Phân Tích Nhân Vật Tràng Sau Khi Có Vợ [21+ Mẫu Cảm Nhận]

Phân Tích Nhân Vật Tràng Sau Khi Có Vợ ❤️️ 21+ Mẫu Cảm Nhận ✅ Tham Khảo Tuyển Tập Bài Viết Hay Đặc Sắc Giúp Bạn Học Tốt Tác Phẩm Ngữ Văn Lớp 12.

Dàn Ý Phân Tích Nhân Vật Tràng Sau Khi Có Vợ Ngắn Gọn

Với dàn ý phân tích nhân vật Tràng sau khi có vợ ngắn gọn dưới đây, các em học sinh có thể chuẩn bị tốt và đạt kết quả cao cho bài viết trên lớp.

1.Mở bài phân tích nhân vật Tràng sau khi có vợ:

Giới thiệu tác giả Kim Lân, truyện ngắn Vợ nhặt và nội dung cần phân tích – tâm trạng của nhân vật Tràng sau khi có vợ.

2.Thân bài phân tích nhân vật Tràng sau khi có vợ:

a. Buổi sáng tỉnh dậy:

  • Trong người Tràng thấy êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra, hắn vẫn ngỡ ngàng không tin rằng mình đã có vợ.
  • Nhận ra xung quanh mình có sự thay đổi lớn vô cùng khác lạ: nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ, gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung bành ngay lối đi đã hót sạch.
  • Tràng nhận thấy cô thị đảm đang, chu đáo khác hẳn với vẻ đanh đá anh thấy trước đây.

b. Trong bữa ăn đầu tiên khi có vợ:

  • Khi bà cụ Tứ bàn về tương lai, Tràng chỉ vâng rất ngoan ngoãn khiến cho không khí trong gia đình ấm áp, hòa hợp mà trước giờ chưa từng thấy.
  • Khi cầm bát cháo cám đưa lên miệng, hắn chun mặt lại vì chao chát nhưng khi nghe cô thị kể về việc người dân mạn trên đi phá kho thóc Nhật, trong ý nghĩ của hắn hiện lên hình ảnh người dân đi phá kho và lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới.
  • Việc lấy vợ đã làm thay đổi hoàn toàn cuộc sống cũng như suy nghĩ của anh Tràng, từ đó mở đường cho anh đến một tương lai tươi sáng hơn.

3.Kết bài phân tích nhân vật Tràng sau khi có vợ:

Khái quát lại tâm trạng của Tràng sau khi có vợ và đánh giá chung về nội dung, nghệ thuật của truyện ngắn.

Giới thiệu cùng bạn 🍀 Tóm Tắt Vợ Nhặt 🍀 20 Bài Tóm Tắt Tác Phẩm Ngắn Hay

Phân Tích Nhân Vật Tràng Sau Khi Có Vợ Ngắn Hay – Mẫu 1

Tham khảo bài phân tích nhân vật Tràng sau khi có vợ ngắn hay dưới đây sẽ giúp các em học sinh trau dồi và có thêm cho mình những ý văn đặc sắc.

Kim Lân là một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn học Việt Nam. Một trong những tác phẩm nổi bật của ông phải kể đến trong truyện ngắn Vợ nhặt. Trong truyện, tác giả đã xây dựng nhân vật Tràng, đặc biệt trong đoạn sáng hôm sau khi có được vợ.

Trong truyện, nhân vật Kim Lân đã xây dựng nhân vật Tràng có hoàn cảnh sống là người dân xóm ngụ cư, cha mất sớm, sống cùng mẹ già trong căn nhà tồi tàn. Anh ta làm nghề kéo xe bò thuê lên tỉnh. Một ngày nọ, trên đường kéo xe bò vào dốc tỉnh, Tràng tình cờ gặp gỡ với Thị. Chỉ với câu đùa và bốn bát bánh đúc, Thị đã đồng ý theo làm vợ và theo Tràng về nhà. Khi về đến nhà, bà mẹ của Tràng ban đầu rất ngạc nhiên, sau đó là đón nhận người đàn bà khốn khổ ấy làm con dâu với một sự thương cảm sâu sắc.

Sáng hôm sau, Tràng bỗng cảm thấy mình hoàn toàn đổi khác. Tràng cảm thấy “trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra”. Bản thân Tràng cũng không tin rằng mình đã có được vợ. Rồi Tràng chắp hai tay ra sau lưng, bước ra sân. Anh nhận ra sự xung quanh mình mọi thứ đều có sự thay đổi vô cùng lớn:

“Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung hoành ngay lối đi đã hót sạch”.

Căn nhà dường như được khoác lên mình một chiếc áo mới. Những cảnh tượng thật ấm cúng hiện ra trước mắt của Tràng: “Ngoài vườn người mẹ đang lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở. Vợ hắn quét lại cái sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất”. Chỉ là một cảnh tượng thật giản dị, nhưng lại khiến cho Tràng thấy cảm động.

Nếu như trước khi có vợ, Tràng chỉ là một anh con trai xấu xí, cục mịch lại có phần dở hơi. Thì sau khi có vợ, Tràng đã hoàn toàn thay đổi về nhân thức. Anh cảm nhận được trách nhiệm của một người chồng, cảm thấy yêu thương cái gia đình của mình đến lạ lùng.

Trong suy nghĩ của anh tự nhủ: “Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”.

Và suy nghĩ như vậy, Tràng liền hành động: “Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà”. Kim Lân đã thật tinh tế khi khắc họa sự thay đổi của nhân vật Tràng, không chỉ là vẻ bên ngoài mà còn là sự nhận thức bên trong.

Đặc biệt hơn cả là trong bữa ăn đầu tiên sau khi có vợ. Tràng đã nhìn thấy hình ảnh một người phụ nữ hoàn toàn khác. Không còn cái vẻ đanh đá trước đó, mà là người đàn bà hiền hậu đúng mực. Tràng cũng thấy mẹ của mình tươi tỉnh khác hẳn ngày thường. Dù bữa ăn ngày đói trông thật thảm hại, nhưng gia đình Tràng ăn rất ngon miệng.

Trong bữa ăn, khi nghe mẹ tính chuyện tương lai, Tràng chỉ vâng. Tiếng vâng của anh cho người đọc cảm nhận được không khí ấm cúng, hòa hợp trong gia đình chưa từng có trước đó. Đến khi bà cụ Tứ bê nồi cháo cám ra, khi Thị điềm nhiên và vào miệng, bà cụ Tứ tươi cười khen “Ngon đáo để”. Thì Tràng cầm bát cháo cám đưa lên miệng, hắn chun mặt lại vì chao chát. Điều đó phần nào vẫn cho thấy nét trẻ con trong hành động của Tràng.

