Phân Tích Bài Thơ Bếp Lửa Của Bằng Việt ❤️️ 26+ Mẫu Ngắn Hay ✅ Tuyển Tập Những Cách Phân Tích Về Tác Phẩm Nổi Tiếng Của Nhà Thơ Bằng Việt.
Cách Phân Tích Bài Thơ Bếp Lửa Của Bằng Việt
Hướng dẫn cách phân tích bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt dưới đây sẽ giúp các em học sinh nắm được phương pháp làm bài cụ thể.
👉 Bước 1: Tìm hiểu về tác giả và tác phẩm.
- Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong phong trào kháng chiến chống Mỹ. Thơ ông trong trẻo, mượt mà, khai thác những kỉ niệm đẹp và ước mơ tuổi trẻ
- Bài thơ “Bếp lửa” được sáng tác năm 1963 khi tác giả là du học sinh Liên Xô
- Chủ đề bài thơ gợi lại những kỉ niệm về người bà và tình bà cháu sâu sắc, thấm thía
👉 Bước 2: Phân tích chi tiết bài thơ Bếp lửa.
- Luận điểm 1: Những kỉ niệm tuổi thơ và tình bà cháu
- Luận điểm 2: Những suy ngẫm chiêm nghiệm về cuộc đời của bà cũng như hình tượng bếp lửa
- Luận điểm 3: Nỗi nhớ khắc khoải, khôn nguôi về người bà
👉 Bước 3: Đánh giá khái quát về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
- Tác giả rất thành công trong việc sáng tạo ra hình tượng mang ý nghĩa thực, mang ý nghĩa biểu tượng: bếp lửa
- Kết hợp miêu tả, biểu cảm, tự sự phù hợp với dòng hồi tưởng và tình cảm của cháu
- Bài thơ chứa đựng triết lý, ý nghĩa thầm kín: những điều thân thiết của tuổi thơ của mỗi người đều có sức tỏa sáng, nâng đỡ con người trên hành trình cuộc đời, tình yêu thương và lòng biết ơn chính là biểu hiện cụ thể của tình yêu thương, quê hương
Bên cạnh phân tích bài thơ Bếp lửa, gửi đến bạn 🍃 Thuyết Minh Về Bài Thơ Bếp Lửa 🍃 10 Bài Văn Hay Nhất
Dàn Ý Phân Tích Bài Thơ Bếp Lửa Theo Bố Cục
Giới thiệu đến bạn dàn ý phân tích bài thơ Bếp Lửa theo bố cục dưới đây.
1.Mở bài phân tích bài thơ Bếp lửa:
- Giới thiệu tác giả: tác giả Bằng Việt là một trong những nhà thơ xuất sắc trong thời kì kháng chiến chống Mỹ.
- Giới thiệu tác phẩm cần phân tích: Bài thơ “Bếp lửa” được sáng tác năm 1963, là khúc ca cảm động về tình bà cháu, tình cảm gia đình.
2.Thân bài phân tích bài thơ Bếp lửa:
a. Phân tích hình ảnh bếp lửa vén bức màn kí ức của nhân vật (Khổ 1 bài thơ Bếp lửa).
- Bếp lửa khi thì yếu đuối “chờn vờn” trong màn sương, khi lại mạnh mẽ “nồng đượm”.
- Bếp lửa gợi lên sự hi sinh vất vả của người bà.
- Điệp từ “một bếp lửa” tạo cảm xúc thương nhớ, bùi ngùi xúc động.
- Ba câu thơ mở ra một không gian kí ức với hình ảnh quen thuộc trong đời sống hàng ngày của người dân Việt Nam.
b. Phân tích những năm tháng tuổi thơ khó khăn (khổ 2, 4 bài thơ Bếp lửa)
- Nhớ lại một thời kì khó khăn của dân tộc: “năm đói mòn đói mỏi”, “khô rạc ngựa gầy”, “khói hun nhèm mắt”.
- Những hình ảnh tái hiện nạn đói năm 1945, khi nhớ lại thì “sống mũi vẫn còn cay” xúc động.
- “Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi”: những năm tháng bị chiến tranh tàn phá.
- Sự đoàn kết, đỡ đần của xóm làng: hàng xóm giúp bà dựng lại nhà, dù chỉ là “túp lều tranh”. Chiến tranh phá hủy làng mạc nhưng không phá hủy được tình người.
- Hậu phương và chiến khu: bố đi đánh giặc, bà dặn cháu không kể chuyện ở nhà, phải nói là vẫn bình yên. Đây là tinh thần chung của cả dân tộc, hậu phương luôn ủng hộ, giúp đỡ, làm chỗ dựa cho chiến khu, thầm lặng hi sinh.
- Nghệ thuật: sử dụng thủ pháp biểu cảm kết hợp tự sự, hình ảnh gợi tả.
c. Phân tích tình cảm bà cháu (khổ 3, 5, 6, 7 bài thơ Bếp lửa)
-Cả tuổi thơ gắn bó bên bà: “Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa”
- Bà kể chuyện cho cháu nghe, bầu bạn cùng cháu khi bố mẹ “công tác bận không về”.
- “bà bảo cháu nghe”, “Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học”.
- Bà còn dạy cháu làm người, vun đắp tâm hồn cháu: bà dạy cháu biết quan tâm, sẻ chia, yêu thương hàng xóm láng giềng, yêu thương con người.
-Tình cảm của cháu dành cho bà:
- Đó là tình cảm kính yêu, tôn trọng, gần gũi và thân thương, thể hiện qua những câu hỏi như “bà còn nhớ không bà?”, qua đoạn thơ cảm thán:
- Đó là sự khâm phục nghị lực của bà trong khó khăn
- Bà như một cây đại thụ giữa cuộc đời, không lung lay trước những giông bão khó khăn, luôn giữ niềm tin vào lẽ phải, vào tương lai tươi sáng.
- Cháu biết ơn những gì bà đã dạy, những yêu thương bà đã cho: cháu biết thương cuộc đời bà vất vả “lận đận”, “biết mấy nắng mưa” trong “mấy chục năm rồi”.
- Hiện tại cháu đã trưởng thành, có những niềm vui mới nhưng vẫn luôn nhớ về bà: cháu được đi nhiều nơi, có khói từ “trăm tàu”, có ánh lửa từ “trăm nhà” và niềm vui “trăm ngả” nhưng vẫn luôn canh cánh trong lòng câu hỏi “Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?”
- Câu hỏi tu từ cho thấy người cháu vẫn không hề quên hình ảnh bà cùng bếp lửa.
d. Phân tích hình ảnh bếp lửa xuất hiện trong cả bài thơ:
- Bếp lửa trở thành biểu tượng cho cuộc sống ở bên bà, cho cuộc sống vất vả nhưng giàu tình yêu thương. Bếp lửa gắn liền với bà: nhóm bếp không chỉ là công việc phục vụ nhu cầu sống hàng ngày, nó còn như nhóm lên những điều tuyệt diệu, nhóm lên hi vọng và yêu thương. Đến mức cháu phải reo lên: “Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”
- Từ hình ảnh có thực là bếp lửa, ngọn lửa, tác giả xây dựng lên thành hình ảnh biểu tượng.
- Ngọn lửa từ bếp lửa trở thành ngọn lửa trong lòng bà, chứa niềm tin dai dẳng.
- Hành động nhóm bếp: từ nhóm được lặp lại 3 lần, nhấn mạnh sự hình thành những phẩm chất tốt đẹp trong con người cháu nhờ bà dạy bảo.
- Hình ảnh bếp lửa không chỉ tượng trưng cho một nếp văn hóa của dân tộc mà còn trở thành một “người bạn”, “người đồng hành” của người cháu, luôn nhắc nhở cháu về sự hi sinh và yêu thương của bà, của cả dân tộc cho thế hệ trẻ.
3.Kết bài phân tích bài thơ Bếp lửa:
- Tổng kết về nội dung: bài thơ thể hiện một thời khó khăn của đất nước, thể hiện tình cảm gia đình thiêng liêng.
- Nghệ thuật: nghệ thuật xây dựng hình ảnh đa nghĩa, nghệ thuật điệp từ, điệp ngữ, tự sự kết hợp biểu cảm.
Mời bạn đón đọc 🌜 Dàn Ý Bếp Lửa 🌜 10 Mẫu Nghị Luận Phân Tích Về Bài Thơ Bếp Lửa
Phân Tích Bài Thơ Bếp Lửa Dàn Ý Ngắn Gọn
Gửi đến bạn dàn ý bài phân tích tác phẩm thơ bếp lửa để có cách trình bày ấn tượng và đầy đủ nhất.
I. Mở bài phân tích bài thơ Bếp lửa:
Giới thiệu về bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt cần phân tích.
II. Thân bài phân tích bài thơ Bếp lửa:
1.Hoàn cảnh ra đời:
- Sáng tác vào năm 1963 khi Bằng Việt đang đi du học ở nước ngoài.
- Là một trong những sáng tác đầu tay của ông.
- Được in trong tập “Hương cây – Bếp lửa” vào năm 1968.
2.Phân tích bài thơ Bếp lửa:
a. Phân tích khổ thơ 1 bài Bếp lửa:
- Bài thơ mở ra bằng hình ảnh bếp lửa quen thuộc.
- Từ láy “chờn vờn” cùng hình ảnh “ấp iu” cảm giác về một ngọn lửa bập bùng, ẩn hiện trong làm sương sớm vừa gợi đôi bàn tay khéo léo và tấm lòng ấm áp, đôn hậu của người nhóm lửa.
- Chữ “thương” tình cảm lan tỏa ra từng câu từng chữ để rồi thấm vào tận sâu thẳm trái tim người đọc.
b. Phân tích 4 khổ thơ tiếp bài Bếp lửa:
- Ký ức về bà gắn liền với quá trình trưởng thành của cháu.
- Kỷ niệm khi cháu lên 4 tuổi: với cái “đói mòn đói mỏi”, hình ảnh “khô rạc ngựa gầy” những năm tháng đầy đói khổ, vất vả.
- Kỷ niệm năm cháu 8 tuổi: giặc ngoại xâm kéo đến tàn phá nhưng cũng không thể xóa nhòa tình làng nghĩa xóm. Lời dặn “Cứ bảo nhà vẫn được bình yên” hình ảnh của một người phụ nữ tần tảo, đảm đang, kiên cường.
c. Phân tích khổ thơ cuối bài Bếp lửa:
- Những trăn trở, suy tư của cháu về bà
- Dù khoảng cách có xa xôi bao nhiêu, dù cho “khói trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả” cháu luôn nhớ về bà bằng tất cả tình yêu thương, sự biết ơn và nỗi nhớ của mình.
III. Kết bài phân tích bài thơ Bếp lửa:
Khẳng định lại giá trị của bài thơ: Bằng hình ảnh tả thực cùng những cảm xúc thật của tác giả bài thơ ngay từ khi ra đời cho đến nay vẫn luôn có một vị trí riêng của nó.
Sơ Đồ Dàn Ý Phân Tích Bài Thơ Bếp Lửa Ngắn Gọn Nhất
Tham khảo mẫu sơ đồ dàn ý phân tích bài thơ Bếp lửa ngắn gọn nhất dưới đây để hệ thống hoá kiến thức và ôn tập hiệu quả.
Tiếp theo phân tích bài thơ Bếp lửa, chia sẻ cùng bạn 🌹 Sơ Đồ Tư Duy Bếp Lửa Bằng Việt 🌹 15 Mẫu Vẽ Tóm Tắt Hay
Mở Bài Phân Tích Bài Thơ Bếp Lửa Bằng Việt
Gợi ý viết mở bài phân tích bài thơ Bếp lửa Bằng Việt dưới đây sẽ giúp các em học sinh tham khảo cách giới thiệu hay.
Hẳn ai cũng có một quá khứ bên người thân, gia đình, một tuổi thơ trong sáng, hạnh phúc, hoặc một tuổi thơ dữ dội, đau thương,…nhưng sâu trong trái tim mỗi người, những kỉ niệm, những hồi ức về tuổi thơ luôn là thứ có sức ám ảnh sâu sắc và lớn lao nhất cuộc đời mà ta mãi không thể quên. Nó sẽ đi theo ta suốt những chặng đường đầy thăng trầm của đời ta, ăn sâu vào tâm khảm và ngự trị vĩnh hằng trong tim ta…
Dù tuổi thơ ta có ngọt ngào hay cay đắng, thì vẫn còn có một hoặc nhiều con người đã nâng đỡ ta, chăm sóc ta,… và để lại dấu ấn làm kỉ niệm sống mãi theo thời gian, năm tháng…. Nhà thơ Bằng Việt cũng có một tuổi thơ như thế… Một tuổi thơ đói khổ, cô đơn nhưng lại đầy đủ, ấm áp và hạnh phúc vô cùng! Đầy đủ, tràn đầy tình yêu thương của bà, ấm áp bởi sự quan tâm, chăm sóc, chở che của bà những ngày xa bố mẹ và hạnh phúc bởi… có bà!
