Phân Tích Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính ❤️️34+ Mẫu Siêu Hay ✅ Bài Thơ Đặc Sắc Với Nhiều Hình Ảnh Thơ Đẹp Và Những Lời Thơ Giàu Ý Nghĩa.
Lời Bài Thơ Tiểu Đội Xe Không Kính Phạm Tiến Duật
Chia sẻ Lời Bài Thơ Tiểu Đội Xe Không Kính Phạm Tiến Duật với những ý nghĩa về vẻ đẹp của người lính can trường trong chiến đấu bảo vệ độc lập của Tổ quốc.
Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Tác giả: Phạm Tiến Duật
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái
Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Ðã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.
Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước,
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Giải Thích Nhan Đề Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính
Giải Thích Nhan Đề Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính cung cấp thêm cho bạn những thông tin thú vị để phân tích tác phẩm.
Bài thơ về tiểu đội xe không kính có cách đặt đầu đề hơi lạ. Bởi rõ ràng đây là một bài thơ, vậy mà tác giả lại ghi là “bài thơ” – cách ghi như thế có vẻ hơi thừa. Lẽ thứ hai là hình ảnh tiểu đội xe không kính. Xe không kính tức là xe hỏng, không hoàn hảo, là những chiếc xe không đẹp, vậy thì có gì là thơ.
Vì đã nói đến thơ, là nói đến một cái gì đó đẹp đẽ, lãng mạn, bay bổng. Vậy, đây rõ ràng là một dụng ý nghệ thuật của Phạm Tiến Duật. Dường như, tác giả đã tìm thấy, phát hiện, khẳng định cái chất thơ, cái đẹp nằm ngay trong hiện thực đời sống bình thường nhất, thậm chí trần trụi, khốc liệt nhất, ngay cả trong sự tàn phá dữ dội, ác liệt của chiến tranh.
Tiếp đến là hình ảnh độc đáo, gây ấn tượng mạnh là những chiếc xe không kính. Từ bài thơ có vẻ như hơi thừa, nhưng thực ra từ đó lại nằm trong chủ định của tác giả và tạo nên sự liên kết giữa hai sự vật có vẻ xa lạ nhau: “bài thơ” và “xe không kính”.
Xe không kính thì chẳng có gì làm nên thơ cả, vậy mà nó đã trở thành hình ảnh trung tâm của một bài thơ. Tác giả đã tìm ra chất thơ ở những điều tưởng chừng rất khô khan, trần trụi. Đó chính là chất thơ từ hiện thực gian khổ, ác liệt ở nơi chiến trường.
Chính chất liệu chân thực từ cuộc sống ấy đã làm nên sức sống lâu bền của bài thơ. Cách đặt nhan đề tự nhiên thể hiện sâu sắc phong cách thơ Phạm Tiến Duật: tinh nghịch, sôi nổi, tràn đầy niềm tin vào cuộc sống và chiến đấu. Đó cũng là bút pháp của nền văn học kháng chiến chiến chống Mĩ cứu nước, vừa tự nhiên, sôi động vừa đậm chất sử thi hào hùng.
Mời bạn tham khảo 🌠 Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính 🌠 Lời Thơ, Cảm Nhận, Phân Tích Trọn Bộ
Cách Phân Tích Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính Của Phạm Tiến Duật
Hướng dẫn cách phân tích Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật dưới đây sẽ giúp các em học sinh nắm vững phương pháp làm bài.
👉 Bước 1: Giới thiệu khái quát về tác phẩm “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật cần phân tích.
👉 Bước 2: Phân tích chi tiết Bài thơ về tiểu đội xe không kính.
a. Hình tượng những chiếc xe không kính và tư thế kiên cường, ung dung của người lính (khổ 1 và khổ 2)
-Hình tượng những chiếc xe được miêu tả chân thực, trần trụi:
- Điệp từ “không có” kết hợp chất văn xuôi qua lối nói khẩu ngữ nhấn mạnh sự tàn phá của chiến tranh.
- Các từ phủ định được sử dụng nối tiếp “không có… không phải… không có”
-Hình tượng người lính lái xe với vẻ đẹp kiên cường, ung dung:
- Biện pháp đảo ngữ: “Ung dung buồng lái ta ngồi”
- Điệp từ “nhìn thấy… nhìn thấy… thấy” được nhắc lại ba lần, thể hiện tư thế hiên ngang, trực diện đối mặt khó khăn.
b. Sự khắc nghiệt của cuộc sống nơi chiến trường cùng tinh thần bất chấp hiểm nguy và sự lạc quan của người lính (khổ 3 và khổ 4)
- Hình ảnh thực “gió”, “bụi”, “mưa” gợi sự gian khổ, khắc nghiệt.
- Hình ảnh “phì phèo châm điếu thuốc”, “lái trăm cây số nữa”gợi sự lạc quan của người lính.
c. Hình tượng những chiếc xe không kính và tình đồng đội cao đẹp của người lính (khổ 5 và khổ 6)
- “Những chiếc xe từ trong bom rơi” tả thực những chiếc xe đi qua mưa bom bão đạn.
- Hình ảnh “Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi”: Thể hiện sự đồng cảm, sẻ chia. Gợi tình cảm đồng chí, đồng đội
- Cách định nghĩa về gia đình mang đậm chất lính: “Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”.
d. Hình tượng những chiếc xe không kính cùng lí tưởng, trái tim yêu nước của người lính (khổ 7)
- Thủ pháp liệt kê nhấn mạnh những thiếu thốn.
- Lí tưởng và trái tim yêu nước của người lính được thể hiện qua hình ảnh hoán dụ “trái tim” và mục đích “vì miền Nam phía trước”.
👉 Bước 3: Đánh giá giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ.
Xem nhiều hơn 🌹 Soạn Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính 🌹 Giáo Án Phân Tích Trọn Bộ
Phân Tích Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính Dàn Ý
Phân Tích Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính Dàn Ý để có những định hướng đầy đủ và chính xác nhất khi làm bài.
I. Mở bài phân tích Bài thơ về tiểu đội xe không kính: Giới thiệu về tác giả, tác phẩm
- Giới thiệu về tác giả: Phạm Tiến Duật là nhà thơ được rèn luyện, trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ gian khổ và oanh liệt của dân tộc.
- Giới thiệu tác phẩm cần phân tích: Bài thơ về tiểu đội xe không kính được sáng tác năm 1969 khi cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra ác liệt, khắc họa hình ảnh độc đáo của những chiếc xe không kính làm nổi bật hình ảnh những người lính lái xe ở Trường Sơn trong thời kì chống Mỹ với tư thế, tinh thần hiên ngang bất khuất.
II. Thân bài phân tích Bài thơ về tiểu đội xe không kính:
- Phân tích về hình ảnh những chiếc xe không kính trong bài thơ
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
- Hình ảnh những chiếc xe không kính được tác giả miêu tả trần trụi, chân thực
- Đó là những chiếc xe vận tải chở hàng hóa, đạn dược ra mặt trận, bị máy bay Mĩ bắn phá, kính xe vỡ hết.
- Động từ “giật”, “rung” cùng với từ “bom” được nhấn mạnh hai lần càng làm tăng sự khốc liệt của chiến tranh
- Hai câu thơ đầu giải thích nguyên nhân đồng thời phản ánh mức độ khốc liệt của chiếc tranh.
- Phân tích hình ảnh người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
a, Tư thế hiên ngang, tinh thần lạc quan tích cực coi thường hiểm nguy:
- Hình ảnh người lính lái xe với tư thế hiên ngang, ngang tàng dù thiếu đi những phương tiện chiến đấu tối thiểu.
- Tính từ ung dung đặt ở đầu câu nhấn mạnh tư thế chủ động, coi thường mọi khó khăn, nguy hiểm của các chiến sĩ lái xe.
- Người lái xe bộc lộ những phẩm chất cao đẹp, sức mạnh lớn lao đặc biệt là sự dũng cảm, hiên ngang của họ.
- Những khó khăn gian khổ như tăng lên gấp bội vì xe không có kính: gió vào xoa mắt đắng, Bụi phun tóc trắng như người già, Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời… nhưng không làm giảm ý chí và quyết tâm của các chiến sĩ lái xe.
- Hình ảnh những chiếc xe không kính độc đáo là hình ảnh tươi đẹp của người lính lái xe Trường Sơn
- Họ là chủ nhân của những chiếc xe không kính độc đáo
- Họ với tư thế hiên ngang “nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng” vượt qua mọi khó khăn thiếu thốn về vật chất
- Họ phải đối mặt với hiểm nguy “gió vào xoa mắt đắng”, “đột ngột cánh chim”…
- Hiện thực khốc liệt nhưng người lính cảm nhận và thể hiện bằng sự ngang tàng, trẻ trung, lãng mạn
- Họ tự tin, hiên ngang đối diện với gian khói lửa chiến tranh
- Giọng nói ngang tàng, bất chấp hiểm nguy thể hiện rõ trong cấu trúc” không có… ừ thì”cứng cỏi, biến khó khăn thành điều thú vị
- Khó khăn, nguy hiểm, thiếu thốn không làm nhụt chí người lính lái xe Trường Sơn. Ngược lại, ở họ là bản lĩnh, nghị lực phi thường hơn.
b, Tâm hồn sôi nổi của tuổi trẻ, của tình đồng chí, đồng đội sâu sắc
- Những người lính lái xe hóm hỉnh, tươi vui “chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc/ Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”
- Họ hồn nhiên, tếu táo và ấm áp trong tình đồng đội, đồng chí. Tình đồng đội thắm thiết, thiêng liêng là sợi dây vô hình nối kết mọi người trong hoàn cảnh hiểm nguy, kề cận cái chết
- Chiến tranh có khốc liệt thì những người lính lái xe vẫn đoàn kết hợp nhất thành “tiểu đội xe không kính” cùng nhau chiến đấu.
- Điệp từ “lại đi” khẳng định đoàn xe sẽ không ngừng tiến tới đi tiếp con đường gian khổ phía trước.
c, Ý chí chiến đấu vì miền Nam, thống nhất đất nước
- Bài thơ khép lại với bốn câu thơ thể hiện ý chí sắt đá của những người lính
- Miền Nam chính là động lực mạnh mẽ nhất, sâu xa nhất tạo nên sức mạnh phi thường của người lính cách mạng
- Với biện pháp liệt kê, điệp từ “không có” diễn tả mức độ khốc liệt ngàng càng tăng của chiến trường
- Đối lập với những cái “không có” chỉ cần “có một trái tim” đã làm nổi bật sức mạnh, ý chí ngoan cường của người lính lái xe.
- Hình ảnh trái tim là một hoán dụ nghệ thuật đẹp đẽ và đầy sáng tạo, khẳng định phẩm chất cao quý của các chiến sĩ lái xe trên đường ra tiền tuyến lớn. Các anh xứng đáng với truyền thống anh hùng bất khuất của dân tộc Việt Nam; tiêu biểu cho chủ nghĩa yêu nước của thế hệ thời đánh Mĩ.
III. Kết bài phân tích Bài thơ về tiểu đội xe không kính:
- Bài thơ về Tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật là tác phẩm đậm chất trữ tình cách mạng. Nhà thơ đã khắc hoạ hình ảnh các chiến sĩ lái xe Trường Sơn bằng tình cảm mến yêu và cảm phục chân thành.
- Vẻ đẹp của người lính lái xe và hình tượng những chiếc xe không kính trong bom đạn khốc liệt nói lên phẩm chất cao đẹp của thế hệ trẻ trong kháng chiến chống Mỹ.
Giới thiệu tuyển tập 🌹 Nghị Luận Về Bài Thơ Tiểu Đội Xe Không Kính 🌹 Dàn Ý Phân Tích Ngắn Gọn Và Chi Tiết
Sơ Đồ Phân Tích Bài Thơ Tiểu Đội Xe Không Kính Của Phạm Tiến Duật
Tham khảo sơ đồ phân tích Bài thơ tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật dưới đây để dễ dàng ôn tập kiến thức hiệu quả.
Đừng bỏ qua 🔥 Sơ Đồ Tư Duy Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính 🔥 12 Mẫu Ngắn Gọn Và Đầy Đủ
Phân Tích Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính Hay Nhất – Mẫu 1
Đón đọc văn mẫu phân tích Bài thơ về tiểu đội xe không kính hay nhất được chọn lọc và chia sẻ dưới đây:
“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới vẫy tương lai”
Đó là những câu thơ vô cùng tuyệt đẹp mà nhà thơ Tố Hữu đã viết ra để ca ngợi cả một thế hệ những chàng trai, cô gái thanh niên xung phong đã dũng cảm từ giã gia đình, từ bỏ giảng đường đại học để đi theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ Quốc.
Họ ra đi và dấn thân vào con đường Trường Sơn máu lửa, nơi bom đạn kẻ thù liên tiếp dội xuống, nơi sự sống và cái chết trở nên mong manh với một niềm tin niềm lạc quan phơi phới vào tương lai đất nước. Và viết về những người lính trên tuyến đường Trường Sơn năm ấy, ta không thể nhắc đến bài thơ “Bài thơ tiểu đội xe không kính” của nhà thơ Phạm Tiến Duật.
Bài thơ khắc họa thành công hình tượng những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn trong những năm chống Mĩ với một tư thế hiên ngang dũng cảm, coi thường mọi gian khổ khó khăn, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Hình ảnh những chiếc xe không kính và thái độ ung dung của người chiến sĩ lái xe khiến người đọc không khỏi ngỡ ngàng:
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.”
Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh những chiếc xe không kính với một cách nói rất tự nhiên, mộc mạc, vòng vèo pha chút lính. Lời thơ giản dị, tự nhiên, gần gũi như chính cuộc sống đời thường đi vào trong trang viết. Nhưng ẩn sau những lời thơ giản dị, mộc mạc ấy là một hiện thực chiến tranh vô cùng khốc liệt, là cảnh mặt đường bị cày nát, loang lổ những hố bom.
Hình ảnh những tấm kính chắn gió xe bị vỡ vụn tan tành, vì “bom giật, bom rung” rú gầm dữ dội là chứng nhân của cuộc chiến đấu gian nguy và khốc liệt của người lính lái xe. Biết bao gian khổ hiểm nguy đang rình rập, đe doạ tính mạng con người. Vậy mà kỳ lạ thay khi nói về nó giọng điệu người lính trẻ rất thản nhiên, vô tư, nhẹ nhàng. Phải là một con người dũng cảm không sợ gian khổ, không sợ hi sinh mạng sống của bản thân mình mới có cách nói nhẹ tênh, tự nhiên như thế:
“Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”
Từ láy “ung dung” gợi lên hình ảnh người lính đang ở trong một tư thế, dáng ngồi bình thản, tự do tự tại, ngang tàng, ngạo nghễ, không hề bận tâm lo lắng, sợ hãi. Điệp từ “nhìn” cho ta cảm giác người lính đang mở rộng tầm mắt của mình nhìn về phía bầu trời cao rộng. Đặc biệt, từ nhìn thẳng nhấn mạnh thái độ dứt khoát, tự tin của một con người sẵn sàng đối đầu với mọi khó khăn thử thách đang chờ đợi mình trên con đường phía trước.
Bởi không có kính cho nên thiên nhiên đất trời rộng mở trước mắt người lính. Những cản vật đối với việc lái xe an toàn giờ đây cứ chực sa, chực ùa vào buồng lái:
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái”
Ngồi trong khoang lái không có kính chắn gió, người lính có dịp nhìn thẳng vào thiên nhiên trước mắt mình và anh có cảm giác con đường trước mặt đang lao về phía mình. Những cơn gió ùa vào buồng lái như xoa dịu đôi mắt đắng vì bụi đường. Đặc biệt các anh cảm nhận cánh chim và những vì sao lung linh trên bầu trời như sa, như ùa vào buồng lái để bầu bạn, tâm tình trên vạn dặm trường chinh.
Cảnh vật lướt qua thật nhanh trong mắt người chiến sĩ. Qua cách cảm nhận hồn nhiên, vô tư ấy, ta hình dung chiếc xe đang lao đi với một tốc độ rất nhanh. Hình ảnh con đường chạy thẳng vào tim vừa là hình ảnh thực miêu tả tốc độ lao nhanh của chiếc xe đồng thời là hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho con đường lý tưởng. Đó là con đường ra tiền tuyến, con đường chiến đấu vì độc lập tự do của Tổ quốc mà người lính tự nguyện dấn thân theo đuổi trong suốt cuộc đời mình.
Mặt khác hình ảnh thiên nhiên hiện lên trong bài thơ này với vẻ đẹp nên thơ của một bầu trời cao lồng lộng với ánh trăng sao lung linh tỏa sáng giữa màn đêm, với một cánh chim trời lướt ngang mạnh mẽ cho thấy một nét đẹp trong tâm hồn người lính. Đó là những con người có tâm hồn lãng mạn, yêu đời. Mặc dù con đường hình ảnh đầy gian khổ nhưng người lính vẫn mở rộng lòng mình ra để đón nhận vẻ đẹp thiên nhiên đất trời và tạo vật dù chỉ là trong khoảnh khắc.
