Cảm Nhận Về Nhân Vật Người Vợ Nhặt ❤️️ 29+ Bài Văn Hay Nhất ✅ Tham Khảo Tuyển Tập Những Bài Văn Đặc Sắc Cảm Nhận Về Nhân Vật Người Vợ Nhặt.
Dàn Ý Cảm Nhận Về Nhân Vật Người Vợ Nhặt
Scr.vn chia sẻ cho bạn mẫu dàn ý cảm nhận về nhân vật người vợ nhặt trong truyện ngắn Vợ Nhặt chi tiết, cùng tham khảo nhé!
I. Mở bài: Giới thiệu về tác phẩm và dẫn dắt các nhân vật trong truyện
II. Thân bài:
– Lai lịch – xuất thân của Thị: 5 không: không tên (thị, ả, người đàn bà), không nhà, không gia đình, không quê hương, không của cải (nghèo đói): ngồi vêu ở nhà kho nhặt hạt rơi, hạt vãi hay ai có việc gì thì gọi đến làm.
– Ngoại hình: Gầy yếu, xanh xao “trên khuôn lưỡi cày mặt xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”, quần áo thì “rách tả tơi như tổ đĩa”
– Phẩm chất, tính cách: hai mặt đối lập.
- Trơ trẽn, thiếu lòng tự trọng: Trong lần đầu tiên gặp Tràng, nghe câu hò vu vơ của Tràng “Muốn ăn cơm trắng mấy giò này/Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì” thị cong cớn, vùng dậy, chạy theo Tràng. Lần thứ hai gặp Tràng, thị sưng sỉa. Được Tràng gợi ý cho ăn, thị không hề ý tứ, ngượng ngùng mà “đôi mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên rồi ngồi xà xuống ăn thật”.
- Khao khát hạnh phúc – mái ấm gia đình: Trên đường về nhà, trước sự trêu ghẹo của mọi người, thị e thẹn, rón rén. Khi về tới nhà, thị ngại ngùng ngồi vào mép giường, tay vân vê tờ áo đã rách bợt và chào hỏi mẹ Tràng lễ phép. Sáng hôm sau, thị cùng mẹ chồng dọn dẹp nhà cửa và trong mắt Tràng: nom thị chẳng còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như mấy hôm Tràng gặp ngoài tỉnh mà rõ là một người đàn bà hiền lành đúng mực. Thị biết cảm thông chia sẻ cùng gia đình: trong bữa ăn ngày đói (ăn chè khoáng) và khi nghe tiếng trống thúc thuế.
– Đánh giá chung: Thị là nạn nhân của nạn đói, vì nạn đói đánh mất hết ý thức, nhân phẩm của một người phụ nữ. Nhưng khi được sống trong sự che chở của gia đình, những phẩm chất tiêu biểu của một người phụ nữ Việt được bộc lộ qua nhân vật này: đảm đang, cảm thông, chia sẻ,…
III. Kết bài: Nhà văn Kim Lân khi khắc họa nhân vật, chủ yếu miêu tả nhân vật không chú trọng khai thác tâm lý nhân vật mà khai thác nhân vật qua những cử chỉ, hành động. Nói một cách khác, qua cử chỉ, hành động tính cách, phẩm chất của nhân vật được bộc lộ.
Cảm Nhận Về Nhân Vật Người Vợ Nhặt Ngắn Gọn – Bài 1
Đầu tiên thì scr.vn sẽ giới thiệu cho bạn bài văn Cảm nhận về nhân vật người vợ nhặt ngắn gọn nhưng giàu hình ảnh sinh động sau đây nhé!
Nạn đói năm 1945 đã gây ra bao mất mát, tang thương cho con người Việt Nam: người chết như ngả rạ, người sống thì vật vờ như những bóng ma. Viết về hiện thực khốc liệt của nạn đói năm Ất Dậu, nhà văn Kim Lân đã tái hiện đầy chân thực qua truyện ngắn “Vợ nhặt”.
Cùng với nhân vật Tràng, bà cụ Tứ, nhân vật người vợ nhặt đã góp phần quan trọng trong việc thể hiện tư tưởng chủ đề của truyện ngắn. Bàn về nhân vật người vợ nhặt, có ý kiến cho rằng: Đó là người đàn bà liều lĩnh, thiếu tự trọng giữa nạn đói. Ý kiến khác lại khẳng định: Đó là một người phụ nữ có khát vọng sống, có ý thức về phẩm giá của mình.
Hai ý kiến đánh giá về người vợ nhặt nhìn qua có vẻ mâu thuẫn, đối lập hoàn toàn thế nhưng mỗi ý kiến lại là một cách nhìn nhận riêng mà khi kết hợp những đánh giá ấy, ta lại thấy được chân dung con người, tính cách người vợ nhặt hoàn chỉnh nhất.
Trước hết, về ý kiến đánh giá thứ nhất cho rằng người vợ nhặt là người đàn và liều lĩnh, thiếu tự trọng. Đánh giá này dựa trên những lời nói, hành động thực tế của người vợ nhặt trong tác phẩm. Người vợ nhặt vì đói nghèo mà trơ trẽn đòi anh Tràng trả công bằng những bát bánh đúc, để chạy trốn cái đói, cái chết người đàn bà ấy đã chấp nhận theo không một người đàn ông xa lạ về làm vợ.
Điều gây bất ngờ nhất là cách người vợ nhặt đồng ý làm vợ anh Tràng quá dễ dàng chỉ với vài câu bông đùa và bốn bát bánh đúc. Chị ta chấp nhận giao cuộc sống và tương lai của mình cho một người đàn ông mới quen và có lẽ hoàn cảnh người đàn ông ấy cũng không khá khẩm hơn mình bao nhiêu. Ngay cả khi chứng kiến gia cảnh nghèo khó, tồi tàn của mẹ con Tràng người vợ nhặt vẫn ở lại mà không bỏ đi, chị ta đã chấp nhận đánh cược với số phận để thay đổi cuộc sống. Hành động này chẳng phải quá mức liều lĩnh với một con người ham sống như chị ta hay sao?
Ý kiến thứ hai cho rằng người vợ nhặt là người phụ nữ có tự trọng, có ý thức về phẩm giá. Thông qua những biểu hiện của chị vợ nhặt với anh Tràng ở chợ huyện ta chỉ thấy chị ta vô duyên, trơ trẽn liều lĩnh. Thế nhưng từ khi theo Tràng về nhà, sự thay đổi của chị ta đã mang đến những cảm nhận vô cùng khác biệt với ấn tượng ban đầu.
Khi theo anh Tràng về nhà, người đàn bà không còn tỏ ra trơ trẽn, chỏng lỏn mà tỏ ra vô cùng biết điều, đúng mực. Trước những lời đàm tiếu, trêu đùa của người dân xóm ngụ cư, chị ta có bực mình nhưng chỉ làu bàu trong miệng. Khi gặp bà cụ Tứ chị ta cũng tỏ ra rất đúng mực của một người con dâu mới. Ý kiến đánh giá này đã thể hiện sự cảm thông, trân trọng đối với những giá trị tốt đẹp tiềm ẩn bên trong người vợ nhặt.
Nhìn nhận một cách toàn diện nhất về nhân vật, ta có thể thấy người vợ nhặt đanh đá, chỏng lỏn chỉ là cách chị ta phản kháng lại với xã hội đen tối. Sự vô duyên, thiếu tự trọng lúc ban đầu là do chị ta quá đói, quá khổ, cũng vì ham sống mà chị ta có những hành động thiếu tự trọng. Xét đến cùng, người vợ nhặt cũng chỉ là nạn nhân đáng thương của nạn đói, cảnh ngộ bi thảm đã khiến chị ta trở nên liều lĩnh, chấp nhận theo không một người đàn ông xa lạ.
Sống trong cái dữ dội của nạn đói, bị đẩy vào hoàn cảnh bi thảm nhưng người vợ nhặt vẫn có những biểu hiện ý tứ, chuẩn mực đầy tự trọng: ngượng nghịu khi bị người dân xóm ngụ cư nhìn soi mói trên đường về nhà Tràng; đến nhà Tràng, chị ta cũng chỉ ngồi mớm ở mép giường.
Qua sự thay đổi của người vợ nhặt, ta có thể thấy người đàn bà ấy có khát vọng sống, khát khao hạnh phúc âm thầm mà mãnh liệt. Đó cũng là những khát vọng chính đáng của con người dẫu bị đặt vào hoàn cảnh éo le nhất. Hai ý kiến đánh giá về người vợ nhặt đã mang đến cái nhìn sâu sắc, toàn diện hơn về nhân vật, con người trong nạn đói.
Tham khảo❤️️ Cảm Nhận Về Nhân Vật Tràng Trong Vợ Nhặt ❤️️15 Bài Hay
Cảm Nhận Về Nhân Vật Người Vợ Nhặt Hay Nhất – Bài 2
Bài văn cảm nhận về nhân vật người vợ nhặt hay nhất sẽ giúp các em có thêm nhiều thông tin hay và thú vị để hoàn thành tốt bài văn của mình.
Lấy bối cảnh từ những hoàn cảnh có thật về cuộc sống của người dân Việt Nam trước nạn đói năm 1945, tác giả Kim Lân đã dựng lại một câu chuyện ấn tượng và thành công với miêu tả chân thực về cuộc sống, tình cảm đặc biệt là diễn biến tâm lí nhân vật. Trong bối cảnh ra đời, tác phẩm làm toát lên tấm lòng yêu thương, đùm bọc lẫn nhau và khát vọng hạnh phúc của những người người khổ. Vẻ đẹp ấy được tác giả xây dựng thành công ở hình tượng nhân vật người “vợ nhặt” trong tác phẩm Vợ Nhặt.
Trong cảnh đói nghèo người chết như ngả rạ, người ta chỉ nghĩ tới cái sống của bản thân mình còn lo lắng chứ chưa nói tới lo cho những người xung quanh. Trong tác phẩm, Tràng xấu, xấu là xấu trai, nhưng được cái tốt bụng và dễ gần. Xóm làng nghĩ Tràng không thể có vợ, vì với cái thời đói đến ăn cám hay ánh sáng vào đêm là thứ xa xỉ vậy người vừa nghèo vừa xấu thì ai dám gởi thân?