Ông đã sáng tác bài thơ “Bếp lửa” khi đang là một du học sinh ở Liên Xô, theo dòng hồi tưởng trong một ngày mùa đông giá rét không có bà ở bên, ông tìm về tuổi thơ được ở cùng bà với dòng chảy thời gian bên bếp lửa bập bùng tình yêu thương ấm áp, theo nhịp đập của một con tim nhớ nhung da diết…
Cùng với phân tích bài thơ Bếp lửa, có thể bạn sẽ thích 🌼 Mở Bài Bếp Lửa 🌼 20 Đoạn Văn Mẫu Ngắn Gọn Hay Nhất
Kết Bài Phân Tích Bài Bếp Lửa Của Bằng Việt
Tham khảo và vận dụng gợi ý kết bài phân tích bài Bếp lửa của Bằng Việt dưới đây để hoàn thành tốt bài viết:
“Tôi trong suốt giữa đôi bờ hư thực
giữa bà tôi và tiên phật thánh thần”
(Đò Lèn-Nguyễn Duy)
Nào, giờ thì hãy nhắm mắt lại một lúc, chúng ta sẽ thấy ngay hình ảnh bếp lửa hồng và dáng người bà lặng lẽ ngồi bên… Bài thơ “Bếp lửa” sẽ sống mãi trong lòng bạn đọc nhờ sức truyền cảm sâu sắc của nó. Bài thơ đã khơi dậy trong lòng chúng ta một tình cảm cao đẹp đối với gia đình, với những người đã tô màu lên tuổi thơ trong sáng của ta. Những kỉ niệm thân thiết nhất của tuổi thơ luôn có sức tỏa sáng, nâng đỡ con người suốt hành trình dài rộng của cuộc đời!
Bà đã hiện về trong từng câu thơ chan chứa cảm xúc, tim bà mang một ngọn lửa sưởi ấm cuộc đời cháu…. Trong lòng cháu… Thuở ấu thơ… Giờ đây… Và mãi mãi…
Mời bạn tham khảo 🌠 Kết Bài Bếp Lửa 🌠 20 Đoạn Văn Mẫu Ngắn Gọn Hay Nhất
Văn Mẫu Phân Tích Bài Bếp Lửa Bằng Việt – Mẫu 1
Bài văn mẫu phân tích bài Bếp lửa Bằng Việt dưới đây sẽ mang đến cho các em học sinh những định hướng làm bài cụ thể.
Bằng Việt sinh năm 1941, quê tỉnh Hà Tây. Bằng Việt thuộc thế hệ các nhà thơ trẻ trưởng thành trong thời kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Ông thường đi vào khai thác những kỉ niệm, những kí ức thời thơ ấu và gợi những ước mơ tuổi trẻ. Thơ Bằng Việt sâu trầm, tinh tế, bình dị dễ làm lay động lòng người.
Bài thơ Bếp lửa được sáng tác năm 1963 khi tác giả rời xa quê hương học ngành luật ở Nga. Từ xa tổ quốc, nhà thơ bồi hồi nhớ về những kỉ niệm thời ấu thơ, nhớ về quê hương vẫn còn đang trong cuộc chiến đau thương mất mát. Đặc biệt hình ảnh bếp lửa nồng đượm và người bà hiền hậu đã để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc.
Mở đầu bài thơ hiện lên hình ảnh bếp lửa ấm áp trong làn sương lạnh chốn đồng quê:
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa!”
Ba tiếng “một bếp lửa” được nhắc lại hai lần, trở thành điệp khúc mở đầu bài thơ với giọng điệu sâu lắng, khẳng định hình ảnh “bếp lửa” như một dấu ấn không bao giờ phai mờ trong tâm tưởng của nhà thơ. Đoạn thơ làm hiện hình lên trong tâm trí người đọc hình ảnh bếp lửa quen thuộc, gần gũi của chốn đồng quê Việt Nam bình dị hiền hòa. Một bếp lửa nhỏ lẩn khuất trong sương trong gió nhưng luôn nồng đượm và ấm áp. Trong mái lá nhà tranh, e ấp trong lũy tre làng từng đêm từng ngày bếp lửa tắt rồi lại được nhóm lên.
Mấy ai là người Việt Nam mà không nhớ đến hình ảnh ấy. Bằng Việt đã lọc bỏ hết mọi yếu tố xung quanh để cho bếp lửa trở thành hình ảnh trung tâm, gây chú ý sâu sắc đối với người đọc. Ánh sáng và hơi ấm dường như tỏa khắp không gian, ấm vào cả lòng người.
Bếp lửa ấy không yên lặng mà nó luôn vận động. Từ láy “chờn vờn” rất thực như gợi nhớ, gợi thương đến dáng hình bập bùng, chập chờn của ngọn lửa trong kí ức. Ngọn lửa hắt hiu, chờn vờn theo gió, ấp iu biết bao nồng đượm, biết bao tình cảm mến yêu của con người. Hai từ láy “ấp iu” gợi nhớ đến bàn tay kiên nhẫn, khéo léo và tấm lòng chăm chút của người nhóm lửa, lại rất chính xác với công việc nhóm bếp hằng ngày.
Từ đôi bàn tay cằn cỗi bà, ngọn lửa đã cháy lên. Rất tự nhiên, hình ảnh bếp lửa đã làm trỗi dậy tình yêu thương vốn đã rất nồng ấm trong tim người cháu: “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”.
Tình thương tràn đầy của cháu đã được bộc lộ một cách trực tiếp và giản dị. Đằng sau sự giản dị ấy là cả một tấm lòng, một sự thấu hiểu đến tận cùng những vất vả, nhọc nhằn, lam lũ của đời bà. Ngọn lửa ấy đã trải qua bao nắng mưa gió rét để bùng cháy lên mỗi sớm, mỗi chiều. Ngọn lửa ấy cháy lên cùng với niềm vui, ánh sáng và niềm tin vững chắc vào cuộc sống dù đang còn biết bao gian khổ, nguy nan.
Ba câu thơ mở đầu đã diễn tả cảm xúc đang dâng lên cùng với những kí ức, hồi tưởng của tác giả về bếp lửa, về bà, là sự khái quát tình cảm của người cháu với cuộc đời lam lũ của người bà.
Từ hình ảnh bếp lửa trong tâm tưởng, nhà thơ tìm về với kí ức tuổi thơ những ngày sống cùng bà. Nhà thơ nhớ rất rõ từng giai đoạn thời gian bởi nó gắn với những kỉ niệm không thể nào quên. Hồi tưởng bắt đầu từ hình ảnh bếp lửa gắn với người bà. Cụm từ bếp lửa được lặp lại, khắc họa rõ nét và làm hiện hình bếp lửa ấm áp và xa vời trong kí ức, từ hình ảnh bếp lửa bà tư về với quá khứ xa xôi năm 4 tuổi:
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi,
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy,
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”
Kỉ niệm tuổi thơ bên cạnh bà là cuộc sống có nhiều gian khổ, thiếu thốn nhọc nhằn. Năm lên bốn tuổi, người cháu đã biết cùng bà nhóm lửa. Đó cũng là kỉ niệm xa xôi nhất trong kí ức mà người cháu còn nhớ được. Năm đó cũng là năm “đói mòn đói mỏi”. Cái đói khủng khiếp, cùng cực hiện rõ trong hình ảnh con ngựa kéo xe:
“Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy”
Đó chính là năm 1945, năm nạn đói xảy ra trên toàn miền Bắc. Sau khi vừa thoát khỏi chiến tranh, nước ta lại rơi vào những khó khăn, thách thức ghê gớm: nền kinh tế kiệt quệ, thiên tai, hạn hán liên tiếp xảy ra khiến cho công việc sản xuất ngưng trệ, mất mùa liên miên. Toàn miền Bắc rơi vào nạn đói khủng khiếp nhất trong lịch sử. Thêm vào đó dịch bệnh bùng phát khắp nơi. Trải qua giai đoạn đen tối đó có tới hơn 2 triệu người chết.
Quả thật, may mắn cho những ai vượt qua được nạn đói ấy. Cho đến bây giờ, nhớ về thời điểm ấy, tác giả vẫn còn thấy cay cay trong đôi mắt. Cay bởi vì khói bếp. Cay vì bởi thường bà, thương dân tộc phải quan vũ trong cơn bi cực của đời người. Kí ức đau thương ấy, mùi khói quen thuộc ấy cho đến bây giờ như còn vương vấn đâu đây.
Thời gian đi qua, đủ sức để làm nhạt phai tất cả. Nhưng, những kỉ niệm bên bà nhóm lửa trong suốt tám năm ròng không thể nào phai mờ trong kí ức:
“Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà?
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế.
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế,
Mẹ cùng cha công tác bận không về,
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học,
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”
“Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa” cũng tám năm cháu nhận được sự yêu thương, che chở, dưỡng nuôi tâm hồn từ tấm lòng của bà. Tám năm ấy, cháu sống cùng bà vất vả, gian truân, cực nhọc nhưng đầy tình yêu thương. Cách dẫn thời gian dài đằng đẵng gợi lên những tháng năm lầm lũi trong cuộc sống đói nghèo. Bố mẹ đi kháng chiến, tám năm cháu ở cùng bà.
Tám năm, người bà thay bố thay mẹ chăm sóc, dưỡng nuôi và bảo vệ người cháu trước bao hiểm nguy, trắc trở. Chính bà là người đã dạy dỗ cháu nên người. Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế để nhắc nhở cháu về truyền thống gia đình, về những đau thương mất mát và cả những chiến công của dân tộc. Bà luôn bên cháu, dạy dỗ, chăm sóc cho cháu lớn lên.
Từng ngày, từng ngày bếp lửa lại được nhóm lên cùng những bài học, những câu chuyện cùng lời nhắc nhở ân cần của bà. Bếp lửa như là dấu hiệu để mở đầu cho mọi hoạt động, dẫn dắt con người đi vào cuộc sống. Mỗi sớm bếp lửa cháy lên mở đầu ngày mới. Mỗi chiều bếp lửa lại cháy lên để khép lại một ngày và mở ra một miền sáng mới ấm áp và thân thương của sự đoàn tụ.
Mỗi ngày, người cháu chứng kiến bà nhóm lửa. Từ những que củi vô tri, ngọn lửa ấm cháy lên như một phép màu. tưởng như dễ dàng nhưng không phải thế. những ngày mưa gió, củi ướt rơm ẩm, nhóm được bếp lửa quả thật gian nan biết chừng nào. Thế nên người cháu mỗi lần nhóm bếp lửa mà nghĩ về biết bao khó nhọc của bà.
Bà và bếp lửa là chỗ dựa tinh thần, là sự chăm chút, đùm bọc dành cho cháu. Bếp lửa của quê hương, bếp lửa của tình bà lại gợi thêm một kỉ niệm tuổi thơ – kỉ niệm gắn với tiếng chim tu hú trên đồng quê mỗi độ hè về. Tiếng chim tu hú được nhắc lại đến bốn lần tạo nên một sự ám ảnh lớn.
Lần thứ nhất, tiếng tu hú văng vẳng trên những cánh đồng xa, heo hút trong sương mờ, khói xám: “Tu hú kêu trên những cánh đồng xa” Lần thứ hai, nó lặp lại ngay sau đó trong câu hỏi đầy mến yêu: “Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà?” . Lần thứ ba, tiếng tu hú thê thiết đi sâu vào nỗi buồn sâu thăm thẳm: “Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!”. Lần thứ tư trong lời tha thiết gọi mời của tác giả: Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà. Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”
Trong không gian đồng quê tiêu điều, sơ xác, tiếng chim tu hú gợi nên một nỗi buồn bã và sợ hãi khôn cùng. trong bài thơ “Tiếng chim tu hú” của nữ sĩ Anh Thơ cũng gợi tả tiếng chim tu hú gắn liền với hình ảnh cha già, với những kỉ niệm về một thời thiếu nữ hoa niên tươi đẹp, tiếng chim tu hú len lỏi khắp bài thơ như một âm thanh u ẩn, buồn thương và tiếc nuối.
Trong tâm lí con người, con chim tu hú luôn mang đến cho con người những điều không may mắn. Nó là đại diện của những gì xấu xa, ma quái, đầy chết chóc. Tiếng kêu u uất, đứt quãng, sầu bi của loài chim giấu mặt này luôn khiến cho người ta bất an, lo lắng. Tiếng chim như giục giã, như khắc khoải một điều gì da diết khiến lòng người trỗi dậy những hoài niệm, nhớ mong.
Phải chăng đó chính là tiếng đồng vọng của đất trời để an ủi, sẻ chia với cuộc đời lam lũ của bà. Có lẽ, lúc ấy tác giả không hề biết điều đó, lắng nghe âm thanh tiếng chim như dấu hiệu duy nhất với niềm tin vào sự đồng cảm trong sự sống đầy khó khăn của mình. Bởi thiên nhiên luôn là bạn, luôn đồng tình và không bao giờ phản bội con người.
Những câu thơ như lời đối thoại tâm tình, cháu trò chuyện với bà trong tâm tưởng, cháu trò chuyện với chim tu hú trong tình yêu thương. Và tất cả đều là sự bộc bạch của cháu dành cho người bà kính yêu. Hình ảnh của bà, hình ảnh của bếp lửa và âm thanh của chim tu hú vang vọng trong một không gian mênh mông khiến cả bài thơ nhuốm phủ sắc bàng bạc của không gian hoài niệm, của tình bà cháu đẹp như trong chuyện cổ tích.
Những năm tháng thơ mộng và bình yên ấy mau chóng đi qua, đọng lại trong nhà thơ là miền kí ức đau thương của quê hương, làng xóm:
“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh”.