Những gian khổ trên con đường hành quân và tinh thần chịu đựng gian khổ khẳng định bản lĩnh phi thường của người lính lái xe:
“Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.”
Vì lái những chiếc xe không kính cho nên suốt con đường hành quân, người lính phải chịu biết bao gian khổ, nào mưa tuôn, mưa xối, nào bụi phun trắng như người già, rồi thì ướt áo, mặt mày lấm lem vì bụi đường. Biết bao gian khổ, bức bối, khó chịu, nhưng đã là lính thì phải.
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc, nhìn nhau mặt cười ha ha. Chưa cần thay lái trăm cây số nữa, mưa ngừng gió lùa khô mau thôi là cách nói đầy lạc quan tin tưởng. Đã là lính thì phải biết coi thường gian khổ, dù mưa gió, bụi bẩn, quần áo ướt sũng thì cũng phải vượt qua. Lúc nào cũng phải vững vàng tay lái, tiếp tục đưa xe băng băng ra chiến trường tiếp viện. Đã là lính thì phải biết vượt qua mọi gian khổ để hoàn thành nhiệm vụ.
Từ chi tiết này ta nhận ra một nét đẹp trong tâm hồn người lính đó là những con người có trách nhiệm cao độ. Con người biết coi thường gian khổ của bản thân. Đặc biệt là những người lính trẻ trung, sôi nổi, tràn đầy niềm lạc quan, yêu đời, yêu cuộc sống. Họ luôn biết mỉm cười dù trong mọi hoàn cảnh khó khăn.
Cái tiếng cười ha ha, tếu táo, nghịch ngợm không chỉ thể hiện sự hồn nhiên, trẻ trung, sôi nổi của người lính, mà còn thể hiện bản lĩnh, tinh thần lạc quan của họ. Nó khiến ta liên tưởng đến miệng cười buốt giá của những anh vệ quốc quân trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu.
Nụ cười ấy giúp con người quên đi mọi gian khổ, có thêm niềm tin sức mạnh vượt qua bom đạn và chông gai trên con đường phía trước. Chính trên quãng đường đầy hiểm nguy ấy, tình đồng chí đồng đội được củng cố, bồi đắp bằng sự cảm thông, tin tưởng sâu sắc:
“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Ðã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.”
Tình cảm đồng đội, đồng chí của người lính lái xe đêm không phải chỉ được hình thành ở nơi dầu sôi lửa bỏng, nơi chiến trường đạn bom ác liệt, hay trong lúc “súng bên súng, đầu sát bên đầu”, cùng chung vai sát cánh trong chiến đấu, mà còn là lúc dựng bếp giữa trời. Tình đồng đội được gắn kết khi ta cùng chung bát đũa, chung bữa cơm dã chiến trên rừng. Chiếc võng mắc chông chênh đường xe chạy, ta nằm cùng nhau kể lể chuyện tâm tình.
Chỉ vậy thôi trong những phút giây gặp gỡ vô cùng ngắn ngủi, tình cảm đồng đội, đồng chí vẫn được hình thành thiêng liêng gắn bó, sâu đậm, thân thiết, như những người ruột thịt trong gia đình. Vẫn đau lòng xót xa khi nghe tin một đồng đội ngã xuống, và sững sờ khi một ngày nào đó trên con đường ra trận, họ gặp lại bạn mình.
Họ trao nhau một cái bắt tay, một nụ cười, ánh mắt, lời nói và trao nhau biết bao tình yêu thương nồng nàn ấm áp. Để từ đó họ trao nhau niềm tin sức mạnh, động viên nhau vượt qua những khó khăn gian khổ trên con đường phía trước. Sau những giây phút ngắn ngủi đó, họ tiếp tục ra đi “lại đi lại đi trời xanh thêm”. Đi để nhìn thấy bầu trời trong xanh, không còn thấy khói súng, bom đạn của kẻ thù. Đi để đất nước được hoà bình thống nhất.
Một lần nữa, hình ảnh chiếc xe không kính lại hiện ra, đóng khép lại khúc ca ra trận hào hùng:
“Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước,
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.”
Điệp từ “không” lặp đi lặp lại nhiều lần như nhấn mạnh một hiện thực chiến tranh tàn khốc, với hình ảnh một chiếc xe méo mó, biến hình biến dạng. Hiểm nguy rình rập trên từng bước đường xe chạy. Cái khốc liệt của chiến tranh hiển hiện ngay trên những vết đạn còn in dâu trên thân xe. Thế nhưng dù gian khổ, nguy hiểm, dù chiến tranh có tàn khốc thế nào đi chăng nữa, những người lính vẫn đinh ninh đưa xe tiến về phía trước, về miền Nam thân yêu.
Chính sức mạnh của tình yêu nước đã thôi thúc, khơi dậy nơi người lính lòng quả cảm, biến họ thành những anh hùng của thời đại. Những trái tim nhiệt tình yêu nước, những trái tim mang khát vọng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước đang toả sáng sôi sục trong tâm hồn của người lính trẻ.
Họ mong muốn góp sức, hiến máu xương mình cho cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc, để đất nước được hoà bình thống nhất, nhà nhà đoàn tụ, cuộc sống con người ngày càng tốt đẹp hơn. Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước bởi trong xe luôn có một trái tim tràn trào khí phách.
Như một lời khẳng định đinh ninh, dứt khoát, thể hiện ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước của cả thế hệ thanh niên Việt Nam trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ ngày đó. Chính nhờ có lòng yêu nước nồng nàn đó, những người lính của chúng ta đã góp sức mình làm nên những chiến thắng vẻ vang trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc.
Phạm Tiến Duật đã viết nên những lời thơ giản dị, tự nhiên, đậm chất khẩu ngữ như lời ăn, tiếng nói trong cuộc sống thường ngày. Hình ảnh thơ chân thật, giản dị như lấy ra từ chính hiện thực chiến đấu đã làm cho bài thơ nét đẹp riêng rất chân thành, mộc mạc và rất đỗi sâu sắc.
Hình ảnh người lính anh hùng, dũng cảm, lạc quan, yêu đời, coi thường gian khổ để hoàn thành nhiệm vụ, biết hi sinh bản thân mình vì nghĩa lớn, vì nhân dân, vì đất nước là nguồn cảm hứng bất tận trong thơ ca kháng chiến. Lý tưởng sống vì mọi người, tinh thần “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” có vai trò cổ vũ người lính tiến lên phía trước. Thậm chí, dẫu có bị thương, họ vẫn “ung dung” xem thường nghịch cảnh:
“Cái vết thương xoàng mà đưa viện
Hàng còn chờ đó tiếng xe reo
Nằm ngửa nhớ trăng, nằm nghiêng nhớ bến
Nôn nao ngồi dậy nhớ lưng đèo.”
(Bài ca lái xe đêm – Tố Hữu)
Trước lời kêu gọi lên đường của tổ quốc, những chàng trai trẻ đã không ngần ngại bước đi. Nhà thơ Thanh Thảo trong bài thơ “Khúc bảy” đã có những lời phân trần chân thực, hết sức đáng yêu:
“Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
(Những tuổi hai mươi làm sao không tiếc)
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc?”
Đáp lời sông núi, cả những cô gái trẻ như Nho, Phương Định (Những ngôi sao xa xôi – Lê minh Khuê) cũng đã dũng cảm rời bỏ quê hương yên bình, biết bao thân thuộc, mến yêu để đến nơi rừng núi, hòa vào cuộc chiến đấu chống kẻ thù xâm lược của dân tộc.
Đó là những con người “Sống hiên ngang bất khuất trên đời”. Họ đã dũng cảm “không tiếc đời mình” vì hạnh phúc cuối cùng của toàn dân tộc. Họ chính là linh hồn dân tộc, là sức mạnh của sông núi quê hương. Tố Hữu đã ví những con người trẻ tuổi ấy là những “Thạch Sanh của thế kỉ hai mươi”. Họ là con của nhân dân, bình dị, khiêm tốn, gần gũi nhưng vĩ đại – cái vĩ đại của một thế hệ anh hùng.
Anh bộ đội cụ Hồ chính là sự kết tinh cao độ những truyền thống tốt đẹp của dân tộc suốt trong bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước. Hình ảnh người chiến sĩ mãi là hình ảnh đẹp nhất trong thơ, mãi là chân dung đẹp nhất của thời đại chúng ta
Bài thơ về tiểu đội xe không kính là bài ca ca ngợi sức mạnh chiến đấu của người lính Việt Nam thời kháng Mĩ cứu nước. Chính tình đồng chí, đồng đội đã biến thành động lực giúp các anh vượt qua khó khăn, nguy hiểm, chiến đấu bảo vệ Tổ quốc thân yêu. Sức mạnh của người lính thời đại Hồ Chí Minh là vẻ đẹp kết hợp truyền thống và hiện đại. Họ là hiện thân của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, là hình tượng đẹp nhất của thế kỷ “Như Thạch Sanh của thế kỷ hai mươi” (Tố Hữu)
Giới thiệu ☔ Thuyết Minh Về Bài Thơ Tiểu Đội Xe Không Kính ☔ 15 Mẫu Phân Tích Cảm Nhận Đặc Sắc
Phân Tích Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính Ngắn Nhất – Mẫu 2
Phân Tích Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính Ngắn Nhất tập trung vào những nội dung cốt lõi của bài thơ, tuy ngắn gọn nhưng vẫn đầy đủ ý.
Tác giả Phạm Tiến Duật là một trong những nhà thơ trẻ tiêu biểu trong thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Ông có nhiều bài thơ viết về hình ảnh thế hệ trẻ Việt Nam qua hình tượng của những cô gái thanh niên xung phong, những anh bộ đội trên tuyến đường Trường Sơn. Tác phẩm “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một trong những sáng tác để lại nhiều ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc.
Mở đầu bài thơ là một hình ảnh mới mẻ, lạ lẫm: những chiếc xe không có kính, câu thơ vừa giới thiệu lại vừa giải thích về những chiếc ce đặc biệt ấy:
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi”
Hình ảnh rất chân thực và sống động, lột trần ra chiếc xe bị tàn phá bởi chiến tranh, từ “không” được nhấn mạnh tới ba lần thể hiện sự hiên ngang, chủ động của người lính lái xe.
“Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước”
Những chiếc xe ấy qua các miêu tả ta thấy nó đã bị biến dạng và phá hủy gần như toàn bộ, thế mới thấy được chiến tranh tàn khốc và ác liệt làm sao. Tuy nhiên trong con mắt của tác giả nói riêng và những người lính lái xe nói chung, chiếc xe ấy vẫn hiện lên rất độc đáo và ngang tàng.
Từ đó đã trở thành biểu tượng đặc trưng của thời kì kháng chiến chống Mỹ, đồng thời còn làm nổi bật lên hình ảnh người lính lái xe:
“Ung dung buồng lái ta ngồi…
Như sa vào buồng lái”
Lời thơ ngắn và nhịp thơ nhanh, điệp từ “nhìn” được lặp lại tạo nên một không khí sôi động, hào hùng và khẩn trương nhưng vần đầy ung dung, lạc quan. Người lính ấy ung dung nhìn đất nhìn trời, nhìn thẳng trực tiếp mà không vần qua lớp kính nào, lời thơ như chính là lời ca tiếng hát của một bài hát vui tươi, hào hùng.
Đi cùng với những thiếu thốn của chiếc xe là những khó khăn mà người lính phải đối mặt:
“Không có kính, ừ thì có bụi…
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi”
Đoạn thơ đã thể hiện tinh thần hiên ngang, thái độ không run sợ và coi thường mọi khó khăn, những người lính đang độ tuổi đôi mươi tràn đầy sức sống, vừa kiên cường, lại trẻ trung và hóm hỉnh. Những người lính đã trở thành người đồng chí, đồng đội, gắn bó keo sơn với nhau:
“Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”
Họ là những người vốn xa lạ không quen nhau nhưng trong gian khổ chiến đấu họ đã găn bó với nhau như gia đình. Bởi họ không chỉ cùng nhau ăn, sống, chiến đấu cùng chung nhiệm vụ mà trong họ còn mang dòng máu chung – dòng máu khát vọng giải phóng miền Nam, thống nhất đât nước:
“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.”
Tình yêu đất nước chính là động lực mạnh mẽ nhất giúp người lính có thêm sức mạnh vượt qua khó khăn, tình yêu Tổ quốc, thương đồng bào đã hóa thành ý chí kiên cường và vững chắc.
Với chất thơ trẻ trung, ngang tàng, sống động và chân thực, bài thơ đã trở nên rất đặc biệt và có hồn. Đi sâu vào trong tâm trí người đọc là kí ức thời chiến tranh và hình tượng người lính anh dũng, kiên cường.
SCR.VN tặng bạn 💧 Cảm Nhận Bài Thơ Tiểu Đội Xe Không Kính 💧 15 Bài Văn Phân Tích Cảm Thụ Hay
Phân Tích Bài Thơ Tiểu Đội Xe Không Kính Ngắn Nhất Súc Tích – Mẫu 3
Bài văn phân tích Bài thơ tiểu đội xe không kính ngắn nhất dưới đây sẽ giúp các em học sinh nhanh chóng ôn tập cho bài viết trên lớp.
Phạm Tiến Duật từ lâu đã được biết đến là một trong những nhà thơ trẻ tiêu biểu trong những năm kháng chiến chống Mĩ. Là một người lính chính vì thế mà nhà thơ có được phong cách trẻ sôi nổi, hồn nhiên mà sâu sắc ở trong thơ. Viết về hình ảnh những người lính trong sáng tác của ông không thể không kể đến là “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”.
Có lẽ rằng trên chiến trường thì hình ảnh của những chiếc xe không có kính – hình ảnh thơ độc đáo đã in sâu vào trong trí nhớ của Phạm Tiến Duật.
Với hình ảnh của chiếc xe không kính như đã khiến cho nhan đề bài thơ trở nên hết sức đặc biệt – ta như nhận thấy được tác giả như cũng sắp viết ra một câu chuyện dài và vô cùng đặc sắc vậy. Quả thực cũng chính hình ảnh đó như đã làm nổi bật lên được hình tượng của những người lính trẻ, họ là những người lính lái xe đã anh dũng, bỏ cả tuổi thanh xuân của mình để nghe theo tiếng gọi của Tổ quốc.
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Thật ấn tượng biết bao nhiêu ngay từ ngôn từ, phong cách, nội dung cho đến cả nhịp điệu thơ đều rất tự nhiên và vô cùng mộc mạc, có sức gợi tả, gợi cầm. Câu thơ trên cũng đã làm hiện lên trước mắt người đọc một hình ảnh lạ lùng và mang được sự tếu táo, đó là hình ảnh của những chiếc xe không kính.
Mặt khác, ta như nhận thấy được cả lời giải thích của tác giả về những chiếc xe vô cùng đặc biệt ấy cũng được Phạm Tiến Duật miêu tả cũng rất đỗi chân thực đến gần như là lột trần ra một chiếc xe này cũng đã bị phá huỷ bởi chính hình ảnh bom giật, bom rung. Không chỉ vậy ta nhận thấy được có các những động từ mạnh làm nổi bật hình ảnh và ý thơ.
Thêm vào đó thì hai câu thơ thật tự nhiên, không có hình ảnh hoa mĩ, cũng chẳng phải hình ảnh tráng lệ, không có hình ảnh tượng trưng, giọng thơ được sử dụng có chút gì đó ngang tàng tạo nên điểm khởi đầu chứa được biết bao nhiêu ấn tượng trong bài thơ. Tiếp đến là khổ cuối cùng của bài cũng đã lại khiến cho Phạm Tiến Duật tái hiện lên hình ảnh chiếc xe như một dụ ý nghệ thuật độc đáo.
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Có thể nói rằng cũng chính với những chiếc xe ấy bị biến dạng, cũng đã bị phá huỷ gần như là toàn bộ. Thế rồi bom đạn, chiến tranh mới khốc liệt và nguy hiểm biết bao nhiêu. Ngay cả sắt thép còn như thế nữa thì huống chi con người bằng da bằng thịt.Tuy khó khăn và thiếu thốn, luôn đối mặt với sự hiểm nguy thì những cỗ xe kia cũng cứ vẫn hiện lên một cách rất độc đáo và cũng lại rất có hồn, rất ngang tàng.
Cũng không quá chút nào khi nói rằng hình ảnh chiếc xe không kính như đã trở thành biểu tượng trong những năm tháng kháng chiến chống Mĩ. Thông qua hình ảnh xe không kính thì còn nổi bật được hình ảnh của người chiến sĩ lái xe cũng thật hiên ngang, mưu trí và dũng cảm.
