Phân Tích Nhân Vật Thị Trong Vợ Nhặt [31+ Bài Văn Mẫu Hay]

Phân Tích Nhân Vật Thị Trong Vợ Nhặt ❤️️31+ Bài Văn Mẫu Hay ✅ Là Một Thành Công Đặc Sắc Của Tác Giả Trong Nghệ Thuật Phân Tích Tâm Trạng Người Phụ Nữ.

Dàn Ý Phân Tích Nhân Vật Thị

Chia sẻ đến bạn đọc mẫu Dàn Ý Phân Tích Nhân Vật Thị giúp các em triển khai bài văn logic, hấp dẫn.

I. Mở bài: Giới thiệu về tác phẩm và dẫn dắt các nhân vật trong truyện

II. Thân bài

– Lai lịch – xuất thân của Thị: 5 không: không tên (thị, ả, người đàn bà), không nhà, không gia đình, không quê hương, không của cải (nghèo đói): ngồi vêu ở nhà kho nhặt hạt rơi, hạt vãi hay ai có việc gì thì gọi đến làm.

– Ngoại hình: Gầy yếu, xanh xao “trên khuôn lưỡi cày mặt xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”, quần áo thì “rách tả tơi như tổ đĩa”

– Phẩm chất, tính cách: hai mặt đối lập.

  • Trơ trẽn, thiếu lòng tự trọng: Trong lần đầu tiên gặp Tràng, nghe câu hò vu vơ của Tràng “Muốn ăn cơm trắng mấy giò này/Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì” thị cong cớn, vùng dậy, chạy theo Tràng. Lần thứ hai gặp Tràng, thị sưng sỉa. Được Tràng gợi ý cho ăn, thị không hề ý tứ, ngượng ngùng mà “đôi mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên rồi ngồi xà xuống ăn thật”.
  • Khao khát hạnh phúc – mái ấm gia đình:
    • Trên đường về nhà, trước sự trêu ghẹo của mọi người, thị e thẹn, rón rén. Khi về tới nhà, thị ngại ngùng ngồi vào mép giường, tay vân vê tờ áo đã rách bợt và chào hỏi mẹ Tràng lễ phép.
    • Sáng hôm sau, thị cùng mẹ chồng dọn dẹp nhà cửa và trong mắt Tràng: nom thị chẳng còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như mấy hôm Tràng gặp ngoài tỉnh mà rõ là một người đàn bà hiền lành đúng mực. Thị biết cảm thông chia sẻ cùng gia đình: trong bữa ăn ngày đói (ăn chè khoáng) và khi nghe tiếng trống thúc thuế.

– Đánh giá chung: Thị là nạn nhân của nạn đói, vì nạn đói đánh mất hết ý thức, nhân phẩm của một người phụ nữ. Nhưng khi được sống trong sự che chở của gia đình, những phẩm chất tiêu biểu của một người phụ nữ Việt được bộc lộ qua nhân vật này: đảm đang, cảm thông, chia sẻ,…

III. Kết bài: Nhà văn Kim Lân khi khắc họa nhân vật, chủ yếu miêu tả nhân vật không chú trọng khai thác tâm lý nhân vật mà khai thác nhân vật qua những cử chỉ, hành động. Nói một cách khác, qua cử chỉ, hành động tính cách, phẩm chất của nhân vật được bộc lộ.

Tham khảo 🌼 Phân Tích Vợ Nhặt Kim Lân ❤️️ 15 Mẫu Phân Tích Tác Phẩm Hay

Nhân Vật Thị Trong Vợ Nhặt Văn Mẫu – Bài 1

Nhân Vật Thị Trong Vợ Nhặt Văn Mẫu là tài liệu tham khảo hữu ích để chuẩn bị tốt cho kì thi của mình.

Người vợ nhặt trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Kim Lân dù không phải nhân vật trung tâm nhưng lại giữ một vị trí cực kì quan trọng trong toàn bộ tác phẩm. Có thể nói với nhân vật này, thì giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm mới được hoàn chỉnh hơn.

Nếu như nhân vật Tràng vẫn còn có một mẹ già, một xóm ngụ cư, một công việc để kiếm sống qua ngày, chờ đến ngày xua tan được cái đói, cái khổ. Thì người vợ nhặt toàn bộ “trắng tay”. Cô tha phương cầu thực, trên người giá trị nhất chỉ còn có bộ quần áo.

Không chỉ bị biến đổi về ngoại hình, mà nhân cách, tính nết của thị cũng có những thay đổi đáng lo ngại theo chiều hướng tiêu cực. Vốn là một người phụ nữ, ai có thể ngờ rằng người con gái đó vì miếng ăn dám đánh đổi cả danh dự của bản thân. Lần đầu tiên, nghe thấy câu dao của Tràng thị lấp tực chạy tới, híp mắt cười tình. Nhưng sợ trơ trẽn còn được đẩy lên một nấc nữa khi lần sau gặp lại, thị “sưng sỉa” chạy thẳng đến chỗ Tràng mà mắng.

Rồi đến khi được Tràng thiết đãi bánh đúng, bao nhiêu sự dịu dàng, e thẹn đã biến đi đâu mất cả, thi cắm đầu vào ăn bốn bát bánh đúc, không hề ngẩng đầu, không hề trò chuyện. Toàn bộ cái nữ tính, nhân cách của thị đã bị phá hủy vì miếng ăn. Và còn lạ lùng hơn nữa, khi Tràng chỉ trêu đùa “có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về” nào ngờ thị theo về thật.

Cuộc hôn nhân cả một đời người, vậy mà thị quyết định thật chóng vánh. Cái đói có thể hủy hoại nhân cách, hủy hoại thiên tính nữ của một con người khủng khiếp đến vậy sao? Chỉ vì cái đói mà thi sẵn sàng đem trao thân gửi phận cho một người mà mình chỉ mới gặp gỡ hai lần. Thậm chí trò chuyện cũng chỉ mới tính trên đầu ngón tay.

Lòng ham sống đã khiến thị đi đến quyết định liều lĩnh, khi có một cơ hội sống, thị cố gắng bám víu vào nó bằng bất kể giá nào, gạt bỏ mọi nghi lễ, gạt bỏ cái e dè của người con gái. Hành động ấy cũng cho thấy một tinh thần khỏe mạnh, long yêu cuộc sống và ham sống của người phụ nữ nông dân này. Đồng thời cũng là lời lên án gay gắt nhất về sự độc ác của bọn đế quốc, phát xít đã đầy con người đến bước đường cùng.

Dù viết về người phụ nữ đánh mất những nét đẹp của bản thân, nhưng Kim Lân không hề khinh thường, dè bỉu mà là một tấm lòng cảm thông, trân trọng. Sau sự trơ trẽn ấy ta vẫn thấy một người phụ nữ dịu dàng, e ấp, đảm đang. Trên đường trở về, cắp cái thúng con, thị khép nép bên cạnh Tràng, ngại ngùng hi bị những đứa trẻ trêu. Và đặc biệt trong giờ phút người con dâu mới gặp mẹ chồng nàng vô cùng lo lắng, sợ hãi.

Sự thay đổi đó, cũng khiến một chàng trai ngờ nghệch như Tràng có thể nhận ra: “Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn gì vẻ chao chát, chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ngoài phố”. Đồng thời, thị cũng hết sức chăm chỉ, tháo vát. Dưới đôi bàn tay của người phụ nữ đảm đang nhà cửa được dọn dẹp sạch sẽ, ngôi nhà lại có thêm một sức sống mới.

Và một điều đặc biệt là không phải Tràng hay người mẹ mà chính là cô vợ nhặt là người đầu tiên nói về lá cờ Việt Minh, về kho thóc Nhật. Đằng sau người phụ nữ tưởng như bị phá hủy hoàn toàn về nhân tính ấy, lại là một con người có sức sống tiềm tàng mạnh mẽ đến như vậy.

Và cũng không phải ngẫu nhiên mà Kim Lân lại giao trọng trách nói những vấn đề quan trọng, về tương lai tốt đẹp cho nhân vật vợ nhặt. Bởi không ai khác, đây là nhân vật có sức sống mạnh mẽ nhất trong tác phẩm, cũng là nhân vật có số phận bi thương nhất. Bởi vậy để cho nhân vật là người phát ngôn về tương lai, về hy vọng cũng là cách thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của Kim Lân.

Nhân vật vợ nhặt được đặt vào một tình huống truyện đặc biệt, trong tận cùng cái đói và cái chết, nhân vật bộc lộ những tính cách, những ước mơ khao khát sống mãnh liệt của mình. Không chỉ vậy, nhân vật còn mang tính chất kết nối, tạo nên sự liền mạch giữa các sự kiện trong tác phẩm. Với nhân vật người vợ nhặt, không chỉ là sáng tạo thành công của Kim Lân mà nó còn cho thấy giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc nhất của ông.

Tiếp theo tham khảo 🌹 Sơ Đồ Tư Duy Vợ Nhặt ❤️️ Ngoài Phân Tích Nhân Vật Thị

Phân Tích Vợ Nhặt Nhân Vật Thị Chi Tiết – Bài 2

Bài mẫu Phân Tích Vợ Nhặt Nhân Vật Thị Chi Tiết được nhiều bạn đọc quan tâm và yêu thích dưới đây.

Kim Lân là một hiện tượng trong làng văn học Việt Nam thế kỉ XX. Ông viết không nhiều nhưng tác phẩm nào cũng xuất sắc. Người đọc nhận thấy trong trang văn của ông một tinh thần lạc quan của con người, cốt lõi khát vọng cháy bỏng về cuộc sống tốt đẹp của con người trong bất cứ hoàn cảnh nào ngay cả khi cận kề với cái chết, cái đói.

Những trang viết của Kim Lân về đề tài nông thôn trước cách mạng hấp dẫn người đọc bởi tính nhân bản. Ngay cả khi con người phải sống trong cảnh khốn cùng, bi đát nhất của trận đói, cuộc sống mấp mé giữa sự sống và cái chết, này văn vẫn nhận thấy ở họ lòng yêu đời, ham sống. Sức sống ấy thể hiện đậm nét qua nhân vật người “vợ nhặt” trong tác phẩm Vợ nhặt của ông.

Lần đầu thị xuất hiện là hình ảnh: ngồi lẫn trong đám con gái chờ nhặt hạt rơi hạt vãi trước cổng chợ tỉnh. Khi nghe Tràng hò một câu chơi cho đỡ nhọc “Muốn ăn cơm trắng mấy giò/ Lại đây mà đẩy xe bò với anh”, Thị “ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng…cười tít mắt”. Thị đẩy xe với hi vọng được ăn nên cũng rất nhiệt tình và chẳng cần ý tứ.

Lần thứ hai, thị xuất hiện với ngoại hình kém hấp dẫn: Đó là người phụ nữ gầy vêu vao, “áo quần tả tơi như tổ đỉa”, “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt” nổi bật với “hai con mắt trũng hoáy”. Có thể nói, cái đói đã khiến thị càng nhếch nhác, tội nghiệp lại càng nhếch nhác, tội nghiệp hơn nữa. Cái đói không chỉ tàn hại dung nhan của thị mà còn tàn hại cả tính cách, nhân phẩm.

