lẫn những niềm lo âu mơ hồ. Miếng cháo cám đắng chát, nghẹn ứ ở cổ cùng âm thanh của tiếng trống thúc thuế đã làm nỗi tủi hờn bỗng nhiên len lỏi trong tâm trí của những con người sống lay lắt qua nạn đói, đặc biệt là tiếng thở dài của bà cụ Tứ: “Đằng thì nó bắt giồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế. Giời đất này không chắc đã sống qua được đâu các con ạ”.
Và rồi những giọt nước mắt lăn xuống trên gò má của người mẹ nghèo thương con vô bờ bến và hiểu rõ những khó khăn đang đón đợi đôi vợ chồng trẻ ở phía trước. Như vậy, sự lo âu, hi vọng xen lẫn những niềm lạc quan là những nét tâm lí sinh động và có sự đan cài, quyện hòa của bà cụ Tứ.
Như vậy, thông qua diễn biến tâm trạng của nhân vật bà cụ Tứ, chúng ta có thể thấy được tài năng của nhà văn Kim Lân trong việc miêu tả tâm lí nhân vật. Ngòi bút của nhà văn đã len lỏi, lách sâu vào những nét tâm lí vô cùng đơn giản, tinh tế của người mẹ nông dân nghèo từ đêm hôm trước đến sáng hôm sau khi Tràng có vợ.
Qua đó, chúng ta có thể thấy được những vẻ đẹp của bà cụ Tứ với tình yêu thương đối với con trai, con dâu, sẵn sàng cưu mang, đùm bọc con người giữa nạn đó cùng sự lo âu, trăn trở về tương lai nhưng vẫn ánh lên tia sáng của sự lạc quan và niềm hi vọng vào một ngày mai tươi sáng hơn.
Đọc nhiều hơn 🌻 Phân Tích Nhân Vật Tràng 🌻 15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Phân Tích Bà Cụ Tứ Qua 2 Lần Miêu Tả – Mẫu 8
Gợi ý phân tích bà cụ Tứ qua 2 lần miêu tả dưới đây sẽ giúp các em học sinh nắm vững cho mình những nội dung và tình tiết quan trọng về nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm “Vợ nhặt”.
Vợ nhặt là một trong những tác phẩm xuất sắc viết về người nông dân của nhà văn Kim Lân. Bằng ngòi bút nhân đạo của mình, người nghệ sĩ ấy không chỉ khắc họa những hình ảnh chân thực đến mức xót xa về người nông dân mà qua đó còn nói lên niềm cảm thương sâu sắc trước số phận bấp bênh, khốn cùng của họ.
Trong tác phẩm, cả ba nhân vật Tràng, Thị và mẹ Tràng đều có những nỗi niềm riêng, những khổ tâm riêng, song sau tất thảy trong tâm hồn họ vẫn ánh lên những vẻ đẹp đáng được trân trọng. Nhân vật bà cụ Tứ- mẹ Tràng là nhân vật có tâm lí diễn biến khá phức tạp được nhà văn diễn tả rất thành công.
Bà cụ Tứ trước hết là một người đàn bà, nghèo khổ, góa chồng, sống cùng con trai ở xóm Ngụ Cư, cậu con trai tên Tràng, dù đã lớn những anh cu khá ngờ nghệch, lại xấu xí, thô kệch. Hai mẹ con sống với nhau, cùng nhau trải qua những gian khổ của cuộc sống thiếu thốn xã hội những năm 1945. Bà chưa bao giờ dám nghĩ anh cu Tràng con mình sẽ có vợ dù lòng bà rất muốn có một người con dâu bởi bà biết con mình thế nào, hoàn cảnh của gia đình ra sao.
Khi anh cu Tràng dắt vợ về chờ đợi mẹ trong căn nhà rách nát ấy, lúc về tới nhà, thấy một người đàn bà đang ngồi ở đầu giường của cậu con trai, bà rất ngạc nhiên. Và càng ngạc nhiên hơn khi nghe tiếng chào mẹ từ miệng người đàn bà ấy. Anh cu Tràng biết mẹ chưa hiểu chuyện gì đang xảy ra bền cất tiếng “ Kìa nhà tôi nó chào u….Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ”.
Tiếng nói ấy, lời khẳng định ấy được cậu con trai của bà thốt ra, bà vẫn chưa thể tin được đây là sự thật, cố nhìn cho kĩ người đàn bà vẫn đang ngồi nơi đầu giường: “Bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn thì phải. Bà lão nhìn kĩ người đàn bà lần nữa, vẫn chưa nhận ra người nào. Bà lão quay sang nhìn con tỏ ý không hiểu”.
Hóa ra con bà đã có vợ, một đứa vừa xấu, vừa nghèo như cu Tràng lại có kẻ nhận theo về ư? Lòng bà vẫn chưa hết ngạc nhiên, còn đong đầy những câu hỏi thắc mắc pha lẫn tò mò.
Khi dần hiểu ra mọi chuyện, biết Tràng nhặt được người đàn bà kia về làm vợ, bà chỉ biết “cúi đầu nín lặng” mà thôi. Xót thương biết bao cho số kiếp của con trai bà, bà nhớ về người chồng năm xưa của mình, nhớ về người con gái bà từng có những đã qua đời, bà càng thương, càng tủi, càng xót xa. Là một người mẹ, bà thương con vô bờ, bà biết con trai mình từ nay cũng đã yên bề gia thất, có mừng đấy chứ, nhưng mừng thì ít mà lắng lo thì nhiều.
Bà trách phận mình làm mẹ lại chẳng thể cho con lấy một ngày ấm êm, cũng chẳng có gì lo cho con khi con lấy vợ. Bà cũng nặng lòng biết bao khi người chết vì đói thì nhiều, mạng sống mỏng manh như sợi tóc treo ngàn cân, nhà thì thiếu thốn, khốn khó mà con trai lại lấy vợ lúc này.
Rồi bà khóc vì thương con, thương cô con dâu mới, hai đứa rồi sẽ ra sao, có chăng vượt qua được kiếp nạn đọa đày này. “Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rủ xuống hai dòng nước mắt”. “Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá!…” “ừ thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng…”. “Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân”.
Làm sao có thể nói hết những yêu thương mà tấm lòng bà cụ dành cho con, những lời dịu dàng, chân thành được thốt lên từ trái tim ấm áp và sâu tận tâm can của người mẹ khiến ta không khỏi nghẹn lòng. “Bà cụ nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng”.
Là một người từng trải, bà hiểu được rằng nếu không có nạn đói xảy ra, chắc gì con mình đa có vợ, đói khát thế, người ta mới tìm đến con mình. Dẫu vậy, thứ hạnh phúc nhỏ bé mà anh Tràng có được vẫn mang đến cho bà, cho gia đình nhỏ sự ấm áp. Dù biết phía trước còn những gập ghềnh, bà vẫn động viên con, khuyên lơn con.
Bà dặn con phải sống yêu thương, thuận hòa, đùm bọc san sẻ nhau vượt qua cơn hoạn nạn. Trong lời dặn dò ấy, chứa chan cả một niềm tin rồi mai sẽ khác, rồi tương lai sẽ lại bình yên: “Rồi ra may mà ông giời cho khá…” ai giàu ba họ ai khó ba đời. Có ra thì con cái chúng mày về sau. Bà cụ “nói toàn: chuyện vui, toàn chuyện sung sướng sau này”.
Trong buổi sáng sau ngày cô con dâu về, bà cố gắng dậy thật sớm, nhổ sạch vườn cỏ trước nhà, quét dọn lại nhà cửa, vườn tược. Hơn ai hết, bà xem công việc ấy như một sự yêu quý và trân trọng của mình dành cho người con dâu mới đến, bà đón con trong niềm vui để con đỡ tủi phận mà an lòng.
“Cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xăm thu dọn, quét tước nhà cửa”. Bữa sáng đầu tiên đã con dâu là một nồi cháo cám, dù là một món ăn chát đắng những bà vẫn cố mỉm cười vui vẻ để động viên con. Đu nghèo khó đến thế, nhưng trong bữa ăn của buổi sáng hôm ấy ta vẫn cảm nhận được không khí gia đình đầy ấm áp, tình cảm mẹ con vẫn dạt dào.
Nhân vật bà cụ Tứ lấp lánh trong tác phẩm những đức tính cao đẹp của người phụ nữ, người mẹ Việt Nam. Đó là sự đảm đang, lòng nhân hậu, vị tha, tình thương yêu con vô bờ bên và sự kiên cường trong ý chí. Trong gian nan, giữa ngàn sự chết chóc, trăm vạn mối lo toan, bà vẫn lạc quan, vẫn không nuôi hy vọng và niềm tin vào một ngày mai tốt đẹp.
Bằng cách kể chuyện hấp dẫn, sự thấu hiểu tâm lý, lòng người đã giúp nhà văn đi sâu vào từng ngõ ngách tâm hồn của nhân vật, để khi đọc những trang văn viết nên từ ngòi bút ấy, ta được sống với những cảm xúc cùng nhân vật để cùng hạnh phúc, cùng lo lắng, cùng khóc, cùng cười. Thật cảm ơn Kim Lân đã dành cho những người nông dân lam lũ một tình yêu thương vô bờ và bền chặt đến vậy.
SCR.VN chia sẻ 💧 Cảm Nhận Về Nhân Vật Tràng Trong Vợ Nhặt 💧 15 Bài Hay
Phân Tích Tâm Trạng Nhân Vật Bà Cụ Tứ – Mẫu 9
Đón đọc dưới đây bài phân tích tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ sẽ giúp các em học sinh có thêm cho mình những ý tưởng làm bài phong phú.
Trước và sau Cách mạng tháng Tám, dù viết không nhiều nhưng giai đoạn nào Kim Lân cũng có tác phẩm hay. Là một cây bút truyện ngắn vững vàng, ông đã viết về cuộc sống và con người ở nông thôn bằng tình cảm, tâm hồn của một nhà văn chân chất vốn là đứa con của đồng ruộng. Trong bối cảnh của nạn đói năm 1945, Kim Lân viết truyện ngắn Vợ nhặt. Tác phẩm là một đóng góp xuất sắc cho nền văn xuôi dân tộc. Với một cốt truyện đơn giản nhưng tình huống truyện độc đáo và hấp dẫn.
Vợ nhặt đề cập đến một vấn đề lớn có tính hiện thực và nhân đạo sâu sắc; những con người Việt Nam lương thiện, trong tai họa đói kém khủng khiếp do thực dân, phát xít gây ra, đã cưu mang đùm bọc nhau và hi vọng, trông chờ vào sức mạnh giải phóng của cách mạng. Ấn tượng sâu đậm của người đọc với tác phẩm có lẽ là tấm lòng đáng quý của mẹ con Tràng và cũng là tâm lòng thật đáng quý của nhà văn đối với những người lao động nghèo khổ.
Anh Tràng có vợ trong một hoàn cảnh không bình thường. Không phải anh Tràng cưới vợ, cũng không phải là lấy vợ theo nghĩa thông thường mà là “nhặt vợ”, nói như người miền Trung và miền Nam là “lượm vợ” ở ngoài đường. Nhưng việc làm đó lại có ý nghĩa nhân ái của một lấm lòng nhân hậu.
Thấy người đàn bà đói quá anh sẵn sàng cho ăn dù chẳng dư dật gì. Thấy người đàn bà quyết tâm theo mình, dù cũng sợ cho tương lai, anh vẫn không nỡ nào từ chối. Tràng dắt vợ về nhà trong một tâm trạng vừa lo lắng bâng quơ và sung sướng một cách mới mẻ, lạ lẫm…
Nhân vật bà cụ Tứ, mẹ Tràng không được tác giả nói đến nhiều nhưng qua những nét đặc tả và tâm lý tính cách rất chân thật sinh động, nhân vật đã tạo được một sự cảm thông sâu sắc với người đọc. Cũng như Tràng, người mẹ khốn khổ, già yếu sống trong một xóm ngụ cư vất vưởng ấy một người đàn bà nhân hậu.
Vừa về đến nhà, thấy một người đàn lạ, bà cụ Tứ “đứng sững lại” hết sức ngạc nhiên, “thế là thế nào”. Bà không thể tin rằng con mình lấy vợ trong hoàn cảnh này. Nhưng khi hiểu ra cớ sự, “bà lão cúi đầu nín lặng”, bà hờn tủi xót thương cho số kiếp của đứa con mình và cho thân phận của mình. “Chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?”.