Xóm tản cư nheo nhóc và hoang tàn. Đông thì có đông nhưng xóm làng như vẻ không người, chỉ là những cái bóng nhếch nhác lê gót trên những con đường quanh co. Xác chết nhiều hơn thực thể di động. Bóng đen gần như chiếm lĩnh cả, mặt trời vẫn sáng đó, nhưng đôi mắt của dân chúng ở đây cứ tối sầm sầm lại.
Cái tin Tràng có vợ khiến cho khắp xóm làng ấy bao trùm lên một vẻ khác. Ấy vậy mà Tràng có vợ thường thay cho cái im ỉm thụ động, chắc không ai dạy nhưng chúng biết bớt vận động là bớt bầu bạn với đói. Nhưng Tràng lấy vợ ! Bản năng làm chúng tò mò. Chúng nhốn nháo cả một đoạn. Rồi còn trêu Tràng với câu “chông vợ hài”.
Đường dài quanh co, sự dài ấy như trêu chọc cái e thẹn ban đầu của đôi uyên ương. Nghĩ chữ uyên ương cũng không hợp trong hoàn cảnh này, khi người ta hay dùng chữ mĩ miều đó cho những đám cưới linh đình. Đường về nhà chồng với xác chết cạnh đường đủ gần để nhìn thấy sự phân hủy hoặc cứ văng vẳng bên tai tiếng khóc tang gia; thiết nghĩ ngày cưới cũng đáng nhớ thật.
Tình yêu luôn là trò phiêu lưu. Vì rằng chúng ta không biết sẽ gặp ai, hoặc chi chúng ta không biết sẽ đi về đâu. Như vết thương ở miệng, mỗi ngày một bào mòn đến cùng kiệt sức khỏe. Người vợ nhặt của Tràng trước hết là người có cùng cảnh ngộ, người vợ nhặt chỉ là một con số không tròn trĩnh: không tên tuổi, không quê hương, không gia đình, không nghề nghiệp… Từ đầu đến cuối tác phẩm chị chỉ được gọi bằng “thị” – một cách gọi phiếm định dành cho chị và tất cả những người phụ nữ có cảnh ngộ và số phận đáng thương và tội nghiệp như chị.
Không những vậy, chân dung của người phụ nữ ấy hiện ra ngay từ đầu là những nét không mấy dễ nhìn: đó là hình ảnh của người đàn bà gầy vêu vao, ngực gầy lép, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt, quần áo thì rách như tổ đỉa. Hình ảnh này phần nào cũng phác họa con người và cuộc đời của thị.
Về tính cách của người vợ nhặt thì có chút thay đổi. Trước khi trở thành vợ Tràng, thị là một người phụ nữ ăn nói chỏng lỏn, táo bạo và liều lĩnh: Lần gặp đầu tiên, thị chủ động làm quen ra đẩy xe bò cho Tràng và “liếc mắt cười tít” với Tràng. Lần gặp thứ hai, thị “sầm sập chạy tới”, “sưng sỉa nói” và lại còn “đứng cong cớn” trước mặt Tràng.
Đã vậy, thị còn chủ động đòi ăn. Khi được Tràng mời ăn bánh đúc, thị đã cúi gằm ăn một mạch bốn bát bánh đúc. Ăn xong còn lấy đũa quẹt ngang miệng và khen ngon… Tất cả những biểu hiện trên của thị suy cho cùng cũng là vì đói. Cái đói trong một lúc nào đó nó có thể làm biến dạng tính cách của con người.
Nhưng khi trở thành vợ Tràng, thị đã trở về với chính con người thật của mình là một người đàn bà hiền thục, e lệ, lễ phép, đảm đang. Nó được thể hiện qua dáng vẻ bẽn lẽn đến tội nghiệp của thị khi bên Tràng vào lúc trời chạng vạng. Sau một ngày làm vợ, thị dậy sớm, quét tước, dọn dẹp cho căn nhà khang trang, sạch sẽ. Đó là hình ảnh của một người vợ biết lo toan, thu vén cho cuộc sống gia đình – hình ảnh của một người vợ hiền, một cô dâu thảo.
Hình ảnh của thị trong bữa cơm cưới giữa ngày đói, chị tỏ ra là một phụ nữ am hiểu về thời sự khi kể cho mẹ và chồng về câu chuyện ở Bắc Giang người ta đi phá kho thóc của Nhật. Chính chị đã làm cho niềm tin của mẹ và chồng thêm niềm hy vọng vào sự đổi đời trong tương lai. Những nét tính cách của thị đã làm nổi bật lên những vẻ đẹp của người phụ nữ thời xưa, trong hoàn cảnh khó khăn vẫn luôn chịu thương chịu khó.
Trong tác phẩm này, mặc dù người vợ nhặt chỉ là một nhân vật bên cạnh Tràng nhưng cái người phụ nữ không tên tuổi, không gia đình, không tên gọi, không người thân ấy đã thật sự đổi đời bằng chính tấm lòng giàu tình nhân ái của Tràng và mẹ Tràng. Bóng dáng của thị hiện ra tuy không lộng lẫy nhưng lại gợi nên sự ấm áp về cuộc sống gia đình. Phải chăng thị đã mang đến một làn gió tươi mát.
Tham khảo ➡️Cảm Nhận Về Nhân Vật Ông Hai Truyện Ngắn Làng ❤️️ 15 Mẫu
Cảm Nhận Của Em Về Nhân Vật Người Vợ Nhặt Đặc Sắc – Bài 3
Với đề bài yêu cầu “Cảm nhận của em về nhân vật người vợ nhặt đặc sắc” thì scr.vn đã chọn lọc ra được bài văn mẫu dưới đây để gửi đến bạn đọc tham khảo.
Trong kí ức của mỗi người Việt Nam, nạn đói năm Ất Dậu vẫn là một cơn ác mộng khó quên. Cũng từ đó, miếng cơm manh áo từ nỗi đau hiện thực trở thành đề tài sáng tác của những nhà văn. Thân phận những con người trở nên tầm thường, đến cả chuyện hạnh phúc lứa đôi cũng là chuyện rẻ rúng. Tất cả những điều đó đều được ghi lại bằng ngòi bút của Kim Lân qua nhân vật người vợ nhặt trong tác phẩm cùng tên.
Trước tiên, ta thấy người vợ nhặt là nạn nhân của nạn đói với cuộc sống trôi nổi, bấp bênh. Là nhân vật vô danh, người vợ nhặt là đại diện chung số phận của những người phụ nữ không may sinh ra trong hoàn cảnh bất hạnh. Người phụ nữ ấy không tên, không tuổi, không quê hương, không quá khứ. Từ đầu đến cuối tác phẩm, Kim Lân chỉ ban tặng cho nhân vật này những cách gọi tên rất chung chung như “cô ả”, “thị”, “người đàn bà”, “nàng dâu mới”, “nhà tôi”.
Thị xuất hiện một cách bạo dạn, đáng thương trong hai lần gặp Tràng. Thị “ngồi vêu ra” lẫn trong đám con gái ngồi chờ nhặt hạt thóc rơi. Thị ton ton chạy lại đẩy xe tiếp Tràng với hi vọng được “kiếm ăn” nhưng thất bại. Từ sự cong cớn, liếc mắt cười tít, Thị chuyển sang vẻ tiều tụy, hốc hác vì cái đói trong lần gặp thứ hai “Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Tràng dường như không thể nhận ra thị.
Cùng với sự thay đổi về hình thức, cái đói đã xóa đi cái hồn nhiên hóm hỉnh của thị khi gặp Tràng, chị biến thành một người phụ nữ “đon đả”, táo bạo và liều lĩnh. Thị đói đến mức cắm đầu ăn bốn bát bánh đúc liền “Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng”. Kim Lân đã khắc họa hình ảnh một người phụ nữ thật đáng thương! Từ ngoại hình đến cử chỉ, hành động, thị đều hiện lên trên trang giấy với sự khắc khổ, nhếch nhác, tội nghiệp.
Cái đói chẳng những tàn hại dung nhan mà còn tước đoạt cả tính cách và nhân phẩm của thị. Vì đói mà trở nên “chao chát”, “chỏng lỏn”, “sưng sỉa”.. Cái đói khiến thị quên đi việc giữ gìn ý tứ và lòng tự trọng của con gái. Càng tội nghiệp hơn khi cái đói buộc Thị phải trở thành “người vợ nhặt” sau một câu nói nửa đùa nửa thật “này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cũng về”. Thế là xong một câu chuyện tình, một cuộc hôn nhân! Sự lãng mạn chỉ là điều không tưởng. Đang trên bờ vực của cái chết, thị còn lựa chọn nào hơn?
Trong suy nghĩ của thị, Tràng như một cái phao cứu sinh, cứu thị ra khỏi sự đói khát của thế kỉ. Cái đói đã làm cho thị và biết bao người dân lúc bấy giờ rẻ rúng như vậy. Có ai ngờ được hạnh phúc lứa đôi được xây đắp bằng bốn bát bánh đúc và một lời nói bông đùa? Nhưng trong hoàn cảnh “người chết như ngả rạ”, “không khí ẩm lên mùi ẩm thối của rác tưởi và mùi gây của xác người” thì hạnh phúc tầm thường, đơn sơ kia cũng đáng quý biết bao.
Bên cạnh đó, người vợ nhặt còn là người phụ nữ với lòng ham sống mãnh liệt. Thị đồng ý theo không Tràng là vì để được sống chứ không phải là lẳng lơ. Khát vọng sống mãnh liệt thúc giục thị phải tìm ra lối thoát cho hoàn cảnh thương tâm. Niềm lạc quan lạc sống ấy chính là một phẩm chất đáng quý mà nói như Kim Lân: “Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý thức khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai”.
Thị đến với Tràng trước hết là tìm một chỗ nương tựa trong đói kém. Bởi thế, thị không thể giấu nổi sự thất vọng thầm kín trước gia cảnh thảm thương của gia đình Tràng “cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại. Thị đảo mắt nhìn quanh, cái ngực gầy lép nhô lên, nén một tiếng thở dài”.
Trên đường về nhà chồng, trước những lời bàn tán xôn xao, những chỉ trỏ chòng ghẹo của người dân ngụ cư, người vợ nhặt cảm thấy xấu hổ, ngượng nghịu đến mức “chân nọ bước díu cả vào chân kia”. Về đến nhà chồng, thị thất vọng trước cảnh nhà quá tồi tàn, khổ sở nhưng cố nén lại tất cả vào trong suy nghĩ. Trong tiếng thở dài ấy không chỉ có nỗi thất vọng mà còn xen cả lo toan, ý thức trách nhiệm, bổn phận của mình trong việc xây dựng cuộc sống gia đình về sau..