Vì đói mà thị trở nên “chao chát”, “chỏng lỏn”, “chua ngoa, đanh đá”. Thị “cong cớn”, “sưng sỉa” khi giao tiếp, nói chuyện.

Cái đói khiến thị quên cả việc phải giữ ý tứ, lòng tự trọng của người con gái. Thị cứ thế mà đòi ăn. Được cho ăn, thị sẵn sàng “sà xuống cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì”. Thị đã đặt sự tồn tại của mình, đặt miếng ăn lên trên nhân cách.

Khi anh cu Tràng hay đùa, lại đùa “có muốn theo tớ về nhà thì ra khuân đồ lên xe rồi ta cùng về”. Thì người đàn bà kia lại im lặng (mà thường tâm lý im lặng là đồng ý). Thị đồng ý, đồng ý mà không hề do dự, phân vân. Trong khi đó, Tràng là ai, tốt xấu như thế nào? gốc tích ra sao? Thị nào hay nào biết. Chỉ mấy bát bánh đúc là thị có thể theo ngay Tràng.

Phải chăng thị theo Tràng chỉ vì miếng ăn ? Thị dễ dàng, hời hợt thế ư? Thực ra hành động theo Tràng của thị xuất phát từ nhu cầu bám lấy sự sống, từ lòng khao khát được sống. Thị bất chấp tất cả để được ăn, ăn để được tồn tại. Thị chấp nhận theo không Tràng. Đó là ý thức bám lấy sự sống.

Cận kề bên cái chết, người đàn bà không hề buông xuôi sự sống. Trái lại, thị vẫn vượt lên trên cái thảm đạm để dựng xây mái ấm gia đình. Niềm lạc quan yêu sống của thị chính là một phẩm chất rất đáng quý. Nói như Kim Lân: ” Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai”.

Trên đường về nhà chồng tâm trạng của thị có sự thay đổi rõ nét. Nếu như anh cu Tràng sung sướng, tự mãn, cái mặt vênh lên tự đắc với mình thì người đàn bà lại cảm thấy xấu hổ. Trước cái nhìn “săm soi”, trước những lời bông đùa, chòng ghẹo của người dân ngụ cư. Thị ngượng nghịu, thiếu tự tin “chân nọ bước díu cả vào chân kia… cái nón rách tàng che nửa khuôn mặt”.

Về đến nhà chồng, nhìn thấy“ngôi nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”, thị “nén một tiếng thở dài”. Đây là tiếng thở dài ngao ngán, thất vọng nhưng cũng là sự chấp nhận. Ai ngờ cái phao mà thị vừa bám vào lại là một chiếc phao rách.

Trong tiếng thở dài đó vừa có sự lo lắng cho tương lai ngày mai, vừa có cả những lo toan và trách nhiệm của thị về gia cảnh nhà chồng. Đó phải chăng là thị đã ý thức được trách của mình đối với việc cùng chồng chung tay gây dựng gia đình. Tấm lòng của thị thật đáng quý biết bao.

Vào trong nhà, thị e thẹn, dè dặt “ngồi mớm” vào mép giường (“Ngồi mớm” thế ngồi bấp bênh, không ổn định nhưng cũng rất ý tứ). Thị ý tứ, cung kính, lễ phép chào bà cụ Tứ (chào đến hai lần). Đây là hình ảnh đẹp của người con dâu rất mực thước trong quan hệ với mẹ chồng. Khi Tràng thưa chuyện với mẹ, thị chỉ biết “đứng vân vê tà áo đã rách bợt”.

Sau đêm tân hôn, người phụ nữ ấy có sự thay đổi hoàn toàn về tâm trạng và tính cách. Thị dậy rất sớm cùng mẹ chồng dọn dẹp, thu vén nhà cửa. Sự thay đổi ấy người đọc cũng dễ nhận ra: nếu hôm qua Thị chua ngoa, đanh đá, chỏng lỏn bao nhiêu thì hôm nay thị lại hiền lành bấy nhiêu.

Trong bữa cơm đầu tiên tại gia đình chồng, dù bữa ăn chỉ có “niêu cháo lõng bõng, mỗi người được lưng hai bát đã hết nhẵn”, lại phải ăn cháo cám nhưng Thị vẫn vui vẻ, bằng lòng. Thị đã đem sinh khí, thông tin mới mẻ về thời cuộc cho mẹ con Tràng. Nghe tiếng trống thúc thuế, thị nói với mẹ chồng: “Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu.

Viết về sự đổi thay trong tâm lý của thị, Kim Lân bày tỏ tình cảm trân trọng, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người dân lao động nghèo. Tình cảm nhân đạo của nhà văn thể hiện ở đây. Nghệ thuật xây dựng nhân vật: Xây dựng nhân vật người vợ nhặt, nhà văn đã đặt nhân vật vào tình huống truyện độc đáo; diễn biến tâm lí được miêu tả chân thực, tinh tế; ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, phù hợp với tính cách nhân vật. Nghệ thuật trần thuật hấp dẫn, kịch tính…

Tóm lại, người “vợ nhặt” là một sáng tạo độc đáo của Kim Lân. Thông qua nhân vật này, nhà văn đã thể hiện một ý nghĩa nhân văn cao đẹp. Con người Việt Nam dù sống trong hoàn cảnh khốn cùng nào cũng sẽ luôn hướng về tương lai với niềm tin mãnh liệt vào sự sống.

Ngoài Phân Tích Nhân Vật Thị, Giới thiệu tuyển tập 💧 Tóm Tắt Vợ Nhặt ❤️️ 20 Bài Tóm Tắt Tác Phẩm Ngắn Hay

Phân Tích NV Thị Trong Vợ Nhặt Đặc Sắc – Bài 3

Mẫu Phân Tích Nhân Vật Thị Trong Vợ Nhặt Đặc Sắc giúp các em có thể học hỏi và trau dồi thêm cho mình nhiều kĩ năng viết hay.

Trong kí ức của mỗi người Việt Nam, nạn đói năm Ất Dậu vẫn là một cơn ác mộng khó quên. Cũng từ đó, miếng cơm manh áo từ nỗi đau hiện thực trở thành đề tài sáng tác của những nhà văn. Thân phận những con người trở nên tầm thường, đến cả chuyện hạnh phúc lứa đôi cũng là chuyện rẻ rúng. Tất cả những điều đó đều được ghi lại bằng ngòi bút của Kim Lân qua nhân vật người vợ nhặt trong tác phẩm cùng tên.

Trước tiên, ta thấy Thị là nạn nhân của nạn đói với cuộc sống trôi nổi, bấp bênh. Là nhân vật vô danh, người vợ nhặt là đại diện chung của số phận của những người phụ nữ không may sinh ra trong hoàn cảnh bất hạnh. Người phụ nữ ấy không tên, không tuổi, không quê hương, không quá khứ. Từ đầu đến cuối tác phẩm, Kim Lân chỉ ban tặng cho nhân vật này những cách gọi tên rất chung chung như “cô ả”, “thị”, “người đàn bà”, “nàng dâu mới”, “nhà tôi”.

Thị xuất hiện một cách bạo dạn, đáng thương trong hai lần gặp Tràng. Thị “ngồi vêu ra” lẫn trong đám con gái ngồi chờ nhặt hạt thóc rơi. Thị ton ton chạy lại đẩy xe tiếp Tràng với hi vọng được “kiếm ăn” nhưng thất bại. Từ sự cong cớn, liếc mắt cười tít, Thị chuyển sang vẻ tiều tụy, hốc hác vì cái đói trong lần gặp thứ hai “Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Tràng dường như không thể nhận ra thị.

Cùng với sự thay đổi về hình thức, cái đói đã xóa đi cái hồn nhiên hóm hỉnh của thị khi gặp Tràng, chị biến thành một người phụ nữ “đon đả”, táo bạo và liều lĩnh. Thị đói đến mức cắm đầu ăn bốn bát bánh đúc liền “Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng”. Kim Lân đã khắc họa hình ảnh một người phụ nữ thật đáng thương!

Bên cạnh đó, Thị còn là người phụ nữ với lòng ham sống mãnh liệt. Thị đồng ý theo không Tràng là vì để được sống chứ không phải là lẳng lơ. Khát vọng sống mãnh liệt thúc giục thị phải tìm ra lối thoát cho hoàn cảnh thương tâm. Niềm lạc quan lạc sống ấy chính là một phẩm chất đáng quý mà nói như Kim Lân: “Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết.

Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý thức khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai”. Thị đến với Tràng trước hết làm tìm một chỗ nương tựa trong đói kém. Bởi thế, thị không thể giấu nổi sự thất vọng thầm kín trước gia cảnh thảm thương của gia đình Tràng “cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại.

Thị đảo mắt nhìn quanh, cái ngực gầy lép nhô lên, nén một tiếng thở dài”. Trên đường về nhà chồng, trước những lời bàn tán xôn xao, những chỉ trỏ chòng ghẹo của người dân ngụ cư, người vợ nhặt cảm thấy xấu hổ, ngượng nghịu đến mức “chân nọ bước díu cả vào chân kia”.

Về đến nhà chồng, thị thất vọng trước cảnh nhà quá tồi tàn, khổ sở nhưng cố nén lại tất cả vào trong suy nghĩ. Trong tiếng thở dài ấy không chỉ có nỗi thất vọng mà còn xen cả lo toan, ý thức trách nhiệm, bổn phận của mình trong việc xây dựng cuộc sống gia đình về sau..

Nhân vật Thị còn để lại ấn tượng sâu sắc cho người đọc bởi những phẩm chất tốt đẹp. Vào trong nhà, thị e thẹn “ngồi mớm” vào mép giường và chào u một cách lúng túng. Khác với vẻ chao chát, cong cớn, chỏng lỏn ban đầu, thị bây giờ là nàng dâu mới với đầy đủ sự ý tứ, cung kính, mực thước.

Chính tình cảm yêu thương, sự đùm bọc sẻ chia trong cơn hoạn nạn đã khiến con người sống tốt hơn, ý thức sâu sắc hơn về bổ phận và trách nhiệm của mình. Sáng hôm sau, thị dậy sớm để cùng mẹ chồng dọn dẹp trong ngoài. Đến cả chính Tràng cũng phải ngạc nhiên: “Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực, không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”.

Trong bữa cơm đón nàng dâu mới bữa cơm thảm hại ngày đói, thị vẫn vui vẻ bằng lòng với bát cháo cám đắng chát. Thị là một cơn gió mới trong gia đình. Hiện thực khắc nghiệt, xót xa “người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại” nhưng thị vẫn “điềm nhiên và vào miệng”. Hoàn cảnh đấy, ai cũng phải cất lại nỗi tủi hờn bên trong để vui vầy cũng hạnh phúc bình dị, đơn sơ.

