Phân Tích Sức Sống Tiềm Tàng Của Mị ❤️️ 22+ Bài Văn Mẫu Hay ✅ Chọn Lọc Và Chia Sẻ Tuyển Tập Tư Liệu Tham Khảo Hữu Ích Tác Phẩm Văn Học Lớp 12.
Dàn Ý Phân Tích Sức Sống Tiềm Tàng Của Mị Ngắn Nhất
Tham khảo dàn ý phân tích sức sống tiềm tàng của Mị ngắn nhất dưới đây sẽ giúp các em học sinh nắm được bố cục và hệ thống luận điểm chính cho bài viết của mình.
I. Mở bài phân tích sức sống tiềm tàng của Mị:
Giới thiệu tác giả tác phẩm và vấn đề cần phân tích – sức sống tiềm tàng của Mị.
- Tô Hoài rất nhạy cảm với cảnh sinh hoạt, phong tục tập quán của con người các vùng miền, tác phẩm của ông hấp dẫn người đọc bởi vốn hiểu biết sâu sắc.
- Tiêu biểu cho phong cách của Tô Hoài là truyện ngắn Vợ chồng A Phủ. Đặc biệt, hình tượng nhân vật Mị đã trở thành biểu tượng đẹp cho sức sống tiềm tàng của người phụ nữ bị áp bức.
II. Thân bài:
*Giải thích: Sức sống tiềm tàng là sức sống vốn có của con người nhưng bị hoàn cảnh bên ngoài tác động làm che khuất đi, nhưng luôn thường trực, chờ cơ hội trỗi dậy.
1.Phân tích sức sống vốn có của Mị trước khi làm dâu nhà thống lí Pá Tra:
- Mị là cô gái người Mông trẻ trung, hồn nhiên, có tài thổi sáo “thổi lá cũng hay như thổi sáo có biết bao nhiêu người mê ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”
- Mị đã từng yêu, từng được yêu, luôn khao khát đi theo tiếng gọi của tình yêu.
- Hiếu thảo, chăm chỉ, ý thức được giá trị cuộc sống tự do nên sẵn sàng làm nương ngô trả nợ thay cho bố.
2.Phân tích sức sống tiềm tàng của Mị sức sống tiềm tàng của Mị bị khuất lấp trong cảnh làm con dâu gạt nợ:
- Khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra: bị “cúng trình ma” nhà thống lí, bị bóc lột sức lao động, “không bằng con trâu con ngựa”, “đàn bà trong cái nhà này chỉ biết vùi đầu vào công việc” , bị đày đọa nơi địa ngục trần gian, bị đánh, bị phạt, bị trói, …
- Mị dần trở nên chai sạn với nỗi đau: một cô gái lúc nào cũng vậy dù quay sợi, thái cỏ ngựa, … đều cúi mặt “mặt buồn rười rượi”, không quan tâm đến thời gian “lỗ vuông bằng bàn tay …không biết là sương hay nắng”.
- Mị sống lầm lũi “như con rùa nuôi trong xó cửa”, “ở lâu trong cái khổ Mị quen rồi”.
3.Phân tích khi sức sống tiềm tàng của Mị trỗi dậy:
-Khi bị rơi vào cảnh làm con dâu gạt nợ Mị có ý định tự tử bằng lá ngón, không chấp nhận cuộc sống mất tự do.
-Trong đêm hội mùa xuân ở Hồng Ngài, sức sống của Mị đã trỗi dậy:
- Âm thanh cuộc sống bên ngoài (tiếng trẻ con chơi quay, tiếng sáo gọi bạn tình, ..) ùa vào tâm trí, đánh thức những kỉ niệm trong quá khứ của Mị.
- Mị lẩm nhẩm lời bài hát, trong khoảnh khắc tâm hồn trở về với thanh xuân tươi đẹp, khao khát tình yêu hạnh phúc.
- Mị ý thức được sự tồn tại của bản thân “thấy phơi phới trở lại”, “Mị còn trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”, với khát khao tự do, chấm dứt sự tù đày.
- Khi A Sử trói, lòng Mị vẫn lửng lơ theo tiếng sáo, tiếng hát của tình yêu đến những đám chơi. Lúc vùng dậy cô chợt tỉnh trở về với hiện thực.
- Nhận xét: Mị luôn tiềm tàng sức sống mãnh liệt, sức sống ấy luôn âm ỉ trong lòng người con gái Tây Bắc và chỉ chờ có cơ hội để bùng lên mạnh mẽ.
-Trong đêm mùa đông, khi A Phủ bị trói:
- Ban đầu Mị dửng dưng bởi sau đêm tình mùa xuân, cô trở lại là cái xác không hồn.
- Khi thấy giọt nước mắt của A Phủ khiến Mị đồng cảm, chợt nhớ đến hoàn cảnh của mình trong quá khứ, Mị lại biết thương mình và thương cho kiếp người bị đày đọa “có lẽ ngày mai người kia sẽ chết, chết đau, … phải chết”.
- Bất bình trước tội ác của bọn thống lí, Mị cắt dây đay cởi trói cho A Phủ
- Mị sợ cái chết, sợ nỗi khổ sẽ phải gánh chịu trong nhà thống lí, cô chạy theo A Phủ tìm lối thoát vượt ra khỏi địa ngục trần gian.
- Nhận xét: Mị là người con gái lặng lẽ mà mạnh mẽ, tiềm tàng sức sống, hành động của Mị đã đạp đổ cường quyền, thần quyền của bè lũ thống trị miền núi.
III. Kết bài phân tích sức sống tiềm tàng của Mị: Nêu suy nghĩ về hình tượng nhân vật Mị và khái quát lại giá trị của tác phẩm.
- Nghệ thuật: ngôn ngữ đậm chất miền núi, lối trần thuật linh hoạt với sự dịch chuyển điểm nhìn trần thuật, miêu tả thành công tâm lí nhân vật và hình ảnh thiên nhiên.
- Tác phẩm chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc: sự cảm thông với số phận đau khổ của những con người chịu áp bức, tố cáo lên án bọn thống trị miền núi, bọn thực dân, ngợi ca vẻ đẹp, sức sống tiềm tàng trong mỗi con người Tây Bắc.
Gợi ý cho bạn 🌹 Sơ Đồ Tư Duy Vợ Chồng A Phủ 🌹 13 Mẫu Vẽ Tóm Tắt Hay
Mở Bài Phân Tích Sức Sống Tiềm Tàng Của Mị Ngắn Gọn
Tham khảo gợi ý viết mở bài phân tích sức sống tiềm tàng của Mị ngắn gọn dưới đây giúp các em học sinh có cách bắt đầu bài viết hàm súc ấn tượng.
Tô Hoài tên khai sinh là Nguyễn Sen, ông là một cây bút đầy sức sáng tạo của nền văn học Việt Nam. Tô Hoài có vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng miền khác nhau, lối trần thuật hóm hỉnh, vốn từ vựng giàu có, sáng tạo, cách miêu tả đậm chất tạo hình, lay động lòng người.
“Vợ chồng A Phủ” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông được in trong tập “Truyện Tây Bắc”. Năm 1952, Tô Hoài cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Chuyến đi thực tế này đã đem đến cho nhà văn cái nhìn sâu sắc và tình cảm thắm thiết với người và cảnh Tây Bắc.
Truyện nói về cuộc sống tối tăm, khổ nhục và quá trình tự vùng lên đấu tranh kẻ thù, xây dựng lại cuộc đời của người dân miền núi cao Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn thực dân, chúa đất. Đặc biệt, Tô Hoài đã khắc họa thành công nhân vật Mị có sức ám ảnh đối với người đọc với sức sống tiềm tàng mãnh liệt.
Kết Bài Sức Sống Tiềm Tàng Của Mị Ấn Tượng
Dưới đây gợi ý cho các em học sinh mẫu kết bài sức sống tiềm tàng của Mị ấn tượng để giúp bài viết phân tích nhân vật của mình hoàn thiện hơn.
Sức sống mãnh liệt tiềm tàng trong con người Mị không gì vùi dập được. Ngòi bút của tác giả lánh sâu vào những bí mật của đời sống nội tâm, phát hiện nét đẹp và nét riêng của tính cách nhân vật ngay cả lúc nhân vật đau khổ nhất. Tô Hoài đã cảm thông cho số phận của những con người phải sống trong sự đày đọa của áp bức thống trị. Nhà văn đã lên án và tố cáo sâu sắc một xã hội tàn bạo, xấu xa, nghiệt ngã như vậy. Qua đó, Tô Hoài còn ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn, khát vọng sống mãnh liệt của nhân vật Mị.
Cũng qua đây, nhà văn lên tiếng tố cáo xã hội mục nát dưới sự cai trị của thần quyền, cường quyền đã trà đạp lên quyền sống chính đáng của con người. Đồng thời, với việc khắc họa nhân vật Mị, Tô Hoài một lần nữa bày tỏ thái độ bênh vực, trân trọng, thương xót những kiếp người nhỏ bé trong xã hội phong kiến thực dân.
Từ đó, nhà văn kêu gọi con người dũng cảm đấu tranh cho sự sống, cho quyền con người chân chính. Đó có lẽ là lí do vì sao “Vợ chồng A Phủ” được coi là tác phẩm đầy tinh thần nhân đạo sâu sắc và tính nhân văn cao cả!
Mời bạn khám phá thêm 💕 Tóm Tắt Vợ Chồng A Phủ 💕 16 Bài Tóm Tắt Tác Phẩm Hay
Phân Tích Sức Sống Tiềm Tàng Của Mị Trong Đoạn Trích Vợ Chồng A Phủ – Mẫu 1
Đón đọc bài văn mẫu phân tích sức sống tiềm tàng của Mị trong đoạn trích Vợ chồng A Phủ được chọn lọc và chia sẻ dưới đây:
Tô Hoài được biết đến là một trong số những nhà văn thành công nhất khi viết về cuộc sống và con người nơi miền Tây Bắc của Tổ quốc trong những năm kháng chiến chống Pháp gian khổ mà kiên cường, bất khuất của dân tộc.
Với lối trần thuật sinh động, ngôn ngữ gợi cảm cùng nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo, những trang viết của Tô Hoài luôn để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc và tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” là một trong số những tác phẩm đó. Đọc “Vợ chồng A Phủ” người đọc không thể nào quên được hình ảnh nhân vật Mị – một cô gái sức sống tiềm tàng, mãnh liệt.
Như chúng ta đã biết, Mị là một cô gái trẻ đẹp với nhiều phẩm chất đáng quý nhưng cuộc đời của Mị lại luôn gặp phải những đau khổ và bi kịch. Ngay trong phần đầu của tác phẩm, người đọc đã thấy hiện lên hình ảnh một cô Mị xinh đẹp, chăm chỉ và giàu lòng hiếu thảo với cha mẹ. Chắc hẳn, ai cũng nghĩ, người con gái hội tụ nhiều phẩm chất tốt đẹp như Mị sẽ xứng đáng có được cuộc sống ấm êm, vui vẻ và hưởng một hạnh phúc vẹn tròn.
Nhưng, vì món nợ truyền kiếp Mị đã trở thành con dâu gạt nợ của nhà thống lí Pá Tra và cũng kể từ đây, Mị sống kiếp của con trâu con ngựa và với Mị, nhiều lúc cô cảm thấy mình còn không bằng con trâu, con ngựa trong nhà thống lí.
Cũng kể từ đây, Mị đã trở thành công cụ lao động của nhà thống lí, Mị làm việc không biết ngày tháng,quên hết mọi ý niệm về không gian và thời gian. Và để rồi, có lẽ bởi sống quá lâu trong cái khổ, trong sự hành hạ cả thể xác lẫn tinh thần, Mị dần trở nên chai lì, vô cảm và tê liệt trong sức sống, lúc nào cùng làm việc như một cỗ máy với khuôn mặt “buồn rười rượi”.
Dẫu sống trong cái khổ với đầy rẫy sự áp bức nhưng người đọc vẫn thấy sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của nhân vật Mị mà không thế lực nào có thể dập tắt nó được. Có thể thấy, sức sống tiềm tàng ấy của Mị trước hơn hết thể hiện ở những phản ứng ngầm của nhân vật. Đã có nhiều lầm trong tác phẩm Mị có ý định ăn lá ngón để tự tử. Hành động ấy của nhân vật xét đến cùng xuất phát từ việc Mị ý thức được thực tại cuộc sống của chính mình và vượt thoát khỏi nó.
Đặc biệt, sức sống tiềm tàng của Mị được thể hiện rõ nét qua diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật trong đêm tình mùa xuân. Bằng ngòi bút trữ tình và giàu chất thơ cùng những am hiểu sâu sắc về Tây Bắc, nhà văn Tô Hoài đã vẽ nên một bức tranh mùa xuân Tây Bắc với những nét độc đáo nhất, mang đậm bản sắc của núi rừng nơi đây và có lẽ đặc biệt nhất trong số đó chính là âm thanh của tiếng sáo.
Bởi âm thanh của tiếng sáo chứa thật nhiều ý nghĩa, nó không chỉ là nét đặc trưng của mùa xuân Tây Bắc mà còn là biểu tượng cho hạnh phúc, tình yêu, đồng thời nó chính là yếu tố tác động mạnh mẽ nhất đến tâm hồn Mị, đánh thức sức sống trong Mị. Để rồi, trong tâm hồn Mị đã bắt đầu có những dấu hiệu của sự thức tỉnh, “Mị nghe tiếng sáo vọng lại thiết tha bổi hổi”, Mị cảm nhận được những âm thanh trong không gian quanh mình và rồi “Mị nhẩm thầm bài hát của người đang thổi sáo”.
Giờ đây, dường như Mị không còn dửng dưng, vô cảm với những gì diễn ra trong cuộc sống của mình nữa. Qua lời bài hát, từng dòng kí ức đang gọi nhau ùa về, sống lại trong Mị. Tâm hồn Mị bắt đầu có dấu hiệu của sự nổi loạn. Mị uống rượu, “uống ừng ực từng bát” như để quên đi những nỗi cay đắng, tủi nhục của mình. Tâm hồn Mị dần hồi sinh và phơi phới trở lại, dần thoát khỏi sự tê liệt về tinh thần.
Mị ý thức về tuổi trẻ và khao khát được sống như ngày xưa “Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ, Mị muốn đi chơi”. Muốn đi chơi nghĩa là Mị muốn hòa mình vào không khí của màu xuân tươi đẹp rực rỡ, là muốn đến với thế giới ngập tràn tình yêu và tự do phía bên ngoài kia, nghĩa là Mị đã thoát khỏi trạng thái tê liệt tâm hồn trong những ngày trước đây. Và đó cũng chính là lúc Mị ý thức được thân phận tủi nhục, cay đắng của chính mình.
Tâm hồn thức tỉnh đó cũng là lúc Mị đối diện với thực tại phũ phàng, nhận ra thân phận buồn tủi chua xót của mình khi Mị và A Phủ không có lòng, không có tình yêu mà vẫn phải ở với nhau – một cuộc sống không có tình yêu và hạnh phúc. Nhưng dù thế nào đi nữa Mị vẫn muốn đi chơi và Mị đã chuẩn bị đi chơi. Mị đã thắp sáng lên ngọn đèn điều đó có nghĩa ý niệm về không gian đã trở lại trong Mị.
Mị thắp đèn cũng chính là thắp sáng bóng tối u uất trong tâm hồn mình. Mị quấn lại tóc, “với tay lấy cái váy hoa, rút thêm cái áo”. A Sử về và trói đứng Mị nhưng dường như Mị đã quên mất việc mình đang bị trói, Mị vẫn nghe thấy tiếng sáo và chân Mị vẫn vùng bước đi. Giờ đây, A Sử chỉ có thể trói chặt thể xác của Mị còn tâm hồn Mị đã đi theo âm thanh của tiếng sáo, hòa cùng những cuộc vui bởi trong Mị giờ đây sức sống đã trỗi dậy, vượt thoát ra khỏi cả những nỗi đau về thể xác.