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Sử dụng nhịp thơ ngắn, nhanh và phần điệp từ nhìn lặp lại tạo nên tiết tấu hết sức sinh động cho câu thơ. Tiếp đó ta lại nhận thấy được đó cũng chính là một lời kể về những sự vật được nhìn thấy trên đường thông qua đoạn thơ sau:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái.
Hình ảnh của những người lính lái xe vẫn ung dung, vẫn cứ nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng. Thêm vào đó ta nhận thấy được nhịp thơ mà nhịp nhàng, sôi nổi như lời ca, tiếng hát như lại càng khiến không khí bài thơ thật vui tươi, sôi động.
Có thể nói khi mà chiếc xe đã bị phá huỷ, nát tan đến như vậy thì biết bao khó khăn đã nảy sinh cũng chỉ vì xe không có kính mà thành:
Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Thật bất ngờ khi không có kính thì tác giả lại có bụi rồi có mưa tuôn, mưa xối coi những khó khăn này trở thành động lực để luôn lạc quan yêu đời.
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
….Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
Sử dụng giọng thơ âm vang rộn rã, tràn đầy sức sống sôi nổi của tuổi mười tám, đôi mươi. Ta như nhận thấy được hình ảnh của những người lính trẻ ấy thật kiên cường và trẻ trung, hóm hỉnh. Không chỉ dừng lại ở đó thơi đâu, những người họ còn là những người đồng chí gắn bó keo sơn và có tình cảm thật khăng khít. Và cũng không có kính nên họ mới có thể
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi
Hình ảnh gia đình – hình ảnh gợi thương gợi nhớ khiến cho con người, cho những người lính Trường Sơn ấy, cũng mang trong mình dòng máu nóng, đó mà một dòng máu sôi sục khát vọng giải phóng miền Nam để có thể giải phóng đất nước:
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Hình ảnh chiếc xe như đã bị chiến tranh làm phá hủy đến không có kính, bao nhiêu khó khăn đó như cũng qua hết bởi chỉ cần trong xe có một trái tim là đủ. Tình yêu tổ quốc đã thể hiện vô cùng rõ ràng và khiến cho chúng ta nhận thấy được tình yêu tổ quốc, yêu đồng bào, yêu gia đình đã biến thành sức mạnh để có thể giúp người lính có thêm ý chí để có thể vượt lên trên tất cả vì tự do của đất nước.
Phạm Tiến Duật đã sáng tác ra bài thơ về tiểu đội xe không kính với lời thơ, chất thơ trẻ trung, ngang tàng, nghịch ngợm đã thế lại có phần tếu táo đã làm cho bài thơ trở nên thật đặc biệt, rất có hồn nữa. Bài thơ như đã để lại trong tâm trí người đọc một thế hệ trẻ anh hùng trong những năm tháng kháng chiến chống Mĩ cứu nước gian khổ và ác liệt.
Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất
Bài Văn Phân Tích Tiểu Đội Xe Không Kính Chi Tiết – Mẫu 4
Bài văn phân tích Tiểu đội xe không kính chi tiết dưới đây sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích dành cho các em học sinh.
“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai”.
(Theo chân Bác – Tố Hữu)
Câu thơ quen thuộc gợi trong lòng chúng ta biết bao suy tưởng. Hình ảnh những người trẻ tuổi từ biệt quê hương lên đường chiến đấu mãi mãi là biểu tượng đẹp của một dân tộc kiên cường, bất khuất.
Chúng ta như được sống lại một thời hào hùng của dân tộc theo tiếng hát sôi nổi trẻ trung và cũng bình dị như cuộc đời người lính. Không biết đã có bao nhiêu bài thơ nói về họ – những chàng Thạch Sanh của thế kỉ hai mươi. Với Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Phạm Tiến Duật cũng đóng góp “một tiếng hát sôi nổi trẻ trung” trong bản trường ca hào hùng ấy.
Với quan niệm “chủ yếu đi tìm cái đẹp từ trong những diễn biến sôi động của cuộc sống”, Phạm Tiến Duật đưa tất cả những chất liệu hiện thực của cuộc sống chiến trường vào trong thơ một cách tự nhiên và chân thực. Cách tiếp cận hiện thực ấy đã đem lại cho thơ Phạm Tiến Duật một giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, hóm hỉnh, tinh nghịch mà sâu sắc.
Thơ Phạm Tiến Duật tập trung thể hiện hình ảnh thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ qua các hình tượng người lính và cô thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn. Ở họ là phẩm chất anh hùng, gan dạ và hết sức trẻ trung. Tinh thần của họ hoàn toàn đối lập với hoàn cảnh và vượt lên trên hiện thực cuộc chiến ác liệt. Phẩm chất ấy được thể hiện ngay đầu bài thơ:
“Không kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”.
Xưa nay làm thơ, người ta kỵ đưa những hình ảnh thô vụn vào trong thơ. Để “mĩ lệ hóa” phương tiện đi lại và vận chuyển người ta thường lấy hình ảnh của “cỗ xe tam mã” (Puskin), “con tàu” (Chế Lan Viên) hay “con thuyền” (Huy Cận), “cánh buồm” (Hoàng trung Thông),… chứ không ai lại vụng về như Phạm Tiến Duật, đưa cả chiếc xe tải hết sức trần trụi vào trong thơ. Ấy lại là chiếc “xe không có kính”, bị thương ở nhiều chỗ hết sức tàn tạ. Thế mà, hình ảnh chiếc xe lập tức trở thành linh hồn của câu thơ, gây được sự chú ý của người đọc.
Câu thơ như một lời giải thích hóm hỉnh, đầy tinh nghịch. Xe vốn có kính nhưng giờ nó không còn kính nữa là bởi do bom đạn kẻ thù tàn phá. Lời thơ tự nhiên đến mức buộc người ta phải tin ngay vào sự phân bua của các chàng trai lái xe dũng cảm: “Bom giật bom rung kính vỡ mất rồi”.
Chất thơ của câu thơ hiện ra chính trong vẻ tự nhiên đến mức khó ngờ của ngôn từ. Bằng việc giải thích ấy, tác giả đã tạo ấn tượng cho người đọc một cách cụ thể và sâu sắc về hiện thực chiến tranh khốc liệt, dữ dội, về cuộc chiến đấu gian khổ mà người lính phải trải qua. Hình ảnh những chiếc xe không kính vốn chẳng hiếm trong chiến tranh. Song phải có một hồn thơ nhạy cảm, có nét tinh nghịch, ngang tàn như Phạm Tiến Duật mới phát hiện ra được, đưa nó vào thơ và trở thành biểu tượng độc đáo của thơ ca thời chống Mĩ.
Tiếp sau khung kính vỡ, hình ảnh người lính hiện lên ung dung, tự tại sau tay lái:
“Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”.
Nghệ thuật đảo ngữ với từ láy “ung dung” được đảo lên đầu câu thứ nhất và nghệ thuật điệp ngữ với từ “nhìn” được nhắc đi nhắc lại trong câu thơ thứ hai nhằm nhấn mạnh tư thế ung dung, bình tĩnh, tự tin của người lính lái xe. Những người chiến sĩ ấy đang ngạo nghễ ngồi trên xe, tự tin, bình tĩnh, làm chủ tình hình. Khẩu khí của họ thật mạnh mẽ: “ta”, càng làm cho những người lính ấy thêm oai phong, lẫm liệt.
Điệp ngữ “nhìn” nhấn lại đến ba lần, rõ ràng những người chiến sĩ lái xe rất cảnh giác, đôi mắt lúc nào cũng hướng thẳng đến mục tiêu, đó chính là tư thế sẵn sàng chiến đấu bất cứ lúc nào. Họ “nhìn thẳng” vào hiện thực cuộc chiến khốc liệt, nhìn thẳng vào những mất mát, hi sinh và sẵn sàng tiến tới. Họ không hề run sợ khi phải chiến đấu trong điều kiện thiếu bảo đảm, không an toàn.
Trong tư thế ung dung ấy, người lính lái xe có những cảm nhận rất riêng khi được tiếp xúc trực tiếp với thiên nhiên bên ngoài. Cả một thế giới rộng lớn tràn ngập trong buồng lái:
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái”.
Nhờ chiếc kính vỡ ấy mà họ đã cảm nhận được những cái mà trước đây dù ở rất gần họ không thể cảm nhận được. Họ thấy gió thổi cay đôi mắt, thấy con đường hiển hiện như chạy thẳng vào trong tim, thấy sao đêm sáng rực trên bầu trời và những cánh chim đột ngột lướt qua trước mặt. Tất cả cứ chực “như sa như ùa” vào buồng lái.
Tất cả được nhìn nhận một cách trìu mến thân thương chứ không phải là cản vật, là trở ngại có thể gây nguy hiểm cho người lính hay cản trở nhiệm vụ của họ. Thiên nhiên, vạn vật dường như cũng bay theo ra chiến trường. Tất cả điều này đã giúp người đọc cảm nhận được ở các anh nét hào hoa, kiêu bạc, lãng mạn và yêu đời của những người trẻ tuổi. Tất cả là hiện thực nhưng qua cảm nhận của nhà thơ đã trở thành những hình ảnh lãng mạn.
Một vẻ đẹp nữa làm nên bức chân dung tinh thần của người lính trong bài thơ chính là tinh thần lạc quan, sôi nổi, bất chấp khó khăn, nguy hiểm:
“Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”.
Đường trường Sơn đâu chỉ có bụi mà ẩn chứa biết bao hiểm nguy, thách thức. Trước mọi khó khăn, nguy hiểm, các anh vẫn “cười” rồi chẳng cần lo lắng, các anh sẵn sàng chấp nhận thử thách, gian lao như thể đó là điều tất yếu. Các anh lấy cái bất biến của lòng dũng cảm, của thái độ hiên ngang để thắng lại cái vạn biến của chiến trường sinh tử gian khổ, ác liệt. Đó cũng là khí thế bao trùm của Bài thơ về tiểu đội xe không kính.
Cuộc sống có thể ngắn ngủi nhưng tình yêu tổ quốc là trường cửu. Bước vào trận chiến là họ đã sẵn sàng hi sinh thế nên những khó khăn, vất vả đối với họ chỉ là như cơn gió bụi thoảng qua, không hề khiến họ bận tâm.
Đọc những câu thơ này giúp ta hiểu được phần nào cuộc sống của người lính ngoài chiến trường những năm tháng đánh Mỹ. Đó là cuộc sống gian khổ trong bom đạn ác liệt nhưng tràn đầy tinh thần lạc quan, niêm vui sôi nổi, yêu đời Họ chẳng những thân thiện chấp nhận những thiếu thốn về vật chất mà còn biết biến những khó khăn đó thành trò đùa vui thú. Cuộc đời quân ngũ gian khổ của họ tuy vật chất thiếu thốn nhưng tinh thần lúc nào cũng dâng đầy niềm lạc quan phơi phới, đó chính là lòng hăng hái và nhiệt tình của tuổi trẻ Việt Nam.
Những khó khăn cứ trùng trùng tiếp diễn. Nhưng càng khó khăn, người lính lại càng tỏa sáng:
“Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời”.
Ngồi trong xe mà “mưa tuôn mưa xối” chẳng khác gì ngoài trời, cơn mưa Trường Sơn có khác gì ngàn lưỡi dao nhọn cứa vào da thịt người chiến sĩ. Vậy mà vẫn cái giọng điệu ngang tàn, bất chấp, những người lính xem thử thách của thiên nhiên là con số không, họ cứ tiếp tục công việc của mình và chẳng một chút bận tâm tới:
“Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi”.
Sâu sắc hơn, bằng ống kính điện ảnh của người nghệ sĩ, nhà thơ đã ghi lại những khoảnh khắc đẹp đẽ thể hiện tình đồng chí đồng đội của những người lính lái xe không kính. Họ thuộc những tiểu đội vận tải khác nhau nhưng giờ gặp nhau trên tuyến đường này, cùng chung nhiệm vụ chiến đấu, cùng không có kính, họp lại là làm thành một tiểu đội mới:
“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”.
Chính sự khốc liệt của chiến tranh đã tạo nên tiểu đội xe không kính. Cái “bắt tay” thật đặc biệt: “bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”. Xe không kính lại trở thành điều kiện thuận lợi để các anh thể hiện tình cảm. Cái bắt tay thể hiện niềm tin, truyền cho nhau nghị lực, làm tăng cường sức mạnh tinh thần, bù đắp tinh thần cho những thiếu thốn về vật chất mà họ phải chịu đựng.
Câu thơ có sự gặp gỡ với ý thơ của Chính Hữu trong bài thơ Đồng chí: “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” nhưng hồn nhiên hơn, trẻ trung hơn. Đó là quá trình trưởng thành của thơ ca, của quân đội Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc.
Tình đồng chí, đồng đội còn được thể hiện một cách ấm áp, giản dị qua những giờ phút sinh hoạt của họ:
“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm”.
Thật hết sức đơn giản và hồn nhiên rất lính. Chỉ cần cùng “chung bát đũa”, cùng ăn với nhau một bữa cơm thân tình giữa chiến trường là chung một gia đình. Họ đã vượt qua cái cá nhân hướng về tổ quốc. Họ xem nhau như người thân và đề cao trách nhiệm của mình.
Một tình cảm gắn kết nảy nở hết sức tự nhiên và sâu đậm giữa những con người hoàn toàn xa lạ. Tình cảm thiêng liêng ấy chỉ có thể có ở những người lính kháng chiến Việt Nam thời kì kháng chiến. Toàn dân tộc lúc này là một gia đình lớn, cùng chung công góp của, sẵn sàng chiến đấu và hi sinh vì độc lập tự do của tổ quốc.
Điệp ngữ “lại đi” và hình ảnh “trời xanh thêm” tạo âm hưởng thanh thản, nhẹ nhàng, thể hiện niềm lạc quan, tin tưởng của người lính về sự tất thắng của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Câu thơ trong vắt như tâm hồn người chiến sĩ, như khát vọng, tình yêu họ gửi lại cho cuộc đời. Những chiếc xe không kính ấy “lại đi”, không bao giờ ngừng nghỉ.
Ở khổ thơ cuối, hình ảnh chiếc xe mới thực sự hiện lên đầy đủ. Nó không khỏi làm cho người đọc bất ngờ, sửng sốt:
“Không có kính, rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước”.
Không những chiếc xe không có kính mà cũng không có đèn, không có mui xe, thùng xe không còn nguyên vẹn. Kết hợp sự miêu ta, ta hình dung dường như chiếc xe chỉ còn có khung xe và động cơ mà thôi. Thế nhưng, dù chỉ còn có thế thì xe vẫn cứ chạy vì miền Nam phía trước. Vì đồng bào và chiến sĩ miền Nam, vì công cuộc đấu tranh giải phóng nước nhà, chiếc xe kiên trung vẫn cứ tiến lên phía trước:
“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước.
Chỉ cần trong xe có một trái tim”.
Có lẽ đây là dòng thơ xúc động nhất, đáng quý nhất. Thật kì lạ, trái tim sôi nổi người chiến sĩ cũng chính là trái tim của xe. Với biện pháp hoán dụ, hình ảnh “trái tim” càng thêm rực rỡ.
Đó là trái tim trung thành với Tổ Quốc, với cuộc sống cách mạng của dân tộc; đó là trái tim yêu thương đồng bào, yêu thương những người anh em miền Nam còn đang trong nước sôi lửa bỏng; đó là trái tim quyết đánh đuổi đế quốc Mỹ, thống nhất đất nước, đem lại hòa bình cho nhân dân; cũng chính là trái tim đang rạo rực, sôi sục trong lòng mỗi người chiến sĩ lái xe không kính.
Yêu thương, căm thù chính là động lực thôi thúc những người chiến sĩ lái xe khát khao giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Đó cũng là nguyện vọng của toàn dân tộc ta. Để ước mơ này trở thành hiện thực, chỉ có một cách duy nhất: vững vàng tay lái, cầm chắc vô lăng.
Vì miền Nam ruột thịt, vì tổ quốc dù có hi sinh nào đi nữa các anh vẫn không hề run sợ. Đằng sau những ý nghĩa ấy, câu thơ còn muốn hướng con người về chân lý thời đại của chúng ta: sức mạnh quyết định chiến thắng không phải là vũ khí mà là con người giàu ý chí, anh hùng, lạc quan, quyết thắng.
“Trường Sơn đông nắng tây mưa
Ai chưa đến đó như chưa rõ mình”.
Tuổi trẻ thế hệ Bác Hồ đã chọn Trường Sơn là trường đại học để rèn luyện và trưởng thành. Cuộc đời quân ngũ gian lao, nhọc nhằn đã được lấp đầy bằng tiếng cười đùa vui nhộn, bởi họ lúc nào cũng lạc quan phơi phới, hừng hực nhiệt huyết tuổi trẻ, lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần đồng đội keo sơn gắn bó, tinh thần chiến đấu tự tin, lòng dũng cảm…
Với những phẩm chất cao đẹp đó, họ đã để lại trong lòng người đọc những ấn tượng sâu sắc, những thiện cảm đến tuyệt vời! Họ mãi là những pho tượng đồng bất khuất làm nên chủ nghĩa anh hùng cách mạng của thời đại: Dám đánh Mỹ, không sợ Mỹ, quyết thắng Mỹ. Họ chính là những con người ưu tú của dân tộc đã chiến đấu và sẵn sàng hi sinh để Tổ Quốc mãi mãi “bay lên ngát xanh mùa xuân”.