Điểm nhấn nghệ thuật ở người vợ nhặt chính là nghệ thuật khắc họa nhân vật của nhà văn Kim Lân. Tác giả đã đặt nhân vật trong tình huống “lạ”, “éo le”; diễn biến tâm lí được khắc họa qua các sự kiện với sự quan sát tỉ mỉ, tinh tế qua hệ thống ngôn ngữ giản dị, mộc mạc.

Như vậy, nhân vật người vợ nhặt trong tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân là một nhân vật tiêu biểu cho hình tượng người phụ nữ lao động nghèo khổ, đáng thương. Nhưng dù bị đẩy vào hoàn cảnh khốn cùng, thị vẫn ngời sáng bởi lòng ham sống, những phẩm chất tốt đẹp và niềm tin tưởng ở tương lai.

SCR.VN gợi ý 💧 Nghị Luận Vợ Nhặt 💧15 Bài Văn Ngắn Gọn Hay Nhất

Phân Tích Nhân Vật Thị Trong Vợ Nhặt Ngắn Gọn – Bài 4

Phân Tích Nhân Vật Thị Trong Vợ Nhặt Ngắn Gọn, súc tích giúp các em có thể trau dồi thêm cho mình nhiều thông tin hữu ích.

Kim Lân là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam trước và sau Cách mạng tháng Tám. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của Kim Lân được viết ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công là truyện ngắn “Vợ nhặt”,được in trong tập truyện “Con chó xấu xí”.

Đây là tác phẩm mà Kim Lân đã tái hiện thành công bức tranh ảm đạm và khủng khiếp về nạn đói Ất Dậu (1945) của nước ta. Trên cái nền tăm tối và đau thương ấy, nhà văn đã đặt vào đó hình ảnh của nhân vật người vợ nhặt: nghèo đói, bất hạnh nhưng lại có một khát vọng sống mãnh liệt. Điều đó được thể hiện qua việc chị chấp nhận theo không một người đàn ông về làm vợ giữa ngày đói.

Về cảnh ngộ, xuất hiện trong tác phẩm, người vợ nhặt chỉ là một con số không tròn trĩnh: không tên tuổi, không quê hương, không gia đình, không nghề nghiệp… Từ đầu đến cuối tác phẩm chị chỉ được gọi bằng “thị”- một cách gọi phiếm định dành cho chị và tất cả những người phụ nữ có cảnh ngộ và số phận đáng thương và tội nghiệp như chị.

Trước khi trở thành vợ Tràng, thị là một người phụ nữ ăn nói chỏng lỏn, táo bạo và liều lĩnh. Lần gặp đầu tiên, thị chủ động làm quen ra đẩy xe bò cho Tràng và “liếc mắt cười tít” với Tràng. Lần gặp thứ hai, thị “sầm sập chạy tới”, “sưng sỉa nói” và lại còn “đứng cong cớn” trước mặt Tràng.

Đã vậy, Thị còn chủ động đòi ăn. Khi được Tràng mời ăn bánh đúc, Thị đã cúi gằm ăn một mạch bốn bát bánh đúc. Ăn xong còn lấy đũa quẹt ngang miệng và khen ngon… Trong đói khát cùng cực, thị gần như đánh mất đi nhân cách, sự tế nhị của con người.

Về đến nhà, trông nếp nhà rẹo rọ của Tràng, thị nén tiếng thở dài, tiếng thở dài chấp nhận bước vào cuộc đời của Tràng. Tiếng thở dài thất vọng vì hoàn cảnh của Tràng cũng chẳng có gì khá hơn thị.

Tràng đau chỉ nghèo mà còn có mẹ già, còn phải lo toan, biết có cưu mang thị nổi hay không, hay có thể sẽ khiến cuộc đời của thị thêm khổ. Hành động khép nép, tay vân vê tà áo khi đứng trước mặt bà cụ Tứ, thị thật đáng thương. Ở sâu thẳm bên trong con người này vẫn có một niềm khát khao mái ấm gia đình thực sự, bởi thế thị quyết định gắn kết với tràng, trở thành một phần trong gia đình, bất chấp ngày mai ra sao.

Có thể nói, tất cả những biểu hiện trên của thị suy cho cùng cũng là vì đói. Cái đói trong một lúc nào đó nó có thể làm biến dạng tính cách của con người. Nói điều này, chắc chắn nhà văn thật sự xót xa và cảm thông cho cảnh ngộ đói nghèo của người lao động. Khi trở thành vợ Tràng, thị đã trở về với chính con người thật của mình là một người đàn bà hiền thục, e lệ, lễ phép, đảm đang.

Thế nhưng, có cái gì đó thật mới mẻ đã làm thay đổi người đàn bà ấy. Sau một ngày làm vợ, chị dậy thật sớm, quét tước, dọn dẹp cho căn nhà khang trang, sạch sẽ. Đó là hình ảnh của một người đàn bà hiền hậu, đúng mực, một người vợ biết lo toan, thu vén cho cuộc sống gia đình chứ không có vẻ gì chao chát, chỏng lỏn nữa.. Thị hiện rõ là một người vợ hiền, một cô dâu thảo. Cuộc sống có cái gì đó khởi sắc mà không ai có thể lí giải được.

Trong bữa cơm cưới giữa ngày đói, bà cụ Tứ dành hết tình cảm cho con dâu mới. Chị tỏ ra là một phụ nữ am hiểu về thời sự khi kể cho mẹ và chồng về câu chuyện ở Bắc Giang người ta đi phá kho thóc của Nhật. Chính chị đã làm cho niềm hy vọng của mẹ và chồng thêm niềm hy vọng vào sự đổi đời trong tương lai.

Qua hình tượng người vợ nhặt, nhà văn đã mạnh mẽ lên án tội ác dã man của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra nạn đói khủng khiếp; đồng thời bày tỏ thái độ đồng cảm xót thương với số phận của người lao động nghèo khổ; thái độ trân trọng tấm lòng nhân hậu, niềm khao khát hạnh phúc bình dị những người lao động nghèo; trong lao khổ họ vẫn thương yêu đùm bọc, và cùng nhau vun đắp hạnh phúc để vượt qua những thử thách khắc nghiệt.

Giới thiệu tuyển tập 💧 Cảm Nhận Về Nhân Vật Tràng Trong Vợ Nhặt 💧Hay Nhất

Phân Tích Nhân Vật Thị Trong Vợ Nhặt Hay Nhất – Bài 5

Phân Tích Nhân Vật Thị Trong Vợ Nhặt Hay Nhất, cùng đón đọc bài mẫu được SCR.VN chia sẻ sau đây nhé!

Làm nên một tác phẩm, nhà văn phải có trách nhiệm là bật nên giá trị hiện thực thông qua nhân vật và cốt truyện của mình. Qua đó, đem đến cho độc giả những cái nhìn, xúc cảm đặc biệt cảm thông cho thời đại lúc bấy giờ. Và Kim Lân, một cây viết chuyên về truyện ngắn, về người nông dân, người tri thức nghèo trong xã hội phong kiến, đã làm được điều đấy.

Nếu người ta nhắc về nạn đói, chỉ nhắc về một hiện thực đầy phũ phàng của xã hội lúc đấy, chỉ nhắc về cái chết đói, chết rét của nhân dân, nhưng Kim Lân lại khác. Ông viết về những con người mà “dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai”. Trong đó, “Vợ Nhặt” đã thể hiện rõ ràng quan niệm văn chương ấy. Mà tất cả đã được cô đọng trong văn phong và nhân vật Thị của tác phẩm.

Người phụ nữ Việt Nam trong văn học mỗi khi được nhắc đến sẽ rất mong manh, rất yếu đuối vì chịu một sự hà hiếp, sự áp bức của xã hội. Thị, một người đàn bà không tên, không tuổi mà Kim Lân chỉ nhắc tới bằng những đại từ phiếm chỉ. Không rõ ràng và đầy mơ hồ, cũng như số phận của Thị, người đàn bà “nhặt hạt rơi hạt vãi, hay ai có công việc gì gọi đến thì làm”.

Thị là bất kì người đàn bà nghèo khổ nào đấy ngoài kia đang bị cái đói, cái khổ bủa vây. Nhắc tới thị bằng hai tiếng “vợ nhặt” sao mà thê lương tới thế. “Vợ” không được cưới hỏi, không được đưa rước về nhà chồng mà là “nhặt” về, lượm về cũng như một món hàng bị rẻ rúng. Kim Lân dường như đã cho thấy giá trị bần cùng, thấp kém của con người trong xã hội vào những năm 1945 ấy.

Một thời buổi đầy loạn lạc, bi thương như màu sắc của xóm làng buổi xế chiều “hai bên dày phố, úp súp, tối om, không nhà nào có ánh đèn, lửa bóng người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như bóng ma”. Khung cảnh đầy thê lương như dâng lên tột bậc với tiếng quạ “cứ gào lên từng hồi”.

Hai lần Thị gặp Tràng đã vẽ nên bức chân dung và cho thấy sự tàn khốc của nạn đói được nhắc đến. Từ một cô gái đầy sức sống “liếc mắt, cười tít…ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng” khi nghe Tràng hò hát vu vơ.

Nhân vật Thị không chỉ đại diện cho một lớp người, cho những sức sống mãnh liệt, khao khát sống tiềm tàng của nhân dân lúc đấy. Thị còn là điểm nhấn, cái nét bút điểm xuyết làm sáng bừng lên giá trị nhân đạo, và cả hiện thực của “Vợ Nhặt”. Kim Lân đã cho thấy tinh thần đùm bọc, cưu mang của người với người, đã bộc lộ cái khát vọng một tổ ấm vẹn tròn của những con người nghèo khổ.

Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất

Phân Tích Nhân Vật Thị Trong Vợ Nhặt Ngắn Nhất – Bài 6

Phân Tích Nhân Vật Thị Trong Vợ Nhặt Ngắn Nhất dưới đây sẽ mang đến cho các em thêm nhiều thông tin hữu ích để ôn tập tốt.

Trong tác phẩm Vợ nhặt người vợ không thực sự được khai thác nhiều. Nhưng với nhân vật này, Kim Lân cũng gửi đến những thông điệp đầy ý nghĩa và nhân văn, thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc của tác giả.

Người vợ nhặt được xây dựng là người phụ nữ nghèo khổ, cơ cực, túng quẫn. Thị không có bất cứ gia sản gì, ngay cả cái tên cũng không có, thị chỉ được gọi một cách chung chung và đầy rẻ rúng là vợ nhặt. Thị không có nhà cửa, hai lần gặp Tràng chỉ thấy thị vất vưởng nơi đầu đường, xó chợ. Thị không có họ hàng, không có nghề nghiệp.

Trong hoàn cảnh toàn dân Việt Nam đang phải oằn mình chống lại nạn đói, thị không có bất cứ một chỗ dựa nào, thị sống trong sự dồn đuổi của cái chết, hàng ngày, hàng giờ, cái đói đã biến thị trở nên xanh xao, hốc hác, gò má cao, không còn chút sự sống.