Thêm vào đó, sức sống mãnh liệt, tiềm tàng của Mị còn thể hiện rõ nét qua hành động Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ. Lúc đầu, khi thấy A Phủ bị trói đứng, Mị hoàn toàn dửng dưng, vô cảm, “Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy thì cũng thế thôi”. Mị sống cô độc, tuyệt vọng và vô cảm, phải chăng chính cái khổ, cái cực ở nhà thống lí đã khiến tâm hồn Mị trở nên chai sạn. Nhưng rồi khi nhìn thấy giọt nước mắt của A Phủ, tâm hồn Mị đã được đánh thức.
Mị không còn dửng dưng, thản nhiên với A Phủ nữa mà thay vào đó là sự đồng cảm và động lòng trắc ẩn “Trời ơi! Nó bắt trói đứng người ta đến chết”. Giọng văn chuyển từ kể sang biểu cảm đã thể hiện rõ nét niềm cảm thương sâu sắc của Mị với A Phủ và cả với chính mình. Hơn thế nữa, Mị căm phẫn tội ác của cha con nhà thống lí Pá Tra. “Mị thốt lên: Chúng nó thật độc ác”. Nhà văn đã để nhân vật tự thốt lên, trực tiếp bộc lộ sự căm phẫn và thái độ phản kháng của mình.
Trong đầu Mị hiện lên ý định cởi trói cho A Phủ song Mị lại thấy sợ. Nhưng rồi đến cuối cùng, tình thương người, thương mình của Mị đã vượt qua mọi nỗi sợ hãi, thúc đẩy Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ. Mị giục A Phủ chạy trốn và cuối cùng quyết định chạy trốn theo A Phủ. Hành động đó của Mị là hành động bột phát song nó là điều tất yếu bởi lẽ sức sống tiềm tàng đang cứ ngày một lớn dần và trỗi dậy trong Mị.
Tóm lại, với nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sâu sắc, chân thực và tinh tế cùng những tình huống đặc sắc, “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài đã xây dựng thành công nhân vật Mị với sức sống tiềm tàng, mãnh liệt. Đồng thời, qua đó đã thể hiện rõ nét tư tưởng nhân đạo của nhà văn Tô Hoài.
Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất
Phân Tích Sức Sống Tiềm Tàng Của Nhân Vật Mị Trong Đêm Tình Mùa Xuân Ở Hồng Ngài – Mẫu 2
Bài văn mẫu phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích dành cho các em học sinh.
Tô Hoài là một trong những nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông có vốn hiểu biết sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng văn hoá khác nhau trên đất nước ta. Thành công nhất của Tô Hoài là những tác phẩm viết về hiện thực cuộc sống, con người vùng Tây Bắc. Tiêu biểu là truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”.
Tác phẩm vừa là một bức tranh chân thực về số phận bi thảm của người dân nghèo miền núi dưới ách áp bức phong kiến và thực dân, vừa là một bài ca về sức sống và khát vọng tự do, hạnh phúc của con người. Vẻ đẹp ấy đã ngời lên thật trọn vẹn qua diễn biến tâm trạng Mị và sức sống tiềm tàng mãnh liệt của nhân vật này qua đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài.
Trước khi vào nhà thống lý Pá Tra, Mị là một cô gái trẻ đẹp. Trong tác phẩm này, nhà văn không hề dùng mỹ từ nào để tả cái đẹp của Mị, nhưng vẻ đẹp ấy vẫn hiện lên qua chi tiết: “trai đến đứng nhẵn vách đầu buồng Mị”. Mị chính là bông hoa ngát hương của núi rừng Tây Bắc. Cô có một cuộc sống tự do, hạnh phúc, vô tư giữa tháng ngày tuổi trẻ.
Cô gái vùng cao ấy, mỗi khi tết đến xuân về thường làm bao kẻ si tình chết mê, chết mệt bởi tiếng sáo. Mị thổi sáo giỏi “thổi lá cũng hay như thổi sáo, có biết bao người mê ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”.
Không chỉ đẹp người, cô gái ấy còn đẹp nết. Mị giàu lòng hiếu thảo, có tình yêu lao động, yêu tự do, giàu lòng tự trọng. Tô Hoài đã đặt vào miệng Mị tất cả những phẩm chất cao quý ấy qua lời nói đầy tha thiết với cha già: “con nay đã biết cuốc nương làm ngô” (tình yêu lao động); “con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố” (lòng hiếu thảo); “bố đừng bán con cho nhà giàu” (giàu lòng tự trọng).
Khi bị bắt làm dâu nhà Pá Tra, Mị có cuộc sống thống khổ, là nạn nhân của chế độ cho vay nặng lãi, bị tước đoạt tự do, hạnh phúc cá nhân: mở đầu tác phẩm, nhà văn đã giới thiệu nhân vật một cách ấn tượng: “Ai ở xa về có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa”. Lúc nào cô ấy cũng “cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Dáng vẻ ấy của Mị gợi ra hình ảnh một con người có số phận đau khổ.
Dù cuộc sống thống khổ, trong Mị vẫn mãnh liệt một sức sống tiềm tàng và khát vọng tự do, hạnh phúc. Khát vọng ấy đã bùng cháy lên khi mùa xuân đến trên đất Hồng Ngài. Mị đã bước vào cái đêm đáng ghi nhớ ấy thoạt tiên, như một tâm hồn câm lặng cái cô Mị xưa kia trẻ đẹp, khao khát yêu đương và cũng đã được yêu đương, cô Mị ấy tưởng như đã chìm hẳn vào dĩ vãng.
Chỉ còn một người đàn bà “không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, người đàn bà bị cầm tù trong một ngục thất tinh thần (hình ảnh cái buồng có một cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay, lúc nào trông ra cũng chỉ thấy mờ mờ trăng trắng). Đã bao năm rồi, người đàn bà ấy chẳng biết đến mùa xuân, chẳng đi chơi Tết.
Vậy mà vào đúng cái đêm tình mùa xuân năm ấy, Mị thốt nhiên lại muốn đi chơi, và đã sửa soạn đi chơi thực sự. Vì sao vậy? Khó có thể cho là tại đất trời. Thời tiết mùa xuân năm nào chẳng đại loại là như thế.
Lý giải sự đột biến khác thường của Mị trong đêm ấy, là một thử thách thật sự đối với Tô Hoài. Hãy xem bằng cách nào mà nhà văn vượt qua thử thách. Với một người như Mị, muốn đi chơi nghĩa là muốn phá phách, nghĩa là nổi loạn. Cũng với một người như Mị để có thế nổi loạn, thì phải có cái gì có khả năng làm quên đi hiện tại để sống trở về những tháng năm xưa.
Cái đó là men rượu mà Tết năm ấy, Mị đã lén “uống ực từng bát”. “Rồi say Mị lịm mặt ngồi đấy, nhưng lòng Mị thì đang sống về ngày trước”… Rõ nhất là tiếng sáo. Mỗi lần tiếng sáo trở lại chuyện là mỗi lần nó được biến đổi đi từ âm thanh của hiện tại dần dần thành tiếng của những mùa xuân trước.
Từ chỗ ở ngoài Mị, ở xa Mị, dần dần như tiếng ai mời gọi, hồn ai chờ đợi ngoài đường, đế cuối cùng rập rờn trong đầu người thiếu phụ. Tiếng sáo dìu hồn Mị hay là bước đi của hồn Mị được ghi dấu bằng tiếng sáo.. Như thế là sức sống, lòng ham sống đã thức dậy trong lòng người thiếu phụ. Nhưng sự vượt khỏi hoàn cảnh hiện tại của nhân vật không hề đơn điệu, dễ dàng.
Một thời gian dài. Mị sống trong sự giao tranh giữa quá khứ và hiện tại. Quá khứ đẩy đưa đi, hiện tại thì níu lại. (Nên lòng phơi phới mà Mị vẫn theo quán tính bước vào buồng, ngồi xuống giường, trông ra cái cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Và lòng ham sống trào dậy đầu tiên trong ý nghĩa muốn chết ngay chứ không buồn nhớ lại…).
Nhưng sức sống cứ lớn dần, sức ám ảnh của tuổi xuân cứ mạnh dần, cho tới khi nó dường như chiếm trọn tâm hồn Mị. Phải tới lúc đó, Mị mới hành động như một kẻ mộng du. không thấy, không nghe A Sử nói.
Rồi Mị bị A Sử trói trong trạng thái mơ hồ. Mãi về sau, Mị mới cảm thấy cái Hiện tại tàn khốc khi vùng bước đi mà tay chân không cựa được. Nhưng nếu cái mơ không đến một lần ngay tức khắc thì sự tỉnh ra cũng vậy Lại một giai đoạn chập chờn nữa giữa hơi rượu, tiếng sáo với cái đau nhức của dây trói và tiếng chân ngựa đạp vào vách. Nhưng bây giờ thì theo chiều ngược lại, tỉnh dần ra, đau đớn dần lên, tê dại dần đi để dần dần trở lại với vị trí của con rùa lùi lũi trong xó cửa.
Một làn sóng tình cảm đã tan đi, không làm thay đổi mảy may đời Mị. Những cái gì Tô Hoài đã viết về đêm hôm ấy vẫn đầy ý nghĩa. Nó cho thấy sức sống của con người dù bị giẫm đạp, đè nén đến đâu cũng vẫn không bị mất đi. Ý nghĩa ấy khiến ta thêm tin, thêm yêu mến con người. Thứ hai chế độ phong kiến là chế độ buộc trói, giam hãm chống lại con người và sư sống. Chế độ ấy đáng căm thù, lên án cả từ phía nhân danh quyền sống của con người. Một tình tiết nghệ thuật giàu chất nhân đạo và chất thơ.
Xem nhiều hơn 🌹 Tóm Tắt Nhân Vật Mị Trong Vợ Chồng A Phủ 🌹 12 Mẫu Ngắn Gọn
Bài Cảm Nhận Về Sức Sống Tiềm Tàng Của Mị Trong Đêm Mùa Xuân Hay Nhất – Mẫu 3
Dưới đây chia sẻ bài phân tích cảm nhận về sức sống tiềm tàng của Mị trong đêm mùa xuân hay nhất để các em học sinh cùng tham khảo và học tốt tác phẩm.
Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn được nhà văn Tô Hoài viết vào năm 1952 được in trong tập “Truyện Tây Bắc” (1953) được lấy cảm hứng từ một sự kiện có thật khi chính nhà văn Tô Hoài đã được sống và chứng kiến chính cuộc sống của những người dân nghèo nơi vùng cao xa xôi này.
Nhà văn Tô Hoài đã thấy được cảnh những số phận con người biến thành nô lệ bị chế độ địa chủ cường hào thống lí áp bức bóc lột khiến sống không bằng chết. Hệ thống nhân vật mà Tô Hoài xây dựng nên cũng là những số phận tiêu biểu cho những tầng lớp tiêu biểu trong xã hội xưa chính là thống lí Pá Tra – địa chủ giàu có nhưng tàn ác, Mị và A Phủ – những người nông dân lao động hiền lành nhưng phải chịu đày đọa cả về thể xác lẫn tinh thần.
Nhân vật Mị được nhà văn giới thiệu từ giữa cuộc đời đi ra. Mở đầu truyện nhà văn đưa người đọc đến với thế giới của truyện cổ tích, với miền đất xa xôi Tây Bắc, dừng lại nhà thống lí Pá Tra giàu có nhất vùng, gặp một thiếu phụ đặc biệt lúc nào cũng ngồi cạnh tảng đá cạnh tàu ngựa vô tri vô giác, mặt lúc nào cũng cúi buồn rười rượi.
Những câu văn tự sự chậm rãi nhỏ nhẹ hé mở cho người đọc thấy cuộc đời người thiếu phụ thật bất hạnh, chắc không phải con gái thống lí, quả đúng như vậy đó là con dâu gạt nợ tội nghiệp, khốn khổ. Từ đây, ngòi bút tài hoa của Tô Hoài ngược dòng thời gian trở về quá khứ để kể về cuộc đời của Mị trước khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra.
Thời gian trước đó Mị là con gái trong một gia đình nông dân nghèo khổ hoàn cảnh vô cùng éo le, nghèo đến mức mà bố mẹ Mị không đủ tiền cưới phải vay lãi nhà thống lí Pá Tra “mỗi năm trả lãi một nương ngô”, đến khi mẹ Mị qua đời mà gia đình vẫn chưa hết nợ, món nợ truyền từ đời này sang đời khác. Số phận đưa đẩy Mị phải sống trong căn nhà u tối nhà thống lí, ngày cũng như đêm Mị ở trong căn phòng không có ánh sáng, không được coi như một con người phải chịu cảnh sống khổ cực như trâu ngựa.
Mị là người con gái nết na thùy mị, có những phẩm chất, tính cách tốt đẹp, tài hoa “Mị thổi sáo giỏi” đi đường “nhặt chiếc lá đưa lên môi, thổi sáo lá hay như thổi sáo” thể hiện được thế giới tâm hồn của Mị rất phong phú.
Hơn thế nữa Mị là người con hiếu thảo biết lo cho gia đình đã hy sinh bản thân để giúp cha trả nợ. Ấy thế rồi cuộc đời Mị bị lay chuyển từ khi bước chân vào làm con dâu nhà thống lí. Mị lùi lũi như con rùa nuôi ở xó cửa, hình ảnh so sánh có thể cho người đọc thấy được cảnh nơi Mị sống chẳng khác gì địa ngục, nơi tăm tối, không có sự sống.
Nhưng trái tim nhân đạo sâu sắc của Tô Hoài không để cho nhân vật mà mình đồng cảm chết tàn chết lụi tội nghiệp ở nhà thống lí mà ông vẫn để cho sức sống tiềm tàng của Mị như hòn than hồng âm ỉ cháy trong đống tro tàn của tâm hồn, nếu gặp luồng gió mát cuộc đời thổi tới nó sẽ bùng cháy. Nhà văn đã thăng hoa tài năng của mình sáng tạo ra luồng gió mát ấy chính là đêm tình mùa xuân làm hồi sinh tâm hồn Mị.
Thiên nhiên năm ấy khác thường gió bấc lạnh thêm dữ dội hòa với sắc màu cuộc sống là trên những mỏm đá những chiếc váy hoa phơi “xòe” như đàn bướm sặc sỡ, âm thanh của cuộc sống khác lạ khi ở Hồng Ngài ăn tết sớm tiếng trẻ con đùa nhau ầm ĩ, tiếng “trai gái ném pao, thổi khèn, thổi sáo và nhảy”.
Sự khác thường ấy đã tác động vào tâm hồn Mị đặc biệt là chi tiết “tiếng sáo” như một sợi chỉ đỏ nối liền tâm hồn Mị thời trẻ trung son sắt với đêm tình mùa xuân năm nay, tiếng sáo vọng vào sâu thẳm tâm hồn gọi về bài hát Mị thường thổi năm xưa “Mày có con trai con gái rồi, mày đi làm nương, ta không có con trai con gái ta đi tìm người yêu”.
Đây là tiếng sáo lần thứ nhất lấp ló đầu núi, từ xa vọng lại khiến trái tim Mị đang lạnh giá, khô cứng, bỗng mềm dịu, ấm áp, đập những nhịp đập hồi sinh trở lại “thiết tha bồi hồi” và Mị tỉnh lại thấy hiện tại “đêm tình mùa xuân đã tới”.
Khi tỉnh dậy có lẽ Mị lại nhận ra cuộc sống hiện thực không đáng sống vì tuổi xuân của Mị đang bị giam hãm ở nhà thống lí Pá Tra, và tất yếu bao nỗi buồn tủi đau dâng trào mãnh liệt đòi hỏi Mị tìm đến men rượu để trốn tránh: “Mị lén lấy hũ rượu cứ uống ực từng bát”, uống như muốn trôi đi bao đau khổ, uất hận.
Cách uống rượu như thể tất yếu khiến Mị say, lịm mặt ngồi đấy, bắt đầu rơi vào trạng thái phân thân, tiếng sáo vẫy gọi giục giã, còn men rượu nâng tâm hồn Mị bay lên theo tiếng sáo đến với những cuộc chơi trong hoài niệm của quá khứ. Còn thể xác vẫn ở lại nhà thống lí “nhìn mọi người nhảy đồng, người hát” khi mọi người về hết “Mị vẫn ngồi trơ một mình giữa nhà”.