Nhân vật người vợ nhặt còn để lại ấn tượng sâu sắc cho người đọc bởi những phẩm chất tốt đẹp. Vào trong nhà, thị e thẹn “ngồi mớm” vào mép giường và chào u một cách lúng túng. Khác với vẻ chao chát, cong cớn, chỏng lỏn ban đầu, thị bây giờ là nàng dâu mới với đầy đủ sự ý tứ, cung kính, mực thước. Chính tình cảm yêu thương, sự đùm bọc sẻ chia trong cơn hoạn nạn đã khiến con người sống tốt hơn, ý thức sâu sắc hơn về bổn phận và trách nhiệm của mình.
Sáng hôm sau, thị dậy sớm để cùng mẹ chồng dọn dẹp trong ngoài. Đến cả chính Tràng cũng phải ngạc nhiên: “Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực, không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”. Trong bữa cơm đón nàng dâu mới – bữa cơm thảm hại ngày đói, thị vẫn vui vẻ bằng lòng với bát cháo cám đắng chát. Thị là một cơn gió mới trong gia đình.
Hiện thực khắc nghiệt, xót xa “người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại” nhưng thị vẫn “điềm nhiên và vào miệng”. Hoàn cảnh đấy, ai cũng phải cất lại nỗi tủi hờn bên trong để vui vầy cũng hạnh phúc bình dị, đơn sơ. Sự lạc quan được gói trọn trong lời của bà cụ Tứ: “Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy”.
Bên cạnh đó, người vợ nhặt còn là người phụ nữ thông minh hiểu biết. Nghe tiếng trống thúc thuế, thị tỏ ra ngạc nhiên hỏi mẹ chồng “Ở đây vẫn phải đóng thuế cơ à?” Câu nói của thị làm Tràng ngờ ngợ vỡ ra trong suy nghĩ “hắn đang nghĩ đến những người phá kho thóc Nhật”, “trong ý nghĩ của hắn vụt ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp. Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm”…
Điểm nhấn nghệ thuật ở người vợ nhặt chính là nghệ thuật khắc họa nhân vật của nhà văn Kim Lân. Tác giả đã đặt nhân vật trong tình huống “lạ”, “éo le”; diễn biến tâm lí được khắc họa qua các sự kiện với sự quan sát tỉ mỉ, tinh tế qua hệ thống ngôn ngữ giản dị, mộc mạc.
Như vậy, nhân vật người vợ nhặt trong tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân là một nhân vật tiêu biểu cho hình tượng người phụ nữ lao động nghèo khổ, đáng thương. Nhưng dù bị đẩy vào hoàn cảnh khốn cùng, thị vẫn ngời sáng bởi lòng ham sống, những phẩm chất tốt đẹp và niềm tin tưởng ở tương lai.
Tham khảo ➡️Cảm Nhận Về Nhân Vật Ngô Tử Văn ❤️️13 Bài Văn Mẫu Hay
Cảm Nhận Anh Chị Về Nhân Vật Người Vợ Nhặt Chi Tiết – Bài 4
Đề bài yêu cầu nêu “Cảm nhận anh chị về nhân vật người vợ nhặt chi tiết” – với đề bài này thì các em học sinh không nên bỏ qua bài văn mẫu dưới đây.
Vợ nhặt là tác phẩm đặc sắc, tiêu biểu nhất trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn Kim Lân. Nội dung truyện kể về anh Tràng ở xóm ngụ cư, làm nghề kéo xe bò thuê. Giữa trận đói kinh hoàng nuôi thân còn khó, thế mà bất ngờ, anh dám đèo bòng thêm cô vợ nhặt. Kim Lân đã sáng tạo ra tình huống nhặt vợ rất độc đáo, đồng thời vận dụng ngôn ngữ bình dân tự nhiên, mộc mạc để khắc họa tính cách của từng nhân vật. Từ bà cụ Tứ đến anh Tràng và người vợ nhặt, nhân vật nào cũng sinh động và chân thực.
Ngay cái tên truyện là Vợ nhặt cũng gợi cho người đọc nhiều liên tưởng thú vị. Nhân vật vợ nhặt được tác giả miêu tả rất tinh tế, phù hợp với diễn biến tâm trạng ở từng tình huống khác nhau. Chị đã đem lại niềm vui ấm áp và hạnh phúc gia đình cho mẹ con Tràng trong cảnh ngộ mấp mé giữa sự sống và cái chết. Vì thế nhân vật này chứa đựng ý nghĩa nhân văn sâu sắc, góp phần hoàn thiện giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.
Nhân vật vợ nhặt xuất hiện trong bối cảnh trận đói năm 1945 đang diễn ra vô cùng khủng khiếp. Người chết đói như ngả rạ. Quạ bay vù vù như những đám mây đen trên nền trời. Đoàn người chạy đói từ những vùng Nam Định, Thái Bình đội chiếu lũ lượt như những bóng ma xanh xám, nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Không khí vẩn mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người.
Chẳng ai biết gốc tích của chị ta ở đâu? Cha mẹ là ai? Anh em thế nào? Tất cả đều không. Chỉ biết ngày ngày, chị ngồi lẫn vào đám đàn bà con gái tụ tập trước cửa kho thóc để nhặt nhanh hạt rơi hạt vãi hay chờ có ai thuê mướn việc gì thì làm để kiếm sống.
Về hình thức, chị ta cũng giống như bao kẻ đói khát khác : Áo quần tả tơi như tổ đỉa… người gầy vêu vao, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt… Chị là hiện thân của hàng triệu con người bần cùng, đói rách, tha phương cầu thực và rồi sẽ chết gục nơi đầu đường xó chợ.
Lần đầu, chị ta xuất hiện trước mắt Tràng với cách nói năng đối đáp tỏ ra bạo dạn. Chị quen Tràng bởi câu hò chơi cho đỡ nhọc của anh và những lời chòng ghẹo của mọi người. Khi nghe Tràng hò : Muốn ăn cơm trắng mấy giò này – Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì và bị mấy cô bạn đẩy vai chòng ghẹo… thị cười như nắc nẻ, cong cớn nói với Tràng: Này, nhà tôi ơi, nói thật hay nói khoác đấy ? Thị lon ton chạy lại đẩy xe cho Tràng, đùa bỡn với anh và liếc mắt cười tít làm cho anh Tràng thích lắm. Chuyện chỉ có thế và Tràng cũng quên ngay.
Lần sau, Tràng vừa trả hàng xong đang ngồi uống nước ở ngoài cổng chợ tình thì thị ở đâu sầm sầm chạy đến, sưng sỉa trách anh: Điêu! Người thế mà điêu ! Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống, thế mà mất mặt. Gặp lại chị ta, Tràng không nhận ra vì chị ta khác quá. Một lúc sau nhớ ra, Tràng toét miệng cười, đon đả: Này hẵng ngồi xuống ăn miếng giầu đã. Chị ta ngúng nguẩy: Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu. Thấy Tràng vỗ vào túi khoe Rích bố cu… hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên, thị đon đả: Ăn thật nhá! ừ ăn thì ăn sợ gì.
Chị ta đang đói. Đói lắm! Cái đói cào cấu ruột gan khiến chị ta quên hẳn ý tứ của một người con gái trước người đàn ông chỉ mới quen một hai lần: Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng rồi vừa thở vừa khen: Hà, ngon! Mê mải ăn như chưa từng được ăn bao giờ, như thế là chị ta không phải mới đói một ngày mà đã đói cả tuần, đói sắp chết. Quả là cái đói đã đẩy lùi sĩ diện và nhân cách.
Tuy nhiên, ăn xong chị ta cũng biết đùa cho đỡ xấu hổ: về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố. Tràng cười nhạt: Làm đếch gì có vợ, rồi tự nhiên bật ra câu nói: Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về. Tưởng giỡn cho vui, ai ngờ chị ta theo về thật. Thế là chị ta thành vợ Tràng cứ như là một trò đùa. Hay nói như tác giả là chuyện tầm phơ tầm phào đâu có hai bận, ấy thế mà thành vợ thành chồng.
Người đàn bà ấy đã chấp nhận theo không một gã đàn ông xa lạ, xấu xí trước hết là để có miếng ăn, sau là để có một nơi nương tựa cho khỏi chết đói chứ đã có tình cảm gì với nhau đâu ?! Nghĩ cũng xấu hổ nên trên đường theo “chồng” về nhà, chị ta chả biết nói gì, chỉ ngượng ngùng và khó chịu khi thấy mọi người nhìn mình bằng con mắt tò mò.
Nhà văn thật sự đã hiểu thấu tâm trạng và thể hiện được những gì dang diễn ra trong lòng người đàn bà ấy kể từ Khi chị đặt bước trên con đường xa lạ. Nhận lời làm vợ Tràng rồi theo anh về nhà, bước đầu chị ta đã có được vẻ nhu mì, khép nép của một cô dâu. Chắc là với chị, con đường ấy dài dằng dặc, bởi không biết cái gì đang chờ đợi chị, liệu chị có được đón nhận một cách dễ dàng? Liệu hành động “Cũng liều nhắm mắt đưa chân” này có mang lại cho chị được chút hạnh phúc ấm áp nào chăng hay lại khốn nạn hơn, cay đắng hơn tình cảnh của chị bây giờ ?! Bao nhiêu lo lắng, phấp phỏng khiến chị sốt ruột bật ra câu hỏi: sắp đến chưa ? vẫn chưa đến à ? Rồi lại: Nhà có ai không ?
Về tới nhà Tràng, thấy cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại, trong nhà, niêu bát, xống áo vứt bừa bộn cả trên giường, dưới đất, thì chị ta không khỏi chán ngán, thất vọng: Thị đảo mắt nhìn xung quanh, cái ngực gầy lép nhô lên, nén một tiếng thở dài. Hóa ra gia cảnh của anh chàng mới ban trưa còn vỗ vỗ vào túi khoe rích bố cu là thế này đây! Chị còn biết làm sao được nữa? Việc đã rồi ! Thất vọng, buồn tủi, chua xót quá nên mặc cho Tràng lăng xăng, đon đả, chị ta nhếch mép cười nhạt nhẽo. Tràng mời ngồi, chị ta chỉ ngồi mớm xuống mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần…
Nghệ thuật miêu tả kĩ càng, tỉ mẩn của Kim Lân ở chi tiết tưởng như rất bình thường này khiến người đọc phải chú ý. Sao đã được Tràng mời ngồi mà chị chỉ ngồi mớm xuống mép giường? Thì ra cái thế ngồi tạm bợ, dè dặt ấy cũng là cái thế của tâm trạng ngổn ngang trăm mối. Liệu chỗ ngồi này có phải là của chị không? Liệu mái nhà cũ kĩ, xiêu vẹo này có phải là nơi chị dung thân ? Đặc biệt là cảnh chị ta hai tay ôm khư khư cái thúng mặt bần thần. Phải chăng vì căn nhà rúm ró của mẹ con Tràng quá chật chội, chị ta chẳng biết để cái thúng vào đâu?