Chính hoàn cảnh bị đẩy đến bước đường cùng, đã khiến cho thị đánh mất lòng tự trọng của bản thân. Nỗi ám ảnh về cái đói, cái chết không chỉ vắt kiệt sự sống của người đàn bà nghèo mà còn xói mòn nhân cách, nhân phẩm của thị, nó được thể hiện rõ qua hai lần gặp gỡ với Tràng. Lần thứ nhất, gặp Tràng vốn là người không quen biết, chỉ vì một câu hò vu vơ, Thị đang ton ton chạy ra, híp mắt cười tình, rồi đẩy xe bò cho Tràng. Mãnh lực của miếng ăn quá lớn, khiến thị đánh mất sự e dè, thẹn thùng vốn có.

Lần thứ hai gặp lại sự trơ trẽn, vô duyên đã đánh mất cả lòng tự trọng. Sau lần gặp gỡ đầu, không có bất cứ một lời hẹn ước nào, nhưng khi gặp lại Tràng, thi sầm sập chạy đến, đứng trước mặt mà nói: “Điêu! Điêu. Người thế mà điêu”. Và chỉ đến khi nhận được lời mời cho đi ăn, thì thị không còn chút ý tứ, ngồi xuống cắm đầu ăn một chặp hết bốn bát bánh đúc.

Những câu văn ngắn diễn tả hành động ăn uống thô tục, lỗ mãng của thị. Nỗi ám ảnh của cái đói đã khiến thị trở nên táo bạo, liều lĩnh. Nhân cách, lòng tự trọng là đáng quý nhất với con người đã bị bán rẻ vì miếng ăn. Đó là hiện thực đau xót mà không chỉ cô vợ nhặt mới vậy, mà rất nhiều người dân Việt Nam đã rơi vào tình cảnh này.

Và liều lĩnh nhất là chỉ một câu nói đùa của Tràng, cô đã theo anh về làm vợ. Trong hoàn cảnh không còn đâu để bấu víu, thì dù có là vợ nhặt cô cũng chấp nhận để thoát khỏi sự truy đuổi của thần chết.

Cũng như nhân vật Tràng, sau khi lập gia đình, người vợ nhặt đã có sự thay đổi vô cùng lớn. Đầu tiên là sự thay đổi tâm lí, tính cách, trên đường về nhà, trước sự để ý của những người dân, thị cắp cái thúng con, e dè, ngại ngùng đi cạnh Tràng. Những biểu hiện ở dáng điệu đó cho thấy sự xấu hổ, ngượng ngùng trong tâm lí của thị.

Đó cũng là biểu hiện đầu tiên đánh dấu sự trở lại của nữ tính, sự trơ trẽn, chỏng lỏn đã không còn. Trong lòng cô vợ nhặt còn dấy lên niềm lo lắng cho tương lai. Về đến nhà, nhìn thấy ngôi nhà xiêu vẹo, đầy những cỏ dại vây xung quanh, cái ngực lép của thị nhô lên, nén một tiếng thở dài. Vào đến nhà, cô ngồi ghé ở mép giường, tay ôm chặt cái thúng.

Trước mặt mẹ chồng, cô lễ phép chào hỏi, tay mân mê tà áo đã rách bợt đi. Những hành động, cử chỉ của thị thể hiện một tâm lí dễ hiểu đó là sự e thẹn khi lần đầu tiền đối diện với mẹ chồng. Song cũng bộc lộ phần nào sự lễ phép, dịu dàng trong cách giao tiếp với người lớn tuổi. Những biểu hiện này một lần nữa cho thấy, cái chỏng lỏn chỉ là sản phẩm của sự xô đẩy của hoàn cảnh, còn trong thẳm sâu bản chất thì vẫn là tâm hồn đầy nữ tính.

Sự thay đổi rõ nhất trong tính cách chính là buổi sáng đầu tiên sau khi thị lấy chồng. Qua cái nhìn của nhân vật Tràng, thị hôm nay đã khắc hẳn, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực, không còn chao chát, chỏng lỏn như mấy lần gặp ngoài tỉnh.

Những thay đổi trong cảm nhận của Tràng xuất phát từ những việc làm hết sức giản dị mà ý nghĩa mà cô vợ nhặt đã làm: dậy sớm, cùng mẹ dọn dẹp, quét tước nhà cửa,… Thị đã đem đến màu sắc tươi sáng vào căn nhà lạnh lẽo, u ám của Tràng. Tất cả những hành động đó cho thấy sự đảm đang, tháo vát của cô cùng cho thấy thị thực sự yêu thương, trân trọng tổ ấm gia đình, và có khát vọng mãnh liệt vào hạnh phúc gia đình.

Nhân vật người vợ nhặt được Kim Lân đặt vào tình huống hết sức độc đáo, từ đó nhân vật bộc lộ tâm trạng, cách hành xử của bản thân. Nhân vật được tập trung khắc họa ở cử chỉ, hành động qua đó làm bật lên vẻ đẹp của người vợ nhật.

Bằng ngòi bút tin yêu và trân trọng, Kim Lân đã dựng lên một chân dung bất hủ của văn học. Người vợ nhặt chính là nạn nhân tiêu biểu nhất của nạn đói năm 1945, nạn đói đã làm nhòe mờ nhân cách, lòng tự trọng của nhân vật. Nhưng ẩn sâu trong con người ấy vẫn là một người phụ nữ đầy dịu dàng, nữ tính, biết vun vén và có khao khát hạnh phúc mãnh liệt, đồng thời cũng là người có niềm tin mãnh liệt vào tương lai.

Gợi ý cho bạn 🍀 Cảm Nhận Về Nhân Vật Người Vợ Nhặt 🍀 12 Bài Văn Hay Nhất

Phân Tích Nhân Vật Thị Trong Vợ Nhặt Thầy Nhật – Bài 7

Bài mẫu Phân Tích Nhân Vật Thị Trong Vợ Nhặt Thầy Nhật để lại nhiều ấn tượng cho các bạn đọc với cách diễn đạt logic, hấp dẫn.

Đọc truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân ta càng hiểu sâu sắc và thấm thía hơn chân lý đó. Ta không khỏi xót xa, ngậm ngùi thương cho hoàn cảnh éo le, mừng vui cho niềm tin của con người vào tương lai mới mà còn rưng rức trước tình cảm yêu thương của hơi ấm gia đình.Vậy điều đó thể hiện như thế nào qua hình ảnh nhân vật Thị?

Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân được viết trên nền cái đói của năm 1945. Chân dung nhân vật Tràng được Kim Lân miêu tả có ngoại hình thô kệch, xấu xí với công việc làm thuê ngật ngưỡng bước ra trong đói nghèo ấy. Thị, cô gái kém duyên đang vật lộn với cái đói. Hai người họ gặp nhau vỏn vẹn có hai lần rồi thành đôi chỉ bằng bát bánh đúc với vài câu bông đùa. Tràng dẫn Thị về trong cái nắng chiều chạng vạng trước sự bất ngờ của tất cả người dân xóm ngụ cư.

Bà cụ Tứ- mẹ Tràng nhìn nàng dâu mới mà lo cho con liệu có đùm bọc nhau trong cảnh nghèo, lại mừng vui hạnh phúc vì khó khăn hay đói khổ cũng không ngăn đôi lứa nên duyên. Họ cùng nhau vun vén cửa nhà, san sẻ từng bữa ăn. Trong hạnh phúc ấy, câu chuyện khép lại với hình ảnh nhân dân phá kho thóc Nhật và lá cờ đỏ sao vàng tung bay trong óc Tràng.

Thị là nhân vật mang đầy đủ những nét tiêu biểu của người lao động nghèo trong nạn đói khủng khiếp. Dưới ngòi bút của Kim Lân, chân dung Thị hiện lên như một con ma đói, áo quần luộm thuộm, gương mặt lấm lem với “cái ngực gầy lép, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt”, không có nổi cái tên mà vỏn vẹn chữ “Thị”.

Cô gái đói đến độ phải nhặt đồ rơi vãi, nghe ba câu hò mà vội chạy đến đẩy xe bò. Thị gặp Tràng nhưng không ăn trầu mà ăn bánh đúc rồi quẹt đũa ngang miệng “chà ngon”. Ta chỉ thấy chân dung Thị chao chát, chỏng lỏn. Vậy nhưng qua ngòi bút đầy tài năng của tác giả, người vợ anh Tràng hiện lên có cong cớn, rất cong cớn nhưng không nanh nọc và tính cách ấy phải chăng do dốt nát, đói nghèo, tăm tối chứ tuyệt nhiên không sinh ra từ cái ác, cái xấu.

Nhân vật Thị hiện lên chua xót hơn khi cuộc hôn nhân cả đời người cũng chỉ bắt đầu bằng vài ba câu tầm phào của Tràng mà khiến người đàn bà quên hết sĩ diện, nết na, đức hạnh để xà xuống ăn hết bát bánh đúc, theo Tràng về làm vợ mà không dò hết ngọn ngành nguồn sông. Chính cái đói đã khiến thân phận con người bọt bèo, rẻ mạt đến vậy.

Khi gặp Tràng thì đanh đá, chỏng lỏn nhưng khi về làm dâu, Thị lại là người vợ đảm đang, con dâu hiếu thảo. Thị theo Tràng về như đến một chốn có thể nương tựa trong cái đói đang rình rập. Trên con đường về nhà Tràng, cô Thị đanh đá bỗng trở nên dịu dàng, e dè, ngượng ngập. Đôi mắt tư lự khi bỡ ngỡ đặt chân đến ngôi nhà mới, dáng điệu khép nép ngồi và câu chào lúng túng…tất cả làm cho Thị có cảm giác của một nàng dâu mới.

Từ khi làm vợ, Thị đảm đang và dịu dàng hơn cả, cô cùng mẹ sửa sang cửa nhà, dọn dẹp vườn tược và vui vẻ trong bữa ăn loãng thếch, đắng chát. Thị kể về câu chuyện những người cướp kho thóc Nhật với hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng phấp phới. Chính nó làm lóe lên ánh sáng tia hy vọng về tương lai mới, mở ra con đường đấu tranh đi đến Cách mạng.

Rõ ràng, Thị dần dần nhận được đủ đầy cảm xúc từ chữ “tình”, có ý thức về bổn phận và trách nhiệm của mình. Quả đúng, dù trong túng đói tột cùng thì tình cảm vẫn quý hơn manh áo bởi nó khiến con người được sống là chính mình, được nên người.

Truyện ngắn Vợ nhặt là lời kết tội đanh thép đối với thực dân Pháp và phát-xít Nhật cùng bọn phong kiến tay sai đã đẩy con người vào thảm cảnh chết đói khủng khiếp, mạng người như cỏ rác. Không chỉ vậy, Vợ nhặt còn mang ý nghĩa nhân bản sâu xa rằng dù trong tình huống bi thảm đến đâu, dù kề bên cái chết, con người vẫn yêu thương, trân trọng, đùm bọc lẫn nhau, vẫn khát khao hạnh phúc, muốn sống như một con người, sống nên người.