Đặc biệt đến cuối cùng, khi nghe cô vợ nhặt nhắc đến những người đi phá kho thóc Nhật, trong óc của Tràng hiện ra hình ảnh người dân đi phá kho và lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới. Điều đó giống như là những hy vọng của Tràng vào một tương lai tươi sáng với sự đổi thay giải phóng họ khỏi cuộc đời khổ cực.

Như vậy, người vợ nhặt đã giúp Tràng có những thay đổi sau sắc về nhận thực. Truyện ngắn Vợ nhặt đã cho thấy tình cảnh thê thảm của người nông dân nước ta trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Đồng thời tác giả còn thể hiện được bản chất tốt đẹp và sức sống kỳ diệu của họ.

Mời bạn tham khảo 🌠 Sơ Đồ Tư Duy Vợ Nhặt 🌠 15 Mẫu Vẽ Tóm Tắt Ngắn Hay

Phân Tích Cảm Nhận Về Nhân Vật Tràng Sau Khi Có Vợ Hay Nhất – Mẫu 2

Đón đọc bài văn mẫu phân tích cảm nhận về nhân vật Tràng sau khi có vợ hay nhất được chọn lọc và chia sẻ dưới đây:

Kim Lân là cây bút tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại. Trong cả hai giai đoạn sáng tác ( trước và sau Cách mạng tháng Tám ), tuy viết không nhiều nhưng giai đoạn nào ông cũng có những tác phẩm hay. Với tấm lòng của một người vốn là con để của đồng ruộng, Kim Lân đã viết về nông thôn và người nông dân bằng tất cả sự cảm thông và yêu thương chân thành.

Vợ nhặt là truyện ngắn đặc sắc của nhà văn. Tác phẩm có tiền thân là tiểu thuyết Xóm ngụ cư, viết về đề tài nạn đói năm Ất Dậu 1945, kể lại chuyện một thanh niên nghèo nhặt vợ giữa lúc đói quay đói quắt. Nhân vật Tràng trong truyện ngắn Vợ nhặt đã khẳng định một phát hiện của Kim Lân về người lao động: Dù sống trong hoàn cảnh nào, dù đang ở trong vực thẳm của sự đói khát, họ vẫn luôn khát khao sống, khát khao hạnh phúc.

Điều đó được thể hiện rõ qua đoạn trích: “Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào … tu sửa lại căn nhà. ” Sự thay đổi của nhân vật Tràng trong buổi sáng hôm sau vợ về nhà đã tiếp nối mạch diễn biến của câu chuyện, đồng thời thể hiện sự trân trọng của nhà văn Kim Lân đối với nhân vật của mình cũng là sự trân trọng sâu sắc với những người dân nghèo khổ nhưng có khát khao sống mạnh mẽ.

Tác phẩm lấy bối cảnh xóm ngụ cư vào đỉnh điểm nạn đói năm Ất Dậu 1945. Cái đói đã tràn đến xóm ngụ cư từ lúc nào. Xóm ngụ cư như một bãi tha ma, chẳng còn bóng dáng của sự sống. Trong hoàn cảnh ấy, Tràng – một thanh niên nghèo, kéo xe bò thu nuôi mình và nuôi mẹ già – lại lấy vợ.

Việc Tràng nhặt vợ về đã làm nổi bật khao khát hạnh phúc , yêu thương của con người ngày đói. Trong hoàn cảnh đói khát, tăm tối, khi đang cận kề bên miệng vực của cái chết ấy, người lao động Việt Nam vẫn khát khao hạnh phúc, vẫn lạc quan hướng tới tương lai. Điều này được thể hiện rất rõ qua tâm trạng của nhân vật Tràng vào sáng hôm sau, sau khi Tràng nhặt vợ về.

“Sáng hôm sau , mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy. Trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra ”. Không phải là nỗi lo âu khi đối diện với thực tại đen tối trước mặt. Không phải là cảm giác hối hận khi đã nhặt vợ về giữa những ngày đói khát.

Ta chỉ thấy tâm trạng nhẹ nhõm, khoan khoái của một người đàn ông đang tràn ngập niềm hạnh phúc lứa đôi. Tràng đang hạnh phúc, hạnh phúc lớn và đột ngột đến ngỡ ngàng, đến không thể tin được: “ Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải ” Nhà cửa sạch sẽ, tinh tươm : “ Hắn chớp chớp liên hồi mấy cái , và bỗng vừa chợt nhận ra , xung quanh.

Càng ngỡ ngàng hơn khi Tràng nhận thấy xung quanh khác lạ, mới mẻ, cửa nhà nhà mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ. Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vất ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô ở dưới gốc cây đã kín nước đầy ăm ắp . Đống rác màn tung hoành ngay lối đi đã được hốt đi.

Niềm vui dâng lên trong lòng. Toàn là những dấu hiệu vui, những dấu hiệu về một ngày mai tươi sáng hơn. Nếu chỉ nghĩ đến sự sống chết trước mặt, nếu không có niềm tin rằng mình sẽ thoát khỏi cái đói, nếu không khao khát một cuộc sống khấm khá hơn thì họ sẽ để mặc cửa nhà bừa bộn, nhếch nhác.

Một cảnh tượng hết sức bình dị hiện ra trước mắt Tràng: “ Ngoài vườn người mẹ đang lúi húi những bụi cỏ mọc nham nhở. Vợ hắn quét lại cái sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất”. Hai người phụ nữ của cuộc đời hắn đang cặm cụi quét tước, thu dọn cửa nhà. “Cảnh tượng thật đơn giản, bình thường nhưng đối với hắn lại ất thấm thía cảm động. Hạnh phúc, quả thực, đến từ những điều rất nhỏ ”.

Niềm vui, niềm hạnh phúc đã đem đến sự đổi thay kì diệu trong tâm hồn Tràng: “Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng”. Nhà không là sự vật hữu hình, cụ thể, nhà còn là gia đình, là tổ ấm. Từ giờ trở đi “Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng – nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng”.

Chỉ trong một đoạn ngắn ngủi mà Kim Lân đã lột tả được tâm trạng của nhân vật Tràng. Từ bất ngờ, bỡ ngỡ cho đến vui sướng tột cùng khi biết mình đã có gia đình. Một niềm vui thật cảm động, cả hiện thực như xen lẫn giấc mơ. Niềm vui như nhân đội, bởi bên cạnh hạnh phúc lứa đôi, Tràng còn có thêm một niềm hạnh phúc to lớn nữa – hạnh phúc gia đình. Anh chàng cục mịch, khù khờ thường ngày vụt trở nên sâu sắc. Hạnh phúc như khiến con người ta trưởng thành hơn trong cảm xúc.