Tiếng sáo lần hai “tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng” tiếng sáo lần này đã đến gần Mị hơn. Tiếng sáo như vẫy gọi khiến Mị như bị thôi thúc trở về quá khứ ngày trước sống với những ngày tươi đẹp xuân sắc, rực rỡ, vui tươi nhất, thuở ấy “Mị thổi sáo giỏi” “Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo”, có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị.
Đến đây Tô Hoài đã nhìn thấy trong tâm hồn Mị một cuộc giao tranh gay gắt giữa quá khứ và hiện tại, quá khứ tươi đẹp rực rỡ nhưng mới chỉ bùng lên, còn hiện tại Mị bị cường quyền, phụ quyền áp chế lại dai dẳng triền miên quá lâu nên quá khứ không dễ thắng nổi, không thể kéo bước chân Mị đi chơi.
Từ khi Mị vào nhà thống lí “chẳng năm nào A Sử cho Mị đi chơi tết” những hồi ức về quá khứ mỗi lúc một mạnh mẽ bừng cháy làm Mị lại quên đi hiện tại đau khổ chỉ còn nhìn thấy hiện tại đang vui, may mắn là: “Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ” và “Mị muốn đi chơi”. Đấu tranh trong tâm hồn Mị càng một mạnh mẽ thêm qua những lần tiếng sáo dồn dập tiếp theo khiến tâm hồn Mị thoát ra như con ong thoát khỏi tổ kén. Tuy chân tay bị trói chặt nhưng tâm hồn đã hòa nhịp với đêm tình ngoài kia.
Sự hồi sinh mạnh mẽ ấy bùng cháy do nhiều cung bậc của tiếng sáo đã thôi thúc Mị bước đi dù là lúc tỉnh, lúc mơ. Mị lúc mê đi theo tiếng sáo, lúc tỉnh thổn thức với tiếng chó sủa xa xa tiếng chân ngựa dần dần sự áp chế ngày một đè nặng khiến Mị bừng tỉnh và vô cùng sợ hãi rơi vào trạng thái tê liệt “ như con rùa nuôi trong xó nhà”.
Tô Hoài đã rất tài tình bằng tài năng và trái tim nóng của mình đã khắc họa chân thực những nét riêng biệt về phong tục, tập quán, tính cách và tâm hồn người dân nơi vùng cao xa xôi bằng một giọng văn nhẹ nhàng mang phong vị dân tộc, giàu giá trị nhân văn sâu sắc.
Giới thiệu cùng bạn 🍀 Sơ Đồ Tư Duy Nhân Vật Mị 🍀 7 Mẫu Vẽ Tóm Tắt Ngắn Hay
Phân Tích Sức Sống Tiềm Tàng Của Mị Trong Đêm Tình Mùa Xuân Và Đêm Đông Cứu A Phủ – Mẫu 4
Tham khảo bài văn phân tích sức sống tiềm tàng của Mị trong đêm tình mùa xuân và đêm đông cứu A Phủ dưới đây để nắm bắt được những luận điểm trọng tâm.
Tô Hoài có rất nhiều tác phẩm viết về con người và vùng đất Tây Bắc, trong đó Vợ chồng A Phủ là một trong những truyện ngắn tiêu biểu nhất. Vợ chồng A Phủ viết về đôi vợ chồng người H’Mông, về cuộc sống và số phận con người đất Hồng Ngài dưới ách thống trị của cường quyền và thần quyền. Trong tác phẩm này, nhà văn Tô Hoài đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Mị- người phụ nữ bất hạnh bị buộc trở thành người con dâu trừ nợ nhà thống lí với sức sống tiếm tàng mãnh liệt.
Theo chân nhà văn bước vào tác phẩm, ta bước vào cuộc sống của Mi – một người con gái của dân tộc H’Mông nơi đây. Mị trước khi về làm dâu nhà thống lý Pá Tra có một cuộc sống rất yên bình như những người con gái khác. Mị xinh đẹp, có tài thổi sáo được nhiều chàng trai ngưỡng mộ. Mị còn là một người con hiếu thảo, một cô gái giỏi lao động.
Đến tuổi cập kê, Mị được rất nhiều chàng trai theo đuổi, không chỉ vì cô rất xinh đẹp, chăm chỉ làm lụng mà còn thổi sáo rất hay “Mị thổi sáo giỏi… Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo… Bao nhiêu người mê, cứ ngày đêm thổi sáo đi theo Mị hết núi này sang núi khác”.
Nhà Mị nghèo, cha mẹ ngày xưa lấy nhau phải vay bạc của nhà thống lý Pá Tra. Đến khi mẹ cô chết, nợ vẫn chưa trả được, vậy nên, Mị đã thay cha mẹ gánh việc nương rẫy để trả nợ cho nhà thống lý. Cô quả là một người con rất hiếu thảo!
Thế nhưng, mỗi năm “phải trả một nương ngô cho người ta” mà bao nhiêu năm vẫn chưa hết nợ, thống lí Pá Tra đã bảo với cha Mị rằng:”cho tao đứa con gái này về làm dâu, thì tao xoá hết nợ cho” và rồi xảy ra sự việc A Sử đến giả làm người yêu Mị bắt Mị về nhà hắn. Mị trở thành “con dâu gạt nợ” của nhà thống lí và bắt đầu những chuỗi ngày khổ cực, đày đọa cả thể xác và tinh thần.
Sau đêm hôm ấy, Mị chính thức trở thành con dâu nhà thống lý Pá Tra. Mang danh là con dâu nhà giàu thế nhưng cuộc sống của Mị lại chẳng khác gì kẻ tôi tớ, cả năm cả tháng Mị phải làm quần quật như con trâu con ngựa trong nhà.
Mị phải làm việc không ngơi tay “Tết xong lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, đến mùa đi nương bẻ bắp. Và dù đi hái củi, bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tưới sợi”, “con ngựa con trâu làm có lúc, đêm còn được đứng gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này vùi vào việc cả ngày lẫn đêm”.
Cuộc sống đày đọa về thể xác quanh năm suốt tháng khiến Mị trở nên lầm lũi “mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa”, “ở lâu trong khổ, Mị quen khổ rồi”. Cùng với sự áp bức về tinh thần đã biến Mị từ một cô gái xinh đẹp, yêu đời trở nên chai lì về cảm xúc.
Từ ngày bị A Sử bắt về “cúng trình ma”, Mị đã cay đắng nghĩ rằng mình đã trở thành người nhà thống lí “Ta là thân đàn bà, nó đã bắt về trình ma rồi, chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi”. Chế độ thần quyền tại Hồng Ngài đã gián tiếp đẩy một cô gái như Mị trở nên tê liệt, trở thành một người không còn suy nghĩ, sức sống hay cảm xúc.
Không chỉ thế, Mị còn là nạn nhân của chế độ cường quyền tàn ác mà đại diện ở đây là cha con thống lí Pá Tra, chúng đã cướp đi tất cả hạnh phúc, tình yêu của cuộc đời Mị, biến Mị trở thành một kẻ nô lệ không công cho nhà hắn.
Còn A Sử, Mị mang danh là vợ của hắn, thế nhưng, hắn đối xử với cô chẳng khác gì một kẻ người ở, một người nô lệ, bởi hắn chưa từng cho Mị đi chơi dù là mùa xuân lễ hội “chẳng năm nào A Sử cho Mị đi chơi Tết”. Trong đêm tình mùa xuân, khi tiếng sáo réo rắt cất lên ở nẻo xa, tâm hồn Mị chợt dạt dào những kỉ niệm về ngày trước, khi cô còn được sống trong tự do và hạnh phúc.
Mị uống rượu và muốn được đi chơi Tết “Mị còn trẻ. Mị muốn đi chơi”, thế nhưng, A Sử khi biết được ý định của Mị, đã tàn nhẫn “xách một thúng sợi đay ra trói Mị vào cột nhà”, “quấn luôn tóc Mị lên cột, Mị không cúi, không nghiêng đầu được nữa”.
Mị sống trong nhà thống lý bị tước đoạt sự tự do, tước đoạt của niềm vui, tình yêu và hạnh phúc của đời Mị. Nỗi đau đớn về thể xác và tinh thần đã khiến Mị trở nên tê liệt, trở nên chai lì cảm xúc, trở thành một cái xác không hồn “Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa”, “Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Ở buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông ấy mà trông ra. Đến bao giờ chết thì thôi”.
Năm tháng ở nhà thống lí, Mị không còn thấy khổ, không còn biết đau nữa, cũng không còn biết tự do là gì, yêu thương là gì. Và cái buồng nơi Mị nằm trở thành cái địa ngục trần gian giam giữ không chỉ thể xác mà còn là tâm hồn của Mị, mà Mị nghĩ phải đến lúc chết, cô mới được giải thoát.
Cực khổ là thế, bị đàn áp, áp bức đến tê liệt là thế, những tưởng tất cả khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của Mị đã bị vùi dập, dập tắt hết. Nhưng không, cái sức sống ấy nó ẩn mình tiềm tàng trong con người Mị và chợt bùng cháy lên thật mạnh mẽ trong đêm tình mùa xuân và trong đêm Mị giải cứu A Phủ.
Khi tiếng sáo gọi bạn trong đêm hội mùa xuân Hồng Ngài cất lên cùng với tiếng người cười nói, tiếng kèn, tiếng pao, lòng Mị đã dập dìu. Mị uống rượu để được say, để được quên đi nhưng “lòng Mị đang sống về ngày trước, tai văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng”. Tiếng sáo ấy như đánh thức cái khát khao tự do đang ngủ vùi trong sâu thẳm Mị sống dậy để Mị chợt thấy “phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui như những đêm Tết ngày trước”. Mị nhận ra rằng “Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”.
Đây là khát vọng sống và sự phản kháng đầu tiên của Mị từ khi bước chân vào nhà thống lý. Mị muốn được tự do, muốn được giải thoát “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa”. Khát vọng sống, khát vọng tự do cứ theo tiếng sáo dập dìu bay đến bên Mị “trong đầu Mị đang dập dờn tiếng sáo”, và Mị muốn được ra ngoài, muốn được đi chơi như “bao nhiêu người có chồng” khác. Vậy nên, “Mị quấn tóc lại. Mị với tay lấy cái váy hoa vắt phía trong vách” để chuẩn bị đi chơi.
Ý thức cuộc sống đã trở về với Mị rồi! Khao khát sống, tự do, vui tươi bùng cháy mạnh mẽ trong lòng Mị. Dù bị A Sử bắt đứng trói cột không cho đi chơi, nhưng tâm hồn cô đã thoát lên, đi theo những tiếng sáo gọi bạn rồi “Trong bóng tối, Mị đứng im, như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn, mị nghe thấy tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi”.
Tiếng sáo ngày xuân đã đánh thức khát vọng sống tiềm tàng trong con người Mị. Tiếng sáo đã làm nó bùng cháy lên thật mãnh liệt, đã thôi thúc Mị có những phản kháng đầu tiên của một con người có xúc cảm. Tiếng sáo ấy cũng đã thổi bùng lên khát vọng tự do trong cô, đánh thức cảm xúc, ý thức về cuộc sống trong con người cô “Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”.
Thế nhưng, sau đêm tình đó, Mị lại trở về những ngày trước, lại sống vô hồn, lầm lũi như “con rùa nuôi trong xó cửa”. Liệu có ai nghĩ rằng Mị sẽ có ngày vùng lên mà thoát khỏi sự áp bức, thoát khỏi địa ngục trần gian này chăng?
Sự kiện A Phủ đánh mất bò, bị đánh rồi bị trói đứng vào cột làm xôn xao cả bản. Thế nhưng, điều đó dường như chẳng làm ảnh hưởng gì tới Mi và cuộc sống của cô. Cô vẫn lầm lũi như thế, “thản nhiên thổi lửa, hơ tay” như mọi ngày. Nếu A Phủ là cái xác chết đứng chết ở đấy, cũng thế thôi”. Mị không có xúc cảm, không còn thương xót cho một con người đau khổ, đáng thương như thế bởi cảm xúc trong cô đã chai lì, đã tê liệt rồi!
Thế nhưng, cảm xúc trong Mị chợt ùa về chỉ khi Mị nhìn thấy “dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen” của A Phủ. Mị chợt nhớ về đêm tình năm trước, khi cô cũng bị A Sử bắt trói đứng như thế “nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được”.
Một cảm giác thương xót chợt len lỏi cháy lên trong lòng cô. Mị thương cảm cho số phận của A Phủ, cô đồng cảm bởi cô biết sự đau đớn mà A Phủ đang phải trải qua “Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết. Nó bắt mình chết cũng thôi. … chúng nó thật độc ác. Chỉ đêm mai là người kia phải chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết… Người kia việc gì phải chết”.
Mị thương cảm cho A Phủ, cô miên man trong dòng nghĩ ngợi, cô nghĩ A Phủ biết đâu có thể trốn được và thống lí Pá Tra sẽ cho rằng cô là người thả A Phủ đi rồi “Mị liền phải trói thay vào đấy. Mị chết trên cái cọc ấy”. Nỗi sợ hãi bùng lên trong lòng cô, thế nhưng, sự thương xót và đồng cảm đã chiến thắng sự sợ hãi, cô “rón rén bước lại”, “rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây”, “gỡ hết dây trói trên người A Phủ” và “thì thào được một tiếng: Đi đi”. Mị đã giải thoát cho A Phủ, cho một con người bị áp bức như Mị được trở lại với tự do.
Thế nhưng, khi nghe tiếng bước chân của A Phủ “quật sức vùng lên, chạy”, “mị đứng lặng trong bóng tối”. Khát vọng sống chợt bùng lên mạnh mẽ trong lòng cô, thôi thúc bước chân cô chạy “băng đi” theo A Phủ. Mị sợ cái chết, Mị muốn được sống, Mị muốn được tự do và hạnh phúc, vậy nên Mị đã băng theo A Phủ và “thở trong hơi gió thốc lạnh buốt: A Phủ cho … ở đây chết mất”.
Mị đã chạy thoát khỏi địa ngục trần gian giam cầm thể xác và tâm hồn Mị, thoát khỏi những áp bức nô lệ của những kẻ cầm quyền. Hai con người đau khổ dìu nhau bước đi trong bóng tối, băng qua rừng trong đêm lạnh. Hành động cắt dây trói giải thoát cho A Phủ của Mị, cũng là hành động cắt dây trói giải thoát cho chính bản thân mình của cô, thoát khỏi kiếp sống đày đọa, khổ cực. Chính khát vọng sống, tự do đã giúp cô làm được điều đó.
Tô Hoài đã rất thành công khi xây dựng hình tượng nhân vật Mị, đặc biệt là khi miêu tả những diễn biến tâm lý phức tạp của cô. Ông đã dẫn dắt cho người đọc thấy tâm lý của Mị từ những ngày cô còn được tự do đến khi bị đày đọa trong nhà thống lý rồi đến khi vùng lên giải thoát cho bản thân. Tất cả đều được miêu tả rất xuất sắc. Ông còn tái hiện được những phong tục của con người ở vùng núi Tây Bắc rất chân thực.
Tình huống truyện được xây dựng rất đặc sắc, là bức tranh sống động về chế độ cầm quyền tàn bạo, độc ác của vùng núi Tây Bắc. Nhưng qua đó, làm hiện lên khát vọng sống mạnh mẽ, tiềm tàng của những con người nơi đây.
Nhà văn đã xây dựng hình tượng nhân vật Mị vô cùng xuất sắc. Không chỉ mang tới bức tranh về cuộc sống bị áp bức của những số phận con người nhỏ bé vùng Tây Bắc mà còn vạch trần bộ mặt ác độc của bọn cầm quyền ở đó. Đồng thời Tô Hoài cũng phát hiện ra những phẩm chất cao đẹp và sức sống tiềm tàng của những con người nơi đây. Giá trị nhân đạo và giá trị hiện thực đều được tái hiện rất xuất sắc thông qua hình tượng nhân vật Mị.