Hay vì giờ đây, cái thúng là tài sản duy nhất nên chị chẳng nỡ rời? Hay là chị ta sẽ bỏ đi ngay? Chị bần thần vì ngỡ ngàng, vì mải nghĩ tới chuyện bỗng dưng thành vợ của mình. Nó là thực mà cứ như không phải thực, khó có thể tin là sự thực. Làm vợ, làm dâu mà như thế này ư? Lấy chồng, đám cưới, rước dâu… Cái hạnh phúc lớn nhất của đời người con gái chị có được hưởng chút nào đâu? Buồn lắm ! Tủi lắm ! Chị không nói được nên lời bởi cất tiếng, chắc chắn chị sẽ khóc. Nỗi đau không trào ra thành nước mắt mà chảy ngược vào trong nên càng đau, càng tủi.
Lâm vào cái cảnh phải theo không Tràng, chị ta vừa tủi phận, vừa ngượng ngập. Gặp bà cụ Tứ, chị e thẹn, khép nép. Trước khi gặp Tràng, hoàn cảnh nghiệt ngã khiến chị ta có lúc thành ra kẻ trơ trẽn, trâng tráo, nhưng bản chất chị ta không phải như vậy.
Ở cuối truyện, cái khát vọng mãnh liệt được sống, được hạnh phúc của nhân vật vợ nhặt đã bộc lộ ra một cách hồn hậu, tự nhiên. Tuy không tìm thấy sự no đủ nhưng dẫu sao thị cũng vơi bớt được nỗi lo khi biết nhà Tràng chỉ có một mẹ già. Thị hiểu như thế là ít có khả năng bị hắt hủi, xua đuổi. Mà đấy chẳng phải đã là một nửa sự sống rồi sao?
Nét đẹp bên trong của người vợ nhặt còn thể hiện qua một chi tiết rất nhỏ. Trong bữa cơm đầu tiên ở nhà chồng, khi mẹ chồng đưa cho bát chè cám, hai con mắt chị ta thoảng tối lại, nhưng ngay sau đó, chị điềm nhiên và vào miệng. Đây là một chi tiết rất đắt, thể hiện sự tinh tế trong nhận thức và sự khéo léo trong cách cư xử của người đàn bà tưởng như vô học nọ. Chị hiểu ra cơ sự của mẹ con Tràng nhưng chị không muốn làm mất đi niềm vui của người mẹ chồng già nua, tội nghiệp. Bà đang mừng vì cuối cùng thằng con trai vừa nghèo vừa xấu vừa đứng tuổi của mình cũng đã có vợ, dẫu rằng đó chì là cô vợ nhặt.
Bằng nghệ thuật miêu tả chân thực, sinh động và tinh tế, nhà văn Kim Lân đã khắc họa thành công hình ảnh người vợ nhặt – người đàn bà vô danh.
Đây là một nhân chứng có ý nghĩa tố cáo, lên án tội ác tày trời của Nhật – Pháp đã gây ra nạn đói khủng khiếp đẩy nhân dân ta vào cảnh lầm than, không được sống đúng nghĩa là một con người. Qua tác phẩm Vợ nhặt, nhà văn Kim Lân gián tiếp khẳng định: Trong đói khổ, hoạn nạn, kề bên cái chết, những con người nghèo khổ nếu biết dựa vào nhau, san sẻ vật chất và tình thương cho nhau thì chính là vừa tự cứu mình, vừa cứu người. Những con người như vậy nhất định phải được sống ấm no, hạnh phúc.
Cảm Nhận Về Hình Tượng Nhân Vật Người Vợ Nhặt Ấn Tượng – Bài 5
Giới thiệu cho các em học sinh bài văn cảm nhận về hình tượng nhân vật người vợ nhặt ấn tượng, qua đó các em sẽ có cái nhìn tổng quan hơn về nhân vật văn học đặc biệt này.
Kim Lân là một trong số những cây bút truyện ngắn xuất sắc của nền văn học hiện đại Việt Nam. Với vốn hiểu biết sâu sắc và tình yêu thương với nông thôn, nông dân, những trang truyện ngắn của ông luôn thấp thoáng hiện lên cuộc sống và con người làng quê Việt dẫu nghèo khổ, thiếu thốn nhưng vẫn luôn ánh lên những vẻ đẹp tâm hồn đáng trân quý, “Vợ nhặt” là một trong số những tác phẩm như thế. Đọc truyện ngắn “Vợ nhặt”, chắc hẳn người đọc sẽ không thể nào quên được nhân vật người vợ nhặt – một người vô danh nhưng không vô nghĩa, hình ảnh của chị gợi lên một sự ấm áp, mang đến một luồng khí mới trong cuộc sống tăm tối, bên bờ vực của cái chết.
Trước hết, nhân vật người vợ nhặt trong truyện ngắn “Vợ nhặt” là một người vô danh. Như chúng ta đã biết, nhân vật người vợ nhặt xuất hiện trong tác phẩm với một con số không tròn trĩnh – không nhà cửa, không gia đình, không quê hương, không họ hàng thân thích. Và hơn thế nữa, xuất hiện xuyên suốt toàn bộ tác phẩm ấy vậy mà người vợ nhặt ấy cũng không có tên gọi, không có tuổi tác.
Từ đầu đến cuối truyện ngắn “Vợ nhặt”, Kim Lân đã gọi nhân vật bằng những cái tên, những biệt danh khác nhau – cô ả, người đàn bà, thị, vợ anh cu Tràng, chị ta,… Như vậy, trong suốt tác phẩm, người vợ nhặt chính là nhân vật vô danh, bởi lẽ không ai có thể biết, có thể định vị được tên, tuổi, quê quán, họ hàng của chị là ở đâu.
Nhưng nhân vật người vợ nhặt vô danh nhưng không vô nghĩa bởi người phụ nữ đấy đã mang đến cho cuộc sống tối tăm mịt mờ, bên bờ cái chết của mẹ con Tràng một hơi ấm áp, một làm gió mới đầy tươi mát. Trước hết, thị đã đem đến cho cuộc sống của Tràng và bà cụ Tứ niềm vui, niềm hạnh phúc và hơi ấm của gia đình ngay trong chính những ngày tăm tối của nạn đói năm 1945.
Thị gặp Tràng trong một hoàn cảnh rất đặc biệt và rồi chỉ với và ba câu hò vui thị đã theo không Tràng về làm vợ. Người phụ nữ với cái vẻ ngoài “chao chát, chỏng lỏn”, với “gương mặt lưỡi cày gầy xám xịt”, “cái ngực gầy xẹp lép” đã thực sự thay đổi khi theo Tràng về nhà làm vợ. Trên đường về nhà, thị đã thực sự thay đổi, có cái gì đó ngượng nghịu, xấu hổ, “chân nọ nước díu cả vào chân kia” nhưng cũng chính sự thay đổi, sự ngượng nghịu ấy của thị đã khiến cho Tràng cảm thấy vui hơn bao giờ hết, niềm vui ấy của Tràng lộ rõ trên gương mặt của hắn – “vẻ mặt phớn phở”, “vừa đi hắn vừa tủm tỉm cười nụ một mình”.
Dường như, việc thị theo Tràng về nhà làm vợ đã mang đến cho Tràng niềm vui, niềm hạnh phúc không nguôi. Không dừng lại ở đó, sự xuất hiện của người vợ nhặt trong ngôi nhà của mẹ con Tràng cũng khiến cho bà cụ Tứ vui mừng – những giọt nước mắt của bà vừa là giọt nước mắt của sự tủi phận nhưng có lẽ hơn thế, đấy là giọt nước mắt của niềm vui, của niềm hạnh phúc khi Tràng – con trai của bà lại có thể có được vợ ngay trong chính những ngày tăm tối của nạn đói khủng khiếp.
Đặc biệt, hơi ấm mà thị mang đến cho Tràng và bà cụ Tứ càng thể hiện rõ trong buổi sáng ngày hôm sau – khi mọi người thức dậy. Sáng hôm sau, thị thức dậy sớm, dọn dẹp nhà cửa cùng mẹ chồng và để rồi, khi tỉnh giấc, chứng kiến khung cảnh bình yên ấy, trong Tràng hiện lên một cảm giác rất đặc biệt – “cảm thấy yêu thương, gắn bó và thấy mình phải có trách nhiệm với cái nhà này”. Còn với bà cụ Tứ bà cảm thấy nhẹ nhõm và tươi tỉnh hơn ngày thường, “cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”.
Và để rồi, trong bữa cơm ngày đói, chỉ có rau chuối thái rối, “một đĩa muối ăn với cháo”, một nồi chè khoán nhưng cả nhà ai nấy đều ăn rất ngon miệng và trong bữa cơm ấy họ toàn nói với nhau những chuyện vui, chuyện tươi tốt, hạnh phúc ở tương lai. Và điều đó, xét đến cùng là niềm tin vào tương lai tươi sáng, tốt đẹp hơn. Như vậy, thị đã mang đến trong mái nhà của mẹ con Tràng một sự ấm áp, một làn gió mới đầy ắp tình yêu thương và hạnh phúc, để thắp lên trong họ lòng lạc quan, yêu đời, khát vọng sống và niềm tin về một ngày mai tươi sáng, tốt đẹp hơn dẫu rằng họ đang trên làn ranh mỏng manh giữa sự sống và cái chết.
Tóm lại, trong truyện ngắn “Vợ nhặt” nhà văn Kim Lân đã xây dựng thành công nhân vật người vợ nhặt – người phụ nữ vô danh nhưng không vô nghĩa. Đồng thời, qua nhân vật người vợ nhặt đã góp phần thể hiện một cách sâu sắc bức tranh số phận con người trong nạn đói năm 1945 và tấm lòng của nhà văn đối với những số phận ấy.