Rồi bà cảm thấy khổ tâm, nghèo quá lấy gì để ra mắt bạn bè lối xóm. “Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà quá nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt chi cái úc này… chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá”. Và nỗi khổ tâm đau xót ấy cô đọng lại, biến thành những “dòng nước mắt chảy xuống ròng ròng” thật tội nghiệp.
Trong truyện ngắn Một đám cưới của Nam Cao cảnh đời đã khổ (phải rước dâu vào ban đêm để mọi người khỏi thấy cô dâu rách rưới, nhờ có đám cưới con, cha mẹ mới được một bữa ăn no), ở chuyện này, cái khổ nhiều hơn gấp bội. Bữa ăn đầu tiên của gia đình thay cho đám cưới là một bữa “chè cám”.
Đem một người đàn bà xa lạ về làm vợ trong một hoàn cảnh như vậy, mẹ nghĩ thế nào? Tràng lo lắm chứ. Khi biết mẹ đồng ý trước một sự việc đã rồi “Tràng thở phào một cái, ngực nhẹ hẳn đi”. Bởi người mẹ ấy có quyền không đồng tình, có quyền trách mắng Tràng. Nhưng vì thương con bà cụ cũng thương dâu.
Bà hiểu ra rằng dù sao người ta chịu lấy con mình cũng là điều đáng quý. Với những người già cả, trong môi trường xã hội phong kiến khắt khe, không phải ai cũng dễ dàng nhận ra điều ấy. Bà “nghĩ đến cuộc đời cơ cực khổ dài dằng dặc của mình” rồi nhìn đứa con dâu cũng cực khổ như mình “lòng đầy thươg xót”. Trong không khí ngại ngùng, lúng túng của mọi người, bà đã có thái độ tế nhị, quan tâm đầy nhân hậu.
Bà nói đỡ cho cô dâu còn xấu hổ: “Con ngồi xuống đáy, ngồi xuống đây cho đỡ mỗi chân”. Bà lưu tâm ý tứ đến tình cảm riêng tư của con: “Hôm nào nghỉ ở nhà kiếm lấy ít nứa về đan cái phên mà ngăn ra mày ạ”.
Tấm lòng của người mẹ ấy thật đáng quý. Không lo nổi vợ cho con, nay nó có vợ thì bà cũng mừng và thấy phải có trách nhiệm với nó. Bà cố nén nỗi buồn, nỗi lo, động viên con tin ở sự sống và tương lai bằng việc làm chăm sóc của mình. Bà cùng cô dâu mới sửa sang dọn dẹp lại nhà cửa, động viên nhau bằng những chuyện vui, chuyện tương lai sáng sủa: Khi nào có tiền mua lấy đôi gà…này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem”.
Trước cái hạnh phúc nhỏ bé của con, cuộc sống của bà mẹ dường như cũng được đổi khác, bà “cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thương, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Từ thái độ bao dung ấy, hạnh phúc đơn sơ nhưng tấm lòng đã đến với mọi người. Nhân vật bà cụ Tứ đã mang được một ý nghĩa khái quát lớn: ở thời đại nào, hoàn cảnh nào tâm trạng của những bà mẹ nghèo cũng thật tội nghiệp, họ hiểu con, thương con, lo lắng cho con nhưng vì nghèo khổ họ phải chịu đắng cay, chua xót.
Với một cốt truyện đơn giản nhưng tính cách nhân vật được xây dựng tinh tế, truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân đã nêu lên được những vấn đề có tính nhân bản sâu sắc. Con người lao động dù ở tình huống bi thảm đến đâu vẫn khao khát hạnh phúc và họ chí tìm thấy khi biết cưu mang giúp đỡ lẫn nhau. Cảm động biết bao, dưới cái nhìn nhân ái của nhà văn, những con người khốn khổ ấy đã có thể tìm thấy những hạnh phúc, dù nhỏ nhoi trong cuộc đời.
Vợ nhặt của Kim Lân như một sự tiếp nối tất yếu của những tác phẩm hiện thực phê phán của Nam Cao, Tô Hoài từ trước Cách mạng tháng Tám. Cảnh đời cũng vẫn là tối tăm, ngột ngạt, nhưng nhân vật của Kim Lân đã có được niềm tin và hi vọng vào cuộc sống. Và chắc chắn cuộc đời sẽ được đổi khác, hình ảnh cuối cùng của tác phẩm “lá cờ đỏ bay phất phới” thể hiện niềm tin đó.
Giới thiệu đến bạn 🌟 Phân Tích Nhân Vật Tràng Sau Khi Có Vợ 🌟 8 Mẫu Cảm Nhận Hay
Phân Tích Tâm Trạng Của Bà Cụ Tứ Học Sinh Giỏi – Mẫu 10
Tham khảo tài liệu văn mẫu phân tích tâm trạng của bà cụ Tứ học sinh giỏi sẽ giúp bạn luyện tập nâng cao kỹ văn viết và phân tích nhân vật văn học.
Kim Lân là một trong những cây bút chuyên viết về những người nông dân. Những câu chuyện của ông luôn giản dị, chất phác như chính hình ảnh của ông vậy. “Vợ nhặt” là một tác phẩm được ông lấy bối cảnh vào những năm nạn đói 1945, truyện chứa chan niềm thương cảm về những kiếp người nghèo khổ bám víu lấy nhau giữa khung cảnh “người chết như ngả rạ”.
Và sáng bừng trong khung cảnh đói khát ấy là tình yêu thương của những con người dành cho nhau. Hình ảnh bà cụ Tứ – người mẹ già nghèo khổ cùng với những cảm xúc, những tâm trạng phức tạp khi chứng kiến đứa con trai duy nhất của mình “nhặt vợ” đã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.
Nhân vật chính trong tác phẩm Vợ nhặt là một chàng trai tên Tràng, sống tại một xóm ngụ cư. Giữa những năm tháng đói khát, hắn đi kéo xe thóc thuê để kiếm sống và trong một lần, hắn bắt gặp một người đàn bà nghèo khổ ngồi bên đường để “chờ nhặt hạt rơi vãi”, người đàn bà ấy đã cùng hắn đẩy xe bò thóc sau vài câu nói đùa vu vơ. Lần thứ hai hắn gặp lại thị là khi thị đã đói đến mức “gầy sọp hẳn đi” và hắn đã mời thị ăn bánh đúc. Chỉ với bốn bát bánh đúc, thị đã chấp nhận theo hắn về nhà và làm vợ hắn.
Có thể nói tình huống truyện mà Kim Lân dựng lên vô cùng độc đáo, “có một không hai” trong văn học Việt Nam. Qua đó ta chợt xót xa về sự mong manh, tội nghiệp của con người trong nạn đói, nhưng hơn hết là sự xúc động mạnh mẽ trước tình yêu thương, đùm bọc lẫn nhau của những con người nghèo khổ giữa cái đói khát. Trong bức tranh ấm áp của tình người, ta còn bắt gặp hình ảnh của một người mẹ già với tấm lòng yêu thương con, thương người hết mực, đó là bà cụ Tứ.
Bà cụ Tứ – mẹ Tràng hiện lên chỉ qua vài dòng giới thiệu ngắn ngủi của tác giả. Đó là một bà cụ già nua, nghèo khổ, là dân xóm ngụ cư. Cái dáng đi của bà “lọng khọng”, chậm chạp, lại “vừa đi vừa lẩm bẩn tính toán gì trong miệng”. Bà hiện lên với một dáng vẻ của một người đàn bà đầy lam lũ và khổ cực. Bà có một đứa con trai, nhưng chưa từng nghĩ tới việc dựng vợ cho hắn, bởi nhà bà nghèo quá, đói quá, ai lại chịu gả vào một ngôi nhà chỉ là “cái nhà vắng teo đứng rúm ró”, đến ăn còn không đủ?
Ấy vậy mà giữa lúc nạn đói hoành hành dữ dội nhất, Tràng lại dẫn về một cô “vợ”, một người đàn bà Tràng “nhặt” được lúc đi làm. Vào lúc mà mình còn chẳng lo nổi cho thân mình như thế này, thì việc Tràng lấy vợ, phản ứng của bà cụ ra sao đây? Liệu bà có chấp nhận nàng dâu “không cưới hỏi” ấy hay lại trách con trai bà “đèo bòng”, “rước cái của nợ đời về”?
Khi thấy đứa con trai “đon đả” đón mình từ ngoài ngõ, phản ứng đầu tiên của bà là sự ngạc nhiên. Một sự “phấp phỏng” dâng lên trong lòng bà cụ, bà không hiểu tại sao hôm nay con trai bà lại có thái độ khác lạ như thế! Và sự ngạc nhiên của bà càng lên đến tột độ khi nhìn vào trong nhà và bắt gặp một người đàn bà khác đang “đứng ngay đầu giường thằng con mình” và “chào mình bằng u”.
Bà lão “đứng sững lại”, niềm băn khoăn dường như khiến đôi mắt già nua của bà “nhoèn” đi, bà “hấp háy” đôi mắt, cố “nhìn kỹ” người đàn bà ấy. Sự ngạc nhiên và băn khoăn bao trùm lấy người đàn bà già nghèo khổ, bà ngạc nhiên tột độ, chưa hiểu gì cho đến khi đứa con trai lên tiếng.
Đến khi đứa con trai giải thích mọi chuyện thì bà chợt “cúi đầu nín lặng”. Trong lòng người mẹ ấy đang nghĩ những gì? Kim Lân đã khéo léo dẫn dắt tâm trạng của người mẹ già ấy, khéo léo để người đọc nhìn thấy những biến chuyển đang cuộn trào trong lòng người phụ nữ ấy.
Bà cúi đầu lặng thinh, nhưng trong lòng bà thì chợt hiểu ra, “bà lão hiểu rồi”. Bà hiểu rằng đứa con trai mình nay đã tự thành gia lập thất, đã có thêm một người mà bầu bạn cùng mình, thế nhưng, nó lại lấy nhau giữa lúc đói kém nhất đời thì sẽ ra sao đây?
Có lẽ, người phụ nữ nghèo khổ ấy cả đời đã phải rơi nước mắt nhiều lần, ấy vậy nhưng lần này đây, giọt nước mắt ấy lại khác biệt. Nó là tình thương, nó là sự xót xa cho Tràng, từ “kẽ mắt kèm nhèm của bà rủ xuống hai dòng nước mắt”. Giọt nước mắt ấy “vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp của đứa con mình”. Thế nhưng, bà cũng hiểu rằng, nhà mình nghèo, Tràng lại xấu xí, nay nó có được người bầu bạn thì thật hạnh phúc biết bao! Bà vừa thương nhưng cũng vừa mừng cho Tràng.
Bà cụ thương con bao nhiêu thì bà lại càng thương chính mình bấy nhiều. Bà xót thương cho số phận nghèo khổ cả cuộc đời của mình “Chao ôi,người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì….”
Cái lặng thinh trong dòng suy nghĩ của bà là nỗi thương thân tủi phận. Cả cuộc đời bà vất vả, ấy vậy mà chẳng thể làm gì được cho con cái, bà thấy có lỗi với con vì chẳng thể lo lắng chuyện dựng vợ gả chồng cho nó. Đến giờ này, khi con bà có vợ, bà vừa vui mừng vừa tủi phận biết bao “chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá”!
Thương con, thương mình, rồi “đăm đăm nhìn người đàn bà”, bà chợt thấy thương cho người phụ nữ này. Người đàn bà nghèo khốn khổ ấy phải tới “bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình”. Bà cảm thông cho thị, cảm thông cho sự bất đắc dĩ của thị, lòng bà “đầy thương xót” cho người đàn bà trước mặt. Và bà cũng cảm thương cho cả sự vui sướng đầy ngờ nghệch của Tràng.
Chỉ thế thôi, nhưng người đọc có thể thấy rõ tấm lòng của người mẹ già ấy. Đó là tấm lòng của một người phụ nữ hết thảy thương yêu con cái và yêu thương cả những người khác có cùng cảnh ngộ với mình nữa. Bà cụ Tứ không chỉ cảm thông mà còn thấu hiểu những nỗi lòng của người đàn bà nghèo đói kia, thấu hiểu để chấp nhận thị trở thành con dâu của bà.