Đón đọc tuyển tập 🌟 Cảm Nhận Về Nhân Vật Mị Trong Vợ Chồng A Phủ 🌟 10 Bài Hay
Phân Tích Sức Sống Tiềm Tàng Của Nhân Vật Mị Trong Đêm Đông Cởi Trói Cho A Phủ Đặc Sắc – Mẫu 5
Chia sẻ bài văn mẫu phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong đêm đông cởi trói cho A Phủ đặc sắc giúp các em học sinh luyện tập nâng cao kỹ năng viết bài.
“Nhà văn tồn tại ở trên đời trước hết để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những con người bị cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn đến chân tường. Những con người cả tâm hồn và thể xác bị hắt hủi và đọa đày đến ê chề, hoàn toàn mất hết lòng tin vào con người và cuộc đời. Nhà văn tồn tại ở trên đời để bênh vực cho những con người không có ai để bênh vực.” (Nguyễn Minh Châu).
Với hình tượng nhân vật Mị trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã thực hiện trọn vẹn sứ mệnh ấy. Nhà văn mang đến cho người đọc một hình tượng nghệ thuật với biết bao vẻ đẹp – nhất là sức sống tiềm tàng mãnh liệt trong đêm mùa đông cởi trói cho A Phủ.
Tô Hoài – nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Với vốn am hiểu sâu rộng về nhiều lĩnh vực khác nhau, tác giả này thường lựa chọn được những hình ảnh, từ ngữ rất phù hợp để đưa vào trong từng trang văn của mình. Tô Hoài sáng tác nhiều ở các mảng đề tài khác nhau, có thể kể tới như truyện cho thiếu nhi, truyện về Tây Bắc và viết cả về Hà Nội.
Nhà thơ Trần Đăng Khoa khi được tiếp xúc với người nghệ sĩ này đã trầm trồ thán phục rằng: “Tô Hoài là nhà Hà Nội học” bởi những kiến thức mà ông biết không có trong bất cứ một cuốn sách nào, một thư viện nào. Sáng tác nhiều như vậy, nhưng nhà văn này lại dành một sự quan tâm sâu sắc cho hình ảnh của người lao động đặc biệt là đồng bào Tây Bắc.
Theo như Tô Hoài tâm sự, vì mảnh đất miền Tây đã để thương để nhớ cho ông nhiều quá nên ông đã quyết định quay trở lại đây, trả món ân tình bằng một tập “Truyện Tây Bắc” xuất sắc. “Vợ chồng A Phủ” là một trong số ba truyện ngắn in trong tập truyện này. Tác phẩm là thành quả đẹp của chuyến đi thực tế dài 8 tháng vào năm 1952 cùng bộ đội.
Thời gian ở đây, được sống, được làm việc, được tiếp xúc đã giúp cho ngòi bút của nhà văn nay có biết bao nhiêu cảm hứng để xây lên những áng văn đẹp và tình cho đời. Không quên sứ mệnh của một nhà văn, Tô Hoài nhìn thấy những con người vất vả, yêu câu chuyện mà họ kể lại viết thành những tác phẩm để đời. “Vợ chồng A Phủ” chính vì lý do đó mà đã thể hiện mạnh mẽ một trong những phẩm chất cao đẹp của người lao động – sức sống tiềm tàng.
Mị là nhân vật trung tâm của tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”. Cô vốn là một cô gái vùng cao trẻ trung, xinh đẹp và tài hoa nhưng vì món nợ truyền kiếp, Mị bị bắt về làm dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Vì vậy, Mị phải từ bỏ tuổi thanh xuân, phải sống một cuộc sống bị đọa đày về cả thể xác lẫn tinh thần. Mị đã từng muốn tìm đến cái chết với nắm lá ngón trong tay nhưng Mị không thể chết. Nếu Mị chết, cha Mị sẽ khổ, sẽ không thể trả được món nợ cho nhà thống lí.
Mị đành chấp nhận quay trở lại làm con dâu gạt nợ, sống kiếp đời nô lệ, tủi nhục, bất hạnh. Song song với nét tính cách đó lại là tâm trạng của một người yêu đời, yêu cuộc sống, mong muốn thoát khỏi hoàn cảnh sống đen tối, đầy bi kịch. Điều đó đã được thể hiện trong đêm mùa xuân. Trong đêm mùa xuân ấy, Mị ý thức được về bản thân và về cuộc đời rồi Mị muốn đi chơi. Sức sống tiềm tàng dưới tác động của bao yếu tố đã dần trỗi dậy mạnh mẽ.
Những sợi dây thô bạo của A Sử lại một lần nữa dập tắt sức sống của Mị. Dù phải chịu đau đớn và kết cục ê chề nhưng đêm ấy thật là một đêm có ý nghĩa với Mị. Đó là đêm cô thực sự sống cho riêng mình sau hàng ngàn đêm cô sống vật vờ như một cái xác không hồn. Đó là một đêm cô vượt lên uy quyền và bạo lực đế sống theo tiếng gọi trái tim. Sau đêm mùa xuân ấy, Mị lại tiếp tục sống kiếp đời trâu ngựa.
Thế nhưng viết về vấn đề này, Tô Hoài khẳng định: cái khổ cái nhục mà Mị gánh chịu như lớp tro tàn phủ khuất che lấp sức sống tiềm tàng trong lòng Mị. Và chỉ cần có một luồng gió mạnh đủ sức thổi đi lớp tro buồn nguội lạnh ấy thì đốm lửa ấy sẽ bùng cháy và giúp Mị vượt qua cuộc sống đen tối của mình. Và cuối cùng, luồng gió ấy cũng đến. Đó chính là những đêm mùa đông dài và buồn trên núi rừng Tây Bắc đang về.
Mùa đông trên núi cao dài và lạnh, Mị chỉ có bếp lửa là người bạn duy nhất của mình. Mị có thói quen sưởi lửa hàng đêm dù rất nhiều lần thằng A Sử nó về nhìn thấy Mị sưởi lửa nó đã đạp Mị ngả dụi xuống đất. Nhưng Mị không bỏ được.
Bếp lửa đối với người con gái này không chỉ là công cụ sưởi ấm mà quan trọng hơn đó còn là người bạn sưởi ấm tâm hồn của Mị trong những năm tháng đầy chai sạn này, mà theo cách lí giải của tác giả Tô Hoài, ấy chính là phần vô thức của con người: “Ngọn lửa là hình ảnh có tính chất tượng trưng, nó ở trong sự vô vọng của cuộc đời Mị, dù rất mơ hồ nhưng nó níu kéo không để sự vô vọng lùa đi đến tuyệt cùng”. Đêm hôm đó, cũng nhờ bếp lửa, Mị nhìn thấy giọt nước mắt của A Phủ – Chàng trai gạt nợ cho nhà thống lý có thể ngày mai, ngày kia sẽ chết.
Chỉ vì mải bẫy nhím để hổ vồ mất bò, A Phủ phải chịu cảnh trói đứng nghiệt ngã. Nhưng ban đầu, khi đối diện với một con người đang đứng trên bờ vực cái chết là A Phủ ấy, “Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay”. Mị còn tự nghĩ A Phủ nếu là “cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi”. Mị hoàn toàn vô cảm, thờ ơ trước cảnh A Phủ bị trói. Đây cũng là một diễn biến tâm lí bình thường, hợp lí. Nó hợp lí là bởi Mị đã ở lâu trong khổ đau, đã chịu bao đày đọa về thể xác và tinh thần.
Cái cuộc sống ở nhà thống lí Pá Tra đã làm bào mòn đi tâm hồn Mị. Mị đã bị tê liệt đi mọi cảm xúc, ý thức, nhận thức, Mị trở nên vô cảm, thờ ơ với nỗi đau của chính mình và cả nỗi đau của người khác. Hơn thế nữa, cảnh trói người, đánh người cũng chẳng còn là xa lạ ở nhà thống lí Pá Tra. Nó diễn ra một cách thường xuyên, hằng ngày, hằng giờ. Cuộc sống của những con người ở nhà thống lí đầy cơ cực, đắng cay và đày đọa. Chính vì vậy họ chẳng còn có thể đồng cảm, quan tâm đến nỗi đau của người khác.
Như vậy hoàn cảnh nghiệt ngã của đồng loại cũng chẳng còn lay động được tâm hồn Mị nữa rồi. Có lẽ phải cần thêm một tác nhân nữa. Và đó chính là dòng nước mắt của A Phủ. Lửa cháy sáng, “Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Đó là dòng nước mắt của một kẻ nô lệ khi phải đối mặt với cái chết đến rất gần.
Chính “dòng nước mắt lấp lánh ấy” đã làm tan chảy lớp băng giá lạnh trong lòng Mị. Lòng Mị chợt bồi hồi trước một người cùng cảnh ngộ. Quả thật “Khi tình thương chạm vào trái tim thì cho dù sỏi đá cũng thành châu lệ”. Mị hiểu cảm giác bị trói đứng đến chết “chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”, bởi Mị đã từng bị A Sử trói như vậy. Ở đoạn văn này, tác giả không hề đề cập đến nỗi đau về thể xác của Mị, cũng không hề viết về nỗi tủi nhục của A Phủ nhưng tất cả đều hiện lên thật rõ.
Mị đã cảm nhận nỗi đau của A Phủ bằng chính những cảm xúc xuất phát từ nỗi đau của mình. Mị căm phẫn khi nhớ lại người đàn bà đời trước cũng bị trói đến chết trong căn nhà này. Lần đầu tiên, Mị nhận thức được tội ác của cha con thống lí một cách cặn kẽ: “Chúng nó thật độc ác!” – điều mà từ trước đến nay, ngay cả khi bị trói không cựa được Mị cũng chưa từng nghĩ.
Đó là sự trỗi dậy ý thức về kẻ thù, căm ghét cái ác, cái tàn bạo. Việc trói người đến chết còn các hơn cả thú dữ trong rừng. Nhớ đến những chuyện ngày trước, trở về với hiện tại, Mị đau khổ cay đắng cho thân phận của mình: “Ta là thân đàn bà chúng nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết chờ ngày rũ xương ở đây thôi”.
Từ thương mình, tới thương người, Mị cảm thấy thương A Phủ: “cơ chừng này chỉ đêm nay thôi là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Người kia việc gì mà phải chết như thế. A Phủ…. Mị phảng phất nghĩ như vậy”. Trong Mị đã le lói để rồi xuất hiện thật rõ ý muốn phản kháng, ý muốn cứu người, rồi tất yếu sẽ dẫn đến hành động cắt dây trói đầy dũng cảm.
Một loạt nét tâm lí ấy đã thôi thúc Mị cắt dây cởi trói cứu A Phủ. Nhưng trước khi cắt: Mị băn khoăn “cha con thống lý sẽ đổ cho Mị cởi trói, Mị sẽ bị trói thay vào đấy…”, rất có thể Mị sẽ phải chết thay A Phủ. Nhưng làm sao, “Mị cũng không thấy sợ”, lòng thương người trong Mị đã lớn hơn cả sự sợ hãi. Mị rón rén bước lại gần A Phủ, rút con dao nhỏ, cắt nút dây mây. Đó là một việc làm táo bạo và hết sức nguy hiểm nhưng nó phù hợp với nét tâm lí của Mị trong đêm mùa đông này.
Trong Mị giờ đây không chỉ tiềm tàng ý thức muốn phản kháng cái ác mà mạnh mẽ hơn đó là sự thôi thúc của tình thương, của lòng trắc ẩn đã trỗi dậy. Sau khi cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị cũng không ngờ mình dám làm một chuyện động trời đến vậy. Mị thì thào lên một tiếng “Đi ngay” rồi Mị nghẹn lại. Đó là mệnh lệnh đối với A Phủ đồng thời là một lời kiên quyết đối với tâm hồn mình. A Phủ vùng chạy đi còn Mị vẫn đứng lặng trong bóng tối.
Ta có thể hình dung được nét tâm lí ngổn ngang trăm mối của Mị lúc này. Lòng Mị rối bời với trăm câu hỏi: Vụt chạy theo A Phủ hay ở đây chờ chết? Bởi theo tập tục của dân tộc của Mị, đã cúng trình ma rồi thì dù chết cũng phải chết ở nhà đó, nếu chạy trốn cùng A Phủ thì Mị không đơn giản chỉ là giải thoát cho mình mà còn là làm trái với tập tục, với truyền thống. Đây chẳng còn là chuyện về ý chí nữa mà còn là chuyện về tâm linh, ý niệm.
Nhưng cận kề nhất với Mị sẽ là cái chết, chắc chắn là chết, nếu Mị ở lại. Đồng thời cái hình ảnh của A Phủ “quật sức vùng lên” tác động mạnh vào Mị. Mị đứng lặng trong bóng tối. Rồi cũng vụt chạy ra. “Trời tối lắm. Nhưng Mị vẫn băng đi”. Nghĩa là phía trước mọi cái vẫn tối tăm và bất định lắm, nhưng đó là sự bất định chưa rõ, còn cụ thể ngay giờ đây là cái chết. Trong tình huống đó, cả A Phủ và Mị không thể có con đường nào khác là chạy đi.
Bước chân của Mị như đạp đổ chế độ cường quyền, thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến đã đè nặng tâm hồn Mị suốt bao nhiêu năm qua. Mị gọi với theo: “A Phủ. Cho tôi đi! Ở đây thì chết mất”. Đó là khao khát sống, khao khát tự do mãnh liệt của Mị. Câu nói ấy khi cất lên đã làm quặn đau trái tim độc giả, truyền đến độc giả sự cảm nhận rõ nhất về biết bao khổ cực Mị đã phải gánh chịu, cùng với đó là sự phục sinh mạnh mẽ hơn tất thảy của niềm khao khát sống trong Mị.
Kể từ đây, những áp chế về cường quyền, bạo quyền và thần quyền đều ở lại. Hai người rời bỏ Hồng Ngài và đến Phiềng Sa, những ngày phía trước ra sao họ cũng chưa biết đến, chỉ biết rằng phải cật lực chạy thoát khỏi địa ngục trần gian này.
Hành động cắt dây cởi trói cứu A Phủ chính là bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời Mị. Từ thân phận nô lệ, Mị làm chủ cuộc đời mình. Từ sức sống tiềm tàng, âm ỉ đã phát triển thành sức mạnh giải phóng để thay đổi cuộc đời. Nhà văn Tô Hoài đã thật tinh tế khi sử dụng nghệ thuật trần thuật hấp dẫn, cách dựng cảnh sinh động, cách lột tả nội tâm nhân vật nhiều bất ngờ, thú vị.
Ngôn ngữ mộc mạc giản dị đã đưa ta đến chốn Hồng Ngài đầy dẫy đau thương nhưng vẫn sáng lên khao khát sống mãnh liệt của con người. Từ hành động cứu người của Mị, chúng ta nhớ đến sự việc giải cứu linh hồn quỷ dữ làng Vũ Đại của nhân vật Thị Nở trong tác phẩm “Chí Phèo” của Nam Cao. Chỉ với việc đem cho Chí bát cháo hành mà Thị Nở đã làm thay đổi suy nghĩ và tâm tính của một con người triền miên trong cơn say và tội lỗi.
Phải chăng “tình thương là một thứ năng lượng kì diệu mà bản thân nó có thể tạo ra những phép lạ”. Hay như sức sống mãnh liệt của những con người đang trên bờ vực chết vì đói trong “Vợ nhặt” của Kim Lân, sau cùng họ vẫn hướng về ánh sáng của no ấm, tự do, hạnh phúc. Tiềm ẩn trong mỗi con người vẫn luôn là khát vọng sống lớn lao mà không một khó khăn, không một cường quyền, bạo quyền nào có thể vùi dập hoàn toàn.
Một loạt câu văn ngắn, nhiều động từ đã được Tô Hoài sử dụng tạo nên tình huống hành động, giàu kịch tính cho đoạn trích. Khác với những sự kiện ở đoạn trước, tâm lí của Mị được thể hiện chủ yếu qua ngôn ngữ độc thoại. Trong sự kiện cuối cùng mang tính chất cao trào này, nhà văn vừa sử dụng ngôn ngữ độc thoại, vừa xen kẽ những lời thoại ngắn nhằm tạo độ nén, độ căng cho tác phẩm.