Nam Cao từng nói “Một người đàn bà thật xấu khi yêu cũng lườm”, nó quả đúng với nhân vật Thị trong Vợ nhặt. Tôi nghĩ, đó là cái lườm yêu của cô Thị không chỉ thật xấu mà còn thật rách và còn thật đói. Nhưng có lẽ khi đong đưa con mắt, Tràng và Thị, họ đã quên đi cuộc sống ở cõi trần đang mấp mé bờ vực cõi âm, cõi âm như hòa với cõi trần, để chỉ còn nhớ đến sự thương yêu. Thật trân trọng và cảm phục biết bao trước những giản dị của hạnh phúc của đời thường!

Đón đọc tuyển tập 💕Giá Trị Nhân Đạo Của Vợ Nhặt ❤️️ 14 Mẫu Phân Tích Hay

Phân Tích Nhân Vật Thị Trong Vợ Nhặt Thầy Hiếu – Bài 8

Phân Tích Nhân Vật Thị Trong Vợ Nhặt Thầy Hiếu giúp các em học sinh có thể trau dồi thêm cho mình những ý văn đa dạng và phong phú.

Nhắc đến Kim Lân chúng ta có thể nghĩ ngay đến tác phẩm ”Vợ nhặt”, một trong những tác phẩm xuất sắc, để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Nổi bật trong đó không thể không nhắc đến nhân vật Thị trong câu chuyện. Tác giả đã khắc họa một cách chân thực, cụ thể nhân vật qua tính cách, chân dung, hoàn cảnh, để rồi từ đó nói lên triết lý cuộc sống mà tác giả muốn gửi gắm qua tác phẩm.

Ngay từ nhan đề cũng đã khiến người đọc cảm thấy đặc biệt. Đi sâu vào câu chuyện, có thể cảm nhận nhân vật Thị là một nhân vật có số phận vô cùng thương cảm. Thị xuất hiện là một người nghèo, không ai thân thích, đến cái tên cũng không có, gọi bằng Thị rất suồng sã, dân dã, đói khát, rách tả tơi, chỉ nghe vài lời nói đùa mà chấp nhận theo không một người, mình chưa biết tính cách họ ra sao, gia cảnh như thế nào?

Không đắn đo suy nghĩ mà quyết định nhanh chóng chỉ vì hoàn cảnh đói quá. Cái đói đã khiến cho Thị chao chát, chỏng lỏn, thô tục, cong cớn, nói lời ngọt ngào, tình tứ với người đàn ông mình gặp lần đầu tiên (lời xưng hô thân mật: “nhà tôi ơi, đằng ấy nhỉ”).

Thậm chí còn liếc mắt cười tít, chỉ vì cái đói, vì sự tồn tại mà Thị trở nên xưng xỉa: “điêu, người thế mà điêu” thậm chí đòi ăn: “có ăn gì thì ăn chả ăn giầu” và “cắm đầu ăn một chập bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì” đúng là vì đói mà con người ta không còn ý thức về danh dự, không còn ý thức về hành động, về sự e thẹn, chỉ cốt làm sao khỏi đói, thoát chết.

Họ trở nên trơ trẽn, liều lĩnh, thậm chí bóp méo cả nhân cách. Hoàn cảnh của Thị giống như người chết đuối giữa dòng đang chới với giữa sự sống và cái chết, họ sẽ bấu víu vào bất cứ cái gì, hi vọng có thể sống sót nhưng với Thị là chết đuối mà vớ phải “cọc mục”.

Vì khao khát được sống, vì muốn thoát khỏi lưỡi hái tử thần mà thậm chí người ta sẵn sàng chấp nhận làm vợ theo, vợ nhặt. Cưới chồng là việc trọng đại của một đời người, với nghi lễ sang trọng, vợ là bổn phận thiêng liêng của người con gái khi lấy chồng, nhưng với Thị chẳng có người mai mối, chẳng đám hỏi, treo cưới gì cả, tự nhiên theo không về nhà chồng chỉ qua lời nói đùa tầm phào mà người nói vẫn tưởng là nói đùa thôi nhưng Thị vẫn theo về thật.

Câu chuyện tưởng như là bịa, hơn nữa cũng không có gì gọi là lãng mạn như những câu chuyện tình ta vẫn thường gặp. Đúng là cười ra nước mắt gợi ra cho người đọc sự xót xa, ngậm ngùi trước số phận bị rẻ rúng, bèo bọt của những người nông dân nghèo giữa nạn đói thê thảm, đúng là sự khốn cùng của hoàn cảnh.

Sáng hôm sau tỉnh dậy, Thị thay đổi hẳn từ vẻ ngoài cho đến cách cư xử, ăn nói, hành động: “Tràng nom Thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực, không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”.

Qua đây, nhà văn muốn khẳng định con người thay đổi do hoàn cảnh, hoàn cảnh làm thay đổi tính cách con người như lời nhà văn Nam Cao đã từng nói trong truyện ngắn “Sao lại thế này”: “Giữa một người đàn bà tốt và một người đàn bà xấu khoảng cách chỉ bằng sợi tóc”.

Ở đây Thị vì đói, vì khao khát được sống mà trở nên đanh đá, chua ngoa, trơ trẽn, khi có điểm tựa, có mái ấm gia đình, Thị trở về đúng với bản chất tốt đẹp vốn có của Thị. Sự thay đổi ở Thị, đồng thời thể hiện tấm lòng cảm thông của nhà văn đối với nhân vật. Đây là tư tưởng nhân đạo cao cả.

Xem thêm 💕Phân Tích Vợ Chồng A Phủ ❤️️ 15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất

Phân Tích Nhân Vật Thị Trong Vợ Nhặt Facebook – Bài 9

Bài mẫu Phân Tích Nhân Vật Thị Trong Vợ Nhặt Facebook giúp các em có thể học hỏi được cách diễn đạt câu văn logic và ấn tượng.

Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân viết lên bằng cái ám ảnh rùng rợn của nạn đói đầu năm 1945 trong tâm trí của tác giả cũng là trong tâm trí của người dân miền Bắc. Nạn đói thê thảm bao trùm khắp không gian và biến một người đàn bà thành cô “vợ nhặt”. Có thể nói nhân vật người vợ nhặt là một trong những nhân vật độc đáo nhất trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại, ẩn chứa nhiều quan niệm nghệ thuật và triết lý sống sâu sắc.

Nhân vật người vợ nhặt hiện lên trong nạn đói vô cùng thê thảm, thị bị cái đói dồn tới bước khó khăn có lúc như mất đi vẻ đẹp dịu dàng nữ tính vốn có. Người vợ nhặt không có tên. Thị nghèo khổ tới mức không có một cái tên riêng cho mình. Cái đói, cái nghèo còn tước đoạt cả vẻ đẹp hình thể, làm cho chị ta tiều tụy cả về hình dáng.

Thế nhưng bản chất của chị không phải là người đanh đá, nanh ác, cơ hội. Thực chất là do hoàn cảnh khiến cho thị thành như vậy. Cho nên cho đến khi được hạnh phúc gia đình, thị bỗng trở về bản chất lương thiện chu đáo vốn có của người phụ nữ Việt Nam. Từ khi trở thành “cô dâu”, thị e thẹn, ngượng ngùng thật đáng yêu khi về nhà chồng.

Sau đêm tân hôn, thị gần như trở thành người khác. Thị biết lo toan, vun vén cho hạnh phúc gia đình. Thị cùng bà cụ Tứ dọn sân vườn, nhổ cỏ, đem mấy bộ quần áo ra hong, cái ang khô cũng đầy ắp nước… mang lại hơi thở mới cho căn nhà.

Bữa cơm ngày đói tuy đơn sơ, miếng cháo cám đắng ngắt nhưng chính thị là người khơi dậy khát vọng sống của mọi người khi nhắc tới cảnh Việt Minh phá kho thóc Nhật cứu đói. Chi tiết này đã hé mở con đường giải thoát cuộc đời cho con người và khao khát một tương lai tươi sáng ở nhân vật người vợ nhặt.

Như vậy, thông qua hình tượng nhân vật người vợ nhặt trong tác phẩm “Vợ nhặt”, Kim Lân đã phản ánh tình trạng thê thảm và niềm thương cảm sâu sắc với số phận con người lao động nghèo khổ trong nạn đói 1945. Hình ảnh người vợ nhặt là hiện thân cho bản chất tốt đẹp của con người, cho khát vọng hạnh phúc gia đình và hiện thân của khát vọng sống.

Có thể bạn sẽ thích 💧 Phân Tích Tây Tiến Đoàn Binh Không Mọc Tóc 💧 10 Bài Mẫu Hay

Phân Tích Thị Trong Vợ Nhặt Học Sinh Giỏi – Bài 10

Phân Tích Nhân Vật Thị Trong Vợ Nhặt Học Sinh Giỏi, cùng tham khảo bài mẫu được SCR.VN gợi ý dưới đây nhé!

Hình tượng nhân vật Thị – người vợ của Tràng dù chỉ là một nhân vật phụ nhưng sự tài tình ở nhà văn đã giúp nhân vật Thị làm sáng tỏ chủ đề tác giả muốn gửi đến.

Nhân vật tự sự chúng ta thường thấy trong các tác phẩm văn học thường được đặt tên cụ thể, những nhân vật vô danh vì họ chỉ lướt qua tác phẩm hoặc do dụng ý không đặt tên của tác giả nhưng không vì thế mà hình ảnh của họ trở nên mờ nhạt. Nhân vật người vợ nhặt xuất hiện không nhiều nhưng ấn tượng để lại vô cùng ấn tượng, ghi đậm chủ đề của truyện.

Người đàn bà này xuất hiện trước cái lúc Tràng đẩy xe thóc, tuy nhiên ấn tượng chỉ đến hôm gặp lại Tràng ngay trước cổng chợ mới là điểm nhấn. Khi này cô ta chẳng biết từ đâu ập đến mắng xối xả Tràng: “Điêu! Người thế mà điêu!”. Chính cuộc sống túng nghèo đẩy con người ta vào ngõ cụt, ngôn ngữ của cô ta cũng thô lỗ, sỗ sàng không chút nể nang.

Tràng có chút ngạc nhiên bởi nay trông Thị khác hôm trước, người sọp hẳn đi nhưng một lúc hắn cũng nhớ ra ngay cô ta. Tràng cười hiền lành thể hiện sự hối lỗi bèn mời cô ta ăn trầu xã giao nhưng cô ta lại càng tấn công: “Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu”. Tràng thấy thế vui vẻ mời bánh đúc, cô ta liền sà vào ăn bốn bát liền. Từ đó mới thấy người đàn bà này thật tội nghiệp, chính vì nạn đói đã khiến cô ấy đánh rơi đi nhân cách của mình, đói nên đầu gối phải bò.

