Phân Tích Nhân Vật Mị Trong Đêm Tình Mùa Xuân [39+ Mẫu Văn Hay Nhất]

Phân Tích Nhân Vật Mị Trong Đêm Tình Mùa Xuân ❤️️ 39+ Mẫu ✅ Tham Khảo Tuyển Tập Bài Văn Đặc Sắc Phân Tích Nhân Vật Giúp Bạn Học Tốt Ngữ Văn 12.

NỘI DUNG BÀI VIẾT

Dàn Ý Phân Tích Nhân Vật Mị Trong Vợ Chồng A Phủ

Lập dàn ý phân tích nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ sẽ giúp các em học sinh định hướng cho mình bố cục và luận điểm của bài viết. Tham khảo mẫu phân tích nhân vật Mị dàn ý chi tiết như sau:

I. Mở bài phân tích nhân vật Mị:

  • Tô Hoài là nhà văn nhạy cảm với cảnh sinh hoạt, phong tục tập quán của những vùng miền, ông có vốn ngôn ngữ phong phú, lối trần thuật tự nhiên.
  • Vợ chồng A Phủ là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách của Tô Hoài, truyện viết về những con người Tây Bắc tiềm tàng sức sống đã vùng lên đấu tranh chống lại bọn thống trị.
  • Nhân vật Mị là biểu tượng đẹp cho sức sống tiềm tàng của người phụ nữ bị áp bức.

II. Thân bài phân tích nhân vật Mị:

  1. Phân tích phẩm chất tốt đẹp của nhân vật Mị trước khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra:
  • Mị là cô gái người Mông trẻ trung, hồn nhiên, có tài thổi sáo “thổi lá cũng hay như thổi sáo có biết bao nhiêu người mê”
  • Mị đã từng yêu, từng được yêu, luôn khao khát đi theo tiếng gọi của tình yêu.
  • Hiếu thảo, chăm chỉ, ý thức được giá trị cuộc sống tự do nên sẵn sàng làm nương ngô trả nợ thay cho bố.
  1. Phân tích nhân vật Mị là nạn nhân của những áp bức bất công:
  • Khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra: bị “cúng trình ma” nhà thống lí, làm con dâu gạt nợ, bị bóc lột sức lao động, “không bằng con trâu con ngựa”, “đàn bà trong cái nhà này chỉ biết vùi đầu vào công việc” , bị đày đọa nơi địa ngục trần gian, bị đánh, bị phạt, bị trói, …
  • Mị dần trở nên chai sạn với nỗi đau: một cô gái lúc nào cũng vậy dù quay sợi, thái cỏ ngựa, … đều cúi mặt “mặt buồn rười rượi”, không quan tâm đến thời gian “lỗ vuông bằng bàn tay …không biết là sương hay nắng”.
  • Mị sống lầm li “như con rùa nuôi trong xó cửa”, “ở lâu trong cái khỏ Mị quen rồi”.
  1. Phân tích sức sống tiềm tàng trong nhân vật Mị:

-Khi bị rơi vào cảnh làm con dâu gạt nợ: Mị có ý định tự tử bằng lá ngón, không chấp nhận cuộc sống mất tự do.

-Trong đêm hội mùa xuân ở Hồng Ngài, sức sống của Mị đã trỗi dậy:

  • Âm thanh cuộc sống bên ngoài (tiếng trẻ con chơi quay, tiếng sáo gọi bạn tình, ..) ùa vào tâm trí, đánh thức những kỉ niệm trong quá khứ của Mị.
  • Mị lẩm nhẩm lời bài hát, trong khoảnh khắc tâm hồn trở về với thanh xuân tươi đẹp, khao khát tình yêu hạnh phúc.
  • Mị ý thức được sự tồn tại của bản thân “thấy phơi phới trở lại”, “Mị còn trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”, với khát khao tự do
  • Tinh thần phản kháng mạnh mẽ: lấy miếng mỡ để thắp sáng lên căn phòng tối, nổi loạn muốn “đi chơi tết” chấm dứt sự tù đày.
  • Khi A Sử trói, lòng Mị vẫn lửng lơ theo tiếng sáo, tiếng hát của tình yêu đến những đám chơi. Lúc vùng dậy cô chợt tỉnh trở về với hiện thực.
  • Nhận xét: Mị luôn tiềm tàng sức sống mãnh liệt, sức sống ấy luôn âm ỉ trong lòng người con gái Tây Bắc và chỉ chờ có cơ hội để bùng lên mạnh mẽ.

-Khi A Phủ làm mất bò, bị phạt trói đứng:

  • Ban đầu Mị dửng dưng bởi sau đêm tình mùa xuân, cô trở lại là cái xác không hồn.
  • Khi thấy giọt nước mắt của A Phủ khiến Mị đồng cảm, chợt nhớ đến hoàn cảnh của mình trong quá khứ, Mị lại biết thương mình và thương cho kiếp người bị đày đọa “có lẽ ngày mai người kia sẽ chết, chết đau, … phải chết”.
  • Bất bình trước tội ác của bọn thống lí, Mị cắt dây đay cởi trói cho A Phủ
  • Mị sợ cái chết, sợ nỗi khổ sẽ phải gánh chịu trong nhà thống lí, cô chạy theo A Phủ tìm lối thoát vượt ra khỏi địa ngục trần gian.
  • Nhận xét: Mị là người con gái lặng lẽ mà mạnh mẽ, tiềm tàng sức sống, hành động của Mị đã đạp đổ cường quyền, thần quyền của bè lũ thống trị miền núi.

III. Kết bài phân tích nhân vật Mị:

  • Nêu suy nghĩ về hình tượng nhân vật Mị.
  • Nghệ thuật: ngôn ngữ, cách nói đậm chất miền núi, lối trần thuật linh hoạt với sự dịch chuyển điểm nhìn trần thuật, miêu tả thành công tâm lí nhân vật và hình ảnh thiên nhiên.
  • Tác phẩm chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc: sự cảm thông với số phận đau khổ của những con người chịu áp bức, tố cáo lên án bọn thống trị miền núi, bọn thực dân, ngợi ca vẻ đẹp, sức sống tiềm tàng trong mỗi con người Tây Bắc.

Cùng với phân tích nhân vật Mị, tặng bạn 🌹 Sơ Đồ Tư Duy Vợ Chồng A Phủ 🌹 13 Mẫu Vẽ Tóm Tắt Hay

Dàn Ý Đêm Tình Mùa Xuân Của Mị Ngắn Nhất

Với khai viết bài văn phân tích nhân vật Mị trong truyện Vợ chồng A Phủ, các em học sinh có thể tham khảo định hướng làm bài với dàn ý đêm tình mùa xuân của Mị ngắn nhất dưới đây:

I. Mở bài phân tích nhân vật Mị:

Giới thiệu về tác giả tác phẩm và đối tượng cần phân tích – hình ảnh nhân vật mị trong đêm tình mùa xuân.

II. Thân bài phân tích nhân vật Mị:

  • Mị vốn là cô gái xinh đẹp, giàu lòng yêu thương và tràn trề sức sống nhưng xã hội phong kiến đã vùi dập nàng, Mị phải trở thành con nợ trong nhà thống lý.
  • Có những lúc tưởng chừng như Mị muốn kết liễu cuộc đời mình bởi sự khốn cùng ấy
  • Tình yêu cuộc sống, sức sống tiềm tàng trong Mị đang âm ỷ trong lòng
  • khi nghe tiếng sáo gọi bạn tình nơi đầu vách núi vọng lại , tâm hồn Mị dường như được tưới lên một sức sống
  • Mị tìm đến hơi rượu ” Mị uống ừng ực từng bát
  • Mị lấy ống mỡ sẵn bỏ thêm vào đĩa dầu
  • Bao nỗi tươi đẹp của quá khứ hiện về trong Mị
  • Những hành động thể hiện cho khát khao của Mị: “Mị quấn lại tóc, với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”
  • Mị đang vùng vẫy hết mình để đấu tranh cho quyền sống và quyền tự do của đời mình.
  • Thực tại phũ phàng Mị vẫn không thể tránh khỏi khi bóng dáng tên chồng vô lương tâm A Sử

III. Kết bài phân tích nhân vật Mị:

Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Nêu cảm nhận về nhân vật Mị.

Bên cạnh phân tích nhân vật Mị, khám phá thêm 💕 Tóm Tắt Vợ Chồng A Phủ 💕 16 Bài Tóm Tắt Tác Phẩm Hay

Phân Tích Mị Trong Vợ Chồng A Phủ – Mẫu 1

Phân tích Mị trong Vợ chồng A Phủ là nhân vật trọng tâm của tác phẩm mà các em học sinh cần ôn tập kỹ lưỡng. Tham khảo bài văn mẫu phân tích về nhân vật Mị sau đây:

Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn xuất sắc nhất của nhà văn Tô Hoài trong giai đoạn sáng tác sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Nội dung kể về cuộc đời đầy biến cố của đôi vợ chồng trẻ người Mông là Mị và A Phủ trong chế độ thực dân, phong kiến.

Nhân vật Mị là một hình tượng nghệ thuật đặc sắc có ý nghĩa khái quát cao, tiêu biểu cho cuộc sống đau khổ, tủi nhục và quá trình vùng lên tự giải phóng của đồng bào miền núi Tây Bắc. Đoạn văn miêu tả diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm xuân với những tình tiết chân thực và cảm động đã thể hiện sức sống mãnh liệt cùng khao khát tình yêu cháy bỏng của Mị – người con gái xinh đẹp mà bất hạnh.

Mị mồ côi mẹ, ở với cha già. Vì đẹp người đẹp nết nên Mị được nhiều chàng trai trong vùng để mắt tới. Tương lai của cô lẽ ra sẽ tốt lành, yên ấm, nhưng chỉ vì món nợ truyền đời của cha mẹ mà Mị bị bắt về làm con dầu trừ nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Tuổi xuân của Mị đã bị A Sử, gã con trai xấc xược và hung bạo tước đoạt, giày xéo.

Quãng đời Mị sống trong nhà thống lí là chuỗi dài những đọa đày, tủi nhục. Tuy danh nghĩa là con dâu nhà quan lớn nhưng thực chất Mị chỉ là đầy tớ, nô lệ, bị coi rẻ hơn cả con trâu, con ngựa. Đau khổ, cực nhục đã cướp mất tuổi xuân của Mị, biến cô thành kẻ nhẫn nhịn và cam chịu. Lúc mới bị bắt về, Mị phản ứng quyết liệt, định ăn lá ngón tự tử, nhưng rồi thương xót cha già, Mị không đành lòng chết.

Đời Mị cứ thế lặng lẽ trôi đi. Cuộc sống không còn ý nghĩa. Cô sống mà như đã chết. Đau khổ triền miên đã làm cho Mị hóa thờ ơ, lạnh lùng. Mọi cảm xúc trong cô dường như đã chai lì. Tuy nhiên, khát vọng sống trong Mị chưa hoàn toàn lụi tắt. Trong Mị luôn tồn tại hai con người tưởng chừng đối lập: Con người bên ngoài lạnh lùng vô cảm và con người bên trong có sức sống âm thầm nhưng mãnh liệt.

Tác giả lấy khung cảnh mùa xuân, đêm xuân làm nền cho diễn biến tâm trạng của Mị. Mùa xuân, đất trời tưng bừng màu sắc, rộn rã âm thanh, rất gần gũi với quãng đời hồn nhiên, vui vẻ ngày trước của Mị: Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp yên đầy các nhà kho. Trẻ con đi hái bí đỏ, tinh nghịch, đã đốt những lều canh nương để sưởi lửa.

Ở Hồng Ngài người ta thành lệ cứ ăn Tết khi gặt hái vừa xong, không kể ngày, tháng nào. Ăn Tết như thế cho kịp lúc mưa xuân xuống thì đi vỡ nương mới. Hồng Ngài năm ấy ăn Tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió vã rét rất dữ dội. Nhưng trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ… Đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà. Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi.

Đoạn văn tả cảnh mùa xuân trên vùng núi cao Tây Bắc với những hình ảnh đặc sắc sinh động và đầy sức sống. Màu sắc sặc sỡ của những chiếc váy hoa của các cô gái phơi trên các mỏm đá báo hiệu Tết đã đến gần. Tiếng cười ầm của đám trẻ con chơi quay trên sân chơi trước nhà. Tiếng sáo thổi réo rắt rủ bạn tình đi chơi. Tiếng chó sủa xa xa… Những đêm tình mùa xuân đã tới.

Sức sống tưng bừng của vạn vật mùa xuân đã làm cho tâm hồn Mị hồi sinh. Tâm trạng Mị lúc này pha trộn giữa nhiều cung bậc cảm xúc: vui sướng và đau khổ, tủi nhục đến mức muốn chết và khao khát sống. Những cảm xúc ấy đang trỗi dậy, cuộn xoáy, trào dâng trong lòng Mị.

Trong lúc trai gái và lũ trẻ con tụ tập đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi khèn trên sân chơi đầu bản thì Mị thiết tha bồi hồi khi nghe tiếng sáo gọi bạn tình từ đầu núi vọng lại. Mị nhẩm thầm bài hát quen thuộc mà thời con gái cô hay hát:

Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu.

Sau bao năm câm lặng trong đau khổ, có lẽ đây là lần đầu tiên người con dâu gạt nợ khe khẽ cất tiếng hát thầm. Cảnh vui xuân nhộn nhịp ở đầu bản và cảnh ăn Tết ồn ào trong nhà thống lí Pá Tra đã tác động mạnh tới tâm hồn Mị, khiến cô nhớ lại thời con gái chưa xa.

Lúc đầu, Mị hành động theo thói quen một cách vô thức: Ngày Tết, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát. Mị uống rượu mà như uống nỗi tủi hận, cay đắng vào lòng, hay là Mị cố tình uống thế cho thật say để quên đi nỗi khổ? Tuy nhiên, hành động ấy thể hiện một sự chuyển biến khác thường đang diễn ra trong tâm trạng người con gái đáng thương.

Bi kịch bắt đầu khi ý thức về bản thân của Mị đang trỗi dậy. Mị say rượu lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng, người hát Men rượu đánh thức nỗi nhớ về phần đời đã qua: Mị đang sống về ngày trước. Tiếng sáo gọi bạn tình văng vẳng bên tai Mị. Đấy là tiếng sáo của tình yêu rạo rực, của tuổi thanh xuân căng đầy sức sống.

Dường như lúc này, Mị không còn là con dâu gạt nợ nhà thống lí Pa Tra nữa mà là cô gái xinh đẹp đang uống rượu bên bếp lửa và thổi sáo: Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Bao kỉ niệm đẹp thời con gái sống dậy trong lòng Mị: Mị thổi sáo giỏi… có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị. Hồi tưởng về mùa xuân tươi đẹp thời con gái, điều đó cho thấy con người thật của Mị đang hồi sinh. Khát vọng sống như ngọn lửa đang bừng cháy trong tâm hồn Mị.

Diễn biến tâm trạng Mị rất phức tạp: Cô đang bị giằng xé bởi mâu thuẫn giữa thân phận tù túng của người con dâu gạt nợ và mong muốn được tự do đi chơi Tết của cô gái đang khao khát tự do và tình yêu. Liệu Mị có dám cắt đứt sợi dây oan nghiệt đang thít chặt lấy số phận mình để đến với những cuộc chơi vui vẻ, với tiếng sáo gọi bạn tình réo rắt du dương?!

Mải mê chìm đắm trong quá Khứ nên Mị tạm quên hiện tại: Rượu đã tan lúc nào. Người về, người đi chơi đã vãn cả. Mị không biết, Mị vẫn ngồi trơ một mình giữa nhà. Mãi sau, Mị mới đứng dậy, nhưng Mị không bước ra đường chơi Mị từ từ bước vào buồng. Tâm trạng Mị phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị nhận ra rằng mình vẫn còn trẻ, Mị muốn đi chơi.

Khát vọng sống như ngọn lửa bừng cháy trong lòng khiến Mị càng thêm một phẫn uất trước tình cảnh tủi nhục của mình. Bao nhiêu người có chồng mà vẫn đi chơi ngày Tết đấy thôi. A Sử với Mị không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau. Mị muốn ăn lá ngón cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Uất ức, nước mắt Mị ứa ra. Tiếng sáo gọi bạn vẫn lửng lơ bay ngoài đường :

Anh ném pao, em không bắt,
Em không yêu, quả pao rơi rồi…

Mị muốn quên thời con gái ngày trước mà không sao quên được. Tiếng sáo cứ lửng lơ trong đầu khiến cho Mị thiết tha bồi hồi.

Khi A Sử bất ngờ vào buồng để thay áo mới, tiếp tục đi rình bắt thêm con gái nhà người ta đem về làm vợ ; Mị lặng lẽ, thản nhiên xắn thêm miếng mỡ bỏ vào đĩa đèn cho sáng, quấn lại tóc, với tay lấy cái váy hoa, rút thêm cái áo. A Sử nhìn Mị, Mị không thèm nói một lời.

Những hành động “nổi loạn” diễn ra trong khi tiếng sáo đang rập rờn trong đầu Mị. Tiếng sáo gọi bạn tình như đem đến cho Mị một sức mạnh mới, khơi gợi khao khát yêu đương và hạnh phúc. Khi với tay lấy váy hoa… là Mị đã thực sự sống lại thời con gái với bao ước mơ tươi đẹp.

Mị đã bừng tỉnh; quá khứ, hiện tại đan xen trong tâm hồn Mị. Hiện tại thì tăm tối, ngột ngạt, mà tiếng sáo gọi bạn vẫn lơ lửng bay ngoài đường, đánh thức quá khứ đẹp đẽ chưa xa.

Những hành động khác thường của Mị đã bị A Sử trấn áp phũ phàng. Sau câu hỏi ngạc nhiên và giận dữ: Mày muốn đi chơi à ?, A sử trói Mị bằng cả một thúng sợi đay, quấn tóc lên cột làm cho Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa.

Không có một dòng nào miêu tả thái độ phản kháng của Mị. Suốt từ đầu đến cuối, Mị chỉ im lặng, âm thầm cam chịu. Tuy vậy, ẩn chứa bên trong lại là một cô Mị hoàn toàn khác, một cô Mị đang say mê sống với những kỉ niệm tình yêu. A Sử chỉ trói buộc được thể xác chứ không thể trói buộc được tâm hồn Mị.

Miêu tả diễn biến tâm trạng và hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân, Tô Hoài dường như đã nhập thân vào nhân vật. Trong bóng tối, Mị đứng im lặng như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu nồng nàn nâng đỡ tâm hồn Mị. Tai Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đảm chơi.

Tuy Mị chưa giải thoát được thể xác nhưng Mị đã giải thoát được tâm hồn: Lòng Mị bồi hồi theo tiếng sáo: Em không yêu, quả pao rơi rồi, Em yêu người nào, em bắt pao nào… Những vết dây trói đau nhức đưa Mị trở về với thực tại đau đớn, khổ nhục. Mị vùng bước đi. Nhưng tay chân đau không cựa được. Mị không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách… Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa.

Mị đang sống với con người bên trong của mình: Chừng đã khuya… Mị nín khóc, Mị lại bồi hồi nhớ đến thời điểm trai bản đến bên vách làm hiệu, rủ người yêu dỡ vách ra rừng chơi. Lúc này, thực tại và quá khứ cứ đan xen vào nhau, giằng xé tâm hồn Mị.

Càng nhớ tới kỉ niệm cũ, Mị càng xót xa, đau khổ, phẫn uất trước thực tại phũ phàng: Cả đêm ấy Mị phải trói đứng như thế. Lúc thì khắp người bị dây trói thít lại, đau nhức. Lúc lại nồng nàn tha thiết nhớ. Hơi rượu tỏa. Tiếng sáo. Tiếng chó sủa xa xa. Mị lúc mê, lúc tỉnh. Cho tới khi trời tang tảng rồi không biết sáng từ bao giờ.

Mị bàng hoàng tỉnh… Không một tiếng động. Mị thương những người đàn bà khốn khổ sa vào nhà quan… Đời người đàn bà lấy chồng nhà giàu ở Hồng Ngài thì một đời con người chỉ biết đi theo đuôi con ngựa của chồng. Mị chợt nhớ lại câu chuyện người ta vẫn kể: Đời trước, ở nhà thống lí Pá Tra có một người trói vợ trong nhà ba ngày rồi đi chơi, khi về nhìn đến thì vợ chết rồi. Nhớ thế, Mị sợ quá, Mị cựa quậy, xem mình còn sống hay chết, cổ tay, đầu, bắp chân bị dây trói siết lại, đau đứt từng mảnh thịt.

Như thế là cuộc trỗi dậy lần thứ nhất của Mị không thành. Mị không thể thoát khỏi địa ngục trần gian là nhà bố con tên thống lí, nhưng Mị không còn là con ngựa, con rùa lùi lũi nuôi trong xó cửa nữa. Mị đã sống lại những thời khắc của tuổi thanh xuân tươi trẻ và tự do.

Cuộc trỗi dậy ấy như một đợt sóng dâng lên rồi nhanh chóng tan ra, dù chưa làm thay đổi cuộc đời Mị nhưng những đợt sóng ngầm của cảm xúc đến lúc nào đó sẽ tuôn trào mãnh liệt mà bằng chứng là hành động Mị liều lĩnh cởi trói cứu A Phủ và cùng anh trốn khỏi Hồng Ngài.

Ở đoạn văn này, tác giả miêu tả hành động của Mị rất ít, nhưng người đọc vẫn bị cuốn hút bởi một con người đang từ cõi âm u mơ hồ trỗi dậy, có một sức sống tiềm tàng mà không một thế lực tàn ác nào vùi dập được. Không gian, thời gian, giọng kể chuyện của tác giả đều phù hợp với diễn biến phức tạp của tâm trạng Mị.

Tô Hoài đã dẫn dắt người đọc dõi theo tâm trạng ấy, khi thiết tha bồi hồi, khi nghẹn ngào xót xa! Đoạn văn miêu tả tâm trạng Mị trong đêm xuân thấm đẫm tính nhân văn, góp phần tô đậm tính cách nhân vật Mị; thể hiện một cách chân thật và cảm động giá trị hiện thực và tinh thần nhân đạo của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ.

Tiếp theo bài phân tích, mời bạn xem nhiều hơn 🌹 Tóm Tắt Nhân Vật Mị Trong Vợ Chồng A Phủ 🌹 12 Mẫu Ngắn Gọn

Phân Tích Nhân Vật Mị Ngắn Gọn Nhất – Mẫu 2

Với đề văn yêu cầu phân tích nhân vật Mị, các em học sinh sẽ cần tham khảo những bài văn mẫu hay. Chia sẻ dưới đây bài phân tích nhân vật Mị ngắn gọn nhất:

Tô Hoài là một nhà văn lớn, đóng góp nhiều thành tự cho văn học Việt Nam. Nếu như trước năm 1945, ông đánh dấu sự thành công với tập truyện “Dế Mèn phiêu lưu kí” thì sau năm 1945, tập “Truyện Tây Bắc” đã đưa tên tuổi của ông lên một tầm cao mới.

Tình cảm thiết tha, gắn bó, sâu sắc của Tô Hoài dành cho đất và con người Tây Bắc đã giúp ông viết nên những trang văn thấm đẫm tình yêu thương như thế. Truyện “Vợ chồng A Phủ” được trích trong tập Tây Bắc là câu chuyện tiêu biểu và mang nhiều giá trị tư tưởng lớn. Trong truyện, tác giả gửi gắm trọn vẹn nhất những tình cảm của mình vào nhân vật Mị, một cô gái đại diện cho vẻ đẹp và phẩm chất con người Tây Bắc.

Mị vốn là một người con gái tuổi đôi mươi của núi rừng Tây Bắc xinh đẹp và có tài thổi lá kèn hay như thổi sáo, được nhiều thanh niên trong làng mến mộ. Sức hấp dẫn của Mị tựa như những bông hoa rừng Tây Bắc đầy mê hoặc. Vào những đêm tình mùa xuân, trai bản đến đứng nhẵn cả vách đầu buồng Mị. Không chỉ xinh đẹp, ở nàng còn hội tụ những phẩm chất đẹp đẽ, đó là người con gái hiếu thảo với cha mẹ lại chăm chỉ trong công việc. Cuốc nương, làm rẫy Mị đều thuần thục.

Một cô gái tài sắc vẹn toàn như Mị xứng đáng được yêu thương, được hạnh phúc, nhưng Mị lại gặp phải hoàn cảnh trớ trêu. Bọn phong kiến tàn bạo đã khiến gia đình Mị lâm vào cảnh nợ nần chồng chất, gánh nặng phải trả nợ đè nặng lên đôi vai cô gái bé nhỏ. Song, chưa bao giờ Mị muốn phải bán mình để trả nợ, nàng cầu xin bố đừng bán cho nhà giàu, cô sẽ chăm chỉ làm nương, cuốc rẫy giúp bố trả nợ. Nhưng xã hội cường quyền lại không cho phép Mị sống cuộc đời tự do ấy.