Hạnh phúc còn khiến con người trưởng thành trong nhận thức. Tràng ý thức được bổn phận, trách nhiệm của người đàn ông với gia đình. Tràng nhận thấy ý nghĩa của cuộc đời chính là yêu thương, gắn bó và chăm lo cho những người thân. “Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này. Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân , hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà.

Chi tiết hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà ” là một đột biến quan trọng, một bước ngoặt đổi thay cả số phận lẫn tính cách của Tràng: từ khổ đau sang hạnh phúc, từ chán đời sang yêu đời, từ ngây ngô sang nhận thức. Rõ ràng, khát vọng hạnh phúc ở con người lớn hơn cái đói và cái chết. Đó là lí do dẫn đến cái kết“. Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới ” của câu chuyện.

Nhân vật Tràng trong đoạn trích nói riêng và tác phẩm nói chung là một phát hiện của nhà văn Kim Lân về người lao động: Dù sống trong hoàn cảnh nào, dù đang ở trong vực thẳm của sự đói khát, họ vẫn luôn khát khao sống, khát khao hạnh phúc. Khát khao ấy mạnh hơn cái đói, cái chết. Phát hiện này làm nên giá trị nhân đạo cho tác phẩm.

So với những tác phẩm viết về người lao động trước Cách mạng, Vợ nhặt mang đến một giá trị mới mẻ hơn. Nhà văn không chỉ thấy nỗi khổ của con người và vẻ đẹp tâm hồn của họ mà còn nhìn thấy tương lai và con đường sống tất yếu của họ. Cho dù đang đứng , lao động Việt Nam vẫn tràn đầy khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc, vẫn tin trường, tin miệng vực của cái đói, cái chết, cho dù bị dồn đuối đến bước đường cùng thì người dân vẫn tin vào một tương lai tươi sáng hơn.

Nhà văn Kim Lân đã nói: “Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn sống, sống cho ra con người.”

SCR.VN tặng bạn 💧 Nghị Luận Vợ Nhặt 💧 15 Bài Văn Ngắn Gọn Hay Nhất

Phân Tích Nhân Vật Tràng Sau Khi Cưới Vợ Học Sinh Giỏi – Mẫu 3

Bài văn mẫu phân tích nhân vật Tràng sau khi cưới vợ học sinh giỏi sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích dành cho các em học sinh khi thực hiện bài viết của mình.

Truyện ngắn Vợ nhặt đã miêu tả tình cảnh thê thảm của người nông dân nước ta trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Qua đó, Kim Lân còn thể hiện được bản chất tốt đẹp và sức sống kỳ diệu của họ. Nhân vật Tràng được Kim Lân khắc họa với những diễn biến tâm trạng, đặc biệt là trong đoạn sáng hôm sau khi Tràng có vợ.

Nhân vật chính trong truyện Vợ nhặt là một người dân nghèo khổ sống cùng với mẹ già ở xóm ngụ cư. Một ngày nọ, trên đường kéo xe bò vào dốc tỉnh, Tràng tình cờ gặp gỡ với Thị. Chỉ với câu đùa và bốn bát bánh đúc, Thị đã đồng ý theo làm vợ và theo Tràng về nhà. Khi về đến nhà, mẹ của Tràng ban đầu rất ngạc nhiên. Sau đó bà đã đón nhận người đàn bà khốn khổ ấy làm con dâu với một sự thương cảm sâu sắc.

Buổi sáng hôm sau có vợ, Tràng sung sướng trong men say của hạnh phúc đôi lứa. Trong người Tràng cảm thấy “êm ái lửng lơ” như người vừa từ giấc mộng bước ra. Kim Lân đã thật tinh tế khi miêu tả: “một cảm giác ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng tựa hồ như có một bàn tay vuốt nhẹ sống lưng”. Có thể thấy tình yêu đã đem đến một sức mạnh diệu kì, làm thay đổi một con người.

Hạnh phúc đến quá bất ngờ khiến Tràng cảm thấy “ngỡ ngàng như không phải” Sự ngạc nhiên đó là hoàn toàn hợp lí, bởi một người như Tràng trong hoàn cảnh nghèo đói lại có được vợ. Chẳng ai ngờ rằng chuyện dựng vợ gả chồng là chuyện trọng đại trong đời người lại được quyết định từ một câu hò vu vơ và bốn bát bánh đúc. Nhưng chính từ việc đó mà Kim Lân đã cho người đọc thấy được tình cảnh thảm hại của người nông dân Việt Nam lúc bây giờ.

Và không chỉ ngạc nhiên khi có được vợ, Tràng còn ngạc nhiên khi thấy căn nhà của mình hoàn toàn thay đổi. Người đàn bà đó đã xuất hiện trong gia đình Tràng khiến cho căn nhà thay đổi. Dưới bàn tay vun vén của mẹ và vợ Tràng, ngôi nhà trước đây rách nát, đã trở thành một mái ấm:

“Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung bành ngay lối đi đã hót sạch”. Bản thân Tràng cũng ý thức được sự thay đổi đó khi thấy “xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ” . Dường như tình yêu đã khiến anh ta trở nên thay đổi.

Khi nhìn thấy hình ảnh người mẹ lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở, nghe âm thanh tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất của vợ, lòng anh ta dấy lên nỗi niềm “thấm thía cảm động”, “Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng”. Từ nhận thức mình đã có gia đình, Tràng nghĩ đến những điều xa xôi hơn: “Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng”. Đó là khát vọng hết sức bình thường của con người.

Không chỉ vậy, Tràng còn ý thức được trách nhiệm của mình: “bây giờ hắn mới thấy hắn nên người”. Nhận thức về sự trưởng thành kéo theo nhận thức về bổn phận và trách nhiệm với gia đình. Tràng cảm thấy “có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”. Và không chỉ bằng suy nghĩ mà Tràng còn hành động ngay “Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà”.

Đó là hành động thể hiện được sự chuyển biến lớn trong nhân vật này. Chính niềm hạnh phúc được sống trong tình yêu thương, tình mẹ con vợ chồng hòa thuận đã nhen nhóm trong lòng hắn biết bao ước vọng về hạnh phúc, bao niềm tin vào cuộc sống sẽ thay đổi tốt đẹp hơn.

Tràng còn nhận thấy khuôn mặt bủng beo của mẹ trở nên tươi tỉnh hơn, khác hẳn với ngày thường. Đặc biệt, dù bữa ăn ngày đói thật thảm hại, nhưng gia đình Tràng ăn vẫn rất ngon miệng. Khi nghe mẹ bàn tính chuyện tương lai, Tràng chỉ “Vâng”. Một tiếng “Vâng” nhưng thể hiện được sự ấm áp, hòa hợp của gia đình.