Chia sẻ thêm👉 Cảm Nhận Về Nhân Vật Bé Thu ❤️️ 13 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Cảm Nhận Về Nhân Vật Người Vợ Trong Vợ Nhặt Đạt Điểm Cao – Bài 6
Tham khảo ngay những ý văn hay trong bài văn cảm nhận về nhân vật người vợ trong Vợ nhặt đạt điểm cao mà chúng tôi chia sẻ sau đây.
“Vợ nhặt” – một nhan đề khiến người đọc không khỏi tò mò và cuốn hút. “Vợ nhặt” – một việc làm có lẽ sẽ hạ thấp phẩm giá của người phụ nữ vì chỉ có đồ vật bị rơi người ta mới nhặt lên. Thế nhưng, ở đây, nhà văn Kim Lân đã dùng sự xót thương và lòng đồng cảm của mình để dựng lên một người “vợ nhặt” rất đức hạnh, đảm đang qua tác phẩm cùng tên của ông. Ông cũng là một trong những người được sinh ra và lớn lên trong cảnh nghèo khó, nên hơn ai hết, ông cũng hiểu nỗi khổ cực khi miếng ăn không đủ no, quần áo không đủ ấm. Vì vậy, nhà văn đã mượn nhân vật của mình để gửi gắm bao tâm tư, tình cảm vào đó.
“Vợ nhặt” là một câu truyện khá hài hước nhưng cũng đầy thê lương về tình cảnh thảm hại của nạn đói năm 1945. Chính cuộc sống cùng cực, bi thương đã làm nên người vợ nhặt. Và ngay chính người chồng trong hoàn cảnh này cũng có thể được gọi là “chồng nhặt”. Họ nhặt được nhau một cách rất tình vờ, rất ngẫu nhiên giữa những ngày đói khủng khiếp. Cả xóm làng chìm trong nạn đói. Người chết có lẽ còn nhiều hơn cả người sống. Mà đôi khi người sống tưởng như đã chết. Họ nằm thoi thóp, còng queo khắp lều chợ.
Khi đối mặt với mẹ Tràng – mẹ chồng của thị, con người thị thể hiện rõ sự ngoan hiền, lương thiện. Thị cất tiếng chào “U đã về ạ”. Chưa nghe thấy bà trả lời, thị nghĩ bà lão già cả, điếc lác nên thị cất tiếng chào lần nữa. Hóa ra, thị đâu có cong cớn như cái vẻ lúc ở ngoài chợ trước mặt Tràng. Thị rất lễ phép, biết điều.
Trong ngày đầu tiên ở nhà Tràng cũng vậy. Thị dậy sớm làm mọi việc: quét dọn nhà cửa sân vườn, thu dọn quần áo sạch sẽ, gọn gàng. Mẹ Tràng cũng cùng thị làm vườn. Những công việc đơn giản nhưng lại mang ý nghĩa sâu sắc khiến Tràng thấy mới lạ và thêm yêu cuộc sống này. Chính bản thân Tràng cũng tự ý thức bản thân mình cũng nên góp sức vào việc thay đổi căn nhà để cuộc sống khấm khá hơn, nề nếp hơn. Còn thị, với những công việc tuy đơn giản những đã thể hiện phẩm chất tốt đẹp, chịu thương chịu khó của một người vợ trung hậu, đảm đang. Thị chính là hình mẫu rất đẹp về người phụ nữ truyền thống của dân tộc Việt Nam.
Không những thế, thị còn là một người có tấm lòng thấu hiểu và cảm thông sâu sắc. Trong bữa cơm đầu tiên, dù chỉ có rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo nhưng thị vẫn cùng cả nhà ăn rất ngon lành. Ngay cả khi ăn cháo cám cũng vậy, vị đắng xít nhưng thị vẫn điềm nhiên và vào miệng.
Khi xây dựng nhân vật người vợ nhặt, Kim Lân đã rất thành công và khiến người đọc bị cuốn hút vào câu truyện. Đồng thời qua đó, nhà văn cũng thể hiện một cách rất chân thực về nạn đói khủng khiếp năm 1945. Ở đó, vì quá đói nên đến cái quyền cơ bản nhất và vốn có của con người là quyền mưu cầu hạnh phúc cũng không có, khiến họ phải “nhặt” nhau về. Không mai mối, không sính lễ, không cau trầu, thị đã theo không về nhà Tràng.
Có lẽ lúc đó, người ta cũng chỉ nghĩ đến miếng ăn nên chẳng bận tâm để ý về việc thị làm vợ Tràng như thế nào. Họ chỉ thấy lạ một điều rằng, giữa lúc đói khổ như thế này mà còn đèo bòng nhau. Còn thị, thị cũng bước qua rào cản phong tục và cái lý lẽ thường tình rằng làm người con gái phải đoan trang, có giá trị… Mà thị cũng đâu có phải là không đoan trang. Rõ ràng Tràng có lời mời thị về làm vợ, chứ không phải thị tự dưng chạy theo Tràng. Chỉ là sự việc diễn ra quá bất ngờ và chóng vánh khiến cho ai cũng ngỡ ngàng.
Thế nhưng, một khi đã làm vợ, thị đã rất chu đáo trong bổn phận làm vợ của mình. Hơn nữa, thị cũng không hề ca thán nửa lời với cảnh ngộ đói kém của nhà chồng. Mà có ca thán cũng đâu có nghĩa lý gì khi tất cả mọi người lúc đó đều cùng chung một hoàn cảnh.
Và rồi, chính thị là người đã đưa ra cảnh tượng nhân dân đua nhau phá kho thóc của Nhật, chia cho dân nghèo. Đây chính là hình ảnh đắt giá làm nên giá trị sâu sắc cho tác phẩm. Cảnh tượng ấy là niềm cổ vũ cho nhân dân, cho những con người cùng khổ vùng dậy đấu tranh giải cứu chính mình. Để từ nay về sau, những mảnh đời như thị không còn phải khổ nữa, cũng không có hiện tượng phải làm “vợ nhặt” nữa.
Qua câu chuyện của cuộc đời người vợ nhặt đầy lam lũ, khổ cực nhưng vẫn đầy lòng nhân ái khiến người đọc liên tưởng đến những người vợ trong thời hiện đại. Họ sống sung sướng, đầy đủ nhưng không phải ai cũng có được phẩm chất đạo đức tốt đẹp như thị. Lại một lần nữa, thị chính là tấm gương sáng về người vợ tốt cho mọi người noi theo.
Thị tuy chỉ là một người vợ được Tràng “nhặt” về nhưng chính thị đã mang lại nguồn sống mới, niềm hi vọng mới cho Tràng và cả mẹ Tràng, chính thị đã làm tăng sức hấp dẫn và giá trị cho tác phẩm. Tất cả các nhân vật trong đó đều chịu chung một số phận nghèo đói, thê lương, cùng chung một ách thống trị và tất nhiên cũng cùng chung một niềm nung nấu là sẽ đứng lên đấu tranh, phá kho thóc của bọn Nhật, để cứu chính mình và chia cho dân nghèo.
Tham khảo 🌷Cảm Nhận Về Nhân Vật Anh Thanh Niên ❤️️ 15 Bài Văn Hay
Cảm Nhận Về Hình Tượng Người Vợ Nhặt Ngắn Hay – Bài 7
Tham khảo bài văn cảm nhận về hình tượng người vợ nhặt ngắn hay dưới đây, nó sẽ giúp ích các em rất nhiều trong quá trình làm bài kiểm tra trên lớp đấy.
Kim Lân là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam trước và sau Cách mạng tháng Tám. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của Kim Lân được viết ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công là truyện ngắn “Vợ nhặt”,được in trong tập truyện “Con chó xấu xí”. Đây là tác phẩm mà Kim Lân đã tái hiện thành công bức tranh ảm đạm và khủng khiếp về nạn đói Ất Dậu (1945) của nước ta. Trên cái nền tăm tối và đau thương ấy, nhà văn đã đặt vào đó hình ảnh của nhân vật người vợ nhặt: nghèo đói, bất hạnh nhưng lại có một khát vọng sống mãnh liệt. Điều đó được thể hiện qua việc chị chấp nhận theo không một người đàn ông về làm vợ giữa ngày đói.
Về cảnh ngộ, xuất hiện trong tác phẩm, người vợ nhặt chỉ là một con số không tròn trĩnh: không tên tuổi, không quê hương, không gia đình, không nghề nghiệp… Từ đầu đến cuối tác phẩm chị chỉ được gọi bằng “thị”- một cách gọi phiếm định dành cho chị và tất cả những người phụ nữ có cảnh ngộ và số phận đáng thương và tội nghiệp như chị. Không những vậy, chân dung của người phụ nữ ấy hiện ra ngay từ đầu là những nét không mấy dễ nhìn: đó là hình ảnh của người đàn bà gầy vêu vao, ngực gầy lép, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt, quần áo thì rách như tổ đỉa, sống vất vưởng và chờ đợi may mắn.
Trước khi trở thành vợ Tràng, thị là một người phụ nữ ăn nói chỏng lỏn, táo bạo và liều lĩnh. Lần gặp đầu tiên, thị chủ động làm quen ra đẩy xe bò cho Tràng và “liếc mắt cười tít” với Tràng. Lần gặp thứ hai, thị “sầm sập chạy tới”, “sưng sỉa nói” và lại còn “đứng cong cớn” trước mặt Tràng. Đã vậy, Thị còn chủ động đòi ăn. Khi được Tràng mời ăn bánh đúc, Thị đã cúi gằm ăn một mạch bốn bát bánh đúc. Ăn xong còn lấy đũa quẹt ngang miệng và khen ngon… Trong đói khát cùng cực, thị gần như đánh mất đi nhân cách, sự tế nhị của con người.
Về đến nhà, trông nếp nhà rẹo rọ của Tràng, thị nén tiếng thở dài, tiếng thở dài chấp nhận bước vào cuộc đời của Tràng. Tiếng thở dài thất vọng vì hoàn cảnh của Tràng cũng chẳng có gì khá hơn thị. Tràng đau chỉ nghèo mà còn có mẹ già, còn phải lo toan, biết có cưu mang thị nổi hay không, hay có thể sẽ khiến cuộc đời của thị thêm khổ. Hành động khép nép, tay vân vê tà áo khi đứng trước mặt bà cụ Tứ, thị thật đáng thương. Ở sâu thẳm bên trong con người này vẫn có một niềm khát khao mái ấm gia đình thực sự, bởi thế thị quyết định gắn kết với tràng, trở thành một phần trong gia đình, bất chấp ngày mai ra sao.