Cuộc đời Mị phải chịu sự quyết định của kẻ khác, cuối cùng cô phải bán mình, bước chân vào nhà tên thống lí Pá Tra tàn ác chịu phận nô lệ trên danh nghĩa làm dâu xoá nợ. Một cô gái sẵn sàng hi sinh bản thân để cứu lấy cha mẹ, cứu lấy gia đình chứng tỏ Mị là cô gái hết mực hiếu thảo, yêu thương cha mẹ mình. Mị khát khao tự do, ý thức được nhân phẩm và giá trị bản thân nhưng cường quyền của chế độ phong kiến thối nát đã trói buộc cuộc đời cô.

Về làm dâu nhà Pá Tra, Mị phải âm thầm chịu đựng bao nỗi bất công, thời gian đầu, đêm nào Mị cũng khóc thương cho số phận, cho cảnh hẩm hiu của đời mình, nàng đã bỏ hết tất thảy để tìm đến cái chết bằng nắm lá ngón để giải thoát những uất ức, khổ đau kìm nén bấy lâu. Nhưng khi nghĩ về cha, thương cha nàng lại không đành lòng, đành phó mặc cuộc sống, chấp nhận cuộc đời cơ cực với kiếp nô lệ đau thương của mình.

Trong nhà tên A Sử, Mị chịu bao nỗi đau thể xác và tinh thần, Mị khổ cực hơn cả trâu cả ngựa, công việc làm triền miên ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác chẳng nghỉ ngơi. Mị như một cái máy gắn bó với công việc từ hái thuốc phiện, giặt đay, xe đay đến đi bẻ ngô, gánh nước, kiếm củi,…, không việc nào là không tới tay Mị.

Thể xác bị bóc lột, tinh thần Mị cũng không sướng là bao, nàng suốt ngày “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, tinh thần bị tê liệt đến đau khổ, Mị ngày càng ít nói, câm lặng hơn, chẳng còn nhận thức về thời gian và cuộc sống ngoài kia. “Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ bằng một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Dường như tuổi xuân của nàng bị khoá chặt trong ngôi nhà đó. Nàng ngày càng trở nên vô cảm.

Song, ẩn sâu trong con người Mị là một sức sống tiềm tàng không gì có thể ngăn nổi. Khi mùa xuân đến, không khí vui xuân ngày hội nơi bản làng Tây Bắc thật đẹp, thật tươi, khiến Mị bồi hồi nhớ lại những quá khứ tươi đẹp ngày xưa. Rượu và tiếng sáo rủ bạn tình khiến tâm hồn tươi trẻ của Mị như có dịp trỗi dậy, lòng Mị rạo rực sức sống mùa xuân “lòng Mị đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước”.

Từ niềm rạo rực, phấn chấn ấy đã thôi thúc Mị hành động dứt khoát và quyết liệt vô cùng. Cô lấy ống mỡ bỏ thêm vào đĩa dầu để thắp đèn, thắp lên thứ ánh sáng xua tan đi bóng tối rợn ngợp bao trùm, xua tan màn đêm bấy lâu vây quanh cuộc đời Mị, nhen nhóm ngọn lửa hy vọng cho cuộc đời chính mình. Rồi Mị “quấn tóc lại với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”, Mị muốn được là mình, được là một cô gái đẹp đẽ như bao người con gái khác trong đêm mùa xuân ấy.

Trong lúc sức trẻ đang trỗi dậy, lòng yêu đời đang sung sức với Mị thì thực tại phũ phàng đã nhẫn tâm vùi dập niềm yêu ấy. A Sử khi biết lòng Mị muốn đi chơi, hắn đã chặn đứng ngay ý định đó. Hắn trói vợ vào cột nhà bằng một thúng sợi đay, quấn lấy mái tóc dài của Mị lên cột khiến cô đau đớn không thể cử động được. Nhưng thể xác dù bị trói buộc, bị hành hạ vẫn không thể trói lấy tâm hồn đang thiết tha cuộc sống của nàng, khát vọng sống vẫn âm ỉ cháy trong con người Mị.

Hành động mãnh liệt nhất của cô là cắt dây trói cho A Phủ. Trong cơn đau đớn, Mị xót xa cho phận mình, thương cảm cho phận người, đó là sự đồng cảm với những kiếp người cùng chung số phận. Chính giọt nước mắt của A Phủ đã thức tỉnh Mị, hồi sinh trái tim đầy những vết sẹo đau thương. Mị quyết định cùng A Phủ chạy trốn. Giải thoát cuộc đời mình khỏi những sức mạnh tàn bạo của cường quyền, của bọn thống lí thiếu tình người, đồng thời chấm dứt cuộc đời nô lệ tăm tối, thương đau của chính mình.

Bằng nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, khắc hoạ tính cách nhân vật qua suy nghĩ và hành động cùng lời văn nhẹ nhàng mà tinh tế, Tô Hoài đã xây dựng nên một hình tượng nhân vật Mị thật tiêu biểu và đặc sắc. Qua nhân vật, tác giả lên tiếng tố cáo chế độ áp bức tàn bạo, hà khắc của tầng lớp thống trị trong xã hội xưa và nói lên tiếng nói thương cảm trước những kiếp người chịu nhiều áp bức, bất công.

Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất

Phân Tích Hình Tượng Nhân Vật Mị Đặc Sắc – Mẫu 3

Tham khảo bài văn mẫu phân tích hình tượng nhân vật Mị đặc sắc dưới đây sẽ giúp các em học sinh trau dồi những ý văn hay cũng như nắm được luận điểm trọng tâm khi phân tích nhân vật Mị.

Tô Hoài cùng với Nam Cao, Kim Lân, đều là những nhà văn hiện thực nổi tiếng trong nền văn học Việt Nam hiện đại, để lại nhiều những tác phẩm có giá trị nhân văn, phản ánh hiện thực xã hội một cách khách quan và nhiều xúc cảm, đau đớn, xót xa, thương cảm, yêu thương,…

Nếu như bản thân Nam Cao hay Kim Lân cả trước và sau cách mạng đều tập trung vào đề tài người nông dân, trí thức tiểu tư sản vùng đồng bằng Bắc Bộ, thì Tô Hoài lại được xem là nhà văn hiện thực của vùng miền núi phía Bắc nước ta, bằng một tấm lòng thiết tha, gắn bó, ngòi bút cảm thông sâu sắc với số phận của những con người khốn khổ chịu sự áp bức, bóc lột của cả cường quyền và thần quyền phong kiến tàn ác.

Đặc biệt, điểm sáng trong đề tài của Tô Hoài còn nằm ở việc ông tập trung vào số phận của những người phụ nữ vùng cao, ông vừa khai thác cuộc đời bất hạnh, vừa làm nổi bật cả những vẻ đẹp trong tâm hồn họ, đồng thời Tô Hoài cũng dần hé mở những lối thoát, giải phóng cho nhân vật của mình bằng những định hướng về một cuộc đời khi cách mạng về.

Một trong những tác phẩm thành công nhất của Tô Hoài chính là Vợ chồng A Phủ, với nhân vật Mị, một người phụ nữ có số phận đớn đau, cam chịu, sau cùng lại vùng dậy đấu tranh để tìm lại cuộc đời, tìm lại tự do.

Mị là một người phụ nữ đại diện cho nhiều người phụ nữ khác Hồng Ngài, cũng như ở cả vùng núi rừng Tây Bắc. Dưới ngòi bút của Tô Hoài, nhân vật Mị hiện lên là một cô gái xinh đẹp, lại có tài thổi sáo rất hay, thuở còn xuân Mị được biết bao nhiêu trai bản theo đuổi, đứng đến nhẵn cả góc nhà chỗ đầu giường Mị nằm. Thế nhưng Mị sinh ra trong một gia đình nghèo khó, cha Mị vì lấy mẹ Mị mà phải đi vay nợ, món nợ với nhà thống lý Pá Tra mà cho đến đời Mị vẫn không thể trả hết.

Thành thử, Mị phải chấp nhận số kiếp làm con dâu gán nợ, gả làm vợ của A Sử, con trai thống lý Pá Tra. Mà dưới chế độ cường quyền thần quyền đàn áp thì cuộc đời của người con dâu gán nợ, Mị nào được hưởng cảnh sung sướng của một cô con dâu nhà giàu, mà trái lại phải nai lưng ra làm lụng quanh năm ngày tháng, đầu tắt mặt tối không khác gì một nô lệ để trả nợ cho cha.

Cuộc sống đau khổ khiến Mị nhiều lần muốn ăn lá ngón để chết quách đi, nhưng Mị lại không chết được, bởi chết rồi thì ai sẽ trả nợ cho cha, rồi dần dà Mị trở nên chai lì, lầm lũi như con rùa trong xó cửa, chỉ biết ăn và làm, không thiết tha bất cứ điều gì khác. Bởi lẽ Mị bị bắt về gán nợ, không chỉ là làm lụng lấy sức lao động để bù đắp, mà Mị đã bị bắt về đã làm lễ trình ma nhà A Sử, cả đời Mị sẽ sống làm người nhà nó, chết cũng là ma nhà nó rồi, Mị đã hoàn toàn không có một lựa chọn nào khác, không có một sự tự do nào nữa.

Chết không được thì người ta buộc phải sống, mà sống theo cách của Mị thì nó lại đau đớn quá, Mị sống với một tâm hồn một trái tim như tro tàn nguội lạnh, sống mà đến độ tưởng mình không còn là người nữa, mà chỉ là một cỗ máy lao động có chân tay, biết nói chuyện trong nhà thống lý Pá Tra. Đến nỗi Mị thấy mình đến loài súc sinh chăn trong nhà cũng không bằng bởi “ở lâu trong cái khổ, Mị cũng quen khổ rồi. Bây giờ Mỵ tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa. Con ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”.

Thậm chí “Con ngựa, con trâu làm có lúc, đêm còn được đứng gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này vùi vào việc cả đêm cả ngày”. Đọc những dòng văn ấy, người ta đã tưởng đến độ con người phải bị áp bức, bị vắt kiệt bị giam cầm đến mức nào mới có thể có những suy nghĩ đớn đau đến nhường này. Và cái khổ nó đã làm biến dạng cả tâm hồn, ngoại hình Mị, đầu óc cô không nghĩ việc gì khác ngoài những việc làm lụng, dù làm gì cũng cúi mặt, buồn rười rượi, lại ngày càng chẳng nói năng gì, dường như Mị quên đi cả khả năng giao tiếp của mình.

Không chỉ thế, đời Mị nó không chỉ khổ về thể xác, mà nó còn là cả những đớn đau về một tâm hồn trong hoạt cảnh tù đày. Mị mang danh là vợ A Sử thế nhưng giữa họ không hề có tình yêu, Mị cũng từng có một người yêu, nhưng món nợ của cha mà đứt gánh. Khi về nhà này làm dâu, dường như cuộc đời của Mị chuyển sang hẳn kiếp nô lệ, bị bóc lột không chỉ sức lao động mà con là tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc.

Không gian sống của Mị là một căn buồng có một cái lỗ vuông bằng bàn tay, thật chẳng khác gì cái nhà tù, mà từ đó trông ra “lúc nào cũng thấy trăng trắng không biết là sương hay là nắng”, đời Mị cứ ngồi ở cái lỗ vuông ấy mà trông ra đến bao giờ chết thì thôi.

Rõ ràng là cuộc đời của một người tù chung thân, mà nó cũng chỉ xuất phát từ cái nỗi Mị là đàn bà ở Hồng Ngài, nhà Mị nghèo quá, mà cha Mị lại mắc nợ người ta. Thế nên để chống chọi với đau đớn đang tàn phá tâm hồn và thể xác, Mị bị buộc phải trở nên chai lì một cách bất lực, sống cuộc đời của một con rùa lầm lũi trong xó cửa, cam chịu và bế tắc.

Những tưởng rằng, cuộc đời của Mị sẽ chỉ mãi nằm trong cái vòng luẩn quẩn bế tắc ấy và cái lòng ham sống, cái sự phản kháng vùng vẫy của Mị đã chết hẳn từ mấy năm trước rồi. Nhưng không, nó vẫn âm ỉ, tiềm tàng nằm thật sâu trong lòng Mị, được bao bọc xung quanh bởi những lớp chai cứng xù xì, dưới lớp tro tàn tàn nguội lạnh để chờ thời cơ nổi dậy.

Mùa xuân đến người ta đang nô nức, hào hứng chuẩn bị đón Tết, phụ nữ phơi váy hoa khắp nơi, đám trẻ nô đùa chơi quay, và có tiếng sáo ai rủ bạn đi chơi thấp thoáng. Chính cái tiếng sáo thiết tha, bồi hồi ấy đã thức dậy trong tâm hồn Mị một chút niềm vui sống, thường ngày Mị chẳng thiết nói năng, thế mà nay Mị lại nhẩm hát theo tiếng sáo du dương. Đó là dấu hiệu cho sự thức tỉnh của lòng ham sống, ham vui, ham hạnh phúc trong Mị.

Ngày Tết người ta uống rượu, Mị cũng uống “uống ừng ực từng bát” như thể muốn trút hết những uất ức, thống khổ trong lòng một cách thống khoái, mạnh mẽ. Thế rồi Mị lặng người nhìn người ta nhảy múa vui chơi, Mị lại nhớ về những ngày còn ở với cha mẹ, Mị cũng có những ngày tháng tươi đẹp như thế. Mị chợt nhớ mình còn biết thổi sáo, thổi lá cũng rất hay.

Mị uống rượu và thổi sáo, Mị tận hưởng cuộc sống, tự tạo dựng lại cho mình những niềm vui ngày xuân để quên đi cái sầu khổ, đớn đau suốt mấy năm qua của mình. Tâm hồn Mị dần dần sống lại một cách chậm rãi, Mị bắt đầu ý thức được mình còn trẻ trung, vẫn còn khao khát những niềm vui của cuộc sống.

Có lẽ rằng chính âm thanh tiếng sáo gọi bạn đầu làng, cái âm thanh của sự sống cứ văng vẳng bên tai Mị, đã hâm nóng lại ngọn lửa thanh xuân trong lòng cô, khiến “Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ, Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi Tết”. Mị lại sửa soạn áo quần, tóc tai và muốn ra ngoài hòa vào không khí vui nhộn của dịp Tết, hòa nhập với xã hội.

Nhưng đau đớn thay, bấy nhiêu những hớn hở, khao khát của Mị đã bị người chồng A Sử dập tắt, nó trói Mị chặt cứng vào cột nhà khiến cô không thể động đậy. Lúc này đây mấy thấy cái tấm lòng ham sống, khao khát tự do của Mị được bộc lộ một cách mãnh liệt và sâu sắc. Một người vốn đã chai lì cảm xúc, quen bị hành hạ, quen lao động nặng nhọc quanh năm, thờ ơ với cái chết, thế mà lại bắt đầu sợ.

Mị nghĩ đến nhà này cũng có một người đàn bà bị trói vào cột đến chết, “Mị sợ quá, Mị cựa quậy xem mình còn sống hay đã chết. Cổ tay, đầu, bắp chân bị dây trói siết lại, đau từng mảnh thịt”. Lúc này đây Mị sợ chết tức là lòng ham sống của Mị còn mãnh liệt lắm, Mị thấy đau đớn tức là tâm hồn Mị đã dần dà sống lại, cũng biết buồn biết khổ, chứ không còn chai sạn như trước nữa. Mị đã sống lại một cách hoàn toàn cả về tâm hồn lẫn thể xác.

Cuộc gặp gỡ với A Phủ, có lẽ chính là định mệnh, là bước ngoặt lớn cho sự phản kháng và việc giành lấy tự do của Mị sau khi tâm hồn nhân vật này hoàn toàn thức tỉnh. Chứng kiến cảnh A Phủ bị trói giữa sân, bị bỏ đói, bị đánh đập chỉ vì làm mất một con bò, nhưng ban đầu Mị vẫn thản nhiên, thổi lửa hơ tay, dường như lòng người đàn bà này lại quay trở về cái vẻ chai sạn, chết hết mọi xúc cảm như trước kia.

Thế nhưng sự bình tĩnh, im lặng ấy lại chính là dấu hiệu, sự chuẩn bị cho một quá trình phản kháng mạnh mẽ mà không ai ngờ tới của Mị. “Dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má xám đen lại” của A Phủ, như là một giọt nước cuối cùng rớt vào ly nước vốn đã đầy ăm ắp của Mị, trở thành giọt nước tràn ly. Nó đã dấy lên trong lòng người đàn bà này biết bao nhiêu là cảm xúc, Mị thấy căm giận nhà thống lý Pá Tra, chúng nó đã trói chết bao nhiêu người đàn bà như vậy, chúng nó thật độc ác, nhưng phận đàn bà làm dâu trong nhà thì muôn đời phải vậy.

Còn A Phủ sao phải chịu chết như thế, Mị thấy bất bình, thấy xót xa cho một kiếp người nhưng còn chẳng bằng con bò bị mất, phải chết vì một con bò, giống như Mị phải làm trâu làm ngựa, gần như chết hẳn trong cái nhà này vì món nợ truyền kiếp của cha. Ôi sao đời Mị và đời A Phủ lại đớn đau giống nhau đến vậy, chẳng lẽ cứ nghèo khó, không quyền thế là phải chịu áp bức, đau khổ hay sao?

Mị thương người đàn ông tội nghiệp đó, sắp phải chịu chết đói, chết rét, chết vì bị đánh, Mị muốn cởi trói cho A Phủ, nhưng rồi Mị cũng sợ mình sẽ là người phải chịu chết thay. Mị đã đấu tranh tư tưởng nhiều lần, rồi cuối cùng Mị ra một quyết định rất táo bạo, Mị cởi trói cho A Phủ, thì thào một tiếng “Đi ngay…”.

Nhìn thấy một kẻ vốn đã gần chết tới nơi, thế nhưng lại vẫn dùng hết sức bình sinh chạy vụt xuống triền đồi, lòng Mị dường như vỡ ra cái gì đó, phải rồi, Mị đã giải thoát cho người ta thì cũng phải giải thoát cho chính mình chứ, và thế là Mị chạy vụt theo A phủ. Những câu nói cuối cùng trong đoạn trích “Cho tôi theo với, ở đây thì chết mất”, chính là minh chứng cho sự phản kháng mạnh mẽ, ý thức mưu cầu tự do, lòng ham sống, ham tự do mãnh liệt đang cháy ngùn ngụt trong lòng của người đàn bà nhiều năm vốn đã chai lì, lạnh giá.

Vợ chồng A Phủ nói chung và nhân vật Mị nói riêng chính là tấm lòng yêu thương, thông cảm, trân trọng của Tôi Hoài đối với những người con miền núi, những con người dù phải chịu nhiều những đắng cay chèn ép của thần quyền và thần quyền khắc nghiệt. Thế nhưng họ vẫn có một niềm tin, khao khát sống mãnh liệt, sức phản kháng tiềm tàng mạnh mẽ, sẵn sàng đứng lên tự giải thoát cho bản thân, giành lại quyền mưu cầu hạnh phúc và tự do của bản thân.

Từ đó Tô Hoài cũng nhấn mạnh tư tưởng của một nhà văn cách mạng, ấy là hướng nhân dân, những con người đang chịu cảnh lầm than thoát khỏi ách áp bức bằng con đường cách mạng, tạo dựng niềm tin của nhân dân vào tương lai tươi sáng của Đảng và nhà nước.

Không chỉ có văn mẫu phân tích, giới thiệu cùng bạn 🍀 Sơ Đồ Tư Duy Nhân Vật Mị 🍀 7 Mẫu Vẽ Tóm Tắt Ngắn Hay

Phân Tích Nhân Vật Mị Qua 2 Lần Miêu Tả – Mẫu 4

Trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ, nhân vật Mị là chủ đề phân tích văn học phổ biến trong những đề kiểm tra. Tham khảo dưới đây tài liệu phân tích nhân vật Mị qua 2 lần miêu tả để học tốt tác phẩm.

Sau cách mạng tháng 8, ngòi bút của Tô Hoài đi sâu khám phá sức sống mạnh mẽ của những người dân tộc thiểu số miền núi. Trong chuyến đi lên vùng núi phía Bắc của mình, ông đã cho ra đời tác phẩm Vợ chồng A Phủ, với nhân vật Mị, mang trong mình sức sống tiềm tàng mạnh mẽ.

Trước khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra, Mị cũng như bao người con gái khác, chịu thương chịu khó, có một sức sống mạnh mẽ. Mặc dù gia đình gánh trên vai món nợ truyền kiếp, nhưng cô sẵn sàng nói với cha để minh lao động rồi trả nợ dần; cô trẻ trung, yêu đời, có tiếng sáo hay khiến biết bao chàng trai say đắm. Nhưng sau đêm bị A Sử bắt về, “Ngoài vách kia, tiếng nhạc sinh tiền cúng ma đương rập rờn nhảy múa” thì cuộc đời của cô đã sang một trang khác, đầy bi thương và thảm kịch.

Những ngày làm dâu nhà thống lí Pá Tra, Mị đã phải chịu bao nỗi đắng cay, tủi cực. Suốt ngày Mị chỉ “ngồi quay sợi gai, cạnh tảng đá, trước cửa tàu ngựa, gương mặt cô lúc nào cũng cúi xuống, mặt buồn rười rượi”. Quanh năm cô quanh quẩn làm việc, chẳng có lấy một giây phút nghỉ ngơi. Nơi ở của cô chẳng khác nào nhà tù, chỉ có một lỗ vuông bằng bàn tay, nhìn ra ngoài chỉ thấy mờ mờ trăng trắng, không biết là sương hay là nắng.

Phải chăng sức sống, sự yêu đời của cô trước đây đã bị bào mòn cạn kiệt? Nhưng không qua đêm tình mùa xuân và đêm đông tự giải cứu chính mình, ta biết rằng trong sâu thẳm người con gái kia, niềm yêu cuộc sống vẫn tiềm tàng mạnh mẽ.

Lần phản kháng đầu tiên là trong những ngày mùa xuân, không khí rộn vang, tưng bừng hơn. Những tảng đá mèo được tô điểm bởi những chiếc váy rực rỡ, tựa như những bông hoa rộ nở; tiếng trẻ em vui đùa càng trở nên vui vẻ, đầy phấn khích. Lòng Mị cũng chợt có những tia sáng nhỏ le lói.

Mùa xuân ai cũng uống rượu và Mị cũng vậy. Nhưng cách uống rượu của Mị lại rất khác, cô uống ừng ực từng bát lớn, uống để tiêu tan sầu muộn. Dường như trong mờ hồ Mị bắt đầu sống lại niềm yêu cuộc sống. Rồi bất chợt “ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sau vọng lại tha thiết, bồi hồi”. Tiếng sáo này đã thực sự khơi lại sức sống trong Mị. Nó khiến Mị nhớ lại những ngày trước đây, về những ngày tự do, yêu đời cả mình. Tiếng sáo thấm dần vào tâm trí, trái tim Mị, dần thức tỉnh cô.

Tiếng sáo thức tỉnh khao khát được đi chơi, được giao tiếp với mọi người. Từ trước đến nay Mị chưa bao giờ được đi chơi, bởi A Sử cấm. Một cách đầy hữu ý tiếng sáo lại xuất hiện “trong đầu Mị rập rời tiếng sáo” đã thúc đẩy từ suy nghĩ trở thành hành động nổi loạn của Mị.

Mị vào buồng sẵn mỡ thắp cho sáng, rồi với tay lấy vát chuẩn bị đi chơi. Để Mị có thể rời xa hiện tại đau thương trở về với quá khứ vui vẻ. Nhưng khi hành động chuẩn bị được tiến hành, Mị bị A Sử bắt gặp, hắn dùng chính tóc cô mà trói đứng lại ở tường. Mị khóc, bởi không ai giúp mình, bởi quá khứ tươi đẹp một lần nữa ùa về trong cô, đánh thức con người tưởng như đã chết trong cô.

Sau lần phản kháng đầu tiên, Mị tiếp tục rơi vào trạng thái sống mòn. Trong lúc này, A Phủ – một người cũng có thân phận chuộc nợ như Mị, do làm mất bò mà bị trói đứng ngoài sân. Đêm nào Mị cũng ra sân đốt lửa, nhưng tuyệt nhiên không chú ý đến A Phủ: “Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi. Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa”. Bởi khi này lòng Mị đã nguội lạnh, tâm can đã câm nín, chính số phận mình Mị đã chẳng còn quan tâm nữa, huống chi số phận người khác.

Nhưng trong lần ấy, dưới sự tác động của giọt nước mắt của A Phủ, Mị đã thay đổi suy nghĩ hoàn toàn: “Ngọn lửa vừa bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Giọt nước mắt đó khiến cô bất giác nhớ về mùa xuân trước đây, khi cô bị trói đứng, cô khóc nhưng không ai đến giúp cô cả, cũng không thể lau đi được.

Giọt nước mắt của A Phủ đã làm trỗi dậy sức sống của Mị. Trong Mị hình thành tình thương và sự hi sinh: “Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình mà nhà nó rồi, thì chỉ biết đợi ngày mà rủ xuống ở đây thôi… Người kia việc gì mà phải chết”. Mị đã quyết định giải cứu A Phủ. Đây không phải là quyết định bồng bột nhất thời mà nó xuất phát từ sự đồng cảm, từ lòng yêu thương con người.