Đặc biệt đến cuối cùng, khi nghe cô vợ nhặt nhắc đến những người đi phá kho thóc Nhật, trong óc của Tràng hiện ra hình ảnh người dân đi phá kho và lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới. Đó giống như là niềm tin vào một tương lai tươi sáng với việc tìm đến ánh sáng của cách mạng.

Như vậy, nhà văn Kim Lân đã khắc họa hình ảnh nhân vật Tràng trong đoạn sáng hôm sau khi có vợ với những nét diễn biến chân thực. Qua đoạn sáng hôm sau, Kim Lân đã cho thấy sự chuyển biến của nhân vật Tràng theo chiều hướng tốt đẹp hơn. Tác phẩm Vợ nhặt đã gửi gắm những ý nghĩa nhân văn cao cả.

Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất

Phân Tích Nhân Vật Tràng Sau Khi Lấy Vợ Đạt Điểm Cao – Mẫu 4

Để viết phân tích nhân vật Tràng sau khi lấy vợ đạt điểm cao, tham khảo những ý văn hay và đặc sắc trong bài văn mẫu sau đây:

“Kim Lân là người một lòng, một dạ đi về với đất, với người, với thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống thôn dã” (Phan Ngọc). Vâng, khi nhắc đến tác phẩm Vợ Nhặt nổi bật là hình ảnh nhân vật Tràng sẽ thấy rõ chính tình yêu đặt nơi quê hương quá đậm sâu đã khiến cho những lời văn của Kim Lân da diết, chân thực tái hiện về con người và nông thôn. Nghệ thuật miêu tả nhân vật của nhà văn rất thành công, tâm lí của nhân vật Tràng sau khi lấy vợ được Kim Lân thể hiện rất hay, đặc biệt.

Một anh chàng ngoài 30 tuổi nhưng vẫn chưa có vợ, ngật ngưỡng bước đi trong ánh chiều tàn chính là Tràng trong Vợ Nhặt. Tràng có thân hình to lớn, vạm vỡ khỏe khoắn, cặp mắt ti hí, hàm răng bạch ra, đầu trọc lóc tuy xấu xí nhưng tâm tính thì rất hiền lành, tốt bụng, thân thiện được bọn trẻ con trong làng thích.

Hài hòa với ngoại hình, Tràng sống trong một căn nhà tồi tàn, lụp xụp có mảnh vườn lổn nhổn cỏ dại cùng người mẹ già. Trong xã hội lúc đó những người nghèo khó được xếp vào hàng dân ngụ cư, bị kinh thường thì lúc đó Tràng là người được xem như thế.

Giữa nạn đói năm đó, Tràng đẩy xe thóc ra tình thì bắt gặp mấy chị ngồi nhặt thóc, Tràng buông lời chọc ghẹo: “Muốn ăn cơm trắng mấy giờ này, thì lại đây mà đẩy xe bò với anh nì…” Bỗng có người đàn bà đến giúp đỡ anh và liều lĩnh theo anh về nhà. Hắn đã quên cô nàng này bởi hai người chưa kịp quen nhau. Và rồi họ gặp lại nhau trong lần Tràng đẩy xe thóc lên tỉnh, trả thóc xong ngồi uống nước thì bỗng thấy người đàn bà kia bay đến mắng sa sả.

Thị quá rách rưới, thân hình gầy sọp hẳn đi nên anh không nhận ra, vì bản tính tốt bụng nên anh sẵn sàng mời bánh đúc vì Thị quá đói không cần sĩ diện. Tràng nửa giỡn nửa thật buông lời thì không ngờ người đàn bà ấy tự nguyện theo về làm vợ. Mặc dù gia đình cũng đang rất nghèo đói nhưng Tràng không bận tâm, liều lĩnh chấp nhận cô gái này.Trong cái đói triền miên đó, một người vừa xấu xí lại nghèo khó như Tràng không ai có thể hình dung được hắn có thể có vợ.

Tràng một cách tình cờ và đầy trớ trêu, người đàn bà xa lạ đó đã xáo động cuộc sống và tâm tư khiến anh trở nên tốt đẹp hơn. Sáng hôm sau khi dẫn cô gái ấy về nhà Tràng thức dậy đầy sảng khoái. Nhìn ngắm nhà cửa tươm tất, sạch sẽ hắn phấn chấn hơn, cả mẹ cậu cũng vui mừng.

Hạnh phúc đôi khi chỉ cần giản dị như thế, mặc cho gia đình đang chìm trong cảnh nghèo khó. Tràng nảy sinh cái suy nghĩ sẽ yêu thương, có trách nhiệm với gia đình, sinh con đẻ cái. Tràng tin tưởng vào một tương lai tươi sáng dù nạn đói tối tăm vẫn đang bủa vây.

Bữa ăn sáng đầu tiên trong gia đình Tràng của Thị, mọi người đều vui vẻ cười nói cùng nhau. Thị đón nhận bát cháo từ người mẹ trong vẻ ngạc nhiên, Tràng thì nhăn mặt cay đắng nuốt miếng cám đắng chát, thực trạng của nạn đói lúc bấy giờ. Nhìn ánh mắt Thị tối sầm như bao phủ lên cuộc đời Tràng.

Sau đó Thị cất lời nói:“Trên mạn Bắc Giang, Thái Nguyên người ta không chịu đóng thuế nữa mà họ phá kho thóc Nhật chia cho người đói”. Tràng biết đó là Việt Minh. Lúc này Tràng lóe lên suy nghĩ trong đầu là một đoàn người kéo nhau đi trên đê Sộp bên cạnh lá cờ đỏ sao vàng phấp phới. Trong lòng Tràng lóe lên ánh sáng của lá cờ tươi thắm của cách mạng, của những niềm hy vọng của sự đổi thay, giải phóng cuộc đời cơ cực, bi ai đầy tăm tối này.

Khi có Thị mặc dù thêm gánh nặng một người ăn nhưng Tràng không nhìn vào cái khổ đó mà anh luôn suy nghĩ một cách lạc quan, đầy hy vọng. Đời sống của anh Từ ngày có Thị bước vào đời sống của anh có sự vận động từ trong tăm tối nghèo đói vươn ra ngoài ánh sáng đầy hy vọng, tin tưởng.

Việc đưa nghệ thuật miêu tả tâm trạng, cảm xúc của nhân vật không phải ai cũng thể hiện đặc biệt như Kim Lân. Giản dị, nhẹ nhàng không chút phô trương trong từng lớp ngôn từ, khẽ chạm đến người đọc, truyền tải hết nội dung nhà văn đã thể hiện. Dù là nạn đói nhưng tư tưởng nhân đạo được lồng vào tác phẩm một cách tình cờ mà rất ý nghĩa, nhân văn.