Có thể nói, tất cả những biểu hiện trên của thị suy cho cùng cũng là vì đói. Cái đói trong một lúc nào đó nó có thể làm biến dạng tính cách của con người. Nói điều này, chắc chắn nhà văn thật sự xót xa và cảm thông cho cảnh ngộ đói nghèo của người lao động.
Thế nhưng, có cái gì đó thật mới mẻ đã làm thay đổi người đàn bà ấy. Sau một ngày làm vợ, chị dậy thật sớm, quét tước, dọn dẹp cho căn nhà khang trang, sạch sẽ. Đó là hình ảnh của một người đàn bà hiền hậu, đúng mực, một người vợ biết lo toan, thu vén cho cuộc sống gia đình chứ không có vẻ gì chao chát, chỏng lỏn nữa.. Thị hiện rõ là một người vợ hiền, một cô dâu thảo. Cuộc sống có cái gì đó khởi sắc mà không ai có thể lí giải được.
Trong bữa cơm cưới giữa ngày đói, bà cụ Tứ dành hết tình cảm cho con dâu mới. Chị tỏ ra là một phụ nữ am hiểu về thời sự khi kể cho mẹ và chồng về câu chuyện ở Bắc Giang người ta đi phá kho thóc của Nhật. Chính chị đã làm cho niềm hy vọng của mẹ và chồng thêm niềm hy vọng vào sự đổi đời trong tương lai.
Tóm lại, người phụ nữ không tên tuổi, không gia đình, không tên gọi, không người thân ấy đã thật sự đổi đời bằng chính tấm lòng giàu tình nhân ái của Tràng và mẹ Tràng. Bóng dáng của thị hiện ra tuy không lộng lẫy nhưng lại gợi nên sự ấm áp về cuộc sống gia đình. Phải chăng thị đã mang đến một làn gió tươi mát cho cuộc sống tăm tối của những người nghèo khổ bên bờ của cái chết….
Xem thêm 👉 Cảm Nhận Về Nhân Vật Vũ Nương ❤️️ 15 Bài Văn Mẫu Hay
Cảm Nhận Của Anh Chị Về Hình Tượng Người Vợ Nhặt Sinh Động – Bài 8
Cùng đọc và khám phá cách hành văn ấn tượng, độc đáo trong bài văn cảm nhận của anh chị về hình tượng người vợ nhặt sinh động sau đây.
Tác phẩm “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân đã phản ánh rất chân thực cuộc sống khốn khó của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Cuộc sống của họ bị đàn áp và dồn đến tận cùng khi mà sinh mạng của con người rẻ rúm. Hình tượng người vợ nhặt không tên trong truyện ngắn chính là nhân chứng hùng hồn cho giai đoạn khốn khó của nhân dân ta.
Truyện ngắn “Vợ Nhặt” chỉ xoay quanh 3 nhân vật chính của một gia đình thuộc xóm ngụ cư đó là: anh cu Tràng, bà cụ Tứ và nhân vật thị – vợ nhặt của Tràng. Người phụ nữ này tuy không có tên nhưng dưới ngòi bút tài hoa của Kim Lân đã được hiện ra rõ nét với số phận và tính cách riêng. Vợ của Tràng cũng như hàng ngàn, hàng vạn người phụ nữ cùng thời. Họ bị xã hội phong kiến đàn áp đến mức vì sự sống mà phải tự “bán rẻ” mình đi làm vợ nhặt của người mới quen.
Nhân vật vợ nhặt xuất hiện ngay từ đầu chuyện với một dáng vẻ rất đáng thương, Thị trông gầy yếu xanh xao ngồi vêu trước cửa kho thóc, quần áo thì rách tả tơi, mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt. Khi mới gặp Tràng thì là người đanh đá, táo bạo đến mức trở nên trơ trẽn. Thị nghe thấy anh chàng phu xe bò hát một câu bâng quơ: “Muốn ăn cơm trắng với giò này. Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì”. Thị đã chạy ra cong cớn, lon ton đẩy xe cho Tràng.
Và lần thứ hai khi gặp lại Tràng, thị đã sưng sỉa cái mặt lên mắng anh: “Điêu. Người thế mà điêu”. Lúc thấy Tràng có vẻ dễ bắt nạt thị liền cong cớn hơn. Rồi Tràng cũng phải chiều lòng cho thị ăn bánh đúc. Thấy ăn hai con mắt trũng hoáy của thị sáng bừng lên. Thị không còn biết ngại là gì cắm đầu ăn một mạch bốn bát bánh đúc. Ăn xong thị dùng đôi đũa quệt ngang miệng mà thở. Thực ra đây không phải là tính cách vốn có của Thị. Cũng chỉ vì miếng ăn mà thị đã phải làm tất cả hy sinh cả tự trọng để được ăn và giữ lại sự sống cho mình.
Khi được Tràng đề nghị là về làm vợ mình, thị đã không ngần ngại mà theo anh về nhà luôn. Trên con đường trở về nhà ta thấy tâm lý của thị thay đổi hẳn. Trong khi Tràng hớn hở tủm tỉm cười thì thị lại ngại ngùng cắp cái thúng con và cái nón rách nghiêng nghiêng để che khuất đi nửa mặt. Lúc này ta thấy thị lại trở về đúng nghĩa là một người phụ nữ khi có sự e thẹn đúng như gái mới về nhà chồng. Thị không còn cái vẻ cong cớn, đanh đá lúc trưa nữa mà thay vào đó là nét hiền dịu hơn. Lúc này, thị cũng đã bắt đầu nhận thức được thân phận mình là người vợ theo không nên đành chấp nhận số phận.
Về đến nhà của Tràng thì tâm trạng của nhân vật thị lại càng khác hơn. Khi mà người đàn bà đấy lại có sự tò mò và bỡ ngỡ của nàng dâu mới về nhà chồng. Thị đảo mắt một vòng xung quanh nhà đúng thật nhà Tràng rất nghèo. Thị cố nén tiếng thở dài và nghĩ đến những ngày sau này. Mặc dù đã được Tràng cố gắng tạo sự tự nhiên bằng cách giục thị ngồi xuống giường nhưng thị vẫn e thẹn chỉ dám ngồi mớm vào mép giường rất khép lép. Cho đến khi bà cụ Tứ về trước mặt mẹ chồng thì lại càng e thẹn. Vẫn đứng nguyên chỗ cũ không dám nhúc nhích. Chính thái độ e thẹn của thị đã làm bà cụ Tứ thương cảm và chào đón thị một cách rất nhiệt tình.
Sáng hôm sau cũng giống như bất kỳ nàng dâu mới về nhà chồng nào. Thị cũng dậy sớm cùng với bà cụ Tứ lo dọn dẹp nhà cửa và chuẩn bị bữa sáng cho cả gia đình. Một người vô tâm như Tràng cũng nhận được ra sự thay đổi kỳ lạ của thị. Hôm nay Tràng nhìn thấy ở thị không còn vẻ chỏng lỏn, chao chát hôm gặp ngoài tỉnh nữa mà chỉ còn nét hiền dịu đúng mực của người phụ nữ Việt Nam.
Không những thế Thị còn tỏ ra là người rất biết làm ăn và lo xa. Khi nghe tiếng trống thúc thuế thị đã khẽ thở dài. Rồi cũng chính thị là người đã gợi chuyện trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta đã không chịu đóng thuế nữa mà đi phá kho thóc Nhật để chia cho người đói. Câu chuyện của thị như tiếp thêm sức mạnh cho anh cu Tràng vươn đến khát vọng tự do vì một ngày mai tươi sáng hơn. Trong giấc mơ của thị và Tràng đã lấp lánh hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng. Hình ảnh này biểu trưng cho một cuộc sống ấm no hạnh phúc trong tương lai.
Thông qua nhân vật thị nhà văn Kim Lân không chỉ phản ánh thành công hiện thực cuộc sống khốn khổ của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Không nhắc đến tên nhưng thông qua ngòi bút tài ba của nhà văn nhân vật vợ nhặt đã hiện ra rất chân thực. Thị là tiêu biểu cho số phận của hàng trăm, hàng ngàn phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Chia sẻ thêm ➡️Cảm Nhận Về Nhân Vật Người Đàn Bà Làng Chài ❤️️ 12 Bài Hay
Văn Mẫu Cảm Nhận Về Nhân Vật Người Vợ Nhặt Chọn Lọc – Bài 9
Khám phá cách diễn đạt đặc sắc, sinh động trong bài văn mẫu cảm nhận về nhân vật người vợ nhặt chọn lọc dưới đây.
Mảnh đất cày bừa, gieo trồng của mỗi nhà văn có thể trùng khớp nhau nhưng cách trồng, vun xới cho ra thành phẩm ở mỗi thi sĩ sẽ khác nhau, đó chính là phong cách của riêng họ. Cũng giống như đề tài người nông dân rất phổ biến trong văn xuôi Việt Nam nhưng vào ngòi bút Kim Lân lại thật sâu sắc, hiện thực vô cùng. Nạn đói cùng với việc miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật rất đặc sắc đầy tính nhân văn trong tác phẩm Vợ Nhặt của Kim Lân đã rất thành công, tái diễn rất chân thực. Hình tượng nhân vật Thị – người vợ của Tràng dù chỉ là một nhân vật phụ nhưng sự tài tình ở nhà văn đã giúp nhân vật Thị làm sáng tỏ chủ đề tác giả muốn gửi đến.
Nhân vật tự sự chúng ta thường thấy trong các tác phẩm văn học thường được đặt tên cụ thể, những nhân vật vô danh vì họ chỉ lướt qua tác phẩm hoặc do dụng ý không đặt tên của tác giả nhưng không vì thế mà hình ảnh của họ trở nên mờ nhạt. Nhân vật người vợ nhặt xuất hiện không nhiều nhưng ấn tượng để lại vô cùng ấn tượng, ghi đậm chủ đề của truyện.
Người đàn bà này xuất hiện trước cái lúc Tràng đẩy xe thóc, tuy nhiên ấn tượng chỉ đến hôm gặp lại Tràng ngay trước cổng chợ mới là điểm nhấn. Khi này cô ta chẳng biết từ đâu ập đến mắng xối xả Tràng: “Điêu! Người thế mà điêu!”. Chính cuộc sống túng nghèo đẩy con người ta vào ngõ cụt, ngôn ngữ của cô ta cũng thô lỗ, sỗ sàng không chút nể nang. Tràng có chút ngạc nhiên bởi nay trông Thị khác hôm trước, người sọp hẳn đi nhưng một lúc hắn cũng nhớ ra ngay cô ta.