Thị là một người vô gia cư, nạn đói đã quật cô lưu lạc đến đây xa quê hương sống bờ sống bụi. Thân hình gầy sọp, hai con mắt trũng hoáy, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt, quần áo rách tả tơi như tổ đỉa. Ngày đó, hiện trạng của nạn đói vô tình mai một con người ta, Thị chính là một nạn nhân ở đó, thoi thóp từng ngày, từng giờ.

Trên đường theo Tràng về nhà, mọi người chẳng ai tin trong lúc nạn đói ở lúc đỉnh điểm thế này Tràng sẽ có được vợ nên nhìn hắn với ánh mắt dò xét, tò mò khiến cô ta bối rối, ngượng ngùng kéo nón che mặt. Nếu trước đó Thị sỗ sàng, để mặc liêm sỉ của mình chỉ cần được ăn thì đến lúc này lòng tự trọng trong cô hồi sinh rõ rệt. Họ nói chuyện với nhau rất vui vẻ, Tràng trả lời rất hồn nhiên, trẻ con và tác giả miêu tả nhiều ở nụ cười của anh. Lúc này mới thấy được ở Thị dần bộc lộ nét tính cách đẹp, đáng quý.

Về đến nhà Tràng, khi đảo mắt nhìn toàn bộ thấy hoang sơ, trống trải cô bất giác thở dài giấu đi nỗi thất vọng. Ở trong cô lúc này cũng chẳng còn cách nào khác, đi thì sẽ chẳng có nơi để đi, đành đưa mắt làm ngơ, ở lại. Khi cụ Tứ – mẹ Tràng về cô ta lễ phép chào: “u đã về ạ!”. Vẻ đẹp của một người phụ nữ dịu dàng, từ tốn toát lên ở Thị ngay lúc này.

Cô có chút e ngại, nhìn lại bản thân mình đầy tủi hổ khi nhìn thấy cụ Tứ ngồi đó im lặng không nói lời nào, sau đó thì cụ cũng chấp cho hai người lấy nhau, không khí nhẹ nhàng hơn.

Một cuộc sống mới tại nhà Tràng, sáng sớm cô cùng mẹ chồng dậy sớm quét dọn, sắp xếp nhà cửa ngăn nắp, gọn gàng. Quần áo của Tràng cũng được đem phơi, nước đổ đầy ẳng. Đến bữa ăn sáng, mắt tối sầm lại Thị cầm trên tay bát cháo cám của mẹ, tuy thất vọng nhưng cô không dám để lộ điều đó sợ mẹ phật lòng nên đã cố nuốt vào.

Trong sự tĩnh lặng, lo âu bởi tiếng trống thúc đòi thuế thì Thị lên tiếng: “Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta phá kho thóc của Nhật, chia cho người đói nữa đấy”. Lúc này lời nói của Thị đã nhân lên thêm niềm hy vọng, ánh sáng ở tương lai về niềm tin Cách mạng sẽ giải phóng cuộc đời, cái nghèo của họ.

Sau tất cả, hình ảnh người vợ nhặt hiện lên tuy nghèo khó, rách rưới nhưng sâu thăm cô là một người phụ nữ dịu dàng, chân thành, cởi mở, một người vợ hiền dâu thảo. Kim Lân thông qua miêu tả thành công nhân vật thị tác giả đã tái hiện được hiện thực tối tăm của xã hội nông thôn Việt Nam.

Tham khảo văn mẫu 🌿 Phân Tích Người Lái Đò Sông Đà 🌿 19 Bài Văn Mẫu Hay Nhất

Bài Mẫu Phân Tích Nhân Vật Thị Chọn Lọc – Bài 11

Bài Mẫu Phân Tích Nhân Vật Thị Chọn Lọc dưới đây giúp các em học sinh có thêm cho mình ý tưởng thú vị khi làm bài.

Tác phẩm “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân đã phản ánh rất chân thực cuộc sống khốn khó của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Cuộc sống của họ bị đàn áp và dồn đến tận cùng khi mà sinh mạng của con người rẻ rúm. Hình tượng người vợ nhặt không tên trong truyện ngắn chính là nhân chứng hùng hồn cho giai đoạn khốn khó của nhân dân ta.

Truyện ngắn “Vợ Nhặt” chỉ xoay quanh 3 nhân vật chính của một gia đình thuộc xóm ngụ cư đó là: anh cu Tràng, bà cụ Tứ và nhân vật thị – vợ nhặt của Tràng. Người phụ nữ này tuy không có tên nhưng dưới ngòi bút tài hoa của Kim Lân đã được hiện ra rõ nét với số phận và tính cách riêng. Vợ của Tràng cũng như hàng ngàn, hàng vạn người phụ nữ cùng thời. Họ bị xã hội phong kiến đàn áp đến mức vì sự sống mà phải tự “bán rẻ” mình đi làm vợ nhặt của người mới quen.

Nhân vật vợ nhặt xuất hiện ngay từ đầu chuyện với một dáng vẻ rất đáng thương, Thị trông gầy yếu xanh xao ngồi vêu trước cửa kho thóc, quần áo thì rách tả tơi, mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt. Khi mới gặp Tràng thì là người đanh đá, táo bạo đến mức trở nên trơ trẽn. Thị nghe thấy anh chàng phu xe bò hát một câu bâng quơ: “Muốn ăn cơm trắng với giò này. Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì”. Thị đã chạy ra cong cớn, lon ton đẩy xe cho Tràng.

Và lần thứ hai khi gặp lại Tràng, thị đã sưng sỉa cái mặt lên mắng anh: “Điêu. Người thế mà điêu”. Lúc thấy Tràng có vẻ dễ bắt nạt thị liền cong cớn hơn. Rồi Tràng cũng phải chiều lòng cho thị ăn bánh đúc. Thấy ăn hai con mắt trũng hoáy của thị sáng bừng lên. Thị không còn biết ngại là gì cắm đầu ăn một mạch bốn bát bánh đúc.

Ăn xong thị dùng đôi đũa quệt ngang miệng mà thở. Thực ra đây không phải là tính cách vốn có của Thị. Cũng chỉ vì miếng ăn mà thị đã phải làm tất cả hy sinh cả tự trọng để được ăn và giữ lại sự sống cho mình.

Khi được Tràng đề nghị là về làm vợ mình, thị đã không ngần ngại mà theo anh về nhà luôn. Trên con đường trở về nhà ta thấy tâm lý của thị thay đổi hẳn. Trong khi Tràng hớn hở tủm tỉm cười thì thị lại ngại ngùng cắp cái thúng con và cái nón rách nghiêng nghiêng để che khuất đi nửa mặt.

Lúc này ta thấy thị lại trở về đúng nghĩa là một người phụ nữ khi có sự e thẹn đúng như gái mới về nhà chồng. Thị không còn cái vẻ cong cớn, đanh đá lúc trưa nữa mà thay vào đó là nét hiền dịu hơn. Lúc này, thị cũng đã bắt đầu nhận thức được thân phận mình là người vợ theo không nên đành chấp nhận số phận.

Về đến nhà của Tràng thì tâm trạng của nhân vật thị lại càng khác hơn. Khi mà người đàn bà đấy lại có sự tò mò và bỡ ngỡ của nàng dâu mới về nhà chồng. Thị đảo mắt một vòng xung quanh nhà đúng thật nhà Tràng rất nghèo. Thị cố nén tiếng thở dài và nghĩ đến những ngày sau này.

Mặc dù đã được Tràng cố gắng tạo sự tự nhiên bằng cách giục thị ngồi xuống giường nhưng thị vẫn e thẹn chỉ dám ngồi mớm vào mép giường rất khép lép. Cho đến khi bà cụ Tứ về trước mặt mẹ chồng thì lại càng e thẹn. Vẫn đứng nguyên chỗ cũ không dám nhúc nhích. Chính thái độ e thẹn của thị đã làm bà cụ Tứ thương cảm và chào đón thị một cách rất nhiệt tình.

Sáng hôm sau cũng giống như bất kỳ nàng dâu mới về nhà chồng nào. Thị cũng dậy sớm cùng với bà cụ Tứ lo dọn dẹp nhà cửa và chuẩn bị bữa sáng cho cả gia đình. Một người vô tâm như Tràng cũng nhận được ra sự thay đổi kỳ lạ của thị. Hôm nay Tràng nhìn thấy ở thị không còn vẻ chỏng lỏn, chao chát hôm gặp ngoài tỉnh nữa mà chỉ còn nét hiền dịu đúng mực của người phụ nữ Việt Nam.

Không những thế Thị còn tỏ ra là người rất biết làm ăn và lo xa. Khi nghe tiếng trống thúc thuế thị đã khẽ thở dài. Rồi cũng chính thị là người đã gợi chuyện trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta đã không chịu đóng thuế nữa mà đi phá kho thóc Nhật để chia cho người đói.

Thông qua nhân vật thị nhà văn Kim Lân không chỉ phản ánh thành công hiện thực cuộc sống khốn khổ của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Không nhắc đến tên nhưng thông qua ngòi bút tài ba của nhà văn nhân vật vợ nhặt đã hiện ra rất chân thực. Thị là tiêu biểu cho số phận của hàng trăm, hàng ngàn phụ nữ trong xã hội phong kiến.

Tiếp tục tham khảo 💧 Phân Tích Tiếng Hát Con Tàu Chế Lan Viên 💧 11 Bài Mẫu Hay

Phân Tích Nhân Vật Thị Nâng Cao – Bài 12

Phân Tích Nhân Vật Thị Nâng Cao giúp các em học sinh tham khảo và trau dồi thêm nhiều kiến thức hay.

Nạn đói năm 1945 đã gây ra bao mất mát, tang thương cho con người Việt Nam: người chết như ngả rạ, người sống thì vật vờ như những bóng ma. Viết về hiện thực khốc liệt của nạn đói năm Ất Dậu, nhà văn Kim Lân đã tái hiện đầy chân thực qua truyện ngắn “Vợ nhặt”.

Cùng với nhân vật Tràng, bà cụ Tứ, nhân vật người vợ nhặt đã góp phần quan trọng trong việc thể hiện tư tưởng chủ đề của truyện ngắn. Bàn về nhân vật người vợ nhặt, có ý kiến cho rằng: Đó là người đàn bà liều lĩnh, thiếu tự trọng giữa nạn đói. Ý kiến khác lại khẳng định: Đó là một người phụ nữ có khát vọng sống, có ý thức về phẩm giá của mình.

Hai ý kiến đánh giá về người vợ nhặt nhìn qua có vẻ mâu thuẫn, đối lập hoàn toàn thế nhưng mỗi ý kiến lại là một cách nhìn nhận riêng mà khi kết hợp những đánh giá ấy, ta lại thấy được chân dung con người, tính cách người vợ nhặt hoàn chỉnh nhất.