Sau tất cả, bà thấy mừng, thấy hạnh phúc vì đứa con xấu xí của mình nay đã có người bầu bạn, bà mở lòng với nàng dâu mới “thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”. Và bà cũng mong “có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy” để mừng con dâu mới trong nhà, thế nhưng giờ đây, giữa lúc đói khát này, bà chỉ mong “cốt làm sao chúng mày hoà thuận là y mừng rồi”. Đó là tấm lòng của một người mẹ, tấm lòng của một người phụ nữ giàu lòng thương người!
Thế nhưng song hành cùng niềm vui có thêm dâu mới lại là một nỗi lo lắng, một niềm thương xót đến tột cùng. Bởi Tràng và thị đến với nhau giữa hoàn cảnh “người chết như ngả rạ”, những người con sống thì “xanh xám như những bóng ma”. Họ đến với nhau là niềm hạnh phúc, nhưng cũng là “rước cái của nợ đời về”.
Từ khi biết chúng nó lấy nhau, bà cụ Tứ đã rưng rưng tự hỏi “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?”. Cơn đói khát của những năm tháng đó, khiến cho một niềm vui tưởng chừng như tuyệt vời, cũng bị chen lẫn vào những tiếng thở dài, chen lẫn vào bóng tối của sự chết chóc, của tiếng quạ kêu than: “bà lão nghĩ đến cuộc đời cực khổ dài dằng dặc của mình. Vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không?”
Những diễn biến tâm trạng của bà cụ Tứ khi biết Tràng “nhặt” được vợ thật phức tạp. Nó biến chuyển trong từng thời khắc, từ sự ngạc nhiên, băn khoăn, tới sự thương cảm, từ sự hạnh phúc tới nỗi lo lắng vô bờ. Thế nhưng, ta vẫn có thể thấy được tấm lòng của một người mẹ yêu thương con, tấm lòng cảm thông, thấu hiểu của người đàn bà từng trải với một người phụ nữ xa lạ khác, và cả sự trân trọng của người mẹ chồng với người con dâu mới trong nhà.
Có dâu mới trong hoàn cảnh này là phải chia sớt cái ăn, là chia sớt sự sống, thế nhưng, bà cụ vẫn vui lòng chấp nhận. Bà cụ Tứ quả thật là một người phụ nữ giàu đức hi sinh và giàu lòng thương người!
Tâm trạng bà cụ Tứ không chỉ có những chuyển biến vào buổi tối hôm đó mà còn cả sáng hôm sau khi thị trở thành con dâu bà. Nếu như trước đây, khuôn mặt của bà “bủng beo, u ám” thì hôm nay, gương mặt ấy lại “nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường”, “rạng rỡ hẳn lên”. Phải chăng một niềm hi vọng sống mới đã nhen nhóm trong lòng người đàn bà già cả ấy? Một sự phần khỏi, hạnh phúc, một niềm tin tràn đầy vào tương lai phía trước?
Trong bữa cơm đón nàng dâu mới chỉ có “độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo”, thế nhưng, gia đình ba người lại “ăn rất ngon lành”. Bữa cơm mừng dâu mới thảm hại làm sao, thế nhưng trong lòng mỗi người lại tràn ngập những niềm vui sướng mới, tràn ngập một niềm tin vào cuộc sống.
Bà cụ Tứ thường ngày khuôn mặt u ám, bủng beo nay lại trở nên khác lạ. Bà kể “toàn những chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này”. Đó là tấm lòng lạc quan, yêu đời, khao khát sống của một người mẹ già muốn truyền lại cho những đứa con của mình niềm tin về một cuộc sống mới, hạnh phúc hơn, no ấm hơn.
Bà cụ Tứ là một nhân vật chỉ xuất hiện rất ít trong tác phẩm, nhưng lại để lại trong lòng chúng ta những ấn tượng thật sâu sắc. Qua từng chuyển biến tâm trạng của bà, ta thấy được tấm lòng của một người mẹ già trong đói khát vẫn luôn yêu thương con cái, luôn truyền cho con một niềm lạc quan sống, niềm tin về cuộc đời. Và ta cũng thấy được hình ảnh của một người phụ nữ nông thôn nghèo khổ, giàu lòng nhân ái, sẵn sàng chia sẻ “nguồn sống” ít ỏi của mình cho người khác trong giai đoạn đói khát nhất cuộc đời.
Có thể nói, Kim Lân đã thể hiện cực kỳ thành công khi miêu tả diễn biến tâm lý của bà cụ Tứ. Từng giai đoạn biến chuyển tâm lý phức tạp của người đàn bà già nua ấy được nhà văn miêu tả hết sức chân thực, hết sức hợp lý. Dường như, ông đã đặt mình vào trong nhân vật ấy để mà cảm nhận được những rung động sâu thẳm nhất trong lòng người mẹ ấy!
Vợ nhặt là tác phẩm hiện thực xuất sắc khi đã phản ánh được số phận và vẻ đẹp tình người đáng quý của những những người nông dân trước Cách mạng tháng Tám. Nạn đói khủng khiếp đã vắt kiệt sự sống của con người nhưng ở đâu đó bên trong những con người như bà cụ Tứ, Tràng, người vợ nhặt vẫn tiềm ẩn những vẻ đẹp thật đáng trân trọng, đó là vẻ đẹp của tình thương, của sức sống mạnh mẽ.
Ngoài ra, tại SCR.VN còn có 🌺 Phân Tích Nhân Vật Tràng Sáng Hôm Sau 🌺 14 Mẫu Hay Nhất
Phân Tích Bà Cụ Tứ Khi Tràng Dẫn Vợ Về – Mẫu 11
Bài văn mẫu phân tích bà cụ Tứ khi Tràng dẫn vợ về dưới đây sẽ mang đến cho các em học sinh những góc nhìn và phân tích nhân vật sâu sắc.
Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân viết về cuộc sống ngột ngạt, bức bối, với nạn đói khủng khiếp năm 1945. Kim Lân không miêu tả kĩ cái hiện thực tàn khốc của nạn đói lúc bấy giờ mà tập trung thể hiện vẻ đẹp tinh thần ẩn giấu sau cái bề ngoài xơ xác vì đói khát của những người nghèo khổ.
Trong cảnh ấy, họ vẫn nhen nhúm niềm tin và hi vọng vào tương lai tươi đẹp. Trong “Vợ nhặt” xuất hiện ba nhân vật: Tràng, bà cụ Tứ và người vợ nhặt, thì bà cụ Tứ – mẹ anh Tràng đã gây được nhiều thiện cảm đối với người đọc hơn cả bởi tấm lòng nhân hậu, vị tha, đức hi sinh rất đáng trân trọng của bà.
Kim Lân đã để cho bà cụ Tứ xuất hiện ở giữa tác phẩm, thế nhưng bà cụ Tứ đã trở thành nhân vật trung tâm của tác phẩm. Khi miêu tả bà cụ Tứ, ngòi bút Kim Lân chân thực trong từng hình ảnh và từng chi tiết. Bà cụ Tứ hiện lên là một bà mẹ có số phận bất hạnh vì chồng bà chết sớm, đứa con gái út cũng mất sớm, bà chỉ còn lại một đứa con trai duy nhất làm nghề kéo xe bò và anh ta là người dở hơi.
Chính vì vậy, hai mẹ con sống trong một căn nhà tồi tàn, rúm ró ở xóm ngụ cư và người con trai đang có nguy cơ ế vợ. Nỗi đau khổ, tủi nhục suốt đời đè nặng lên thân phận đã tạo nên tính cách của bà. Chân dung nhân vật bà cụ Tứ được tác giả giới thiệu dần dần. Bắt đầu là “tiếng người húng hắng ho”, rồi một bà lão với cái dáng “lọng khọng” từ đầu ngõ “vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng”.
Tính từ “lọng khọng” rất dân dã và giàu chất tạo hình giúp người đọc hình dung ra cái dáng gầy gò, xiêu vẹo của bà mẹ già bởi gánh nặng cuộc đời, bởi cái đói nghèo. Và chính cái nghèo khó cũng làm trên khuôn mặt bà hiện lên một nét “bủng beo u ám”. Qua miêu tả ngoại hình bà cụ Tứ, mà chúng ta thấy được, đó là người mẹ có cuộc đời khổ cực, bất hạnh.
Chiều hôm trước, bà cụ Tứ mang một tâm trạng ngạc nhiên khi từ ngoài ngõ đi vào, thấy thái độ khác thường của Tràng “reo lên như một đứa trẻ” và “lật đật chạy ra đón mình” thì bà lão theo con vào trong nhà với tâm trạng “phấp phỏng”. Đó là biểu hiện của sự lo lắng, của sự hồi hộp bởi bà không biết có sự gì sẽ đợi mình ở trong nhà. Khi đến giữa sân, nhìn thấy người đàn bà thì bà cụ ngạc nhiên “đứng sững lại” – một biểu hiện nữa của sự ngạc nhiên và đó là “sự ngạc nhiên hơn”.
Điều đó chứng tỏ sự ngạc nhiên trong bà càng lúc càng nhiều, sự ngạc nhiên sau lớn hơn sự ngạc nhiên trước. Tác giả đã dùng ngôn ngữ độc thoại nội tâm để diễn tả tâm trạng băn khoăn, thắc mắc của bà cụ lúc này. Hàng loạt câu hỏi đặt ra trong đầu óc già nua của bà: “Quái, sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia ? Sao lại chào mình bằng u ? Không phải con cái Đục mà. Ai thế nhỉ ?”
Một loạt các câu hỏi ấy chính là sự lục tìm trong trí óc của mình để tìm câu trả lời cho thỏa đáng. Nhưng bà cụ vẫn chưa tìm thấy câu trả lời, vì thế mà bà đổ lỗi cho cặp mắt của mình, không tin vào mắt mình “bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn ra thì phải”. Bà lão “nhìn kĩ người đàn bà lần nữa, vẫn chưa nhận ra người nào” nên bà quay sang dò hỏi con trai với sự ngạc nhiên không hiểu của chính mình.
Khi người đàn bà trông thấy bà cụ về, cất tiếng chào “U đã về ạ”, thì kể cả tiếng chào ấy – một lời chào thân mật cũng không làm bà hiểu ra. Bà vẫn băn khoăn, phân vân đoán định và một câu hỏi nữa đặt ra: “Ô hay, thế là thế nào nhỉ ?” rồi bà lão “băn khoăn ngồi xuống giường”. Mãi đến khi Tràng vừa giới thiệu, vừa giải thích “đây là nhà tôi” rồi “chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau… Chẳng qua nó cũng là cái số cả” thì bà lão mới bắt đầu hiểu ra.
Khi hiểu ra thì bà lão “cúi đầu nín lặng”. Cái tư thế “cúi đầu nín lặng” của bà cụ Tứ hàm chứa biết bao suy nghĩ, tâm sự, nỗi niềm và những tâm sự, nỗi niềm ấy khó có thể nói thành lời. Dường như qua tư thế đó, người đọc dần dần nhận ra nội tâm phong phú bên trong cái vẻ tưởng chừng như già nua, lẩm cẩm của bà. Trong bà cùng một lúc xuất hiện cả con người lí trí và con người tình cảm.
Con người lí trí không chỉ giúp bà hiểu ra là con trai bà đã có vợ mà nó còn giúp cho bà hiểu ra những khó khăn, đói nghèo mà Tràng phải chịu đựng; rồi lại giúp bà hiểu ra chính số phận bất hạnh của đời bà khiến cho con bà sống trong hoàn cảnh trớ trêu như vậy.
Còn con người tình cảm của bà tỏ ra rất “xót thương cho số kiếp đứa con mình”. Sự ai oán, sự xót thương đó vừa hướng tới chính mình, vừa hướng tới con bà, vừa thể hiện nỗi đau của bản thân, vừa mang tình thương tới người con trai. Bởi vậy cho nên bao cảm xúc của bà lão vừa tội nghiệp, lại vừa nhân hậu biết bao !.
Cảm xúc trong bà càng lúc càng cụ thể hữu hình: “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái nở mặt sau này. Còn mình thì…”. Đọc câu văn này, chúng ta có cảm giác như trái tim người mẹ khốn khổ đang rung lên đau đớn, xót xa.