Khám phá thêm 💕 Phân Tích Bài Thơ Đồng Chí Chính Hữu 💕 10 Bài Hay Nhất
Phân Tích Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính Học Sinh Giỏi – Mẫu 5
Phân Tích Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính Học Sinh Giỏi giới thiệu một bài viết đặc sắc và rất có chiều sâu để bạn đọc cùng tham khảo.
Phạm Tiến Duật là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ những năm kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Ông từng cầm súng chiến đấu và công tác trong đội ngũ những chiến sĩ vận tải dọc Trường Sơn, chở vũ khí quân trang từ hậu phường ra tiền tuyến: “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước – Mà lòng phơi phới dậy tương lai” (Tố Hữu).
Niềm vui hăm hở của tuổi trẻ ra trận lúc bấy giờ như ánh sáng chói chang, như gió mát lồng lộng phả vào tâm hồn nhà thơ – chiến sĩ, khiến thơ Phạm Tiến Duật có một giọng điệu thật khoẻ khoắn, tràn đầy sức sống, rất tinh nghịch, tươi vui mà giàu suy tưởng. Bài thơ về tiểu đội xe không kính là tác phẩm tiêu biểu nhất của giọng thơ ấy, của hồn thơ ấy.
Không rõ nhà thơ đã từng bao nhiêu lần trực tiếp cầm lái, hay ngồi trong ca bin bên cạnh người lái, mà ngôn ngữ, nhạc điệu, cảm hứng và suy nghĩ trong bài lại chân thực, sống động đến vậy.
Tất cả, cứ hiển hiện hồn nhiên, trực diện ngay trước bạn đọc: những chiếc xe không kính, cả tiểu đội xe, tiểu đội lính vận tải vui vẻ, tếu táo mà thật đĩnh đạc, hiên ngang, can đảm…
Mở đầu bài thơ là một hình ảnh trớ trêu: “Xe không có kính”. Kết thúc là một hình ảnh bất ngờ: “Chỉ cần trong xe có một trái tim”. Phải chăng, tiểu đội xe không kính ấy lăn bánh thông đường mau lẹ được là nhờ… “những trái tim cầm lái” ? Xin hãy lắng nghe lời người chiến sĩ lái xe, hãy đọc thơ và suy ngẫm…
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi.
Lời kể, hay lời giới thiệu đoàn xe ? Ngôn ngữ mộc mạc, nhịp điệu khoan thai mà gợi tả rõ nét. Cứ ý như một đoàn xe đang lừng lững tiến lại. Những chiếc xe kì lạ – “không có kính” (chắn gió) – mà thật anh hùng, đang vượt qua chặng đường nguy hiểm quân thù đánh phá ác liệt: “Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi”.
Trên những chiếc xe ấy, người chiến sĩ đang vững tay lái. Vừa nhấn ga cho xe lăn bánh ra trận, các anh vừa kể chuyện về mình, về đồng đội:
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái.
Đó là những câu thơ tả thực, sự thực chính xác đến từng chi tiết. Không có kính chắn gió, bảo hiểm, xe lại chạy nhanh, nên người lái phải đối mặt với bao khó khăn nguy hiểm.
Nào là “gió vào xoa mắt đắng”. Nào là “con đường chạy thẳng vào tim” rồi “sao trời”, rồi “cánh chim” đột ngột, bất ngờ như sa, như ùa – rơi rụng, va đập, quăng ném,… vào buồng lái, vào mặt mũi, thân mình.
Dường như chính nhà thơ cũng đang cầm lái, hay ngồi trong buồng lái của những chiếc xe không kính nên câu chữ mới sinh động, cụ thể, đầy ấn tượng, gợi cảm giác chân thực dường ấy: cảm giác ấn tượng căng thẳng, đầy thử thách. Song người chiến sĩ không run sợ, hoảng hốt.
Trái lại, tư thế các anh vẫn hiên ngang, tinh thần các anh vẫn vững vàng… Các anh vẫn “Ung dung buồng lái ta ngồi – Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng…”. Hai câu thơ có nhịp thật cân đối: 2/ 2/ 2 và 2/ 2/ 2.
Đó là sự căng thẳng của chiếc xe đang lăn bánh, sự thanh thản, bình tĩnh, tự tin của người lái. “Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng… Nhìn thấy… nhìn thấy… thấy…”. Những điệp từ ấy cứ nhấn đi nhấn lại, biểu hiện sự tập trung cao độ của người lái.
Hai khổ thơ mở đầu tả thực những khó khăn gian khổ mà những chiến sĩ lái xe Trường Sơn đã trải qua. Trong khó khăn, các anh vẫn ung dung, hiên ngang bình tĩnh nêu cao tinh thần trách nhiệm, quyết tâm, gan góc chuyển hàng ra tiền tuyến. Không có kính chắn gió, bảo hiểm, đoàn xe vẫn lăn bánh bình thường.
Lời thơ nhẹ nhõm, trôi chảy như những chiếc xe vun vút chạy trên đường. Có chỗ nhịp nhàng, trong sáng như văng vẳng tiếng hát – vút cao, vui vẻ:
Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già
….
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
Nếu ở hai khổ thơ trên là những cảm giác về những khó khăn thử thách – dù sao cũng vẫn mơ hồ – thì đến đây, thử thách, khó khăn ập tới cụ thể, trực tiếp. Đó là “bụi phun tóc trắng” và “mưa tuôn, mưa xối” – hậu quả tất yếu của những chiếc xe bị mất kính bảo vệ. Trước thử thách mới, người chiến sĩ vẫn không nao núng.
Các anh càng bình tĩnh, dũng cảm hơn, “Không có kính, ừ thì có bụi… Không có kính, ừ thì ướt áo” – những câu thơ như lời nói thường, nôm na mà cứng cỏi, toát ra một thái độ bất chấp mọi khó khăn. Đằng sau thái độ ấy là những tiếng cười đùa, những lời hứa hẹn, quyết tâm vượt gian khổ, hiểm nguy:
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
….
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
Cấu trúc các câu thơ vẫn cân đối, nhịp nhàng theo nhịp rung cân đối của những bánh xe lăn. Thanh điệu phối hợp khá linh hoạt : thanh bằng – trắc (phì phèo châm — điếu thuốc); trắc – bằng (mặt lấm – cười ha ha); rồi lại bằng – trắc (trâm cây – số nữa).
Và cuối đoạn là câu thơ bảy tiếng, sáu thanh bằng (“Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi”) gợi một cảm giác nhẹ nhõm, ung dung rất lạc quan, rất thanh thản. Đó là khúc nhạc vui sôi nổi của tuổi mười tám đôi mươi. Nhạc vui hài hoà trong những hình ảnh hóm hỉnh: “… phì phèo châm điếu thuốc – Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” và một ý nghĩ táo tợn: “Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa” làm cho thơ rộn rã, sôi động, luôn luôn hối hả, như sự sôi động, hối hả của đoàn xe trên đường đi tới.
Song, cũng có lúc đoàn xe dừng lại. Ấy là lúc ngồi nghỉ hoặc tới đích, giao hàng. Hai khổ thơ thứ năm và thứ sáu miêu tả những cuộc gặp gỡ, vui vầy trong không khí đoàn kết, trong tình đồng chí, đồng đội thật cảm động:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội.
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy.
Hình tượng người chiến sĩ lái xe thêm một nét đẹp nữa. Đấy là tình cảm gắn bó, chia sẻ ngọt bùi. Khi hành quân, các anh động viên, chào hỏi nhau trong cảnh ngộ độc đáo “Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”.
Lúc cắm trại các anh trò chuyện, ăn uống nghỉ ngơi thoải mái, xuềnh xoàng, nhường nhịn nhau như anh em ruột thịt: chung bát, chung đũa, “mắc võng chông chênh” … song cũng chỉ trong một thoáng chốc. Để rồi, lại tiếp tục hành quân: “Lại đi, lại đi trời xanh thêm…”. Câu thơ bay bay, phơi phới, thật lãng mạn, thật mộng mơ:
Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước,
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Khổ thơ cuối cùng, vẫn một giọng thơ mộc mạc, gần với lời nói thường, như văn xuôi. Vậy mà nhạc điệu, hình ảnh, ngôn ngữ rất đẹp, rất thơ, cảm hứng và suy tưởng vừa bay bổng, vừa sâu sắc để hoàn thiện bức chân dung tuyệt vời của chiến sĩ vận tải Trường Sơn trong những năm chống Mĩ cứu nước.
Bốn dòng thơ dựng hai hình ảnh đối lập đầy kịch tính, rất bất ngờ, thú vị. Hai câu đầu dồn dập những mất mát, khó khăn do quân địch gieo xuống, do đường trường gây ra: xe không kính, không đèn, không mui, thùng xe xước vỡ,… Điệp ngữ “không có” nhắc lại ba lần như nhân lên ba lần thử thách khốc liệt.
Hai dòng thơ ngắt làm bốn khúc “Không có kính / rồi xe không có đèn – Không có mui xe / thùng xe có xước” như bốn chặng gập ghềnh, khúc khuỷu, đầy chông gai, bom đạn, bốn khúc “cua vòng, rẽ ngoặt”… trêu ngươi, chọc tức đoàn xe.
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Hai câu cuối có âm điệu đối chọi, mà trôi chảy, êm ru, hình ảnh đậm nét. Vậy là đoàn xe đã chiến thắng, vượt lên bom đạn, hăm hở tiến ra phía trước, hướng ra tiền tuyến lớn với một tình cảm thiêng liêng “vì miền Nam”, vì cuộc chiến đấu giành độc lập, thống nhất đất nước.
Đặc biệt toả sáng chói ngời cả đoạn thơ, bài thơ là hình ảnh “trong xe có một trái tim”. Thì ra cội nguồn sức mạnh của cả đoàn xe, gốc rễ, phẩm chất anh hùng của người cầm lái tích tụ, đọng kết lại ở “trái tim” gan góc, kiên cường, giàu bản lĩnh và chan chứa tình yêu thương này. Phải chăng chính trái tim con người đã cầm lái ?
Tình yêu Tổ quốc, tình yêu thương đồng bào, đồng chí ở miền Nam đau khổ đã khích lệ, động viên người chiến sĩ vận tải vượt khó khăn gian khổ, luôn lạc quan, bình tĩnh nắm chắc tay lái, nhìn thật đúng hướng để đưa đoàn xe khẩn trương tới đích ?
Ngữ điệu của câu thơ “Chỉ cần trong xe có một trái tim” thật nhẹ nhõm, song khả năng khắc hoạ hình tượng nhân vật và khơi gợi suy luận triết lí thật đằm sâu, trĩu nặng.
Ẩn sau ý nghĩa “trái tim cầm lái”, câu thơ còn muốn hướng người đọc về một chân lí của thời đại chúng ta: sức mạnh quyết định, chiến thắng không phải là vũ khí, là công cụ… mà là con người – con người mang trái tim nồng nàn yêu thương, ý chí kiên cường, dũng cảm, niềm lạc quan và một niềm tin vững chắc.
Có thể nói, cả bài thơ hay nhất là câu thơ cuối cùng này. Nó là “nhãn tự”, là “con mắt của bài thơ”, bật sáng chủ đề, toả sáng vẻ đẹp của hình tượng nhân vật trong thơ.
Trở lại với phong cách thơ Phạm Tiến Duật như phần đầu đã nêu, đọc Bài thơ về tiểu đội xe không kính, cũng như một vài tác phẩm tiêu biểu khác của ông – Lửa đèn; Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây; Nhớ,… thật thú vị khi nhận ra cái chất giọng rất trẻ, rất lính của bài thơ.
Bài thơ đã sáng tạo một hình ảnh độc đáo: những chiếc xe không kính, qua đó khắc hoạ nổi bật hình ảnh những người lính lái xe ở Trường Sơn trong công cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
Với tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm, bất chấp khó khăn, nguy hiểm, niềm vui sôi nổi của tuổi trẻ và ý chí quyết chiến vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà.
Tác giả đã đưa vào bài thơ chất liệu hiện thực sinh động của cuộc sống ở chiến trường, cùng với ngôn ngữ, giọng điệu giàu tính khẩu ngữ tự nhiên, khoẻ khoắn. Nổi bật trong cả bài thơ là hình ảnh: trong xe có một trái tim và một chất giọng vui đùa, hóm hỉnh, lãng mạn.
Chất giọng ấy bắt nguồn từ sức trẻ, từ tâm hồn phơi phới của thế hệ chiến sĩ Việt Nam mà chính nhà thơ đã sống, đã trải nghiệm. Do đó không phải ngẫu nhiên tác giả đặt tên cho tác phẩm là Bài thơ về tiểu đội xe không kính. Bài thơ, chất thơ toả ra từ thực tế cuộc chiến đấu, từ niềm vui cuộc sống của con người thời đại.
Chất thơ ấy đi từ sự giản dị của ngôn từ, sự linh hoạt của nhạc điệu, sự sáng tạo bất ngờ của hình ảnh, chi tiết…, đã khắc hoạ đậm nét những vẻ đẹp phẩm giá con người, và cuối cùng cất bổng lên, hoà nhập với âm hưởng sử thi và cảm hứng lãng mạn của cả giai đoạn văn học trong ba thập kỉ chiến tranh chống xâm lược – từ năm 1945 đến năm 1975.
Chia sẻ 🌼 Cảm Nhận Về Bài Thơ Đồng Chí 🌼 Top Những Bài Hay Nhất
Phân Tích Bài Tiểu Đội Xe Không Kính Nâng Cao – Mẫu 6
Đón đọc bài văn phân tích bài Tiểu đội xe không kính nâng cao dưới đây với những nội dung nghị luận văn học chuyên sâu.
Phạm Tiến Duật là nhà thơ trẻ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Giọng thơ sôi nổi, hồn nhiên trẻ trung tinh nghịch mà sâu sắc, thơ Phạm Tiến Duật tập trung thể hiện thành công hình tượng người lính và những cô thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn, những con người anh hùng của thời đại anh hùng. Bài thơ về tiểu đội xe không kính được viết năm 1969, khi cuộc kháng chiến chống Mĩ diễn ra ác liệt trên tuyến đường Trường Sơn.
Mở đầu bài thơ lời giới thiệu hóm hỉnh về những chiếc xe không kính: “Không có kính không phải vì xe không có kính”. Câu thơ mang dáng dấp như một câu văn xuôi, một lời giải thích chân thành. Xe không kính không phải do đặc điểm cấu tạo mà trước đây nó vẫn có kính đấy chứ. Người lính giải thích nguyên nhân vì sao từ có kính trở thành không kính: “Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”.
Chiến trường ác liệt đạn bom được thể hiện bằng hai động từ mạnh “giật, rung” để diễn tả sự tàn phá khốc liệt của bom đạn Mĩ. Hình ảnh chân thực của những chiếc xe trên đường ra trận vừa thể hiện sự cam go khốc liệt của chiến tranh vừa đậm vẻ đẹp của người chiến sĩ.
Trên nền cảnh dữ dội, hình ảnh người chiến sĩ xuất hiện với tư thế hiên ngang lái xe ra trận:
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng
Câu thơ đảo trật tự cú pháp, đưa tính từ “ung dung” lên đầu nhằm tô đậm tư thế, tâm trạng đầy lạc quan và quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ của người lính lái xe. Các anh “nhìn thẳng” vào sự thật, nhìn thẳng vào cuộc chiến. Đó là cái nhìn quả cảm, đầy can đảm khi trực diện mà không hề né tránh, run sợ trước cái chết.
Lái những chiếc xe không kính, người chiến sĩ lái xe gặp bao nhiêu khó khăn nhưng họ đã biến khó khăn kia thành niềm vui, niềm lãng mạn:
Nhìn gió vào xoa mật đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái
Bằng cảm hứng lãng mạn bay bổng, giọng thơ vút cao khi sà xuống đất. Nhịp thơ dồn dập khoẻ khoắn tràn đầy niềm vui. Điệp ngữ “nhìn thấy” liên tiếp như mở ra cái nhìn thích thú bao quát của núi rừng Trường Sơn trong đôi mắt các anh nhìn. Ngọn gió vô hình được nhân hoá như bàn tay người mẹ thiên nhiên, xoa đi đôi mắt đắng vì thiếu ngủ của các anh lính lái xe ròng rã đêm ngày.
Biểu tượng “con đường chạy thẳng vào tim” vừa mang nghĩa thực, vừa là ẩn dụ tượng trưng cho con đường lí tưởng thời chống Mĩ. Tư thế người lính hoàn toàn làm chủ hoàn cảnh, ung dung tự tại giữa đất trời.