Tràng cười hiền lành thể hiện sự hối lỗi bèn mời cô ta ăn trầu xã giao nhưng cô ta lại càng tấn công: “Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu”. Tràng thấy thế vui vẻ mời bánh đúc, cô ta liền sà vào ăn bốn bát liền. Từ đó mới thấy người đàn bà này thật tội nghiệp, chính vì nạn đói đã khiến cô ấy đánh rơi đi nhân cách của mình, đói nên đầu gối phải bò.
Thị là một người vô gia cư, nạn đói đã quật cô lưu lạc đến đây xa quê hương sống bờ sống bụi. Thân hình gầy sọp, hai con mắt trũng hoáy, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt, quần áo rách tả tơi như tổ đỉa. Ngày đó, hiện trạng của nạn đói vô tình mai một con người ta, Thị chính là một nạn nhân ở đó, thoi thóp từng ngày, từng giờ.
Trên đường theo Tràng về nhà, mọi người chẳng ai tin trong lúc nạn đói ở lúc đỉnh điểm thế này Tràng sẽ có được vợ nên nhìn hắn với ánh mắt dò xét, tò mò khiến cô ta bối rối, ngượng ngùng kéo nón che mặt. Nếu trước đó Thị sỗ sàng, để mặc liêm sỉ của mình chỉ cần được ăn thì đến lúc này lòng tự trọng trong cô hồi sinh rõ rệt. Họ nói chuyện với nhau rất vui vẻ, Tràng trả lời rất hồn nhiên, trẻ con và tác giả miêu tả nhiều ở nụ cười của anh. Lúc này mới thấy được ở Thị dần bộc lộ nét tính cách đẹp, đáng quý.
Về đến nhà Tràng, khi đảo mắt nhìn toàn bộ thấy hoang sơ, trống trải cô bất giác thở dài giấu đi nỗi thất vọng. Ở trong cô lúc này cũng chẳng còn cách nào khác, đi thì sẽ chẳng có nơi để đi, đành đưa mắt làm ngơ, ở lại. Khi cụ Tứ – mẹ Tràng về cô ta lễ phép chào: “u đã về ạ!”. Vẻ đẹp của một người phụ nữ dịu dàng, từ tốn toát lên ở Thị ngay lúc này. Cô có chút e ngại, nhìn lại bản thân mình đầy tủi hổ khi nhìn thấy cụ Tứ ngồi đó im lặng không nói lời nào, sau đó thì cụ cũng chấp cho hai người lấy nhau, không khí nhẹ nhàng hơn.
Một cuộc sống mới tại nhà Tràng, sáng sớm cô cùng mẹ chồng dậy sớm quét dọn, sắp xếp nhà cửa ngăn nắp, gọn gàng. Quần áo của Tràng cũng được đem phơi, nước đổ đầy ẳng. Đến bữa ăn sáng, mắt tối sầm lại Thị cầm trên tay bát cháo cám của mẹ, tuy thất vọng nhưng cô không dám để lộ điều đó sợ mẹ phật lòng nên đã cố nuốt vào.
Trong sự tĩnh lặng, lo âu bởi tiếng trống thúc đòi thuế thì Thị lên tiếng: “Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta phá kho thóc của Nhật, chia cho người đói nữa đấy”. Lúc này lời nói của Thị đã nhân lên thêm niềm hy vọng, ánh sáng ở tương lai về niềm tin Cách mạng sẽ giải phóng cuộc đời, cái nghèo của họ.
Sau tất cả, hình ảnh người vợ nhặt hiện lên tuy nghèo khó, rách rưới nhưng sâu thẳm cô là một người phụ nữ dịu dàng, chân thành, cởi mở, một người vợ hiền dâu thảo. Kim Lân thông qua miêu tả thành công nhân vật thị tác giả đã tái hiện được hiện thực tối tăm của xã hội nông thôn Việt Nam.
Tham khảo🌸 Cảm Nhận Về Nhân Vật Ông Sáu ❤️️ Hay nhất
Bài Văn Cảm Nhận Về Nhân Vật Người Vợ Nhặt Hay – Bài 10
Nếu các em học sinh đang bí ý tưởng thì có thể tham khảo bài văn cảm nhận về nhân vật người vợ nhặt hay được gợi ý dưới đây.
Nhắc đến Kim Lân chúng ta có thể nghĩ ngay đến tác phẩm ”Vợ nhặt”, một trong những tác phẩm xuất sắc, để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Nổi bật trong đó không thể không nhắc đến nhân vật Thị trong câu chuyện. Tác giả đã khắc họa một cách chân thực, cụ thể nhân vật qua tính cách, chân dung, hoàn cảnh, để rồi từ đó nói lên triết lý cuộc sống mà tác giả muốn gửi gắm qua tác phẩm.
Ngay từ nhan đề cũng đã khiến người đọc cảm thấy đặc biệt. Đi sâu vào câu chuyện, có thể cảm nhận nhân vật Thị là một nhân vật có số phận vô cùng thương cảm. Thị xuất hiện là một người nghèo, không ai thân thích, đến cái tên cũng không có, gọi bằng Thị rất suồng sã, dân dã, đói khát, rách tả tơi, chỉ nghe vài lời nói đùa mà chấp nhận theo không một người, mình chưa biết tính cách họ ra sao, gia cảnh như thế nào?
Không đắn đo suy nghĩ mà quyết định nhanh chóng chỉ vì hoàn cảnh đói quá. Cái đói đã khiến cho Thị chao chát, chỏng lỏn, thô tục, cong cớn, nói lời ngọt ngào, tình tứ với người đàn ông mình gặp lần đầu tiên (lời xưng hô thân mật: “nhà tôi ơi, đằng ấy nhỉ”), thậm chí còn liếc mắt cười tít, chỉ vì cái đói, vì sự tồn tại mà Thị trở nên xưng xỉa: “điêu, người thế mà điêu” thậm chí đòi ăn: “có ăn gì thì ăn chả ăn giầu” và “cắm đầu ăn một chập bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì” đúng là vì đói mà con người ta không còn ý thức về danh dự, không còn ý thức về hành động, về sự e thẹn, chỉ cốt làm sao khỏi đói, thoát chết.
Họ trở nên trơ trẽn, liều lĩnh, thậm chí bóp méo cả nhân cách. Hoàn cảnh của Thị giống như người chết đuối giữa dòng đang chới với giữa sự sống và cái chết, họ sẽ bấu víu vào bất cứ cái gì, hi vọng có thể sống sót nhưng với Thị là chết đuối mà vớ phải “cọc mục”.
Vì khao khát được sống, vì muốn thoát khỏi lưỡi hái tử thần mà thậm chí người ta sẵn sàng chấp nhận làm vợ theo, vợ nhặt. Cưới chồng là việc trọng đại của một đời người, với nghi lễ sang trọng, vợ là bổn phận thiêng liêng của người con gái khi lấy chồng, nhưng với Thị chẳng có người mai mối, chẳng đám hỏi, treo cưới gì cả, tự nhiên theo không về nhà chồng chỉ qua lời nói đùa tầm phào mà người nói vẫn tưởng là nói đùa thôi nhưng Thị vẫn theo về thật.
Câu chuyện tưởng như là bịa, hơn nữa cũng không có gì gọi là lãng mạn như những câu chuyện tình ta vẫn thường gặp. Đúng là cười ra nước mắt gợi ra cho người đọc sự xót xa, ngậm ngùi trước số phận bị rẻ rúng, bèo bọt của những người nông dân nghèo giữa nạn đói thê thảm, đúng là sự khốn cùng của hoàn cảnh.
Sáng hôm sau tỉnh dậy, Thị thay đổi hẳn từ vẻ ngoài cho đến cách cư xử, ăn nói, hành động: “Tràng nom Thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực, không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”.
Qua đây, nhà văn muốn khẳng định con người thay đổi do hoàn cảnh, hoàn cảnh làm thay đổi tính cách con người như lời nhà văn Nam Cao đã từng nói trong truyện ngắn “Sao lại thế này”: “Giữa một người đàn bà tốt và một người đàn bà xấu khoảng cách chỉ bằng sợi tóc”. Ở đây Thị vì đói, vì khao khát được sống mà trở nên đanh đá, chua ngoa, trơ trẽn, khi có điểm tựa, có mái ấm gia đình, Thị trở về đúng với bản chất tốt đẹp vốn có của Thị. Sự thay đổi ở Thị, đồng thời thể hiện tấm lòng cảm thông của nhà văn đối với nhân vật. Đây là tư tưởng nhân đạo cao cả.
Văn Mẫu Cảm Nhận Nhân Vật Bà Cụ Tứ – Bài 11
Ngoài ra thì scr.vn còn chia sẻ thêm cho các em học sinh bài văn mẫu cảm nhận về nhân vật bà cụ Tứ hay sinh động dưới đây.
Kim Lân thuộc hàng những cây bút truyện ngắn tài năng của văn học Việt Nam hiện đại. Ông thường viết về nông thôn và những con người dân quê, lam lũ hồn hậu, chất phác mà giàu tình yêu thương. Vợ nhặt là một trong những sáng tác tiêu biểu của ông. Tác phẩm đã khắc hoạ tình cảnh thê thảm của nhân dân ta trong nạn đói năm 1945 đồng thời khẳng định, ca ngợi tình yêu thương, đùm bọc, khát khao hạnh phúc, hướng đến tương lai của những người dân lao động. Trong đó nhân vật bà cụ Tứ được nhà văn khắc hoạ rất sinh động, tinh tế, là một người mẹ nghèo khổ, trải đời, giàu tình yêu thương và có nội tâm phong phú, phức tạp.
Trong truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân bộc lộ một quan điểm nhân đạo sâu sắc của mình. Nhà văn phát hiện ra vẻ đẹp kì diệu của người lao động trong sự túng đói quay quắt, trong bất kì hoàn cảnh khốn khổ nào, con người vẫn vượt lên cái chết, hướng về cuộc sống gia đình, vẫn yêu thương nhau và hi vọng vào ngày mai. Thể hiện sâu sắc cho tư tưởng ấy là chân dung tính cách, tâm lý của bà cụ Tứ trước tình huống bất ngờ: con trai mình đột ngột có vợ.