Cảm xúc của người mẹ hàm chứa sự so sánh giữa người ta với con mình trong hoàn cảnh dựng vợ gả chồng cho con. Lối so sánh ấy làm nổi bật không phải chỉ sự thiếu thốn, khó khăn trong gia đình bà mà dường như còn hàm chứa sự trách móc của bà với chính bản thân. Một sự ai oán cho bản thân bà ! Đó cũng chính là sự biểu hiện của sự day dứt trong lòng bà. Nhưng tất cả đều là biểu hiện của lòng nhân ái à lòng thương con rất tha thiết.
Cảm xúc xót thương còn được thể hiện qua sự lo lắng của bà hướng tới các con: “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không”. Vừa tủi phận mình, vừa thương con khiến cho “trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt”.
Bà lão kìm nén xúc động, cố nuốt những giọt nước mắt mặn đắng vào cõi lòng vốn đã chất chứa đầy đau khổ của một đời tủi cực. Những giọt nước mắt vẫn cứ lặng lẽ rỉ ra từ đôi mắt đục mờ của người mẹ già tội nghiệp. Đoạn văn không chỉ là những câu trần thuật đơn thuần mà mỗi câu văn đều rưng rức cảm xúc xót thương của tác giả.
Diễn biến câu chuyện đã lên tới đỉnh điểm. Cái sắc sảo, tinh tế trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật của Kim Lân được thể hiện khá đậm nét. Cả ba nhân vật đều có chung một tâm trạng căng thẳng. Tràng và người “vợ nhặt” chờ đợi người mẹ già nua lên tiếng. Bà cụ Tứ hiểu ra câu chuyện thì sự đau buồn của bà khiến cho bà lão “khẽ thở dài” vì bà muốn giấu đi nỗi buồn khổ và sự lo lắng của chính mình.
Bà lão tạm thời bứt ra khỏi tâm trạng triền miên của cảm xúc suy tư để hướng về người vợ nhặt, để “đăm đăm nhìn người đàn bà” khi thị “cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt”. Bà lão không chỉ nhìn người con dâu bằng thị giác mà còn hướng tới con dâu bằng cả tấm lòng. Vì thế bà lão nghĩ: “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được…”.
Trong suy nghĩ đó của người mẹ hướng tới hai đối tượng “người ta” và “con mình”. “Người ta” trở thành người mang ơn và “con mình” là người chịu ơn. Điều đó đã chứng tỏ người mẹ già không hề coi thường, khinh bỉ người vợ nhặt, mà còn cảm thông, trân trọng, mặc dù đó là người đàn bà rách rưới, nghèo đói và không gia đình. Từ tâm tình dành cho người vợ nhặt, bà lão lại nghĩ về bổn phận người làm mẹ, tiếp tục day dứt “chẳng lo lắng được cho con…”.
Bà đã phó thác, trông chờ số phận vào sự may rủi: “May ra mà qua khỏi được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết làm thế nào mà lo cho hết được”. Hoàn cảnh thật bi đáp khốn cùng ! Mặc dù lo lắng, mặc dù đau buồn nhưng dường như người mẹ đã chấp nhận “nàng dâu mới” tự lúc nào.
Sau khi “khẽ dặng hắng một tiếng”, bà lão “nhẹ nhàng” nói với “nàng dâu mới”: “Ừ, thôi thì các con phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng…”. Một sự chấp nhận tự nguyện của người mẹ trong tâm trạng vui mừng. Hai tiếng “mừng lòng” mà bà lão nói với các con thật chất phác, chân tình biết bao ! Lời nói mộc mạc ấy đã đem lại sự xúc động và yên tâm cho người vợ nhặt đáng thương kia. Sự chấp nhận của bà cụ Tứ khiến anh Tràng “thở đánh phào một cái, ngực nhẹ hẳn đi”.
Bà mẹ nghèo khổ, nhân hậu đã thấu hiểu cảnh ngộ và tâm trạng của người phụ nữ xa lạ bỗng dưng trở thành “con dâu” của mình. Ngôn ngữ độc thoại nội tâm ở đoạn này một lần nữa diễn tả tinh tế tâm trạng phức tạp của nhân vật bà cụ Tứ. Cảm xúc như những đợt sóng cứ cuộn lên trong lòng người mẹ, khiến người đọc xót xa. Chao ôi, người mẹ thật tội nghiệp !. Tình thương con, ý thức trách nhiệm của người mẹ khiến cho bà phải lo cưới vợ cho con bằng tất cả khả năng, dẫu chỉ là lời nói…
Khi đã nhận “nàng dâu mới” thì bà cụ Tứ tiếp tục tâm sự, từ tốn dặn dò các con mình: “Nhà ta thì nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời ? Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau”. Trong lời tâm sự của bà, có lời thú nhận rất chân thật là “nhà ta thì nghèo”. Từ cái lí do ấy thì bà mẹ đã nhắc nhở các con “Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn”.
Tuy nhắc nhở vậy, bà còn động viên các con mình bằng một câu nói rất quen thuộc trong dân gian: “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời ?”. Lời động viên đó thể hiện niềm lạc quan của người mẹ nghèo trong hoàn cảnh khốn cùng. Hơn nữa, bà lão còn gieo cho các con niềm tin vào tương lai. Quả là một lời động viên đáng quý, giúp cho các con bà có thể vượt qua giai đoạn khó khăn này.
Tâm trạng của bà cụ Tứ lẫn lộn buồn vui, lo lắng. Trong lòng bà cụ vẫn luôn ám ảnh bởi cái nghèo, cái khổ khiến cho bà lão “đăm đăm nhìn ra ngoài. Bóng tối trùm lấy hai con mắt. Ngoài xa dòng sông sáng trắng uốn khúc trong cánh đồng tối. Mùi đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt. Bà lão thở nhẹ ra một hơi dài”.
Trong lòng bà còn ám ảnh bởi cả sự bất hạnh về thân phận của bà. Bởi vậy, trong kí ức của bà lão “nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út. Bà lão nghĩ đến cuộc đời cực khổ dài dằng dặc của mình”. Tất cả đã hiện về như một cuốn phim dài bất tận, như một tấn bi kịch của cuộc đời bà. Từ những cảm xúc đó, tâm trạng lo lắng lại một lần nữa hiện về trong bà, bà lo cho các con: “Vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không?…”.
Mặc dù lo lắng nhưng bà vẫn cố gắng gần gũi với người con dâu bằng lời mời thân mật: “Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân”. Lời mời ấy đã rút ngắn khoảng cách giữa người mẹ và “con dâu” và cũng đã an ủi người “vợ nhặt” ít nhiều. Lời mời của người mẹ thể hiện tình thương, sự chấp nhận “nàng dâu mới” của bà.
Nổi bật hơn cả vẫn là tấm lòng thương xót của bà cụ Tứ với người con dâu mới: “Bà lão nhìn người đàn bà, lòng đầy thương xót. Nó bây giờ đã là con dâu trong nhà rồi”. Bà lão tiếp tục tâm sự với người vợ nhặt bằng những lời thân mật: “Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt chi cái lúc này. Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá…”.
Trong lời nói của bà cụ chứng tỏ bà là người rất hiểu đời và hiểu người. Bà hiểu rằng khi cưới xin cho con thì phải có vài ba mâm cỗ trước trình tổ tiên, ông bà, sau mời làng, mời xóm. Bà cũng hiểu được lòng người, hiểu được sự bao dung của mọi người, họ sẽ thông cảm cho cảnh nghèo của bà mà không chấp nhặt, tính toán. Bà cũng hiểu ra đạo lí tạo nên gắn kết vợ chồng chính là sự hòa thuận.
Nói đến đây thì bà cụ “nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng”. Những giọt nước mắt của bà cụ Tứ chất chứa bao tình thương hướng tới các con. Giọt nước mắt của bà là biểu hiện của tấm lòng bao dung, nhân hậu của người mẹ nghèo. Nó rất đáng quý hơn bao những vật chất tầm thường mà bà dành cho các con.
Cái tài của Kim Lân là cứ nhẹ nhàng mà luồn lách ngòi bút động đến nơi sâu thẳm của tâm hồn. Ông đã diễn tả thật sâu sắc và tinh tế tâm lí của bà cụ Tứ, một người mẹ nghèo khổ mà hiểu biết, yêu thương con hết lòng và yêu thương cả những mảnh đời oái oăm, tội nghiệp bằng một tấm lòng nhân ái sâu xa. Bà đã cố gắng xua đi cái ám ảnh đen tối đáng sợ của thực tại và nhen núm niềm tin, niềm vui cho các con. Trong cái thân hình khẳng khiu, tàn tạ vì đói khát ấy vẫn nung nấu một ý chí sống mãnh liệt.
Trong văn học Việt Nam, ngoài tình phụ tử như của Lão Hạc trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Nam Cao thì tình mẫu tử trong đoạn trích “Trong lòng mẹ” của nhà văn Nguyên Hồng thật đáng chân trọng. Người mẹ vì phải thoát khỏi cổ tục nghiệt ngã mà tha hương cầu thực nhưng vẫn yêu thương, hi sinh vì con mình.
Hay người đàn bà hàng chài không tên trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu là người mẹ phải chịu sự hành hạ, đánh đập dã man của người chồng nhưng lại giàu tình thương, lòng bao dung, vị tha, giàu đức hi sinh, luôn sống vì con, hi sinh cho hạnh phúc của con. Và bà cụ Tứ cũng là một người mẹ nhân hậu, giàu đức hi sinh, hết lòng yêu thương con.
Qua truyện ngắn “Vợ nhặt”, nhà văn Kim Lân đã dựng lên hình ảnh chân thực và cảm động về một người mẹ nghèo khổ hết lòng vì con. Ngòi bút tinh tế, sắc sảo của tác giả đi sâu phân tích diễn biến tâm lí phức tạp của bà cụ Tứ và thể hiện qua từng lời nói, ánh mắt, trong suy nghĩ, hành động và sự lo xa cho tương lai các con. Phải là người có vốn sống phong phú, thấu hiểu và thông cảm, yêu mến và chân trọng những người nghèo khổ thì Kim Lân mới có thể diễn tả một cách chân thực và tài tình đến vậy.
Truyện ngắn “Vợ nhặt” không đơn thuần là những trang văn mà là những trang đời thấm đẫm nước mắt tủi cực, xót xa, phấp phỏng nỗi lo cho hiện tại và le lói niềm tin vào tương lai của bà mẹ nghèo. Hình ảnh bà cụ Tứ khiến người đọc rung động sâu sắc trước tấm chân tình tha thiết của người mẹ già.
Người mẹ già ấy chính là ánh sáng le lói trong bối cảnh bi thảm của những kiếp người nghèo khổ. Nhân vật bà cụ Tứ đã làm cho giá trị nhân đạo của tác phẩm trở nên thấm thía, cảm động hơn rất nhiều. Bà cụ Tứ đã đọng lại trong lòng người đọc bao suy nghĩ và rung động sâu xa.
Ngoài phân tích nhân vật bà cụ Tứ, gợi ý cho bạn 🌳 Phân Tích Rừng Xà Nu 🌳 15 Bài Văn Phân Tích Tác Phẩm Hay
Phân Tích Tâm Trạng Bà Cụ Tứ Khi Gặp Thị – Mẫu 12
Với đề văn yêu cầu phân tích tâm trạng bà cụ Tứ khi gặp thị, dưới đây là những gợi ý làm bài xoay quanh nhân vật để các em học sinh cùng tham khảo.
Vợ nhặt là một tác phẩm ưu tú của Kim Lân và cũng là một thành tựu xuất sắc của nền văn học Việt Nam đã viết về một giai đoạn đau thương trong lịch sử dân tộc: nạn đói khủng khiếp năm 1945. Song câu chuyện ấy của Kim Lân không bị bụi thời gian phủ mờ, làm khuất lấp mà ngược lại cho đến bây giờ Vợ nhặt vẫn như một viên ngọc sáng lung linh.
Thành công của Kim Lân trong thiên truyện không chỉ là việc chọn được một tình huống lạ, độc đáo mà còn là xây dựng lên hình ảnh bà cụ Tứ – một hình ảnh chân thật và cảm động về người mẹ nông dân nghèo khổ trong nạn đói 1945.