Trước hết, về ý kiến đánh giá thứ nhất cho rằng người vợ nhặt là người đàn và liều lĩnh, thiếu tự trọng. Đánh giá này dựa trên những lời nói, hành động thực tế của người vợ nhặt trong tác phẩm. Người vợ nhặt vì đói nghèo mà trơ trẽn đòi anh Tràng trả công bằng những bát bánh đúc, để chạy trốn cái đói, cái chết người đàn bà ấy đã chấp nhận theo không một người đàn ông xa lạ về làm vợ.

Ý kiến thứ hai cho rằng người vợ nhặt là người phụ nữ có tự trọng, có ý thức về phẩm giá. Thông qua những biểu hiện của chị vợ nhặt với anh Tràng ở chợ huyện ta chỉ thấy chị ta vô duyên, trơ trẽn liều lĩnh. Thế nhưng từ khi theo Tràng về nhà, sự thay đổi của chị ta đã mang đến những cảm nhận vô cùng khác biệt với ấn tượng ban đầu.

Khi theo anh Tràng về nhà, người đàn bà không còn tỏ ra trơ trẽn, chỏng lỏn mà tỏ ra vô cùng biết điều, đúng mực. Trước những lời đàm tiếu, trêu đùa của người dân xóm ngụ cư, chị ta có bực mình nhưng chỉ làu bàu trong miệng. Khi gặp bà cụ Tứ chị ta cũng tỏ ra rất đúng mực của một người con dâu mới. Ý kiến đánh giá này đã thể hiện sự cảm thông, trân trọng đối với những giá trị tốt đẹp tiềm ẩn bên trong người vợ nhặt.

Nhìn nhận một cách toàn diện nhất về nhân vật, ta có thể thấy người vợ nhặt đanh đá, chỏng lỏn chỉ là cách chị ta phản kháng lại với xã hội đen tối. Sự vô duyên, thiếu tự trọng lúc ban đầu là do chị ta quá đói, quá khổ, cũng vì ham sống mà chị ta có những hành động thiếu tự trọng. Xét đến cùng, người vợ nhặt cũng chỉ là nạn nhân đáng thương của nạn đói, cảnh ngộ bi thảm đã khiến chị ta trở nên liều lĩnh, chấp nhận theo không một người đàn ông xa lạ.

Sống trong cái dữ dội của nạn đói, bị đẩy vào hoàn cảnh bi thảm nhưng người vợ nhặt vẫn có những biểu hiện ý tứ, chuẩn mực đầy tự trọng: ngượng nghịu khi bị người dân xóm ngụ cư nhìn soi mói trên đường về nhà Tràng; đến nhà Tràng, chị ta cũng chỉ ngồi mớm ở mép giường.

Qua sự thay đổi của người vợ nhặt, ta có thể thấy người đàn bà ấy có khát vọng sống, khát khao hạnh phúc âm thầm mà mãnh liệt. Đó cũng là những khát vọng chính đáng của con người dẫu bị đặt vào hoàn cảnh éo le nhất. Hai ý kiến đánh giá về người vợ nhặt đã mang đến cái nhìn sâu sắc, toàn diện hơn về nhân vật, con người trong nạn đói.

Giới thiệu bài mẫu 🍀 Phân Tích Tuyên Ngôn Độc Lập 🍀 14 Bài Hay Nhất

Bài Mẫu Phân Tích Nhân Vật Thị Đạt Điểm Cao – Bài 13

Bài Mẫu Phân Tích Nhân Vật Thị Đạt Điểm Cao để lại nhiều ấn tượng cho các bạn đọc với cách diễn đạt câu văn hay, sáng tạo.

Lấy bối cảnh từ những hoàn cảnh có thật về cuộc sống của người dân Việt Nam trước nạn đói năm 1945, tác giả Kim Lân đã dựng lại một câu chuyện ấn tượng và thành công với miêu tả chân thực về cuộc sống, tình cảm đặc biệt là diễn biến tâm lí nhân vật. Trong bối cảnh ra đời, tác phẩm làm toát lên tấm lòng yêu thương, đùm bọc lẫn nhau và khát vọng hạnh phúc của những người người khổ. Vẻ đẹp ấy được tác giả xây dựng thành công ở hình tượng nhân vật người “vợ nhặt” trong tác phẩm Vợ Nhặt.

Trong cảnh đói nghèo người chết như ngả rạ, người ta chỉ nghĩ tới cái sống của bản thân mình còn lo lắng chứ chưa nói tới lo cho những người xung quanh.

Trong tác phẩm, Tràng xấu, xấu là xấu trai, nhưng được cái tốt bụng và dễ gần. Xóm làng nghĩ Tràng không thể có vợ, vì với cái thời đói đến ăn cám hay ánh sáng vào đêm là thứ xa xỉ vậy người vừa nghèo vừa xấu thì ai dám gởi thân?

Xóm tản cư nheo nhóc và hoang tàn. Đông thì có đông nhưng xóm làng như vẻ không người, chỉ là những cái bóng nhếch nhác lê gót trên những con đường quanh co. Xác chết nhiều hơn thực thể di động. Bóng đen gần như chiếm lĩnh cả, mặt trời vẫn sáng đó, nhưng đôi mắt của dân chúng ở đây cứ tối sầm sầm lại.

Cái tin Tràng có vợ khiến cho khắp xóm làng ấy bao trùm lên một vẻ khác. Ấy vậy mà Tràng có vợ thường thay cho cái im ỉm thụ động, chắc không ai dạy nhưng chúng biết bớt vận động là bớt bầu bạn với đói. Nhưng Tràng lấy vợ ! Bản năng làm chúng tò mò. Chúng nhốn nháo cả một đoạn. Rồi còn trêu Tràng với câu “chông vợ hài”.

Đường dài quanh co, sự dài ấy như trêu chọc cái e thẹn ban đầu của đôi uyên ương. Nghĩ chữ uyên ương cũng không hợp trong hoàn cảnh này, khi người ta hay dùng chữ mĩ miều đó cho những đám cưới linh đình. Đường về nhà chồng với xác chết cạnh đường đủ gần để nhìn thấy sự phân hủy hoặc cứ văng vẳng bên tai tiếng khóc tang gia; thiết nghĩ ngày cưới cũng đáng nhớ thật.

Tình yêu luôn là trò phiêu lưu. Vì rằng chúng ta không biết sẽ gặp ai, hoặc chi chúng ta không biết sẽ đi về đâu. Như vết thương ở miệng, mỗi ngày một bào mòn đến cùng kiệt sức khỏe.

Người vợ nhặt của Tràng trước hết là người có cùng cảnh ngộ người vợ nhặt chỉ là một con số không tròn trĩnh: không tên tuổi, không quê hương, không gia đình, không nghề nghiệp… Từ đầu đến cuối tác phẩm, chị chỉ được gọi bằng “thị” – một cách gọi phiếm định dành cho chị và tất cả những người phụ nữ có cảnh ngộ và số phận đáng thương và tội nghiệp như chị.

Không những vậy, chân dung của người phụ nữ ấy hiện ra ngay từ đầu là những nét không mấy dễ nhìn: đó là hình ảnh của người đàn bà gầy vêu vao, ngực gầy lép, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt, quần áo thì rách như tổ đỉa. Hình ảnh này phần nào cũng phác họa con người và cuộc đời của thị. Nhưng khi trở thành vợ Tràng, thị đã trở về với chính con người thật của mình là một người đàn bà hiền thục, e lệ, lễ phép, đảm đang.

Nó được thể hiện qua dáng vẻ bẽn lẽn đến tội nghiệp của thị khi bên Tràng vào lúc trời chạng vạng. Sau một ngày làm vợ, thị dậy sớm, quét tước, dọn dẹp cho căn nhà khang trang, sạch sẽ. Đó là hình ảnh của một người vợ biết lo toan, thu vén cho cuộc sống gia đình – hình ảnh của một người vợ hiền, một cô dâu thảo.

Hình ảnh của thị trong bữa cơm cưới giữa ngày đói, chị tỏ ra là một phụ nữ am hiểu về thời sự khi kể cho mẹ và chồng về câu chuyện ở Bắc Giang người ta đi phá kho thóc của Nhật. Chính chị đã làm cho niềm hy vọng của mẹ và chồng thêm niềm hy vọng vào sự đổi đời trong tương lai. Những nét tính cách của thị đã làm nổi bật lên những vẻ đẹp của người phụ nữ thời xưa, trong hoàn cảnh khó khăn vẫn luôn chịu thương chịu khó.

Trong tác phẩm này, mặc dù người vợ nhặt chỉ là một nhân vật bên cạnh Tràng nhưng cái người phụ nữ không tên tuổi, không gia đình, không tên gọi, không người thân ấy đã thật sự đổi đời bằng chính tấm lòng giàu tình nhân ái của Tràng và mẹ Tràng. Bóng dáng của thị hiện ra tuy không lộng lẫy nhưng lại gợi nên sự ấm áp về cuộc sống gia đình. Phải chăng thị đã mang đến một làn gió tươi mát.

Mời bạn tham khảo 🌹 Phân Tích Bài Thơ Bác Ơi Tố Hữu 🌹 13 Bài Văn Mẫu Hay

Phân Tích Nhân Vật Thị Sau Khi Về Làm Dâu – Bài 14

Phân Tích Nhân Vật Thị Sau Khi Về Làm Dâu, một trong những chi tiết cần chú trọng và phân tích.

“Vợ nhặt” – một nhan đề khiến người đọc không khỏi tò mò và cuốn hút. “Vợ nhặt” – một việc làm có lẽ sẽ hạ thấp phẩm giá của người phụ nữ vì chỉ có đồ vật bị rơi người ta mới nhặt lên. Thế nhưng, ở đây, nhà văn Kim Lân đã dùng sự xót thương và lòng đồng cảm của mình để dựng lên một người “vợ nhặt” rất đức hạnh, đảm đang qua tác phẩm cùng tên của ông.

Ông cũng là một trong những người được sinh ra và lớn lên trong cảnh nghèo khó, nên hơn ai hết, ông cũng hiểu nỗi khổ cực khi miếng ăn không đủ no, quần áo không đủ ấm. Vì vậy, nhà văn đã mượn nhân vật của mình để gửi gắm bao tâm tư, tình cảm vào đó.

“Vợ nhặt” là một câu chuyện khá hài hước nhưng cũng đầy thê lương về tình cảnh thảm hại của nạn đói năm 1945. Chính cuộc sống cùng cực, bi thương đã làm nên người vợ nhặt. Và ngay chính người chồng trong hoàn cảnh này cũng có thể được gọi là “chồng nhặt”. Họ nhặt được nhau một cách rất tình cờ, rất ngẫu nhiên giữa những ngày đói khủng khiếp.

Cả xóm làng chìm trong nạn đói. Người chết có lẽ còn nhiều hơn cả người sống. Mà đôi khi người sống tưởng như đã chết. Họ nằm thoi thóp, còng queo khắp lều chợ.