Đọc nhiều hơn 🌻 Phân Tích Nhân Vật Tràng 🌻 15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất

Bài Văn Phân Tích Tràng Sau Khi Có Vợ Đặc Sắc – Mẫu 5

Chia sẻ dưới đây bài văn phân tích Tràng sau khi có vợ đặc sắc với những ý văn phân tích sâu sắc và góc nhìn đa chiều về nhân vật.

Kim Lân là nhà văn có sở trường về những người nông dân, nông thôn trong đó nổi tiếng nhất phải kể tới tác phẩm Vợ nhặt. Vợ nhặt là bức tranh chân thực về nạn đói năm 1945, thế nhưng, giữa sự lay lắt đói khát ấy, người ta lại thấy le lói thứ ánh sáng của sự yêu thương, đùm bọc, của sự san sẻ, khát khao hạnh phúc cùng hướng về sự sống của con người. Thông qua hình tượng nhân vật Tràng, ta có thể thấy được vẻ đẹp của tình thương cùng sức sống mãnh liệt bên trong con người trong nạn đói.

Vợ nhặt được in trong tập Con chó xấu xí năm 1962, nghĩa là sau nạn đói 1945 không lâu. Thiên truyện là sự dung hòa của giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo, tất cả được biểu hiện qua nhân vật Tràng.

Nói tới Tràng, người ta nhắc tới một con người mà cả ngoại hình hay tính cách, gia cảnh đều thuộc hạng “cùng đinh”. Về ngoại hình, người ta thấy Tràng là một anh chàng vừa thô kệch vừa xấu xí “cái mặt thô kệch”, “đôi mắt nhỏ tí”, “thân hình to lớn vập vạp”, “cái lưng to rộng như lưng gấu”.

Không chỉ thế, Tràng còn là người dân xóm ngụ cư sống bằng nghề kéo thóc thuê, ngôi nhà của mẹ con Tràng lụp xụp, rách nát xung quanh mọc đầy cỏ dại . Đến tài ăn nói, Tràng cũng không có, Tràng chỉ biết nói thô lỗ, cộc cằn, lại còn cái tật “vừa đi vừa nói”, “lảm nhảm những điều hắn nghĩ”. Với những điều này, thật khó để Tràng có được một người vợ ngay cả trong điều kiện thường, càng trở nên xa vời khi nạn đói xảy ra.

Thế nhưng, cuộc đời không khỏi có những bất ngờ, Tràng nghèo đến vậy, lại xấu xi đến thế, lại đang giữa những năm tháng đói khát ấy thế mà Tràng lại có “vợ”, thậm chí là “nhặt” được vợ. Thật quá bất ngờ! Kim Lân đã khéo léo dựng lên một tình huống éo le nhưng cũng thật bất ngờ, rất hợp lý, bao hàm cả giá trị nhân đạo và giá trị nội dung sâu sắc. Đây chính là sự yêu thương mà Kim Lân dành đến cho những người nông dân nghèo, những người lao động chất phác.

Sáng hôm sau khi có vợ, hắn tỉnh dậy khi “mặt trời lên bằng con sào”, thế nhưng, hắn không thấy sự mệt mỏi mà chỉ thấy “trong người êm ái, lơ lửng như người vừa ở trong giấc mơ đi ra”. Niềm hạnh phúc với hắn dường như vẫn còn mơ hồ, niềm vui có vợ, có gia đình khiến hắn “vẫn còn ngỡ ngàng như không phải”.

Lần đầu tiên Tràng nhận ra ngôi nhà của mình thực sự là một mái ấm chở che cuộc đời con người, hắn chợt thấy mình có trách nhiệm hơn, trở nên thâm trầm sâu sắc hơn “Bỗng nhiên hắn thấy cần có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”. Từ bao giờ, Tràng đã nghĩ tới những việc xa hơn, có con cái, có gia đình êm ấm, hạnh phúc? Điều ấy càng khiến trong lòng hắn vui hơn bao giờ hết!

Bữa cơm đầu tiên của nhà ba người, hắn bỗng trở thành đứa con ngoan khi bà cụ Tứ nhắc tới tương lai, một tương lai mà họ có đàn gà, tương lai sáng sủa, tốt đẹp hơn. Lúc ấy, “Tràng chỉ vâng. Tràng vâng rất ngoan ngoãn. Chưa bao giờ trong nhà này mẹ con lại đầm ấm , hoà hợp như thế”.

Sự xuất hiện của Thị trong đời Tràng đã biến đổi con người hắn, biến hắn trở thành một người con ngoan, một người chồng có trách nhiệm. Mặc dù là bữa cơm đầu của người con dâu, thể nhưng cùng chỉ là cháo loãng, là món “chè khoán” bằng “cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ”.

Tiếng trống thúc thuế vọng lại khiến Tràng giật mình, hắn “thần mặt ra nghĩ ngợi” khi thấy vợ nói rằng “ở mạn Thái Nguyên, Bắc Giang, người ta không chịu đóng thuế nữa đâu”. Hắn cũng nghĩ tới những người đi phá kho thóc Nhật mà hắn đã từng gặp trên đường đi kéo thóc, “tự dưng hắn thấy ân hận, tiếc rẻ vẩn vơ, khó hiểu”. Đây phải chăng là những nhem nhó đầu tiên của ý thức Cách mạng mà Kim Lân muốn đưa vào trong tác phẩm của mình?

Kim Lân đã dựng lên hình tượng người lao động nghèo trong nạn đói 1945 vô cùng xuất sắc. Ông đã tái hiện bức tranh chân thực nhất về nạn đói khiến hai triệu đồng bào ta phải chết, những người sống phải vật vờ như những bóng ma. Diễn biến nhân vật Tràng cũng được thể hiện rất sinh động, rất chân thật.

Tràng là nhân vật điển hình cho những người lao động nghèo trong nạn đói 1945. Họ nghèo đói về vật chất, nhưng không hề nghèo đói về tình thương. Họ sẵn sàng san sẻ cho người khác, đùm bọc những người yếu đuối hơn để cùng nhau hướng tới một tương lai tươi sáng hơn.

Tiếp tục tham khảo 💧 Cảm Nhận Về Nhân Vật Tràng Trong Vợ Nhặt 💧 15 Bài Hay

Bài Phân Tích Nhân Vật Tràng Sau Khi Lấy Được Vợ Chọn Lọc – Mẫu 6

Tham khảo bài phân tích nhân vật Tràng sau khi lấy được vợ chọn lọc dưới đây để có  thêm cho mình những ý tưởng làm bài phong phú hơn.