Sau khi giải cứu A Phủ, trong một khoảnh khắc Mị cũng vụt chạy theo A Phủ để giải cứu cho chính mình. Hành động cởi trói tư tưởng giải cứu chính mình là hành động tuy bất ngờ nhưng vô cùng hợp lí. Nó cho thấy sức sống tiềm tàng, mạnh mẽ trong Mị.

Với biệt tài miêu tả tâm lí nhân vật, Tô Hoài đã đem đến cho bạn đọc chân dung của một người con gái không chỉ đẹp người, đẹp nết mà còn có sức sống tiềm tàng mạnh mẽ. Mị là đại diện tiêu biểu cho sức sống của con người, là đại diện cho hành trình đi từ bóng tối ra ánh sáng, từ khổ đau đến hạnh phúc của những người nông dân dân tộc thiểu số.

Ngoài phân tích nhân vật Mị, chia sẻ 🌼 Tóm Tắt Nhân Vật A Phủ 🌼 12 Bài Tóm Tắt Ngắn Hay Nhất

Phân Tích Nhân Vật Mị Trong Đêm Tình Mùa Xuân – Mẫu 5

Vợ chồng A Phủ là tác phẩm trọng tâm trong chương trình môn Ngữ văn, đặc biệt là chủ đề phân tích nhân vật Mị. Chia sẻ dưới đây gợi ý phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân với những ý văn đặc sắc.

Vợ chồng A Phủ là tác phẩm nổi bậc nhất trong tập Truyện Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài. Tác phẩm kể về số phận đáng thương và cuộc sống vô cùng khắc nghiệt của Mị và A Phủ ở nhà thống lí Pá Tra chốn Hồng Ngài. Dù bị đày đọa đến kiệt quệ cả tinh thần lẫn thể xác nhưng nỗi khổ đau ở nhà thống lí không thể nào giết chết được sức sống tiềm tàng ẩn sâu trong nhân vật Mị. Trong đêm tình mùa xuân năm ấy, sức sống ấy có dịp trỗi dậy mạnh mẽ.

Đoạn kể chuyện Mị ở Hồng Ngài là đoạn kể về quãng đời tối tăm, tủi nhục của cô. Mị vốn là một cô gái mèo xinh đẹp, tài hoa. Vừa Bước vào tuổi thiếu nữ, Mị đã phải gánh nặng trên vai một món nợ từ đời cha mẹ Mị. Cha con thống lí Pá Tra bắt về Mị làm dâu gạt nợ.

Món nợ truyền kiếp của gia đình để cướp trắng tuổi thanh xuân dạt dào khát vọng của Mị. Những năm tháng bị đọa đày dai dẳng trong cái địa ngục trần gian trong nhà thống lí, Mị gần như biến thành tảng đá vô tri. Mỗi ngày Mị không nói, lùi lũi như con rùa núp sau xó cửa. Lúc nào Mị cũng lầm lũi, mặt buồn rười rượi.

Mị bây giờ chỉ là cái xác vô hồn, một cỗ máy biết nói. Mị sống như thực chất chỉ là để kéo dài những ngày chưa được chết mà thôi. “Ai ở xa về có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy một cô gái ngồi quay sợi bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi còn nước dưới khe suối, cô cũng cúi, mặt buồn rười rượi”.

Cuộc sống với Mị chỉ là một màn sương mờ đục không dĩ vãng, hiện tại, tương lai. Phải chăng ngọn lửa sống trong lòng Mị đã lặng tắt, trái tim Mị đã chai sạn và tê liệt, tâm hồn Mị đã hoàn toàn nguội lạnh và an phận?

Mùa xuân đến, tất cả những gì tưởng chừng đã chết trong lòng Mị đều đã được hồi sinh. Mùa Xuân là mùa của cây cối đâm chồi nảy lộc, mùa hội hè đình đám, mùa gặp gỡ hẹn hò của lứa đôi. Mùa xuân đến với núi rừng Tây Bắc, đến với mảnh đất Hồng Ngài được tô hoài miêu tả bằng những câu văn rất lãng mạn.

Có thể nói những trang viết về mùa xuân của tác giả là những trang văn tuyệt hay. Ta gặp ở đó bức tranh mùa xuân với màu rực rỡ: cỏ gianh vàng ửng, những chiếc váy rực rỡ phơi trên mỏm đá thì xòe ra như những cánh bướm. Thanh âm cũng rộn ràng: trẻ con nô đùa, tiếng sáo gọi bạn tình tha thiết. Mùa xuân bừng bừng một sức sống mãnh liệt bất chấp cái giá lạnh của đất trời. Dường như sự sống, cảnh vật, con người đang được mùa xuân khơi dậy làm cho bừng tỉnh.

Với Mị, mùa xuân còn là mùa gắn với bao kỉ niệm đẹp đẽ của thời trẻ tự do. Trong không khí núi rừng rạo rực vào xuân ấy, Mị nghe tiếng sáo từ xa vọng lại tha thiết, bồi hồi. Tiếng sáo là thứ âm thanh quen thuộc của núi khi hoa ban nở trắng núi rừng Tây Bắc. Đêm đêm trên núi cao tiếng sáo chính là tiếng lòng đắm say của trai gái mèo trao gửi bạn tình. Trong khoảnh khắc ấy, tiếng sáo đã tác động mạnh mẽ đến tâm hồn Mị. Mị ngồi nhẩm thầm bài hát:

“Mày có con trai con gái rồi
mày đi làm nương
tao không có con trai con gái
tao đi tìm người yêu”

Tiếng hát cất lên từ trái tim tưởng như cô càng, chai sạn của Mị. Mị trước đây sống không ý thức về thời gian, không gian, sự vật. Trước mặt Mị luôn là một màn sương trắng mờ đục. Giờ đây tiếng sáo đã đánh thức tâm hồn ngủ yên và an phận của Mị. Tiếng sáo rung lên trong trái tim Mị. Những giai đoạn mở đầu của khát vọng được yêu, cái khát vọng bấy lâu nay được chôn chặt trong trái tim Mị.

Mị đã bừng tỉnh mọi cảm nhận về cuộc sống. Ý thức về cuộc sống đã trở lại trong Mị. Mị nhìn thấy, nghe thấy: trai gái, trẻ con ra sân chơi đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi khèn và nhảy. Nhà thống lí Pá Tra chiêng đánh ầm ĩ. Mị lén uống rượu, cứ uống ừng ực từng bát. Đó có lẽ nào là cách uống của người thưởng xuân. Chắc chắn không vậy. Uống rượu thưởng xuân phải uống từ từ, từng bát một, nhấm nha, nhấm nháp để tận hưởng và đón nhận hương vị xuân. Đó là cách uống của người khát rượu, thèm rượu? Không đúng. Đã từ lâu Mị chẳng thèm khát gì.

Tô Hoài viết: “Ngày tết Mị cũng uống rượu”. Mọi người uống, Mị cũng uống. Mị uống theo thói ngày xuân của người Mèo. Cách uống ừng ực từng bát ấy giống như Mị uống cho bõ tức, cho nuốt hận tủi hờn. Rồi Mị say, Mị lịm mặt nhìn mọi người nhảy đồng, ngồi hát nhưng trong lòng Mị đang sống về ngày trước.

Tô Hoài đã thật khéo léo dùng từ “sống lại” chứ không phải là “nhớ lại”. Nếu “nhớ lại” chỉ là hồi niệm thì “sống lại” là cả phần hồn lẫn phần xác trở về với quá khứ tươi vui của những đêm tình mùa xuân lúc mà Mị chưa về làm dâu nhà thống lí. Chao ôi, đó là những tháng ngày thơ mộng thần tiên, Mị được sống tự do reo vui tiếng hát trên đồi cao, dưới khe sâu, thâu đêm suốt sáng.

Mị đang bứt mình ra khỏi cái ngục tù tăm tối để lần theo sợi dây quá khứ tìm về những ngày xưa hạnh phúc. Đúng trong khoảnh khắc ấy tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Tiếng sáo đã gọi dậy những kỉ niệm ngọt ngào của thời thiếu nữ. Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi. Mị uốn chiếc lá trên môi và thổi. Thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị.

Mị như lãng quên hiện tại, lãng quên cái thể xác đang vô cùng đau đớn. Người ta hát mà Mị không nghe, người ta nhảy mà Mị không thấy, rượu tan lúc nào Mị cũng chẳng hay. Chính quá khứ ngọt ngào đã thổi vào lòng những cảm xúc khiến Mị thấy phơi phới trở lại trong lòng một niềm vui sướng. Mị nhận ra mình còn trẻ lắm và muốn đi chơi. Lúc này ý thức về bản thân và quyền sống đã trỗi dậy. Nhưng cũng là lúc Mị nghĩ đến cái chết “nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay”.

Đây cũng là lúc Mị thấy thía nhất cảnh ngộ cay đắng của hiện tại “A Sử với Mị không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau”. Hơn thế từ lâu lắm rồi, Mị tồn tại trong trạng thái gần như tê liệt “sống lâu trong cái khổ Mị cũng quen rồi. Mị cũng chẳng còn nghĩ đến chuyện ăn lá ngón tự tử nữa”. Vì thế trong phút giây thức tỉnh, Mị muốn chết. Bởi hơn lúc nào hết, Mị cũng đang yêu tha thiết cuộc sống.

Tiếng sáo trở lại song nó không còn lấp ló ngoài đầu núi, văng vẳng ngoài đầu làng mà lửng lơ bay ngoài đường. Tiếng sáo đã thôi thúc Mị đi đến hành động: xắn mỡ bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng. Hình ảnh ngọn đèn chính là ngọn lửa sống đang trỗi dậy mạnh mẽ trong lòng Mị. Mị ý thức được hoàn cảnh tối tăm và muốn thay đổ. Mị sửa soạn đi chơi: quấn tóc, lấy váy hoa.

Tất cả khẳng định đó chính là hành động của một tâm hồn ham sống đang bừng dậy mãnh liệt, bất chấp bạo quyền. Hình như trong tâm hồn Mị lúc này tiếng sáo mùa xuân tuổi trẻ đã thực sự ngân lên khát vọng tình yêu, hạnh phúc, tự do đang trào dâng không kìm nén được.

Đây cũng là lúc nó bị vùi dập phũ phàng. A Sử xuất hiện đã quấn tóc, trói đứng Mị trong buồng tối. Con thú ấy thản nhiên tắt đèn, khép cửa đi ra không nói tiếng nào. Bị trói, Mị vẫn thả hồn theo tiếng sáo. Tiếng sáo đưa Mị theo những cuộc chơi, dìu Mị về với khát khao yêu đương hạnh phúc: “Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào…”.

Suốt từ đầu tới cuối đêm hôm ấy chỉ thấy cô im lặng, âm thầm cam chịu. Dường như cô đang không sống bằng phần thể xác nữa. Ẩn chứa bên trong lại là cô Mị khác. Một cô Mị đang náo nức say sưa với những kỉ niệm của tình yêu. Say sưa đến nỗi “như không biết mình đang bị trói, khiến Mị vùng dậy bước đi”.

Nhưng dây trói, tiếng chân ngựa đẩy Mị về hiện thực: “Mị không nghe thấy tiếng sáo nữa… Mị thổn thức nghĩ rằng mình không bằng con trâu, con ngựa”. Mị nhận ra đêm đã khuya, thời gian chạm vào kỉ niệm đẹp nhất của lòng Mị. Mị nín khóc, lòng lại bồi hồi. Trong suốt đêm bị trói, Mị đã sống trong một tâm trạng giằng xé giữa quá khứ đẹp đẽ và hiện thực đau khổ, giữa ước mơ hạnh phúc và nỗi tủi hờn vì thân kiếp trâu ngựa. Đó là biểu hiện của một tâm hồn yêu sống, thèm sống, bất chấp cường quyền chà đạp và vùi dập.

Diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài là một tâm trạng hỗn hợp: vui sướng và đau khổ, ham sống và tủi nhục muốn chết. Trong bóng tối nặng nề ấy, hành động của Mị rất ít. Phần lớn là những dòng nội tâm đang trỗi dậy tuôn trào trong lòng Mị. Tác giả đã bộc lộ rõ nét tài năng miêu tả diễn biến nội tâm của nhân vật một cách chân thật, sinh động. Sự trỗi dậy của Mị trong đêm tình mùa xuân tuy không thay đổi số phận nhưng nó là tiền đề quan trọng cho những đột biến lớn lao trong cuộc đời Mị.

Mời bạn xem nhiều hơn 🌟 Cảm Nhận Về Nhân Vật Mị Trong Vợ Chồng A Phủ 🌟 10 Bài Phân Tích Hay

Phân Tích Mị Trong Đêm Tình Mùa Xuân Ngắn Gọn – Mẫu 6

Để chuẩn bị cho bài viết về tác phẩm Vợ Chồng A Phủ và nhân vật Mị trên lớp, các em học sinh có thêm tham khảo bài phân tích Mị trong đêm tình mùa xuân ngắn gọn được chia sẻ dưới đây:

Phân tích, miêu tả tâm lí nhân vật luôn là một thử thách đối với bất cứ tác giả nào. Không phải ai cũng có cái biệt tài đi miêu tả tâm lí nhân vật một cách tường tận và chân thực. Và Tô Hoài chính là một trong số ít những tác giả có biệt tài phân tích, miêu tả tâm lí nhân vật với sự phát triển tâm lí hết sức logic, tự nhiên. Sự phát triển tâm lí của Mị trong đêm tình mùa xuân chính là một ví dụ điển hình.

Mị là cô gái trẻ, sinh ra trong một gia đình nghèo khó, cha mẹ vì không có tiền cưới nhau nên phải vay tiền thống lí Pá Tra. Tiền chưa trả hết, món nợ đó đổ dồn lên Mị. Nhưng Mị không lấy đó làm gánh nặng, mà vẫn xin cha cho mình lao động để trả nợ dần. Rõ ràng trong cô gái này có một tình yêu lao động, yêu cuộc sống hết sức mãnh liệt. Khi bị biến thành con dâu gạt nợ, Mị phản kháng vô cùng quyết liệt, cô còn có quyết định ăn lá ngón để chấm dứt cuộc sống mất tự do này.

Nhưng vì thương cha mà cô đã gắng gượng sống. Nhưng càng gắng gượng bao nhiêu thì tâm hồn cô lại càng bị bài mòn, chai sạn bấy nhiêu cho đến mức “ở lâu trong cái khổ Mị quen khổ rồi”, Mị “như con rùa lùi lũi nơi xó cửa”, Mị dường như quên đi cả khát vọng tự do, khát vọng hạnh phúc của mình, chỉ chờ đến ngày mình chết đi mà thôi.

Đẩy nhân vật vào sự cùng khổ đến tận cùng chính là một dụng ý nghệ thuật của Tồ Hoài, bởi chỉ khi con người ta bị đẩy vào bước đường cùng thì khát khao mới đươc bùng lên quyết liệt và mạnh mẽ ấy. Và cái khao khát ấy đã được thể hiện rõ nét trong đêm tình mùa xuân ấy.

Để tạo tiền đề cho sự đột phá của Mị, Tô Hoài đã dụng công chuẩn bị những yếu tố khác đặc biệt là những yếu tố về thiên nhiên, về cảnh sắc cuộc sống của những người miền núi. Mùa xuân về trên vùng cao quả thực vô cùng rực rỡ, đẹp đẽ. Những đồi cỏ ranh vàng ửng nhưng những vệt lửa thổi dưới thung khô, càng rét càng trở nên dữ dội hơn.

Trên những mỏm đá mèo là những chiếc váy sắc màu rực rỡ, rồi cùng với đó tiếng cười của trẻ con. Không khí mùa xuân thật náo nhiệt, tràn đầy sức sống. Chính những tác nhân bên ngoài này đã phần nào gợi lên long yêu cuộc sống, giúp Mị từ cõi quên trở về cõi nhớ.

Trong những yếu tố được Tô Hoài chuẩn bị thì đắt giá nhất là chi tiết tiếng sáo. Tiếng sáo xuất hiện từ xa đến gần, từ đỉnh núi, đến đầu làng rồi quanh quẩn trong tâm trí Mị. Tiếng sáo ấy đã tác động mạnh mẽ đến tâm lí Mị. Cùng với đó là sự kết hợp của hơi men, “ngày tết, Mị cùng uống rượu như ai” , nhưng Mị uống như để quên đi đau đớn, Mị uồng ừng ực từng bát, rồi say lịm đi. Trong mơ màng Mị thấy tiếng sáo gọi bạn tình văng vẳng.

Tiếng sáo ấy đã làm Mị động tâm, là cô bổi hổi nhớ lại những kỉ niệm đẹp trước đây. Lòng cô phơi phới trở nên, niềm vui sướng trào dâng. Và cô nhận thấy “Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi…”. Sau bao năm làm con rùa lùi lũi trong xó cửa, dường như ý thức về bản thân mình đã dần dần quay trở lại.

Dường như đoạn văn này ta thấy như chính lời Mị nói ra, Tô Hoài đã xuất sắc hóa thân để thấu hiểu những suy nghĩ, tâm trạng của nhân vật. Đồng thời điều đó cũng giúp Tô Hoài thấy được những giằng xé, mâu thuẫn trong tâm lí Mị giữa quá khứ vag hiện tại.

Và khi tiếng sao vang lên, khi Mị như bừng tỉnh, và khát khao: “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không muốn nhớ lại nữa”. Đây là sự phản kháng hết sức quyết liệt, đối với Mị phải sống mất tự do, còn đau đớn, tủi cực hơn cả cái chết. Điều đó đã cho thấy khát khao mãnh liệt của Mị.

Thì ra đằng sau con những tưởng như đã chết hoàn toàn ấy lại vẫn tiềm tàng sức sống mãnh liệt đến như vậy. Mị không cam chịu ở nhà, Mị muốn đi chơi như mọi người, muốn được hòa nhập, muốn được sống thực sự. Cô đã hiện thực hóa bằng hàng loạt các hành động: cô vào khêu đèn, quấn tóc và lấy váy để chuẩn bị đi chơi… Nếu như với những người con gái khác đó là điều rất binh thường, nhưng đối với Mị là cả một quá trình thức tỉnh và đấu tranh không ngừng.

Nhưng chính lúc ấy, ý định của cô lại bị kẻ độc ác – A Sử chặn đựng bằng hành động bao ngược, trói đứng ở cột. Dù A Phủ có giam giữ được thân thể nhưng cũng không thể giữ nổi tâm hồn của cô bởi tâm hồn cô theo tiếng sáo, nhớ về những ngày trước.

Chỉ với duy nhất phần miêu tả tâm lí của Mị trong đêm tình mùa xuân, đã có thể khẳng định tài năng nghệ thuật của Tồ Hoài trong cách xử lí, sắp xếp sự kiện để miêu tả tâm lí nhân vật. Qua đó càng khẳng định hơn nữa tài năng của ông. Đồng thời cũng thấy được vẻ đẹp trong sức sống của Mị.

SCR.VN tặng bạn 💧 Cảm Nhận Nhân Vật Mị Trong Đêm Tình Mùa Đông 💧 10 Mẫu Phân Tích Đặc Sắc

Phân Tích Mị Trong Đêm Tình Mùa Xuân Hay Nhất – Mẫu 7

Nhiều em học sinh quan tâm tìm kiếm gợi ý phân tích nhân vật Mị để chuẩn bị cho kỳ thi sắp tới. Tham khảo bài văn mẫu phân tích Mị trong đêm tình mùa xuân hay nhất sau đây:

Tô Hoài tên khai sinh là Nguyễn Sen, ông là một cây bút đầy sức sáng tạo của nền văn học Việt Nam. Tô Hoài có vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng miền khác nhau, lối trần thuật hóm hỉnh, vốn từ vựng giàu có, sáng tạo, cách miêu tả đậm chất tạo hình, lay động lòng người.

“Vợ chồng A Phủ” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông. Truyện nói về cuộc sống tối tăm, khổ nhục và quá trình tự vùng lên đấu tranh kẻ thù, xây dựng lại cuộc đời của người dân miền núi cao Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn thực dân, chúa đất. Đặc biệt, Tô Hoài đã khắc họa thành công nhân vật Mị có sức ám ảnh đối với người đọc với sức sống tiềm tang trong đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài.

Năm 1952, Tô Hoài cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Chuyến đi thực tế này đã đem đến cho nhà văn cái nhìn sâu sắc và tình cảm thắm thiết với người và cảnh Tây Bắc. “Vợ chồng A Phủ” được in trong tập “Truyện Tây Bắc”.

Tô Hoài đã dẫn dắt người đọc vào câu chuyện bằng một lời giới thiệu nhẹ nhàng nhưng đầy ý vị “Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lý Pá Tra thường thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tầu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”.

Cách vào truyện gây ấn tượng bởi tác giả đã tạo ra sự đối nghịch giữa cô gái trẻ đẹp lẻ loi, âm thầm với cảnh đông đúc tấp nập của gia đình thống lí Pá Tra. Đây là thủ pháp tạo tình huống “có vấn đề” để lôi cuốn người đọc khám phá những bí ẩn của số phận nhân vật.

Mị là một cô gái xinh đẹp, tài hoa, hồn nhiên yêu đời, là mơ ước của bao trai làng. Mị còn là một cô gái chăm chỉ, hiếu thảo và có lòng tự trọng. Cô đã xin bố cô cho cô “con nay đã lớn, đã biết cuốc nương làm ngô giả nợ cho bố, xin bố đừng gả con cho nhà giàu”. Mị xứng đáng được sống hạnh phúc nhưng Mị lại phải sống đọa đày trong khổ đau, tủi nhục.

Ngày trước cha mẹ Mị phải vay tiền của nhà thống lí để làm đám cưới, cho tới khi Mị ra đời, mẹ Mị mất, Mị sắp đến tuổi lấy chồng, món nợ vẫn không trả được, dù mỗi năm gia đình Mị đã nộp một nương ngô cho thống lí. Thống lí đế nói với bố của Mị “cho tao đứa con gái này về làm dâu thì tao sẽ xóa hết nợ cho”. Rồi Mị bị A Sử con trai thống lí bắt có về làm vợ theo cướp dâu. Tô Hoài đã tố cáo chế độ cho vay nặng lãi, bóc lột người nghèo một cách dã man của bọn thống trị vùng Tây Bắc thời kì trước cách mạng tháng Tám.

Ngày mới về làm dâu, “có đến hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc” vì Mị phải sống với kẻ mà cô không yêu. Hơn nữa, bề ngoài Mị là con dâu thống lí nhưng thực chất cô là con nợ. Một con nợ thông thường dù khốn khổ vẫn hi vọng một ngày nào đó sẽ trả hết nợ, thoát khỏi thân phận con nợ.

Không thể chịu đựng được sự áp chế cả thể xác lẫn tinh thần của cha con thống lí, Mị trốn về nhà gặp cha, cô tính ăn nắm lá ngón để tìm sự giải thoát. Nhưng trước những lời thống thiết của cha, Mị không muốn cha Mị buồn khổ hơn, cô nén nỗi đau riêng đành trở lại nhà thống lí.

Mị sống cam chịu, không phản kháng. Sau này, bố chết rồi “Mị không còn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa”. Tác giả cắt nghĩa “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi” để minh giải tình trạng nhân vật đày đọa đến mức tê liệt về tinh thần, buông xuôi, phó mặc cho hoàn cảnh. Mị sống thầm lặng, lặng lẽ “Mị ngày càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”.

Mị bị biến thành một thứ công cụ lao động là nỗi cực nhục mà Mị phải chấp nhận. Nhưng Mị còn phải chịu đựng nỗi đau về tinh thần triền miên. Nhà văn miêu tả căn buồng của Mị ở trong nhà thống lí như một nhà tù “ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra chỉ thấy trăng trắng không biết là sương hay là nắng”. Mị bị đày ải bởi lao động khổ sai ở nhà thống lí nhưng đáng sợ hơn là sự đày đọa về tinh thần, nó làm cho Mị sống mà như đã chết.

Với sự cảm thông trân trọng, Tô Hoài đã phát hiện sức sống mãnh liệt tiềm tàng trong con người Mị dẫn cô tới hành động phản kháng táo bạo, quyết liệt. Nhà văn tạo những cảnh, những tình huống hợp lí để vẻ đẹp tính cách nhân vật tỏa sáng.

Cảnh tết đến xuân sang với nhiều hình ảnh, màu sắc rực rỡ của những chiếc váy hoa “phơi trên mỏm đá xòa như con bướm sặc sỡ”, tiếng cười đùa vui vẻ của đám trẻ trước sân nhà, đặc biệt là tiếng sáo rủ bạn đi chơi đã tác động mạnh mẽ đến tâm hôn Mị. Mị nghe “tiếng sáo ngoài đầu núi” vọng lại tha thiết, bổi hổi. Mị ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thôi:

“Mày có con trai con gái rồi

Ta đi tìm người yêu”

Ngôn từ giản dị, mộc mạc của tiếng sáo hàm chứa lẽ sống tự do, phóng khoáng của con người. Tiếng sáo đánh thức đời sống ý thức, làm hồi sinh tâm hồn Mị, bừng lên sức sống tiềm ẩn trong Mị. “Ngày Tết, Mị cũng uống rượu, cứ uống ực từng bát. Rồi say..” ngồi “nhìn mọi người nhảy đồng, người hát nhưng lòng Mị thì đang sống về ngày trước”. Cách uống rượu “ực từng bát” của Mị khiến ta nghĩ cô như đang uống đắng cay của phần đời đã qua và cô như đang uống cái khát khao của phần đười chưa tới.