Từ đó nhà văn khẳng định sức sống tiềm tàng đóng một vai trò hết sức quan trọng. Chính nó đã giúp Mị vượt lên trên số phận đen tối của mình. Mị cứu A Phủ cũng đồng nghĩa với việc Mị tự cứu lấy bản thân mình. Qua đoạn trích trên, Tô Hoài đã ca ngợi những phẩm chất đẹp đẽ của người phụ nữ miền núi nói riêng và những người phụ nữ Việt Nam nói chung. Nhà văn đã rất cảm thông và xót thương cho số phận tủi cực, không lối thoát của đồng bào bị áp bức như Mị.
Thế nhưng bằng một trái tim nhạy cảm và chan chứa yêu thương, Tô Hoài đã phát hiện và ngợi ca đốm lửa còn sót lại trong trái tim Mị. Tư tưởng nhân đạo của nhà văn sáng lên ở đó. Đồng thời, tác giả Tô Hoài cũng đã khẳng định được chân lí muôn đời: “Ở đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự đấu tranh’’, để chống lại áp bức, con người có thể dũng cảm vùng lên mạnh mẽ, dù đó là sự vùng lên một cách tự phát như Mị.
Câu chuyện “Vợ chồng A Phủ” khép lại nhưng đồng thời mở ra trong ta những xúc cảm đặc biệt. Hình tượng nhân vật Mị trong đêm mùa đông cởi trói cho A Phủ đã cởi nút thắt cho bao nhiêu tăm tối và cùng cực của con người, đó nhưng một lời tuyên ngôn về sức mạnh của tình thương yêu và khát khao sống, khát khao tự do mãnh liệt.
Ngòi bút Tô Hoài đã diễn tả thành công cuộc đời cũng như con đường đấu tranh từ tự phát đến tự giác của đồng bào miền núi, bằng lời văn giàu tính tạo hình, ngôn ngữ giản dị, phong phú và nghệ thuật kể chuyện linh hoạt, lôi cuốn. Với “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã thực sự trở thành “kẻ nâng giấc cho những con người bị cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn đến chân tường.” (Nguyễn Minh Châu)
SCR.VN tặng bạn 💧 Cảm Nhận Nhân Vật Mị Trong Đêm Tình Mùa Đông 💧 10 Mẫu Đặc Sắc
Bài Phân Tích Sức Sống Tiềm Tàng Của Mị Trong Đêm Mùa Đông Cởi Trói Cho A Phủ Chọn Lọc – Mẫu 6
Bài phân tích sức sống tiềm tàng của Mị trong đêm mùa đông cởi trói cho A Phủ chọn lọc dưới đây sẽ mang đến cho các em học sinh những ý tưởng làm bài đặc sắc.
Cuộc đời của Mị được tính từ khi cô về làm dâu nhà thông lí Pá Tra. Thường thì khi người con gái lấy chồng giàu thì sướng, nhàn hạ. Nhưng đây, Mị chỉ lùi lũi một mình, câm lặng. Xưa kia Mị cũng đã có một thời con gái hạnh phúc (trong đói nghèo).
Những đêm tình mùa xuân, con trai đến thổi sáo đứng “chật cả chân vách đầu buồng Mị”. Và Mị đã có một tình yêu, có hiệu gõ vách hẹn hò. Tâm hồn cô gái xinh đẹp và loài hoa ấy luôn mở rộng để đón nhận hương hoa của cuộc đời.
Nhưng rồi tất cả đều chấm dứt trong cái đêm Mị bi bắt cóc về nhà thống lí Pá Tra. “Sáng hôm sau, Mị mới biết mình đang ngồi trong nhà thống lí Pá Tra. Họ nhốt Mị vào buồng. Ngoài vách kia, tiếng nhạc tiền cúng ma đương rập rờn nhảy múa”. Mị bị bắt cóc để rồi trở thành con dâu thông lí là trả cái món nợ hôn nhân từ đời cha mẹ Mị.
Những ngày đầu làm dâu nhà thống lí, Mị thấm thía nỗi đau một cuộc đời bị cướp đoạt “đêm nào Mị cũng khóc”. Đúng là về làm dâu gạt nợ, Mị bị cha con thống lí đốì xử không khác gì con vật. Suốt ngày Mị chỉ “ngồi quay sợi gai cạnh tảng đá, trước cửa tàu ngựa, gương mặt cô lúc nào cũng cúi xuống, mặt buồn rười rượi”. Cuộc đời cô cột chặt vào những công việc nặng nhọc. Đọc đoạn văn mở đầu của truyện không thể không băn khoăn, khao khát muốn hiểu nguyên nhân xô đẩy Mị vào tinh cảnh mà cô phải chịu.
Trước khi về cửa nhà thống lí Mị đẹp như một bông hoa rừng. Cô là một phụ nữ trẻ đẹp, chăm chỉ công việc, giàu lòng hiếu thảo, tự tin, thông minh…Người con gái ấy là niềm khát khao, ước mơ của bao nhiêu tràng trai “Có biết nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”.
Mị chưa kịp nếm những trái ngọt của cuộc đời đã phải cay đắng tìm đến nắm lá ngón, mong kết liễu cuộc đời không ra gì. Bởi vì, Mị không muôn chấp nhận một cuộc sống chết mòn héo úa – điều này chứng tỏ con người Mị tiềm ẩn một sức sống mãnh liệt, muốn thoát khỏi cuộc sống nô lệ. Nhưng vì tình thương cha, lòng hiếu thảo, Mị khó không đành chết nên vứt nắm lá ngón, trở lại nhà thống lí.
Ngày lại ngày qua, nổi khổ cực đã dồn nén dần cái sức sống tiềm tàng trong con người Mị. Mị không nghĩ đến cái chết nữa (ngay cả khi cha cô không còn). Mị tưởng mình cũng chỉ là con trâu, con ngựa nhà thông lí, sống trong nhà thống lí ách áp bức của giai cấp thống trị, thần quyền, sự mê tín đã biến Mị trở thành con người hoàn toàn khi “ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”.
Dường như mối giao cảm giữa Mị với cuộc sống bên ngoài chỉ còn thu hẹp của “căn buồng âm u, kín mít, có một chiếc cửa sổ, một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trắng trắng, không biết là sương hay nắng”.
Thời gian trôi qua, cho đến cái đêm A Phủ bị trói đứng vào cây cọc: trong nhà thống lí vì để hổ bắt mất con bò… A Phủ vì đánh lại con quan nên làng phạt vạ, và trở thành người ở gạt nợ của gia đình thống lí còn Mị làm dâu gạt nợ. A Phủ – Mị có cùng một cảnh ngộ, cùng là người đi ở gạt nợ cho nhà thống lí. A Phủ bị trói mấy đêm rồi nhưng đêm nào cũng vậy. Mị dậy đốt lửa sưởi và thản nhiên như không có gì bên cạnh.
Mỗi đêm, đêm nào cũng vậy khi ngọn lửa bùng, Mị nhìn sang biết A Phủ còn sống nhưng Mị không hề nói năng gì. “Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi. Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa”. Bởi vì tâm hồn Mị đã khép kín và câm lặng rồi. Mặc dù, với ngọn lửa to như thế, hồng như thế cô vẫn cảm thấy lành lạnh, cô đơn. Sự cô đơn ấy cô đã từng nếm thử nhưng bây giờ nó cay và đắng lạ. Khi chỉ biết ngồi một mình bên bếp lửa. Dường như sức sống trong tầm hồn cô đã cạn dần.
Không, ngược lại, sức sống trong cô lâu nay bị dồn nén quá sức bây giờ nó để vỡ tung ra khi “Ngọn lửa vừa bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” của A Phủ. Dòng nước mắt ấy đã làm trỗi dậy trong Mị tinh thương những người cùng cảnh ngộ. Mị chợt nhớ lại cái đêm mình cũng bị trói đứng vào cột nhà như thế kia, cũng “nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ không lau đi được”.
Cũng như lần trước, một khi ý thức sống trỗi dậy, thì Mị lại nghĩ đến cái chết, nhưng lần này là một cái chết oan ức, vô lí của một người khác. Vì mê tín, vì đã là người của nhà thống lí, Mị cam chịu chết ở cái nhà này. Còn A Phủ việc gì phải chết, A Phủ phải được sống. Sau ý nghĩ ấy lòng thương người lớn hơn thương thân. Mị đã cam chịu chết thì cô sợ gì mà không cứu A Phủ. “Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ cần biết đợi ngày mà rũ xuống ở đây thôi- Người kia việc gì phải chết”.
Rõ ràng, Mị đã suy nghĩ kỹ, đã lường trước những gì sẽ xảy ra. Cô sẵn s àng chịu trói thay cho A Phủ. Nghĩ đến lúc rơi vào tình cảnh ấy Mị cũng không thấy sợ. Ngược lại lúc này cô bình tĩnh, can đảm hơn bao giờ hết. Đến giờ phút nà y thì việc rút dao cắt dây trói cho A Phủ là một việc phải làm tất nhiên có thể xảy ra. Đó là hành động tự bản thân Mị chứ không phải là sự phát triển của tình huống truyện do tác giả sắp đặt.
A Phủ đã được giải thoát, lòng thương của Mĩ đã chiến thắng còn Mị vẫn đứng trong bóng tối. vẫn biết rằng Mị không sợ hình phạt của thống lí, không sợ phải chết thay cho A Phủ vì chết đối với Mị là một giải thoát, Mị vốn nghĩ thế. Nhưng thấy A Phủ đã chạy đi rồi, chạy đi đến một cuộc sống tự do, thì Mị bừng tinh hẳn. Mị không muốn chết nữa mà Mị muốn sống, phải sống “Mị cũng vụt chạy ra” theo A Phủ. Giải thoát cho A Phủ, Mị cũng giải thoát luôn cho chính mình.
Hành động cởi trói cho A Phủ bắt nguồn từ một sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Trong tính cách của Mị, không một uy vũ nào có thể dập tắt nổi. Hành động chạy theo A Phủ là một hành động thật bất ngờ nhưng rất hợp lí. Lần này, thì sức sống mãnh liệt của Mị đã chiến thắng. Mị đúng là con người hơn con người thật. Đêm cuối cùng ở nhà thống lí Pá Tra, đã thành thật xin A Phủ cho đi theo, lời xin ấy cũng chính là ngọn lửa lâu ngày âm ỉ đang được bùng cháy.
Nhân vật Mị đã thu hút được người đọc bằng chính cái sức sống tiềm ẩn ấy . Tô Hoài đã rất thành công khi tạo dựng nhân vật này. Một cô Mị xinh đẹp, tài hoa, yêu đời, ham sống và luôn luôn nghĩ đến cái chết vì không được sống cho ra sống. Một cô Mị câm lặng, khép kín và luôn luôn bùng nổ những hành động chống đối mãnh liệt. Mâu thuẫn đấy mà lại hết sức thống nhất, tự nhiên, hợp lí.
Người đọc cảm giác ấy là nhờ cách kể truyện rất sinh động, kết cấu hình tượng chặt chẽ và nhất là nhờ những chi tiết nghệ thuật có tính biểu cảm cao: một lỗ cửa sổ, “mờ mờ trăng trắng” soi rọi cuộc đời của cô con dâu gạt nợ nhà thống lí một tiếng sáo gọi bạn tình đêm xuân bồi hồi, tha thiết như giục giã, như gọi mời những hơi rượu say nồng đêm xuân; những giọt nước mắt trong đêm cuối cùng ở nhà thống lí…
Ở Mị có sự dửng dưng vô cảm, bén cạnh lòng thương xót xâu xa; có lúc lãng quên tất cả và cũng có lúc trào dâng nỗi nhớ thiết tha bồi hồi. Từ chỗ không thấy sợ Mị bỗng trở thành người hoảng hốt. Tất cả trạng thái đối nghịch ấy của tâm hồn Mị đều được Tô Hoài dẫn dắt, phân tích một cách hợp lí tưởng như không có thể nào khác được.
Đọc Vợ chồng A Phủ ta thấy Mị là bức chân dung tĩnh lặng. Hầu như trong thời gian nhà thống lí Mị chỉ nói có vài ba câu. Nhưng ẩn chứa trong tâm hồn câm lặng ấy là một sức sống mãnh liệt, một khát vọng lớn lao như mạch suối ngầm trong mắt. Tiếp xúc với Vợ chồng A Phủ ta nhớ, ta yêu một cô Mị ở Hồng Ngài càng bị đoạ đầy, đau khổ càng khao khát muốn vươn lên một cuộc sống tốt lành. Một cô Mị tiềm tàng sức sống mãnh liệt để có thể hiểu hơn một cô Mị du kích Phiềng Sa sau này.
Tham khảo văn mẫu 🍀 Cảm Nhận Nhân Vật Mị Trong Đêm Tình Mùa Xuân 🍀 15 Mẫu Đặc Sắc
Phân Tích Sức Sống Tiềm Tàng Của Nhân Vật Mị Trong Đêm Đông Cứu A Phủ Đạt Điểm Cao – Mẫu 7
Để viết phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong đêm đông cứu A Phủ đạt điểm cao, các em học sinh có thể tham khảo bài văn mẫu sau đây:
“Đất nước và con người miền Tây Bắc để thương để nhớ cho tôi nhiều quá” (Tô Hoài). Là thành quả nghệ thuật đẹp đẽ mà Tô Hoài thu hoạch được sau chuyến đi bộ đội vào giải phóng Tây Bắc dài tám tháng, tập truyện “truyện Tây Bắc” là nỗi nhớ niềm thương bồi hồi xúc động, là lời tri ân sâu sắc mà nhà văn dành tặng cho mảnh đất con người Tây Bắc đau thương mà anh dũng, đẫm nước mắt tủi hờn mà vời vợi chất thơ.
Là truyện ngắn đặc sắc hơn cả của tập truyện, “Vợ chồng A Phủ” là bức tranh chân thực, cảm động về cuộc sống tối tăm, tủi nhục và sức mạnh vùng lên vươn tới chân trời tự do hạnh phúc của đồng bào các dân tộc vùng cao Tây Bắc. Giá trị của tác phẩm được kết tinh ở hình tượng nhân vật Mị với sức sống tiềm tàng mãnh liệt.
Nếu những nhà văn hiện thực phê phán chỉ thấy con người là nạn hân bất lực của hoàn cảnh thì các nhà văn cách mạng bao giờ cũng phát thiện hiện ra sức manh phúc sinh trong tâm hồn của những con người cùng khổ. Là cây bút xuất sắc trong dòng văn học cách mạng Việt Nam, chẳng những rất thành công khi diễn tả cái chết dần chết mòn của Mị – một cô gái tràn đầy sức sống mà còn rất tinh tế khi khám phá quá trình hối din của Mị.
Nếu như có một hoàn cảnh làm tê liệt bóp chết sức sống của Mị thì tất cũng có một hoàn cảnh giúp Mị hối sinh. Và hoàn cảnh đó chính là đêm đông Mị vắt dây trói cứu A Phủ đầy éo le, kịch tính.
A Phủ là chàng trai nghèo khổ cả cha lẫn mẹ, vì đánh A Sử, A Phủ bị bắt phạt vạ trở thành đứa ở trừ nột của nhà thống lí Pá trá, cùng chung thân phận nô lệ trâu ngựa với Mị. Một lần sơ ý để hổ vồ mất bò, A Phủ bị thống lí Pá Tra bắt trói bỏ mấy ngày liền giữa mùa đông giá rét.
Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn, đêm nào Mị cũng dậy thổi lửa hơ tay. Dã mấy lần rồi, mỗi khi dậy thổi lửa hơ tay, Mị lại thấy cảnh A Phủ bị trói nhưng Mị vẫn thản nhiên dửng dưng thờ ơ. “Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy thì cũng thế thôi. Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa”. Quá quen với cái tạm bộ của cha con thống lí Pá Tra, tâm hồn Mị tê dại đến vô cảm. Và tâm hồn Mị có lẽ sẽ mãi mãi hóa đá nếu như Mị không bắt gặp giọt nước mắt của A Phủ.