“Vợ Nhặt” là truyện ngắn được trích trong tập truyện “Xóm ngụ cư” của nhà văn Kim Lân. Câu chuyện kể về nhân vật anh cu Tràng một người nông dân hiền lành chất phác trong nghịch cảnh lại có được hạnh phúc lứa đôi. Không chỉ xây dựng nhân vật thành công qua nét tính cách và ngoại hình, Kim Lân còn khắc họa rất thành công diễn biến tâm trạng của nhân vật này. Đặc biệt thông qua đoạn trích sau khi Tràng lấy cô thị về làm vợ:

“…Sáng hôm sau, mặt trời lên bằng con sào, Tràng mới trở dậy. Trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra. Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải.
(….)
Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này. Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà…”.

Vợ Nhặt được lấy bối cảnh từ nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu 1945 khi mà đất nước ta có đến 2 triệu người chết đói. Nhân dân ta chịu cảnh áp bức một cổ hai tròng. Ở miền Bắc, phát xít Nhật bắt dân ta phải nhổ lúa trồng đay. Thực dân Pháp thì ra sức vơ vét thóc gạo của người nông dân.

Hậu quả là đến cuối năm 1945, người dân rơi vào thảm cảnh bi thương khi hàng triệu người bị chết đói. Đây được xem là nạn đói lớn nhất trong lịch sử. Nhưng kì lạ thay ngay cả trong hoàn cảnh đói khát tăm tối nhất khi người ta cận kề bên miệng vực của cái chết thì những con người lao động Việt Nam vẫn lạc quan hướng về tương lai hạnh phúc hơn.

Nhân vật Tràng trong truyện ngắn được miêu tả là một gã trai nghèo khổ. Nghèo đến tột cùng cái nghèo đấy được thể hiện qua “chiếc áo nâu tang”, ngôi nhà thì “vắng teo đứng rúm ró bên mảnh vườn mọc lổm ngổm những búi cỏ dại”. Và Tràng chỉ là một gã kéo xe bò thuê. Đến cái tên của hắn cũng thể hiện sự thô kệch nghèo khó.

Ngòi bút của Kim Lân đã khắc họa nhân hình của Tràng một cách rất sống động: “hai mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạnh ra”. Bộ mặt thô kệch, thân hình to lớn, vạm vỡ, cái đầu thì trọc lốc… Dưới ngòi bút của Kim Lân, hắn chỉ như một bức chân dung vẽ vội một hình hài được tạo hóa đẽo gọt quá ư sơ sài, cẩu thả.

Không chỉ xấu xí mà cái sự nghèo khổ còn khiến cho hắn bị dở tính có tật “vừa đi vừa nói”. Hắn hay “lảm nhảm than thở những điều hắn nghĩ” thỉnh thoảng còn “ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch”.

Trong cái cơn thóc cao gạo kém đó, một người vừa xấu xí lại nghèo như Tràng không ai có thể hình dung được là hắn có thể có vợ. Mà hoàn cảnh lấy được vợ cũng hết sức thú vị. Hắn nhặt được vợ trên đường đi đẩy xe bò trở thóc về nhà. Thị đã theo hắn về nhà sau lời mời chào tưởng như bông đùa và bốn bát bánh đúc ở chợ huyện.

Kim Lân đã dành rất nhiều trường đoạn để miêu tả diễn biến của nhân vật Tràng sau khi nhặt được vợ. Đầu tiên khi nghe những lời hàng xóm xì xầm, bàn tán chê bai:”chao ôi, thời buổi nào còn rước cái của nợ ấy về, có nuôi nổi nhau sống qua ngày không?” Nhưng Tràng nghe thấy thế cũng chỉ “Chậc. Kệ” giờ đây hắn chỉ còn “tình nghĩa với người đàn bà đi kế bên”. Hắn tủm tỉm cười hai mắt sáng lấp lánh mơ về niềm hạnh phúc tương lai.

Buổi sáng hôm sau khi Tràng thức dậy tâm trạng của hắn thực sự thay đổi. Niềm vui lâng lâng trong người khi hắn nhìn thấy nhà cửa dọn sạch sẽ tinh tươm. Mẹ hắn đang nhổ cỏ vườn. Vợ đang quét sân tiếng chổi vang lên đều đều. Bỗng nhiên, hắn cảm thấy yêu thương gắn bó với cái nhà của hắn một cách lạ lùng. Thế là từ đây hắn đã có một gia đình, hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đây. Cái nhà sẽ trở thành nơi che mưa che nắng cho vợ chồng hắn.

Một nguồn sung sướng và phấn chấn dâng lên trong lòng Tràng. Lúc này, Tràng cũng biết bổn phận của người đàn ông trong gia đình cần lo lắng cho vợ. Hắn cũng chạy xăm xăm ra giữa sân và tham dự vào một phần giúp tu sửa căn nhà. Chỉ trong một đoạn văn ngắn ngủi mà Kim Lân đã lột tả được tâm trạng của nhân vật Tràng. Từ bất ngờ, bỡ ngỡ cho đến hạnh phúc tột cùng khi biết mình đã có gia đình.

Hình ảnh đoàn người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới hiện lên trong đầu Tràng đã gợi ra sự thay đổi trong nhận thức của nhân vật Tràng. Qua hình ảnh ấy đã mang cho người đọc một niềm tin rằng một ngày nào đó anh Tràng sẽ đi theo cách mạng, theo đoàn người đói để đứng lên đấu tranh, đổi thay cuộc sống.

Thông qua đoạn trích trên ta thấy nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật đặc sắc của nhà văn Kim Lân. Với những ngôn từ mộc mạc, giản dị đậm chất nông thôn có thêm sự gia công sáng tạo của nhà văn. Cùng lối kể chuyện hấp dẫn sinh động giúp chúng ta hiểu thêm phần nào về nhân vật anh cu Tràng. Một người nông dân tuy sống trong hoàn cảnh nghèo khó, khổ cực nhưng chưa bao giờ từ bỏ mơ ước về một cuộc sống hạnh phúc sau này. Đó chính là tư tưởng nhân đạo được nhà văn khéo léo lồng ghép vào trong tác phẩm.

Nhiều năm tháng qua đi nhưng hình ảnh anh Tràng với những đức tính tốt đẹp vẫn gây ấn tượng sâu sắc trong lòng nhiều thế hệ bạn đọc. Đồng thời, nhà văn Kim Lân cùng tác phẩm Vợ nhặt đã góp phần xây dựng nền văn học Việt Nam giàu đẹp và ý nghĩa hơn.