Rượu có thể làm cơ thể và đầu óc Mị say nhưng tâm hồn cô thì đã tỉnh lại sau bao tháng ngày câm nín bởi sự đày đọa khốn khổ. “Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng”. Tiếng sáo nhắc Mị nhớ lại một thời tươi đẹp, một thời tự do. Có biết bao nhiêu người mê ngày đêm thổi sáo đi theo Mị. Để rồi, sau bữa cơm Tết, mọi người đi chơi thì Mị lại “từ từ bước vào buồng”, “ngồi xuống giường, trông ta cái cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng”.

Bởi vì bị giam hãm lâu ngày, Mị đã thành thói quen. “Chẳng năm nào A Sử cho Mị đi chơi Tết. Mị cũng chẳng buồn đi”. Nhưng Mị thấy “phơi phới trở lại trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước” . Mị thấy mình còn trẻ, Mị muốn đi chơi như bao người phụ nữ có chồng khác. Mị thấy mình còn trẻ, Mị muốn đi chơi như bao người phụ nữ có chồng khác.

Mị ý thức được tình cảm của mình. Ý nghĩ về cái chết là sự phản kháng hoàn cảnh. Nó chứng tỏ Mị đã trở lại chính mình. “Tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường” nghe càng da diết , thôi thúc Mị bước tới hành động “xắn một miếng mở bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”. Khi tiếng sáo “rập rờn” trong đầu, Mị quyết định đi chơi, Mị sửa soạn đi chơi, Mị “quấn lại tóc” “với tay lấy cái váy hoa”, “rút thêm cái áo”.

Hành động của Mị là hành động của một người tự do, theo tiếng gọi của lòng mình. Giữa lúc khao khát tự do trong Mị đang sống dậy thì Mị bị A Sử trói đứng vào cột “không cúi không nghiêng đầu được nữa”. Lúc đó, Mị vẫn là người nửa tỉnh nửa mơ, hồn Mị vẫn lâng lâng theo tiếng sáo, những kí ức tươi đẹp thời thanh xuân khiến Mị “như không biết mình đang bị trói”.

Khi Mị vùng bước đi, sợi dây trói nhắc Mị nhớ tới thân phận trong hiện tại. Mị thổn thức nghĩ “Mình không bằng con ngựa”, vì con ngựa còn được đứng gãi chân, nhai cỏ. Thực tại nghiệt ngã lại bóp chết khát vọng trong Mị. Cả đêm bị trói đứng như thế. Nín khóc Mị lại bồi hồi, có lúc lại nồng nàn thiết tha nhớ…

Sức sống mãnh liệt tiềm tàng trong con người Mị không gì vùi dập được. Ngòi bút của tác giả lánh sâu vào những bí mật của đời sống nội tâm, phát hiện nét đẹp và nét riêng của tính cách nhân vật ngay cả lúc nhân vật đau khổ nhất. Tô Hoài đã cảm thông cho số phận của những con người phải sống trong sự đày đọa của áp bức thống trị. Nhà văn đã lên án và tố cáo sâu sắc một xã hội tàn bạo, xấu xa, nghiệt ngã như vậy. Qua đó, Tô Hoài còn ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn, khát vọng sống mãnh liệt của nhân vật Mị.

Giới thiệu cùng bạn 🍀 Cảm Nhận Nhân Vật Mị Trong Đêm Tình Mùa Xuân 🍀 15 Mẫu Phân Tích Đặc Sắc

Phân Tích Mị Trong Đêm Tình Mùa Xuân Học Sinh Giỏi – Mẫu 8

Tài liệu văn phân tích Mị trong đêm tình mùa xuân học sinh giỏi sẽ mang đến những ý văn đặc sắc và phân tích nhân vật chuyên sâu giúp các em học sinh có được góc nhìn trọn vẹn về nhân vật Mị.

Tô Hoài là một trong những nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông có vốn hiểu biết sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng văn hoá khác nhau trên đất nước ta. Thành công nhất của Tô Hoài là những tác phẩm viết về hiện thực cuộc sống, con người vùng Tây Bắc. Tiêu biểu là truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”.

Tác phẩm vừa là một bức tranh chân thực về số phận bi thảm của người dân nghèo miền núi dưới ách áp bức phong kiến và thực dân, vừa là một bài ca về sức sống và khát vọng tự do, hạnh phúc của con người. Vẻ đẹp ấy đã ngời lên thật trọn vẹn qua diễn biến tâm trạng Mị và sức sống tiềm tàng mãnh liệt của nhân vật này qua đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài.

Trước khi vào nhà thống lý Pá Tra, Mị là một cô gái trẻ đẹp. Trong tác phẩm này, nhà văn không hề dùng mỹ từ nào để tả cái đẹp của Mị, nhưng vẻ đẹp ấy vẫn hiện lên qua chi tiết: “trai đến đứng nhẵn vách đầu buồng Mị”. Mị chính là bông hoa ngát hương của núi rừng Tây Bắc.

Cô có một cuộc sống tự do, hạnh phúc, vô tư giữa tháng ngày tuổi trẻ. Cô gái vùng cao ấy, mỗi khi tết đến xuân về thường làm bao kẻ si tình chết mê, chết mệt bởi tiếng sáo. Mị thổi sáo giỏi “thổi lá cũng hay như thổi sáo, có biết bao người mê ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”.

Không chỉ đẹp người, cô gái ấy còn đẹp nết. Mị giàu lòng hiếu thảo, có tình yêu lao động, yêu tự do, giàu lòng tự trọng. Tô Hoài đã đặt vào miệng Mị tất cả những phẩm chất cao quý ấy qua lời nói đầy tha thiết với cha già: “con nay đã biết cuốc nương làm ngô” (tình yêu lao động); “con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố” (lòng hiếu thảo); “bố đừng bán con cho nhà giàu” (giàu lòng tự trọng).

Khi bị bắt làm dâu nhà Pá Tra, Mị có cuộc sống thống khổ, là nạn nhân của chế độ cho vay nặng lãi, bị tước đoạt tự do, hạnh phúc cá nhân: mở đầu tác phẩm, nhà văn đã giới thiệu nhân vật một cách ấn tượng: “Ai ở xa về có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa”. Lúc nào cô ấy cũng “cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Dáng vẻ ấy của Mị gợi ra hình ảnh một con người có số phận đau khổ.

Dù cuộc sống thống khổ, trong Mị vẫn mãnh liệt một sức sống tiềm tàng và khát vọng tự do, hạnh phúc. Khát vọng ấy đã bùng cháy lên khi mùa xuân đến trên đất Hồng Ngài. Mị đã bước vào cái đêm đáng ghi nhớ ấy thoạt tiên, như một tâm hồn câm lặng cái cô Mị xưa kia trẻ đẹp, khao khát yêu đương và cũng đã được yêu đương, cô Mị ấy tưởng như đã chìm hẳn vào dĩ vãng.

Chỉ còn một người đàn bà “không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, người đàn bà bị cầm tù trong một ngục thất tinh thần (hình ảnh cái buồng có một cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay, lúc nào trông ra cũng chỉ thấy mờ mờ trăng trắng). Đã bao năm rồi, người đàn bà ấy chẳng biết đến mùa xuân, chẳng đi chơi Tết.

Vậy mà vào đúng cái đêm tình mùa xuân năm ấy, Mị thốt nhiên lại muốn đi chơi, và đã sửa soạn đi chơi thực sự. Vì sao vậy? Khó có thể cho là tại đất trời. Thời tiết mùa xuân năm nào chẳng đại loại là như thế.

Lý giải sự đột biến khác thường của Mị trong đêm ấy, là một thử thách thật sự đối với Tô Hoài. Hãy xem bằng cách nào mà nhà văn vượt qua thử thách. Với một người như Mị, muốn đi chơi nghĩa là muốn phá phách, nghĩa là nổi loạn. Cũng với một người như Mị để có thế nổi loạn, thì phải có cái gì có khả năng làm quên đi hiện tại để sống trở về những tháng năm xưa.

Cái đó là men rượu mà Tết năm ấy, Mị đã lén “uống ực từng bát”. “Rồi say Mị lịm mặt ngồi đấy, nhưng lòng Mị thì đang sống về ngày trước”… Rõ nhất là tiếng sáo. Mỗi lần tiếng sáo trở lại chuyện là mỗi lần nó được biến đổi đi từ âm thanh của hiện tại dần dần thành tiếng của những mùa xuân trước.

Từ chỗ ở ngoài Mị, ở xa Mị, dần dần như tiếng ai mời gọi, hồn ai chờ đợi ngoài đường, đế cuối cùng rập rờn trong đầu người thiếu phụ. Tiếng sáo dìu hồn Mị hay là bước đi của hồn Mị được ghi dấu bằng tiếng sáo.. Như thế là sức sống, lòng ham sống đã thức dậy trong lòng người thiếu phụ. Nhưng sự vượt khỏi hoàn cảnh hiện tại của nhân vật không hề đơn điệu, dễ dàng.

Một thời gian dài. Mị sống trong sự giao tranh giữa quá khứ và hiện tại. Quá khứ đẩy đưa đi, hiện tại thì níu lại. (Nên lòng phơi phới mà Mị vẫn theo quán tính bước vào buồng, ngồi xuống giường, trông ra cái cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Và lòng ham sống trào dậy đầu tiên trong ý nghĩa muốn chết ngay chứ không buồn nhớ lại…).

Nhưng sức sống cứ lớn dần, sức ám ảnh của tuổi xuân cứ mạnh dần, cho tới khi nó dường như chiếm trọn tâm hồn Mị. Phải tới lúc đó, Mị mới hành động như một kẻ mộng du. không thấy, không nghe A Sử nói.

Rồi Mị bị A Sử trói trong trạng thái mơ hồ. Mãi về sau, Mị mới cảm thấy cái Hiện tại tàn khốc khi vùng bước đi mà tay chân không cựa được. Nhưng nếu cái mơ không đến một lần ngay tức khắc thì sự tỉnh ra cũng vậy Lại một giai đoạn chập chờn nữa giữa hơi rượu, tiếng sáo với cái đau nhức của dây trói và tiếng chân ngựa đạp vào vách. Nhưng bây giờ thì theo chiều ngược lại, tỉnh dần ra, đau đớn dần lên, tê dại dần đi để dần dần trở lại với vị trí của con rùa lùi lũi trong xó cửa.

Một làn sóng tình cảm đã tan đi, không làm thay đổi mảy may đời Mị. Những cái gì Tô Hoài đã viết về đêm hôm ấy vẫn đầy ý nghĩa. Nó cho thấy sức sống của con người dù bị giẫm đạp, đè nén đến đâu cũng vẫn không bị mất đi. Ý nghĩa ấy khiến ta thêm tin, thêm yêu mến con người. Thứ hai chế độ phong kiến là chế độ buộc trói, giam hãm chống lại con người và sư sống. Chế độ ấy đáng căm thù, lên án cả từ phía nhân danh quyền sống của con người. Một tình tiết nghệ thuật giàu chất nhân đạo và chất thơ.

Tiếp theo bài phân tích nhân vật Mị, đón đọc tuyển tập 🌟 Phân Tích Vợ Chồng A Phủ 🌟 15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất

Cảm Nhận Nhân Vật Mị Trong Đêm Tình Mùa Xuân Nâng Cao – Mẫu 9

Nhân vật Mị trong Vợ chồng A Phủ là một đề tài nghị luận phân tích văn học hay dành cho các em học sinh. Đón đọc dưới đây bài phân tích cảm nhận nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân nâng cao:

Tô Hoài là nhà văn có sức sáng tạo dồi dào nhất trong làng văn chương Việt Nam. Trước Cách mạng, nhà văn nổi tiếng với những câu chuyện về loài vật như “O chuột”, “Dế mèn phiêu lưu ký”. Sau cách mạng nhà văn đã để lại rất nhiều dấu ấn về những tác phẩm viết về đề tài miền núi như “Truyện Tây Bắc”, “Miền Tây”…

Trong tập Truyện Tây Bắc, nổi tiếng nhất là truyện Vợ chồng A Phủ. Tác phẩm để lại dư âm trong lòng người đọc không chỉ là cảnh sắc thiên nhiên núi rừng Tây Bắc với đêm tình mùa xuân của tuổi trẻ dập dìu tiếng sáo mà còn làm xúc động tâm hồn người đọc bởi sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của nhân vật Mị – người con gái Mèo đã đứng lên đấu tranh với giai cấp thống trị miền núi, thoát khỏi kiếp đời nô lệ tủi nhục để trở thành con người tự do.

Mị xuất hiện ngay từ phần mở đầu tác phẩm, gây ám ảnh cho người đọc về một kiếp người héo hắt, tàn tạ “chỉ biết cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Mị không hiện lên bằng chân dung mà hiện lên bởi số phận – một số phận đau buồn về kiếp người làm dâu gạt nợ trong nhà thống lý Pá Tra.

Mị là cô gái trẻ đẹp là bông hoa ngát hương của núi rừng Tây Bắc. Mị tài hoa với điệu sáo làm say mê biết bao nhiêu chàng trai “ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”. Mị yêu lao động “biết cuốc nương làm ngô”. Mị giàu lòng tự trọng và hiếu thảo với cha già. Khi biết tin bố sẽ gạt nợ mình cho nhà thống lý, Mị tha thiết van xin “bố đừng bán con cho nhà giàu”.

Đắng cay thay, đêm tình mùa xuân đẹp nhất của đời người con gái đã biến thành một đêm bi kịch, tủi nhục khi A Sử bắt cóc Mị về nhà thống lý. Và một buổi lễ cúng trình ma sáng hôm sau đó đã trói chặt cuộc đời Mị từ đấy.

Lúc đầu mới về “làm dâu” để phản kháng lại cái sự vô lí ấy, Mị đã “hằng mấy tháng trời đêm nào Mị cũng khóc”. Khóc là biểu hiện của trạng thái tâm lí bị ức chế, không cam chịu, không chấp nhận cái sự thật nghiệt ngã ấy. Mị cũng đã từng nghĩ đến cái chết khi cầm nắm lá ngón về tự tử trước mặt cha nhưng vì thương cha già Mị không đành chết. Mị ném nắm lá ngón xuống đất như ném đi tuổi trẻ hạnh phúc của mình để quay về nhà thống lý chấp nhận kiếp sống trâu ngựa.

Cái địa ngục trần gian ấy đã giam cầm cuộc đời Mị. Tuổi xuân của Mị bị vùi dập đến héo úa, lụi tàn trong căn buồng chỉ độc một cái cửa sổ nhỏ như lòng bàn tay “trông ra ngoài không biết sương hay là nắng”. Mị bị nô lệ hóa trở thành công cụ lao động. Nói đúng hơn là bị bóc lột sức lao động một cách tàn tệ trở thành một súc nô trong nhà thống lý. Cuộc sống của Mị bị vùi vào công việc cả đêm lẫn ngày “tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay xe đay, cuối mùa thì đi nương bẻ bắp…”.

Không chỉ vậy, Mị còn bị bóng ma thần quyền áp chế làm cho tê liệt về tinh thần, mất hết cả ý thức phản kháng. Nhà văn Tô Hoài đã nhiều lần so sánh Mị với con vật (con ngựa, con trâu, con rùa). Từ đó Mị sống trong vô cảm, tâm hồn bị phong kín bởi sự lặng câm, băng giá “càng ngày Mị càng không nói, cứ lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Thử hỏi còn xót xa nào hơn thế nữa không?

Nhưng bằng cảm quan nhân đạo và tấm lòng yêu thương đồng cảm với số phận con người, Tô Hoài đã mang đến cho người đọc những thước phim quay chậm về sự bừng lên của một sức sống tiềm tàng, mãnh liệt đang âm ỉ cháy trong con người Mị. Bên ngoài là một cô Mị lầm lũi như cái bóng, như đã chết nhưng bên trong lại ẩn chứa lòng ham sống.

Sức sống ấy như hòn than nhỏ đang bị vùi lấp trong cái vẻ ngoài lặng câm vô cảm. Vô tình cơn gió của đêm tình mùa xuân đã làm hồi sinh con người Mị, thức dậy cả một kí ức tươi đẹp và trỗi dậy một sức sống, lòng ham sống đến cuồng nhiệt nhưng cũng đầy bi kịch.

Mùa xuân ở Hồng Ngài rộn rã âm thanh và màu sắc. Đó là tiếng cười của trẻ con, màu vàng ửng của cỏ gianh và gió rét dữ dội, là màu đỏ của những chiếc váy hoa phơi trên những mỏm đá xòe ra như những con bướm sặc sỡ và chắc chắn không thể thiếu được “tiếng sáo gọi bạn yêu lửng lơ bay ngoài đường”.

Chính những hình ảnh và âm thanh ấy như một cơn gió thổi tung đám tàn tro đang vây quanh cuộc đời Mị. Đặc biệt qua nghệ thuật trần thuật và miêu tả đặc sắc, Tô Hoài đã mang đến cho người đọc một linh hồn đang cựa quậy hồi sinh đằng sau lớp xác giá băng. Chính tiếng sáo đã tác động đến Mị, góp phần thức tỉnh một tâm hồn nguội lạnh.

Tiếng sáo như sợi dây vô hình nối mị với quá khứ và hiện tại làm sống dậy trong Mị một kí ức tươi đẹp. Nói đúng hơn nó đánh thức cái tài hoa trong Mị. Mị thổi sáo hay, thổi lá giỏi có biết bao nhiêu người mê ngày đêm thổi sáo đi theo Mị. Quá khứ đẹp nhưng đối lập với một hiện tại buồn mênh mang. Mị ngồi nhẩm thầm lời của người đang thổi sáo:

Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta chưa có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu

Tiếng sáo làm Mị mạnh mẽ hơn, Mị thoát khỏi cái lớp xác vô hồn ấy bằng một hành động “nổi loạn nhân tính”. Mị tìm đến rượu, nhưng không phải để tìm vui mà là để giải sầu” Mị uống ực từng bát rồi say”. Mị uống như nuốt căm hận vào lòng. Sự bất bình thường ấy đã nói lên tất cả. Sức chịu đựng có hạn, đã đến lúc cần bùng cháy. Rượu và tiếng sáo chính là chất men say đánh thức phần đời đã mất của Mị, giờ đây Mị không còn lặng câm nữa mà đã hồi sinh.

Mị đang sống về ngày trước và không gì có thể ngăn được niềm vui sướng của Mị “lòng Mị đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước”. Còn gì hạnh phúc bằng khi mình tìm lại được chính mình ? Tô Hoài đã thâm nhập vào mê cung tâm trạng của người phụ nữ này và bằng lòng cảm thông yêu thương sâu sắc, nhà văn đã làm người đọc thực sự xúc động trước những biến đổi về tâm lý của Mị.

“Con rùa nuôi trong xó cửa” ấy đã không còn lùi lũi nữa rồi. Nó đã phá vỡ cái bức tường vô cảm kia để khát khao tìm ra thiên đường mùa xuân của tuổi trẻ, của hạnh phúc. Mị nhận thức được chính mình, đó chính là ý thức về tuổi trẻ. Mị thấy mình còn trẻ “Mị trẻ lắm. Mị hãy còn trẻ. Mị muốn đi chơi”.

Còn trẻ nghĩa là còn sức sống, còn khao khát sống, còn muốn yêu thương. Đúng là một cảm xúc bi kịch: nhận ra mình còn trẻ khi mà tuổi xuân bị tước đoạt rồi và sống trong hoàn cảnh đáng thương này thì đúng là bi kịch. Nhưng dù đó là bi kịch thì Mị vẫn vui sướng vì dù sao Mị vẫn còn là chính mình với trái tim đầy khát vọng.

Nhưng đớn đau thay, cùng với cảm xúc tìm lại được chính mình là một nỗi tủi thân. Tủi thân khi nghĩ về thực tại. Mị đã có chồng nhưng người chồng ấy không tình yêu, không hạnh phúc. A Sử – kẻ khốn nạn ấy đã giam hãm cuộc đời Mị và dẫu “không có lòng với nhau mà cũng phải ở với nhau”.

Cảm xúc ấy như một gáo nước lạnh dội vào mặt, làm tan biến đi tất cả niềm vui sướng mà nãy giờ Mị chắt chiu dành dụm. Còn gì đau khổ bằng lấy một người mà mình không có tình yêu. Còn gì đau khổ bằng phải sống với một kẻ vũ phu chỉ xem mình là món đồ chơi và bị khinh rẻ như súc nô.

Mị lại tưởng đến nắm lá ngón, Mị ước ao có nắm lá ngón trong tay lúc này Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa, nhớ lại nước mắt chỉ ứa ra. Muốn chết để giải thoát nỗi đọa đày, muốn chết để thoát khỏi bi kịch, điều này dễ thông cảm nhưng hơn hết Tô Hoài đã mang đến cho người đọc sự lột xác của Mị. Muốn chết chính là biểu hiện của sức sống. Khi Mị đã hồi sinh, khó có thể nào chấp nhận được thực tại cay đắng này.

Nhưng không có nắm lá ngón, tâm trạng Mị chợt xoay sang hướng khác. Khi mà tiếng sáo gọi bạn yêu ngoài kia đang réo gọi, khi mà cả thiên đường hạnh phúc của mùa xuân phía sau ô cửa nhỏ kia đang nồng nàn, thôi thúc trái tim Mị. Mị không thể ngồi yên được nữa. Mị phải đứng dậy thôi!

Mị hành động trong lặng lẽ. Lặng lẽ nhưng mãnh liệt. Mị đã thắp lên ngọn đèn trong căn phòng u ám, đặc cóng muộn phiền. Ngọn đèn như xua tan đi tất cả cái bóng tối u ám đang bao quanh cuộc đời Mị. Ngọn đèn thắp sáng tâm hồn Mị, đốt cháy cả nỗi khát khao vượt ra khỏi bức tường địa ngục để đến với thế giới ngoài kia đang dập dìu tiếng sáo.

Tô Hoài đã diễn tả thật sâu sắc cái khát vọng cháy bỏng ấy của Mị bằng một đoạn văn ngắn nhưng giàu nỗi cảm thông chia sẻ. Câu văn ngắn, nhịp gấp thể hiện sự trỗi dậy mãnh liệt của nhân vật “Mị quấn lại tóc. Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”. Mị hành động thản nhiên, dù Mị biết A Sử đang hiện diện trong căn buồng của Mị. Nhưng Mị không sợ, bóng ma thần quyền đã không thể nào làm gì được Mị nữa rồi.

Nhưng đớn đau thay, sự độc ác tàn nhẫn của giai cấp thống trị miền núi đã dập tắt đi cái khát vọng và sự trỗi dậy đó của Mị. A Sử đã nhẫn tâm trói Mị bằng một thúng sợi đay, tóc Mị xõa xuống hắn cuốn luôn tóc Mị lên cột làm cho Mị không cúi không nghiêng đầu được nữa.

Nhưng lúc này đây, Mị đâu còn sống bằng thể xác nữa mà Mị đang thực sự đang sống bằng tâm hồn. A Sử trói được thể xác của Mị nhưng không thể nào trói được tâm hồn của Mị. Bởi tâm hồn Mị đã vượt ra khỏi cái lỗ vuông bằng bàn tay kia để sống cùng đêm tình của tuổi trẻ. Thể xác Mị nằm đây, giữa bốn bức tường câm lặng nhưng hồn Mị đang “đi theo những cuộc chơi những đám chơi”.

Tâm hồn Mị ngập đầy tiếng sáo, ăm ắp những kỷ niệm đẹp tươi. Có lúc tiếng sáo nhập cả vào hồn Mị làm Mị bừng lên như ngọn lửa gặp cơn gió lớn “Mị vùng bước đi”. Hành động này cho thấy Mị không hề biết mình đang bị trói (hoặc có thể biết bị trói nhưng đã quên vì sức sống của tâm hồn lớn hơn nỗi đau thể xác). Nhưng rồi “tay chân đau không cựa được” lại đưa Mị về với hiện thực cay đắng “Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”.

Nhưng sức sống ấy vẫn âm ỉ cháy dù đau đớn, tủi nhục. Suốt đêm, Mị lúc mê lúc tỉnh. Lúc mê thì sống trong “hơi rượu tỏa” cùng tiếng sáo mênh mang gọi bạn tình. Lúc tỉnh thì “nồng nàn tha thiết nhớ”. Có một chi tiết rất đắt khi nhà văn kết thúc diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm tình mùa xuân. Đó là chi tiết: Mị tỉnh dậy và nhớ lại câu chuyện người đàn bà bị chồng trói chết trong căn nhà này. Và Mị đã sợ, sợ chết “Mị cựa quậy xem thử mình còn sống hay đã chết”.

Sợ chết là biểu hiện của lòng ham sống. Sức sống trong con người khốn khổ ấy đã không lụi tàn mà ngược lại vẫn mãnh liệt như những đợt sóng ngầm gầm gào trong lòng đại dương tưởng như không gì có thể dập tắt nổi.