Hết đói khát lại đến giặc dã. Kẻ thù hung bạo luôn có ở xung quanh và sẵn sàng tấn công vào cuộc sống bất cứ lúc nào. Quân giặc đến, tất cả bị hủy hoại, bị đốt phá hòng dập tắt sự sống con người; hòng phá tan ước vọng hòa bình và muốn khuất phục con người bằng sức mạnh của đạn bom. Tội ác của kẻ thù đã được Hoàng Cần khắc hoạ trong bài thơ Bên kia sông Đuống bằng lớp ngôn từ sắc lạnh, đầy căm phẫn:
“Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang”.
(Bên kia sông Đuống)
Nhưng không gì có thể tiêu diệt được sức sống của con người. Họ đã không chết, họ đã không đầu hàng, họ vẫn mạnh mẽ vươn lên “dựng lại túp lều tranh” làm lại từ đầu từ đống tro tàn đổ nát. Họ vẫn tin tưởng vào cách mạnh, tin tưởng vào cuộc chiến, tin tưởng vào tư thế tất thắng của dân tộc. Càng bị áp bức, họ càng vững vàng hơn:
“Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:
“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”.
Chi tiết thơ đậm chất hiện thực. Hiện thực cuộc sống được phản ánh khốc liệt trong câu thơ có vẻ nhẹ nhàng càng tô đậm thêm đức tính hi sinh của ba. Thành ngữ “cháy tàn cháy rụi” đem đến cảm nhận về hình ảnh làng quê hoang tàn trong khói lửa của chiến tranh.
Trên cái nền của sự tàn phá hủy diệt ấy là sự cưu mang, đùm bọc của xóm làng đối với hai bà cháu. Điều khiến cháu xúc động nhất là một mình bà già nua, nhỏ bé đã chống chọi để trải qua những năm tháng gian nan, đau khổ mà không hề kêu ca, phàn nàn. Bà mạnh mẽ,kiên cường trước hiện thực ác liệt. Đặc biệt là lời dặn cháu của bà đã làm ngời sáng vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ giàu lòng vị tha, giàu đức hi sinh: “Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”
Không biết điều gì đang xảy ra nhưng chắc chắn người cháu nhận ra một điều đó là bà đang cố nén lại đau thương, tỏ ra bình tĩnh và sáng suốt ngay trong hoàn cảnh điêu đứng nhất. bà đinh ninh dặn dò, lời dặn dò chắc nịch như nén lại niềm căm phẫn trước tội ác của kẻ thù tàn bạo, quyết tâm làm tốt trách nhiệm của người hậu phương luôn hướng về tiền tuyến.
Người bà đã gồng mình gánh vác mọi lo toan để các con yên tâm công tác. Bà không chỉ là chỗ dựa cho đứa cháu thơ, là điểm tựa cho các con đang chiến đấu mà còn là hậu phương vững chắc cho cả tiền tuyến, góp phần không nhỏ vào cuộc kháng chiến chung của dân tộc. Tình cảm bà cháu hòa quyện trong tình yêu quê hương, Tổ quốc.
Hình ảnh của bà gọi nhớ đến người mẹ thành đồng bồng con đánh giặc năm nào:
“Mẹ là nước chứa chan,
Trôi giùm con phiền muộn
Cho đời mãi trong lành
Mẹ chìm dưới gian nan”.
(Huyền thoại mẹ – Trịnh Công Sơn)
Hình ảnh người bà gắn chặt với hình ảnh bếp lửa trong kí ức tuổi thơ của người cháu. Người cháu đã ghi nhớ rất rõ theo từng giai đoạn lịch sử. Đó là năm 4 tuổi, nạn khói khủng khiếp xảy ra, cháu đã cùng bà vượt qua giai đoạn khó khăn ấy. Năm 12 tuổi, 8 năm ròng cùng bà nhóm lên bếp lửa. Bố mẹ đi kháng chiến, người bà đã thay thế, chăm nom và dạy bảo.
Càng lớn lên, cháu càng thương bà, bởi đã hiểu được những khó khăn vất vả của bà. Năm giặc về đốt làng, tất cả bị hủy diệt. Dù thế bà vẫn giữ im lặng, không làm ảnh hưởng đến chiến đấu, Bà chấp nhận hi sinh tất cả những gì mình có, để cùng dân tộc chống lại kẻ thù. Bếp lửa vẫn cháy xuyên suốt qua những năm tháng cam go, khốc liệt ấy. Hình ảnh bếp lửa dường như biến thành ngọn lửa của tình yêu và ngọn lửa hận thù.
Đến đây, ý thơ bỗng giãn ra, miên man trong kí ức tuổi thơ tươi đẹp bên cạnh bà và bếp lửa. Giờ đây, bếp lửa và bà tuy hai mà một đã hòa quyện vào nhau thành nguồn sống mạnh mẽ, bất diệt
“Rồi sớm rồi chiều, lại bếp lửa bà nhen,
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn,
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng… “
Hình ảnh người bà chắt chiu ngọn lửa ấm một lần nữa lặp lại. Giờ đây, bếp lửa không chỉ được nhen lên bằng nhiên liệu củi rơm mà còn được nhen lên từ ngọn lửa của sức sống, lòng yêu thương “luôn ủ sẵn” trong lòng bà, của niềm tin vô cùng “dai dẳng”, bền bỉ và bất diệt.
Ngọn lửa là những kỉ niệm ấm lòng, là niềm tin thiêng liêng kì diệu nâng bước cháu trên suốt chặng đường dài. Ngọn lửa là sức sống, lòng yêu thương, niềm tin mà bà truyền cho cháu. Và bằng tất cả tình yêu thương, người cháu tiếp nhận ngọn lửa ấy, tiếp tục duy trì và bùng cháy ở ngày mai.
Đến đây, ngọn lửa từ bếp lửa đã hóa thân thành biểu tượng của sức mạnh tinh thần, ý chí chiến đấu và niềm tin vĩnh hằng vào nguồn cội sinh tồn. Lửa là nguồn sống của vạn vật, của con người. Từ bàn tay bà, ngọn lửa được truyền tới muôn thế hệ mai sau.
Bất chợt, nhà thơ trở về với những suy ngẫm riêng tư về người bà và bếp lửa:
“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,
Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui,
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ…”
Bà đã dành cả cuộc đời lận đận của mình để giữ ấm bếp lửa. Mấy chục năm trời việc trở mình dậy sớm nhóm lên bếp mỗi sớm mai đã trở thành thói quen, thành nếp sống. Bà nhóm lên ngọn lửa để làm ra cho cháu những bữa cơm no, những niềm vui ấm áp. Từ bếp lửa của bà, những bữa cơm, bữa cháo cứ đều đặn bất chấp khó khăn. Bếp lửa của bà kết nối xóm làng.
Nhờ bếp lửa ấy mà người cháu biết cách sống ân nghĩa, thủy chung, biết mở lòng ra với mọi người xung quanh, biết sẻ chia, gắn bó với mọi người xung quanh. một bếp lửa bình thường thôi mà ẩn giấu những điều phi thường. Bởi thế, nhà thơ cảm phục thốt lên:
“Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”
Kì lạ vì bếp lửa ấy đã cháy qua mấy mươi năm, bất chấp ngày mưa, ngày nắng, bất chấp giông bão, bất chấp sự hủy hoại của kẻ thù. Mấy mươi năm nó chưa bao giờ đứt đoạn và nó sẽ lại cháy lên rực rỡ hơn, mạnh mẽ hơn đến muôn đời sau.
Thiêng liêng bởi vì nó gắn chặt với hình ảnh người bà đáng kính trong kí ức tuổi thơ. Nó cùng bà cháu đi qua thời gian. Nó xua tan bóng tối. Nó mang lại sự ấm no và hạnh phúc. Nó duy trì niềm tin tưởng và nguồn sống. Mặc khác trong đời sống tinh thần Việt Nam, bếp lửa gắn liền với thần lửa – vị thần bảo hộ của cuộc sống gia đình vốn rất được con người kính trọng và tôn vinh.
Giờ đây, khi ở nơi xa tổ quốc kỉ niệm tuổi thơ cứ bồi hồi trong lòng tác giả, thổn thức không ngui. Dù nay đã có muôn ánh lửa nhưng người cháu vẫn không quên ngọn lửa quê hương được nhóm lên từ đôi bàn tay cằn cỗi của người bà kính yêu. Kí ức xa xăm vẫn còn in đậm trong nỗi nhớ không thể nào quên”
“Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?…”
Đã có rất nhiều bài thơ viết về hình ảnh bếp lửa nhưng đến nay không có bài thơ nào vượt qua được bài Bếp lửa của Bằng Việt. Thành công của Bằng Việt là đã khắc họa và hình tượng hóa hình ảnh bếp lửa, nâng nó lên thành một biểu tượng nghệ thuật có sức biểu cảm mạnh mẽ.
Trong bài thơ có hai hình ảnh nổi bật, gắn bó mật thiết với nhau, vừa tách bạch, vừa nhòe lẫn trong nhau, tỏa sáng bên nhau. Đó là hình ảnh người bà và bếp lửa. Bà nhóm bếp lửa mỗi sáng, mỗi chiều và suốt cả cuộc đời trong từng cảnh ngộ, từ những ngày khó khăn gian khổ đến lúc bình yên.
Bếp lửa còn là biểu hiện cụ thể và đầy gợi cảm về sự tảo tần, chăm sóc và yêu thương của người bà dành cho cháu con. Bếp lửa là tình bà ấm nồng, là tay bà chăm chút. Bếp lửa gắn với bao vất vả, cực nhọc đời bà. Ngày ngày bà nhóm bếp lửa là nhóm lên sự sống niềm vui, tình yêu thương, niềm tin, và hi vọng cho cháu con, cho mọi người.
Từ những suy ngẫm của người cháu, bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt biểu hiện một triết lí sâu sắc, đọng lại trong ta biết bao cảm phục. Những gì thân thiết nhất của tuổi thơ mỗi người đều có sức tỏa sáng, nâng bước con người trong suốt hành trình dài rộng của cuộc đời. Tình yêu đất nước bắt nguồn từ lòng yêu quý ông bà, cha mẹ, từ những gì gần gũi và bình dị nhất.
Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất
Bài Phân Tích Bài Bếp Lửa Hay – Mẫu 2
Tham khảo ngay bài văn phân tích tác phẩm Bếp Lửa trọn vẹn nhất dưới đây nhé!
Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Bài thơ Bếp lửa được ông sáng tác năm 1963 lúc 19 tuổi và đang di du học ở Liên Xô.
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.
Hình ảnh chờn vờn gợi lên những mảnh kí ức hiện về trong tác giả một cách chập chờn như khói bếp. Bếp lửa được thắp lên, nó hắt ánh sáng lên mọi vật và tỏa sáng tâm hồn đứa cháu thơ ngây.
Khổ thơ tiếp theo là dòng hồi tưởng của tác giả về những kỉ niệm của những năm tháng sống bên cạnh bà. Lời thơ giản dị như lời kể, như những câu văn xuôi, như thủ thỉ, tâm tình, tác giả như đang kể lại cho người đọc nghe về câu chuyện cổ tích tuổi thơ mình.
Cháu lúc nào cũng được bà chở che, bà dẫu có đói cũng để cháu không thiếu bữa ăn nào, bà đi mót từng củ khoai, đào từng củ sắn để cháu ăn cho khỏi đói:
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói, hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!
Dù cho tháng năm có trôi qua, những kí ức ấy cũng sẽ để lại ít nhiều ấn tượng trong lòng đứa cháu để rồi khi nghĩ lại lại thấy sống mũi còn cay. Là mùi khói làm cay mắt người người cháu hay chính là tấm lòng của người bà làm đứa cháu không cầm được nước mắt?
Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm bếp
Tu hú kêu trên những cách đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
Cháu cùng bà nhóm lửa, nhóm lên ngọn lửa của sự sống và tình yêu bà cháy bỏng của một cậu bé hồn nhiên, trong trắng như một trang giấy. Chính hình ảnh bếp lửa quê hương, bếp lứa của tình bà cháu đó đã gợi nên một liên tưởng khác, một hồi ức khác trong tâm trí thi sĩ thuở nhỏ.
Nếu như trong những năm đói kém của nạn đói 1945, bà là người gắn bó với tác giả nhất, yêu thương tác giả nhất thì trong tám năm ròng của cuộc kháng chiến chống Mĩ, tình cảm bà cháu ấy lại càng sâu đậm:
Mẹ cùng cha bận công tác không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe (…)
Trong tám năm ấy, đất nước có chiến tranh, hai bà cháu phải rời làng đi tản cư, bố mẹ phải đi công tác, cháu vì thế phải ở cùng bà trong quãng thời gian ấy, nhưng dường như đối với đứa cháu như thế lại là một niềm hạnh phúc vô bờ.
Chỉ trong một khổ thơ mà hai từ bà, cháu đã được nhắc đi nhắc lại nhiều lần gợi lên hình ảnh hai bà cháu sóng đôi, gắn bó, quấn quýt không rời.
Chiến tranh, một danh từ bình thường nhưng sức lột tả của nó thì khốc liệt vô cùng, nó đã gây ra đau khổ cho bao người, bao nhà. Và hai bà cháu trong bài thơ cũng trở thành một nạn nhân của chiến tranh: gia đình bị chia cắt, nhà bị giặc đốt cháy rụi…
Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lũi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh:
Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!
Cuộc sống càng khó khăn, cảnh ngộ càng ngặt nghèo, nghị lực của bà càng bền vững, tấm lòng của bà càng mênh mông. Qua đó, ta thấy hiện lên một người bà cần cù, nhẫn nại và giàu đức hi sinh.