Khi đối mặt với mẹ Tràng – mẹ chồng của thị, con người thị thể hiện rõ sự ngoan hiền, lương thiện. Thị cất tiếng chào “U đã về ạ”. Chưa nghe thấy bà trả lời, thị nghĩ bà lão già cả, điếc lác nên thị cất tiếng chào lần nữa. Hóa ra, thị đâu có cong cớn như cái vẻ lúc ở ngoài chợ trước mặt Tràng. Thị rất lễ phép, biết điều.

Trong ngày đầu tiên ở nhà Tràng cũng vậy. Thị dậy sớm làm mọi việc: quét dọn nhà cửa sân vườn, thu dọn quần áo sạch sẽ, gọn gàng. Mẹ Tràng cũng cùng thị làm vườn. Những công việc đơn giản nhưng lại mang ý nghĩa sâu sắc khiến Tràng thấy mới lạ và thêm yêu cuộc sống này.

Chính bản thân Tràng cũng tự ý thức bản thân mình cũng nên góp sức vào việc thay đổi căn nhà để cuộc sống khấm khá hơn, nề nếp hơn. Còn thị, với những công việc tuy đơn giản nhưng đã thể hiện phẩm chất tốt đẹp, chịu thương chịu khó của một người vợ trung hậu, đảm đang. Thị chính là hình mẫu rất đẹp về người phụ nữ truyền thống của dân tộc Việt Nam.

Không những thế, Thị còn là một người có tấm lòng thấu hiểu và cảm thông sâu sắc. Trong bữa cơm đầu tiên, dù chỉ có rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo nhưng Thị vẫn cùng cả nhà ăn rất ngon lành. Ngay cả khi ăn cháo cám cũng vậy, vị đắng xít nhưng thị vẫn điềm nhiên và vào miệng.

Khi xây dựng nhân vật người vợ nhặt, Kim Lân đã rất thành công và khiến người đọc bị cuốn hút vào câu chuyện. Đồng thời qua đó, nhà văn cũng thể hiện một cách rất chân thực về nạn đói khủng khiếp năm 1945. Ở đó, vì quá đói nên đến cái quyền cơ bản nhất và vốn có của con người là quyền mưu cầu hạnh phúc cũng không có, khiến họ phải “nhặt” nhau về.

Không mai mối, không sính lễ, không cau trầu, Thị đã theo không về nhà Tràng. Có lẽ lúc đó, người ta cũng chỉ nghĩ đến miếng ăn nên chẳng bận tâm để ý về việc thị làm vợ Tràng như thế nào. Họ chỉ thấy lạ một điều rằng, giữa lúc đói khổ như thế này mà còn đèo bòng nhau. Còn thị, thị cũng bước qua rào cản phong tục và cái lý lẽ thường tình rằng làm người con gái phải đoan trang, có giá trị… Mà thị cũng đâu có phải là không đoan trang.

Rõ ràng Tràng có lời mời thị về làm vợ, chứ không phải thị tự dưng chạy theo Tràng. Chỉ là sự việc diễn ra quá bất ngờ và chóng vánh khiến cho ai cũng ngỡ ngàng. Thế nhưng, một khi đã làm vợ, thị đã rất chu đáo trong bổn phận làm vợ của mình. Hơn nữa, thị cũng không hề ca thán nửa lời với cảnh ngộ đói kém của nhà chồng. Mà có ca thán cũng đâu có nghĩa lý gì khi tất cả mọi người lúc đó đều cùng chung một hoàn cảnh.

Và rồi, chính thị là người đã đưa ra cảnh tượng nhân dân đua nhau phá kho thóc của Nhật, chia cho dân nghèo. Đây chính là hình ảnh đắt giá làm nên giá trị sâu sắc cho tác phẩm. Cảnh tượng ấy là niềm cổ vũ cho nhân dân, cho những con người cùng khổ vùng dậy đấu tranh giải cứu chính mình. Để từ nay về sau, những mảnh đời như thị không còn phải khổ nữa, cũng không có hiện tượng phải làm “vợ nhặt” nữa.

Qua câu chuyện của cuộc đời người vợ nhặt đầy lam lũ, khổ cực nhưng vẫn đầy lòng nhân ái khiến người đọc liên tưởng đến những người vợ trong thời hiện đại. Họ sống sung sướng, đầy đủ nhưng không phải ai cũng có được phẩm chất đạo đức tốt đẹp như thị. Lại một lần nữa, thị chính là tấm gương sáng về người vợ tốt cho mọi người noi theo.

Thị tuy chỉ là một người vợ được Tràng “nhặt” về nhưng chính thị đã mang lại nguồn sống mới, niềm hi vọng mới cho Tràng và cả mẹ Tràng, chính thị đã làm tăng sức hấp dẫn và giá trị cho tác phẩm. Tất cả các nhân vật trong đó đều chịu chung một số phận nghèo đói, thê lương, cùng chung một ách thống trị và tất nhiên cũng cùng chung một niềm nung nấu là sẽ đứng lên đấu tranh, phá kho thóc của bọn Nhật, để cứu chính mình và chia cho dân nghèo.

Tiếp tục tham khảo 🌼 Phân Tích Đò Lèn Nguyễn Duy 🌼 8 Bài Văn Mẫu Hay Nhất

Phân Tích Nhân Vật Thị Qua 2 Lần Ăn – Bài 15

Bài mẫu Phân Tích Nhân Vật Thị Qua 2 Lần Ăn giúp ích rất nhiều trong quá trình chuẩn bị tài liệu cho kì thi sắp tới.

Kim Lân là nhà văn có sở trường trong thể loại truyện ngắn, những tác phẩm của ông thường hướng đến đời sống nông thôn và tập trung vào hình tượng người nông dân. Người nông dân trong những trang văn của Kim Lân là những người nghèo khổ, bị đặt trong những tình huống éo le nhưng vẫn bộc lộ được những phẩm chất tốt đẹp, đó là tình thương, là khát khao hạnh phúc, là niềm tin vào tương lai.

Vợ nhặt là truyện ngắn điển hình cho phong cách sáng tác của Kim Lân. Trong tác phẩm, bên cạnh nhân vật Tràng, bà cụ Tứ, người vợ nhặt cũng được tập trung miêu tả để làm nổi bật chủ đề tác phẩm. Nhân vật người vợ nhặt tuy chỉ là nhân vật phụ nhưng thông qua sự thay đổi của nhân vật trong thời điểm trước và sau khi lấy Tràng đã thể hiện được tài năng phân tích tâm lí nhân vật, đồng thời thể hiện sự trân trọng của nhà văn Kim lân đối với những giá trị tốt đẹp bên trong con người.

Người vợ nhặt hiện lên trong phần đầu tác phẩm là người đàn bà trơ trẽn, chỏng lỏn khi lớn tiếng mắng Tràng vì nuốt lời, khi vô tư ăn liền một chặp hết bốn bát bánh đúc. Tuy nhiên, cái tinh tế của Kim Lân là việc diễn tả sự thay đổi của người vợ nhặt sau khi đồng ý làm vợ, làm dâu nhà anh Tràng. Sự thay đổi về tính cách này thể hiện rõ nhất thông qua chi tiết miêu tả cách ăn của chị ta.

Nếu như trong buổi chiều gặp Tràng ở phố huyện, khi được Tràng đồng ý đãi bánh đúc ở ngoài chợ: “Thế là thị ngồi sà xuống, ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì” thì buổi sáng hôm sau, trong mâm cơm ngày đói, ta không còn thấy một người đàn bà vô duyên, vô ý nữa mà mọi hành động và thái độ đều rất từ tốn, đúng mực, khi nhận bát “chè khoán” từ mẹ chồng: “Người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại. Thị điềm nhiên và vào miệng”.

Trong lần ăn uống thứ nhất, người vợ nhặt gặp lại Tràng – người mình đã đẩy xe bò thóc hôm trước tình trạng gầy sọp, xanh xao vì bị bỏ đói nhiều ngày. Khi gặp lại Tràng, Thị đã không ngần ngại mà đòi ăn, khi được Tràng đồng ý chị ta đã sà xuống ăn liền một mạch hết hai bát bánh đúc. Trong lúc ăn chị ta cũng không ngẩng mặt lên, không chuyện trò.

Hành động sỗ sàng có phần vô duyên ấy đã làm cho thị trở nên trơ trẽn, cái đói đã không chỉ vắt kiệt sự sống mà còn đánh mất ở thị phần nhân tính, phẩm giá của con người.

Theo dõi lời nói chỏng lỏn, hành động vô duyên của Thị, ta không thấy được nét duyên dáng, dịu dàng của một người phụ nữ thông thường. Tuy vô duyên, chỏng lỏn nhưng nếu nhìn vào cách chị ta ăn có thể thấy chị ta đã đói rất lâu ngày, hành động đòi ăn cũng xuất phát từ bản năng ham sống đến mãnh liệt, bởi trong những hoàn cảnh khó khăn, cùng cực nhất người đàn bà ấy vẫn khát khao được sống.

Lần ăn thứ hai của Thị được miêu tả là lần ăn “chè khoán” – món quà đặc biệt của bà cụ Tứ trong buổi sáng đầu tiên con dâu về nhà. Khi ấy Thị đã trở thành vợ của anh Tràng, con dâu của bà cụ Tứ. Điều bất ngờ nhất đối với toàn bộ độc giả đó chính là sự thay đổi của người vợ nhặt.

Không còn hành động táo bạo, vô duyên, vội vã trước miếng ăn như khi ở chợ huyện nữa. Đón nhận đồ ăn từ mẹ chồng, mắt thị tối lại, hành động điềm tĩnh cho bát chè khoán vào miệng, và dù miếng cháo đắng chát, nghẹn ứ nơi cổ thì chị ta vẫn tỏ ra bình thường.

Hành động này của nhân vật Thị đã thể hiện được sự biến chuyển rõ ràng trong hành động, qua đó bộc lộ được nét tính cách thật của chị ta. Trước miếng cháo đắng nghẹn, đôi mắt chị ta tối lại vì những lo lắng, buồn bã khi cái đói, cái nghèo vẫn vây hãm.

Nhưng ngay sau đó người vợ nhặt đã lấy lại tinh thần, đưa món cháo cám lên miệng ăn ngon lành, hành động ấy không chỉ là dấu hiệu chấp nhận hiện thực mà còn thể hiện niềm tin mãnh liệt của người đàn bà ấy vào tương lai. Chị ta chấp nhận đương đầu với cái đói, cái nghèo để xây dựng hạnh phúc gia đình nhỏ bé của mình.

Người vợ nhặt vốn là người phụ nữ hiểu biết cùng khát khao sống, khát khao hạnh phúc mạnh mẽ. Vì hoàn cảnh mà chị ta trở nên táo bạo, trơ trẽn. Tuy nhiên, khi có mái ấm gia đình chính tình thương và khát khao hạnh phúc đã giúp chị ta trở về đúng với con người thực của mình, một người phụ nữ hiền hậu, đúng mực.

Giới thiệu cùng bạn 🍀 Phân Tích Đất Nước Nguyễn Đình Thi 🍀 12 Bài Mẫu Hay

Viết một bình luận