Nói như nhà văn Lỗ Tấn “Một tia lửa hôm nay báo hiệu một đám cháy ngày mai”. Chắc chắn đợt sóng ngầm ấy sẽ hứa hẹn trở thành đợt sóng thần của ngày mai. Đó là đêm cởi trói cho A Phủ một năm sau đó. Đây không phải là hành động mang tính bản năng. Đúng hơn, cùng với sự trỗi dậy của ký ức, khát vọng sống tự do, Mị giải thoát cho A Phủ và giải thoát cho cả bản thân mình! Hành động táo bạo và bất ngờ ấy là kết quả tất yếu của sức sống tiềm tàng khi người con gái yếu ớt dám chống lại cả cường quyền và thần quyền.

Thành công của nhà văn khi miêu tả sự hồi sinh của nhân vật đó chính là nhờ vào nghệ thuật trần thuật hấp dẫn. Cách dựng cảnh sinh động. Cách lột tả nội tâm nhân vật nhiều bất ngờ thú vị. Ngôn ngữ mộc mạc giản dị. Tất cả đã tạo nên giá trị nhân văn sâu sắc của tác phẩm, góp phần mang đến cho người đọc sự xúc động mãnh liệt trước số phận của đồng bào miền núi Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn chủ nô và lũ Tây đồn.

Vợ chồng A Phủ đã để lại trong lòng người đọc vẻ đẹp của lòng nhân đạo, tình yêu thương đồng cảm sâu sắc với những kiếp người nghèo khổ. Qua hình ảnh nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân, nhà văn đã làm hiện lên vẻ đẹp của một sức sống tiềm tàng mãnh liệt của người phụ nữ miền núi nói riêng và người phụ nữ Việt Nam nói chung.

Sức sống tiềm tàng ấy giúp nhà văn khẳng định được sức mạnh của tâm hồn con người Việt Nam và chân lí muôn đời: ở đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự đấu tranh để chống lại nó dù đó là sự vùng lên một cách tự phát như Mị. Đây chính là cuộc đấu tranh đi lên từ tự phát đến tự giác theo ánh sáng của cách mạng. Đó là giá trị nhân văn ngời sáng của tác phẩm.

Đọc nhiều hơn với 10 Mẫu Phân Tích Tâm Trạng Nhân Vật 🔥 Mị Trong Đêm Đông Cứu A Phủ 🔥 Hay Và Đặc Sắc Nhất

Phân Tích Nv Mị Trong Đêm Tình Mùa Xuân Chọn Lọc – Mẫu 10

Với bài phân tích nv Mị trong đêm tình mùa xuân chọn lọc, các em học sinh có thể luyện tập nâng cao kỹ năng phân tích nhân vật văn học và hoàn thành tốt bài viết phân tích nhân vật Mị của mình.

Tô Hoài là một nhà văn lớn, có số lượng tác phẩm đạt kỉ lục trong văn học hiện đại Việt Nam, các sáng tác của ông thiên về diễn tả sự thật đời thường với lối viết giản dị, gần gũi, thông tục. Truyện ngắn “ Vợ chồng A Phủ” in trong tập “Truyện Tây Bắc” là một tác phẩm tiêu biểu, sau hơn nửa thế kỉ, đến nay vẫn giữ nguyên vẹn sức hút với nhiều thế hệ người đọc.

Tác phẩm xoay quanh số cuộc sống của nhân vật Mị, đặc biệt là diễn tả diễn biến nội tâm của cô trong từng giai đoạn và đêm tình mùa xuân là một cảnh tác động lớn diễn biến tâm lí và hành động của người con gái vùng núi này.

Vì sao sau bao nhiêu năm sống lầm lũi như con rùa nuôi nơi xó cửa, chấp nhận cuộc sống chẳng bằng con trâu, con ngựa, sức sống của Mị lại chợt hồi sinh trong đêm tình mùa xuân? Phải chăng không khí mùa xuân đến bất ngờ cùng hội xuân, sắc áo váy rực rỡ và những cuộc chơi đã ảnh hưởng đến Mị? Hay chẳng phải sắc màu cũng chẳng phải hương xuân mà chính là tiếng sáo thân quen.

Tiếng sáo gọi bạn tình vốn đã quen thuộc, đi vào nếp sống của người dân Hồng Ngài, họ dùng tiếng sáo để thể hiện tình yêu, để nói lòng mình. Nghe tiếng sáo, Mị lại bồi hồi nhớ lại quá khứ của mình, tiếng sáo đưa Mị theo những cuộc chơi, hình ảnh tiếng sáo quan trọng đến mức được lặp lại hơn mười lần trong tác phẩm.

Tiếng sáo tuy giản dị, mộc mạc nhưng lại khiến lòng người thiết tha bồi hồi, bởi nó tượng trưng cho tình yêu trai gái. Tiếng sáo khơi dậy trong người con gái vốn tưởng đã chết về mặt tinh thần sống lại quá khứ tươi đẹp, cái ngày mà cô thỏa sức vùng vẫy trong tự do và tình yêu.

Chính tiếng sáo đã tác động mạnh mẽ đến sức sống tiềm tàng trong Mị. Bên cạnh tiếng sáo, men rượu cũng là một yếu tố khiến Mị có sự thay đổi. Mị uống ực từng bát, uống như một tên sâu rượu, Mị uống để quên đi hiện tại khốn khổ, nhục nhã và cũng để không nhớ đến tương lai mờ mịt, không có gì để hi vọng. Hành động uống rượu ấy đã nói lên nỗi oan khuất đau buồn trong trái tim người con gái nhưng cũng tiếp thêm sức mạnh để người con gái ấy bừng tỉnh sức sống.

Từ những chất xúc tác từ bên ngoài ấy cùng bản chất mạnh mẽ, tràn đầy sức sống, Mị đã hồi sinh cảm xúc trong đêm tình mùa xuân. Nghe tiếng sáo, Mị bỗng cảm thấy tha thiết, bồi hồi. Những cảm xúc nhẹ nhàng ấy khiến Mị nhớ về quá khứ – một quá khứ tươi đẹp mà chẳng bao giờ Mị dám hi vọng có thể sống lại một lần nữa. Ngày ấy, Mị thổi lá cũng hay như thổi sáo, tài năng cùng với sắc đẹp của nàng khiến bao chàng trai Hồng Ngài mê đắm, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị.

Từ những hồi ức đẹp đẽ ấy, Mị thấy phơi phới trở lại và cô nhận ra mình vẫn còn trẻ. Thật kì lạ khi người ta không biết trạng thái của bản thân ra sao để rồi một ngày chợt nhận ra mình vẫn còn trẻ. Điều ấy chẳng khác nào bao ngày qua, Mị không biết mình đang sống hay chỉ là tồn tại như một cái xác và đêm nay, cô mới chợt tỉnh, nhận thức được mình vẫn còn trẻ, mình vẫn còn sống và mình phải làm điều gì để chứng minh điều đó. Điều đầu tiên cô muốn làm khi sống lại cảm giác chính là muốn đi chơi.

Bao năm rồi, kể từ khi bị gả về nhà thống lí Pá Tra, làm vợ A Sử, Mị đều không đi chơi xuân, mặc dù những người đàn bà có chồng khác vẫn đi chơi. Mị muốn ra ngoài, không còn muốn yên phận sống trong căn phòng kín mít, chỉ có một ôi cửa sổ nhỏ, hằng ngày nhìn ra không biết là sáng hay tối nữa. Cô bắt đầu sửa soạn, cô lấy chiếc váy hoa, cho thêm mỡ vào đèn để thắp sáng căn phòng tăm tối và quấn tóc.

Đây là những hành động được coi là phản kháng của Mị, cô đã bắt đầu có những phản ứng với cuộc sống, đã hồi sinh cảm xúc. Nhưng ngay khi ngọn lửa sức sống đang bùng cháy mạnh mẽ thì lại bị dập tắt, con người tàn nhẫn ấy không ai khác chính là A Sử – con trai thống lí và cũng là chồng Mị. Hắn đột nhiên về nhà và thấy lạ khi thấy Mị sửa soạn đi chơi. Con người ấy đã trói Mị lại, độc ác hơn, hắn lấy tóc Mị quấn quanh cột, không cho Mị cử động.

Nhưng dù bị trói, hơi rượu vẫn nồng nàn trong Mị, chi phối lí trí cô. Cô nghe thấy tiếng sáo, tiếng sáo gọi bạn tình của ai kia mà như gọi lòng cô, bất giác cô bước đi, cô muốn đi theo tiếng sáo tình yêu ấy, đó mới chính là cuộc sống đáng lẽ cô được hưởng. Nhưng dây trói cứa vào da thịt, nỗi đau thể xác làm cô bừng tỉnh. Cô đành lòng phải trở lại với hiện thực đắng cay, rằng thân phận mình không bằng con ngựa nhà thống lí. Đau xót thay.

Sự hồi sinh sức sống của Mị trải qua cả một quá trình diễn biến từ những cảm xúc hồ tưởng về quá khứ đến hành động phản kháng muốn đi chơi và cuối cùng nhận thức ra một điều quan trọng. Lúc trước, Mị đã coi mình là con trâu, con ngựa nhà thống lí mà đã là con trâu, con ngựa thì không có suy nghĩ, chúng chỉ biết ăn và làm việc mà thôi nhưng lúc này Mị đã hiểu ra, trong ngôi nhà này, đến cả con trâu, con ngựa mình cũng không bằng.

Sự hồi sinh sức sống này do nguyên nhân khách quan là tiếng sáo và men rượu nồng nó chưa đủ sức mạnh để tạo nên những hành động mạnh mẽ để tự giải thoát mình, chính vì thế sau đó, Mị lại trở lại cuộc sống như cũ.

Qua nghệ thuật miêu tả tâm lí cùng việc sử dụng ngôn ngữ giản dị, thông dụng, Tô Hoài dường như đã vẽ lên trước mắt người đọc hình ảnh một người con gái mạnh mẽ, tuy đã bị vùi dập, tưởng chỉ còn cái xác không hồn nhưng bên trong vẫn tiềm tàng ẩn chứa sức sống mãnh liệt, chỉ tìm cơ hội để hồi sinh, để bùng cháy.

Mời bạn đón đọc 🌜 Phân Tích Sức Sống Tiềm Tàng Của Mị 🌜 12 Bài Văn Về Nhân Vật Mị Hay

Phân Tích Nhân Vật Mị Trong Đêm Mùa Xuân Đầy Đủ – Mẫu 11

Tham khảo bài văn mẫu phân tích nhân vật Mị trong đêm mùa xuân đầy đủ dưới đây sẽ giúp các em học sinh củng cố lại những nội dung kiến thức về nhân vật Mị cũng như phương pháp phân tích.

Văn học Việt Nam đánh dấu sự thành công của nhiều tác giả viết truyện ngắn như Kim Lân, Năm Cao, Vũ Trọng Phụng,.. Đặc biệt ,Tô Hoài là tác giả tiêu biểu với phòng cách viết độc đáo, mỗi tác phẩm của ông đều cho thấy tài năng bậc thầy trong việc khai thác tâm lý nhân vật.

Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” là thành công rực rỡ của ông trong sự nghiệp sáng tác của đời mình, bằng ngòi bút điêu luyện ông đã đi sâu vào từng ngóc ngách của tâm hồn nhân vật. Đặc biệt, trong đêm tình mùa xuân, những diễn biến tâm lý và hành động của nhân vật Mị được thể hiện rất chi tiết, cụ thể giàu sức gợi.

Mị vốn là cô gái xinh đẹp, giàu lòng yêu thương và tràn trề sức sống nhưng xã hội phong kiến đầy bất công và tàn nhân đã đẩy cuộc đời Mị vào khốn khổ bần cùng, kiếp làm dâu cũng là kiếp nô lệ nơi nhà tên thống lý độc ác. Có những lúc tưởng chừng như Mị muốn kết liễu cuộc đời mình bởi sự khốn cùng ấy.

Cuộc sống trong tâm tối, kiếp làm trâu làm ngựa có thể khiến Mị khổ đau, buồn tủi, bòn rút hết sức lực nhưng không thể làm cho sức sống tiềm tàng trong Mị mất đi, nó dường như đang âm ỷ trong lòng chỉ chờ cơ hội để bung toả, cháy sáng giữa chốn bần cùng, tăm tối ấy. Mùa xuân đến, khi mà nơi nơi đang rạo rực sức xuân “trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa xếp trên đầy các nhà kho. Trẻ con đi hái bí đỏ, tinh nghịch, đã đốt những lều canh nương để sưởi lửa…

Hồng Ngài năm ấy ăn tết giữa lúc gió thổi và cỏ ranh vàng ửng… Trong các làng Mèo, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xoè như con bướm, sặc sỡ… Đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân trước nhà. Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi…” Những khung cảnh ngày xuân đang tới khiến tâm hồn Mị như đang được sưởi ấm, trái tim người con gái vốn đang hoen rỉ giờ đây vc dịp hồi sinh, tỉnh thức.

Bao nỗi đau đớn, buồn tủi hòa trong hạnh phúc, vui sướng, những cảm xúc thiết tha ấy đang trào dâng như những đợt dâng trào trong lòng Mị. Đặc biệt, khi nghe tiếng sáo gọi bạn tình nơi đầu vách núi vọng lại, tâm hồn Mị dường như được tưới lên một sức sống, tiếp lên một thứ tình cảm thôi thúc Mị, Mị lúc này trở nên biết yêu và biết cảm nhận mọi vật xung quanh hơn, tiếng hát câm nín bấy lâu đang cật lên nhịp nhàng trong từng hơi thở của cô gái, tiếng hát thầm ấy chứa chan bảo nỗi lòng, bao nỗi tâm sự:

“Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu.”

Rồi Mị tìm đến hơi rượu “Mị uống ừng ực từng bát”, men rượi đã làm Mị quên đi thực tại khổ đau của mình, men rượ đưa Mị về với những ngày thành xuân khi quá khứ còn tươi đẹp, những ngày Mị được tự do vui sống trong hạnh phúc, được cất tiếng hát trong trẻo yêu thương, được biết bao người con trai đem lòng yêu mến. Đó là những ngày rực rỡ Mị được sống với chính mình.

Càng say, bao nỗi đớn đau trong Mị dần quên đi, Mị uống hết tất thảy những tủi hờn đắng cay mà bấy lâu đang chịu đựng, quá khứ đẹp đẽ thôi thúc Mị hành động, trong Mị ngập tràn một sức sống mới, nổi loạn hơn, rạo rực hơn. Trong Mị lúc này, nội tâm đang ngập tràn mâu thuẫn, những sự giằng xé giữa quá khứ và hiện tại, quay quắt giữa thực tại tù túng, khốn cùng và khát khao sống tự do, khát khao hạnh phúc chân chính của đời mình.

Mị sung sướng vô cùng, sống lòng đang trào dâng từng đợt thôi thúc nàng hành động, tâm tư Mị đang sục sôi khôn tả :” rồi Mị lấy ống mỡ sẵn bỏ thêm vào đĩa dầu” , nàng đang thắp lên ngọn lửa lòng, ngọn lửa của màn đêm tăm tối ,ngọn lửa cuộc đời giữa số phận đắng cay là ngọn lửa của niềm tin, nhen nhóm hy vọng của tương lai tốt đẹp.

Rồi bỏ mặc hết tất thảy những cấm đoán, ràng buộc ,”Mị quấn lại tóc, với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách” , một hành động dũng cảm và đầy bản lĩnh. Lúc này đây, Mị khao khát được là mình, được làm đẹp, được đi chơi Tết như bao nhiêu người con gái khác, bấy lâu Mị đã khổ quá rồi. Đây là một hành động chứng tỏ sức sống mãnh liệt , Mị đang vùng vẫy hết mình để đấu tranh cho quyền sống và quyền tự do của đời mình.

Nhưng rồi, thực tại phũ phàng Mị vẫn không thể tránh khỏi khi bóng dáng tên chồng vô lương tâm A sử cùng lời quát mắng tàn độc dần xuất hiện: “Mày muốn đi chơi à”, rồi hắn trói Mị vào cột nhà một cách đầy dã man như một con ác thú tàn độc. Hắn đã trói buộc cuộc đời Mị bấy lâu, giờ đây ngày cả cái ước muốn nhỏ nhoi được đi chơi xuân cũng bị hắn cấm đoán.

Nhưng dù thể xác có bị cầm tù thì tâm hồn nàng vẫn đang vươn cao cất cánh, bay bỏng tới những khung trời của mùa xuân, của tình yêu, của tiếng sáo đêm xuân tình. Quá khứ đã đưa Mị về với những cảm xúc vẹn nguyên, tròn đầy nhất, quá khứ đã níu giữ khát khao được sống, lòng yêu cuộc sống của nàng. Khi Mị chợt tỉnh, cũng là lúc cái đau thể xác với những dây trói đang xiết vào từng thớ thịt Mị khiến nàng đau đớn, nỗi tủi nhục khi nghĩ cuộc đời mình lại chẳng bằng một con ngựa trong chuồng.

Nàng vùng bước đi nhưng những sợi đay đã trói chặt nàng. Hình ảnh cô gái miền núi Tây Bắc với bao nét đẹp trong tâm hồn, một cô gái luôn giữ trong mình một ngọn lửa của sức sống, ngọn lửa ấy thật thiêng liêng và quý giá. Trong bần cùng, đau khổ, bao áp bức, bất công, tàn nhẫn, trong hoàn cảnh đau thương nhất vẫn không vùi tất được ngọn lửa lòng trong Mị, một sức sống bất diệt, không một thế lực nào có thể giết chết đi sức sống tiềm tàng của những con người dũng cảm, tin yêu cuộc sống.

Bằng cách miêu tả tâm lí độc đáo, Tô Hoài đã đưa người độc được sống với từng cảm xúc của nhân vật, một cô gái Mị mà mãi mãi có lẽ ai đã đọc tác phẩm một lần cũng không thể nào quên. Tác phẩm như một thông điệp mạnh mẽ về tinh thần lạc quan, về nghị lực sống, nghị lực vươn lên, đấu tranh với những độc ác, bất công để tìm lấy hạnh phúc, tự do cho cuộc sống chính mình.

Cùng với phân tích nhân vật Mị, SCR.VN tặng bạn 💧 Phân Tích Nhân Vật A Phủ 💧 10 Bài Văn Mẫu Ngắn Hay Nhất

Vợ Chồng A Phủ Mị Trong Đêm Tình Mùa Xuân Phân Tích Chi Tiết – Mẫu 12

Vợ chồng A Phủ Mị trong đêm tình mùa xuân phân tích chi tiết sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích đối với các em học sinh trong quá trình làm bài viết về nhân vật Mị. Chia sẻ dưới đây bài văn mẫu phân tích nhân vật Mị đặc sắc chọn lọc:

Nhắc đến Tô Hoài là nhắc đến một cây bút với khả năng sáng tác dồi dào, phong phú ở nhiều thể loại, mà ở thể loại nào ông cũng để lại những tác phẩm, những dấu ấn xuất sắc từ truyện thiếu nhi, hồi ký, truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản phim,…

Ở mảng văn học hiện thực Tô Hoài đã ghi dấu ấn với tập truyện Tây Bắc bao gồm ba truyện ngắn nói về cuộc sống của người dân tộc miền núi phía Bắc những năm tháng trước cách mạng tháng tám. Trong đó Vợ chồng A Phủ là tác phẩm được biết đến nhiều nhất bởi những giá trị nhân văn, nhân đạo sâu sắc được lồng ghép trong bối cảnh hiện thực đất nước lúc bấy giờ.

Có thể nói rằng Tô Hoài chính là người tiên phong “mở đất” khi viết về đời sống của các dân tộc miền núi phía Bắc, đặc biệt hơn là đi sâu vào những bất hạnh và vẻ đẹp tiềm ẩn trong tâm hồn của người phụ nữ dân tộc thiểu số dưới ách áp bức của cả cường quyền, lẫn thần quyền.

Mị trong Vợ chồng A Phủ chính là một điển hình cho những số phận bất hạnh, đau khổ tột cùng của vùng trời Tây Bắc, cuộc đời Mị tưởng như đã chết từ khi bước chân vào nhà thống lý Pá Tra, thế nhưng với sức sống tiềm tàng mạnh mẽ, khao khát tự do tột độ, trong đêm tình mùa xuân ấy, Mị đã thức giấc, bắt đầu phản kháng, tìm lối thoát cho riêng mình.

Mị xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo, bố Mị phải đi vay tiền cưới vợ, món nợ ấy mãi đến khi Mị đã lớn khôn, trở thành một cô gái xinh đẹp, giỏi giang mà vẫn chưa trả hết nợ. Chính món nợ truyền kiếp khốn khổ đó đã kéo theo cuộc đời của Mị xuống những bất hạnh tột cùng. Vì để trả nợ cho cha, Mị phải chấp nhận làm con dâu gán nợ cho nhà thống lý Pá Trá, bị bắt ép chung sống với A Sử, người mà Mị không thương, chấp nhận từ bỏ tình yêu của cuộc đời.

Ngày đầu tiên về là dâu, Mị đã bỏ trốn về nhà, trong tay cầm nắm lá ngón chỉ muốn chết quách đi cho xong, Mị đã cố gắng vùng vẫy, phản kháng để chống lại số phận. Thế nhưng Mị chết rồi thì lấy ai trả nợ cho người cha già, cái hiếu, cái tình đã giữ Mị ở lại với cuộc đời này, thế nhưng Mị sống cũng chẳng khác nào cái xác không hồn, chỉ đơn giản là đang tồn tại.

Mang tiếng về làm dâu nhà giàu, nhưng Mị sống không khác gì một nô lệ, làm việc quần quật không kể ngày đêm, liên tục từ mùa này qua tháng khác, chưa từng ngơi nghỉ đến một ngày. Cái khổ sở về thể xác cùng với sự hành hạ về tinh thần khi phải chung sống với người đàn ông vũ phu dường như đã giết chết trái tim, giết chết tâm hồn Mị. Mị tựa như một cỗ máy lao động, suốt mấy năm trời người ta chẳng nghe Mị nói chuyện lần nào, cứ lặng im, “lầm lũi như con rùa trong xó cửa”, đi qua từng năm tháng khổ đau.

Rõ ràng là một cô gái xinh đẹp có tài thổi sáo, tuổi đời tầm hai mươi thế nhưng lại sống như một nắm tro tàn, lạnh lẽo, đơn độc, thậm chí không còn cảm nhận được niềm vui sướng hay đau khổ bởi “ở lâu trong cái khổ, Mị cũng quen khổ rồi. Bây giờ Mỵ tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa. Con ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”.

Ấy vậy mà trong sự chai lì đến vô cảm, không thiết tha với cuộc đời, Mị vẫn còn nhận thức được cái khổ đau không bằng loài trâu ngựa của người đàn bà sống trong nhà thống lý Pá Tra rằng “Con ngựa, con trâu làm có lúc, đêm còn được đứng gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này vùi vào việc cả đêm cả ngày”.

Chi tiết nhỏ này đã khắc họa mạnh nỗi đớn đau, bất hạnh cùng cực không chỉ của riêng nhân vật Mị mà là của chung nhiều những thân phận đàn bà khác ở Hồng Ngài, là người nhưng sống kiếp không bằng loài vật nuôi, đớn đau đến tột cùng.

Không chỉ là nỗi đau về thể xác khiến Mị trở nên chai sạn, mà thực tế chính những vết thương trong tâm hồn mới khiến Mị trở nên thờ ơ với tất cả. Từ một cô gái xinh đẹp, thổi sáo, thổi lá giỏi, được biết bao chàng trai si mê, lại có một tình yêu đẹp tưởng như gần đâm hoa kết trái, Mị bỗng trở thành con dâu gán nợ, chịu cảnh chung đụng với một kẻ thô lỗ, bị giam cầm trong một căn phòng tối tăm chỉ có một ô cửa sổ bé bằng lòng bàn tay lúc nào cũng mờ mờ không biết là màu sương hay là màu nắng.

Mị phải từ bỏ tất cả những mong ước của đời mình, từ bỏ cuộc sống tự do, chôn vùi tuổi trẻ trong cuộc hôn nhân gán nợ, lấy người chồng sang giàu nhưng chẳng khác nào địa ngục trần gian. Mị không có quyền được lựa chọn, không có một con đường nào khác, cô chỉ còn cách bọc mình lại trong cái vỏ chai lì, lầm lũi để tiếp tục những ngày tháng tối tăm, tuyệt vọng.

Những tưởng cuộc đời Mị cứ mãi thinh lặng, bế tắc và vĩnh viễn bị chôn vùi dưới cái ách của thần quyền và thần quyền, thế nhưng chính đêm tình mùa xuân cùng với tiếng sáo gọi bạn réo rắt – âm thanh của sự sống trong Vợ chồng A Phủ, dường như đã đánh thức tâm hồn Mị. Một tâm hồn chưa chết hẳn, nằm sâu trong nắm tro tàn ấy chính là những hòn than nóng bỏng, vẫn nồng nhiệt niềm khao khát được sống, được tự do của Mị, chỉ trực chờ ngày được phất lên ngọn lửa rực rỡ.