Như mọi đêm, Mị dậy thổi lửa hơ tay, ngọn lửa bập bùng sáng lên, lé mắt trông sang, Mị bỗng bắt gặp dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má tuyệt vọng của A Phủ – một chàng trai vốn can trường dũng cảm. Nước mắt gọi nước mắt : Mị nhớ lại đêm tình mùa xuân bị A Sử trói, nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng cổ mà không sao lau đi được. Niềm đồng cảm trỗi dậy, thương thân bao nhiêu, Mị thương A Phủ bấy nhiêu.
Thương mình, thương A Phủ, lòng Mị sục sôi niềm căm hờn phẫn uất với cha con thống lí Pá Tra ;. “Trời ơi, nó bắt trói người ta đến chết, nói bắt mình đến chết, nó bắt trói đến chết người đàn bà trước cũng ở cái nhày này cũng thôi. Chúng nó thật độc ác”, lần đầu tiên, sau bao năm tháng câm lặng, Mị dõng dạc cất lên lời kết án đanh thép cha con thống lí.
Mị như lột xác, trở lại làm cô gái dũng cảm, khát khao tự do, sục sôi tinh thần phản kháng. Rồi Mị nghĩ đến tình cản nguy khốn đang ập đến với A Phủ : “cơ chừng này, chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết… Người kia thì việc gì mà phải chết thế ? A phủ sẽ phải chết, chết oan uổng, vô lí. Nghĩ đến điều ấy, trái tim Mị như thắt lại, cõi lòng nhói đau. “A Phủ” tiếng gọi buông ra hay tiếng nấc nghẹn ngào xót xa.
Rồi Mị miên man nhớ lại đời minh, Mị lại tưởng tưởng có thể một lúc nào đó, biết đâu A Phủ chẳng đã chốn được, lúc ấy bố con Pá Tra sẽ bảo Mị cởi trói cho A phủ, Mị liền phải trói thay, phải chết trên cái cọc này. Nghĩ thế, trong tình cảnh nào, làm sao Mị cũng không thấy sợ. Tình thương người ngày càng mạnh, nó lớn hơn niềm thương thân và giúp Mị chiến thắng mọi nỗi sợ hãi, nó thôi thúc Mị hành động một cách táo bạo : cắt dây trói cứu A Phủ.
Cắt dây trói cho A Phủ xong, Mị bỗng hốt hoảng. Mị chỉ thì thào được một tiếng “Đi ngay!” rồi nghẹn lại. đứng lặng trong bóng tối, rồi Mị chạy vụt theo, băng đi đuổi kịp A Phủ. Nỗi sợ hãi và hành động chạy theo A Phủ vô vùng đột ngột những ngẫm ra lại hết sức hợp lí, dương nhu không thể khác được. Là người, ai cũng sợ chết, nhất là khi cái chết cận kề. Là một cô gái, Mị lại rất yêu đời và ham sống, mị không thể chấp nhận cúi đầu chờ chết ở cái nơi địa ngục trần gian này.
Cuối cùng, phải kể đến chất xúc tác làm cho cuộc nổi loạn nhân tính hoàn tất. Dó là hành động quật sức vùng lên chạy của A Phủ. Hành động ấy như tia lửa bắt cháy nguồn sống mãnh liệt trong Mị, thôi thúc Mị hành động táo bạo: cùng A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài.
Vậy là, sau bao năm tháng bị vùi dập, sức sống tiềm tàng trong tâm hồn Mị đã bùng cháy mãnh liệt trong đêm đông “định mệnh”. sức sống ấy như nguồn sức mạnh vô song giúp Mị chiến thắng tất cả mọi thế lực bạo tàn cường quyền và thần quyền. Chính sức mạnh ấy đã giải cứu cho A Phủ và Mị khỏi thế giới địa ngục để đến với chân trời tự do, hạnh phúc
Đọc “Vợ chồng A Phủ”, ta chẳng thể nào không xót xa một cô Mị bị chà đạp, vùi dập, tàn nhẫn, dã man, bị dìm xuống kiếp ngựa trâu, một cô Mị cứ chết dần chết mòn, như con rùa lùi lũi trong xó tối, như cái xác không hồn. Nhưng cái để Mị chạm vào trái tim người đọc sâu đậm nhất vẫn là một cô Mị tiềm tàng sức sống mãnh liệt, âm thầm, khát vọng lớn lao. Mị của Tô Hoài đã dũng cảm vươn lên từ nhọc nhằn, khổ đau để đi về phía có ánh sáng của tự do. Cái đẹp nhất, nhân văn nhất của tác phẩm chính là ở đó.
Ngoài bài phân tích khi sức sống tiềm tàng của Mị, chia sẻ 🌼 Tóm Tắt Nhân Vật A Phủ 🌼 12 Bài Tóm Tắt Ngắn Hay Nhất
Phân Tích Sức Sống Tiềm Tàng Của Mị Trong Đêm Mùa Đông Cứu A Phủ Học Sinh Giỏi – Mẫu 8
Với tài liệu phân tích sức sống tiềm tàng của Mị trong đêm mùa đông cứu A Phủ học sinh giỏi, các em học sinh có thể trau chuốt cho mình những ý văn hay và sâu sắc.
Tô Hoài là nhà văn có sức sáng tạo dồi dào nhất trong làng văn chương Việt Nam. Trước Cách mạng, nhà văn nổi tiếng với những câu chuyện về loài vật như “O chuột”, “Dế mèn phiêu lưu ký”. Sau cách mạng nhà văn đã để lại rất nhiều dấu ấn về những tác phẩm viết về đề tài miền núi như “Truyện Tây Bắc”, “Miền Tây”… Trong tập Truyện Tây Bắc, nổi tiếng nhất là truyện Vợ chồng A Phủ.
Tác phẩm để lại dư âm trong lòng người đọc không chỉ là cảnh sắc thiên nhiên núi rừng Tây Bắc với đêm tình mùa xuân của tuổi trẻ dập dìu tiếng sáo mà còn làm xúc động tâm hồn người đọc bởi sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của nhân vật Mị – người con gái Mèo đã đứng lên đấu tranh với giai cấp thống trị miền núi, Mị cởi trói cứu A Phủ trong đêm mùa đông, từ đó thoát khỏi kiếp đời nô lệ tủi nhục để trở thành con người tự do.
Mị xuất hiện ngay từ phần mở đầu tác phẩm, gây ám ảnh cho người đọc về một kiếp người héo hắt, tàn tạ “chỉ biết cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Mị không hiện lên bằng chân dung mà hiện lên bởi số phận – một số phận đau buồn về kiếp người làm dâu gạt nợ trong nhà thống lý Pá Tra.
Mị là cô gái trẻ đẹp là bông hoa ngát hương của núi rừng Tây Bắc. Mị tài hoa với điệu sáo làm say mê biết bao nhiêu chàng trai “ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”. Mị yêu lao động “biết cuốc nương làm ngô”. Mị giàu lòng tự trọng và hiếu thảo với cha già. Khi biết tin bố sẽ gạt nợ mình cho nhà thống lý, Mị tha thiết van xin “bố đừng bán con cho nhà giàu”.
Đó chính là vẻ đẹp về nhân cách và phẩm giá của người con gái với vẻ đẹp trong ngần thánh thiện như loài hoa ban thơm ngát giữa rừng. Nhưng có ngờ đâu sự hiểm độc của chính sách cho vay nặng lãi của bọn thổ ty phong kiến miền núi như một sợi dây oan nghiệt siết chặt lấy cuộc đời Mị.
Cũng là nạn nhân của chính sách cho vay nặng lãi, A Phủ trở thành trâu ngựa trong nhà Pá Tra. Hai số phận nhưng một cảnh ngộ. Họ là nô lệ, ăn đời ở kiếp cho lũ nhà giàu. Vì để hổ bắt mất một con bò, mạng sống của A Phủ bị treo lên giá chết. Án tử đang đợi A Phủ từng phút từng giây. Đó là những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn. Mị thức dậy và sống cùng ngọn lửa. Mị vẫn câm lặng trong nỗi cô đơn. Lửa cũng cô đơn. Hai kẻ cô đơn ấy sưởi ấm cho nhau.
Nhìn thấy A Phủ bị trói đứng như thế, Mị cũng bình thản, bình thản một cách lạ lùng đến nhẫn tâm. Phải chăng “Sống lâu trong cái khổ Mị quen khổ rồi” nên Mị không còn nhận ra nỗi khổ của người khác. Và nếu đúng như vậy thì đớn đau thay Mị đã đánh mất đi lòng nhân ái mà trong bản thân người phụ nữ nào cũng có. Khi và chỉ khi dòng nước mắt của A Phủ “bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”.
Đó là dấu hiệu của sự chết đã xuất hiện trên khuôn mặt của người nô lệ ấy thì trái tim Mị mới bừng tỉnh, lòng thương người trong Mị mới trỗi dậy. Chính “dòng nước mắt lấp lánh ấy” đã làm tan chảy lớp băng giá lạnh trong lòng Mị. Lúc này đây, Mị mới thấm thía được nỗi cùng cực của kiếp người. Thương người, Mị lại thương mình. Mị hình dung lại chuỗi ngày ê chề dài dằng dặc của cuộc đời mình.
A Phủ sao mà giống Mị thế, Mị cũng từng bị A Sử trói đứng thế kia, có “nhiều lần khóc nước mắt rơi xuống miệng, xuống cổ không biết lau đi được”. Mị chợt nhận ra người ấy giống mình về cảnh ngộ, mà những người cùng cảnh ngộ rất dễ cảm thông cho nhau. Mị căm phẫn khi nhớ lại người đàn bà bị trói chết trong căn nhà này. Mị càng căm phẫn càng uất hận “chúng nó thật độc ác”.
Nhớ đến những chuyện ngày trước, trở về với hiện tại, Mị đau khổ cay đắng cho thân phận của mình: “Ta là thân đàn bà chúng nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi”. Nhưng Mị không có quyền bỏ mặc người khác. Lý trí mách bảo Mị rằng phải cứu A Phủ. Trái tim nhân ái của Mị đã thôi thúc Mị phải hành động. Nhưng Mị chợt chùn lại. Mị giằng xé dữ dội giữa mạng sống của mình và người đồng cảnh ngộ.
Có thể Mị cứu được A Phủ nhưng chính Mị sẽ lại phải chết trên cái cọc ấy. Nhưng Mị nào đâu thấy sợ, bởi giờ đây, lòng thương người đã lớn hơn tất cả mọi nỗi sợ hãi. Mị táo bạo, Mị quyết liệt, Mị nổi loạn. Chính hành động cắt đứt sợi dây trói đã phần nào cho thấy vẻ đẹp sức sống của Mị. Đó chính là sức sống của cô gái Mèo dám đứng lên đương đầu với lũ ác thú. Dù còn là mang tính tự phát nhưng đó là dấu hiệu dự báo cho thấy được sự bừng tỉnh của những nô lệ đang đi theo tiếng gọi của cách mạng.
Có ai ngờ được rằng Mị cắt đứt dây trói cho A Phủ cũng là vô tình cắt đi sợi dây oan nghiệt trói buộc cuộc đời mình. Mị đã làm một việc động trời nhưng đó là tất yếu. Cái giây phút Mị đứng lặng trong bóng tối là Mị sống trong sự ngổn ngang trăm mối. Lòng Mị rối bời với câu hỏi: chạy theo A Phủ hay ở đây chờ chết? Cuối cùng tiếng gọi của tự do và sức sống tiềm tàng đã thôi thúc Mị phải sống và Mị vụt chạy theo A Phủ.
Những bước chân của hai con người khốn khổ ấy băng qua đêm tối như đạp đổ uy quyền, thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến đương thời đã đè nặng tâm hồn họ biết bao nhiêu năm qua. Ta hãy nghe Mị nói sau bao nhiêu năm câm nín: “A Phủ. Cho tôi đi!… Ở đây thì chết mất”. Đó là câu nói thể hiện niềm khao khát sống và khát khao tự do đến mãnh liệt. Và tiếng gọi tự do đang vẫy gọi họ phía trước, nơi họ đến là Phiềng Sa vùng đất hứa còn Hồng Ngài hôm nay còn chăng là những ngày buồn đau, tủi nhục.
Đây không phải là hành động mang tính bản năng. Đúng hơn, cùng với sự trỗi dậy của ký ức, khát vọng sống tự do, đã khiến Mị chạy theo người mà mình vừa cứu. Mị giải thoát cho A Phủ và giải thoát cho cả bản thân mình! Hành động táo bạo và bất ngờ ấy là kết quả tất yếu của sức sống tiềm tàng khi người con gái yếu ớt dám chống lại cả cường quyền và thần quyền.
Thành công của nhà văn khi miêu tả sự hồi sinh của nhân vật đó chính là nhờ vào nghệ thuật trần thuật hấp dẫn. Cách dựng cảnh sinh động. Cách lột tả nội tâm nhân vật nhiều bất ngờ thú vị. Ngôn ngữ mộc mạc giản dị. Tất cả đã tạo nên giá trị nhân văn sâu sắc của tác phẩm, góp phần mang đến cho người đọc sự xúc động mãnh liệt trước số phận của đồng bào miền núi Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn chủ nô và lũ Tây đồn.
Vợ chồng A Phủ đã để lại trong lòng người đọc vẻ đẹp của lòng nhân đạo, tình yêu thương đồng cảm sâu sắc với những kiếp người nghèo khổ. Qua nhân vật Mị nhà văn đã làm hiện lên vẻ đẹp của một sức sống tiềm tàng mãnh liệt của người phụ nữ miền núi nói riêng và người phụ nữ Việt Nam nói chung. một cách tự phát như Mị.
Đọc nhiều hơn với 10 Mẫu Phân Tích Tâm Trạng 🔥 Mị Trong Đêm Đông Cứu A Phủ 🔥 Hay Và Đặc Sắc Nhất
Phân Tích Sức Sống Tiềm Tàng Của Nhân Vật Mị Trong Đêm Tình Mùa Đông Ngắn Hay – Mẫu 9
Tham khảo bài văn phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong đêm tình mùa đông ngắn hay dưới đây với những ý văn hàm súc, giàu ý nghĩa.
Khi đọc tác phẩm Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài, người đọc rất cảm thông với số phận của Mị và hoàn toàn có thể hiểu được lý do khiến Mị buông xuôi, cam chịu, chấp nhận số phận bất hạnh của mình. Thế nên việc sức sống tiềm tàng, tồn tại và bùng cháy trong Mị đã khiến người đọc không khỏi nể phục và ngưỡng mộ.
Mị là người con gái có khát vọng sống, khát vọng tự do, có lòng tự trọng. Chính vì khát vọng sống tự do và lòng tự trọng đó mà Mị mới có hành động xin cha không gả mình đi rồi hành động hái lá ngón định tự vẫn. Tiếc thay cô Mị tự trọng và cương quyết bao nhiêu thì cũng hiếu thảo và giàu tình yêu thương bấy nhiêu. Vì thương cha nên Mị mới từ bỏ việc chết, vì thương cha nên Mị mới chấp nhận cuộc sống nô lệ nhà Pá Tra.
Cũng đã có một lần khát vọng sống bùng cháy mãnh liệt trong Mị, ấy là trong đêm mùa xuân khi Mị lắng nghe tiếng sáo mời gọi bạn đi chơi, khi Mị uống rất nhiều rượu, khi Mị hồi tưởng lại thanh xuân tươi đẹp và tự do của mình. Đó là lần đầu tiên khát vọng sống trỗi dậy mạnh mẽ trong Mị sau chuỗi ngày Mị sống lầm lũi như con rùa nuôi trong xó cửa. Thế nhưng cuối cùng, khát vọng ấy vẫn bị A Sử về và dập tắt, đồng thời, A Sử cũng tra tấn Mị và nếu không có người chị dâu vào cởi dây trói thì có lẽ Mị sẽ cứ thế mà chết.
Khát vọng sống của Mị bị dập tắt, những tưởng Mị sẽ hoàn toàn trở lên câm lặng, sẽ mãi mãi lầm lũi và cứ thế mà chết đi, mà trở thành một con ma trong nhà thống lí. Cho đến những đêm mùa đông rét mướt ấy. Mỗi ngày khi Mị dậy sớm ra ngồi sưởi lửa, Mị đều hé mắt trông sang và thấy A Phủ bị trói đứng ở đó. Tâm của Mị đã chết, đến sinh mạng của mình còn chẳng quan tâm nữa thì sao Mị lại để ý được đến chuyện của người khác chứ.