Không có kính lại hoá hay để thiên nhiên và người lính càng thêm chan hoà, gần gũi. Khó khăn kia đã mang lại cho người lính niềm vui, phút lãng mạng mộng mơ với ánh sao và cánh chân trời.
Hình ảnh người lính hiện lên thật tinh nghịch, hóm hỉnh và rất trẻ trung khi tiếp tục đối diện với những gian khổ khác trên đường ra mặt trận:
Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa thì phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha
Khẩu khí ngang tàng, đậm chất lính với kiểu nói “Ừ thì” rất lính. Đó là cách nói khẩu ngữ được đưa vào thơ như các anh sẵn sàng chấp nhận mọi thách thức, lạc quan yêu đời, phớt lờ mọi khó khăn, động viên đồng đội. Khó khăn càng tăng tiến, sau gió bụi là những cơn mưa xối xả của Trường Sơn:
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi
Giọng thơ rộn rã, tràn đầy sức sống sôi nổi của tuổi mười tám đôi mươi. Lạ kỳ thay, sự khắc nghiệt của khí hậu Trường Sơn lại là cơ hội để các anh tranh thủ kẻ thù lái nhanh hơn, rút gần khoảng cách Bắc – Nam.
Chân dung người lính vừa tinh nghịch vừa ngạo nghễ, ngang tàng. Họ có ý chí vững như thép, có lòng quyết tâm bằng mọi giá phải tiến về giải phóng Miền Nam. Điều đó khiến họ biến gian khổ thành niềm vui, khó khăn thành thuận lợi. Vượt qua “hàng rào lửa” “tọa độ chết” những đoàn xe xanh lá cây rừng đêm ngày vun vút lao đi tiến vào Miền Nam. Tràn ngập trong thơ là sức nặng là những trái tim tràn đầy nhiệt huyết của tuổi trẻ.
Hình ảnh tiểu đội xe không kính xuất hiện sau với bao mất mát, hy sinh hòa thắm trong tình cảm gắn kết của đồng đội trên mọi nẻo đường xe qua:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Hình ảnh “những chiếc xe” xuất hiện sau một chặng đường dài gian khổ như khắc sâu ý nghĩa: không kẻ thù nào cản được bước tiến của đoàn xe. Vượt qua đạn bom, mưa gió, những chiếc xe vẫn tồn tại như ý chí, tinh thần thép của quân đội ta mãi vững vàng không kẻ thù nào ngăn chặn nổi.
Không gian “từ trong bom rơi” là toạ độ chết của “hàng rào lửa”. Hàng ngày máy bay Mỹ ném bom dữ dội cho nên mất mát hy sinh là điều không thể tránh khỏi. Vì thế, sau mỗi trận bom rơi, lại có một tiểu đội mới ra đời. Đây là sức mạnh tiếp nối của biết bao thế hệ. Tình đồng đội thắm thiết trong cái bắt tay tin cậy.
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi
Hình ảnh “con đường đi tới” trong thơ mang ý nghĩa hình tượng cho con đường lí tưởng, cho quyết tâm giải phóng Miền Nam của các anh chiến sĩ Trường Sơn. Đường Trường Sơn là con đường thẳng tiến. Nơi đây gian khổ thử thách con người. Nơi không có dấu chân của những kẻ ham sống, sợ chết. Nơi tuổi trẻ cùng hẹn nhau ra trận với niềm vui phơi phới. Bởi vậy, gặp nhau tại đây, họ hiểu họ là những người đồng chí của nhau.
Cho nên, cái bắt tay thay cho lời chào đồng đội. Cái bắt tay kia truyền cho nhau bao sức mạnh niềm tin. “Cửa kính vỡ” là hiện thực khốc liệt của bom đạn nhưng nó lại làm cho người lính gần nhau hơn. Nó là chứng nhân cho tình đồng chí thắm thiết. Tình đồng đội là cách định nghĩa giản đơn về “gia đình đồng đội” yêu thương:
Bếp hoàng cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy!
Thơ lấy chất liệu từ hiện thực chiến trường. Chi tiết “bếp Hoàng Cầm” là chiếc bếp nuôi quân do người anh nuôi Hoàng Cầm sáng tạo. Chiếc bếp hiên ngang dựng giữa trời với ngọn lửa hồng ấm áp như thách thức quân thù. Nó thể hiện sự thông minh, sáng tạo của chiến sĩ ta từ trong gian khổ.
Câu thơ có giọng điệu dễ thương như lời giới thiệu đầy tự hào thân thương về “gia đình đồng đội”. Với người lính, chỉ cần chung nhau một bếp lửa hồng, sẻ cho nhau bát cơm chiều, cùng hong khô chiếc áo đẫm mưa rừng là họ là họ coi nhau như tình gia đình ruột thịt. Cách định nghĩa cho thấy tâm hồn họ giản dị mà lớn lao nghĩa tình. Khi tình đồng đội có cả gia đình thì tình cảm đó càng thêm sâu đậm và ấm áp. Sau mỗi cuộc gặp gỡ, chia vui, các anh lại lên đường:
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi đường xanh thêm.
“Chông chênh” từ láy gợi tả cảm giác chập chờn của giấc ngủ không yên khi đường hành quân vẫn ầm ầm xe chạy. Điệp ngữ “lại đi, lại đi” là khí thế, nhịp bước hành quân. “Trời xanh thêm” là hình ảnh ẩn dụ cho ước mơ và hy vọng. Càng tiến về Miền Nam, niềm tin thống nhất đất nước càng lớn dần. Đó là động lực lớn lao khích lệ các anh vững tay lái tiến công.
Trở lại với hình ảnh những chiếc xe không kính, Phạm Tiến Duật cho người đọc nhìn rõ hơn toàn bộ hình ảnh chiếc xe đã bị hủy hoại khủng khiếp bởi bom đạn của kẻ thù:
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Không những xe không có kính mà xe cũng không có đèn, không có mui và thùng xe không biết bao nhiêu vết thương. Hình ảnh người lính lái xe dũng cảm kiên cường:
Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim
Phụ từ “vẫn” làm lời thơ mạnh mẽ, dứt khoát. Xe vẫn chạy. Không một trở lực nào có thể ngăn cản được tốc độ và hướng tiến của đoàn xe. Con đường phía trước “chạy thẳng vào tim”. Con đường gọi hay trái tim tha thiết gọi. Không có đèn để soi đường trong đêm tối nhưng các anh đang đi theo “ánh lửa từ trái tim mình”
Câu thơ cuối với ngữ điệu nhẹ thênh mà triết lí lại vô cùng sâu sắc “chỉ cần trong xe có một trái tim”. Trái tim, hình ảnh hoán dụ xuất hiện cuối câu thơ đầy sức biểu cảm. Trong cái cụ thể của hình ảnh đó là bao nhiêu yêu thương, căm giận, bao nhiêu mong nhớ, đợi chờ… Trái tim thắm đó là “nhãn tự” bật sáng chủ đề bài thơ, lý giải nguồn sức mạnh lớn lao giúp chúng ta thắng Mĩ. Bài thơ có kết cấu đối lập độc đáo. Đối lập giữa vô số cái “không” là một cái “có”. “Có một trái tim” là hình ảnh đầy sức biểu cảm trong bài thơ.
Cụm từ: thùng xe có xước là cách nói giảm nhẹ. Thực tế, những chiếc xe làm nhiệm vụ trên tuyến đường Trường Sơn không có chiếc nào còn nguyên vẹn thùng xe. Mui xe có vai trò bảo vệ bộ máy giờ cũng không còn nữa. và đèn xe, một bộ phận không thể thiếu của xe khi chạy đêm cũng vỡ từ bao giờ.
Thế mới thấy, người lính lái xe không những phải vượt qua sự truy kích của kẻ thù mà còn điều khiển một phương tiện không đảm bảo an toàn, trên một tuyến đường hiểm nguy như Trường Sơn để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quả thực là phi thường. Mỗi chuyến xe trở về an toàn là một thành tích, một kì công, một chiến thắng của quân và dân ta trong cuộc chiến chống kẻ thù.
Bài thơ về tiểu đội xe không kính thể hiện sâu sắc phong cách nghệ thuật thơ của Phạm Tiến Duật. Đó là một giọng thơ hồn nhiên, tinh nghịch dí dỏm, thông minh. Bài thơ là sự kết hợp giữa hiện thực và lãng mạn, nhịp thơ sôi nổi trẻ trung, tràn đầy sức sống. Từ đó làm hiện rõ vẻ đẹp của người lính Trường Sơn hiên ngang, dũng cảm, lạc quan bất chấp mọi khó khăn, gian khổ chiến đấu vì Miền Nam, vì sự nghiệp thống nhất nước nhà.
Gửi đến bạn 🍃 Phân Tích Bài Thơ Ánh Trăng Của Nguyễn Duy 🍃 Những Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Tiểu Đội Xe Không Kính Phân Tích Chọn Lọc – Mẫu 7
Tài liệu văn Tiểu đội xe không kính phân tích chọn lọc dưới đây sẽ giúp các em học sinh trau dồi thêm những ý văn hay.
Phạm Tiến Duật là một trong những cái tên quen thuộc của thơ ca thời kì kháng chiến chống Mỹ, nếu hình tượng người lính trong thơ Chính Hữu mang vẻ đẹp mộc mạc, giản dị của anh lính nông dân, trong thơ Quang Dũng mang nét hào hoa, đa tình, lãng mạn của những chàng trai đất hà thành thì người lính trong thơ Phạm Tiến Duật mang vẻ đẹp của sức trẻ, tinh nghịch, hóm hỉnh lạc quan yêu đời. Bài thơ về tiểu đội xe không kính đã thể hiện rất rõ điều đó.
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”
Mở đầu đoạn thơ, điệp từ không lặp lại 3 lần nhưng mỗi lần đều mang những sắc thái khác nhau, song điều khiến người đọc ngậm ngùi ở đây là hiện thực chiến đấu gian khổ, khắc nghiệt của người lính. Bom giật bom rung, phá vỡ đi cả lớp áo bảo vệ mỏng manh nhất là tấm kính xe, còn gì khắc nghiệt và dữ dội hơn cuộc sống chiến đấu của những người lính ấy.
Thế nhưng đối lập với hiện thực khó khăn, gian khổ, là tinh thần lạc quan, phong thái ung dung, tự tin, bản lĩnh của những người lính trẻ ấy. Điệp từ “nhìn” lặp lại nhiều lần, như thể hiện sự tự tin và tâm thế vững vàng trước tay lái của người chiến sĩ, đạn bom nơi chiến trường, cái chết và những khoảnh khắc ngắn ngủi được kề vai sát cánh bên nhau đã giúp họ thêm động lực, sức mạnh gấp vạn lần. Tiếng hát át tiếng bom, tiếng lòng yêu nước của họ phá tan cả âm thanh đáng sợ của tiếng súng.
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái”
Chặng đường hành quân gian nan là thế, nhưng tâm hồn họ vẫn đong đầy niềm vui trên cung đường hành quân, thế giới bao la, tươi đẹp như đang ùa vào tâm hồn họ, khiến cho những nỗi khó khăn phần nào vơi đi, chỉ còn lại niềm yêu đời, lạc quan vui sống.
“Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi”
Thay vì gục ngã chán nản trước những gian khổ khi chiến đấu trong điều kiện thiếu thốn, khó khăn, những người lính lại đem sự hài hước tinh nghịch, lạc quan để đồng hành cùng nhau, cùng trải qua những cung đường nguy hiểm, nhưng quan trọng là tinh thần bất khuất lạc quan rất đáng nể của họ.
Chính vì thế nhịp thơ, nhanh, dồn dập, tươi vui như thể tiếng hát reo vang trong tâm hồn những người lính. Câu thơ như vút lên những nhịp đập vui tươi, hối hả, để cùng hăng say trên chặng đường nhọc nhằn phía trước. Để có thể cùng vượt qua khó khăn, không chỉ cần tinh thần lạc quan, mà còn cần tinh thần đồng đội, keo sơn gắn bó:
“Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”
Cũng là cái bắt tay, cái bắt tay qua cửa kính vỡ rồi cái bắt tay như trao truyền cho nhau thêm sức mạnh, thêm niềm tin để cùng đồng cam cộng khổ. Ta bỗng nhớ đến hình ảnh “tay nắm lấy bàn tay” trong Đồng chí của Chính Hữu nhưng nếu trong thơ Chính Hữu đó là cái bắt tay để trao cho nhau thêm hơi ấm giữa cái rét lạnh cắt da cắt thịt khắc nghiệt, thì trong thơ Phạm Tiến Duật là cái bắt tay để trao truyền sức mạnh, gắn kết niềm tin, đồng thời thể hiện sự tin tưởng giữa các đồng đội.
Họ coi nhau như những người anh em ruột thịt trong gia đình, chỉ cần “chung bát đũa nghĩa là gia đình ấy”, gia đình mới mộc mạc, giản dị mà cũng ấm cúng, nghẹn ngào làm sao. Họ đồng hành cùng nhau như gia đình, và chiến đấu vì tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc, vì trái tim sáng mãi trong tim:
“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
Dù bom giật bom rung đấy, dù cửa kính nát tan, thùng xe có xước, dù sự phá hủy khủng khiếp của chiến tranh, người người lính vẫn hối hả chở những đoàn xe chạy về phía trước, để tiếp viện cho miền Nam, vì miền Nam thân yêu, ruột thịt của chúng ta. Trái tim yêu nước nhiệt thành của họ chính là năng lượng tiếp lửa cho đoàn xe chạy về phía trước, trái tim người chiến sĩ bỗng trở nên sắt đá để chiến thắng tiếng đạn bom dữ dội ngoài cung đường hành quân.
Bài thơ về tiểu đội xe không kính đã khắc họa hình tượng người lính mang nét đẹp trẻ trung, yêu đời, đó là nét đẹp rất riêng của người lính trong thơ Phạm Tiến Duật.
Mời bạn xem nhiều hơn 🌹 Cảm Nhận Bài Thơ Ánh Trăng 🌹 10 Bài Văn Mẫu Hay
Vẻ Đẹp Của Hình Ảnh Người Lính Lái Xe Trong Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính – Mẫu 8
Vẻ Đẹp Của Hình Ảnh Người Lính Lái Xe Trong Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính đã tạo nên một hình tượng người lính mới vừa độc đáo vừa giá trị trong thơ ca.
Phạm Tiến Duật là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong, thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Bài thơ về tiểu đội xe không kính là một trong những bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ của ông: giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, tinh nghịch mà sâu sắc.
Câu thơ tự nhiên như một lời nói thường ngày, mang đậm chất văn xuôi:
Không có kính không phải vì xe không có kính.
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi.
Chiến tranh khốc liệt của giặc Mĩ, “bom giật”, “bom rung” đã gây ra bao tổn hại cho những chiếc xe ấy. Và nó còn gợi lên cảm giác rằng tính mạng của người lính cũng luôn bị đe doạ.
Một sự đối lập khá độc đáo được tác giả sử dụng trong đoạn thơ này: đi trong mưa bom bão đạn mà người lính vẫn luôn ung dung, bình thản. Người lính thật khẳng khái, bất chấp bom đạn:
Ung dung buồng lái ta ngồi!
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Đây là một cái nhìn tự do như coi thường tất cả những hiểm nguy và vất vả trong cuộc chiến. Đây là cái nhìn của những con người bản lĩnh. Cái nhìn của người lính trong tiểu đội xe không kính là cái nhìn ung dung, bình thản, tập trung cao độ.
Mặc dù xe không kính như thế nhưng người lính vẫn bình tĩnh, tự tin để ra tiền tuyến, vẫn có cái nhìn ngạo mạn trước hiểm nguy. Người lái xe không kính thật bản lĩnh. Lòng căm thù giặc đã giúp họ vững vàng tay lái để đưa tiểu đội ra tiền tuyến. Tình yêu Tổ quốc đã làm người chiến sĩ bất chấp mọi khó khăn, gián khổ của cuộc chiến tranh.
Ý chí chiến đấu đã làm người lính lái xe không cảm thấy vất vả khi xe không có kính. Xe không kính đã làm người chiến sĩ gần gũi với thiên nhiên, hoà nhập với thiên nhiên trên đường ra trận:
Nhìn thấy gió xoa vào mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim.
Vì không có kính chắn gió nên người lính nhìn thấy rõ hơn. “Con đường chạy thẳng vào tim” – con đường vừa mang giá trị hiện thực vừa mang ý nghĩa tượng trưng thật độc đáo: con đường đi đã được nâng lên thành con đường cách mạng, con đường ở trong tim của mỗi người chiến sĩ, con đường giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Không có kính là một mất mát lớn nhưng đã tạo điều kiện thuận lợi cho người lính có dịp chiêm ngưỡng vẻ đẹp của thiên nhiên. Không chỉ là mặt đất mà cả bầu trời đầy sao, cánh chim như ùa vào buồng lái:
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái.