Dù cho ngôi nhà, túp lều tranh của hai bà cháu đã bị đốt nhẵn, nơi nương thân của hai bà cháu nay đã không còn, bà dù có đau khổ thế nào cũng không dám nói ra vì sợ làm đứa cháu bé bỏng của mình lo buồn.
Lời dặn của bà nôm na giản dị nhưng chất chứa biết bao tình. Gian khổ, thiếu thốn, bao nỗi nhớ thương con bà đều phải nén vào trong lòng đế yên lòng người nơi tiền tuyến. Hình ảnh người bà không chỉ còn là người bà của riêng cháu mà còn là một biểu tượng rõ nét cho những người phụ nữ Việt Nam giàu đức hi sinh, thương con quý cháu.
Những dòng thơ cuối bài cũng chính là những suy ngẫm về bà và bếp lửa mà nhà thơ muốn gởi tới bạn đọc, qua đó cùng là những bài học sâu sắc từ công việc nhóm lửa tưởng chừng đơn giản:
Nhóm bếp lửa ấp iu, nồng đượm
Một lần nữa, hình ảnh bếp lửa ấp iu, nồng đượm đã được nhắc lại ở cuối bài thơ như một lần nữa khẳng định lại cái tình cảm sâu sắc của hai bà cháu.
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ.
Bà không chỉ là người chăm lo cho cháu đầy đủ về vật chất mà còn là người làm cho tuổi thơ của cháu thêm đẹp thêm huyền ảo như trong truyện.
Suốt dọc bài thơ, mười lần xuất hiện hình ảnh bếp lửa là mười lần tác giả nhắc tới bà. Âm điệu những dòng thơ nhanh mạnh như tình cảm đang trào lớp lớp sóng vỗ vào bãi biên xanh thẳm lòng bà.
Giờ đây, khi đang ở xa bà nửa vòng trái đất, Bằng Việt vẫn luôn hướng lòng mình về bà:
Giờ cháu đã đi xa.
Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẵng lúc nào quên nhắc nhở
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?
Đứa cháu sẽ không bao giờ quên và chẳng thể nào quên được vì đó chính là nguồn cội, là nơi mà tuổi thơ của đứa cháu đã được nuôi dưỡng để lớn lên từ đó.
Bài thơ Bếp lửa sẽ sống mãi trong lòng bạn đọc nhờ sức truyền cảm sâu sắc của nó. Bài thơ đã khơi dậy trong lòng chúng ta một tình cảm cao đẹp đối với gia đình, với những người đã tô màu lên tuổi thơ trong sáng của ta.
Tiếp theo phân tích bài thơ Bếp lửa, giới thiệu tuyển tập 🍀 Cảm Nhận Bài Thơ Bếp Lửa 🍀 18 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Phân Tích Bếp Lửa Hay Nhất – Mẫu 3
Tài liệu văn phân tích Bếp lửa hay nhất được nhiều em học sinh quan tâm tìm kiếm. Tham khảo bài văn mẫu phân tích bài thơ Bếp lửa hay nhất được chọn lọc dưới đây:
Có những câu ca, bài thơ chỉ chạm nhẹ vào trái tim người đọc nhưng khiến họ nhớ mãi. Đọc thơ Bằng Việt chắc hẳn người đọc sẽ nhận ra được sự lan truyền kì diệu của câu chữ. Bài thơ “Bếp lửa” được sáng tác trong những năm tháng kháng chiến với tình bà cháu gắn bó, ấm áp cùng những gian khổ nhọc nhằn ấu thơ. Bằng Việt đã thổi hồn vào “bếp lửa”, vào thời gian một đoạn hồi ức đẹp đẽ nhất.
Bài thơ “Bếp lửa” như tiếng lòng của người cháu dành cho bà suốt những năm tháng ấu thơ vất vả, bộn bề lo âu. Hình ảnh “bếp lửa” gần gũi, bình dị trong mỗi gia đình Việt Nam thời xưa nhưng dường như có sức ám ảnh và lay động tác giả. Vì bếp lửa gắn với bà, gắn với kỉ niệm ấu thơ không thể phai nhòa.
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng bếp lửa
Điệp từ “một bếp lửa” có sức chứa đựng tình cảm và cảm xúc rất lớn và chân thành, thôi thúc tác giả luôn có một nỗi nhớ thường trực ở trong đó. Hình ảnh bếp lửa “chờn vờn” và “ấp iu” diễn tả sự gắn bó, không thể tách rời. Một loạt những ký ức về bà, về kí ức ngày xưa cứ thế dội về mạnh mẽ, khiến tác giả phải thốt lên “ôi”. Một từ “ôi” mang nặng ân tình, thiêng liêng, nồng đượm biết bao nhiêu. Hẳn rằng Bằng Việt đã có những năm tháng đáng nhớ, đáng trân trọng bên cạnh bà. Kí ức cứ thế ùa về:
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại bây giờ sống mũi còn cay
Một tuổi thơ nhọc nhằn, vất vả bên cạnh bà. Một cậu bé bốn tuổi đã quá thân thuộc với mùi khói ở bếp lửa. Đất nước rơi vào ách thống trị thực dân, tình cảnh nạn đói thê thảm là điều không tránh khỏi. Khói bếp tuổi thơ đã “hun” đầy trong khóe mắt, hun cả một vùng trời tuổi thơ nhọc nhằn. Chữ “cay” ở cuối câu thơ như lắng lại, gieo vào lòng người nỗi buồn man mác. Là sống mũi “cay” hay là tuổi thơ cay cực, là thương bà, thương bố mẹ hay thương bếp lửa tần tảo sớm hôm.
Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế
“Tám năm ròng” là thời gian dài đằng đẵng, thời gian tuổi thơ của cháu nhọc nhằn bên cạnh bà. Bà và cháu cùng nhóm lửa, nhóm lên sự sống và nhóm lên tình yêu thương vô bờ bến. Tiếng “tu hú” trở đi trở lại trong đoạn thơ rất nhiều khiến cho nhịp thơ da diết, bồn chồn. Tu hú gọi hè, tu hú gọi lúa chín, gọi cả những giấc mơ của cháu về tương lai đất nước hòa bình độc lập.
Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc
Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa
Một khổ thơ cảm động. Một khổ thơ cảm xúc được bật ra sau bao nhiêu năm kìm nén ở trong. Năm tháng sống bên cạnh bà tuy khó nhọc nhưng tràn đầy ân tình. Cậu bé nhỏ thương bà khó nhọc bên bếp lửa, thương cho bà một mình nuôi cháu. Và tiếng kêu của tu hú lại khiến cho tâm sự của người cháu trở nên nặng nề hơn.
Tình bà cháu trong đoạn thơ này thực sự khiến người đọc chùng lại, rưng rưng nước mắt. Đất nước chìm trong bom đạn nhưng bà vẫn luôn chở che, chăm lo cho cháu từ bữa ăn đến giấc ngủ. Còn tình cảm nào thiêng liêng và cao cả hơn nữa.
Nhưng chiến tranh đã cướp đi bao nhiêu thứ, máu và nước mắt, cả tình yêu:
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh
Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên
Đức hi sinh cao cả của người mẹ dành cho con, của người bà dành cho cháu. Dù gian khổ, dù mất mát nhưng hậu phương luôn phải là chỗ dựa vững chắc và bình yên nhất cho tiền tuyến. Hình ảnh người bà trong đoạn thơ này đầy đức hi sinh cho gia đình, cho tổ quốc. Lời dặn dò của bà đối với cháu nặng tựa nghìn non, chất chứa nghĩa tình sâu đậm. Bà yêu thương cháu, thương con, thương cho đất nước lầm than.
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng
Nhóm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo sẻ chung đôi
Từ “bếp lửa” tác giả đã chuyển thành “ngọn” lửa như nâng tầm cao hơn của tình yêu và sự hi sinh của người bà. Bà vẫn luôn nhen nhóm yêu thương, một tình yêu chung và riêng bao la, bất diệt.
Khổ thơ cuối cùng là thời điểm trở về thực tại của tác giả, giống như là một chuyến đi trở về tuổi thơ. Giọng thơ chùng xuống, cảm xúc nghẹn ngào:
Giờ cháu đã đi xa, có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa
Đứa cháu nhỏ của bà giờ đã trưởng thành, đến một đất nước xa xôi cách bà nửa vòng trái đất nhưng những ký ức tuổi thơ đó luôn là điều thiêng liêng mà cháu luôn trân quý. Nhắc nhở bản thân không được phép quên đi. Nhắc nhở ký ức luôn sống mãi, không quên.
Bài thơ “Bếp lửa” với câu từ giản dị, cách viết nhẹ nhàng nhưng dường như khiến người đọc thấy cay cay ở khóe mắt. Một bài thơ tràn đầy tình yêu, tràn đầy hạnh phúc giữa đắng cay cuộc đời.
Chia sẻ 🌼 Phân Tích Làng Của Kim Lân 🌼 18 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Phân Tích Bài Bếp Lửa Ngắn Gọn – Mẫu 4
Tham khảo bài văn phân tích bài Bếp lửa ngắn gọn dưới đây với cách hành văn súc tích và cô đọng nội dung.
Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Ông viết bài thơ Bếp lửa vào tuổi 19, đó là năm 1963 khi còn là sinh viên đang học đại học ở nước ngoài. Cảm xúc dào dạt, lời thơ đẹp, giọng thơ thiết tha bồi hồi, hình tượng thơ độc đáo. sáng tạo, đặc sắc, đó là ấn tượng của nhiều người khi đọc bài thơ Bếp lửa này.
Có 41 câu thơ, phần lớn là thơ 8 chữ (31 câu), còn có 7 câu thơ thất ngôn và 3 câu thơ 9 tiếng. Tất cả đều kết hợp một cách hài hòa, phong phú vần điệu, đọc lên, ngâm lên nghe rất thích, rất thú vị.
Nhắc lại kí ức tuổi thơ một thời gian khổ – đói nghèo, chiến tranh, loạn lạc – qua hình tượng bếp lửa, ngọn lửa, đứa cháu ca ngợi đức hi sinh, sự tần tảo và tình thương bao la của bà, đồng thời nói lên lòng biết ơn bà, thương nhớ bà khôn nguôi.
Ba câu thơ đầu nói về bếp lửa và lòng cháu thương bà. Bếp lửa được nhóm lên trong sương sớm, ngọn lửa “chờn vờn”rung rinh, hắt ánh sáng lên tường nhà, liếp cửa. Bếp lửa ấm áp “nồng đượm” ấy còn mang tình thương chở che, ôm ấp, “ấp iu” của lòng bà. Bếp lửa của bà là bếp lửa của một cuộc đời đã trải qua “biết mấy nắng mưa”, nghèo khổ và vất vả. Nghĩ về bếp lửa, nhớ về bếp lửa gia đình, mà đứa cháu thương bà khôn xiết kể.
Hai câu đầu song hành làm hiện lên hình ảnh bếp lửa của bà. Các chữ: “ấp iu nồng đượm”, “chờn vờn” rất hình tượng, gợi tả; chữ “thương”dùng thật đắt qua vần thơ cảm thán, làm cho cảm xúc lan tỏa, thấm sâu vào hồn người:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.
Năm câu thơ tiếp theo, tác giả nhắc đi nhắc lại: “mùi khói”, “khói hun”, đã làm “nhèm mắt cháu”, làm cho “sống mũi còn cay”đến tận bây giờ. Kỉ niệm thời thơ bé khi “lên bốn tuổi”, kỉ niệm một thời đen tối, đói khổ. Đó là năm “đói mòn đói mỏi”, năm Ất Dậu 1945. khi người chết đói như ngả rạ. Giọng thơ trĩu xuống, nao nao lòng ta:
Lên bốn tuổi cháu dã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy.
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!
Cái vị xay xè của khói hun nơi bếp lửa những nhà nghèo sẽ mãi mãi bám lấy bao tâm hồn tuổi thơ; cho dù năm tháng trôi qua nhưng kí ức ấy trở thành một vết thương lòng đâu dễ nguôi ngoai.
Đoạn thơ thứ ba gồm có 11 câu, nhắc lại một vài kỉ niệm sâu sắc về bà trong suốt thời gian “Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa”. Thật là hồn nhiên và trong sáng khi nhà thơ tâm tình với chim tu hú. Chim tu hú kêu trong những ngày hè, khi trái vải đã chín đỏ cành. Tiếng chim tu hú là âm thanh đồng quê nghe thật tha thiết. Tiếng chim tu hú trong bài thơ là một sáng tạo của Bằng Việt khi nói về bà:
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
Quá khứ và hiện tại đồng hiện. Tiếng chim tu hú trở thành một mảnh tâm hồn tuổi thơ. Cháu thương bà vất vả, lo toan, biết ngỏ cùng ai. Chỉ có thể tâm tình với chim tu hú. Nhẹ trách mà thương nhiều:
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên nhữns cánh đồng xa?.
Tiếng chim tu hú gợi thương:
Mẹ cùng cha bận công tác không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học.
Trong nhiều gia đình Việt Nam, do nhiều cảnh ngộ khác nhau, mà vai trò của người bà – bà nội, bà ngoại – đã thay thế vai trò của người mẹ hiền. Các từ ngữ: “bà bảo”, “bà dạy”, “bà chăm” đã diễn tả một cách sâu sắc tấm lòng đôn hậu, tình thương bao la, sự chăm chút của bà đối với cháu nhỏ. Chữ “bà “và chữ “cháu” được điệp lại 4 lần gợi tả tình bà cháu quấn quýt yêu thương.