Linh hồn của Mị sớm đã lụi tàn, chết lặng trong gia đình nhà thống lí rồi. Thế nhưng khi nhìn thấy giọt nước mắt lấp lánh trên khóe mắt của A Phủ, Mị lại thầm nghĩ rằng người kia vì sao mà phải chết, rồi Mị nghĩ mình đã là con dâu được người ta cúng trình ma thì mình phải chết ở đây nhưng A Phủ thì vô tội. Mị nhớ lại những lúc chính bản thân mình bị trói đứng đó, nước mắt chảy xuống không biết mà lau đi được.
Bản thân họ: Mị cũng như A Phủ đều là những người vô tội, họ không làm gì sai trái, cả thanh xuân của họ đã lao động miệt mài, làm việc cật lực cho nhà thống lí. Vậy nhưng Mị vẫn không được sống là mình, vẫn bị bạo hành cả về thể xác lẫn tâm hồn. Nhưng Mị thấy oan khuất cho A Phủ.
Hơn ai hết, Mị là người thấu hiểu hoàn cảnh của A Phủ, hiểu được nỗi oan khiên và khổ đau của anh. Mị thấy mình trong anh, và mong muốn giải thoát anh nảy sinh và trỗi dậy. Với Mị, có lẽ hành động giải cứu này cũng giống như việc Mị gửi gắm cả sự tự do và khát vọng sống của mình vào A Phủ, để con người ấy mang đi cả khát vọng sống, khát vọng tự do của Mị.
Hành động của Mị lúc này là hành động bộc phát nhưng cũng chính là hành động xuất phát từ sâu trong tâm tưởng của Mị, tưởng như Mị đã quyết định nó từ rất lâu. Với Mị, việc cắt dây trói cứu A Phủ của cô được quyết định trong chốc lát nhưng đó cũng chính là hành động cùng suy nghĩ trong sâu thẳm tâm hồn Mị vẫn hướng tới. Mị nhìn thấy số phận của Mị qua A Phủ, Mị giải thoát cho A Phủ cũng là gửi gắm ước mơ và hy vọng của mình trong cuộc chạy trốn của anh.
Thế rồi sau khi thấy A Phủ quật cường vùng dậy chạy, Mị lại tiếp tục đuổi theo, lúc này bỗng dưng Mị hiểu ra rằng, nếu ở lại đây thì sẽ chết, nếu chạy mà bị bắt thì cũng chết nhưng ít ra điều đó còn cho Mị một cơ hội để sống, vì vậy Mị chạy theo A Phủ.
Câu nói của Mị: “A Phủ, cho tôi đi, ở đây thì chết” đã cho thấy tình yêu với cuộc sống, khao khát sống mãnh liệt của Mị. Suy cho cùng, khát vọng sống và khát vọng tự do trong Mị vẫn cháy mạnh mẽ và đầy nhiệt huyết, điều đó khiến cho Mị không chỉ cứu được một mà còn tới hai sinh mạng con người, cho bản thân cô cùng A Phủ một cơ hội để đến với cuộc sống mới.
Trong lần hành động này, Mị cuối cùng cũng đã thành công. Sự thành công ấy là nhờ trong tâm hồn Mị, sức sống vẫn còn tiềm tàng, nó chỉ cần một tác nhân, một chất xúc tác để bùng phát. Mị hành động vừa có lí và có tình, tưởng chừng là bộc phát, nông nổi nhưng lại là những hành động sâu sắc và đầy đúc kết. Cũng nhờ có điều này mà giá trị nhân đạo của tác phẩm càng được đẩy lên một tầm cao mới nhân văn hơn.
Có thể bạn sẽ thích 🌟 Phân Tích Vợ Chồng A Phủ 🌟 15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Phân Tích Sức Sống Tiềm Tàng Của Mị Trong Đêm Tình Mùa Đông Đơn Giản – Mẫu 10
Bài văn phân tích sức sống tiềm tàng của Mị trong đêm tình mùa đông đơn giản sẽ giúp các em học sinh nhanh chóng ôn tập và chuẩn bị cho bài viết trên lớp.
“Vợ chồng A Phủ” là một trong những truyện ngắn tiêu biểu của nhà văn Tô Hoài. Bằng tình yêu và vốn hiểu biết sâu rộng về nền văn hóa cùng phong tục tập quán của nhiều miền đất, tác giả đã đưa độc giả khám phá cuộc sống của con người Tây Bắc một cách chân thực, sinh động.
Thông qua tác phẩm, độc giả có thể thấy được bức tranh thiên nhiên núi rừng với vẻ đẹp thơ mộng cũng như cuộc sống lao động và số phận của con người dưới ách áp bức của cường quyền bạo lực cùng sự trói buộc của thần quyền lạc hậu. Tuy nhiên, nổi bật hơn cả là khúc ca về khát vọng tự do và sức sống tiềm tàng của người dân lao động Tây Bắc được thể hiện tập trung qua nhân vật Mị, đặc biệt là hành động cắt dây cởi trói cho A Phủ của Mị.
Bằng những lời giới thiệu độc đáo, tác giả Tô Hoài đã từ từ gợi mở về số phận của một người con gái đẹp nhưng thân phận lại “không bằng con trâu, con ngựa” trong nhà thống lí Pá Tra: “Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy một cô gái quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa”. Ít ai có thể ngờ rằng, Mị từng là cô gái trẻ đẹp, thổi sáo rất giỏi với niềm yêu đời, yêu cuộc sống tự do và là niềm mơ ước của biết bao chàng trai.
Mị chính là hiện thân cho vẻ đẹp của người thiếu nữ núi rừng Tây Bắc qua vẻ đẹp vừa tự nhiên, vừa khoáng đạt. Tuy nhiên, người con gái xinh đẹp, tài năng đó lại trở thành nạn nhân của hủ tục và cường quyền bạo lực. Sau khi bị A Sử bắt về, Mị bị trói buộc, áp bức về cả thể xác lẫn tinh thần và chỉ được xem như một công cụ lao động, sống qua ngày âm thầm như một cái bóng.
Trước đêm cứu A Phủ, đã có lần sức sống tiềm tàng trong Mị trỗi dậy. Đó là khi ánh sáng le lói của niềm ham sống lắng nghe, cảm nhận được tiếng sáo gọi bạn tình vang vọng khiến tâm hồn của Mị “thiết tha bổi hổi”. Sự đổi thay của ngoại cảnh khi mùa xuân đến cùng hơi men rượu cay nồng cũng là chất xúc tác khiến Mị “phơi phới trở lại” và nhận thức được “Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. Tuy nhiên, khao khát vừa mới chớm nở đó của Mị đã bị A Sử dập tắt.
Trước cảnh tượng A Phủ bị trói, ban đầu Mị hoàn toàn dửng dưng, vô cảm và lãnh đạm, bởi Mị đã quá quen với những cảnh áp bức bóc lột mà cha con thống lí Pá Tra gây ra. Tuy nhiên, khi nhìn thấy dòng nước mắt lấp lánh “chảy xuống gò má đã xám đen lại” của A Phủ thì dòng nội tâm của của cô gái “Sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi” đột nhiên có những giằng xé và chuyển biến dữ dội.
Ban đầu, sự đồng cảm và tình yêu thương trỗi dậy trong tâm hồn của một cô gái tưởng chừng như đã tê liệt cảm giác về sự sống. Mị nhớ lại đêm mà A Sử tàn nhẫn trói Mị, Mị thương mình và thương người. Mị thoáng nghĩ đến hình phạt mà Mị sẽ phải gánh chịu khi cắt dây cởi trói cho A Phủ, nhưng rồi, tình yêu thương, sự đồng cảm đã chiến thắng và trở thành động lực thúc đẩy Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ.
Sau hành động liều lĩnh đó, Mị đứng lặng trong bóng tối và vụt chạy theo A Phủ, giải thoát bản thân thoát khỏi hủ tục thần quyền và ách áp bức bóc lột của cha con thống lí Pá Tra. Hành động cắt dây cởi trói diễn ra dứt khoát và quyết liệt cho thấy nhân vật đã tự giải thoát bản thân thoát khỏi sự trói buộc của cường quyền. Đồng thời, thể hiện rõ sự trỗi dậy mạnh mẽ và sức sống tiềm tàng trong tâm hồn nhân vật Mị.
Nếu như trong đêm tình mùa xuân, ý thức về sự sống, về tuổi xuân mới chỉ chớm nở thì hành động cắt dây cởi trói cho A Phủ đã thể hiện rõ ngọn lửa của sức phản kháng táo bạo vẫn luôn âm ỉ trong tâm hồn Mị, bởi “cái cọc” và “dây mây” – hai dụng cụ được sử dụng để trói A Phủ chính là hình ảnh ẩn dụ cho ách thống trị và bản chất tàn bạo của bọn cường quyền, bọn chúa đất miền núi.
Bởi vậy, hành động cắt dây mây cởi trói cho A Phủ chính là hành động thể hiện khát vọng tự do vẫn luôn ẩn sâu trong tâm hồn của cô gái tưởng chừng như đã mất đi ý niệm về cuộc đời. Qua đó, chúng ta có thể thấy được tài năng của nhà văn Tô Hoài trong việc miêu tả, phân tích tâm lí nhân vật. Từ đêm tình mùa xuân đến đêm cắt dây cởi trói cho A Phủ là một hành trình mang tính quy luật để tìm lại chính mình và tự giải thoát bản thân thoát khỏi “gông xiềng” của cường quyền.
Như vậy, qua hành động cắt dây cởi trói cho A Phủ của Mị, chúng ta có thể thấy được sức sống tiềm tàng mãnh liệt luôn tồn tại trong tâm thức của cô gái ham sống và yêu tự do mà không một “gông xiêng”, sợi dây nào có thể trói buộc và dập tắt. Đó cũng chính là một trong những yếu tố làm nên giá trị nhân đạo, nhân văn sâu sắc của tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”.
SCR.VN chia sẻ 💧 Phân Tích Nhân Vật A Phủ 💧 10 Bài Văn Mẫu Ngắn Hay Nhất
Bài Cảm Nhận Sức Sống Tiềm Tàng Của Mị Trong Đêm Mùa Đông Luyện Viết – Mẫu 11
Đón đọc bài văn mẫu cảm nhận sức sống tiềm tàng của Mị trong đêm mùa đông luyện viết dưới đây để có thêm cho mình tư liệu tham khảo phân tích tác phẩm hay.
Vợ chồng A Phủ in trong tập Truyện Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài (xuất bản năm 1953). Đây là tác phẩm có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Thông qua số phận của Mị và A Phủ, nhà văn đã dựng lại quãng đời đau khổ, tối tăm của người dân miền núi trước Cách mạng và phản ánh quá trình đến với cách mạng của họ.
Tô Hoài đã thành công trong việc xây dựng nhân vật Mị với diễn biến tâm lí vô cùng phức tạp và sức sống tiềm tàng trong tâm hồn người phụ nữ chịu nhiều bất hạnh. Và sức sống ấy đã bùng lên mạnh mẽ trong đêm mùa đông Mị cứu A Phủ.
Nhân vật Mị mang đầy đủ phẩm chất tốt đẹp của phụ nữ vùng cao. Đẹp người, đẹp nết, Mị được nhiều trai bản yêu mến, ước ao. Tuổi thanh xuân hứa hẹn với cô bao điều tốt lành, nhưng chỉ vì món nợ cha mẹ cô vay của tên thống lí Pá Tra từ ngày cưới, cho đến khi mẹ cô đã chết mà vẫn chưa trả được nên Mị bị bắt về làm con dâu trừ nợ cho nhà hắn.
Mị bị coi như một thứ đồ vật vô tri vô giác để tính ra tiền trừ vào số nợ. Những năm tháng Mị sống với cha con tên thống lí gian ác là chuỗi dài đau thương, khổ ải. Cô bị coi rẻ hơn cả con trâu, con ngựa.
Đau khổ, cực nhục đã cướp mất tuổi xuân của Mị, biến cô thành kẻ nhẫn nhục, cam chịu. Cô gái xinh đẹp, hồn nhiên, đa cảm thủa nào đường như đã chết, chỉ còn lại người đàn bà lúc nào cũng vậy… cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi… ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa… của nhà thống tí. Mị sống âm thầm, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa.
Không những bị đọa đày về thể xác, Mị còn bị đè nén, áp bức về tinh thần. Cô chán sống nhưng không được chết, vì Mị chết thì món nợ truyền kiếp kia vẫn còn và người bố già càng thêm đau khổ. Cuộc đời Mị bị trói buộc bằng quyền lực, bằng tập tục mê tín dị đoan lâu đời của người dân miền núi. Mị cho rằng mình đã bị Con ma nhà thống lí nhận mặt: nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi.
Cách đối xử bất công, tàn bạo của cha con thống lí làm cho Mị sống triền miên trong đau khổ. Cô lặng lẽ ra vào như cái bóng, không một người bạn chia sẻ tâm tình. Cô chỉ biết làm bạn với ngọn lửa trong những đêm đông dài và buồn. Thân xác Mị héo úa, tâm hồn Mị lạnh lẽo, trống vắng, nếu không có bếp lửa sưởi kia thì Mị cũng đến chết héo… Ngọn lửa là người bạn duy nhất giúp cô xua bớt phần nào bóng tối u ám đang vây phủ cuộc đời.
Không có người thông cảm với nỗi khổ của mình, Mị phải tìm đến ngọn lửa và coi nó là bạn… Khổ biết chừng nào! Tác giả giúp người đọc hình dung rõ hơn về cuộc đời bế tắc của Mị qua hình ảnh căn buồng cô ở kín bưng, tối mò, chỉ thông với bên ngoài bằng lỗ cửa sổ bé như bàn tay. Ở trong nhìn ra không biết là đêm hay ngày, sương hay nắng…
Bao năm qua, bị đày đọa trong nhà thống lí, mọi cảm xúc của Mị hầu như tê liệt. Tinh thần phản kháng cũng vậy. Mị nghĩ rằng mình là con trâu con ngựa của nhà giàu, chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi. Con trâu, con ngựa đêm còn được nghỉ, còn cô không lúc nào ngớt việc. Trước kia, có lần cô phản kháng dữ dội bằng cách định ăn lá ngón tự tử, giờ đây cô không nghĩ đến cái chết nữa vì đã quá quen với cái khổ rổi. Đời Mị cứ thế lặng lẽ trôi đi trong vô vọng. Với Mị, cuộc sống không còn ý nghĩa.
Đau khổ kéo dài khiến cho lòng Mị tưởng chừng nguội lạnh. Dường như mọi cảm xúc, khát khao đã bị dập tắt từ lâu. Điều kì diệu là dẫu trong tột cùng đau thương thì mọi thế lực tội ác cũng không hủy diệt được con người. Lay lắt, đói khổ, nhục nhã nhưng Mị vẫn sống âm thầm, mãnh liệt.
Từ trong sâu thẳm tâm hồn người con gái bị đày đọa kia vẫn âm ỉ, le lói một ngọn lửa yêu đời, ham sống. Mùa xuân về, Mị lén uống rượu và lòng Mị thì đang sống về ngày trước. Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng… Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi…
Rõ ràng, bản chất đích thực đã trở lại với Mị. Tất cả mọi giác quan, cảm xúc tưởng như đã lụi tàn vì đau khổ nay đang sống dậy. Mị thấy mình còn trẻ lắm, mà còn trẻ thì phải được hưởng hạnh phúc. Vì thế nên bất chợt Mị muốn đi chơi. Nhưng khát vọng chính đáng đã bị hiện thực phũ phàng vùi dập.
A Sử đánh Mị, trói Mị, Mị vẫn thả hồn lâng lâng theo tiếng sáo gọi bạn. Tiếng sáo mùa xuân, tiếng sáo gọi tình yêu khơi lên niềm khao khát hạnh phúc trong lòng Mị. Phản ứng tự phát ban đầu của Mị không thể giải phóng được cuộc đời cô nhưng những giây phút trỗi dậy ấy có ý nghĩa thức tỉnh. Giống như đốm lửa âm ỉ trong đám tro tàn, có ngày nó sẽ bùng cháy dữ dội khi gặp cơn gió mạnh.