Trong cuộc chiến tranh khốc liệt, chính tình yêu thiên nhiên và cả vẻ đẹp lãng mạn trong tâm hồn đã giúp người chiến sĩ vượt qua những khó khăn. Khổ sở là như thế, nhưng đối với người lính thì có hề chi, họ bất chấp mọi hiểm nguy:
Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già.
Hai tiếng “ừ thì” chắc nịch nhưng nhẹ nhàng, không hề phàn nàn, kêu ca. Dường như những gian khổ, nguy hiểm của chiến tranh cũng không ảnh hưởng đến tinh thần đầy lạc quan của người lính.
Vì xe không có kính nên nắng thì có bụi mà mưa thì xối xả. Ngồi trong buồng lái nhưng chẳng khác nào là ở ngoài trời. Hai chữ “ừ thì” được lặp lại đã khẳng định được thái độ sẵn sàng bất chấp khó khăn, cũng như có bụi thì chưa cần rửa, khi có mưa, áo có ướt cũng chưa cần thay:
Chưa cần thay lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
Ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam tạo ra sức mạnh vô biên thúc giục người lính chạy thêm “trăm cây số nữa”. Một qui luật tự nhiên không gì thay thế được: mưa rồi sẽ tạnh, gió sẽ lùa vào, áo sẽ “khô mau thôi”. Những người lính hiện lên trong câu thơ thật hồn nhiên, vui vẻ, lạc quan.
Chính tình yêu Tổ quốc, tinh thần giải phóng miền Nam thống nhất đất nước đã tạo ra một sức mạnh lớn lao dể người lính vượt qua mọi gian khổ hiểm nguy trong cuộc chiến tranh khốc liệt.
Chiếc xe không kính ấy đã chở tiểu đội ra chiến trường miền Nam đánh Mỹ, thống nhất nước nhà. Tuy tác giả không nói ra ngồi trên chiếc xe bị quân thù tàn phá đi ra từ chốn bom rơi ấy là những người lính như thế nào nhưng người đọc đều hình dung được rằng đó là những người dạn dày và gan góc trong bom đạn:
Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai.
Một sự trẻ trung, yêu đời lại được thể hiện trong một chi tiết ngộ nghĩnh. Họ lại gặp nhạu trên đường đi tới và đã ‘‘bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”. Tình bạn, tình đồng chí không bị ngăn cách bởi cái không thuận lợi của hoàn cảnh mà trái lại nó càng khăng khít hơn, tiếp thêm sức mạnh cho nhau để hoàn thành nhiệm vụ.
Tình đồng chí, đồng đội giữa những người, lính Trường Sơn đã được thể hiện một cách sâu sắc, họ là những người cùng chí hướng:
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy.
iữa đất trời tự do phóng khoáng, họ cùng nhau dựng bếp Hoàng Cầm, cùng nhau xây dựng lí tưởng, cùng nhau nhóm ngọn lửa cách mạng. Không cần lạ quen, chỉ cần “chung bát đũa” là những người lính có thể họp lại thành một gia đình, Vì thế mặc dù xa nhà, xa quê hương đi chiến đấu nhưng người lính không hề cảm thấy cô đơn.
Họ mắc võng để nghỉ ngơi, chuyện trò cùng nhau trong những giây phút thanh thản ngắn ngủi rồi lại đi. Điệp ngữ “lại đi” nối tiếp nhau như cuộc đời của những người lính cứ đi về phía trước. Chính nhờ những chuyến đi ấy mà họ lại có cảm giác “trời xanh thêm”.
Nó không chỉ có ý nghĩa tả thực mà còn mang ý nghĩa tượng trưng: đó không chỉ là màu xanh của bầu trời mà còn là màu xanh của hoà bình, của hi vọng về một tương lai tốt đẹp hơn.
Sự đối lập giữa hai phương diện vật chất và tinh thần, giữa bên ngoài và bên trong chiếc xe đã làm nổi bật phẩm chất tốt đẹp của anh bộ đội cụ Hồ. Các anh đã vượt qua tất cả:
Không có kính, rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước.
Những chiếc xe còn thiếu nhiều thứ mà đáng lẽ ra nó cần phải có. Nhưng đó chỉ là những thứ vật chất, nếu thiếu thì các anh vẫn khắc phục được. Các anh đã nhấn mạnh thêm một cái “có” thật cần, đó là lí tưởng cộng sản, lí tưởng yêu nước căm thù giặc:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Đây là “trái tim” của một con người đầy nhiệt huyết chiến đấu vì miền Nam yêu thương, và vì thế xe vẫn băng ra tiền tuyến, mặc dù: “Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi”.
Với những câu thơ gần gũi như những lời nói thường ngày đậm chất văn xuôi, Phạm Tiến Duật đã xây dựng được một hình tượng độc đáo: những chiếc xe không kính vẫn băng băng trên con đường ra trận. Và qua đó, tác giả đã làm nổi bật lên hình ảnh người lính gan góc, dũng cảm, bất chấp khó khăn nguy hiểm ở Trường Sơn thời chống Mĩ.
Đừng bỏ qua 🔥 Sơ Đồ Tư Duy Ánh Trăng Nguyễn Duy 🔥 12 Mẫu Vẽ Tóm Tắt
Phân Tích Hình Ảnh Những Chiếc Xe Không Kính – Mẫu 9
Phân Tích Hình Ảnh Những Chiếc Xe Không Kính với những tầng giá trị và ý nghĩa không chỉ trong thơ ca mà còn trong hiện thực lịch sử.
Xưa nay, những hình ảnh xe cộ, tàu thuyền đưa vào thơ thì đều được “mĩ lệ hoá”, “lãng mạn hoá” và thường mang ý nghĩa tượng trưng hơn là tả thực. Người đọc đã bắt gặp chiếc xe tam mã trong thơ Pus-kin, con tàu trong “Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên, đoàn thuyền đánh cá trong bài thơ cùng tên của Huy Cận.
“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai”
Vâng, đó là khí thế hăm hở, mạnh mẽ, hào hùng của những chàng dũng sĩ mặc áo lính, khoác áo chiến sĩ trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống đế quốc Mỹ xâm lược.
Và cũng góp mình vào công cuộc bảo vệ đất nước, vì hòa bình dân tộc ấy, Phạm Tiến Duật – một nhà tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam, cùng thời với Nguyễn Khoa Điềm, Lê Anh Xuân, Nguyễn Đức Mậu… đã vừa cầm súng, lại vừa cầm bút, dùng tiếng thơ của mình làm bàn xoay chế độ, mỗi vần thơ là bom đạn phá cường quyền.
Để rồi khi người ta nhắc tới Phạm Tiến Duật thì những bài thơ viết về người lính, về các cô gái thanh niên xung phong mười tám, đôi mươi cứ lần lượt hiện lên trong tâm trí như: Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây, Gửi em cô thanh niên xung phong, Lửa đèn… và trong đó tiêu biểu có “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”.
Đến với bài thơ này, chúng ta thấy được vẻ đẹp của những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn năm xưa với biết bao phẩm chất tuyệt vời như: dũng cảm, hiên ngang, mạnh mẽ, kiên cường và pha chút hóm hỉnh, tươi vui.
Đồng thời, qua tác phẩm, người đọc thấy được sự tàn khốc của hiện thực chiến tranh, in hằn lên hình hài dáng vóc của người lính và đặc biệt là sự trần trụi đến hoang tàn của những chiếc xe không kính bị bom mìn tàn phá.
Thực ra, trước Phạm Tiến Duật đã có rất nhiều phương tiện giao thông đã được các nghệ sĩ đưa vào trong thơ của mình. Đó là hình ảnh của một con tàu tiến lên Tây Bắc trong bài “Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên:
“Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hóa những con tàu
Khi tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu”
Hay đó là con thuyền tiến ra khơi đánh bắt cá của những người ngư dân miền chài lưới trong bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh, “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận:
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng”
Nhưng tất cả những xe cộ, tàu thuyền ấy khi đi vào thơ đều được lãng mạn hóa, mang một ý nghĩa biểu tượng nào đó. Còn những chiếc xe không kính của Phạm Tiến Duật lại xuất phát từ hình ảnh có thực, thật đến trần trụi, “sống sít”, chỉ có trong chiến trường Trường Sơn thời kì chống Mĩ.
Đầu tiên, hình ảnh những chiếc xe không kính gây ấn tượng khác lạ và độc đáo ban đầu nơi người đọc qua cách đặt nhan đề của Phạm Tiến Duật: “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Nhan đề khá dài, có vẻ như có chỗ thừa nhưng chính cái điều ấy mà tạo nên cái độc lạ, thu hút sự chú ý của bạn đọc.
Tác giả đã thêm vào nhan đề tác phẩm hai chữ “bài thơ”, điều đó cho thấy được chất thơ trong bài thơ, đồng thời cho thấy được cái nhìn lãng mạn của tác giả trước hiện thực khốc liệt của chiến tranh về những chiếc xe không kính do bom rơi, đạn lạc.
Và với cách đặt nhan đề bài thơ như vậy, Phạm Tiến Duật cũng muốn nhấn mạnh đến những chiếc xe không kính trong khói lửa chiến tranh chỉ có ở chiến trường miền Nam thời kháng chiến chống Mỹ có rất nhiều, rất đông trở thành cả một “tiểu đội xe không kính”.
Từ đó, nhà thơ làm nổi bật lên sự tàn khốc của chiến tranh và tinh thần hiên ngang, dũng cảm, sôi nổi và trẻ trung của người lính khi lái những chiếc xe không kính bon bon ra chiến trường. Cho nên, ngay nhan đề thơ đã gợi mở chủ đề, tạo được giọng điệu, sắc thái thẩm mỹ riêng cho toàn bộ bài thơ: hóm hình, tươi vui, tinh nghịch, rất lính tráng.
Mở đầu bài thơ là lời giới thiệu về hình ảnh của những chiếc xe không kính vẫn băng băng tiến ra chiến trường. Tác giả chỉ ra nguyên nhân của những chiếc xe không có kính bằng một câu thơ văn xuôi rất tự nhiên, rất chân thực:
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”
Dòng thơ đầu, gồm có mười chữ với giọng điệu ngang tàng, khai mở chủ âm của toàn bài. Tác giả đã biến cái không bình thường thành bình thường, thậm chí còn thú vị trước điều đó. Đây là những chiếc xe đã đi qua bom đạn thử thách – “bom giật bom rung” là cái khốc liệt của chiến trường làm xe bị hư hại.
Điệp từ “không” được lặp lại ba lần trong một dòng thơ kết hợp với động từ mạnh “giật”, “rung” vừa có ý nghĩa giải thích nguyên nhân xe không có kính, lại vừa có ý nghĩa nhấn mạnh đến sự dữ dội, tàn phá khủng khiếp của chiến tranh.
Và sự tàn phá ấy không chỉ gây “thương tật” cho một chiếc xe mà còn tạo nên những tiểu đội xe không kính:
“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội”
Không dừng lại ở đó, trong chiến tranh bom rơi đạn lạc, những chiếc xe không chỉ bị vỡ kính mà còn bị biến dạng trở nên biến dạng thêm, trần trụi hơn nữa:
“Không có kính, rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước”
Điệp từ “không có…” kết hợp với cách liệt kê hình ảnh các bộ phận thiếu thốn của xe “kính, mui, đèn, thùng xe” đã cho thấy cái nhìn rất chân thực về chiến tranh. Đó là sự hủy diệt vô cùng tàn khốc của bom rơi, đạn lạc nơi chiến trường xa xôi. Nhưng bộ não, linh hồn của xe dường như không phải là máy móc, mà là tấm lòng người chiến sĩ, nên:
“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
Dù bom đạn đã phá hủy tất cả chiếc xe, nhưng “trái tim” của người chiến sĩ lái xe lại là một động cơ hoàn hảo, có thể thay thế cho toàn bộ những cái “không có” bên trên của những chiếc xe hư hỏng, trần trụi. Tất cả vì một mục tiêu cao cả mà người lính lái xe đã xác định cho mình “vì miền Nam” ruột thịt.
Đến đây, chúng ta nhận ra một điều, chắc hẳn Phạm Tiến Duật phải là một hồn thơ nhạy cảm, có nét ngang tàng, tinh nghịch, thích cái mới lạ thì mới có thể nhận ra được và đưa những chiếc xe không kính vào trong thơ, trở thành biểu tượng độc đáo của thời kỳ chiến tranh chống Mỹ tuyệt vời đến như vậy.
Hình ảnh này tạo nên cái tứ lạ, độc đáo, vừa nói lên cái ác liệt, dữ dội của chiến tranh, vừa bộc lộ được phẩm chất cao đẹp của người chiến sĩ lái xe trên tuyến lửa Trường Sơn: dũng cảm, hiên ngang, tếu táo, tinh nghịch, rất lính tráng…
Gợi ý cho bạn ☔ Phân Tích Bài Thơ Sang Thu Của Hữu Thỉnh ☔ 15 Bài Hay
Phân Tích Bài Thơ Tiểu Đội Xe Không Kính Facebook – Mẫu 10
Bài văn mẫu Phân Tích Bài thơ tiểu đội xe không kính Facebook với những cảm nhận và chiêm nghiệm từ những đọc giả yêu mến bài thơ.
Là một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ thời chống Mĩ cứu nước, Phạm Tiến Duật đem đến cho người đọc sự vui tươi, hồn nhiên, tinh nghịch trong thơ ông. Bài thơ về tiểu đội xe không kính có giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, dí dỏm làm nổi bật hình ảnh những anh chiến sĩ lái xe Trường Sơn ngang tàng, ung dung và lạc quan yêu đời.
Không như các nhà thơ khác, Phạm Tiến Duật đã thể hiện tính cách khác người của mình ngay ở hai câu thơ mở đầu. Không mĩ lệ hoá, không dùng hình ảnh thiên nhiên đẹp đẽ để so sánh, không trau chuốt, không bóng bẩy, hình ảnh chiếc xe trong thơ Phạm Tiến Duật rất trần trụi, bình dị, không nguyên vẹn:
Không có kính không phải vì xe không có kính.
Đơn giản là vì “Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi” nên xe không còn nguyên vẹn nữa. Thế nhưng, chiếc xe không kính ấy vẫn băng băng ra chiến trường.
Chiếc xe đầy tự tin, không hề lo sợ trước bom đạn khủng khiếp của giặc Mĩ. Khác với những gì trần trụi bên ngoài, đây là một chiếc xe dũng cảm, hiên ngang. Xe vẫn băng ra tiền tuyến trên những đoạn đường đầy hiểm nguy. Có khác chăng đó là hình tượng những anh chiến sĩ lái xe Trường Sơn.
Vì xe không có kính nên các anh được tiếp xúc trực tiếp với thế giới bên ngoài. Gió, sao trời, cánh chim, và cả bầu trời rộng cũng ùa vào buồng lái, hoà cùng nhịp thở nhộn nhịp của các anh:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái.
Không có một sự ràng buộc hay rào cản nào ngăn cách các anh tiếp xúc với đất trời. Mà cả thiên nhiên cũng muốn hoà mình với khí thế ấy. Chính vì thế mà các anh có thể nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng một cách rất thoải mái, tự nhiên.
Không có kính thì điều kiện chiến đấu cũng thiếu thốn nhưng các anh vẫn yêu đời, vẫn tự tin vào chiến thắng. Các anh xem mọi trở ngại chỉ là dịp để thử thách bản thân:
Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già.
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau, mặt lấm, cười ha ha.
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
Điệp cấu trúc “không có kính… ừ thì” chưa cần thể hiện tính cách ngàng tàng, bất chấp tất cả khó khăn. Không có kính chắn bụi thì đương nhiên phải có bụi bám lên tóc, nhưng các anh vẫn không lo, cứ để vậy mà nhìn nhau, mặt lấm, cười ha ha.
Không có kính che mưa thì dĩ nhiên phải ướt áo, dù áo ướt nhưng các anh cũng mặc kệ, cứ để vậy mà lái tiếp bởi mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi. Các anh vẫn giữ cái tư thế ấy, hiên ngang mà sao yêu đời quá đi thôi! Dù có thiếu thốn, cực khổ đến đâu, các anh vẫn yêu thương, chia sẻ cho nhau tình yêu thương:
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Dường như trong chiến đấu gian khổ giúp chiến sĩ tôi rèn ý chí và giúp cho tình đồng đội của các anh thêm gắn bó, keo sơn. Dù vào sinh ra tử nhưng người lính vẫn hồn nhiên, vô tư và lạc quan tin tưởng. Chỉ một cái bắt tay qua khung kính vỡ rồi những cũng đủ gieo vào nhau những tình cảm tốt đẹp, các anh động viên nhau tiến bước quân hành.
Tình cảm ấy đã làm các anh cảm thấy đầm ấm khi cùng chung tiểu đội:
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.