Khi mùa xuân đến, những cô gái, chàng trai trẻ tuổi nô nức hẹn hò, người ta khoác lên mình những bộ váy áo màu sắc sặc sỡ, thổi sáo, thổi lá tình tứ suốt ngày này qua ngày nọ. Mị nghe thấy tiếng sáo vọng lại “thiết tha bổi hổi”, trong vô thức mị bất chợt lẩm nhẩm theo bài hát của người vừa thổi, những câu hát mà có lẽ đã lâu lắm rồi Mị không còn nhắc tới.

Có thể nói rằng, ở một chi tiết nhỏ này, người ta đã thấy được trái tim vốn chai sạn của Mị hình như đang dần sống lại, bởi lẽ làm gì có người nào lại hát khi tâm hồn đã nguội lạnh. Những câu hát ấy, dù không thành tiếng, thành lời thế nhưng nó lại là tiếng vang của tâm hồn, một tâm hồn khởi sắc, dần bước ra khỏi lớp vỏ chai lì bấy lâu nay vẫn mang.

Sự thay đổi trong tâm hồn Mị càng được bộc lộ rõ ràng thông qua chi tiết Mị uống rượu “Ngày Tết Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát”. Trên thực tế Mị ở trong nhà thống lý Pá Tra không hề có một vị trí nào, cô sống cuộc đời còn bần cùng khổ sở hơn cả loài vật nuôi, thế nên việc uống rượu đối với Mị là một sự kiện xa xỉ, thậm chí nếu bị bắt được có lẽ Mị sẽ bị đánh trói, bắt phạt.

Dù thế nhưng Mị vẫn lén lấy rượu uống, điều đó giống như là một sự phản kháng, Mị muốn đòi quyền lợi cho mình, cả nhà thống lý đều được uống rượu ăn Tết đủ đầy, Mị cũng muốn được như vậy, Mị muốn một lần được sống như con người ở cái nơi đã mang đến cho Mị biết bao nhiêu là đau khổ.

Và cứ thế Mị uống rượu ừng ực, từng bát, uống không phải để thỏa mãn cái niềm khao khát, thèm muốn, mà dường như Mị đang cố uống cho trôi đi hết tất cả những uất ức khổ đau, cũng là cái cách mà cô thể hiện sự phẫn nộ, khó chịu trong lòng bấy lâu nay. Trong men rượu cay, Mị bỗng nhớ về những ngày xa xăm, khi Mị còn chưa bị ép làm dâu nhà thống lý, cô cũng có một cuộc sống tươi đẹp, tương lai đầy hứa hẹn, khi bản thân Mị là người con gái tài sắc vẹn toàn, chăm chỉ lao động, lại có một tình yêu đẹp sắp đơm bông.

Thế nhưng chỉ trong một đêm tất cả đã trở thành ác mộng, càng nghĩ Mị lại càng ngẩn ngơ trong hoài niệm. Thế rồi người cũng về hết, còn lại một mình Mị ngồi trơ giữa nhà, trong lòng Mị bỗng nảy ra điều gì đó, Mị đứng dậy đi vào buồng “Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước”.

Tâm hồn tưởng đã chết của Mị đã thực sự sống lại một cách diệu kỳ, đã biết bao lâu rồi Mị không còn cảm nhận được cái cảm giác vui sướng, cái phơi phới của một tâm hồn son trẻ, có lẽ là từ lúc Mị bước chân vào nhà thống lý Pá Tra. Không chỉ là về cảm xúc mà dấu ấn chứng minh cho sự sống lại của tâm hồn Mị còn nằm ở nhận thức về cuộc đời về tuổi trẻ của mình “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ”, đồng thời bộc lộ thành khao khát, ước muốn rằng “Mị muốn đi chơi”.

Có thể nói rằng đến lúc này niềm khao khát tự do, khao khát được sống, được hưởng thụ cuộc đời của Mị đã bộc lộ một cách rõ rệt nhất. Mị không còn là người đàn bà trẻ tuổi sống lầm lũi, thinh lặng, chịu đựng trong nhà thống lý Pá Tra với khuôn mặt lúc nào cũng buồn rười rượi nữa, mà đã gần như khôi phục được sự sống quay về với bản tính con người trước kia, một cô gái trẻ đẹp, yêu đời, giỏi thổi sáo, bắt đầu dám phản kháng lại để giành lại hạnh phúc cho bản thân.

Thế nhưng không may rằng dù tâm hồn Mị đã được cởi trói, nhưng thân xác Mị vẫn nằm trong sự khống chế của cường quyền. Trong lúc Mị định thay vào chiếc váy rực rỡ để đi chơi thì A Sử về, nó không cho Mị cái quyền được chơi Tết mà tàn ác túm tóc Mị, rồi trói cô vào cây cột nhà bằng sợi đay, cắt đứt hết những niềm vui sướng vừa nảy nở trong tâm hồn người phụ nữ tội nghiệp.

A Sử đi rồi, để lại một mình Mị với căn buồng tối đen, trong hoàn cảnh ấy cứ nghĩ rằng Mị sẽ sụp đổ và tuyệt vọng thêm một lần nữa, nhưng không, “Mị đứng im lặng, như không biết mình bị trói”, lòng Mị vẫn đang nghĩ về những cuộc chơi, những đám chơi mà Mị khao khát. Dường như dây trói của A Sử có chặt hơn nữa, thì cũng chỉ giữ lại được thân xác này của Mị chứ không thể trói buộc được cái tâm hồn khao khát tự do mãnh liệt của cô.

Mị bắt đầu phản kháng “Mị vùng bước đi” nhưng dây trói siết lại, “tay chân đau không cựa được”, nghe tiếng ngựa đạp vào vách, Mị lần nữa ý thức được nỗi đau thân phận rằng bản thân thậm chí còn chẳng bằng con ngựa. Bởi lẽ, con ngựa còn được tự do đôi chân mà đạp vào vách, còn Mị cả chân tay đều bị trói cứng không thể cựa quậy, Mị chảy nước mắt, nghĩ về cuộc đời đau khổ của mình bằng một tâm thế xót xa, cái mà bao lâu nay Mị dường như đã bỏ qua.

Đêm tình mùa xuân đã kết thúc bằng việc Mị bị trói đứng trong buồng ngủ, thế nhưng đó không phải là sự kết thúc, mà thực tế rằng tất cả những sự kiện diễn ra tuần tự đều có ý nghĩa dần dà đánh thức tâm hồn đang nép kỹ trong lớp vỏ chai sần của Mị. Cho đến khi Mị hoàn toàn ý thức được nỗi đau thân phận, ý thức được giá trị của bản thân, cùng với niềm khao khát mãnh liệt được sống, được tự do, thì cũng chính là lúc Mị hoàn toàn sống lại một cách đúng nghĩa cả thể xác lẫn tinh thần.

Sự kiện A Sử trói Mị chính là tiền đề, khởi đầu cho những sự phản kháng mạnh mẽ, tự giải thoát cho người khác và cho chính bản thân Mị, để tìm đến một cuộc đời, một tương lai mới tốt đẹp hơn.

Mị trong Vợ chồng A Phủ là một nhân vật điển hình cho nhiều đồng bào miền núi phía Bắc có số phận bất hạnh, phải chịu cảnh áp bức bóc lột của cả cường quyền và thần quyền trong giai đoạn trước cách mạng tháng tám.

Với tình cảm gắn bó tha thiết và đôi mắt thấu hiểu của mình Tô Hoài không chỉ phản ánh hiện thực xã hội đầy khắc nghiệt mà còn thông qua đó bộc lộ những vẻ đẹp tiềm ẩn trong từng nhân vật, mà ở Mị là vẻ đẹp tài năng, nhan sắc, nhân cách, sự khao khát tự do mãnh liệt, tình yêu cuộc sống tha thiết, sự phản kháng mạnh mẽ đối với những bất công mà cô phải gánh chịu, để tự giải thoát cho chính bản thân và cả người khác.

Chia sẻ thêm cùng bạn 🍀 Phân Tích Nhân Vật Mị Trong Đêm Tình Mùa Đông 🍀 16 Mẫu Hay Và Đặc Sắc Nhất

Phân Tích Mị Đêm Tình Mùa Xuân Văn Mẫu Sinh Động – Mẫu 13

Với những ý văn phân tích Mị đêm tình mùa xuân văn mẫu sinh động dưới đây, các em học sinh có thể trau dồi thêm cho mình cách hành văn giàu hình ảnh và ý nghĩa biểu đạt, cũng như hiểu thêm sâu sắc hơn về nhân vật.

Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn được nhà văn Tô Hoài viết vào năm 1952 được in trong tập “Truyện Tây Bắc” (1953) được lấy cảm hứng từ một sự kiện có thật khi chính nhà văn Tô Hoài đã được sống và chứng kiến chính cuộc sống của những người dân nghèo nơi vùng cao xa xôi này.

Nhà văn Tô Hoài đã thấy được cảnh những số phận con người biến thành nô lệ bị chế độ địa chủ cường hào thống lí áp bức bóc lột khiến sống không bằng chết. Hệ thống nhân vật mà Tô Hoài xây dựng nên cũng là những số phận tiêu biểu cho những tầng lớp tiêu biểu trong xã hội xưa chính là thống lí Pá Tra – địa chủ giàu có nhưng tàn ác, Mị và A Phủ – những người nông dân lao động hiền lành nhưng phải chịu đày đọa cả về thể xác lẫn tinh thần.

Nhân vật Mị được nhà văn giới thiệu từ giữa cuộc đời đi ra. Mở đầu truyện nhà văn đưa người đọc đến với thế giới của truyện cổ tích, với miền đất xa xôi Tây Bắc, dừng lại nhà thống lí Pá Tra giàu có nhất vùng, gặp một thiếu phụ đặc biệt lúc nào cũng ngồi cạnh tảng đá cạnh tàu ngựa vô tri vô giác, mặt lúc nào cũng cúi buồn rười rượi.

Những câu văn tự sự chậm rãi nhỏ nhẹ hé mở cho người đọc thấy cuộc đời người thiếu phụ thật bất hạnh, chắc không phải con gái thống lí, quả đúng như vậy đó là con dâu gạt nợ tội nghiệp, khốn khổ. Từ đây, ngòi bút tài hoa của Tô Hoài ngược dòng thời gian trở về quá khứ để kể về cuộc đời của Mị trước khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra.

Thời gian trước đó Mị là con gái trong một gia đình nông dân nghèo khổ hoàn cảnh vô cùng éo le, nghèo đến mức mà bố mẹ Mị không đủ tiền cưới phải vay lãi nhà thống lí Pá Tra “mỗi năm trả lãi một nương ngô”, đến khi mẹ Mị qua đời mà gia đình vẫn chưa hết nợ, món nợ truyền từ đời này sang đời khác. Số phận đưa đẩy Mị phải sống trong căn nhà u tối nhà thống lí, ngày cũng như đêm Mị ở trong căn phòng không có ánh sáng, không được coi như một con người phải chịu cảnh sống khổ cực như trâu ngựa.

Mị là người con gái nết na thùy mị, có những phẩm chất, tính cách tốt đẹp, tài hoa “Mị thổi sáo giỏi” đi đường “nhặt chiếc lá đưa lên môi, thổi sáo lá hay như thổi sáo” thể hiện được thế giới tâm hồn của Mị rất phong phú. Hơn thế nữa Mị là người con hiếu thảo biết lo cho gia đình đã hy sinh bản thân để giúp cha trả nợ.

Ấy thế rồi cuộc đời Mị bị lay chuyển từ khi bước chân vào làm con dâu nhà thống lí. Mị lùi lũi như con rùa nuôi ở xó cửa, hình ảnh so sánh có thể cho người đọc thấy được cảnh nơi Mị sống chẳng khác gì địa ngục, nơi tăm tối, không có sự sống.

Nhưng trái tim nhân đạo sâu sắc của Tô Hoài không để cho nhân vật mà mình đồng cảm chết tàn chết lụi tội nghiệp ở nhà thống lí mà ông vẫn để cho sức sống tiềm tàng của Mị như hòn than hồng âm ỉ cháy trong đống tro tàn của tâm hồn, nếu gặp luồng gió mát cuộc đời thổi tới nó sẽ bùng cháy. Nhà văn đã thăng hoa tài năng của mình sáng tạo ra luồng gió mát ấy chính là đêm tình mùa xuân làm hồi sinh tâm hồn Mị.

Thiên nhiên năm ấy khác thường gió bấc lạnh thêm dữ dội hòa với sắc màu cuộc sống là trên những mỏm đá những chiếc váy hoa phơi “xòe” như đàn bướm sặc sỡ, âm thanh của cuộc sống khác lạ khi ở Hồng Ngài ăn tết sớm tiếng trẻ con đùa nhau ầm ĩ, tiếng “trai gái ném pao, thổi khèn, thổi sáo và nhảy”.

Sự khác thường ấy đã tác động vào tâm hồn Mị đặc biệt là chi tiết “tiếng sáo” như một sợi chỉ đỏ nối liền tâm hồn Mị thời trẻ trung son sắt với đêm tình mùa xuân năm nay, tiếng sáo vọng vào sâu thẳm tâm hồn gọi về bài hát Mị thường thổi năm xưa “Mày có con trai con gái rồi, mày đi làm nương, ta không có con trai con gái ta đi tìm người yêu”.

Đây là tiếng sáo lần thứ nhất lấp ló đầu núi, từ xa vọng lại khiến trái tim Mị đang lạnh giá, khô cứng, bỗng mềm dịu, ấm áp, đập những nhịp đập hồi sinh trở lại “thiết tha bồi hồi” và Mị tỉnh lại thấy hiện tại “đêm tình mùa xuân đã tới”. Khi tỉnh dậy có lẽ Mị lại nhận ra cuộc sống hiện thực không đáng sống vì tuổi xuân của Mị đang bị giam hãm ở nhà thống lí Pá Tra, và tất yếu bao nỗi buồn tủi đau dâng trào mãnh liệt đòi hỏi Mị tìm đến men rượu để trốn tránh: “Mị lén lấy hũ rượu cứ uống ực từng bát”, uống như muốn trôi đi bao đau khổ, uất hận.

Cách uống rượu như thể tất yếu khiến Mị say, lịm mặt ngồi đấy, bắt đầu rơi vào trạng thái phân thân, tiếng sáo vẫy gọi giục giã, còn men rượu nâng tâm hồn Mị bay lên theo tiếng sáo đến với những cuộc chơi trong hoài niệm của quá khứ. Còn thể xác vẫn ở lại nhà thống lí “nhìn mọi người nhảy đồng, người hát” khi mọi người về hết “Mị vẫn ngồi trơ một mình giữa nhà”.

Tiếng sáo lần hai “tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng” tiếng sáo lần này đã đến gần Mị hơn. Tiếng sáo như vẫy gọi khiến Mị như bị thôi thúc trở về quá khứ ngày trước sống với những ngày tươi đẹp xuân sắc, rực rỡ, vui tươi nhất, thuở ấy “Mị thổi sáo giỏi” “Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo”, có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị.

Đến đây Tô Hoài đã nhìn thấy trong tâm hồn Mị một cuộc giao tranh gay gắt giữa quá khứ và hiện tại, quá khứ tươi đẹp rực rỡ nhưng mới chỉ bùng lên, còn hiện tại Mị bị cường quyền, phụ quyền áp chế lại dai dẳng triền miên quá lâu nên quá khứ không dễ thắng nổi, không thể kéo bước chân Mị đi chơi.

Từ khi Mị vào nhà thống lí “chẳng năm nào A Sử cho Mị đi chơi tết” những hồi ức về quá khứ mỗi lúc một mạnh mẽ bừng cháy làm Mị lại quên đi hiện tại đau khổ chỉ còn nhìn thấy hiện tại đang vui, may mắn là: “Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ” và “Mị muốn đi chơi”. Đấu tranh trong tâm hồn Mị càng một mạnh mẽ thêm qua những lần tiếng sáo dồn dập tiếp theo khiến tâm hồn Mị thoát ra như con ong thoát khỏi tổ kén.

Tuy chân tay bị trói chặt nhưng tâm hồn đã hòa nhịp với đêm tình ngoài kia. Sự hồi sinh mạnh mẽ ấy bùng cháy do nhiều cung bậc của tiếng sáo đã thôi thúc Mị bước đi dù là lúc tỉnh, lúc mơ. Mị lúc mê đi theo tiếng sáo, lúc tỉnh thổn thức với tiếng chó sủa xa xa tiếng chân ngựa dần dần sự áp chế ngày một đè nặng khiến Mị bừng tỉnh và vô cùng sợ hãi rơi vào trạng thái tê liệt “ như con rùa nuôi trong xó nhà”.

Tô Hoài đã rất tài tình bằng tài năng và trái tim nóng của mình đã khắc họa chân thực những nét riêng biệt về phong tục, tập quán, tính cách và tâm hồn người dân nơi vùng cao xa xôi bằng một giọng văn nhẹ nhàng mang phong vị dân tộc, giàu giá trị nhân văn sâu sắc.

Bên cạnh bài phân tích nhân vật Mị, chia sẻ cùng bạn 🌹 Phân Tích Ai Đã Đặt Tên Cho Dòng Sông 🌹 15 Mẫu Hay Nhất

Phân Tích Nhân Vật Mị Đêm Tình Mùa Xuân Đạt Điểm Cao – Mẫu 14

Để viết phân tích nhân vật Mị đêm tình mùa xuân đạt điểm cao, các em học sinh có thể tham khảo và vận dụng gợi ý phân tích nhân vật đặc sắc dưới đây cũng như cảm nhận sâu sắc hơn vẻ đẹp của Mị trong tác phẩm.

Nếu những nhà văn hiện thực phê phán chỉ thấy con người là nạn hân bất lực của hoàn cảnh thì các nhà văn cách mạng bao giờ cũng phát thiện hiện ra sức manh phúc sinh trong tâm hồn của những con người cùng khổ.

Là cây bút xuất sắc trong dòng văn học cách mạng Việt Nam, chẳng những rất thành công khi diễn tả cái chết dần chết mòn của Mị – một cô gái tràn đầy sức sống mà còn rất tinh tế khi khám phá quá trình hối din của Mị. Nếu như có một hoàn cảnh làm tê liệt bóp chết sức sống của Mị thì tất cũng có một hoàn cảnh giúp Mị hối sinh. Và hoàn cảnh đó chính là đêm tình mùa xuân quyến rũ.

Ở vùng rẻo cao Hồng Ngài không gì vui bòng Tết đến, xuân về. Năm nay Hồng Ngài đón một cái tết đặc biệt. Đúng lúc gió và rét rất dữ dội thế nhưng, bất chấp cái khắc nghiệt của thời tiết, không khí đón Tết vui xuân của Hồng Ngài vẫn rất náo nức tưng bừng. Tiếng cười nói rộn vang. Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng sáo rủ bạn đi chơi. Không khí tưng bừng, náo nức ấy đã vọng vào tâm hồn Mị, khiến tâm hồn Mị thức tỉnh hồi sinh.

Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Tao không có con trái con gái
Tao di tìm người yêu

Lời của tiếng sáo thật giản dị mộc mạc, nhưng nó chứa chan niềm vui niềm tự do, khát vọng yêu đương, hạnh phúc. Khúc ca say mê náo nức của mùa xuân tuổi trẻ đã vọng vào cõi sâu thẳm trong lòng Mị thiết tha đã đánh thức cõi lòng câm lặng bấy lâu của Mị, tiếng sáo ấy khơi dậy sức sống tiềm tàng trong con tim Mị. . Ý thức về quyền làm người trỗi dậy, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát.

Cách uống rượu của Mị thật lạ. Mị uống lấy được, uống như chưa bao giờ được uống, uống cho bõ hờn, bõ tức. Uống để cuốn phăng đi bao cay đắng tủi nhục của quãng đời đã qua. Uống cho thỏa khát khao say mê, phía trước. Men rượu nồng nàn tiếng sao tha thiết đã nhấc bổng Mị thoát khỏi thực tại, dìu Mị trở về miền quá khứ đẹp tươi với bao khát khao nồng cháy. Mị say, cứ lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người hát trong lòng Mị đang sống về ngày trước.

Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi … có biết bao nhiêu người mê. Ngày trước Mị trẻ trung yêu đời, ngày trước Mị đã từng yêu và được yêu. Sống với ngày trước, lòng Mị bỗng phơi phới trở lại đột nhiên vui sướng, hạnh phúc. Những kí ức hạnh phúc đã thôi thúc Mị nổi loạn. Bắt đầu là sự nổi loạn trong ý nghĩ. Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng ngày Tết cũng đi chơi. Huống chi Mị với A Sử không có lòng với nhau, vậy mà vẫn phải ở với nhau.

Lần đầu tiên, sau chuỗi ngày dài dằng dặc, sống cam chịu, nhấn nhục với kiếp ngựa trâu như con rùa nuôi trong xó tối, Mị dám chối bỏ ràng buộc duyên pohận với A Sử để thành người tự do. Đắm chìm trong miền kí ức say mê, trong những khát khao nồng cháy dường như Mị đã quên cả thực tại. Rượu đã tan lúc nào. Người về đã vãn cả. Mị không biết, Mị vẫn ngồi trơ một mình giữa nhà. Cõi mộng, cõi mơ miền thương nẻo nhớ đang gọi Mị.

Mãi sao, Mị mới bừng tỉnh. Mị đứng dậy nhưng không bước ra đường chơi nữa mà từ từ bước vào buồng. Ý nghĩ muốn đi chơi đã lóe lên trong đầu Mị nhưng nó chưa đủ mạnh để dứt Mị ra khỏi thế giới ngục tù. Phản ứng nổi loạn ở Mị cần thêm thời gian và chất xúc tác. Bước vào buồn, ngòi xuống giường, trông ra cái cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay, mờ mờ trăng trắng.

Bao cay đắng tủi nhục của kiếp nô lệ trung thân bỗng dội về, dày vò cõi lòng Mị tan nát, ứ máu đầy bi kịch. Và Mị bỗng nảy ra ý nghĩ thật lạ lùng, đột biến mà mang tinh tất yếu : Mị muốn tự tử : nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại chỉ thấy nước mắt úa ra. Cứ nghĩ Mị sẽ tự tử ngay nhưng đúng lúc ý nghĩ muốn chết trỗi dậy thì tiếng sao gọi bạn yêu lơ lửng bay ngoài đường lại một lần nữa vang vọng vào tâm hồn Mị.

Khúc ca yêu nồng nàn ấy đã dập tắt ý nghĩ muốn chết nhưng cũng không thể sống lùi lũi như con rùa nuôi trong xó tối nữa. Mị phải sống trong vùng trời tươi sáng, ngập tràn ánh nắng tự do, hạnh phúc. Và chính ý nghĩ ấy đã thôi thúc Mị có hành động nổi loạn, táo bạo, quyết liệt từng có. Mị đến góc nhà lấy ống mỡ sắn một miếng bỏ vào thêm đĩa đèn cho sáng. Tại sao Mị phải thắp đèn ? Phải chăng, Mị không cam chịu sống trong xó tối nữa ?

Mị muốn phá tan màn đêm âm u, mù tối nơi đại ngục trần gian này. Mị muốn thắp sáng cho tương lai của mình. Ngọn lửa trên đĩa đèn hay ngọn lửa trong lòng Mị đang rừng rực cháy. Thắp đèn xong, Mị cuốn lại tóc, với tay lấy cái váy và rút thêm cái áo. Bất chấp mọi luật lệ của nhà thống lí, Mị hành động như một người hoàn toàn tự do

Những khát vọng cháy bỏng của Mị vừa bùng lên thì đã bị vùi dập một cách thô bạo tàn nhẫn. A Sử trói đứng Mị vào cột bằng cả một thúng sợi đay tàn nhẫn. Tóc Mị xõa xuống, A Sử cuốn luôn tóc lên cột làm cho Mị không cúi không nghiêng được nữa. Rồi A Sử tắt đèn đóng cửa lại. Tại sao A Sử phải trói Mị như thê ? Có phải đó là thói quen tàn bạo của A Sử hay chính A Sử cũng giật mình hoảng sợ trước hành động nổi loạn táo bạo của Mị ?

Hắn phải dùng mọi vũ lực thô bạo nhất để dập tắt tinh thần phản kháng mạnh mẽ của Mị. Tuy nhiên những cánh cửa buồng khép chặt, những làn dây chói chặt không sao chói được tâm hồn Mị. Bóng ma của buồng gian cũng không sao dập tắt được ngọn lửa cháy sáng trong tim Mị.

Mọi vũ lực bạo tàn của A Sử đều trở nên vô nghĩa. Trong bóng tối, Mị đứng im lặng như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị theo cuộc chơi, những đám chơi. Mị khe khẽ hát, tiếng hát cất lên từ trái tim sôi nổi, nồng nàn. Rồi Mị vùng bước đi, mạnh mẽ, quyết liệt, sức sống tiềm tàng, khát vọng tự do đã trỗi dậy mãnh liệt. Sức sống ấy cứ trào ra ngoài ra sợi dây trói.