Ngoài ra, tại SCR.VN còn có 🌺 Phân Tích Nhân Vật Tràng Sáng Hôm Sau 🌺 14 Mẫu Hay Nhất

Văn Mẫu Phân Tích Tâm Trạng Tràng Sau Khi Có Vợ – Mẫu 7

Tham khảo bài phân tích nhân vật Tràng sau khi lấy được vợ chọn lọc dưới đây để có thêm cho mình những ý tưởng làm bài phong phú hơn.

Kim Lân thuộc hàng những cây bút truyện ngắn tài năng của văn học Việt Nam hiện đại. Ông thường viết về nông thôn và những con người dân quê, lam lũ hồn hậu, chất phác mà giàu tình yêu thương. Vợ nhặt là một trong những sáng tác tiêu biểu của ông. Tác phẩm đã khắc hoạ thành công nhân vật Tràng, một người lao động nghèo khổ nhưng giàu tình yêu thương, luôn khao khát hạnh phúc gia đình giản dị, biết hướng tới tương lai tươi đẹp.

Kim Lân rất am hiểu nông thôn và đời sống của nhân dân nên ông có những trang viết sâu sắc, cảm động. Truyện Vợ nhặt rút từ tập Con chó xấu xí) được coi là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân. Thiên truyện có một quá trình sáng tác khá dài. Nó vốn được rút ra từ tiểu thuyết Xóm ngụ cư (cuốn tiểu thuyết viết dang dở ở thời kì trước Cách mạng). Hoà bình lập lại, Kim Lân viết lại. Vợ nhặt mang dấu ấn của cả một quá trình nghiền ngẫm lâu dài về nội dung và chiêm nghiệm kĩ lưỡng về nghệ thuật.

Trong truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân bộc lộ một quan điểm nhân đạo sâu sắc của mình. Nhà văn phát hiện ra vẻ đẹp kì diệu của người lao động trong sự túng đói quay quắt, trong bất kì hoàn cảnh khốn khổ nào, con người vẫn vượt lên cái chết, hướng về cuộc sống gia đình, vẫn yêu thương nhau và hi vọng vào ngày mai. Tiêu biểu cho những con người đó là nhân vật Tràng.

Tràng được khắc hoạ nổi bật trong bối cảnh ngày đói vô cùng thê thảm ở nông thôn Việt Nam do thực dân Pháp và phát xít Nhật gây ra năm 1945. Những người năm đói được miêu tả với “khuôn mặt hốc hác u tối”, “Những gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma”, và “bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma”.

Trong không gian của thế giới ngổn ngang người sống kẻ chết ấy, tiếng quạ “gào lên từng hồi thê thiết” cùng với “mùi gây của xác người” càng tô đậm cảm giác tang tóc thê lương. Cái đói huỷ diệt cuộc sống tới mức khủng khiếp. Trong một bối cảnh như thế Kim Lân đặt vào đó một mối tình thật là táo bạo, dở khóc, dở cười giữa Tràng và Thị, một mối duyên bắt nguồn từ bốn bát bánh đúc giữa ngày đói.

Kim Lân đã tạo nên một tình huống độc đáo: Tràng nhặt được vợ để từ đó làm nổi bật khao khát hạnh phúc, tình yêu thương, cưu mang đùm bọc lẫn nhau của những con người đói. Ngay cái nhan đề Vợ nhặt đã bao chứa một tình huống như thế: nhặt tức là nhặt nhạnh, nhặt vu vơ. Trong cảnh đói năm 1945, người dân lao động dường như khó ai thoát khỏi cái chết, giá trị một con người thật vô cùng rẻ rúng, người ta có thể có vợ theo, chỉ nhờ có mấy bát bánh đúc ngoài chợ.

Như vậy thì cái thiêng liêng (vợ) đã trở thành rẻ rúng (nhặt). Nhưng tình huống truyện còn có một mạch khác: chủ thể của cái hành động “nhặt” kia là Tràng, một gã trai nghèo, xấu xí, dân ngụ cư, đang thời đói khát mà đột nhiên lấy được vợ, thậm chí được vợ theo thì quả là điều lạ. Lạ tới mức nó tạo nên hàng loạt những kinh ngạc cho hàng xóm, bà cụ Tứ – mẹ Tràng và chính bản thân Tràng nữa. Tình huống truyện trên đã khơi ra mạch chảy tâm lí cực kì tinh tế ở mỗi nhân vật, đặc biệt là Tràng.

Anh cu Tràng cục mịch, khù khờ, bỗng nhiên trở thành người thực sự hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc lớn quá, đột ngột quá, khiến Tràng rất đỗi ngỡ ngàng “đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?”. Rồi cái ngỡ ngàng trước hạnh phúc kia cũng nhanh chóng đẩy thành niềm vui hữu hình cụ thể. Đó là niềm vui về hạnh phúc gia đình – một niềm vui giản dị nhưng lớn lao không gì sánh nổi.. Chàng thanh niên nghèo khó “Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng.

Mặc dù người vợ được hắn nhặt về, nhưng Tràng không hề rẻ rúng, khinh miệt thị. Trái lại, Tràng vô cùng trân trọng, coi chuyện lấy thi là một điều nghiêm túc. Khát vọng mái ấm gia đình đã khiến Tràng vượt qua lo lắng về cái đói ” đến thân còn chẳng lo nổi, lại còn đèo bòng”. Tràng chậc lưỡi ” kệ” cái đói, mua cho thị cái thúng con, vài xu dầu và dẫn thị về căn nhà lụp xụp rách nát của mẹ con mình. Tràng hồi hộp chờ câu đồng ý chấp thuận của bà cụ Tứ.

Buổi sáng hôm sau, Tràng thấy khoan khoái như người từ trong giấc mơ đi ra. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Đó là một điều thật bình dị nhưng có ý nghĩa vô cùng lớn lao trong cuộc đời Tràng. Hắn thấy hắn nên người. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng”. Một niềm vui thật cảm động, lẫn cả hiện thực lẫn giấc mơ.

Chi tiết: “Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà” là một đột biến quan trọng, một bước ngoặt đổi thay cả số phận lẫn tính cách của Tràng: từ khổ đau sang hạnh phúc, từ chán đời sang yêu đời, từ ngây dại sang ý thức. Tràng đã có một ý thức bổn phận sâu sắc: “hắn thấy hắn có bổn phận lo lắng cho vợ con sau này”. Tràng thật sự “phục sinh tâm hồn” đó là giá trị lớn lao của hạnh phúc.

Câu kết truyện “Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phớichứa đựng bao sức nặng về nghệ thuật và nội dung cho thiên truyện. Hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng là tín hiệu thật mới mẻ về một sự đổi thay xã hội rất lớn lao, có ý nghĩa quyết định với sự đổi thay của mỗi số phận con người. Đây là điều mà các tác phẩm văn học hiện thực giai đoạn 1930 – 1945 không nhìn thấy được. Nền văn học mới sau Cách mạng tháng tám đã đặt vấn đề và giải quyết vấn đề số phận con người theo một cách khác, lạc quan hơn, nhiều hi vọng hơn.

Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân, là tác phẩm giàu giá trị hiện thực, nhân đạo ; là bài ca về tình người ở những người nghèo khổ, ca ngợi niềm tin bất diệt vào tương lai tươi sáng của con người. Truyện xây dựng thành công hình tượng nhân vật Tràng, một người lao động nghèo khổ mà ấm áp tình thương, niềm hi vọng, lạc quan qua cách dựng tình huống truyện và dẫn truyện độc đáo, nhất là ngòi bút miêu tả tâm lí tinh tế, khiến tác phẩm mang chất thơ cảm động và hấp dẫn.

Có thể bạn sẽ thích 🌼 Phân Tích Nhân Vật Bà Cụ Tứ 🌼 17 Mẫu Phân Tích Tâm Trạng Hay

Cảm Nhận Về Tâm Trạng Của Tràng Sau Khi Có Vợ Luyện Viết – Mẫu 8

Tài liệu văn cảm nhận về tâm trạng của Tràng sau khi có vợ luyện viết dưới đây sẽ mang đến cho các em học sinh những gợi ý làm bài đặc sắc.

Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân ban đầu có tên là Xóm ngụ cư. Truyện được Kim Lân viết sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, nhưng mãi đến khi hòa bình lập lại (1954), Kim Lân mới sửa lại và đưa in chính thức. Truyện ngắn Vợ nhặt vừa tố cáo xã hội đẩy con người đến nạn đói khủng khiếp, khiến mạng người trở nên rẻ rúng như rơm rác; vừa có ý nghĩa nhân bản sâu sắc.

Trong truyện ngắn này, nhà văn Kim Lân muốn nói với chúng ta một vấn đề, đó là người dân lao động trong bất kì tình huống nào cũng khao khát tình yêu thương, khao khát hạnh phúc gia đình và vẫn tin vào cuộc sống tương lai Tràng là hình tượng nhân vật trung tâm của câu truyện, thể hiện khá sâu sắc chủ đề của truyện ngắn này.

Truyện ngắn Vợ nhặt kể về một người đàn ông nghèo khổ, cơ cực ở xóm ngụ cư tên là Tràng. Một buổi chiều kia trong không khí thê lương, ảm đạm “vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”, bởi “người chết như ngả rạ” vì đói khát, Tràng dẫn về một người phụ nữ. Đó là vợ anh – người vợ mà Tràng nhặt được trong cảnh đói kém, do mời ăn bốn bát bánh đúc, kèm theo lời nói đùa vui mà thuận theo anh về nhà, làm vợ anh.

Bà cụ Tứ – mẹ Tràng – lúc đầu không ngờ con lấy vợ nên không hiểu người đàn bà ở trong nhà mình là ai, vì bà cụ nghĩ tình cảnh con mình làm sao lấy được vợ, nhất là giữa nạn đói khủng khiếp này. Nhưng khi biết con mình “nhặt” được vợ về thì lòng bà mẹ nchèo khổ “hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự”: buồn lo, tủi cực, ai oán xót thương. Bà cụ thương con nên cũng thương dâu. Bà đã nhận người đàn bà ấy làm con dâu trong nỗi đau đớn và thương cảm. Để động viên hai con, bà nói toàn về những chuyện vui.

Tràng đã tìm thấy niềm vui, niềm hạnh phúc bên người “vợ nhặt” của mình. Khuôn mặt của Tràng bây giờ tươi tỉnh hẳn lên “hắn cười khì khì” mặc dù cái đêm đầu tiên với người “vợ nhặt” ấy đi qua trong “tiếng hờ khóc tỉ tê” và “diều quạ trên mấy cây ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết” như tiếng gọi của thần chết. Và sáng ra, Tràng “bỗng vừa chợt nhận ra xung quanh mình cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ. Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ, gọn gàng…”.

Tràng nhìn người mẹ đang lúi húi giẫy cỏ, nhìn vợ quét lại cái sân. Cảnh tượng thật đơn giản, bình thường nhưng đã gợi lên trong lòng Tràng một sự thấm thía cảm động. Tràng như chợt hiểu ra thế nào là hạnh phúc? Trong lòng Tràng lại dậy lên một lòng yêu thương, gắn bó với người vợ Tràng, với gia đình Tràng.

Tràng lại nghĩ về tương lai và thấy rõ cái bổn phận và trách nhiệm của mình trong việc tạo lập cuộc sống hạnh phúc cho tương lai: “Bỗng nhiên hắn thấy hắn yêu thương, gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưu che nắng. Một niềm vui sướng phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bốn phận lo lắng cho vợ con sau này…”.

Bữa ăn ngày đói trông thật thảm hại, chỉ có lưng bát cháo và món “chè đặc biệt” – miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ. Tràng cảm thấy một nỗi xót xa tủi hờn len vào trong tâm trí, nhưng rồi “trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phất phới”. Điều đó cho ta thấy dù trong hoàn cảnh khó khăn, đói kém, niềm khao khát về một cuộc sống hạnh phúc gia đình vẫn không hề mờ đi trong tâm hồn Tràng và vẫn bùng lên mãnh liệt.

Tóm lại, Tràng là hình tượng nhân vật trung tâm của truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân. Tràng là nhân vật điển hình cho người nông dân lao động nghèo khổ, dù bất cứ trong hoàn cảnh đen tối nào vẫn luôn luôn khao khát một cuộc sống hạnh phúc gia đình và tin vào cuộc sống ở tương lai.

Kim Lân đã khá thành công khi xây dựng hình tượng nhân vật Tràng. Ông đã miêu tả tâm lí nhân vật thật sâu sắc. Ông đã đi sâu vào bên trong tâm hồn của mỗi nhân vật trong truyện nói chung và đối với nhân vật Tràng nói riêng, để phát hiện và mô tả những tình tiết cảm động và khát vọng mãnh liệt của những con người nghèo khổ về một cuộc sống hạnh phúc. Những tình tiết xoay quanh hình tượng nhân vật Tràng được nhà văn sắp xếp một cách chặt chẽ hợp lí, tập trung biểu hiện rõ chủ đề của câu chuyện.

Vợ nhặt là một trong những truyện ngắn khá thành công của Kim Lân. Truyện vừa có giá trị hiện thực, vừa có giá trị nhân đạo sâu sắc.

Đón đọc tuyển tập 🍀 Cảm Nhận Về Nhân Vật Người Vợ Nhặt 🍀 12 Bài Văn Hay Nhất

Viết một bình luận