Tiểu đội của các anh như một gia đình vui vẻ, hạnh phúc. Ở đó có vẻ đẹp của sự sum họp, chan hoà. Các anh có chung một điểm tựa, tâm hồn nên gia đình ở chiến trường của các anh đều cùng chung một nhiệm vụ thiêng liêng.
Các anh luôn tin tưởng vào tương lai đang chờ đợi phía trước. Câu thơ lại đi, lại đi trời xanh thêm với năm thanh bằng và điệp ngữ lại đi đã tạo nên một âm điệu thanh thản, nhẹ nhàng.
Điều làm nên sự chiến thắng của các anh chính là lòng yêu nước, là ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà:
Không có kính, rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước,
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cản trong xe có một trái tim.
Ở các anh có sự tương phản rõ rệt giữa vật chất và tinh thần, giữa bên ngoài và bên trong, giữa cái không có và cái có. Bom đạn kẻ thù đã làm cho xe không có rất nhiều. Không kính, không đèn, không mui nên chiếc xe đã trở nên trần trụi đến kì lạ, xe không còn nguyên vẹn…
Nhưng một thứ rất cần mà các anh đã có, đó là trái tim yêu nước. Trái tim đầy nhiệt thành cách mạng, sẽ chiến thắng những thiếu thốn về vật chất. Trái tim yêu nước đã điều khiển chiếc xe không nguyên vẹn ấy băng về phía trước, nơi miền Nam ruột thịt. Sức mạnh để xe băng mình ra trận chính là sức mạnh của trái tim người lính.
Với chất liệu hiện thực độc đáo, bài thơ thể hiện hình ảnh hào hùng của chiếc xe không kính, qua đó khắc hoạ nổi bật hình ảnh cao quí của người lính lái xe ở Trường Sơn trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứa nước.
Qua bài thơ, ta càng thấy rõ phẩm chất của người lính Trường Sơn: mộc mạc, giản dị và vĩ đại. Chúng ta càng biết ơn các anh. Thế hệ trẻ Việt Nam nguyện tiếp bước các anh gìn giữ Tổ quốc Việt Nam mãi mãi trường tồn.
Đón đọc tuyển tập 🌳 Phân Tích Bài Thơ Nói Với Con 🌳 14 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Nghị Luận Về Bài Thơ Tiểu Đội Xe Không Kính Lớp 9 – Mẫu 11
Nghị Luận Về Bài Thơ Tiểu Đội Xe Không Kính với những bài viết tham khảo đặc sắc dành cho bạn.
Trong một cuộc phỏng vấn gần đây, Phạm Tiến Duật tâm sự thời tuổi trẻ tính tình sôi nổi, bồng bột, thích tìm tòi, thế hiện cái mới, thậm chí thích nói ngược lại những cách nói thông thường. Bài thơ về tiểu đội xe không kính được Phạm Tiến Duật sáng tác từ những năm đầu mới vào bộ đội đã thể hiện khá rõ nét cách suy nghĩ này của ông.
Ngay câu đầu tiên, đọc lên đã thấy trúc trắc, ngang ngang, không có vẻ là một câu thơ:
Không có kính không phải vì xe không có kính.
Chỉ trong một câu thơ mà có đến ba chữ không, mà còn lặp đi lặp lại: không có kính, không có kính… chỉ để nói về cái “sự bất thường”: xe không có kính. Thơ xưa trau chuốt từng câu, từng chữ, theo luật bằng – trắc rõ ràng: hẳn không thể chấp nhận cách viết như vậy.
Thơ mới (1932 – 1945) vốn nổi tiếng về sự phá cách nhưng nhìn chung, đọc câu thơ mới lên vẫn thấy mềm mại, mượt mà. Ngay đến một bài văn thông thường, nếu lặp đi lặp lại quá nhiều mà không có dụng ý rõ ràng, rất có thể sẽ bị phê là “văn viết vụng về, lủng củng”…
Thế nhưng đây là điểm nhấn của bài thơ này.Có người cho rằng, bản chất của ngôn ngữ thơ là khác thường, là “phi chuẩn”.
Ví dụ, trong bài thơ của Bà Huyện Thanh Quan:
“Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà”,
Các tính từ “lom khom”, “lác đác” đã được đảo lên trước các danh từ “tiều vài chú”, “chợ mấy nhà” nhằm mục đích nhấn mạnh. Các câu thơ nổi tiếng, được bạn đọc nhớ đến nhiều nhất đều có tính “phá cách” như vậy.
Trong câu thơ của Phạm Tiến Duật, sự “phá cách” không chỉ thể hiện ở cách lặp lại các từ ngữ một cách đầy chủ ý mà còn ờ giọng điệu đùa vui, ờ cách đề cập đến những sự việc tưởng như “không có gì”.
Trong văn học, những vật dụng cũng như các chi tiết của đời sống sinh hoạt hàng ngày ít khi được quan tâm. Trong bài “Tràng giang”, Huy Cận có sử dụng chi tiết “củi một cành khô” cũng rất lạ nhưng chủ yếu mang tính ẩn dụ, thể hiện trạng thái trôi nổi, vô định.
Trái lại, những chi tiết về đời sống hàng ngày như vậy có thể thấy rất nhiều trong thơ kháng chiến, đặc biệt là trong thơ của các tác giả trẻ thời chống Mĩ như Phạm Tiến Duật, Thanh Thảo, Nguyễn Duy…
Không chỉ đưa vào thơ những chị tiết, hình ảnh của đời sống mà ngay cả ngôn ngữ thơ cũng được đổi mới triệt để nhằm có thể truyền tải những chi tiết về đời sống hàng ngày của những người lính một cách chân thực nhất.
Những từ đệm, từ tình thái… được đưa vào thơ ngày càng nhiều (”không có kính, ừ thì có bụi’. “không có kính, ừ thì ướt áo”) đã mang đến cho thơ chống Mĩ những sắc thái vừa quen thuộc vừa lạ lẫm, gần gũi hơn mà cũng hấp dẫn hơn với đa số bạn đọc.
Cũng từ những chi tiết đầy chất sống, từ kiểu ngôn ngữ thơ đậm chất đời thường, chất văn xuôi đó, hiện thực cuộc sống chiến trường khốc liệt (bom giật, bom rung, khói, bụi…) đã được tái hiện khá rõ nét.
Từ đó giiúp người đọc có những hình dung tương đối cụ thể về những năm tháng hào hùng và bi thương trong lịch sử dân tộc, cảm nhận được những mất mát, hi sinh, hiểu được rằng để có được những ngày hạnh phúc như hôm nay, thế hệ cha anh đã phải hi sinh xương máu như thế nào.
Nhưng vượt lên tất cả hiện thực khốc liệt đó vẫn là thế giới tâm hồn của những người lính. Những chàng trai trẻ vừa rời ghế nhà trường, tâm hồn đầy ắp những ước mơ và khát vọng cống hiến. Ở đây, cần phải nói đến tính cách trượng nghĩa, tinh thần xả thân vì nước như một tính cách dân tộc đã được kết tinh qua bao nhiêu thế kỉ dựng nước và giữ nước.
Truyền thống tốt đẹp đó cùng lí tưởng thời đại đã làm nên nét đẹp của cả một thế hệ: vượt lên mọi hiểm nguy, sẵn sàng đối mặt với hi sinh gian khổ, sống và chiến đấu bằng tinh thần lạc quan, luôn hướng về phía trước.
Cuộc sống nơi chiến trường gian khổ, hàng ngày, hàng giờ phải chứng kiến những mất mát; đau thương, phải trải qua những khó khăn chồng chất nhưng những con người can đảm, giàu nghị lực luôn nhìn thấy khía cạnh lạc quan của vấn đề, lấy đó làm điểm tựa để sống và chiến đấu.
Nhiều người gọi đó là chất lính – là cái nhìn lạc quan, tinh thần quả cảm – hành trang chủ yếu mà thế hệ trẻ thời chống Mĩ đã mang trên mình trong cuộc trường chinh vạn dặm.
Những chiếc cửa kính để bảo vệ người lái khỏi mưa, gió, bụi đường… Thông thường, khi cửa kính xe bị vỡ sẽ gây bao phiền toái: khói bụi vào mắt, mưa gió, cành cây…Tuy nhiên, với những người lính điều đỏ chưa hẳn đã là bất lợi. Ngược lại không có kính hoá ra lại hay:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái.
Quả là một cách nhìn hết sức lãng mạn – sự lãng mạn của tuổi trẻ, của những con người luôn biết cách chế ngự, vượt lên trên hoàn cảnh. Không phải khói bụi, không phải gió táp mưa sa mà là ngọn gió lành xoa vào “mắt đắng”, con đường thì “chạy thẳng vào tim”, người lái giao hòa với thiên nhiên mà không còn bị cửa kính ngăn trở như mọi khi.
Bụi thì có sao đâu, dù “bụi phun tóc trắng như người già”, áo ướt rồi sẽ khô thôi, tiếng cười sảng khoái và cái bắt tay qua cửa kính mới thật là điều đáng nói. Khoảng cách giữa con người với thiên nhiên, con người với con người dường như được thu ngắn lại.
Nếu cửa kính không vỡ, e rằng khó có thể dễ dàng như thế. Cái nhìn hài hước – vốn chỉ có ở những tâm hồn yêu đời đã khiến cho nỗi gian khổ vơi đi rất nhiều.
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đẩy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.
Những câu thơ ấm tình đồng đội, những sinh hoạt thường ngày được miêu tả trong khung cảnh yên bình, tựa như không phải trong thời chiến tranh. Có người đã phê phán thơ kháng chiến thiếu tính chân thực, thiên về ngợi ca nhưng nếu đọc những câu thơ này, cần phải lí giải vấn đề từ một khía cạnh khác.
Tình cảm, cảm xúc trong bải thơ này được miêu tả rất chân thực, tự nhiên. Không phải những người lính đang cố quên đi gian khổ mà chính bản lĩnh, ý chí can trường cùng với tâm hồn lãng mạn kết hợp với tinh thần quyết tử xả thân vì nước đã giúp người lính vượt lên trên những gian khổ hàng ngày.
Tinh thần xả thân vì nước ấy vốn đã có từ thời vua Hùng dựng nước, trài qua thời Bà Trưng, Bà Triệu, thời Đinh, Lí, Trần được phát huy triệt để qua mỗi cuộc đấu tranh giữ nước: nghĩa quân Lam Sơn khiến quân Minh “về đến nước mà vẫn tim đập chân run”, đoàn quân của Quang Trung khiến quân Thanh “không còn mảnh giáp”…
Sức mạnh của những người lính trong thời đại Hồ Chí Minh là sự kết hợp giữa sức mạnh truyền thống với lí tưởng thời đại. Họ chính là hiện thân của chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong thời đại mới, là một trong những hình tượng đẹp nhất của thế kỉ:
Như Thạch Sanh của thế kỉ hai mươi
Một dây ná, một cây chông cũng tiến công giặc Mĩ…
(Tố Hữu – Bài ca Xuân 68)
Vốn bản tính khiêm nhường, những người lính không thích nói về chiến công, cũng không nói về những khó khăn, gian khổ Họ chỉ nói về công việc hàng ngày – một công việc nguy hiểm bậc nhất nhưng lại được kể bình thường như biết bao công việc bình thường khác.
Câu thơ: “Lại đi, lại đi trời xanh thêm” trong vắt như tâm hồn người lính, như khát vọng và niềm tin mà họ đã mang theo trên đường ra trận. Và đây mới là điều quan trọng nhất:
Không có kính, rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
“Chỉ cần trong xe có một trái tim”. Không có cách lí giải nào giản dị mà thiêng liêng hơn thế. Không có kính, không có đèn. không có mui xe…rất nhiều chữ “không” để đến một chữ “có”. Chỉ cần có một trái tim yêu nước, quả cảm, mọi khó khăn, gian khổ sẽ ở lại phía sau.
Sau Hoan hô chiến sĩ điện biên, Hoan hô anh hùng giải phóng quân của Tố Hữu, Dáng đứng Việt Nam của Lê Anh Xuân… là bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật. Bài thơ đã nối tiếp khúc ca về những người lính trong cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc.
Có thể bạn sẽ thích 🌳 Cảm Nhận Bài Thơ Đoàn Thuyền Đánh Cá 🌳 15 Bài Hay Nhất
Phân Tích Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính Khổ 1 – Mẫu 12
Bài văn phân tích Bài thơ về tiểu đội xe không kính khổ 1 dưới đây sẽ là tư liệu hay để các em học sinh vận dụng hoàn thành tốt bài viết của mình.
Bài thơ về tiểu đội xe không kính là khúc tráng ca đầy hào hùng của những người lính lái xe trên đường ra trận. Thông qua hình ảnh độc đáo, những chiếc xe không kính, nhà thơ Phạm Tiến Duật đã làm nổi bật lên vẻ đẹp của lòng dũng cảm, sự ngang tàng và tinh thần lạc quan của những người lính. Trong khổ thơ đầu của bài, nhà thơ đã tập trung khắc họa hình ảnh độc đáo, “có một không hai” của những chiếc xe từ trong bom rơi và thể hiện được vẻ đẹp tâm hồn đáng quý của những người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn.
Sự xuất hiện đầy tự nhiên, có phần hóm hỉnh của những chiếc xe không kính trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” đã tạo ấn tượng mạnh mẽ và trở thành một trong những hình tượng tiêu biểu nhất trong thơ ca kháng chiến. Đây cũng chính là lần đầu tiên, hình ảnh những chiếc xe không kính được đưa vào trong thơ ca:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Chiếc xe là phương tiện chiến đấu đồng hành cùng những người lính lái xe trong hành trình chi viện cho miền Nam ruột thịt. Thế nhưng, những chiếc xe xuất hiện với một diện mạo thật lạ lùng: méo mó, biến dạng, mất đi hình dáng ban đầu “không kính”. Hình ảnh chiếc xe cũng phản ánh hiện thực khốc liệt của cuộc kháng chiến chống Mĩ, khi kẻ thù ra sức bắn phá, ngăn cản hoạt động chi viện. “Bom giật, bom rung” thể hiện được sự dữ dội cùng sức tàn phá khủng khiếp của kẻ thù nhằm ngăn cản bước tiến của quân ta.
Ác liệt là vậy, dữ dội, hiểm nguy là vậy, thế nhưng những người lính vẫn đối diện bằng tinh thần lạc quan, nói về những mất mát bằng giọng tinh nghịch, bông đùa “kính vỡ đi rồi”. Có lẽ đối với những người lính, hành động hủy diệt của kẻ thù không phải vật cản khiến họ sợ hãi, nhụt chí mà là bước đệm để họ thêm quyết tâm cho lí tưởng chiến đấu vì miền Nam, thống nhất đất nước. Tinh thần lạc quan, ý chí quyết tâm ấy tiếp tục được thể hiện rõ nét trong những câu thơ sau:
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Tính từ “ung dung” được sử dụng rất đắt, nó thể hiện được dáng vẻ thư thái, tự nhiên, không lo lắng, bận tâm của những người lính khi làm nhiệm vụ lái xe. Trong không khí mưa bom bão đạn, khi cái chết luôn cận kề thì những người lính vẫn giữ được sự tự tin, bình tĩnh trong mọi hoàn cảnh.
Đảo ngữ “ung dung” lên đầu câu kết hợp với điệp từ “nhìn” đã tái hiện sống động tư thế vững vàng, tự tin cùng khí phách hiên ngang, kiên cường, coi thường hiểm nguy của những người lính. Đi trong bầu không khí căng thẳng, hiểm nguy “bom giật bom rung” nhưng những người lĩnh vẫn giữ vững tinh thần lạc quan, giữ được tay lái vững vàng , tinh thần ấy được thể hiện qua ánh nhìn đầy quyết tâm “nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”.
Như vậy, chỉ với khổ thơ đầu, nhà thơ Phạm Tiến Duật đã mang đến cho chúng ta những ấn tượng thật sâu sắc về những chiếc xe không kính đi ra từ trong bom rơi, cùng với đó là một hình ảnh, tinh thần thật đẹp của những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn xưa.
Tiếp tục tham khảo 🌹 Phân Tích Đoàn Thuyền Đánh Cá Huy Cận 🌹 19 Mẫu Hay Nhất
Phân Tích 4 Khổ Đầu Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính – Mẫu 13
Phân Tích 4 Khổ Đầu Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính để thấy được vẻ đẹp hào hùng của những người lính trẻ với lòng yêu nước va tinh thần cách mạng sâu sắc.
Từ nơi em gửi đến nơi anh
Những đoàn quân trùng trùng ra trận
Như tình yêu nối lời vô tận
Đông Trường Sơn, nối tây Trường Sơn…
“Những đoàn quân trùng trùng ra trận” được nhà thơ Phạm Tiến Duật nói đến trong bài thơ Trường Sơn đông, Trường Sơn tây và hàng ngàn, hàng vạn thanh niên, thanh nữ Việt Nam ào ào ra trận với khí thế “ xẻ dọc Trường Son đi cứu nước” thời chống Mỹ, trong đó có những tiểu đội xe không kính trên con đường mòn Hồ Chí Minh.