Được sống trong tình thương là hạnh phúc. Em bé trong bài thơ Bếp lửa tuy phải sống xa cha mẹ, tuy găp nhiều thiếu thốn khó khăn, nhưng em thật hạnh phúc khi được sống trong vòng tay yêu thương của bà. Vì thế cháu mới cảm thấy một cách thiết tha nồng hậu:
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc.
Đoạn thơ tiếp theo có 10 câu đã tô đậm thêm những phẩm chất cao quý của người bà yêu kính. Bà là chỗ dựa tinh thần vững chắc. Sống trong những năm dài chiến tranh, khi “giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi” được sự “đỡ đần” của bà con hàng xóm, hai bà cháu mới dựng lại được túp lều tranh, thế nhưng bà vẫn “vững lòng”trước mọi tai họa, thử thách:
Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:
“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố “
Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”
Từ “bếp lửa”, đứa cháu nghĩ về “ngọn lửa”. Một hình tượng rất tráng lệ. “Bếp lửa bà nhen” sớm sớm chiều chiều đã sáng bừng lên thành ngọn lửa bất diệt, ngọn lửa của tình thương “luôn ủ sẵn”, ngọn lửa của niềm tin vô cùng dai dẳng” bền bỉ và bất diệt. Cùng với hình tượng “ngọn lửa”, các từ ngữ chỉ thời gian: “rồi sớm rồi chiều”, các động từ: “nhen”, “ủ sẵn”, “chứa”(chứa niềm tin dai dẳng) đã khẳng định ý chí, bản lĩnh sống của bà, cũng là của người phụ nữ Việt Nam giữa thời loạn lạc:
Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng.
Điệp ngữ “một ngọn lửa” là kết cấu song hành đã làm cho giọng thơ vang lên mạnh mẽ, đầy xúc động tự hào.
Tám câu thơ tiếp theo là những suy ngẫm sâu sắc của nhà thơ, của đứa cháu về người bà yêu kính, về bếp lửa trong mỗi gia đình Việt Nam chúng ta. Cuộc đời cùa bà nhiều “lận đận”, trải qua nhiều “nắng mưa” vất vả. Bà cần mẫn lo toan, chịu thương chịu khó, thức khuya dậy sớm vì bát cơm, manh áo của con cháu trong gia đình. Vần thơ chứa đựng bao nghĩa nặng tình sâu. Cháu vô cùng cảm phục và biết ơn bà:
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm.
Bà đã nhóm bếp lửa trong suốt cuộc đời bà, đã trải qua nắng mưa “mấy chục năm rồi”. Bà không chỉ nhóm bếp lửa bằng đôi bàn tay già nua gầy guộc, mà là bằng tất cả, tấm lòng đôn hậu “ấp iu nồng đượm ” của bà đối với con cháu. Chữ “nhóm “được láy đi láy lại 4 lần, đan kết với những chi tiết rất thực và gần gũi thân quen đối với mọi con người, đối với mọi gia đình chúng ta.
Vị ngọt bùi của khoa sắn, hương vị ngào ngạt của nồi xôi gạo mới,… đều do bàn tay tần tảo của bà “nhóm lên”. Bà đã nhen nhóm, nuôi dưỡng trong lòng con cháu bao “niềm yêu thương”, bao ước mơ hoài bão. Tâm hồn và khát vọng tuổi thơ đã sáng bừng lên từ ngọn lửa do bà “nhóm “suốt mấy chục năm trời:
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đươm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ.
Ánh sáng bếp lửa gia đình đã chiếu sáng bức chân dung người bà yêu kính. Người bà vĩ đại trở nên gần gũi yêu thương. Trong kí ức của đứa cháu, hình ảnh người bà phảng phất màu sắc cổ tích. Nghĩ về bếp lửa, nghĩ về bà, nhà thơ thốt lên ngợi ca. Cảm xúc dồn nén bỗng ùa ra, trào lên. Cảm xúc thơ, chất trí tuệ của thơ qua câu cảm thán đem đến cho ta bao liên tưởng về bà, về mẹ, về mái ấm tình thương, về bếp lửa gia đình:
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa.
Bốn câu thơ trong phần kết thể hiện một cách đằm thắm tình thương nhớ, lòng kính yêu và biết ơn của đứa cháu bé bỏng nay đã đi xa. Cuộc đời mới thật vui, thật đẹp, đã “có ngọn khói trăm tàu”, đã “có ngọn lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả”, nhưng cháu vẫn không nguôi nhớ bà, nhớ bếp lửa gia đình thương yêu. Giọng thơ trở nên đằm thắm ngọt ngào:
Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở.
-Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?…
Không gian và thời gian xa cách và dù cuộc đời có đổi thay, nhưng tình thương nhớ bà vẫn thiết tha mãnh liệt. Cảm xúc thơ như những lớp sóng cuộn lên trong lòng người âm vang tình bà – cháu.
Bếp lửa là bài thơ rất hay và độc đáo. Trong ca dao, trong thơ ca dân tộc, có rất nhiều bài hay nói về người mẹ hiền. Bếp lửa là bài thơ viết về người bà yêu kính, tần tảo có tình thương mênh mông. Đó là sự độc đáo, lời thơ đẹp, chất thơ trong trẻo trẻ trung. Hình tượng thơ: “bếp lửa “, “khói hun”, “ngọn lửa”, “tiếng chim tu hú”,… đan kết, xâu chuỗi, rất thơ, đầy ấn tượng.
Đọc bài thơ, chúng ta vô cùng xúc động về tâm tình tuổi thơ, về hình ảnh và vai trò người bà trong gia đình được nhà thơ nói đến. Qua đó, ta càng thấy rõ tình cảm gia đình là một trong những tình cảm thiết tha nhất của con người Việt Nam.
Với Bằng Việt, tình cảm gia đình đã chan hòa và thấm sâu với tình yêu quê hương đất nước. Tiếng chim tu hú, bếp lửa “chờn vờn sương sớm “, vị ngọt bùi của khoai sắn, của nồi xôi gạo mới,… những âm thanh ấy, hương vị đậm đà, ánh sáng ngọn lửa và tình thương của bà… chính là hồn quê, là tình non nước. Có đi xa mới da diết nhớ.
Ai trong chúng ta còn bà, bà nội,bà ngoại, ai trong chúng ta, bà đã khuất, hãy khẽ đọc bài thơ Bếp lửa, chắc chắn sẽ tìm được cái tình, cái đẹp được nhà thơ gửi gắm.
Ngoài phân tích bài thơ Bếp lửa, khám phá thêm 💕 Phân Tích Nhân Vật Ông Hai Trong Truyện Ngắn Làng 💕 16 Mẫu Đặc Sắc
Phân Tích Bếp Lửa Ngắn Gọn Súc Tích – Mẫu 5
Dưới đây là mẫu phân tích bài thơ Bếp lửa ngắn gọn và hay nhất, lưu về và vận dụng ngay nhé!
Bếp Lửa là một trong những sáng tác đầu tay của ông nhưng ngay từ khi vừa mới ra đời cho đến nay “Bếp lửa” vẫn luôn có một vị trí riêng trong nền thi ca Việt Nam. Bài thơ được in trong tập “Hương cây – Bếp lửa” vào năm 1968. Đây cũng được xem như là một trong những thi phẩm hay nhất về tình bà cháu trong nền thơ ca hiện đại Việt Nam.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh bếp lửa quen thuộc của làng quê Việt Nam để từ đó gợi nhắc người cháu nhớ về bà:
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”
Ba tiếng “một bếp lửa” được lặp đi lặp lại ngay ở đầu bài thơ bởi lẽ hình ảnh này đã quá quen thuộc với làng quê Việt Nam, hơn nữa những kỷ niệm về bà cũng gắn liền với nó. Nhắc đến bếp lửa là nhắc đến bà, nhắc đến bếp lửa sẽ gợi cho tác giả những kỷ niệm về một người bà tần tảo sớm hôm bên căn bếp nhỏ. Chữ “thương” ấy đã lan tỏa ra từng câu từng chữ để rồi thấm vào tận sâu thẳm trái tim người đọc.
Bốn khổ thơ tiếp theo lần lượt là những ký ức về năm tháng cháu được sống bên bà. Đầu tiên là kỷ niệm của người cháu khi lên bốn tuổi:
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói, hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”
Đoạn thơ vừa là ký ức về một tuổi thơ gian khổ của cháu vừa gợi nhắc về nạn đói khủng khiếp năm bốn lăm.Vẫn là hình ảnh bếp lửa, bếp lửa mờ mờ khói nhưng đã khơi lên biết bao cảm xúc chân thật, bao tình cảm, bao nhớ thương và cả những giọt nước mắt nơi người đọc.
Kỷ niệm về bà cứ thế theo cháu từng ngày, gắn liền với quá trình trưởng thành của cháu:
“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!”
Cái đói khổ chưa qua thì giặc ngoại xâm đã tới. Chiến tranh ác liệt, mẹ và cha đều bận công tác xa nha “Mẹ cùng cha công tác bận không về”, ngần ấy thời gian cháu lớn lên cùng bà. Không còn hình ảnh bếp lửa, không còn mùi khói cay xè mắt cháu, ký ức của cháu lúc này là tiếng kêu của những con chim tu hú trên trời cao.
Họ – một già, một trẻ đã phải nương tựa vào nhau mà sống hết những tháng ngày gian khổ của chiến tranh như thế. Nhưng dù có nghèo, có khổ thì người bà vẫn luôn hết lòng chăm lo cho đứa cháu của mình: “Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe/ Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học”.
Những ký ức về bà lớn dần, lớn dần lan tỏa sang cả nỗi nhớ làng quê, nhớ đất nước:
“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lũi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh:
Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”
Lời dặn dò “Mày viết thư chớ kể này kể nọ/ Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!” cho thấy hình ảnh của một người phụ nữ tần tảo, giàu tình thương. Dẫu trong hoàn cảnh nào bà vẫn kiên cường để làm điểm tựa tinh thần cho người cháu, làm hậu phương vững chắc cho người con chiến đấu ngoài chiến trường.
Từ những hình ảnh bếp lửa cụ thể, gắn liền với cuộc sống, lời thơ chuyển sang cái trừu tượng của “ngọn lửa” với những tầng nghĩa mới:
“Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn,
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”.
Ngọn lửa ở đây là ngọn lửa của tình yêu thương, của sức sống mãnh liệt, của tình yêu thương thầm lặng, của niềm tin vào tương lai đất nước. Điệp từ “một ngọn lửa” nối tiếp nhau đã tạo nên một nhịp thơ mạnh mẽ, chắc khỏe nhưng cũng rất lung linh và đủ sức làm ấm lòng người đọc.
Khổ thơ cuối là lời tâm sự, bộc bạch của đứa cháu đã lớn khôn. Dù khoảng cách có xa xôi bao nhiêu, dù cho “khói trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả” “Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở/ – Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?…”. Cháu luôn nhớ về bà bằng tất cả tình yêu thương, sự biết ơn và nỗi nhớ của mình.
Không phải ngẫu nhiên mà ngay từ khi vừa mới ra đời cho đến tận hôm nay “Bếp lửa” vẫn luôn có chỗ đứng riêng của nó. Bằng những hình ảnh chân thực cùng tất cả tình cảm chân thành Bằng Việt đã thật sự chạm đến trái tim người đọc qua từng câu, từng chữ của mình.
Tiếp theo, mời bạn xem nhiều hơn 🌹 Phân Tích Lặng Lẽ Sa Pa 🌹 15 Bài Văn Ngắn Gọn Hay Nhất
Phân Tích Bài Bếp Lửa Ngắn Nhất – Mẫu 6
Với bài văn mẫu phân tích bài Bếp lửa ngắn nhất dưới đây, các em học sinh có thể nhanh chóng ôn tập cho bài viết trên lớp.
Mỗi chúng ta ai mà chẳng có quê hương, ai mà chẳng có một thời đong đầy kỉ niệm để nhớ, để thương, để là động lực không ngừng phấn đấu. Nhà thơ Bằng Việt trong những năm tháng học tập xa nhà vẫn da diết nhớ quê hương, với khói bếp lửa cay nồng hun nhoè mắt, cùng người bà tần tảo sớm hôm nuôi dạy cháu. Tất cả những kí ức đẹp đẽ của tuổi thơ đó đã được tác giả dồn nén trong từng câu chữ qua bài thơ Bếp lửa.
Bếp lửa là bài thơ được in trong tập thơ Hương cây, bếp lửa, in chung cùng nhà thơ Lưu Quang Vũ. Có thể nói Bếp lửa là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Bằng Việt. Ông sáng tác bài thơ này vào năm 1963, khi đang học tập tại Liên Xô.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh ngọn lửa bập bùng cháy, ngọn lửa thực mà cũng chất chứa biết bao ý nghĩa:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa
Một khung cảnh đơn sơ mà hết sức thân thuộc hiện lên trước mắt người đọc. Ngọn lửa cháy bập bùng kia gợi nhắc biết bao nhớ thương, lòng biết ơn của người cháu xa xứ đối với bà. Hai từ “ấp iu” gợi lên hình ảnh đôi bàn tay tảo tần của bà ngày ngày nhen nhóm ngọn lửa, thức khuya dậy sớm chăm cho cháu từng miếng ăn giấc ngủ. Và để từ đó trong cháu vỡ òa cảm xúc thương yêu bà vô tận:
“Cháu thương bà biết mấy nắng mưa” .