Bà cụ Tứ là một nhân vật phụ xuất hiện ờ phần gần cuối truyện. Nhà văn Kim Lân không có ý định đưa bà cụ Tứ làm nhân vật chính, miêu tả hình ảnh bà cụ Tứ như một hình tượng điển hình. Nhưng thiếu nhân vật này thì Vợ nhặt chắc sẽ không còn hấp dẫn hoặc sẽ hấp dẫn theo một cách khác. Bà cụ Tứ đã giữ cho truyện Vợ nhặt có chiều sâu, mang lại cho tác phẩm sự mặn mà, đằm thắm.
Viết Vợ nhặt với tình huống anh Tràng “nhặt” được vợ, nhà văn Kim Lân muốn thể hiện số phận bi thảm của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám và lòng khát khao hướng tới hạnh phúc của họ. Còn xây dựng nhân vật bà lão, Kim Lân dường như muốn hướng người đọc nhìn việc Tràng lấy vợ ở một khía cạnh khác, một góc độ khác.
Càng đi sâu vào tác phẩm, càng ngẫm nghĩ, ta càng cảm nhận sâu sắc hơn tấm lòng người mẹ nông dân nghèo trước Cách mạng. Có thể điều này nằm ngoài chủ ý của tác giả song sự kính trọng người mẹ của đứa con, nỗi khổ cực đè nặng lên đôi vai bà cụ suốt cả cuộc đời làm nên sức sống lâu bền của nhân vật bà cụ Tứ.
Ai đó đã từng nói: “sống với nhân vật tựa như được sống với thế giới tâm hồn còn thật hơn cả con người thật”. Đến với nhân vật bà cụ Tứ nhiều lúc ta có cảm giác như bà đang “hấp háy cặp mắt”, chầm chậm bước ra từ căn nhà dúm dó, tồi tàn của mình mà đi vào trang truyện, chứ không phải do dùng công xây dựng của tác giả. Bà cụ Tứ bước vào tác phẩm với cái dáng vẻ: “lọng khọng đi vào ngõ, vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng”.
Chao ôi! biết bao nhiêu là thân thương, trìu mến! Ta gặp lại dáng hình gầy gò còng còng vì sương gió cuộc đời của người đàn bà Việt Nam quen thuộc. Nhà văn sử dụng từ “lọng khọng” đầy sáng tạo và giàu sức tạo hình. Nó vừa cho thấy sự lẩm cẩm, chậm chạp của bà lão lại vừa mang theo đó nỗi “phấp phỏng” trước sự đón tiếp khác thường của cậu con trai.
Bà bước vào trong nhà, đến giữa sân, khi thấy một người phụ nữ đang ngồi ở đầu giường của con mình, bà lão rất sững sờ, đứng lại và càng ngạc nhiên hơn. Hàng loạt câu hỏi được đặt ra ngay trong đầu óc già nua của bà: “Quái lạ sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường của thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? không phải con cái Đục mà – Ai thế nhỉ?”
Bà làm sao mà ngờ được, giữa những tháng ngày đói kém, thóc gạo không có nổi để ăn vậy mà con bà đã dẫn không về một người vợ. Bà lão cúi đầu nín lặng, băn khoăn mãi và bây giờ “bà lão hiểu rồi”. “Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp con mình”. Khi biết con mình đã có vợ là một sự thật, bà cụ Tứ rất mừng. Mừng thế là từ nay Tràng đã có vợ.
Cái điều mà cụ một đời mơ ước như một cái gì vô cùng khó khăn xa vời ấy bỗng nhiên đã đến một cách bất ngờ và giản dị. Nhưng đằng sau những điều mừng vui ấy là nỗi buồn tủi. Đó là nỗi buồn tủi của một người mẹ đã không tự mình lo liệu được chuyện lấy vợ cho con. Đó là cái tủi đã để cho con mình phải lấy vợ theo cách thức như vậy; không cưới xin, không dạm hỏi, không một nghi thức nào vẫn thường được tôn trọng trong những dịp thiêng liêng của đời người như thế ở nông thôn ta ngày xưa.
Cái tủi ấy là cái tủi của một người mẹ nghèo. Càng xót xa, tủi phận mình, bà cụ Tứ càng thương con trai, “Người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm ra, những mong sinh con đẻ cái để mở mặt sau này. Còn mình thì…” Đọc những dòng này ta như có cảm giác trái tim người mẹ trong cái thân hình còm cõi ấy đang rung lên một nỗi đau đớn, xót xa, ai oán, tủi cực.
Việc trọng đại nhất của cả đời con lẽ ra “làm được dăm ba mâm thì phải” nhưng “nhà mình nghèo quá” nên điều đó chỉ nằm trong suy nghĩ và không thực hiện được. Từ chỗ thương con trai, tủi phận mình rồi bà lại thương con dâu: “người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này người ta mới lấy đến con mình mà con mình mới có được vợ…”
Vừa mừng, vừa tủi lại vừa lo lắng trước sự kiện con trai bà lấy vợ, bà cụ lo một nỗi lo rất chính đáng của con người đã nếm trải cả một đời cực nhọc đớn đau “biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?”.
Trong trận đói khủng khiếp vô cùng ấy, chỉ khoảng một năm mà “từ Quảng Trị ra đến Bắc kỳ có hơn hai triệu người chết đói”, Tràng lại đi dẫn không một người phụ nữ về nhà. Ngay đến bản thân mình cũng đang bị cái đói rình rập, đe doạ, không biết cái chết rồi sẽ đến lúc nào, “cứ mỗi sáng lại thấy vài xác người chết còng queo vì đói bên một vài lều chợ”.
Ấy vậy mà bây giờ Tràng lại có thêm một miệng ăn. Có cô gái ấy thì viễn cảnh bị chết đói sẽ đến với họ nhanh hơn. Bằng kinh nghiệm, vốn sống và sự từng trải, bà lão hiểu rằng cô gái kia chỉ tìm đến con bà vì miếng ăn mà thôi. Một người mà chỉ ngồi mơm mớm ở mép giường, tay ôm khư cái thúng thì rõ là mang dáng vẻ của một người ăn nhờ ở đậu chứ chẳng hề có ý định sống trọn đời, trọn kiếp nơi đây.
Biết vậy song bà không hề tỏ ra sẽ đuổi người phụ nữ kia đi mà ngược lại bà còn thương xót thị bởi sự đồng cảm giữa những người phụ nữ với nhau. Bà cụ thương cho số phận con người chấp nhận đánh mất cả nhân phẩm vì miếng ăn, chấp nhận làm tấm thân cỏ rác ngay giữa đường giữa chợ để người ta nhặt về nhà như nhặt thứ gì đó vậy. Bà “nhẹ nhàng” nói với “nàng dâu mới”: “ừ thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng…
Hai chữ “mừng lòng” ấy chứa đựng biết bao nhiêu là thân thương, trìu mến và cảm thông. Chỉ một câu nói ấy thôi đã đủ để trút đi gánh nặng đang đè lên đôi vai con trai bà. Nén nỗi lo lắng trong lòng, bà cụ khuyên răn con bằng những lời lẽ thấm đẫm ân tình: “Nhà ta thì nghèo con ạ, vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi may ra ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời. Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau”.
Bà nói với con dâu những lời của một con người từng trải, vừa lo lắng vừa thương xót: “năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá…” Đến đây bà cụ không nói được nữa bỗng trở nên nghẹn ngào, hai dòng nước mắt của người mẹ già nua cứ ròng ròng chảy xuống. Đó là những dòng nước mắt của một bà mẹ nông dân nghèo đã chịu nhiều cực khổ, đớn đau.
Những giọt nước mắt ấy càng cho thấy bà cụ Tứ có một tấm lòng thật nhân hậu, bao dung, giàu tình yêu thương tha thiết và cảm thông cho những người cùng cảnh ngộ. Ngửi thấy mùi đốt đống rấm đâu đây để xua đi mùi tử khí, bà cụ lại chợt nhớ đến ông lão, nhớ đến đứa con gái út, nghĩ đến cuộc đời cực khổ ở phía trước mà lo: “không biết vợ chồng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không?
Nghệ thuật “biện chứng tâm hồn” đã thể hiện thật nhuần nhuyễn trong từng biến thái tâm lý tinh tế, phong phú của người mẹ nghèo. Tác giả phải có sự thấu hiểu, trân trọng đặc biệt, phải có vốn sống, có sự am hiểu nông thôn và người nông dân nghèo sâu sắc thì ông mới có được những trang văn diễn tả tâm trạng con người sâu sắc, chân thực và đầy cảm động đến như thế.
Tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân không chỉ còn là những trang văn mà đã trở thành những trang đời thấm đẫm biết bao giọt nước mắt tủi cực, xót xa, phấp phỏng một nỗi lo cho tương lai và niềm lạc quan trong trái tim người mẹ nghèo. Chân thực mà cũng thật cảm động, hình ảnh bà cụ Tứ không chỉ giúp ta chứng kiến những diễn biến tâm lý khá phức tạp mà còn rung động trước tâm tình tha thiết của lòng người mẹ.
Những giọt nước mắt trong suốt chảy ra từ đôi mắt đã đục mờ, những giọt nước mắt lấp lánh tấm lòng vị tha cao cả, những giọt nước mắt mặn mà của muối đất, của trái tim yêu thương dạt dào như biển cả đã trở thành điểm sáng rực rỡ của toàn bộ tác phẩm. Giọt nước mắt chảy ngược vào trong đã biến thành niềm vui, thành hành động, thành những mơ ước khát khao một cuộc sống hạnh phúc trong tương lai.
Cho dù không có dụng tâm xây dựng điển hình người mẹ Việt Nam trong nạn đói khủng khiếp song hình ảnh bà cụ Tứ đã là một thành công lớn của nhà văn Kim Lân trong việc miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật. Dẫu rằng những mơ ước về tương lai hạnh phúc bé nhỏ, giản đơn của bà lão chưa cất lên được trước không khí u ám, ảm đạm vẩn mùi tử khí song đó vẫn là điểm sáng xuyên suốt toàn bộ tác phẩm. Quả thật nhân vật bà cụ Tứ đã đem lại chiều sâu nhân đạo sâu sắc cho thiên truyện Vợ nhặt.
Giới thiệu đến bạn 🌟 Phân Tích Người Lái Đò Sông Đà 🌟 19 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Phân Tích Bà Cụ Tứ Trong Bữa Cơm Ngày Đói – Mẫu 13
Để giúp các em học sinh hoàn thành tốt bài phân tích bà cụ Tứ trong bữa cơm ngày đói, dưới đây chia sẻ bài văn mẫu đặc sắc phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong bữa cơm ngày đói với những ý văn hay.
Kim Lân là một nhà văn chuyên viết truyện ngắn, am hiểu sâu sắc về nông thôn Việt Nam với những trang viết đặc sắc về phong tục và đời sống làng quê.
Ông viết chân thật và xúc động về cuộc sống của người dân quê với tình cảm đứa con của ruộng đồng. Và tác phẩm “Vợ nhặt” được trích từ tập “Con chó xấu xí” của ông là một trong số những tác phẩm tiêu biểu tái hiện được chân thật cuộc sống khổ cực của người nông dân trước nạn đói khủng khiếp 1945. Qua tác phẩm, ta thấy nổi bật lên hình ảnh bà cụ Tứ trong bữa cơm ngày đói gây nhiều ấn tượng sâu sắc đối với người đọc.
Truyện ngắn Vợ nhặt tiền thân là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” được Kim Lân sáng tác ngay sau khi Cách mạng tháng Tám 1945 thành công nhưng còn dang dở và mất bản thảo. Sau khi hòa bình lập lại Kim Lân dựa vào một phần cốt truyện cũ để viết truyện ngắn này.
Chi tiết bữa cơm ngày đói cũng là bữa cơm đầu tiên đón con dâu về nhà Tràng là một chi tiết đặc sắc vừa tái hiện chân thực tình cảnh khốn cùng của người nông dân trong hoàn cảnh nạn đói hoành hành, vừa mang một giá trị nhân đạo vô cùng sâu sắc. Thông thường bữa cơm ngày đầu tiên đón con dâu về sẽ rất quan trọng vì nó thể hiện được sự gắn kết của con dâu với nhà chồng.
Nhưng với gia đình Tràng thì bữa cơm đầu tiên ấy lại vô cùng đơn giản đến thảm hại “Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành”. Chỉ với những chi tiết đơn giản nhưng Kim Lân đã khắc họa được sự khủng khiếp của nạn đói lúc ấy. Lúc này ăn chỉ để sống qua ngày, con người đang cố gắng giành lấy chút sự sống mong manh từ tử thần.