Tâm lí ở cụ Tứ có phần phức tạp, với những nỗi niềm trắc ẩn trong chiều sâu riêng của người già từng trải và nhân hậu. Khởi đầu tâm lí ở bà cụ Tứ là ngỡ ngàng trước một sự việc dường như không hiểu được. Cô gái xuất hiện trong nhà bà phút đầu là một hiện tượng lạ. Trạng thái ngỡ ngàng của bà cụ Tứ được khơi sâu bởi hàng loạt những câu hỏi nghi vấn: “Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong nhà ấy nhỉ ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái Đục mà. Ai thế nhỉ?” Rồi lại:”Ô hay, thế là thế nào nhỉ?”. Sự ngạc nhiên này thể hiện nỗi đau của người viết: chính là sự cùng quẩn của hoàn cảnh đánh mất ở người mẹ sự nhạy cảm trước việc con trai yêu quý của mình có vợ.
Sau khi hiểu ra mọi chuyện, bà lão”cúi đầu nín lặng”. Sự nín lặng đầy nội tâm. Đó là nỗi niềm xót xa, lo, thương trộn lẫn. Tình thương của bà mẹ nhân hậu mới bao dung làm sao: “… chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?”. Trong chữ “chúng nó” người mẹ đã đi từ lòng thương con trai sang con dâu. Trong chữ cúi đầu, bà mẹ tiếp nhận hạnh phúc của con bằng kinh nghiệm sống, bằng sự trả giá của một chuỗi đời nặng nhọc, bằng ý thức sâu sắc trước hoàn cảnh.
Rồi tình thương lại chìm vào nỗi lo, tạo thành một trạng thái tâm lí triền miên day dứt. Bà mẹ: nghĩ đến bổn phận làm mẹ chưa tròn, nghĩ đến ông lão, đến con gái út, nghĩ đến nỗi khổ đời của mình, nghĩ đến tương lai của con…, để cuối cùng dồn tụ bao lo lắng, yêu thương trong một câu nói giản dị:”chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá…” Trên ngổn ngang những nỗi buồn lo, niềm vui của mẹ vẫn cố ánh lên. Cảm động thay, Kim Lân lại để cái ánh sáng kỳ diệu đó tỏa ra từ… nồi cháo cám. Hãy nghe người mẹ nói: “chè đây – Bà lão múc ra một bát – chè khoán đây, ngon đáo để cơ”. Chữ “ngon”này cần phải cảm thụ một cách đặc biệt.
Đó không phải là xúc cảm về vật chất mà là xúc cảm về tinh thần: ở người mẹ, niềm tin về hạnh phúc của con biến đắng chát thành ngọt ngào. Chọn hình ảnh nồi cháo cám, Kim Lân muốn chính mình cho cái chất người: trong bất kỳ hoàn cảnh nào, tình nghĩa và hi vọng không thể bị tiêu diệt, con người muốn sống cho ra sống, và cái chất người thể hiện ở cách sống tình nghĩa và hi vọng. Nhưng Kim Lân không phải là nhà văn lãng mạn. Niềm vui của cụ Tứ vẫn cứ là niềm vui tội nghiệp, bởi thực tại vẫn nghiệt ngã với miếng cháo cám “đắng chát và nghẹn bứ”.
Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân, là tác phẩm giàu giá trị hiện thực, nhân đạo; là bài ca về tình người ở những người nghèo khổ, ca ngợi niềm tin bất diệt vào tương lai tươi sáng của con người. Truyện xây dựng thành công hình tượng nhân vật bà cụ Tứ, một người mẹ nghèo khổ mà ấm áp tình thương, niềm hi vọng, lạc quan qua cách dựng tình huống truyện và dẫn truyện độc đáo, nhất là ngòi bút miêu tả tâm lí tinh tế, khiến tác phẩm mang chất thơ cảm động và hấp dẫn.
Khám phá văn mẫu 🌺Cảm Nhận Về Nhân Vật Bé Thu ❤️️13 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Cảm Nhận Về Nhân Vật Người Mẹ Trong Vợ Nhặt – Bài 12
Với yêu cầu “cảm nhận về nhân vật người mẹ trong Vợ nhặt” thì scr.vn đã chọn lọc được bài văn sau đây để chia sẻ đến cho các em học sinh cùng tham khảo.
Truyện ngắn “ Vợ nhặt” của Kim Lân được sáng tác sau cách mạng tháng Tám nhưng lấy bối cảnh là nạn đói năm 1945. Đặt trong bối cảnh ra đời của tác phẩm, nhà văn đã làm toát lên tấm long yêu thương, đùm bọc lẫn nhau và khát vọng hạnh phúc của những người người khổ. Vẻ đẹp nhân bản ấy được tác giả xây dựng thành công ở hình tượng nhân vật “bà cụ Tứ” – mẹ anh Tràng- người “nhặt vợ”.
Bà cụ Tứ trước hết là người mẹ nghèo khổ đã già yếu với cái lưng “long khòng”, khẽ mắt “lèm nhèm “,”khuôn mặt bủng beo, u ám “. Những hành động cử chỉ của cụ “nhấp nháy hai con mắt”,”chậm chạp hỏi”, “lập cập bước đi”, “lật đật:, “lễ mễ” cũng thể hiện cụ là một người đã già, không còn khỏe mạnh. Hơn nữa người phụ nữ ấy còn bị đặt trong hoàn cảnh nghèo nàn, đói khổ mà cụ nói “ cuộc đời cực khổ dài đằng đẵng”.
Trong tác phẩm, bà cụ Tứ chỉ xuất hiện ở giữa truyện khi anh Tràng đưa vợ về nhà, nhưng nhân vật này vẫn thu hút được sự quan tâm của người đọc bởi những vẻ đẹp tâm hồn, tính cách.
Trong người mẹ già nua, đói khổ ấy có một tình yêu thương dành cho con cái sâu sắc. Cụ thương người con trai của mình “cảm thấy ai oán xót thương cho số phận đứa con mình”. Trong kẽ mắt kèm nhàm của cụ rỉ ra hai dòng nước mắt. Cụ đã sớm lo lắng cho cuộc sống tương lai của đứa con mình” không biết chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua cơn đói này không”.
Bà còn dành tình yêu thương cho người con dâu mới của mình. Bà nhìn thị nghĩ :”Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này người ta mới lấy con mình, con mình mới có vợ được”. Đó là tấm lòng người mẹ không khinh rẻ mà tỏ ra thông cảm thấu hiểu hoàn cảnh con dâu, thậm chí bà còn cho đó là may mắn của con trai mình, gia đình mình khi có con dâu mới. Điều đó chứng tỏ bà cụ Tứ rất hiểu mình, hiểu người.
Tình yêu thương còn thể hiên qua những lời nói của bà cụ dành cho con “Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi may ra ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?…”. Bà nói với con dâu bằng lời của một người từng trải – vừa lo lắng, vừa thương xót, đồng thời động viên con bằng triết lý dân gian”ai giàu ba họ ai khó ba đời, hướng con tới tương lai tươi sáng. “… Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá…”. Câu nói thể hiện tấm lòng thương xót cho số phận của những đứa con.
Và để ngày vui của các con thêm trọn vẹn, sáng hôm sau cụ” xăm xắn quét tước nhà cửa”. Hành động giản dị thôi nhưng thể hiện tấm lòng người mẹ tuy nghèo nhưng hết lòng thương yêu con. Và thế là đám cưới không nghi lễ, không đón đưa của đôi vợ chồng trẻ được chan đầy bằng tình yêu thương và tấm long lo lắng của người mẹ nghèo.
Nhân vật bà cụ Tứ bị đặt trong hoàn cảnh éo le, qua đó ta thấy được tinh thần lạc quan của người mẹ già yếu, tuy sắp đến độ gần đất xa trời nhưng luôn hướng về tương lai thể hiện qua những hành động và lời nói. Cụ tin vào triết lý dân gian: ai giàu ba họ ai khó ba đời- lạc quan về một ngày mai tươi sáng. Cụ đồng tình khi thấy Tràng thắp đèn mặc dù cụ biết lúc đó dầu rất đắt, dầu là thứ xa xỉ.
Nếu để ý ta sẽ thấy chính bà lão “gần đất xa trời”này lại là người nói về tương lai nhiều nhất” cụ nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau. Đó không đơn thuần chỉ là niềm lạc quan của người lao động mà còn là ước mơ về cuộc sống có phần tươi sáng hơn cho các con. Bà cụ trông cũng” tươi tỉnh khác hẳn ngày thường”. Chính tâm trạng vui tươi phấn khởi của người mẹ già đã làm sáng lên cái không gian u ám và góp phần vào ngày vui trọng đại của cuộc đời người con trai.
Và hình ảnh người mẹ già, cười đon đả: “Cám đây mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà chả có cám mà ăn đấy”, cứ quẩn quanh, ám ảnh tâm chí người đọc. Cái lạc quan không những không bị mất đi mà lại càng trở nên mãnh liệt hơn trong mưa nắng cuộc đời.
Trong buổi sáng đầu tiên đón tiếp nàng dâu mới, nồi cháo cám “ chát xít, nghẹn bứ trong miệng” mà ngon ngọt trong lòng, ngọt bởi tâm lòng người mẹ nghèo đang cố xua đi cái không khí ảm đạm bằng thái độ lạc quan và sự tươi tỉnh động viên con cố gắng vượt qua hoàn cảnh. Nhưng sự thật là vị đắng ngắt của cháo cám và tiếng thúc thuế từ xa vọng lại đã không làm niềm vui nhỏ của những con người nghèo khổ cất cánh lên được.
Bằng tài năng và tấm lòng đồng cảm sâu sắc, Kim Lân đã dựng lên “hình ảnh chân thật và cảm động về người mẹ nông dân nghèo khổ trong trận đói khủng khiếp năm 1945″. Nhân vật bà cụ Tứ được khắc họa chủ yếu qua sự vận động trong nội tâm nhân vật. Ngoài ra, qua những lời nói, cử chủ, hành động của nhân vật ta cũng có thể cảm nhận được tấm lòng yêu thương con sâu sắc. Ở bà cụ Tứ thấp thoáng hình ảnh của nhân vật lão Hạc, của mẹ Dần, vợ chồng Dần ( Nam Cao) những người nông dân nghèo nhưng chỉ sống vì con, hết lòng yêu thương con.
Hướng dẫn cách 🔥Nhận Thẻ Cào 50k Miễn Phí🔥 cực hay