Để rồi sau đó, biết bao kỉ niệm ùa về trong lòng nhà thơ, đó là những kỉ niệm mà tác giả chẳng thể quên. Về một nạn đói khủng khiếp đã cướp đi sinh mạng biết bao người dân Việt Nam:
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay
Khi mà hàng loạt người chết đói, thì bà vẫn kiên cường, tần tảo sớm hôm, cho cháu củ khoai, mót từng củ sắn, dành trọn miếng ăn cho đứa cháu vượt qua cơn đói cồn cào. Nỗi ám ảnh đó vẫn lần sâu trong tâm chí tác giả, cái đói ghê rợn ấy, mà giờ chỉ cần nghĩ lại sống mũi cháu đã cay.
Cái cay ấy không chỉ là mùi khói, mà cái cay ấy còn là những giọt nước mắt thương xót cho những nỗi cơ cực, vất vả mà bà phải trải qua, là giọt nước mắt tri ân với tấm lòng bà dành cho cháu. Chỉ cần có bà thì mọi giông bão ngoài kia bà cũng chở che để vượt qua, bảo vệ cho cháu.
Tám năm xa cha mẹ, Bằng Việt sống cùng bà, cũng là tám năm bà bên cháu bảo ban, nuôi dạy cháu nên người:
“Mẹ cùng cha công tác bận không về,
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”
Câu thơ mà thực như là lời kể lời giãi bày của tác giả, nhưng cũng chỉ cần có vậy thôi đã nói lên tấm lòng, sự tận tụy của bà đối với cháu. Bà đã trở thành người cha, người mẹ dạy cháu khôn lớn, nên người. Cấu trúc “ba-cháu” cho thấy sự gắn bó khăng khít giữa. Nếu không có bà ở bên có lẽ cũng sẽ không có cháu thành công, nên người của thời điểm hiện tại. Tác giả đã dồn hết lòng kính yêu, sự tôn trọng dành cho người bà của mình.
Sang đến khổ thơ tiếp theo, khung cảnh chiến tranh trở nên khủng khiếp hơn, khi giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi, để trơ trọi lại chỉ là những mảnh tro tàn. Nhưng bà không khuỵu ngã, mà vẫn vô cùng kiên cường, dưới sự giúp đỡ của hàng xóm dựng lại túp lều tranh cho hai bà cháu có chỗ trú mưa trú nắng.
Không chỉ vậy, sợ các con công tác ngoài chiến tuyến lo lắng, bà còn dặn trước Bằng Việt: “Bố ở chiến khu bố còn việc bố/ Mày có viết thư chớ kể này kể nọ/ Cứ bảo nhà vẫn được bình yên” . Những lời dặn dò ấy đã nói lên hết tấm lòng hi sinh cao cả của bà mẹ Việt Nam anh hùng.
Không chỉ chăm lo, bảo ban cháu, bà còn nhóm lên trong cháu những tình cảm thiêng liêng đẹp đẽ:
“Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,
Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui,
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ…
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”
Khổ thơ với điệp từ nhóm vang lên bốn lần, đã tạo nên một khung cảnh thiêng liêng, ấm cúng và đầy tình yêu thương. Bếp lửa ấy dạy cháu biết chia sẻ, yêu thương những người xung quanh, bếp lửa ấy giúp cháu sống có mơ ước, khát vọng, vun đắp mơ ước cho cháu. Cũng bởi vậy, mà Bằng Việt phải tốt lên : “Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa” . để khẳng định ý nghĩa vai trò của bếp lửa, hay chính của bà đối với cuộc đời mình.
Để rồi ngọn lửa của hơi ấm tình thương theo cháu đi muôn ngả, giúp cháu vươn đến thành công trong bước đường tương lai. Dù đã đi xa, đến những nơi đẹp đẽ, cuộc sống sung túc nhưng cháu vẫn không bao giờ quên hình ảnh bà, và vẫn tự nhắc nhở bản thân:
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
-Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?
Câu hỏi kết lại bài thơ như một lời nhắc nhở khắc khoải, khiến người đọc lưu giữ lại ấn tượng sâu đậm.
Bằng ngôn từ mộc mạc, giản dị và tràn đầy cảm xúc Bằng Việt đã bày tỏ tấm lòng biết ơn sâu sắc đối với bà. Đồng thời với bài thơ này cũng gửi gắm thông điệp về ý nghĩa tầm quan trọng của gia đình đối với mỗi người. Chúng ta phải nâng niu, trân trọng tình cảm thiêng liêng, cao quý ấy.
Không chỉ có phân tích bài thơ Bếp lửa, gợi ý cho bạn ☔ Phân Tích Bài Thơ Con Cò ☔ 15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Phân Tích Bài Thơ Bếp Lửa Chi Tiết – Mẫu 7
Đón đọc bài văn mẫu phân tích bài thơ Bếp lửa chi tiết dưới đây để nắm được nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
Nhà thơ Bằng Việt sinh ngày 15/06/1941, quê ông thuộc xã Chàng Sơn, Thạch Thất, Hà Nội. Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Ông là cây bút tài năng có nhiều đóng góp cho nền thi ca của dân tộc. Sự nghiệp sáng tác của ông phong phú và dồi dào với rất nhiều các tác phẩm có giá trị. Thơ Bằng Việt thiết tha, mượt mà và trong trẻo. Nhiều áng thơ đã khai thác tối đa những kỷ niệm cùng mơ ước của tuổi trẻ.
Bài thơ Bếp Lửa được sáng tác vào năm 1963 khi Bằng Việt 19 tuổi và đang đi du học Liên Xô. Trong nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương, nhớ người bà của mình da diết, những ý thơ tự nhiên ngọt ngào và bình dị ấy cứ tuôn chảy để rồi tạo nên một thi phẩm đặc sắc. Bếp lửa đã gợi lên những kỉ niệm đầy xúc động về tình cảm bà cháu, về những năm tháng nhọc nhằn trong kí ức của nhà thơ, từ đó khéo léo bộc lộ tình yêu quê hương đất nước.
Hình ảnh về bếp lửa quê nhà đã khơi nguồn cảm xúc cho thấy đó là những kỉ niệm quen thuộc, gần gũi, thân thương. Phân tích bài thơ Bếp lửa, chúng ta mới thấy được hết những ý nghĩa lớn lao của hình tượng thân thuộc này. Với dáng hình tảo tần khuya sớm của bà cũng là tình cảm sâu đậm bà dành cho cháu đã hiện lên rõ nét qua những vần thơ:
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.”
Hình ảnh khói bếp hiện lên chập chờn cùng mảng kí ức thăm thẳm trong tâm hồn của nhà thơ. Bà đã thắp lên bếp lửa, ánh sáng tuổi thơ được thắp lên và tỏa sáng lung linh trong kí ức của đứa cháu nhỏ. Bếp lửa đó phải chăng chính là bếp lửa của cuộc đời bà đã trải qua biết mấy nắng mưa?
Phân tích bài thơ Bếp lửa là cảm nhận về tình bà cháu sâu đậm được thể hiện qua từng lời thơ. Đó là những buổi sớm khi sương mai còn đọng trên những nhành cây, hình ảnh bếp lửa ấm áp đã được bà thắp lên tự khi nào. Từ láy “chờn vờn” kết hợp cùng động từ “ấp iu” được đặt ở giữa câu đã cho thấy sự vất vả khuya sớm, sự lam lũ chăm chỉ ở người bà của tác giả.
Cả một tuổi thơ tràn ngập kí ức có bếp lửa, có hình ảnh về người bà chịu thương chịu khó. Động từ “thương” cùng tính từ nắng mưa ở cuối câu thơ đã cho thấy nhà thơ yêu mến người bà biết bao để rồi phải thốt lên những tình cảm da diết ấy. Khoảng cách của không gian dù là nửa vòng trái đất nhưng nhà thơ vẫn cảm nhận được sự yêu thương, vỗ về từ đôi bàn tay khéo léo và kiên nhẫn của bà. Phân tích bài thơ Bếp lửa, người đọc không khỏi xúc động với những dòng thơ dung dị mà ngập tràn cảm xúc này.
Trong cái khoảnh khắc nhớ nhà, nhớ quê hương ấy, trong lòng Bằng Việt lại trào dâng một tình yêu thương vô hạn với người bà của mình. Những khổ thơ tiếp theo là dòng hồi tưởng của Bằng Việt về những năm tháng sống bên bà gắn liền với hình ảnh bếp lửa.
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói, hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”
Những câu thơ dung dị, nhẹ nhàng như lời thủ thỉ tâm tình. Câu chuyện tuổi thơ với nhiều kỉ niệm cùng bà như được giãi bày bởi lối kể tự nhiên. Câu chuyện tuổi thơ ấy không chỉ có bà Tiên, có phép màu, mà còn là hình ảnh về bà và bếp lửa yêu thương. Đến đây, chúng ta thấy xúc động biết bao.
Trong cái nạn đói ghê rợn của năm 1945, những ngày nghèo đói, vất vả thì chính bà là người đã gắn bó với nhà thơ, xua bớt đi cái không khí của nạn đói ấy. Mùi khói bếp đã trở thành một phần kí ức của đứa cháu nhỏ. Đứa trẻ lên 4 ấy đã sống trong tình yêu thương, che chở của bà. Ngọt ngào ký ức đan quyện mùi khói – kí ức có bà, có mái bếp ấm nồng tình thân.
Với câu thơ “Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi”, người đọc mới nhận thấy sự thiếu thốn khó khăn thời điểm bấy giờ. Tất cả những kí ức ấy còn sống mãi, hiển hiện trong kí ức của đứa cháu 4 tuổi và của cả người con xa nhà. Những kí ức ấy dù năm tháng trôi qua có ít nhiều làm vơi đầy kỉ niệm, nhưng khi nghĩ lại thì sống mũi vẫn còn cay. Ở đây, là nhớ nhung, là kí ức về mùi khói làm cay mắt cháu hay chính là tấm lòng của người bà dành cho cháu khiến người cháu rưng rưng xúc động?
“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm bếp
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!”
Hai bà cháu cùng nhóm lửa, nhóm lên tình yêu và sự sống, nhóm lên niềm hy vọng mà bà dành cho đứa cháu bé bỏng, hồn nhiên. Hình ảnh chim tu hú hiện lên qua sự liên tưởng từ khói bếp. Khi phân tích bài thơ Bếp lửa, người đọc dễ dàng nhận thấy, từ “tu hú” được điệp lại 3 lần trong cùng một đoạn thơ làm cho âm điệu vần thơ trở nên bồi hồi và khiến người đọc cảm thấy như tiếng tu hú đang từ xa vọng về trong tiềm thức của tác giả. Lúc mơ hồ, lúc văng vẳng da diết từ cánh đồng xa khiến người đọc không khỏi khắc khoải.
Dòng kỉ niệm của nhà thơ cũng vì thế mà như dài hơn, rộng hơn cái không gian sâu thẳm của nỗi nhớ nhà:
“Mẹ cùng cha bận công tác không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe”
Kí ức tuổi thơ của cháu gắn liền với hình ảnh tảo tần của bà, với khói đượm từ bếp lửa. Mẹ cha bận công tác, cháu ở cùng bà, bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học… Tám năm ròng, đất nước chiến tranh, đói khổ cùng cực. Sự thiếu thốn ấy dường như lại khiến kí ức ngọt ngào bên bà tăng lên gấp bội. Trong cái khói bếp mờ ảo chập chờn ấy, hình ảnh bà hiện lên như trong câu chuyện cổ tích huyền ảo.
Ta nhận thấy tình bà cháu là vô cùng thiêng liêng và quý giá với tác giả. Tình yêu thương vô bờ mà bà đã dành cho cháu đã trở thành điểm tựa, là chỗ dựa tình thần lớn lao. Bởi vậy, đến khi xa bà, nhà thơ Bằng Việt lại càng thương bà hơn, biết ai sẽ cùng bà nhóm lửa?
“Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà”
Câu thơ như lời tự trách nhẹ nhàng và sâu sắc. Nhân xưng bà và cháu hiện lên nhiều lần trong cùng một đoạn thơ cho thấy hai bà cháu luôn gắn bó, sóng đôi, quấn quýt.
“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:
“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”
Những kỉ niệm tuổi thơ tiếp tục hiện lên trong kí ức của tác giả khi ta phân tích bài thơ Bếp lửa. Đó là dòng hồi tưởng với sự khốc liệt của chiến tranh. “Cháy tàn cháy rụi”, “lầm lụi” những cụm từ được đặt cuối câu càng nhấn mạnh hơn sự tàn phá của chiến tranh lúc bấy giờ. Để rồi, nhà thơ tiếp tục bộc bạch thổ lộ về người bà của mình. Túp lều tranh nhỏ hai bà cháu cùng dựng lên. Dù đói khổ bà vẫn luôn dặn cháu vững tin, an lòng, nhớ kể bình yên khi viết thư cho bố để nơi xa bố yên tâm đánh giặc.
Khổ thơ tiếp theo là những suy nghĩ của người cháu về cuộc đời cả bà. Hình ảnh bà hiện lên không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa – ngọn lửa của sự sống và niềm tin. Bếp lửa ấy không chỉ được nhóm lên bằng củi khô rơm rạ, mà còn được nhóm lên trong lòng bà. Trong những dòng thơ tiếp theo là những biết ơn, là niềm tự hào nhà thơ dành cho người bà giàu đức hi sinh và tảo tần của mình.