Bữa cơm được chuẩn bị vô cùng sơ sài đến thảm hại, chắc hẳn chúng ta ai cũng biết với bữa cơm như vậy thì sao mà ăn ngon lành cho được nhưng ở đây cả gia đình Tràng đều ăn rất ngon lành. Có lẽ ai cũng hiểu được hoàn cảnh lúc này nhưng họ cố nén cảm xúc trong lòng và cố tỏ ra vui vẻ để động viên nhau, làm động lực giúp nhau vượt qua hoàn cảnh khốn cùng này. Nhưng cũng có lẽ đó là niềm vui thật sự bởi dù trong gian khổ nhưng họ vẫn có nhau, vẫn lạc quan và vẫn hạnh phúc yêu thương nhau.
Vượt qua mối quan hệ mẹ chồng nàng dâu hà khắc và hoàn cảnh nghèo khó bà cụ Tứ vẫn đón nhận, cảm thông và yêu thương cô con dâu mới, gia đình họ vô cùng hòa hợp, hạnh phúc. Chính vì thế mà trong bữa cơm “Bà lão nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này: Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà… này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem”.
Những câu chuyện bà nói đều là những chuyện tốt đẹp sau này, đều nói về tương lai tươi sáng đầy hy vọng phía trước. Qua đây ta thấy được sự lạc quan, luôn hướng về phía trước của bà cụ Tứ, cũng như của cả đất nước trong cái giai đoạn khó khăn cực khổ ấy.
Nhưng những tiếng cười cũng như niềm hy vọng mong manh của cả gia đình nhanh chóng bị dập tắt vì “niêu cháo lõng bõng, mỗi người được có lưng lưng hai bát đã hết nhẵn”. Dường như đã liệu được tình huống này sẽ xảy ra người mẹ nghèo khó với tấm lòng nhân hậu, thương người và hết mực thương yêu con đã “lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút. Vừa khuấy khuấy vừa cười: chè khoán đây, ngon đáo để cơ”.
Tuy nói là chè khoán nhưng thật sự đó là nồi cháo cám chát xít, vốn là thứ thức ăn của súc vật. Qua đây, ta càng thấm thía hơn cái thực trạng tàn khốc của nạn đói 1945 và tội ác tàn bạo của phát xít và tay sai đẩy những con người khổ cực ấy vào tình cảnh khốn cùng. Nhưng qua đây ta lại càng thấy ngời lên được những phẩm chất tốt đẹp của con người, họ bị bần cùng hóa nhưng không hề tha hóa.
Nổi bật nhất đó chính là bà cụ Tứ, nào đâu phải bà không biết nồi cháo cám kia chát xít chẳng hề ngon lành gì nhưng bà vẫn bảo “ngon đáo để cơ” mà là bà đang cố động viên con mình cũng như con dâu vượt qua hoàn cảnh khó khăn lúc ấy.
Ta cảm thấy như bà mẹ già đang cố kìm nén những cảm xúc tủi hờn nhất, những nỗi lo lắng khôn nguôi về tương lai vào tận sâu trong lòng để cười mà động viên các con: “Cám đấy mày ạ”, “Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy”, gieo vào lòng các con mình niềm hy vọng sống và vươn lên thoát khỏi đói nghèo.
Thật xót xa biết bao! Bà cụ Tứ quả thật là một người mẹ nhân hậu, đảm đang, hết mực yêu thương con, sáng ngời những phẩm chất tốt đẹp của một người mẹ nông thôn Việt Nam. Hơn thế nữa, chẳng phải ngẫu nhiên mà Kim Lân lại để người mẹ ở cái tuổi xế chiều ấy là người lạc quan nhất, luôn đon đả kể chuyện vui và luôn động viên, gieo hy vọng vào lòng các con mình.
Bởi lẽ, một người gần đất xa trời như bà cụ Tứ mà còn khát khao sống mãnh liệt đến như vậy thì những người trẻ hơn sẽ lấy đó làm động lực mà tiếp tục nuôi hy vọng vào một tương lai tốt đẹp hơn. Bà cụ Tứ là người thắp lửa, giữ lửa, và truyền ngọn lửa khát khao sống, khát khao thoát khỏi đói nghèo, khát khao tự do đến với các con cũng như những người khác.
Không chỉ dừng lại ở đó, chi tiết bữa cơm ngày đói còn phản ánh được cái hiện thực tàn khốc lúc đó và lên án tội ác tàn bạo của bọn phát xít và tay sai. Chúng bắt người dân ta phải nhổ lúa trồng đay, triệt đường sống của người nông dân lương thiện.
Chúng khiến người dân ta sống cũng như chết, sống lay lắt, vất vưởng như những thây ma ngoài đường, nhiều khi sống cũng không bằng chết. Nhân dân ta phải ăn cháo cám, thứ thức ăn của gia súc, thậm chí có nhà còn không có cám mà ăn. Trong hoàn cảnh ấy, cháo cám lại như một thứ đồ xa xỉ. Quả thật là một hiện thực tàn khốc.
Bằng nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo, hấp dẫn: bữa cơm đón dâu thảm hại chỉ với niêu cháo lõng bõng cùng nồi cháo cám chát xít. Kết hợp với nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật chân thật, sinh động với cách miêu tả tâm lí sắc sảo, tinh tế cũng như nghệ thuật trần thuật mộc mạc, chắt lọc, có sức gợi cảm cao Kim Lân đã xây dựng lên được bữa cơm ngày đói của gia đình Tràng trong ngày đầu đón con dâu thật chân thật và nhiều ý nghĩa, đông thời làm nổi bật hình tượng bà cụ Tứ – một người mẹ giàu lòng nhân hậu và tình yêu thương.
Hình ảnh bữa cơm ngày đói mà đặc biệt là nồi cháo cám đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Ta thấy được một hiện thực nạn đói vô cùng tàn khốc nhưng qua đó lại ngời lên những phẩm chất, giá trị tốt đẹp của con người. Trong cái khó khăn, bần cùng cơ cực ấy nhưng họ vẫn có nhau, vẫn yêu thương nhau, vẫn hạnh phúc và luôn lạc quan tin tưởng vào cách mạng thành công và tương lai tươi sáng.
Tiếp theo phân tích nhân vật bà cụ Tứ, xem nhiều hơn 🌟 Phân Tích Vợ Chồng A Phủ 🌟 15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Phân Tích Nhân Vật Bà Cụ Tứ Sáng Hôm Sau – Mẫu 14
Tham khảo dưới đây bài văn mẫu phân tích nhân vật bà cụ Tứ sáng hôm sau sẽ giúp các em học sinh nắm được những chuyển biến trong nhận thức và tình cảm của nhân vật.
“Đối tượng của văn học vốn là thân phận con người, nên chỉ có kẻ nào đọc và hiểu nó sẽ hóa thành không phải là một chuyên gia nghiên cứu văn học mà là một kẻ hiểu biết con người một cách sâu sắc”. Quả thực, con người luôn là nơi bắt đầu và cũng là nơi đi đến của văn học.
Với mỗi một thế giới khác nhau của một tác phẩm, người đọc lại có một thể nghiệm riêng về con người. Và trong tác phẩm “Vợ nhặt”, nhà văn Kim Lân đã dùng ngòi bút của mình để mang đến những trang văn neo đậu mãi trong tâm hồn chúng ta về nhân vật bà cụ Tứ.
“Vợ nhặt” là câu chuyện có hoàn cảnh sáng tác khác đặc biệt. Tiền thân là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” được Kim Lân viết trong những năm 1954 nhưng bị mất bản thảo. Sau này, bằng những mảnh ghép còn nhớ được từ cốt truyện cũ, tác giả đã viết “Vợ nhặt” (1962), lấy bối cảnh nạn đói năm 45 để nói lên khát khao sống mãnh liệt, về tình người, tình đời của những con người thiếu thốn về vật chất nhưng đủ đầy về tình cảm.
Tác phẩm mở đầu bằng khung cảnh Tràng- một anh chàng nghèo, xấu xí, thô kệch cùng người vợ mới nhặt được đang trên đường trở về nhà. Cô vợ ấy không phải là đã tìm hiểu lâu la gì mà “tầm phào đâu có hai ba bận, ấy thế mà thành vợ thành chồng”. Về đến nhà, cô vợ nhặt “ngồi mớm ở mép giường”, còn Tràng “chạy ra ngõ đứng ngóng” mẹ, rồi bà cụ Tứ “lỏng khỏng” xuất hiện.
Tâm trạng của bà cụ Tứ vào chiều hôm trước là sự đan xen cảm xúc lo lắng, vui mừng, xót xa, buồn tủi, nhưng chỉ đến buổi sáng hôm sau, bà cụ Tứ hiện ra với một tâm trạng khác hẳn. Hạnh phúc mới của con làm bà cụ Tứ được vui lây, niềm vui ấy được hiện ra qua “Khuôn mặt nhẹ nhõm tươi tỉnh khác hẳn ngày thường”. Cái dáng vẻ lọng khọng già yếu hôm qua không còn nữa. Bà “xăn xắn” quét dọn, giẫy những búi cỏ dại nham nhở trong vườn, thu dọn nhà cửa cho quang quẻ với hi vọng cuộc đời sẽ có cơ khấm khá.
Trong bữa cơm ngày đói, mâm cơm hàng ngày hiện lên thật thảm hại: chỉ có độc một lùm rau chuối thái rối, một đĩa muối, một niêu cháo lõng bõng nhưng không khí ấm áp tình chồng vợ, tình mẹ con. Bà cụ Tứ là người già cả nhất trong nhà nhưng là người nói nhiều nhất, nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau. Bà tính chuyện nuôi gà “ngoảnh đi ngoảnh lại sẽ có đàn gà cho mà xem”. Bà đã gieo vào lòng các con và cả lòng người đọc niềm lạc quan tin tưởng vào tương lai tươi sáng.
Khát vọng sống bật lên ngay cả trong hoàn cảnh khốn cùng nhất, nó làm ta nhớ đến câu ca dao xưa:
“Chớ than phận khó ai ơi
Còn da lông mọc, còn chồi nảy cây”
Tình thương con của người mẹ nghèo còn được gợi qua chi tiết “nồi cháo cám”. Đó là câu chuyện bữa ăn đang đà vui thì ngừng lại vì niêu cháo hết nhẵn. Bà lão cố kéo dài niềm vui cho cả gia đình, bà bưng ra một nồi cháo cám bằng thái độ vui vẻ, hóm hỉnh “Chè khoán đây, ngon đáo để cơ”.
Nhưng niềm vui của bà cụ Tứ cũng thật tội nghiệp. Miếng cháo cám đắng chát cùng tiếng thúc thuế dồn dập vỗi vã đưa bà cụ Tứ trở về thực tại với tiếng thở dài trong lo lắng “Đằng thì nó bắt giồng đay, đằng thì nó biết đóng thuế. Giời đất này không chắc đã sống qua được đâu các con ạ”. Và bà lại khóc, tình thương con thể hiện qua những giọt nước mắt tuôn rơi. Nét tâm lý ấy thể hiện sự am hiểu tâm lý con người, đặc biệt là người mẹ thôn quê hay lo cả nghĩ của nhà văn Kim Lân.
Xây dựng lên được “tình người mẹ” thật lớn đó là nhờ ngòi bút sâu sắc của tác giả Kim Lân. Nghệ thuật xây dựng nhân vật với điểm nhìn linh hoạt. Tác giả đã đặt điểm nhìn vào bên trong nhân vật để tái hiện các nét tâm trạng vừa đan xen lại chuyển hóa vào nhau để tạo nên những dòng chảy tâm tư chân thực, sống động với ngôn ngữ nửa trực tiếp cho phép người đọc thâm nhập vào thế giới nội tâm nhân vật.
Gấp lại trang sách nhưng những dư âm về một tấm lòng người mẹ cao cả vẫn còn vấn vương trong lòng người đọc. Hình ảnh bà cụ Tứ thấp thoáng hình ảnh bao người mẹ Việt Nam cơ cực nhưng luôn tràn đầy tình yêu thương con. Đó là một hình tượng đẹp, khó có thể lãng quên.