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” được Phạm Tiến Duật viết năm 1969, hơn 40 năm sau người đọc vẫn cảm thấy hừng hực không khí chiến trường và khí thế ra trận của những chiến sĩ trong binh đoàn vận tải quân sự. Đây là bốn khổ thơ đầu. Giọng thơ mạnh mẽ hùng hồn vang lên như một tráng ca anh hùng.
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Hai cầu đầu như một lời hỏi – đáp rất hồn nhiên của người lính. Chiếc xe vận tải vốn có kính nhưng trong bom đạn “kính vỡ đi rồi”. Các điệp ngữ: “không có.. không phải… không có”, “bom giật, bom rung” đã làm cho âm điệu thơ hùng tráng gợi tả không khí ác liệt chiến trường. Vần thơ đã làm hiện lên những chiếc xe vận tải quân sự mang đầy thương tích chiến tranh, và hình ảnh người chiến sĩ can trường, dày dạn kinh nghiêm trong khói lửa,
Một tư thế chiến đấu rất đẹp:
” Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất. nhìn trời, nhìn thẳng”
Cái ngồi “ung dung” đàng hoàng làm chủ tình thế. Một cái nhìn khoáng đạt bao la giữa chiến trường: “Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”. Nhịp thơ 2/2/2 với điệp từ ‘‘nhìn’’ đã thể hiện tuyệt đẹp một tư thế chiến đấu rất đĩnh đạc hào hùng của người lính trẻ trong mưa bom bão đạn của giặc Mỹ.
Khổ thơ thứ hai mở ra một không gian rộng lớn, những cung đường chiến lược phía trưóc. “Nhìn thấy gió…”, “nhìn thấy con đường…”, rồi “nhìn thấy sao trời…” các điệp ngữ ấy có giá trị gợi tả tiểu đội xe không kính, nối đuôi nhau hành quân ra chiến trường. Xe không kính, xe phóng băng băng, nên “gió vào xoa mắt đắng”.
Chữ “đắng” chuyển đổi cảm giác, một cách viết tài hoa. Sao trời và cánh chim mà người chiến sĩ “thấy” tưởng “như sa vào buồng lái” đã diễn tả thật hay tốc độ phi thường của tiểu đội xe không kính ra trận trong mọi thời gian đêm ngày, trên mọi địa hình gian khổ:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái
Sau gió “xoa mắt đắng” là bụi. Bốn chữ “ừ thì có bụi” như một tiếng “mặc kệ” cất lên, biểu thị một thái độ sẵn sàng chấp nhận. Bụi làm cho những mái tóc xanh trở thành “ tóc trắng như người già”. “Mặt lấm” cũng chẳng cần vội rửa.
Cách hút thuốc “phì phèo”, tiếng “cười ha ha” là những chi tiết nghệ thuật hóm hỉnh thể hiện tinh thần lạc quan, hồn nhiên, yêu đời của tiểu đội xe không kính:
Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Tiểu đội xe không kính đã xông pha trong cảnh “bom giật bom rung”, đã nếm trải nhiều gió bụi, vô cùng gian khổ, các anh còn hành quân trong mưa. Hai câu thơ nối tiếp xuất hiện như tiếng nói của người lính coi thường mọi thử thách:
Không có kính, ừ thì có bụi,
Không có kính, ừ thì ướt áo.
Mưa rừng dữ dội, vả lại xe không kính, gian khổ không thể nào kể xiết: “Mưa tuôn, mưu xối như ngoài trời”. Trong gian khổ các anh vẫn hiên ngang xông tới chi viện cho chiến trường miền Nam phía trước:
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
Thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp. Con người và thời đại được nói đến trong đoạn thơ trên là những chiến sĩ lái xe can trường và dũng cảm, lạc quan và yêu đời, trẻ trung và hồn nhiên trong gian khổ và nguy hiểm trên con đường chiến lược Trường Sơn thời đánh Mỹ.
Tiểu đội xe không kính tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng của tuổi trẻ Việt Nam trong chống Mỹ cứu nước.
Đoạn thơ trên đây hội tụ bao vẻ đẹp nghệ thuật. Câu thơ mang màu sắc văn xuôi thể hiện “chất lính” thời máu lửa.
Các điệp từ, điệp ngữ, các hình ảnh về chiếc xe không kính, về tư thế lái xe, về cái nhìn, mái tóc, nụ cười,… đã diễn tả thật đẹp chí khí anh hùng của tiểu đội xe không kính, đồng thời làm cho giọng thơ vang lên mạnh mẽ, hào hùng mang âm điệu anh hùng ca.
Bom, gió, bụi, mưa được nhà thơ nói đến đã diễn tả đầy ấn tượng về sư gian khổ, ác liệt của chiến trường. Trên cái nền ấy, hình tượng tiểu đội xe không kính sừng sững hiện lên trong tầm vóc những anh hùng cho ta nhiều ngưỡng mộ.
SCR.VN chia sẻ 💕 Phân Tích Bài Thơ Viếng Lăng Bác Của Viễn Phương 💕 18 Bài Đặc Sắc Nhất
Phân Tích Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính Khổ 3 4 – Mẫu 14
Đón đọc bài văn mẫu phân tích Bài thơ về tiểu đội xe không kính khổ 3 4 dưới đây để đi sâu phân tích đoạn thơ.
Chiến tranh đã qua đi nhưng những tác phẩm thời gian vẫn còn sống mãi với thời gian. Một trong những tác phẩm ấy đó là “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của tác giả Phạm Tiến Duật – một nhà thơ tiêu biểu, trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Bài thơ đã khắc họa thành công hình ảnh người lái xe Trường Sơn thời kì kháng chiến chống Mỹ. Điều này được thể hiện rõ qua 2 khổ thơ sau:
Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha
Không có kính ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần rửa, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi
Bài thơ ra đời trong thời kì kháng chiến chống Mĩ đã thể hiện rất thành công về hình ảnh người lính lái xe. Và vì tác giả là người am hiểu đời sống chiến tranh và có lối viết văn tả thực nên đã gây ấn tượng sâu sắc tới người đọc. Trong bài thơ tác giả đã tạo nên hình ảnh đặc biệt là những chiếc xe không kính, hình ảnh độc đáo đó đã để lại trong lòng người đọc ấn tượng sâu sắc.
Nếu như hai khổ đầu bài thơ mang lại cho ta những cảm giác về những khó khăn thử thách thấy người lính dù sao cũng vẫn mơ hồ thì đến đây, thử thách, khó khăn ập tới cụ thể, trực tiếp. Đó là “bụi phun tóc trắng” và “mưa tuôn xối xả” (gió, bụi, mưa tượng trưng cho gian khổ thử thách ở đời).
Trên con đường chi viện cho miền Nam ruột thịt, những người lính đã nếm trải đủ mùi gian khổ. Chuyện vặt ấy mà, có hề gì! Nhịp điệu câu thơ, đặc biệt là các từ “ừ thì” đã nói lên rất rõ điều đó. Đọc những câu thơ trên, ta tưởng như nhìn thấy mái đầu bụi trắng, bộ mặt lấm lem và nghe rõ tiếng cười ha ha, sảng khoái của người lính. Nhưng đằng sau những dòng chữ bông đùa đáng yêu này là một bản lĩnh chiến đấu rất vững vàng của họ, bởi không vững vàng thì không thể đùa vui như vậy giữa cái tuyến đường Trường Sơn ác liệt này.
Trước thử thách mới, người chiến sĩ vẫn không nao núng. Các anh càng bình tĩnh, dũng cảm hơn. “mưa tuôn, mưa xối xả”, thời tiết khắc nghiệt, dữ dội nhưng đối với họ tất cả chỉ “chuyện nhỏ”, chẳng đáng bận tâm, chúng lại như đem lại niềm vui cho người lính.Chấp nhận thực tế, câu thơ vẫn vút lên tràn đầy niềm lạc quan sôi nổi: “không có kính ừ thì có bụi, ừ thì ướt áo”. Những tiếng “ừ thì” vang lên như một thách thức, một chấp nhận khó khăn đầy chủ động, một thái độ cứng cỏi.
Dường như gian khổ hiểm nguy của chiến tranh chưa làm mảy may ảnh hưởng đến tinh thần của họ, trái lại họ xem đây là một dịp để thử sức mình như người xưa xem hoạn nạn khó khăn để chứng tỏ chí làm trai. Tình cảnh của các anh được miêu tả rất chân thực nhưng người chiến sĩ đã bình thường hoá cái không bình thường đó và vượt lên cùng tất cả sự cố gắng, cùng tinh thần trách nhiệm rất cao. Họ chấp nhận gian khổ như một điều tất yếu, khó khăn không mảy may ảnh hưởng đến tinh thần của họ. Hình ảnh của họ mang một vẻ đẹp kiên cường.
Và sau thái độ ấy là những tiếng cười đùa, những lời hứa hẹn, quyết tâm vượt gian khổ hiểm nguy: “Chưa cần rửa…. khô mau thôi”. Cấu trúc câu thơ vẫn cân đối, nhịp nhàng theo nhịp rung cân đối của những bánh xe lăn. Câu thơ cuối 7 tiếng cuối đoạn có đến 6 thanh bằng “mưa ngừng gió lùa khô mau thôi” gợi cảm giác nhẹ nhõm, ung dung rất lạc quan, rất thanh thản.
Đó là khúc nhạc vui của tuổi 18 – 20 hoà trong những hình ảnh hóm hỉnh: “phì phèo châm điếu thuốc – nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” … ý thơ rộn rã, sôi động như sự sôi động hối hả của đoàn xe trên đường đi tới. Những vần thơ ít chất thơ nhưng càng đọc thì lại càng thấy thích thú, giọng thơ có chút gì nghịch ngợm, lính tráng. Ta nghe như họ đương cười đùa, tếu táo với nhau vậy.
Có lẽ với những năm tháng sống trên tuyến đường Trường Sơn, là một người lính thực thụ đã giúp Phạm tiến Duật đưa hiện thực đời sống vào thơ ca – một hiện thực bộn bề, một hiện thực thô tháp, trần trụi, không hề trau chuốt, gọt rũa. Đấy phải chăng chính là nét độc đáo trong thơ Phạm Tiến Duật. Và những câu thơ gần gũi với lời nói hằng ngày ấy càng làm nổi bật lên tính cách ngang tàng của những anh lính trẻ hồn nhiên, yêu đời, trẻ trung. Đó cũng là một nét rất ấn tượng của người lính lái xe Trường Sơn.
Cái cười sảng khoái vô tư, khác với cái cười buốt giá trong bài thơ “Đồng chí”, nụ cười hồn nhiên ấy rất hiếm khi gặp trong thơ ca chống Pháp, nụ cười ngạo nghễ của những con người luôn luôn chiến thắng và tràn đầy niềm tin.điều đó đã ngân lên câu hát nâng bước chân người lính đi tiếp những chặng đường mới: “lại đi, lại đi trời xanh thêm”. Không dễ gì có được một thái độ dũng cảm đến ngang tàng và lạc quan đến như thế nếu không mang trong mình một trái tim yêu nước can trường!
Người lái xe trong bài thơ là những người chiến sĩ trẻ trung. Các anh rất trẻ trung, hồn nhiên, tâm hồn gần gũi với thiên nhiên. Trong tâm hồn họ chứa chan hy vọng. Không dễ gì có được thái độ lạc quan đến như thế nếu không mang trong mình một trái tim yêu nước của tuổi trẻ Việt Nam thời chống Mĩ. Phải nói rằng hình ảnh người chiến sĩ lái xe trong thơ Phạm Tiến Duật thật tươi tắn và yêu đời. Chúng ta mãi mãi yêu quý và tự hào về họ.
Mời bạn xem nhiều hơn 🌹 Phân Tích Bài Thơ Bếp Lửa 🌹 10 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Phân Tích Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính Khổ 5 6 – Mẫu 15
Tham khảo bài văn mẫu phân tích Bài thơ về tiểu đội xe không kính khổ 5 6 dưới đây để có thêm gợi ý hay khi làm bài.
Thời kháng chiến chống Mĩ thấy thế mà cam go lắm, ác liệt lắm. Vậy mà Phạm Tiến Duật lại là nhà thơ trẻ tài cao trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Thơ của ông có giọng điệu sôi nổi trẻ trung hồn nhiên tinh nghịch và sâu sắc. Bài thơ về tiểu đội xe không kính in trong tập Vầng trăng quầng lửa năm 1969 là bài thơ hay độc đáo về hình ảnh người lính lái xe Trường Sơn hiên ngang tinh thần lạc quan về một ngày mai tươi sáng.
Mỗi đề tài đều mang một nét hay một nét độc đáo. Người viết đề tài nào cũng phải dành tình yêu và sự hiểu biết của mình vào thì mới thành công. Phạm Tiến Duật nhà thơ trẻ tuổi tài cao chọn đề tài người lính trong thời kháng chiến chống Mĩ. Có thể nói đó là mảng đề tài hay và sâu sắc. Bài thơ về tiểu đội xe không kính là bài thơ có cách viết mới mẻ độc đáo rất cuốn hút người đọc, người nghe. Đó là hình ảnh những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn vì mục đích tiến về Miền Nam thân yêu ruột thịt.
Con đường phía trước còn dài còn khó khăn chồng chất, nhưng tinh thần hiên ngang lạc quan và vui vẻ của các anh thật mạnh mẽ. Các anh vẫn tếu táo, vẫn hồn nhiên:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây hợp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi
Sau những ngày tháng lái xe gian khổ giữa rừng Trường Sơn phải chịu mưa, gió, bụi, bom đạn,… Hôm nay họ đã có thể gặp lại đồng đội. Những cái “bắt tay” vội vàng nhưng ấm nồng tình đồng chí đồng đội. Cái “bắt tay” như tiếp thêm sức mạnh luôn tiến về phía trước dù có khó khăn và thử thách. Thời chiến tranh luôn luôn gian khó, họ là những người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn kiên trung bất khuất. Con đường giữa rừng núi ấy gặp lại anh em, cùng dựng nồi nấu bếp ăn một chén cơm mà ấm tình đồng đội:
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi lại đi trời xanh thêm.
“Bếp Hoàng Cầm” là bếp dã chiến của bộ đội được đặt dưới lòng đất, khi đun khói tản ra địch sẽ không phát hiện. Mọi thứ đều gian khổ như thế ấy nhưng tinh thần họ vẫn rất vui vẻ, lạc quan. Vẫn “dùng chung bát đũa” và xem nhau là đại gia đình lớn, là anh em ruột thịt. Với hình ảnh ẩn dụ “ xanh thêm” và nghệ thuật điệp từ “lại đi” như một lời cỗ vũ, một lời động viên các anh hãy luôn mạnh mẽ kiên cường tiến về phía trước. Rồi cũng sẽ có ngày tìm thấy màu xanh hi vọng màu xanh hòa bình và độc lập!
Hai câu thơ cuối bài là hai câu thơ đắt giá mà Phạm Tiến Duật viết nên một niềm hi vọng cháy bỏng dành cho các anh lái xe trên tuyến đường Trường Sơn anh dũng, lạc quan:
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim
“Trái tim” ấy chính là hình ảnh hoán dụ đầy yêu thương. Trái tim nhỏ của từng chiến sĩ tích góp thành một trái tim lớn hướng về Miền Nam thân yêu ruột thịt. Nhưng trái tim ấy cũng chất chứa bao nỗi căm hờn, phẫn uất? Họ căm ghét chiến tranh tàn khốc đã gây ra bao nỗi khốn cùng cho nhân dân, cho những người lính không ngại khó khăn vất vả. Đó chính là trái tim có tình yêu và cả lòng căm hận rất sâu sắc.
Với ngòi bút tinh tế sâu sắc và cách dùng từ độc đáo đã góp phần làm hình ảnh mà tác giả muốn truyền tải càng rõ nét hơn trong lòng độc giả.
Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật qua ngòi bút tinh tế, hình ảnh ẩn dụ, hoán dụ, điệp ngữ,… đã giúp hình ảnh người lính lái xe trên đường Trường Sơn càng hiên ngang dũng cảm. Họ là những con người kiên cường, bất khuất dù khó khăn gian khổ. Bài thơ đã tái hiện lại một cách đầy sống động về thời kháng chiến chống Mĩ oanh liệt trên tuyến đường Trường Sơn lịch sử và những con người dũng cảm, lạc quan mãi mãi đi vào lịch sử thơ ca thời kháng chiến chống Mĩ!
Chia sẻ thêm cùng bạn 🍀 Cảm Nhận Bài Thơ Bếp Lửa 🍀 18 Bài Văn Mẫu Hay Nhất