Nhưng rồi Mị chợt bừng tỉnh, những làn dây chói cứa vào ra thịt đau dứt, xót xa, đau đớn đến tê tái. Tiếng sáo tha thiết, dìu dặt tắt lịm, chỉ còn tiếng chân ngựa đạp vách nhức nhối ai oán. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con nghựa. Cả đêm ấy, Mị lúc mê, lúc tỉnh, lúc đớn đau, quặn thắt trước thực tại thê thảm, khốn cùng, lúc lại cồn cào, tha thiết nhớ. Quá khứ, thực tại, hạnh phúc, khổ đau cứ giằng xé trong trái tim Mị. Ngòi bút Tô Hoài thật tinh tế tài hoa khi lách vào cõi sâu tâm tư của Mị khiến Mị trở thành ‘thật hơn con người thật’.

Mùa xuân rồi cũng qua đi nhưng sức sống tiềm tàng trong Mị đã được khơi dậy và chờ dịp bùng lên. Với nghệ thuật khắc họa tâm lí nhân vật tinh tế Tô Hoài đã đem đến cho nhân vật một hướng đi, một cuộc đời mới. Đó cũng chính là giá trị nhân văn cao đẹp của tác phẩm. Đồng thời cũng cho thấy tài năng của Tô Hoài cùng những đóng góp của ông cho văn học Việt Nam.

Gửi đến bạn 🍃 Phân Tích Sông Hương 🍃 15 Bài Phân Tích Hình Tượng Hay

Phân Tích Đêm Tình Mùa Xuân Vợ Chồng A Phủ Ngắn Hay – Mẫu 15

Tham khảo bài phân tích đêm tình mùa xuân Vợ chồng A Phủ ngắn hay sẽ giúp các em học sinh luyện tập cách hành văn súc tích, và ôn luyện đề văn phân tích nhân vật Mị dễ dàng hơn.

Tô Hoài một trong những nhà văn xuất sắc nhất của văn học Việt Nam. Trước cách mạng, các sáng tác của ông nghiêng về mảng truyện loài vật và cuộc sống của những người dân nghèo.

Sau cách mạng, các sáng tác của ông vẫn tiếp tục đi khai thác cuộc sống của người dân, song ông đi sâu vào quá trình đổi đời của họ, đi từ bóng tối ra ánh sáng. Nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ chính là nhân vật tiêu biểu cho quá trình vận động ấy. Quá trình vận động từ khổ đau đến hạnh phúc đó đã cho thấy sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của nhân vật này.

Vợ chồng A Phủ ra đời khi Tô Hoài cùng đơn vị bộ đội tiến quân giải phóng Tây Bắc, có điều kiện tiếp xúc và tìm hiểu về số phận của người dân nơi đây trong một thời gian dài chính là chất xúc tác giúp ông viết nên tác phẩm này. Truyện này cũng được lấy nguyên mẫu từ cuộc đời của một đôi vợ chồng người Mông, bởi vậy câu chuyện đậm tính chân thực.

Mị là nhân vật trung tâm của tác phẩm, mở đầu là hình ảnh của một cô gái lầm lũi làm việc, công việc với cô như một thói quen, làm không cảm xúc, không ngừng nghỉ từ sáng đến đêm. Để rồi tiếp đó Tô Hoài mới ngược dòng thời gian, tái hiện lại chân dung của Mị trước đây. Mị vốn là một cô gái trẻ trung yêu đời và có tài năng. Vì xinh đẹp và có tài thổi sáo hay nên rất nhiều người con trai thổi sáo và đi theo Mị.

Không chỉ vậy, Mị còn là cô gái yêu tự do và yêu lao động. Mối nợ truyền kiếp từ đời cha để lại, dẫn đến nguy cơ cô phải trở thành con dâu gạt nợ, ngay lập tức Mị đã yêu cầu với cha không bán mình đi mà cô sẽ chăm chỉ làm việc để trả nợ dần. Mị hội tụ đầy đủ trong mình những yếu tố được hưởng một cuộc sống yên ấm, hạnh phúc. Nhưng thực tế trái ngang, nhiều bất công cô đã bị A Sử bắt đi và trở thành con dâu gạt nợ.

Chính từ giây phút đó cuộc đời cô bước vào chuỗi ngày tăm tối, bi kịch. Mị phải làm việc bất kể ngày đêm, bị bóc lột đến tận xương tủy, công việc chất chồng khiến cô không có giờ phút nghỉ ngơi. Những tưởng rằng cô đã mất hết niềm tin vào cuộc sống khi bị bóc lột về thể xác, tra tấn về mặt tinh thần. Nhưng không, bản chất là một người con gái giàu sức sống, chỉ cần có chất xúc tác, niềm hi vọng ấy sẽ bùng lên mãnh liệt, và nó được Tô Hoài tái hiện qua đêm tình mùa xuân.

Đêm tình mùa xuân là cuộc nổi dậy, là sự nổi loạn đầu tiên của Mị. Có rất nhiều nhân tố khác nhau tác động tới tâm lí cô, khiến cô thực hiện cuộc nổi loạn đầu tiên này. Trước hết là không khí mùa xuân tươi vui, rực rỡ, những chiếc váy mèo đầy màu sắc trải dài trên các triền nương, tiếng trẻ con vui đùa tíu tít ngoài sân. Mùa xuân gắn với sự sống, với tình yêu, với không khí mùa xuân đã phần nào tác động đến tâm lí của Mị.

Nhưng không khí mùa xuân thôi chưa đủ, chất xúc tác tiếp theo chính là hơi men của rượu. Mị cũng uống rượu như bao người khác, nhưng không phải để mừng một năm mới đến mà uống ừng ực từng bát một, uống như để quên đi những cay đắng, nhọc nhằn, quên đi những khổ đau cả về thể xác và tinh thần mà mình phải chịu đựng. Rượu là chất xúc tác mạnh mẽ để Mị tiến hành cuộc nổi loạn, chối bỏ thực tại, tìm về với quá khứ.

Nhưng quan trọng nhất là sự tác động của tiếng sáo. Tiếng sáo xuất hiện dần dần, tiếng sáo lấp ló ngoài đầu núi, tiếng sáo gọi bạn đến đầu làng khiến Mị nhớ về tiếng sáo của mình ngày trước – tiếng sáo gắn với quá khứ đẹp đẽ. Việc thu hẹp khoảng cách của tiếng sáo thực chất là quá trình chuyển hóa từ tiếng của của thiên nhiên, bên ngoài đến tiếng gọi trong tâm hồn Mị. Tiếng sáo là tác nhân quan trọng nhất làm bừng lên sức sống và khát vọng hạnh phúc của Mị trong đêm tình mùa xuân.

Sau khi nghe thấy tiếng sáo Mị chối bỏ thực tại, nhớ về quá khứ đẹp đẽ. Nhưng hiện thực cuộc sống phũ phàng, như một sợi dây vô hình trì níu, khiến cho Mị bất ngờ quay vào buồng, dường như trong cô vẫn chưa sẵn sàng cho cuộc vượt thoát này. Chỉ đến khi nhìn thấy ô cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay, nhìn ra ngoài chỉ thấy mờ mờ trăng trắng không biết là sương hay là nắng Mị mới thực sự thoát khỏi sự trì níu của thực tại.

Cô thấy lòng mình phơi phới trở lại, cô muốn đi chơi, muốn được giao tiếp với mọi người. Đồng thời cô cũng mong giá mà có nắm lá ngón lúc này, cô sẽ ăn để chết chứ không thể tiếp tục cuộc sống này nữa. Và đúng lúc ấy, tiếng sáo lại một lần nữa xuất hiện đầy hữu ý, tiếng sáo khiến sự nổi loạn của Mị bật thành hành động: cô muốn đi chơi, lấy mỡ thắp đèn cho sáng và cô lấy váy để chuẩn bị đi chơi.

Tất cả những hành động đó đã cho thấy một trái tim khát khao sống mãnh liệt. Tuy nhiên tất cả đã bị chặn đứng bởi hành động độc ác của A Sử, hắn trói đứng Mị vào cột. Nhưng A Sử chỉ trói được thể xác chứ không thể trói được tâm hồn Mị, tâm hồn cô đã vượt thoát thực tại thành công.

Bằng ngòi bút tinh vi, miêu tả những biến chuyển tâm lí nhân vật đã cho nghệ thuật thuật miêu tả tâm lí nhân vật bậc thầy của Tô Hoài. Đồng thời hai lần trỗi dậy đó cũng cho thấy sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị. Qua đó còn cho thấy nét mới trong chủ nghĩa nhân đạo của Tô Hoài, ông phát hiện, trân trọng vẻ đẹp sức mạnh tiềm tàng, mãnh liệt trong những con người khốn khổ. Đồng thời thể hiện niềm tin, sự lạc quan vào tương lai tươi sáng cho những con người có số phận bất hạnh.

Mời bạn xem nhiều hơn 🌹 Vẻ Đẹp Hung Bạo Và Trữ Tình Của Sông Đà 🌹 12 Mẫu Phân Tích Hay

Phân Tích Mị Trong Đêm Tình Mùa Xuân Facebook – Mẫu 16

Phân tích về nhân vật Mị là nội dung phổ biến thường xuất hiện trong những đề kiểm tra. Chia sẻ dưới đây bài phân tích Mị trong đêm tình mùa xuân Facebook để các em học sinh cùng tham khảo:

Nhắc đến “Vợ chồng A Phủ” chắc hẳn bạn sẽ nhớ đến ngay cô Mị – một nhân vật trung tâm của truyện ngắn. Với cuộc đời đau khổ và cơ cực, Mị đại diện cho cuộc sống tủi nhục của người dân miền núi dưới ách thống trị của phong kiến và bọn chúa đất. Cuộc đời của Mị trong cảnh làm dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra thể hiện giá trị hiện thực của tác phẩm.

Tuy nhiên dưới ngòi bút nhân đạo của mình, Tô Hoài không để cho cô Mị cứ mãi sống nhẫn nhịn chai lì mà thúc đẩy sức sống tiềm tàng trong cô. Sức sống ấy được bùng cháy trong đêm tình mùa xuân. Diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm ấy đã trở thành điểm ấn tượng khó phai mờ trong lòng người đọc.

Nguyễn Du có câu “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Chính vì cảnh vật thiên nhiên nơi miền núi vào xuân đã tác động đến tâm trạng của Mị. “Những chiếc váy hoa phơi trên mỏm đá xòe ra như những con bướm sặc sỡ”. Đám trẻ con chơi quay ầm cả bản. Gió heo may, cỏ vàng ửng…. Cảnh vật vào xuân, cả bản ăn Tết. Đặc biệt là tiếng sáo gọi bạn tình thiết tha bổi hổi cứ vang vọng. Ngoại cảnh đã góp phần không nhỏ vào sự thay đổi tâm trạng của Mị.

Và rồi Mị lén uống rượu. “Mị uống ừng ực từng bát”. Uống “ừng ực” như để trôi đi, nguôi đi cái buồn, cái khổ. Mị uống như để quên đi cái đau khổ của phầm đời đã qua. Mị uống cái khao khát của phần đời chưa tới. Nhưng Mị uống chỉ say về thể xác còn tâm hồn cô lại như được thức tỉnh sau bao ngày bị tê liệt, đày đọa. “Chén rượu tiêu sầu, sầu càng sầu thêm”. Mị càng uống, Mị càng tỉnh. Mị nhớ về những kỉ niệm ngày xưa.

“Ngày xưa Mị thổi sáo giỏi”, Mị có tài thổi lá hay hơn thổi sáo. Những đêm tình mùa xuân, trai bản đứng nhẵn cả đầu buồng Mị. Rồi Mị thấy “phơi phới trở lại, lòng đột nhiên vui sướng”. Mị ý thức được “mình còn trẻ lắm”. Điều đí đã dẫn tới ý định Mị “muốn đi chơi xuân”. Nhớ lại kỉ niệm ngày xưa Mị lại trở về thực tại. Mị ý thức được cuộc đời, số phận của mình. Mị ý thức được tình cảnh đau xót của mình. “Nếu có nắm lá ngón trong tay, Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn sống lại nữa”.

Tiếng sáo lại rập rờn trong đầu Mị cùng tiếng hát ” Anh ném pao, em không bắt- Em không yêu, quả pao rơi rồi”. Tiếng sáo và tiếng hát cứ tha thiết như mời gọi lại vừa như giận hờn. Tiếng sáo cứ rập rờn bay bổng thể hiện cho khát vọng tình yêu và tự do. Tiếng sáo ấy cùng men rượu nồng nàn đã thổi bùng lên tâm hồn Mị. Điều đó đã dẫn tới hành động Mị chuẩn bị đi chơi xuân.

Cũng như bao cô gái khác trong làng, họ vẫn đi chơi xuân ngay cả những người đã có chồng cũng vậy. “Huống hồ Mị và A Sử chẳng có lòng với nhau”. Thế là “Mị vào buồng, quấn lại tóc, với lấy cái váy hoa”. Mị “xắn thêm mỡ” để thắp sáng căn buồng âm u, thắp sáng ngục tù tối tăm, thắp sáng ngọn lửa khát vọng trong lòng mình. Mị chuẩn bị đi chơi xuân. Phải, đúng như vậy. Nhưng thật không may, A Sử đã nhìn thấy điều đó. Hắn ta không cho Mị đi. Hăn trói đứng Mị trong căn buồng tối tăm ấy.

Nhưng A Sử đâu biết rằng, hắn chỉ có thể trói được thể xác còn tâm hồn Mị vẫn theo các cuộc chơi. Mị vừa mơ vừa tỉnh. Mị vùng bước đi theo các cuộc vui nhưng sợi dây trói lại kéo Mị trở về thực tại. Tiếng sáo tha thiết cứ đưa hồn Mị bay theo thì Mị lại trở về thực tại với tiếng chân ngựa đạp vào vách. Mị lại nhận ra mình không bằng con ngựa. Khát vọng chơi xuân của Mị đã bị chặn đứng. Mị phải trở về thực tại.

Tô Hoài đã đặt sự hồi sinh của Mị vào tình huống bi kịch. Khát vọng mãnh liệt của Mị đối lập hoàn toàn với hiện thực phũ phàng. Nhưng điều đó không làm tắt đi sức sống trong Mị mà càng khiến cho sức sống ấy thêm mãnh liệt. Chính khát vọng này của Mị đã thể hiện tư tưởng nhân đạo của tác phẩm. Mặc dù bị chà đạp nhưng sức sống của Mị vẫn còn. Nó như một đốm than nhen nhóm trong đống tro tàn chỉ chờ dịp để bùng cháy. Ngòi bút nhân đạo của Tô Hoài đã không dửng dưng trước khát vọng đó của Mị.

Qua nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo, Tô Hoài đã tạo một ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Ông đã khiến cho trang văn của mình không nhuốm màu u uất và tối tăm mà vẫn chứa chan ánh sáng của sự sống. Tâm trạng của Mị trong đêm tình mùa xuân như một bước “chuyển nhịp” cho tác phẩm. Nó mang đến màu sắc mới cho truyện ngắn. Chính khát vọng sống tiềm tàng, ẩn chứa trong Mị đã làm nên điều đó.

Có thể bạn sẽ thích 🌼 Phân Tích Hình Tượng Ông Lái Đò 🌼 15 Mẫu Phân Tích Nhân Vật

Phân Tích Mị Trong Đêm Tình Mùa Xuân Thầy Nhật – Mẫu 17

Tài liệu văn phân tích Mị trong đêm tình mùa xuân thầy Nhật sẽ giúp các em học sinh có thêm cho mình những gợi ý làm bài nghị luận nhân vật văn học phong phú hơn. Đón đọc bài văn mẫu phân tích nhân vật Mị dưới đây:

Vợ Chồng A phủ là tác phẩm hay nhất nói về con người và đất nước vùng cao Tây Bắc. Qua ngòi bút của Tô Hoài ta thấy được nỗi khổ đau và tủi nhục của các cô gái khi bị “ ép duyên” và sự áp bức của chế độ phong kiến thời bấy giờ. Có nhiều tuyến nhân vật chính và phụ trong tác phẩm như A Phủ, A Sử, thống lí Bá Tra… nhưng Mị vẫn là nhân vật trung tâm của tác phẩm và tâm trạng, hành động, suy nghĩ của Mị được bộc lộ rõ nét nhất qua cảnh Mị trong đêm tình mùa xuân.

Mị là cô gái người dân tộc H’Mông tài sắc vẹn toàn, vừa hát hay, thổi sáo giỏi làm say đắm biết bao chàng trai. Ngày xưa, bố Mị lấy mẹ không có đủ tiền cưới, phải đến vay nhà thống lí, bố của thống lí Bá tra bây giờ. Mỗi năm đem nộp lãi cho chủ nợ một nương ngô. Đến tận khi hai vợ chồng về già rồi mà cũng chưa trả hết nợ. Vì vậy, đến tuổi xuân thì, Mị bị bắt làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Bá Tra nhưng thực chất là làm nô lệ.

Suốt ngày, ở nhà thống lí, Mị phải quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi, đi cõng nước dưới khe suối lên, hái thuốc phiện, giặt đay, xe đay, bung ngô, tước đay thành sợi… Kiếp sống cơ cực hơn cả ngựa trâu đã biến một cô gái hồn nhiên, yêu đời, năm nào thành một người phụ nữ cam chịu “ lùi lũi như con rùa nuôi sống xó cửa”, có khi vô cảm. Mặt khác, Mị cũng có những phản ứng ngấm ngầm. Một hôm, Mị trốn về nhà. quỳ lạy bố, úp mặt xuống đất khóc nức nở nhưng bên trong áo giấu sẵn một nắm lá ngón để tự tử.

Mị không chỉ là nạn nhân của sự đầu độc, áp chế về tinh thần. Bọn thống lí Bá Tra đã lợi dụng thần quyền – tục mê tín dị đoan để làm cho người nô lệ này yên phận với kiếp sống đau khổ. Mị tin rằng “ Ta là thân đàn bà. nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi”. Cho nên, Mị sống nhẫn nhục, thầm lặng, vô cảm, không có chút hi vọng vào sự đổi thay của tương lai.

Thế rồi mùa xuân lại về. Khung cảnh thiên nhiên mùa xuân ở Hồng Ngài thật thơ mộng, tình tứ và bừng sức sống: “ Gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng”, “ trong các làng Mèo đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ. Hoa thuốc phiện vừa nở trắng lại đổi ra màu đỏ hay, đỏ thẫm, rồi sang màu tím man mát”.

Cùng với vẻ đẹp thiên nhiên là không khí náo nức, nhộn nhịp của ngày hội. “ Trai gái, trẻ con ra sân chơi tụ tập đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi khèn và nhảy”; “ chiêng đánh ầm ỉ”; “ văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng”. Chính cái không khí ấy đã khơi dậy, đánh thức nơi bề sâu hun hút của tâm hồn Mị một cuộc sống mãnh liệt, trẻ trung.

Mị “ lén lấy hũ rượu, cứ uống ừng ựng từng bát”. Rồi Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng, người hát, nhưng lòng Mị thì đang sống về ngày trước. Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị.

Nhưng khi tâm trạng bồi hồi, sung sướng vô ngần ấy vừa xuất hiện thì nổi đắng cay, chua xót, u sầu cũng chạy đến vây lấy Mị. Mị ý thức được cảnh ngộ éo le của cuộc đời mình.” A Sử với Mị không có lòng với nhau nhưng vẫn phải ở với nhau. Mị liền nghĩ đến cái chết: “ Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn hết cho chết ngay”.

Nhưng rồi, “tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường: Anh ném pao, em không bắt; Em không yêu, quả pao rơi rồi…” đã giục giã, thôi thúc Mị, khiến Mị dường như quên hết cảnh ngộ bi thảm hiện tại. Mị hành động như một người tự do,như “ bao nhiêu người có chồng khác”.

Mị đến góc nhà lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”. Mị muốn đi chơi một cách bản năng. Cái ý nghĩ “ muốn đi chơi” vọt ra khi có tiếng sáo rập rờn ở trong đầu. Cái hành động “ quấn lại tóc”, “ với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”, “ rút thêm cái áo” chuẩn bị đi chơi là sự chiến thắng bất ngờ của bản năng. Bản năng đã làm cho Mị không biết sợ sệt là gì.

Trong lúc lòng yêu đời đang trỗi dậy mãnh liệt cũng là lúc Mị bị vùi dập một cách tàn nhẫn, không thương tiếc. Mặc dù đang “ thay áo mới, khoác thêm hai vòng bạc vào cổ rồi bị cái khăn trắng lên đầu” để đi chơi nhưng A Sử biết được ý định của Mị, hắn chỉ hỏi một câu: “ Mày muốn đi chơi à?” rồi “ bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả một thùng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xõa xuống. A Sử quấn luôn tóc lên dây cột, làm cho Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa”. Sau hành động vô nhân đạo, phũ phàng ấy, hắn bỏ đi.

Trong bóng tối, dù bị trói như một thứ đồ vật nhưng Mị vẫn sống với bản năng. Mị không biết mình đang bị trói. Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi. Mị vẫn nghe lời ca, tiếng hát ngọt ngào, tình tứ vang lên: “ Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào…”.

Mãi đến lúc Mị “vùng bước đi”, cô mới giật mình trở về với thực tại, mới thấm hiểu rõ cái cảnh ngộ bi thảm của mình: “ Tay chân đau không cựa được” và cô mới thổn thức nỗi lòng, biết mình không bằng con ngựa. Nhưng khi nghe tiếng chó sủa xa xa, đêm đã về khuya thì Mị mới khóc, lòng Mị lại bồi hồi. Trong suốt đêm Mị bị trói đứng như thế, Mị rơi vào tâm trạng lúc tỉnh, lúc mê. Lúc mê lòng lại “ nồng nàn tha thiết nhớ”. Lúc tỉnh thì khắp người bị dây trói thít lại, đau nhức.

Đến sáng “ khi bàng hoàng tỉnh thì cô “ sợ quá”, “ cựa quậy”, xem mình còn sống hay chết”. Tâm trạng lo sợ ấy đã thể hiện ý thức về sự sống của Mị. Có cảm thấy đau đớn từng mảnh thịt bởi vì cổ tay, đầu, bắp chân bị dây trói siết lại. Chính sự trỗi dậy của sức sống tiềm tàng đã thôi thúc Mị có những hành động táo bạo, mạnh mẽ sau này, cô cắt dây cởi trói để cứu A Phủ thoát khỏi cảnh ngộ bi thảm đồng thời cũng là tự cứu mình.

Tóm lại, trong khung cảnh tăm tối, ngột ngạt, tù túng, tàn bạo, chúng ta thấy có bản năng sống đầy chất thơ của nhân vật Mị bừng sáng lên. Sức sống tiềm tàng, trẻ trung không dập tắt được của Mị là một bài ca hùng hồn về sự sống. Đồng thời cũng là một bản cáo trạng đanh thép về tội ác của bọn phong kiến, thần quyền cùng núi cao Tây Bắc.

Tiếp sau bài phân tích nhân vật Mị, giới thiệu đến bạn 🌟 Phân Tích Người Lái Đò Sông Đà 🌟 19 Bài Văn Mẫu Hay Nhất

Phân Tích Mị Trong Đêm Tình Mùa Xuân Thầy Hiếu – Mẫu 18

Để ôn tập tác phẩm Vợ chồng A Phủ, các em học sinh cần nắm vững nội dung phân tích về nhân vật Mị. Tham khảo những ý văn hay viết về hình ảnh nhân vật với bài phân tích Mị trong đêm tình mùa xuân thầy Hiếu được chia sẻ sau đây:

Sự nghiệp sáng tác của nhà văn Tô Hoài tính đến nay đã già nửa thế kỉ. Hơn 60 năm cầm bút ông là tác giả của hàng trăm đầu sách, hàng nghìn bài báo, thể loại phong phú, đa dạng. Thế nhưng nhắc đến Tô Hoài ta không thể quên được tác phẩm “Dế mèn phiêu lưu kí”- tác phẩm tiêu biểu trước Cách mạng tháng 8. Sau Cách mạng, Tô Hoài lại nổi lên với tập truyện Tây Bắc mà linh hồn của nó là Vợ chồng A Phủ.

Những năm gần đây người ta lại xôn xao nhớ đến Tô Hoài với tác phẩm “Cát bụi chân ai… Cho đến nay, “Vợ chồng A Phủ” vẫn là cái mốc thách thức với chính Tô Hoài, truyện được giải thưởng văn nghệ năm 1954-1955, một tp xuất sắc viết về đề tài miền núi.

Truyện xoay quanh cuộc đời của Mị – một cô gái người Mèo nghèo khổ, xinh đẹp, nết na được Tô Hoài xây dựng chân thực và sống động với sức sống tiềm tàng bất diệt. Thông qua sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị, ngòi bút của Tô Hoài đã bộc lộ là một ngòi bút nhân văn, nhân đạo sâu sắc và cao cả. Văn hào Nga Sê-khốp đã từng nói: “Một người nghệ sĩ chân chính phải là nhà nhân đạo từ trong cốt tuỷ”. Tô Hoài là một nhà văn như vậy.