Mời bạn tham khảo 🌠 Phân Tích Nhân Vật Mị Trong Đêm Tình Mùa Xuân 🌠 20 Mẫu Đặc Sắc
Phân Tích Tâm Trạng Cụ Tứ Bà Lão Phấp Phỏng Bước Theo Con Vào Trong Nhà – Mẫu 15
Với ý văn phân tích tâm trạng cụ Tứ bà lão phấp phỏng bước theo con vào trong nhà dưới đây, các em học sinh có thể nắm được những luận điểm trọng tâm khi viết bài phân tích nhân vật.
Nếu Nguyễn Tuân là văn suốt đời đi tìm cái đẹp, cái lạ; Nguyên Ngọc là nhà văn của cái hùng, cái cao cả thì Kim Lân chỉ đơn giản là người “một lòng đi về với đất, với người, với thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống nông thôn”. Một trong những nhân vật thể hiện rất rõ cái nhìn đôn hậu, thấu hiểu và yêu thương của Kim Lân dành cho người nông dân chính là nhân vật bà cụ Tứ trong truyện ngắn “Vợ nhặt”.
Tác phẩm được Kim Lân viết văn 1962, tiền thân là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”. Mang theo ý thức sâu sắc về nghề cầm bút, Kim Lân luôn trăn trở: “Viết về cái đói, người ta thường hướng đến sự khốn cùng bi thảm, về cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, cận kề cái chết, con người vẫn luôn hướng về sự sống và sống cho ra người. Đó cũng chính là điều làm nên giá trị sâu sắc của tác phẩm”.
Đó chính là tiền đề để tác giả có thể tạo lên một tác phẩm: “nâng giấc cho những người cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn đến chân tường (…) để bênh vực cho những con người không còn có ai để bênh vực” (Nguyễn Minh Châu). Một trong những nhân vật tạo nên giá trị của “Vợ nhặt” chính là bà cụ Tứ.
Đó là một người mẹ nghèo trở nên bất lực khi không lo nổi chuyện cưới xin cho con. Nên khi tình huống mở ra: Tràng nhặt vợ trong bối cảnh nạn đói thảm hại, bà hoàn toàn bất ngờ và bị động. Nhưng qua đó lại thể hiện chân thực và sâu sắc nhất hình ảnh người mẹ nông dân này.
Nhà văn Kim Lân đã từng tâm sự: “Phần gây xúc động nhất cho tôi khi đọc lại chuyện “Vợ nhặt” là đoạn bà cụ Tứ trở về”. Quả đúng vậy, từ tình huống xuất hiện trong bóng chiều quập quạng, dáng vẻ “lọng khọng” gợi ra dáng hình gầy gò, hơi còng, tay hơi run và có vẻ tất bật. Đó còn là dáng vẻ gợi nỗi khổ đau cơ cực, sương gió cuộc đời đã hằn in lên nét dáng ấy.
Ngạc nhiên và bất ngờ là tâm trạng đầu tiên ở người mẹ nghèo khi lật đật theo con từ ngõ vào nhà. Bà “nhấp nháy hai con mắt”, “phấp phỏng bước theo con vào trong nhà”, không tin vào mắt mình “hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn ra thì phải”. Một loạt các câu hỏi “Sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ?”, “Ai thế nhỉ”… hiện ra dồn dập trong suy nghĩ của người mẹ già.
Bà ngạc nhiên vì hơn ai hết, bà hiểu rõ gia cảnh, hiểu rõ con trai mình. Trai khôn lấy vợ, gái lớn gả chồng là lẽ thường tình nhưng bà chưa thể tin, không thẻ tin rằng con mình lại có người theo và lại chưa bao giờ hình dung nhận dâu trong một hoàn cảnh trớ trêu, tội nghiệp đến thế.
Sau khi Tràng giới thiệu người vợ nhặt, dường như bà cụ Tứ đã hiểu ra cơ sự. Bà lão “cúi đầu nín lặng”, bà “ai oán xót thương” cho số kiếp đứa con trai mình. Bà tủi thân, tủi phận, bà so sánh người ta với mình “người ta dựng vợ gả chồng cho con cũng là lúc trong nhà ăn nên làm nổi…còn mình thì…”. Dấu ba chấm thẻ hiện sự ngắt quãng trong suy nghĩ của người mẹ đang nghẹn ngào.
Bà lão chua chát, tự trách bản thân mình, càng thương con bao nhiêu bà lại càng tủi phận bấy nhiêu, tủi vì làm mẹ mà không lo cho con được chuyện gia thất. “Nín lặng” chỉ là vẻ bên ngoài, còn bên trong, tâm trạng ấy rối bời lúc dồn lên, lúc lắng xuống nghẹn lại không thể thốt lên lời. Nó ứ thành những giọt nước mắt “Trong kẽ mắt lèm nhèm của bà rỉ xuống hai giọt nước mắt”. “Rỉ” là chữ được dùng rất đắt diễn tả nỗi lòng đang cố nén lại, rỉ thành giọt lệ âm thầm.
Bà cụ Tứ đã chấp nhận nàng dâu không phải chỉ bằng tình mẫu tử mà lớn hơn đó là tình người, là sự cảm thông của những người cùng thân phận người phụ nữ. Với cách nói “chúng nó”, bà lão đã gộp con trai và con dâu làm một để rồi tình thương con trai nhanh chóng trở thành tình thương với người đàn bà xa lạ. “Bà lão nhìn người đàn bà lòng đầy thương xót” rồi bà nhanh chóng chấp nhận cô vợ nhặt thành dâu con trong nhà bởi bà thấu hiểu hoàn cảnh của người đàn bà và con trai mình.
Sự chấp nhận của bà không phải gượng ép, cũng chẳng hề bộc lộ sự khinh khi đối với hoàn cảnh túng quẫn của người đàn bà xa lạ. Bà chấp nhận nàng dâu với thái độ “mừng lòng”, đón nhận con dâu với tất cả niềm yêu thương, trân trọng. Đối với bà chuyện Tràng nhặt vợ không phải vu vơ mà cũng là do duyên kiếp như bất cứ lứa đôi nào. Từng suy nghĩ, hành động, lời nói của người mẹ già đều toát lên vẻ đẹp của lòng bao dung, nhân hậu, vị tha.
Đó còn là hình tượng về một người mẹ từng trải, thấu hiểu lẽ đời. Khi dặn dò các con, bà động viên và gieo niềm tin “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời”. Tuy động viên con nhưng nỗi tủi hờn lại dội lên trong lòng người mẹ. Bà nghĩ lại quá khứ đầy ám ảnh “nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út, nghĩ đến cuộc đời cực khổ dài dằng dặc của mình”.
Bà chìm vào nỗi lo “Vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời liệu có hơn bố mẹ trước kia không”. Niềm vui và hi vọng cũng không thể xua được cho hạnh phúc thực tại của hai con “Năm nay đói to đấy, chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá”. Không lo lắng sao được khi quá khứ thì cực khổ dằng dặc, hiện tại thì đói khát, tương lai mịt mờ. Nỗi lo ấy lại khiến “nước mắt chảy ròng ròng”.
Tái hiện nhân vật bà cụ Tứ, Kim Lân đã thể hiện sự tài tình trong ngòi bút kể chuyện. Về mặt ngôn ngữ, Kim Lân đã sử dụng một cách nhuần nhuyễn thứ ngôn ngữ nông dân giản dị, thuần hậu để dựng lên những đoạn độc thoại, đối thoại sinh động, khiến người đọc có cảm giác như nhân vật như đi thẳng từ cuộc đời vào trang viết. Đặt nhân vật vào tình huống độc đáo và éo le, từ đó tính cách và tâm lí được thể hiện một cách tự nhiên.
Qua những suy nghĩ, lời nói, cử chỉ và cách ứng xử của bà cụ Tứ với con dâu, con trai ta đều cảm nhận được tình cảm ấm áp, sự nhân hậu, thấu hiểu của người mẹ nông dân, người phụ nữ Việt Nam.
Đón đọc tuyển tập 🌜 Phân Tích Sức Sống Tiềm Tàng Của Mị 🌜 12 Bài Văn Mẫu Hay
Phân Tích Nhân Vật Bà Cụ Tứ Bà Lão Cúi Đầu – Mẫu 16
Gợi ý phân tích nhân vật bà cụ Tứ bà lão cúi đầu sẽ giúp các em học sinh tham khảo cách hành văn hay và những góc nhìn đa chiều về nhân vật.
Kim Lân thuộc hàng những cây bút truyện ngắn tài năng nhất của văn học Việt Nam hiện đại. Ông thường viết về nông thôn và những con người dân quê, lam lũ hồn hậu, chất phác mà giàu tình yêu thương.
Vợ nhặt là một trong những sáng tác tiêu biểu của ôngTác phẩm đã khắc hoạ tình cảnh thê thảm của nhân dân ta trong nạn đói năm 1945 đồng thời khẳng định, ca ngợi tình yêu thương, đùm bọc, khát khao hạnh phúc, hướng đến tương lai của những người dân lao động. Trong đó nhân vật bà cụ Tứ được nhà văn khắc hoạ rất sinh động, tinh tế, là một người mẹ nghèo khổ, trải đời, giàu tình yêu thương và có nội tâm phong phú, phức tạp.
Kim Lân rất am hiểu nông thôn và đời sống của nhân dân nên ông có những trang viết sâu sắc, cảm động. Truyện Vợ nhặt rút từ tập Con chó xấu xí) được coi là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân. Thiên truyện có một quá trình sáng tác khá dài. Nó vốn được rút ra từ tiểu thuyết Xóm ngụ cư (cuốn tiểu thuyết viết dang dở ở thời kì trước Cách mạng). Hoà bình lập lại, Kim Lân viết lại. Vợ nhặt mang dấu ấn của cả một quá trình nghiền ngẫm lâu dài về nội dung và chiêm nghiệm kĩ lưỡng về nghệ thuật.
Tác phẩm đã tái hiện lại bối cảnh ngày đói vô cùng thê thảm ở nông thôn Việt Nam do thực dân Pháp và phát xít Nhật gây ra năm 1945. Ông đặc tả chân dung người năm đói “khuôn mặt hốc hác u tối”, “Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma”, và “bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma”.
Trong không gian của thế giới ngổn ngang người sống kẻ chết ấy, tiếng quạ “gào lên từng hồi thê thiết” cùng với “mùi gây của xác người”. Nhưng quan trọng hơn, bên cạnh mảng tối của bức tranh hiện thực buồn đau là mảng sáng của tình người, của một chủ nghĩa nhân văn tha thiết, cảm động.
Trong truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân bộc lộ một quan điểm nhân đạo sâu sắc của mình. Nhà văn phát hiện ra vẻ đẹp kì diệu của người lao động trong sự túng đói quay quắt, trong bất kì hoàn cảnh khốn khổ nào, con người vẫn vượt lên cái chết, hướng về cuộc sống gia đình, vẫn yêu thương nhau và hi vọng vào ngày mai. Thể hiện sâu sắc cho tư tưởng ấy là chân dung tính cách, tâm lý của bà cụ Tứ trước tình huống bất ngờ: con trai mình đột ngột có vợ.
Tâm lí ở cụ Tứ có phần phức tạp, với những nỗi niềm trắc ẩn trong chiều sâu riêng của người già từng trải và nhân hậu. Khởi đầu tâm lí ở bà cụ Tứ là ngỡ ngàng trước một sự việc dường như không hiểu được. Cô gái xuất hiện trong nhà bà phút đầu là một hiện tượng lạ.
Trạng thái ngỡ ngàng của bà cụ Tứ được khơi sâu bởi hàng loạt những câu hỏi nghi vấn: “Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong nhà ấy nhỉ ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái Đục mà. Ai thế nhỉ?” Rồi lại:”Ô hay, thế là thế nào nhỉ?”. Sự ngạc nhiên này thể hiện nỗi đau của người viết: chính là sự cùng quẩn của hoàn cảnh đánh mất ở người mẹ sự nhạy cảm trước việc con trai yêu quý của mình có vợ.
Sau khi hiểu ra mọi chuyện, bà lão”cúi đầu nín lặng”. Sự nín lặng đầy nội tâm. Đó là nỗi niềm xót xa, lo, thương trộn lẫn. Tình thương của bà mẹ nhân hậu mới bao dung làm sao: “… chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?”. Trong chữ “chúng nó” người mẹ đã đi từ lòng thương con trai sang con dâu. Trong chữ cúi đầu, bà mẹ tiếp nhận hạnh phúc của con bằng kinh nghiệm sống, bằng sự trả giá của một chuỗi đời nặng nhọc, bằng ý thức sâu sắc trước hoàn cảnh.