“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,
Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui,
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ…
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”
Đôi tay gầy guộc ấy đã chống đỡ biết bao nắng mưa, đã nuôi dưỡng cháu, đã nhóm lên ngọn lửa của tình yêu và hy vọng bằng cả tấm lòng đôn hậu của bà. Hình ảnh về người bà là đại diện tiêu biểu cho những phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ Việt. Phân tích bài thơ Bếp lửa, người đọc không khỏi nghẹn ngào bởi sự hy sinh, sự tảo tần “lận đận” mưa nắng của người bà.
Thói quen dậy sớm để nhóm lửa, nhóm khoai sắn, nhóm lên những ngọt bùi yêu thương. Biết bao những suy tưởng sâu sắc, biết bao nhiêu tâm tình tuổi nhỏ đã được nhen nhóm từ hình ảnh bếp lửa. Để rồi nhà thơ Bằng Việt phải thốt lên “Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa”. Những câu thơ như bản tình ca ấm áp về tình bà cháu thiêng liêng. Điệp từ “nhóm” được lặp lại bốn lần trong khổ thơ mang một ý nghĩa lớn lao mà chỉ khi phân tích khổ thơ này, ta mới có thể cảm nhận sâu sắc.
Bà là người đã thắp lên sự sống, xua đi khổ cực của cuộc đời. Đồng thời, bà cũng là người đã nhen nhóm thắp lên trong cháu nhiều mơ ước, thắp lên ngọn lửa của niềm tin. Mai này dù trưởng thành, cháu vẫn luôn nhớ khôn nguôi:
“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu,
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?”
Trong đoạn cuối bài này, chúng ta thấy nhà thơ đang đúc rút gói gọn lại trong nỗi thương nhớ ấy là tất cả sự biết ơn và kính trọng đối với người bà của mình. Đã bao năm trôi qua rồi, cháu giờ đang sống nơi xa, ở một khung trời mới mà chưa một lần quên đi hình dáng của bà bên bếp lửa thân thương. Có biết bao niềm vui ở một nơi hạnh phúc, nhưng nào bằng được nỗi nhớ thương của cháu về bà với nỗi nhớ nhà nhớ quê hương.
Câu thơ cuối cùng đọng lại đầy ám ảnh trong lòng bạn đọc “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”. Cả một miền xúc cảm nghẹn ngào từ một khung hình kỉ niệm, từ một miền trời thương nhớ. Nơi miền kí ức ấy có dáng hình lam lũ tảo tần của bà, có tiếng tu hú, có những cánh đồng, có những túp lều và cả những gian khổ mà hai bà cháu đã cùng nhau vượt qua.
Bếp lửa của Bằng Việt là những lời thơ dạt dào và chứa chan cảm xúc.
Bài thơ chính là những kí ức của tác giả bên người bà kính yêu của mình. Bài thơ đã giúp người đọc thấm thía được nỗi nhớ nhung da diết của nhà thơ phương xa về người bà, về quê hương yêu dấu. Từ đó giúp chúng ta trân trọng, yêu thương hơn tình cảm với gia đình, với người thân.
Đón đọc tuyển tập 🌳 Phân Tích Bài Thơ Nói Với Con 🌳 14 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Phân Tích Tác Phẩm Bếp Lửa Đầy Đủ – Mẫu 8
Chia sẻ dưới đây bài văn mẫu phân tích tác phẩm Bếp lửa đầy đủ để các em học sinh cùng tham khảo:
Thuở ấu thơ, lớn lên trong chốn làng quê nghèo khó, thường lưu lại trong lòng mỗi đứa trẻ nhiều kỷ niệm khó quên. Đó có thể là gốc đa, giếng nước, hay những hôm đợi mẹ, đợi bà đi chợ về cho cái kẹo bột, cái bánh rán phủ đường. Đặc biệt đối với những con người phải xa quê hương, xa gia đình thì nỗi nhớ mong về quá khứ lại càng sâu sắc hơn cả. Trong trái tim người đi xa lúc nào cũng có một nỗi niềm mong nhớ về quê cũ, như trong Bếp lửa ấy là nỗi nhớ bà và bếp lửa hồng hồng ấm áp bà nhen mỗi sớm chiều.
Bằng Việt sinh năm 1941, quê ở Hà Tây (Hà Nội ngày nay), ông là một trong những nhà thơ trẻ trưởng thành trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ. Phong cách thơ ông giàu tính suy tưởng, triết lý, trong sáng và gắn liền với tuổi trẻ, đặc biệt là tầng lớp sinh viên.
Bếp lửa được sáng tác vào năm 1963, khi Bằng Việt còn là lưu học sinh đang du học tại Liên Xô cũ. Trong cái nỗi nhớ thương về người bà đã nuôi nấng mình từ thuở ấu thơ, Bằng Việt đã vết bài thơ để thể hiện những ân tình, ân nghĩa sâu nặng.
Trước hết là đối với người bà tần tảo, lam lũ giàu đức hi sinh vô cùng thiêng liêng cao cả của mình, đồng thời thể hiện lòng yêu thiết tha đối với cội nguồn, đối với quá khứ, với quê hương đất nước, với gia đình và làng xóm của mình. Bài thơ được in trong tập Hương cây – Bếp lửa, tập thơ in chung với Lưu Quang Vũ, xuất bản năm 1968.
Toàn bộ tác phẩm là thế gới của kỷ niệm, là những dòng hồi tưởng thiết tha của Bằng Việt về tuổi ấu thơ của mình, về hình ảnh người bà thân yêu bên cạnh bếp lửa.
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa!”
Mở đầu bài thơ là hình ảnh bếp lửa, đây là hình ảnh khơi nguồn nên mạch cảm xúc củ tác giả, là hình ảnh trung tâm gắn liền với hình ảnh người bà thân yêu của nhà thơ. Tuy được viết trong hiện tại, nhưng hình ảnh bếp lửa ở đây là hình ảnh trong quá khứ, trong những năm tháng của tuổi ấu thơ hiện về, đang sống dậy đang tỏa sáng lung linh trong tâm hồn của tác giả.
Từ láy “chờn vờn”, gợi được hình ảnh của một ngọn lửa đang nhảy nhót, vui mừng trong sương sớm, lại cũng vừa thể hiện được cái hình ảnh bếp lửa in đậm trong nỗi nhớ khôn nguôi của đứa cháu, nỗi nhớ da diết về bà. “Một bếp lửa ấp iu nồng đượm” nó thể hiện được cái khéo léo, kiên nhẫn, cái tháo vát đảm đang tần tỏa của người bà, phải nhen ngọn lửa lên từ khi còn rất nhỏ, chăm chút, che chắn từng ngọn gió, ấp ủ bằng tất cả tấm lòng để nó được “nồng đượm” trong sương sớm, trong tâm trí của đứa cháu mãi về sau này.
Từ những kỷ niệm về bếp lửa, tác giả đã bộc lộ cái nỗi lòng của đứa cháu đối với bà. Chỉ một chữ “thương” thôi mà ẩn giấu biết bao nhiêu tình cảm, lòng yêu thương, bao nhiêu sự biết ơn và lòng trân trọng của đứa cháu đối với bà. Dù đứa cháu ấy bây giờ đã lớn, đã trưởng thành, đã rời xa vòng tay, rời xa bếp lửa ấm áp của bà. Chi tiết “biết mấy nắng mưa” đã gợi lên bao nhiêu thời gian đã trôi qua, gợi nên cái lam lũ, vất vả của cuộc đời bà.
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi,
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy,
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”
Những hình ảnh, những kỷ niệm thuở ấu thơ hiện lên như một thước phim quay chậm, rất sống động, sâu sắc qua từng mốc thời gian. Bắt đầu là những kỷ niệm khi người cháu có nhận thức, đó là “Lên 4 tuổi cháu đã quen mùi khói”. Điều đó chứng tỏ cháu đã biết bao nhiêu lần cùng bà nhóm lửa, mùi khói đã trở thành một mùi hết sức thân quen, gắn liền với cuộc đời với nỗi nhớ, gắn liền với tâm trạng của đứa cháu này.
Khói là một mùi vị bình dị, thân thuộc với cuộc sống, nếu bình thường sẽ chẳng ai để tâm tới, nhưng đối với Bằng Việt đối với ký ức của một đứa trẻ lên 4 lại trở thành một nỗi nhớ tha thiết không nguôi, lại trở thành một thứ được trân trọng gìn giữ trong tâm hồn. Ngoài mùi khói, tác giả còn nhớ đến những kỷ niệm khác, là những ngày khó khăn vất vả nhất của hai bà cháu.
Đó “năm đói mòn đói mỏi”, nạn đói năm 1945 đã hằn sâu và trong ký ức của tác giả, cái đói quấn quýt lấy từng người đến mòn mỏi, sự sống trở nên hữu hạn, héo hắt vô cùng. Nhưng người cháu nhỏ nhớ nhất vẫn là hình ảnh “khói hun nhèm mắt cháu”, mà cho đến tận bây giờ, người cháu dường như vẫn cảm nhận được cái cay cay vì hít phải khói. Ngoài ra cái “cay” ấy còn là nỗi lòng xót xa của tác giả khi nhớ về những năm tháng ấu thơ nghèo đói, về sự nhọc nhằn của bà, của bố.
“Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà?
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế.
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
Mẹ cùng cha công tác bận không về,
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học,
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”
Khi lớn hơn một chút, bố mẹ đều đi xa tham gia vào kháng chiến, tác gỉa đã có 8 năm sống cùng bà, được bà chăm sóc nuôi nấng. Nó cứ chảy trôi trong dòng hồi tưởng cảu Bằng Việt, thật êm đềm và nhiều cảm xúc. “Tám năm ròng” thể hiện một khoảng thời gian vô cùng, vô cùng dài, trong khoảng thời gian thật dài ấy, trước hết bà đã dạy cho cháu biết nhóm lửa, ngọn lửa của niềm tin, của sự sống, của ấm áp tình thân.
Ngọn lửa ngày ngày cháu cùng bà nhen nhóm đã trở thành một ký ức sâu sắc trong tâm trí nhà thơ, trở thành mạch cảm xúc chính cho cả tác phẩm. “Tiếng tu hú” kêu vang vọng trên khắp cánh đồng xa, trở đi trở lại trong cả đoạn thơ tới ba lần vừa khắc khoải vừa tha thiết. Gợi ra không gian xa rộng trên những cánh đồng xa, rồi lại gợi lên cảnh căn nhà tranh nghèo khó bên bếp lửa nồng đượm. Tiếng chim ấy còn gợi về biết bao kỷ niệm nơi tâm hồn của người bà bình dị lam lũ tảo tần.
Bà thường kể cho cháu nghe những chuyện ở Huế và những câu chuyện ấy cứ sống mãi trong tâm trí của người cháu, của Bằng Việt. Giọng thơ như tâm tình, như thủ thỉ với bà mang lại cảm giác thật ấm áp, gần gũi. Dường như khoảng cách giữa bà và cháu chẳng phải là nửa vòng trái đất mà là cháu đang bên bà cùng bà nhóm lửa.
“Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà/Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa”, câu thơ như có sự ái ngại, xót thương cho chút chim bé bỏng sao không được ở cùng bà, để được bà nâng niu, chăm sóc mà phải lang bạt kêu tha thiết trên những cánh đồng vô tận. Cháu ở cùng bà, được bà dạy dỗ, chăm chút, bảo ban thật ân cần, bà đã thay bố thay mẹ cháu nuôi nấng cháu bằng tất cả những tình thương.
Bà không chỉ là chăm sóc cho đứa cháu của mình, mà còn góp phần nuôi dạy thế hệ tương lai, đảm bảo hậu phương vững chắc cho những người đi xa được yên tâm kháng chiến, với một niềm tin dai dẳng sau này đất nước được độc lập, tự do. Hơn thế nữa hình ảnh của đứa cháu cũng hiện lên rất hiếu thảo, rất ngoan ngoãn, chịu thương chịu khó. Cháu tuy nhỏ nhưng đã hiểu được nỗi vất vả của bà, không muốn bà phải nhọc lòng hơn nữa.
“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:
“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”
Lời thơ mở ra những kỷ niệm về sự mất mát đau thương mà kẻ thù đã gây ra cho dân tộc cho đất nước, cho cả ngôi làng quê bé bỏng của nhà thơ. Lời thơ cũng gợi nên nỗi căm phẫn trước tội ác của kẻ thù, “Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi” là một kỷ niệ đau xót mãi nhói lên trong lòng của nhà thơ. Nhưng cũng trong tình cảnh lầm than ấy, thì hình ảnh của người bà và bếp lửa vẫn nổi bật lên.
Trước cảnh hàng xóm bốn bên đều lầm lụi, vật vã thì người bà kiên cường lại một tay dựng lại túp lều tranh, còn đinh ninh dặn cháu không được cho cha mẹ biết. Bởi bà không muốn vì chuyện nhà con cái của mình lo lắng, không tập trung chiến đấu, bà luôn vững vàng mạnh mẽ như vậy, luôn là hậu phương vững chắc cho những người đi xa.
“Rồi sớm rồi chiều, lại bếp lửa bà nhen,
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn,
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…”
“Rồi sớm rồi chiều” gợi lên một khoảng thời gian lặp đi lặp lại, ngày ngày sớm chiều bà nhóm lửa, chẳng thiếu hôm nào. Đó không phải là một công việc bình dị hằng ngày mà nó còn là một hành động rất kiên nhẫn, bền bỉ và tảo tần của người bà. Ngọn lửa bà hằng nhen không chỉ là ngọn lửa đang bập bùng mỗi sớm chiều mà nó còn là ngọn lửa bà luôn ủ sẵn trong lòng mình.