Như đã nói, Mị là một cô gái Mèo xinh đẹp, nết na. Một người như Mị lẽ ra phải được sống cuộc đời hạnh phúc, nhưng trái lại, cô đã khổ từ trong trứng nước. Mặc dù Mị phản ứng quyết liệt, Mị không chấp nhận vào nhà thống lí Pá Tra thế nhưng Mị đang sống trong xã hội tiền quyền và thần quyền. Đó là xã hội phong kiến ở miền xuôi thế nên những người hiền lành nết na như Mị không thoát ra được. Mị bị bắt cóc, bị lừa gạt về cúng trình ma nhà thống lí Pá Tra chỉ đợi ngày chết rũ xương ở đó.

Để rồi “Mị sống lầm lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, như cái bóng, cái xác vô hồn trong địa ngục trần gian. Mị sống chẳng qua là kéo dài những ngày chưa chết được, điều này đã được Tô Hoài thể hiện ngay ở mươi dòng đầu câu chuyện với những câu văn đầy tính tạo hình. Nhà văn đã dựng lên trước mắt chúng ta với sức sống tàn phai, mai một: “Ai ở xa về có việc vào nhà thống lí Pá Tra…cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”.

Phải nói rằng những trang viết về mùa xuân là những trang tuyệt bút của nhà văn Tô Hoài. Ta bắt gặp ở một nhà văn hiện thực lại có những trang văn lãn mạn. “Vợ chồng A Phủ” xứng đáng là một minh chứng cho lời nhận định: “Văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975 có sự kết hợp hài hoà giữa 2 nhân tố hiện thực và lãn mạn”. Nhưng điều cta quan tâm hơn cả là ngòi bút tâm lí của nhà văn Tô Hoài khi mô tả sự trỗi dậy sức sống tiềm tàng của Mị. Ông tỏ ra am hiểu những tâm lí phức tạp, âm thầm trong tâm hồn người phụ nữ.

Đầu tiên là sự thay đổi bên ngoài. Năm ấy mùa xuân về sớm hơn mọi năm. Tô Hoài mô tả những làn gió đem mùa xuân về trên khắp các bản làng. Những nương thuốc phiện đã nở hoa sặc sỡ, cả bản Mèo đều cuốn vào không khí của ngày hội. Trên những bản của người Mèo đó, trai gái đã mang váy áo ra phơi trên những mỏm đá trông sặc sỡ như những cánh bướm.

Ban ngày trai gái mặc quần áo mới đến đánh quay, ném pao, tung còn,… Tất cả những hình ảnh này đã dội vào tâm hồn Mị – một tâm hồn khô cằn, nó làm cho sức sống của Mị bắt đầu có sự vận động, nó chẳng khác nào những nốt nhạc đầu tiên của bản nhạc tình ca thay đổi lớn sắp diễn ra trong lòng người đàn bà đã và đang phải chịu quá nhiều đau khổ.

Kế đó là tiếng sáo đêm tình mùa xuân. Trong không gian tiếng hát, tiếng sáo, tiếng khèn lá, khèn môi của trai bản gọi bạn tình cứ réo rắt nhau đi hết quả đồi này sang quả đồi khác. Nó đánh thức dậy những bài hát lâu nay tiềm ẩn sâu trong tâm hồn Mị. Mị ngồi nhẩm lại những bài hát ngày xưa. Ngày xưa, Mị thổi sáo thật tài, chỉ cần uốn lá trên môi, cô thổi lá hay như thổi sáo:

“Anh ném pao
Em không bắt
Em không yêu
Quả pao rơi rồi”

Hay:

“Mày có con trai, con gái rồi
Mày đi làm nương
Tao chưa có con trai, con gái
Tao đi tìm người yêu”

Nhưng điều đáng nói hơn cả là chính tiếng sáo ấy đã đánh thức dậy 2 tiếng “ngày xưa” từ trong lòng Mị. Kể từ ngày bước chân vào nhà thống lí Pá Tra, Mị sống cuộc đời phi không gian, phi thời gian. Thế giới của Mị là một căn buồng tăm tối, nhìn ra bên ngoài qua ô cửa mờ mờ, trăng trắng, không biết ngày hay đêm, sương hay nắng.

Khi một người không nhận thức được ngày, đêm, sương, nắng nghĩa là không nhận thức được không gian và thời gian, cũng đồng nghĩa với sức sống của họ đang tàn phai, mai một. Hôm nay thì khác, thời gian đã trở về với Mị, thời gian ấy cho Mị thấy hiện tại quá khổ đau, quá khứ ngày xưa mới là hạnh phúc. Thế là Mị luôn hướng về ngày xưa, hướng về quá khứ, muốn kéo dài quá khứ, muốn vớt vát quá khứ để bù đắp những cay đắng trong hiện tại.

Mùa xuân năm ấy, khi sức sống tiềm tàng của Mị trỗi dậy, nhà văn Tô Hoài rất khéo léo khi đưa bất cứ một hình ảnh nào đến với Mị thì hình ảnh ấy đều là chỗ dựa cho sức sống của Mị trỗi dậy. Nhất là bữa cơm tất niên trong gia đình nhà thống lí Pá Tra với hình ảnh của những người ốp đồng nhảy múa vui vẻ trong tiếng nhạc sinh tiền càng làm cho lòng Mị trở nên rộn ràng, náo nức. Niềm rộn ràng, náo nức ấy thực sự là nỗi thúc bách khi những người trong nhà thống lí mặc váy áo mới đi chơi.

Như vậy, sức sống tiềm tàng của Mị đã trỗi dậy, nó trở thành đòi hỏi bên trong muốn cất cánh ra bên ngoài. Rồi Mị lén lấy hũ rượu, Mị uống ừng ực từng bát, Mị uống như nuốt những tủi hờn, cay đắng vào trong lồng ngực. Mị uống như nuốt hiện tại khổ đau để trước mắt Mị giờ đây chỉ còn là quá khứ hạnh phúc. Thế là Mị đang sống lại ngày trước với quãng đời thiếu nữ tự do, với hạnh phúc trong mối tình đầu.

Việc làm tiếp theo của Mị khi cô bước vào căn buồng tăm tối ấy là Mị xắn một miếng mỡ để vào trong đèn cho đèn sáng hơn. Đây không còn là chi tiết sinh hoạt nữa mà nó trở thành một chi tiết có chiều sâu nghệ thuật bởi trước đây không thiết sống nên căn buồng của Mị tăm tối, hôi hám, luộm thuộm, ẩm thấp, bẩn thỉu… Mị cũng chẳng bận lòng.

Hôm nay thì khác, lòng yêu đời vừa mới trở về với Mị. Mị muốn đời mình phải sáng sủa hơn. Thế nên hành động Mị xắn miếng mỡ bỏ vào đĩa đèn cho đèn sáng hơn cũng đồng nghĩa với việc Mị thắp lên ngọn lửa trong lòng mình. Mị thấy mình trẻ đẹp, Mị muốn đi chơi hội như bao người đàn bà có chồng khác ở Hồng Ngài. Mị chuẩn bị, sửa soạn đi chơi.

Mị tìm cái váy hoa đẹp nhất của mình vắt tít trên vách. Khi một người đàn bà khổ đau sống lầm lũi như con rùa nuôi trong xó cửa, như cái bóng, cái xác vô hồn giữa địa ngục trần gian bỗng một hôm thấy mình trẻ ra, đẹp hơn, muốn ăn mặc đẹp, đó là dấu hiệu đầu tiên của sự tái xuân. Đó là lúc sức sống tiềm tàng trỗi dậy mạnh mẽ nhất trong lòng Mị. Thế nhưng sức sống ấy đã bị dập tắt ngay lập tức, A Sử đã vùi dập nó một cách phũ phàng, hắn trói Mị bằng một thúng dây đay từ chân lên đầu.

Chưa bao giờ Mị lại cảm thấy nhục nhã như thế, sự so sánh đã bắt đầu xuất hiện trong Mị, Mị thấy mình không bằng con trâu, con ngựa trong nhà thống lí Pá Tra, khi mỏi còn được đổi tàu, còn được gãi chân, nhai cỏ, còn Mị khóc không tự lau được nước mắt. Cơ chừng sau lúc ấy sức sống tiềm tàng của Mị tắt hẳn.

Thế nhưng không, trong Mị vẫn luôn khao khát được sống tự do, chính từ những thức tỉnh như trong đêm tình mùa xuân ấy đã giúp cho Mị tự giải thoát chính mình vào một đêm mùa đông sau này, khi Mị cắt dây trói cứu A Phủ, vè cũng giải phóng cho chính cuộc đời mình.

“Vợ chồng A Phủ” mô tả quá trình bừng thức, vùng lên của kiếp sống nô lệ này. Ngòi bút của Tô Hoài đã thể hiện là ngòi bút nhân văn, nhân đạo sâu sắc và cao cả. Và “vợ chồng A Phủ” mãi là bài ca ca ngợi tự do, khát vọng sống cháy bỏng.

Đọc nhiều hơn 🌻 Phân Tích Hình Tượng Người Lái Đò Sông Đà 🌻 17 Mẫu Hay

Phân Tích Mị Trong Đêm Tình Mùa Xuân Văn Chị Hiên – Mẫu 19

Bài phân tích Mị trong đêm tình mùa xuân văn chị Hiên sẽ là một trong những tư liệu văn hay để các em học sinh tham khảo và vận dụng cho bài viết phân tích nhân vật của mình.

Theo Tô Hoài “Nhân vật là trụ cột của sáng tác, phải chuẩn bị nhân vật trước tiên”. Từ quan điểm ấy, Tô Hoài đã xây dựng được một số nhân vật để lại ấn tượng thẩm mĩ trong lòng người đọc.

Mị trong Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài đến với chúng ta đầu tiên trong cái dáng “lùi lũi như một con rùa nuôi trong xó cửa”, suốt ngày làm lụng, “lúc nào cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Tưởng đâu như sức sống đã lụi tàn trong tâm hồn cô gái. Nhưng không, từ tận đáy sâu tâm hồn câm lặng ấy vẫn le lói những tia lửa sống chỉ chờ dịp mà bùng lên mạnh mẽ.

Cuộc đời của Mị được tính từ khi cô về làm dâu nhà thống lí Pá Tra. Thường thì, khi con gái lấy chồng giàu thì sướng, nhàn hạ. Nhưng đây, Mị chỉ lùi lũi một mình, câm lặng. Xưa kia Mị cũng đã có một thời con gái hạnh phúc (dù trong đói nghèo). Những đêm tình mùa xuân, con trai đến thổi sáo đứng “chật cả chân vách đầu buồng Mị”.

Và Mị đã có một tình yêu, có hiệu gõ vách hẹn hò. Tâm hồn cô gái xinh đẹp và tài hoa ấy luôn luôn mở rộng để đón nhận mọi hương hoa của cuộc đời. Nhưng rồi tất cả đều chấm dứt trong cái đêm Mị bị bắt cóc về nhà thống lí Pá Tra. “Sáng hôm sau, Mị mới biết mình đang ngồi trong nhà thống lí Pá Tra. Họ nhốt Mị vào buồng. Ngoài vách kia, tiếng nhạc sinh tiền cúng ma đương rập rờn nhảy múa.” Mị bị bắt cóc để rồi trở thành con dâu thống lí là trả cho cái món nợ hôn nhân từ đời cha mẹ Mị.

Những ngày đầu làm dâu nhà thống lí, thấm thía nỗi đau của một cuộc đời bị cướp đoạt “đêm nào Mị cũng khóc”. Đúng là về làm dâu gạt nợ, Mị bị cha con thống lí đối xử không khác gì con vật. Suốt ngày Mị chỉ “ngồi quay sợi gai, cạnh tảng đá, trước cửa tàu ngựa, gương mặt cô lúc nào cũng cúi xuống, mặt buồn rười rượi”. Cuộc đời cô cột chặt vào những công việc nặng nhọc. Đọc đoạn văn mở đầu của truyện không thể không băn khoăn, khao khát muốn tìm hiểu nguyên nhân xô đẩy Mị vào tình cảnh mà cô phải chịu.

Trước khi về cửa nhà thống lí, Mị đẹp như một bông hoa rừng. Cô là một phụ nữ trẻ, đẹp, chăm chỉ công việc, giàu lòng hiếu thảo, tự tin, thông minh… Người con gái ấy là niềm khát khao, ước mơ của bao nhiêu chàng trai. “Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”.

Mị chưa kịp nếm những trái ngọt của cuộc đời đã phải cay đắng tìm đến nắm lá ngón, mong kết liễu một cuộc đời không ra gì. Bởi vì, Mị không muốn chấp nhận một cuộc sống chết mòn, héo úa – điều này chứng tỏ con người Mị tiềm ẩn một sức sống mãnh liệt , muốn thoát khỏi cuộc sống nô lệ. Nhưng vì tình thương cha, lòng hiếu thảo, Mị không đành chết nên vứt nắm lá ngón, trở lại nhà thống lí.

Ngày lại ngày qua, nỗi khổ cực đã dồn nén dần cái sức sống tiềm tàng trong con người Mị. Mị không nghĩ đến cái chết nữa (ngay cả khi cha cô không còn). Mị tưởng mình cũng chỉ là con trâu, con ngựa nhà thống lí.

Sống trong nhà thống lí, ách áp bức của giai cấp thống trị, thần quyền, sự mê tín đã biến Mị trở thành con người hoàn toàn khác “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Dường như mối giao cảm giữa Mị với cuộc sống bên ngoài chỉ còn thu hẹp của “căn buồng âm u, kín mít, có một chiếc cửa sổ, một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng.”

Ý thức làm người vốn có của Mị đã bị giai cấp phong kiến làm tê liệt. Càng ngày cô càng không nói chỉ “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Con người nô lệ trong Mị vẫn còn sống còn con người thực vốn có của cô thì dường như đã chết. Mị chỉ là cái bóng vô cảm, vô hồn, lãng quên dĩ vãng, không gắn bó với hiện tại, nghĩ đến tương lai.

Tô Hoài rất thành công khi diễn tả tinh thần chết dần , chết mòn của một cô gái xinh đẹp. Nhưng càng thành công trên lĩnh vực ấy bao nhiêu thì khi thể hiện quá trình hồi sinh của Mị càng khó bấy nhiêu. Phải chăng, cuộc sống thực tại đã làm tâm hồn Mị nguội lạnh, thờ ơ, phải chăng cô Mị xinh đẹp ngày xưa nay phải cam chịu cảnh sống mà như chết?

Cuộc sống của Mị dường như đã rơi vào bi kịch, làm sao để giải thoát được bi kịch ấy, làm sao cho quá trình hồi sinh ấy được vận động như ý của nhân vật chứ không phải là khát vọng của nhà văn gán cho nó.

“Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo vọng lại thiết tha, bồi hồi”. Tiếng sáo ấy đã khơi dậy sức sống ẩn náu trong Mị tưởng như đã nguội tắt. Mị còn nhớ như in những lời hát tình tứ mà Mị đã nghe, đã hát, đã thổi sáo, thổi kèn lá ngày nào. Hiện tại bây giờ cô đang sống lại cảnh tượng ngày xưa. Cô đâu phải là con người “chết dần chết mòn” về nhân tính như Chí Phèo. Tiếng sáo giờ đây đã thấm vào trái tim Mị, thức tỉnh sự câm lặng bấy lâu.

Rồi Mị uống rượu, men rượu hay men cuộc đời đã nâng bỗng tâm hồn Mị lên, tâm hồn Mị thoát xác, vượt ra ngoài cái ô cửa “mờ mờ trăng trắng kia”. Khát vọng được đi chơi bỗng bùng cháy trong tâm hồn Mị. Khát vọng ấy là cuộc khởi nghĩa nhân tính trong Mị. Bởi vì, từ ngày về làm dâu nhà thống lí “Chẳng năm nào A Sử cho Mị đi chơi Tết. Mị cũng chẳng buồn đi”.

Vậy mà, khi “tiếng chó sủa xa xa. Những đêm tình mùa xuân đã tới”. Mị bỗng vùng dậy đột ngột, “tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng”. Sau bao năm sống trong gia đình thống lí, lần đầu tiên tiếng sáo của ai đó đến với Mị như một âm thanh của hiện tại. Rồi sau đó tiếng sáo làm sống lại bao rung động tâm linh của mùa xuân năm nào. Mới đầu tiếng sáo còn lấp ló nơi đâu núi, cuối cùng tiếng sáo đã thực sự hóa thân, nhập thân trong Mị.

“Trong đầu Mị rập rờn tiếng sáo”. Góp phần làm nên cuộc “nổi loạn” nhân tính trong Mị có nhiều yếu tố; yếu tố ngoại lực, yếu tố nội lực. Trong đó, yếu tố quan trọng nhất phải chăng là tiếng sáo mùa xuân. Ngày xuân, không có gì cuốn hút Mị bằng tiếng sáo, tiếng sáo đối với Mị mỗi lúc một mãnh liệt. Từ đầu là những âm thanh xa xôi, sau đó tiếng sáo trở thành lời mời gọi giúp Mị lãng quên quá khứ, sống vui vẻ với tương lai, “tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, đám chơi”.

Quá trình hồi sinh của Mị trong đêm tình mùa xuân đã không được miêu tả một cách dễ dãi, hời hợt. Tâm trạng nhân vật được nhìn nhận từ cái nhìn lưỡng phân. Con người hiện tại dường như đã chết, con người quá khứ đang dần dần từng bước được hồi sinh. Mị như cây hoa ban, hoa đào Tây Bắc trước lúc vào xuân, nhìn bề ngoài thì có vẻ khẳng khiu, khô gầy, mỏng manh như đã chết nhưng bên trong sức sống vẫn âm ỉ, vẫn chờ thời để bừng sáng sắc xuân.

Tết đến, Mị rất muốn đi chơi, nhưng A Sử không cho Mị đi, năm nào cũng vậy A Sử toàn đi một mình để Mị ở nhà như người xa lạ. Nhưng giai cấp phong kiến, gia đình nhà thống lí không thể cưỡng ép dược Mị lâu, một con người sức sống đang còn cháy rực trong tâm hồn. Lúc này khi “tiếng sáo đang lửng lơ bay ngoài đường” gọi bạn đi chơi mà Mị phải ngồi cô độc trong xó cửa. Cô không thể dằn lòng được “Mị vùng dậy khêu đèn sáng, cuốn lại tóc, mặc váy hoa vắt ở vách” toan bước đi, tìm đến nơi đang lửng lơ bay tiếng sáo gọi bạn tình thiết tha.

Nhưng Mị vừa toan bước đi thì A Sử lại kéo cô lại. A Sử không hề đánh đập, chửi rủa mà lầm lì như cái bóng từ từ trói cô vào cột nhà. Và bây giờ Mị mới bật khóc, khóc cho nỗi oan trái của một kiếp người khao khát muốn sống, muốn yêu mà lại bị ghì chặt vào một cuộc sống “không bằng con ngựa”.

Nhưng cũng từ đấy sức sống của một cô gái yêu đời lại trỗi dậy. Trong bóng tối, cô đang mơ màng đi theo tiếng sáo, tiếng sáo ấy đã có lần đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi. Nhưng rồi quá khứ chưa đi, hiện tại lại về. Giờ đây, Mị đang bị A Sử trói, dường như cô sống mà như đã chết. Đã chết phần hồn lẽ nào giờ đây cô lại để chết cả phần xác, Mị thấy xung quanh mình chỉ là bóng tối, không một tiếng động, cô “vùng bước đi. Nhưng tay chân đau không cựa được. Mị không nghe tiếng sáo nữa”.

Nhân vật Mị đã thu hút người đọc bằng chính cái sức sống tiềm ẩn ấy. Tô Hoài đã rất thành công khi tạo dựng nhân vật này. Một cô Mị xinh đẹp, tài hoa, yêu đời, ham sống mà luôn luôn nghĩ đến cái chết vì không được sống cho ra sống. Một cô Mị câm lặng, khép kín mà luôn luôn bùng nổ những hành động chống đối mãnh liệt. Mâu thuẫn đấy mà lại hết sức thống nhất, tự nhiên, hợp lí.

Người đọc có cảm giác ấy là nhờ cách kể chuyện rất sinh động, kết cấu hình tượng chặt chẽ và nhất là nhờ những chi tiết nghệ thuật có tính biểu cảm cao: một lỗ cửa sổ, “mờ mờ trăng trắng” soi rọi cuộc đời của cô con dâu gạt nợ nhà thống lí; một tiếng sáo gọi bạn tình đêm xuân bồi hồi, tha thiết như giục giã, như gọi mời; những hơi rượu say nồng đêm xuân; những giọt nước mắt trong đêm cuối cùng ở nhà thống lí…

Ở Mị có sự dửng dưng vô cảm, bên cạnh lòng thương xót sâu xa; có lúc lãng quên tất cả và cũng có lúc trào dâng nỗi nhớ thiết tha bồi hồi. Từ chỗ không thấy sợ Mị bỗng trở thành người hoảng hốt. Tất cả các trạng thái đối nghịch ấy của tâm hồn Mị đều được Tô Hoài dẫn dắt, phân tích một cách hợp lí tưởng như không có thể nào khác được.

Đọc Vợ chồng A Phủ ta thấy Mị là bức chân dung tĩnh lặng. Hầu như trong thời gian ở nhà thống lí Mị chỉ nói có vài ba câu. Nhưng ẩn chứa trong tâm hồn câm lặng ấy là một sức sống mãnh liệt, một khát vọng lớn lao như mạch suối ngầm trong mát. Tiếp xúc với Vợ chồng A Phủ ta nhớ, ta yêu một cô Mị ở Hồng Ngài càng bị đọa đày, đau khổ càng khao khát muốn vươn lên một cuộc sống tốt lành. Một cô Mị tiềm tàng sức sống mãnh liệt để có thể hiểu hơn một cô Mị du kích Phiềng Sa sau này.

Đón đọc tuyển tập 🍀 Phân Tích Đất Nước Nguyễn Đình Thi 🍀 12 Bài Mẫu Hay

Phân Tích Nhân Vật Mị Trước Khi Về Làm Dâu – Mẫu 20

Nhân vật Mị được Tô Hoài khắc hoạ với những diễn biến số phận khác biệt, chính vì vậy để có những góc nhìn đầy đủ khi phân tích nhân vật, đón đọc gợi ý phân tích nhân vật Mị trước khi về làm dâu như sau:

Tây Bắc là mảnh đất đã gây biết bao thương nhớ cho các nhà văn trong đó có Tô Hoài. “Vợ chồng A Phủ” là tác phẩm được ông sáng tác năm 1952 và in trong tập “Truyện Tây Bắc”. Đây là kết quả của chuyến đi thực tế tám tháng lên vùng cao Tây Bắc của nhà văn. Nổi bật trong truyện ngắn này là nhân vật Mị, người đã gây được nhiều ấn tượng, cảm xúc cho bạn đọc.

Mị là nhân vật chính trong phần mở đầu của tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”. Đây là nhân vật tiêu biểu, đại diện cho số phận của những người con dâu gạt nợ ở miền núi. Mị có hoàn cảnh thật đáng thương, bất hạnh. Cô được sinh ra trong một gia đình nghèo khổ. Vì không có tiền cưới vợ nên bố Mị đã vay tiền bố của thống lí Pá Tra, mỗi năm phải nộp lãi một nương ngô. Đến khi mẹ của Mị chết vẫn chưa trả hết số nợ.

Trước khi về làm dâu gạt nợ nhà thống lí, Mị là cô gái xinh đẹp, có tài thổi kèn lá hay như thổi sáo. Những đêm tình mùa xuân “trai đến đứng nhẵn vách đầu buồng Mị”. Mị có sức hút, sức hấp dẫn như bông hoa rừng đầy hương sắc. Vẻ đẹp của cô gái người Mông khiến chàng trai nào cũng muốn có được.

Mị là cô gái yêu tự do, dám lên tiếng phản đối lệ tục dùng con người làm vật thế mạng cho món nợ vật chất của người thân còn tồn tại trong cuộc sống của người dân Tây Bắc. Khi thống lí Pá Tra nói với bố Mị rằng: “Cho tao đứa con gái này về làm dâu thì tao xóa hết nợ cho” thì Mị thẳng thắn trả lời: “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu”.

Lời nói của Mị đã chứng tỏ cô là một người có nhận thức sâu sắc về cuộc sống, Mị chấp nhận làm nương ngô cả đời để trả nợ chứ không làm con dâu gạt nợ và sống cuộc sống mất tự do trong nhà thống lí. Đó chính là vẻ đẹp về nhân cách và phẩm giá của người con gái với vẻ đẹp trong ngần thánh thiện như loài hoa ban thơm ngát giữa rừng. Nhưng có ngờ đâu sự hiểm độc của chính sách cho vay nặng lãi của bọn thổ ty phong kiến miền núi như một sợi dây oan nghiệt siết chặt lấy cuộc đời Mị.

Có thể nói, Mị là linh hồn của phần một trong truyện “Vợ chồng A Phủ”. Nhân vật này được Tô Hoài khắc họa bằng bút pháp cá thể hóa và nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế. Qua nhân vật Mị, nhà văn đã thể hiện những tư tưởng nhân đạo sâu sắc. Đây cũng là một trong những yếu tố góp phần quan trọng làm nên sự thành công của tác phẩm.

Ngoài văn phân tích nhân vật Mị, SCR.VN tặng bạn 💧 Phân Tích Tiếng Hát Con Tàu Chế Lan Viên 💧 11 Bài Mẫu Hay

Viết một bình luận