Rồi tình thương lại chìm vào nỗi lo, tạo thành một trạng thái tâm lí triền miên day dứt. Bà mẹ: nghĩ đến bổn phận làm mẹ chưa tròn, nghĩ đến ông lão, đến con gái út, nghĩ đến nỗi khổ đời của mình, nghĩ đến tương lai của con…, để cuối cùng dồn tụ bao lo lắng, yêu thương trong một câu nói giản dị:”chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá…”
Trên ngổn ngang những nỗi buồn lo, niềm vui của mẹ vẫn cố ánh lên. Cảm động thay, Kim Lân lại để cái ánh sáng kỳ diệu đó tỏa ra từ… nồi cháo cám. Hãy nghe người mẹ nói: “chè đây – Bà lão múc ra một bát – chè khoán đây, ngon đáo để cơ”. Chữ “ngon”này cần phải cảm thụ một cách đặc biệt.
Đó không phải là xúc cảm về vật chất, (xúc cảm về cháo cám) mà là xúc cảm về tinh thần: ở người mẹ, niềm tin về hạnh phúc của con biến đắng chát thành ngọt ngào. Chọn hình ảnh nồi cháo cám, Kim Lân muốn chính mình cho cái chất người: trong bất kỳ hoàn cảnh nào, tình nghĩa và hi vọng không thể bị tiêu diệt, con người muốn sống cho ra sống, và cái chất người thể hiện ở cách sống tình nghĩa và hi vọng. Nhưng Kim Lân không phải là nhà văn lãng mạn. Niềm vui của cụ Tứ vẫn cứ là niềm vui tội nghiệp, bởi thực tại vẫn nghiệt ngã với miếng cháo cám “đắng chát và nghẹn bứ”.
Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân, là tác phẩm giàu giá trị hiện thực, nhân đạo; là bài ca về tình người ở những người nghèo khổ, ca ngợi niềm tin bất diệt vào tương lai tươi sáng của con người. Truyện xây dựng thành công hình tượng nhân vật bà cụ Tứ, một người mẹ nghèo khổ mà ấm áp tình thương, niềm hi vọng, lạc quan qua cách dựng tình huống truyện và dẫn truyện độc đáo, nhất là ngòi bút miêu tả tâm lí tinh tế, khiến tác phẩm mang chất thơ cảm động và hấp dẫn.
Chia sẻ thêm cùng bạn 🍀 Phân Tích Nhân Vật Mị Trong Đêm Tình Mùa Đông 🍀 16 Mẫu Hay Và Đặc Sắc Nhất
Phân Tích Bà Cụ Tứ Thầy Hiếu – Mẫu 17
Bài văn mẫu phân tích bà cụ Tứ thầy Hiếu sẽ mang đến cho các em học sinh những định hướng làm bài đầy đủ và chi tiết về nhân vật này để đạt kết quả cao cho bài viết của mình.
Vợ nhặt của Kim Lân là một trong những tác phẩm xuất sắc và tiêu biểu nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại khi viết về chủ đề người nông dân dưới xã hội cũ, đặc biệt là trong giai đoạn đau thương nhất của đất nước.
Tuy nhiên trong tác phẩm nội dung chính mà tác giả muốn đề cập đến không phải là phản ánh, tố cáo hiện thực mà là tấm lòng trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp trong tâm hồn con người, cùng với sức mạnh của tình người, tình thân trong gia định đã trở thành cơ sở cho những khát vọng sống, niềm hy vọng và tin tưởng vào tương lai mãnh liệt ngay trong những hoàn cảnh khốn cùng nhất.
Bên cạnh hai nhân vật là Tràng và thị với những nét phẩm chất riêng, thì nhân vật cụ Tứ lại hiện lên với vẻ đẹp của tình mẫu tử, thương con sâu sắc.
Giữa nạn đói hoành hành năm 1945, hàng triệu đồng bào ta phải chịu chết đói, nhiều người phải lìa xa quê cha đất tổ đi tha hương cầu thực nơi xứ người, mẹ con bà cụ Tứ là một trong số đó. Bà cụ là một phụ nữ nông dân nghèo khổ, có lẽ rằng cả cuộc đời bà đã phải chịu nhiều đắng cay vất vả, bởi lẽ cả cuộc đời bà nằm trọn trong những ngày tháng đất nước chất chứa nhiều đau thương, lầm than dưới chế độ thực dân nửa phong kiến.
Cả cuộc đời bà dành để kiếm từng đồng, từng hào chắt bóp nuôi con khôn lớn, cho đến khi tuổi đã gần đất xa trời, bà cụ tội nghiệp vẫn không được hưởng những ngày tháng sung sướng. Thay vào đó cụ vì già cả, ốm yếu phải sống dựa vào đứa con trai là anh Tràng với một công việc bấp bênh, bữa đói bữa no, và bên ngoài kia thần chết đang chực chờ những con người khốn khổ, cùng đường vì cái đói, trong đó có cả hai mẹ con bà cụ Tứ.
Trong hoàn cảnh khắc nghiệt như vậy tình mẫu tử của bà cụ lại càng hiện lên rõ rệt, cả đời làm lụng nuôi con khôn lớn, đến khi Tràng đã lớn khôn thì bà cụ lại sầu khổ vì không kiếm nổi cho con một tấm vợ, một người đàn bà đỡ đần hôm sớm. Tất cả chỉ tại bà nghèo quá, người ta cưới vợ khi có của ăn của để, khi ăn nên làm ra, còn bà lại chẳng có gì trong tay thành thử phải tội con bà cô đơn lẻ bóng. Mà có khi đến lúc mà mất đi thì đứa con trai tội nghiệp lại phải chịu cảnh côi cút một mình trên đời. Điều ấy làm bà cụ Tứ tủi phận nhiều lắm.
Cho đến một hôm thấy Tràng dẫn một người phụ nữ lạ mặt về nhà, trong lòng bà cụ nổi lên biết bao nhiêu là cớ sự thắc mắc, thế nhưng bà không hề tỏ ra bối rối mà quay sang nhìn con tỏ ý không hiểu, để chờ Tràng giải thích, để cho Tràng có cơ hội được phân trần câu chuyện, chứ không lên tiếng trách móc. Đó là tấm lòng của một người mẹ trải đời, thương con bằng một tình thương dịu dàng, săn sóc.
Rồi đến khi đã rõ sự mười mươi, bà cụ “hiểu ra bao nhiêu là cớ sự” rồi thì bà im lặng, những dòng suy nghĩ chảy trôi, quẩn quanh liên tục bên ngoài cái sự việc con bà lấy vợ, một người vợ theo không. Nhưng không chần chừ quá lâu, bà cụ Tứ đã sống trên cuộc đời này ngót nghét vài chục năm trời đằng đẵng, có cái khổ, cái sự lạ nào mà bà không hiểu thấu.
Đứng trên vai trò là một người mẹ có tấm lòng thương con sâu sắc, bà hiểu được chuyện anh Tràng lấy vợ âu cũng là chuyện hợp tình hợp lý, bởi Tràng đã đến cái tuổi ấy lâu lắm rồi. Thế nhưng vừa nghĩ thông chuyện này thì bà cụ lại chợt nghĩ đến chuyện khác, bao nhiêu mối lo toan bỗng đổ dồn về lòng người mẹ già tội nghiệp, bà thương con “ai oán xót thương cho số kiếp con trai mình”, cũng lại tủi cho phận người làm mẹ, nhưng không thể lo nổi cho con một cái đám cưới, dựng vợ gả chồng tử tế cho con, để nó phải tự thân đi kiếm về một người vợ.
Càng nghĩ bà lại càng lấy làm buồn lòng, xúc động “trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai hàng nước mắt”. Ấy rồi ăn ở với nhau như thế “biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau qua cơn đói khát này không”, là những suy nghĩ quẩn quanh trong lòng bà cụ Tứ. Một người mẹ thương con không nề hà, trách mắng con mình tự tiện cưới gả, bởi bà hiểu phận mình và phận con, bà chỉ lo lắng mãi chuyện cuộc sống tương lai của hai vợ chồng Tràng, sợ con chịu khổ cực, rồi đương không lại liên lụy cả người khác nữa.
Cái đám cưới chớp nhoáng khác thường này đem đến cho cụ niềm vui có dâu con, nhưng cũng lại mang đến cho bà biết bao nhiêu trăn trở, rối rắm. u cũng là lòng người mẹ yêu thương và suy nghĩ cho con trăm bề.
Cuối cùng sau khi đã đi qua những xúc động, buồn tủi, bà cụ Tứ đã nhanh chóng vực lại tinh thần, thông suốt mọi vấn đề rằng “Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mấy lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được. Thôi bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con…Chẳng may ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo cho hết được?”.
Bà nhanh chóng thấu hiểu và thông cảm cho hoàn cảnh đáng thương của thị, đồng thời lòng bà đã dấy lên những tình cảm thương yêu người con dâu mới về. Bà nhẹ nhàng giục thị ngồi xuống, rồi nhỏ nhẹ khuyên giải, nhắc nhở động viên, vun vén vào cho hai vợ chồng Tràng, dặn dò họ cách ăn ở với nhau bằng những lời phấn khởi “Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?”.
Mặc dầu rằng trong lòng bà vẫn còn trăm mối tơ vò cảm xúc, nhưng không vì thế mà bà làm các con bối rối, mất vui, bà quyết giữ cho riêng bà những lo lắng, những buồn tủi để cho đôi tân nhân một sự động viên trước khi bước vào cuộc đời mới.
Sau đêm tân hôn của vợ chồng Tràng, căn nhà tàn tạ dưới đôi bàn tay của mẹ chồng nàng dâu bỗng trở nên sáng sủa lạ thường, thấy được những đức tính tốt đẹp, sự cẩn thận chu đáo của thị và cụ mừng lắm “cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Trong bữa cơm sáng, dẫu rằng mâm cơm ngày đói kém trông thật thảm hại với mớ rau chuối thái mỏng và cháo loãng thế nhưng không khí trong nhà vẫn rất vui vẻ đầm ấm.
Bà cụ thương con, thương dâu, thành thử bà cố xua đi cái nghèo đói đang hiện hữu trước mắt cặp tân nhân bằng cách liên tục kể những chuyện vui, kế hoạch làm ăn, nuôi gà, mở ra trước mắt những tương lai tốt đẹp đầy hy vọng. Đặc biệt người mẹ nghèo khó còn chiêu đãi con trai và con dâu bằng một nồi “chè khoán”, mà thực tế đó là là cháo cám để mừng tân hôn.
Dù vị của món ăn này vô cùng cùng khó ăn thế nhưng đó là cả tấm lòng của một người mẹ thương con, bà cụ tội nghiệp vì nghèo xác xơ không lấy gì để làm cỗ làm bàn, thế nên chỉ còn cách cố kiếm cho được ít cám về nấu làm món ăn đổi bữa.
Ở một nét suy diễn sâu xa nào đó thì nồi cháo cám còn mang ý nghĩa là lời nhắc nhở của cụ Tứ dành cho các con về những ngày gian khó đang chờ đợi trước mắt, hy vọng rằng vợ chồng Tràng vẫn được vững lòng như ngày hôm nay, ăn nồi cháo cám đắng ghét, nghẹn ứ nơi cổ họng mà vẫn cảm thấy vui vẻ hạnh phúc.
Nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt là một hình tượng tiêu biểu cho những bà mẹ Việt Nam xưa, cả cuộc đời hy sinh sinh vì con cái, yêu thương con sâu sắc bằng những tình cảm thấu hiểu, bao dung và vị tha. Dù rằng bà sống trong cảnh nghèo khó tột cùng, thế nhưng với sự từng trải của mình bà vẫn giành lấy được những sự lạc quan, vui vẻ trong cuộc sống, trở thành kim chỉ nam hướng vợ chồng Tràng đến một tương lai tươi sáng, tốt đẹp hơn.
Bên cạnh phân tích nhân vật bà cụ Tứ, SCR.VN tặng bạn 💧 Phân Tích Nhân Vật A Phủ 💧 10 Bài Văn Mẫu