Chứng kiến cảnh A Phủ bị trói, bị đánh, mấy đêm đầu, Mị vẫn thản nhiên thức dậy sưởi lửa. Mị thản nhiên vì chuyện đánh người, trói người xảy ra thường xuyên ở nhà thống lí. Nhưng đêm nay, trông thấy dòng nước mắt bò xuống hai hõm má đã xám đen lại của A Phủ, Mị không cầm lòng được. Mị thương A Phủ cũng bị rơi vào vòng đọa đày, khốn khổ như mình.
Cô liên tưởng tới bao kẻ tôi tớ khác trong nhà này đã bị cha con tên thống lí bạo tàn đối xử dã man. Có người chết đói, chết rét sau mấy ngày cùm trói. A Phủ kia cũng sẽ như vậy thôi và đến một ngày nào đó, Mị cũng thế. Hơn bao giờ hết, ý thức về nỗi khổ, về thân phận trỗi dậy trong lòng Mị. Nếu cứ cúi đầu chấp nhận số phận có nghĩa là chấp nhận cái chết bi thảm. Từ hình ảnh đau thương của A Phủ trước mắt, Mị liên tưởng đến tương lai mù tối, bế tắc của mình.
Chính điều đó đã làm sống lại trái tim tưởng chừng đã bị đau khổ làm cho chai đá của Mị. Cô thương người, thương thân. Giọt lệ bất lực và thống khổ của A Phủ như giọt nước cuối cùng làm tràn đầy bình nước, cảm thương số phận A Phủ, một chàng trai dũng cảm, khỏe mạnh sắp bị cướp đi mạng sống, Mị càng thương thân và càng căm thù cha con tên thống lí gấp bội.
Cái thương cái ghét bùng lên, lấn át nỗi sợ, dẫn Mị đến hành động táo bạo ngoài ý thức: cắt dây trói cứu A Phủ. Đây là hành động bộc phát song nó là kết quả tất yếu của cả một quá trình bị dồn nén, bức xúc về mặt tinh thần bây giờ đã đến lúc giải thoát và đó cũng chính là biểu hiện tất yếu của một sức sống vốn đã tiềm tàng ẩn chứa trong con người Mị bấy lâu nay. Mị cắt dây trói cho A Phủ cũng là cắt đứt những dây trói vô hình đã cột chặt cô vào quãng đời tủi nhục.
Cô vụt chạy theo A Phủ bởi cô ý thức được nỗi khổ và sự sống còn của mình: ở đây thì chết mất Mị chạy theo tiếng gọi mãnh liệt của tự do, cô tự giải phóng mình khỏi nanh Vuốt cha con tên thống lí tàn bạo. Từ trong cái địa ngục giam cầm đày ải mình suốt mấy năm qua, từ trong sự bủa vây tàn khốc của cái chết, Mị đã vùng dậy tìm lẽ sống, làm lại cuộc đời.
Qua việc miêu tả diễn biến tâm lí và sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong hoàn cảnh đau thương, nhà văn Tô Hoài muốn khẳng định không bạo lực đen tối nào có thề vùi dập được sức sống và khao khát tự do của con người ; đồng thời nhấn mạnh rằng, chỉ có sự tự vùng dậy của bản thân theo sự dẫn dắt của cách mạng mới giải phóng được con người ra khỏi kiếp ngựa trâu, nô lệ. Đó chính là giá trị nhân đạo to lớn của tác phẩm.
Mời bạn tham khảo 🌠 Phân Tích Nhân Vật Mị Trong Đêm Tình Mùa Xuân 🌠 20 Mẫu Đặc Sắc
Bài Văn Nhận Xét Sức Sống Tiềm Tàng Của Nhân Vật Mị – Mẫu 12
Tham khảo bài văn nhận xét sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị để phân tích và củng cố lại những giá trị nội dung, nghệ thuật mà tác phẩm truyền tải.
Vợ chồng A Phủ (1953), Miền Tây (1967), Vừ A Dính (1962)… là những tác phẩm nổi tiếng của Tô Hoài viết về phong tục, cảnh sắc và con người miền Tây của Tổ quốc ta. Tô Hoài đã từng nói: “Tôi coi Việt Bắc, Tây Bắc cũng như một quê hương đề tài của tôi…” (Văn nghệ số 14/10/1995).
Tập truyện Tây Bắc là một nét son chói lọi đầu tiên của sự nghiệp văn chương Tô Hoài viết về đề tại miền Tây. Một chuyến đi dài, Tô Hoài theo bộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Ông đã viết thành công tác phẩm “Truyện Tây Bắc”, trong đó có truyện “Vợ chồng A Phủ”. Qua truyện ngắn này, Tô Hoài đã phản ánh nỗi thống khổ và sự vùng dậy của người Mèo ở Tây Bắc, một lòng quyết tâm đi theo kháng chiến để giành lấy tình yêu, hạnh phúc.
Những trang viết về Mị – một trong hai nhân vật chính của truyện là vô cùng cảm động. Mị tuy bị chà đạp, bị giày xéo trong bể khổ cuộc đời, nhưng cô đã có một sức sống tiềm tàng kì lạ!
Mị là một cô gái trẻ và đẹp, duyên dáng, hiếu thảo, thổi sáo hay, “có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Nhà nghèo, năm nào bố Mị cũng phải trả nợ lãi một nương ngô cho thống lí Pá Tra. Bố đã già, Mị thương bố lắm. Cô đã nói với bố: “Con nay đã biết cuốc nương ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu”.
Món nợ truyền kiếp mà bố Mị vay của thống lí như một oan trái cuộc đời. Mị đã bị A Sử – con trai thống lí đánh lừa bắt về cúng trình ma. Mị trờ thành con dâu gạt nợ… Đau xót quá! “Chao ôi! Thế là cha mẹ ăn bạc của nhà giàu từ kiếp trước, bây giờ người ta bắt bán con trừ nợ. Không thể làm thế nào khác được rồi!”. Tiếng than của bố Mị nói lên một sự thật cay đấng: Mị là con dâu gạt nợ của thống li Pá Tra – điều đó như một định mệnh bi thảm!
Những năm đằng đẳng làm dâu gạt nợ, Mị bị đối xử hết sức tàn tệ, chẳng khác gì một con vật. Phải làm quần quật quanh năm, suốt tháng. Lên núi hái thuốc phiện, giặt đay, xe đay, đi nương bé bắp, lúc hái củi bung ngô, lúc nào Mị cũng phải gài một bó đay trong cánh tay đế tước thành sợi. Mị chẳng khác nào con trâu, con ngựa nhà thống lí. Khổ cực quá chừng: “Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày”.
Tuổi trẻ, sắc đẹp cũa Mị bị tước đoạt, vùi dập. Cô như một đóa hoa rừng chóng héo tàn, lúc nào cũng “cúi mặt, mặt buồn rười rượi’’. Buồng Mị ở như một cái chuồng nhốt thú, kín mít, tối om, chỉ có một lỗ nhỏ bằng bàn tay, nhìn ra ngoài “chí thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Đau khổ quá “Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi!’’. Nỗi ám ảnh ấy thật ghê sợ. Mị như một linh hồn chết.
Cứ tưởng rằng Mị cam chịu số phận. Nhưng cô ta đã hết sức vùng vẫy cố thoát khỏi cái dây oan nghiệt của sô phận. Hàng mấy tháng liền, đêm nào Mị cũng khóc. Mị trốn về nhà, tròng mắt đỏ hoe. Gặp bố “Mị quỳ lạy, úp mặt xuống đất, nức nở”. Lần đầu tiên, Mị phản kháng lại số phận tủi nhục, hái lá ngón toan ăn để tự tử. Nhưng Mị chết đi, ai sẽ làm nương ngô giả được nợ thống lí, khi bố Mị đã “ốm yếu quá rồi”.
Thương bố, Mị “không đành lòng chết”. Mị bưng mật khóc, ném nắm lá ngón xuống đất “đành trở lại nhà thống lí”, cam chịu kiếp ngựa trâu, sống lùi lũi như con rùa trong xó cửa. Biết bao mùa xuân trôi qua! Biết bao nhiêu nước mắt Mị đã chảy xuống. Cũng như bao người đàn bà khác trong nhà thống lí “một đời con người chỉ biết đi theo đuôi con ngựa của chồng”.
Mị cam chịu số phận: “ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi’’… Mị thấy mình chỉ là con trâu, con ngựa “chi biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi!”. Một đời con gái, một kiếp người bị vùi dập đến tê dại như thế thì sự đau khổ đã tột cùng rồi!
Một bất ngờ khác lại đến với người đọc. Lần thứ hai, Mị lại vùng dậy. Ngày Tết đến, Mị đã lén lấy hũ rượu “uống ừng ực từng bát” rồi say, “lịm mặt’’ ngồi xem bọn nhảy đồng, người hát, nhưng “lòng Mị thì đang sống về ngày trước”. Con gái vùng rẻo cao, ai mà chẳng uống rượu? Chắc là Mị đã từng uống rượu, nhưng cách uống rượu “ừng ực từng bát” thì đây là lần đầu tiên.
Mị uống cho quên hết mọi đau khổ? Mị uống cho hả giận? Hay Mị mượn bát rượu để thức tỉnh lòng mình sống lại cùng với mùa xuân, với những đêm tình mùa xuân thời con gái? Nếu những năm tháng đã qua, bếp lửa và ngọn lửa đã sưởi ấm lòng Mị, đã làm nguôi đi, vơi đi bao nỗi đau, tủi nhục cuộc đời, thì giờ đây, tiếng sáo, tiếng hát của trai gái Mèo tha thiết gọi bạn tình đã khơi dậy trong lòng Mị bao khao khát:
Anh ném pao, em không bắt
Em không yêu, quả pao rơi rồi…
Mị đã tự ý thức về mình. Mị thấy lòng phơi phới, vui sướng như thời con gái bước vào những đêm tình mùa xuân. Mị thấy mình “trẻ lắm… vẫn còn trẻ”. Mị thấy mình cô đơn. Mị phải đi chơi. Bao nhiêu cô gái khác đã có chồng vẫn đi chơi . Thật là vô lí, hơn nữa Mị thấy mình với A Sử “không có lòng với nhau nhưng vẫn phải ở với nhau’’. Mị khóc. Mị thương mình đau khổ. Mị ghê tởm thằng A Sử “còn muốn rình bắt mấy người con gái nữa về làm vợ…”
Mị muốn ăn lá ngón cho chết ngay! Một sức sống tiềm tàng trong lòng Mị như hòn than hồng âm ỉ cháy. Bạo lực, Mị cũng chẳng sợ. Mị xắn mỡ bỏ vào đĩa đèn cho sang, rồi cô quấn lại tóc, với lấy váy hoa, rút thêm cái áo, chuẩn bị đi chơi. Hành động Mị diễn ra trước mắt thằng A Sứ. Như thách thức. Không trả lời khi hắn hỏi: “Mày muốn đi chơi à?”.
Sự vùng dậy của Mị lần này lại phải trả giá! Thằng con trai của nhà thống lí vô cùng tàn ác đã trói đứng Mi trong buồng tối bằng một thúng sợi đay và còn quấn cả tóc Mị lên cột, làm cho cô “không cúi không nghiêng được đầu nữa”. Nhưng sức sống vẫn tiềm ẩn trong lòng người con gái Mèo này.
Suốt đêm bị trói đứng “dây trói thít lại, đau nhức”, lúc mê lúc tỉnh, Mị “nồng nàn tha thiết nhớ” và cô bồi hồi: “Mị vẫn tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”. Tâm trí Mị chập chờn “có lúc vùng bước đi”, nhưng bị trói, đi sao được? Nghe tiếng ngựa gãi chân, nhai cỏ “Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”.
Chúng ta đã từng đọc truyện thơ “Tiễn dặn người yêu” trong đó cô gái Thái bị ép duyên đau khổ than thân: “Ngẫm thân em chỉ bàng thân con bọ ngựa — con chẫu chuộc thôi…”. Nỗi cay đắng của Mị còn gấp trăm gấp nghìn lần thế!
Được cởi trói do một sự tình cờ, cô lại phải vào rừng hái lá thuốc, đêm ngồi hầu hạ, xoa thuốc dấu cho A Sử. Đau ê ẩm, mỏi quá, Mị “gục đầu nằm thiếp đi” lại bị tên khốn kiếp “đạp chân vào mặt”. Tô Hoài đã ghi lại một cách cảm động sự vùng dậy lần thứ hai của Mị với bao vùi dập, đau đớn ê chề ! Mị vẫn chưa gục ngã trước số phận!
Lần thứ ba, Mị lại vùng dậy. Hình như số phận của Mị đã gắn liền với số phận của A Phủ như một tiền định. Một bên là con dâu gật nợ, một bên là kẻ phạm tội đánh con quan. Cả hai đều là con trâu, con ngựa của nhà thông lí Pá Tra. Mị đã bị A Sử trói đứng. A Phủ vì tội để hổ bắt mất bò đã bị Pá Tra trói vào cọc bằng một cuộn dây mây, “quấn từ chân lên vai, chỉ còn cổ và đầu hơi lúc lắc được”. Làm sao bắt được con hổ? A Phủ nhất định bị thế mạng.
Suốt 3 ngày đêm bị trói “A Phủ chỉ đứng nhắm mắt” Má A Phủ đã xám lại. A Phủ sắp chết! Giữa đêm khuya từ bếp lửa nhìn sang, Mị nhìn những giọt nước lăn bò trên má A Phủ mà xót xa, động lòng: “Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết…”. Mị căm thù nguyền rủa cha con thống lí: “Chúng nó thật độc ác. Người kia việc gì mà phải chết thế..”.
Mị không còn biết sợ hãi nữa. Cô đã dùng dao nhỏ cắt nút dây mây, cởi trói cho A Phủ, cứu thoát A Phủ. Như một lời khích lệ: “Đi ngay!”. Mị đã vùng chạy theo A Phủ. Cô đã nói: “ A Phủ cho tôi di… ở đây thì chết mất!”. Lương tâm thức tỉnh. Mị cứu A Phú và cũng là tự cứu mình. Thật là dữ dội và khủng khiếp. Tình huống truyện tạo nên tính bi kịch của số phận. Bao nhiêu máu và nước mắt, Mị mới giành được tự do. Mị thương người, tự thương minh. Khát vọng về tự do và hạnh phúc, là nguồn sức mạnh vùng dậy của Mị.
Trốn khỏi Hồng Ngài, Mị và A Phủ đi suốt một mùa mưa, vượt qua những triền núi đá tai mèo, họ nên vợ nên chồng khi đến khu du kích Phiềng Sa. Hành động cắt dây trói cứu A Phủ và cùng A Phủ chạy trốn là điểm đỉnh sự vùng dậy của Mị, là sự thể hiện sức sống tiềm tàng của người con gái Mèo trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ.
Khát vọng về tự do, hạnh phúc, về quyền sống của con người đã cho nhân vật Mị nhiều sức mạnh để vùng dậy. Sức sống tiềm tàng cùa Mị đủ khổng định một chân lí: Bạo lực không đè bẹp được khát vọng tự do! Sức sống tiềm tàng của Mị mang tính điển hình sâu sắc, thể hiện một cách cụ thể, chân thực và sống dộng cho sự vùng dậy của người Mèo trên con đường đi tìm hạnh phúc, tự do và họ đã đến với cách mạng và kháng chiến.
Nhân vật Mị được nhà văn Tô Hoài miêu tả và khám phá trong chiều sâu tâm hồn, trong những biến thái “thăng trầm, gấp khúc” của tâm trạng. Miêu tả thành công sức sống tiềm tàng cùa nhân vật Mị, ngòi bút nghệ thuật của Tô Hoài đã làm cho truyện ngắn Vợ chồng A Phủ sáng bừng giá trị nhân đạo. Người đọc mãi mãi thấm thía về cái giá của tình yêu tuổi trẻ và hanh phúc, tự do.
Gợi ý cho bạn 🍀 Phân Tích Nhân Vật Mị Trong Đêm Tình Mùa Đông 🍀 16 Mẫu Hay Và Đặc Sắc Nhất