Là hiện diện của niềm tin dai dẳng, tin vào một ngày mai đất nước được bình yên, con cái lại trở về sum họp, đứa cháu của bà lớn khôn, tài giỏi, là niềm tin về một cuộc sống tuơi đẹp hơn. Hình ảnh người bà trong thơ Bằng Việt không chỉ là người nhóm lửa, người giữ lửa mà còn là người truyền lửa, ấy là ngọn lửa niềm tin đầy lạc quan về sự sống cho người cháu, cho những thế hệ trẻ thơ.
Sau rất nhiều những hồi tưởng của cảm xúc của kỷ niệm, nhà thơ bắt đầu đi đến những suy tư về người bà của mình.
“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,
Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui,
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ…
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”
Lời thơ nổi lên với mạch suy tư kết hợp với mạch cảm xúc rất nhuần nhuyễn. Câu “Lận đời bà biết mấy nắng mưa/Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ”, vừa bộc lộc cảm xúc của Bằng Việt vừa thể hiện những suy tư của tác giả về người bà của mình. Từ láy”Lận đận” được đảo lên đầu câu đã nhấn mạnh cái nỗi vất vả lam lũ, cái chịu thương chịu khó trong cuộc đời của người bà, bà chẳng quản ngại nắng mưa. Bà là người phụ nữ rất tần tảo, chăm chỉ bà quen dậy sớm, đã mấy chục năm chưa bao giờ đổi.
Bà quen nhóm bếp sáng chiều, từ bếp lửa hồng ấy, bà đã nấu những bữa ăn tuy giản dị khoai sắn, nhưng đầy ắp tình thương yêu, chia sẻ ngọt bùi, nắng mưa cùng chịu. Ngọn lửa của bà tuy thân thuộc và binh dị, nhưng nó lại nhen vào lòng đứa trẻ là tác giả những kỷ niệm khắc sâu, những niềm tin dai dẳng về sự sống, về tình thương trong gia đình. Chính vì ngọn lửa của bà mang nhiều ý nghĩa triết lý như vậy nên nhà thơ đã phải cảm thán một câu thật sâu sắc để ca ngợi bếp lửa ấy: “Ôi kỳ lạ và thiêng liêng bếp lửa!”.
“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu,
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
-Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?…”
Quay trở về với thực tại, nhà thơ tuy đã đi xa, đã nhìn thấy biết bao nhiêu ngọn khói, bao nhiêu bếp lửa và bao nhiêu niềm vui khác. Nhưng tất cả cũng chẳng thể nào xóa nhòa đi cái ký ức đẹp đẽ, gian khổ đã khắc sâu vào lòng tác giả. Nhà thơ băn khoăn một nỗi niềm suy tư tha thiết: “Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?”.
Cháu đi xa biền biệt tin của bà, nỗi nhớ thương khắc khoải cứ hằn lên trong tâm trí, cháu nhớ bà nhớ cả ngọn lửa của bà nữa, chẳng biết liệu bà có còn khỏe mạnh, còn dậy sớm nhen bếp như khi cháu còn ở nhà không. Câu hỏi ấy là lời tâm tình, là sự lo lắng, là nỗi nhớ sâu sắc mà cháu dành cho bà ở một nơi cách xa nửa vòng trái đất.
Bếp lửa là thế giới của nỗi nhớ, là dòng kỷ niệm thiết tha là mạch hồi tưởng, suy ngẫm của một đứa cháu đã trưởng thành về kỷ niệm của một thời ấu thơ. Qua đó Bằng Việt bộc lộ niềm xúc động lòng tri ân sâu nặng đối với người bà tảo tần, lam lũ, kiên cường, bền bỉ, chịu thương chịu khó. Không những thế nhà thơ còn thể hiện lòng kính yêu trân trọng, biết ơn của một người cháu đối với bà, đối với đất nước, đối với quê hương, gia đình.
Ngoài phân tích bài thơ Bếp lửa, gợi ý cho bạn ☔ Phân Tích Bài Thơ Sang Thu Của Hữu Thỉnh ☔ 15 Bài Hay
Bếp Lửa Phân Tích Nâng Cao – Mẫu 9
Tài liệu văn Bếp lửa phân tích nâng cao dưới đây sẽ mang đến cho các em học sinh những ý văn hay và đặc sắc.
Tình yêu thương, lòng biết ơn và ký ức tuổi thơ luôn là hành trang quý giá nâng bước chân ta vào đời. Ai cũng có thể cảm nhận được niềm hạnh phúc trong vòng tay che chở của mẹ, sự ấm áp của tình cha. Nhưng, cuộc sống của chúng ta sẽ trọn vẹn và giàu ý nghĩa hơn nếu tuổi thơ chúng ta có một người bà để yêu quý bà và được bà yêu quý.
Bắt nguồn từ cảm xúc ấy, bài thơ Bếp lửa được sáng tác, khi nhà thơ Bằng Việt còn là sinh viên đang du học tại Liên Xô. Bài thơ là nỗi nhớ nhung về người bà yêu quý với những kỷ niệm trong sáng của tuổi thơ.
Có lẽ vào một buổi sáng tinh mơ se lạnh nơi xứ lạ, người cháu chợt nhìn thấy đâu đó bếp lửa nhà ai hửng lên trong làn sương sớm, hay đây là một hình ảnh thức dậy trong tâm trí nhà thơ:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Hai câu thơ, hình ảnh bếp lửa lặp đi lặp lại 2 lần, giọng thơ thiết tha, sâu lắng! Hình ảnh đó chắc quen thuộc lắm, cháu từng gắn bó với nó lắm, nhưng đã xa, lâu rồi không nhìn thấy nên bây giờ gặp lại mới bâng khuâng, xúc động đến thế !
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.
Thì ra bếp lửa gợi lên hình ảnh thân thương. Cuộc đời bà gắn liền với bếp lửa thân quen. Đây là cách nói hoán dụ: Nói đến bếp lửa là liên tưởng đến bà, và ngược lại. Vậy là trong tuổi thơ của cháu, hình ảnh bà hằng ngày cặm cụi nhóm bếp thổi cơm đã khắc sâu trong tâm trí. Hình ảnh bếp lửa còn mang sắc thái ẩn dụ. Từ láy chờn vờn tả thực ngọn lửa nhỏ, run rẩy trong gió sớm, gợi nhớ vóc dáng gầy guộc, mong manh của bà.
Những tính từ ấp iu, nồng đượm khiến người đọc có thể hình dung sắc đỏ nồng nàn của ngọn lửa nhưng không gợi cảm giác thiêu đốt mà đem đến cảm giác dịu dàng, thư thái như sưởi ấm giữa mùa đông. Có phải đó là tấm lòng yêu thương của bà luôn ấp ủ, chắt chiu cho con cháu?
Cụm từ biết mấy nắng mưa đã gợi ra phần nào cuộc đời vất vả lo toan của bà. Chỉ với 3 câu thơ, ta thấy trong nỗi nhớ nhung hiện lên chân dung một người bà bình dị và nhân hậu biết bao!
Nỗi nhớ khơi nguồn cho những dòng hồi tưởng, mở ra một loạt ký ức yêu thương về một thời thơ ấu:
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Bốn tuổi là lứa tuổi còn chưa đi mẫu giáo, nhưng trong trí khôn non nớt mới hình thành, cháu đã có bà trong tâm trí. Mùi khói vừa tả thực vừa mang ý nghĩa ẩn dụ. Đó là mùi khói bếp cay cay, hay đó là hơi hướng thân thuộc của bà?
Chao ôi, tuổi thơ của cháu thật nhiều ý nghĩa vì được sống bên bà, dù tuổi thơ ấy có bóng đen ghê rợn của nạn đói 1945. Nhưng câu thơ đầy ám ảnh:
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Cụm từ đói mòn đói mỏi không chỉ khắc sâu cảnh gian khổ, thiếu thốn, nhọc nhằn mà còn nhấn mạnh sự chịu đựng bền bỉ của con người. Hình dạng chú ngựa khô rạc còm cõi, tội nghiệp, dễ khiến ta hình dung đến vẻ hốc hác, trầm lặng, khắc khổ của người đánh xe. Hình ảnh chú ngựa gầy giơ xương đã nói lên tất cả. Sức ngựa đã mòn, hẳn sinh lực con người cũng rất tệ.
Cháu nhớ hết, nhưng tại sao lại chỉ nhớ khói? :
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!
Sức trai tráng của bố dường như cạn kiệt, huống chi bà già yếu, mong manh? Có lẽ bà tiều tụy nhiều lắm, thương lắm, chịu đựng lắm! Tác giả không kể ra những nhọc nhằn, kham khổ. Chỉ biết ký ức ấy không bao giờ phai nhạt, đến nỗi nghĩ lại còn đau xót ngậm ngùi. Có thể hình dung trong gia đình ba thế hệ ấy, bà là người mong manh nhất nhưng mạnh mẽ nhất, quan trọng nhất. Dường như bà không gục ngã, thì con cháu cũng không thể gục ngã. Bà của cháu nhẫn nại, kiên cường biết bao!
Dấu ấn sâu sắc nhất là những năm tháng bố mẹ công tác xa, hai bà cháu âm thầm đùm bọc, cưu mang nhau:
Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà?
Tiếng chim tu hú từ xa xăm vẳng lại có thể nghe thấy được, chứng tỏ âm thanh đó đã bay qua những không gian mênh mông, vắng lặng. Âm thanh ấy không làm cho cảnh vật vui lên mà càng gợi lên cảm giác vắng vẻ, quạnh hiu. Tác giả như tách khỏi dòng hồi tưởng, như đang trò chuyện cùng bà: Bà còn nhớ không bà? Bởi chỉ có hai bà cháu mới hiểu hết ý nghĩa của âm thanh ấy. Tiếng chim tu hú phải da diết, khắc khoải lắm, nên cháu khó quên và bồi hồi xúc động khi nhớ lại.
Có lẽ khi tiếng chim tu hú từ xa vọng lại, hai bà cháu mới cảm nhận rõ rệt nhất sự thiếu vắng trong ngôi nhà của mình. Đứa trẻ nào không khao khát tiếng nói của cha, hơi ấm của mẹ? Người bà nào chẳng ước mong tuổi già có con cháu quây quần bên cạnh? Vì hoàn cảnh chiến đấu, bố mẹ công tác xa không về, bà nuôi cháu trong trống vắng, quạnh hiu.
Những lúc tiếng chim kêu khắc khoải như vậy, bà thương cháu nên hay kể chuyện để vỗ về cháu và có lẽ để chính mình khuây khỏa. Những năm tháng ấy, bà thực vừa là bà, vừa là mẹ, là cha của cháu:
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Hàng loạt động từ được liệt kê: bà bảo, bà dạy, bà chăm. Cháu được dạy dỗ, chăm chút trong tình yêu thương của bà. Con đi xa, bao nhiêu yêu thương bà dành hết cho đứa cháu nhỏ. Cháu cũng cảm nhận được tình yêu thương đó và thấu hiểu nỗi vất vả của bà. Trong trai tim ngây thơ, cháu thầm trách chim tu hú sao chẳng đến ở cùng bà cho vui nhà vui cửa, cho bà vợi bớt nhớ mong.
Điệp từ bà, cháu lặp đi lặp lại, góp phần diễn tả cảnh bà cháu quấn quýt không rời. Dù thiếu vắng sự chăm sóc của mẹ cha nhưng tình yêu thương của bà đã bù đắp tất cả. Cháu thật diễm phúc khi có một người bà như thế!
Kỷ niệm về bà không chỉ là những ngày tháng dẫu gian nan nhưng êm đềm vì có bà bên cạnh. Cũng có lúc đau buồn đến tuyệt vọng:
Năm giặc đốt làng cháy tàn, cháy rụi.
Ai đã từng chứng kiến sự tàn phá của chiến tranh, cảnh ngôi nhà thân yêu đổ nát tan hoang, mới cảm nhận được nghị lực phi thường trong lời nói bình thản, giản dị của bà:
“Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”
Không một giọt nước mắt, bà giấu nỗi đau thương để luyện cho cháu một tình cảm cao hơn. Hình ảnh người bà đã vượt ra khỏi tình cảm bà cháu thông thường, mà vươn đến một tình cảm rộng lớn hơn: Lặng lẽ hi sinh, chia sẻ với chiến trường! Những năm chiến tranh ròng rã ấy, bà âm thầm nhóm lửa, giữ lửa:
Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng.
Bà cùng cháu nhóm lửa, giữ lửa để sống, để chờ đợi ngày chiến thắng, ngày sum họp. Đến đây, bếp lửa cụ thể đã biến thành ngọn lửa trừu tượng. Đó là ngọn lửa trong lòng bà, ngọn lửa của sức sống, của niềm tin! Như ngọn lửa, tấm lòng của bà, đức hi sinh tần tảo của bà đã truyền cho cháu ý chí và nghị lực phi thường.
Mấy chục năm rồi, ngọn lửa ấy vẫn tỏa hơi ấm từ đôi tay chắt chiu, chịu thương chịu khó của bà:
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu , nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Từ vẫn khẳng định sự bền bỉ sắt son. Bà vẫn thế, trước sau như một, giàu đức hi sinh, lòng thương yêu ấp iu, nồng đượm. Những điểm sáng của khổ thơ này lại là tình cảm chan hòa với cuộc đời, với mọi người. Từ củ khoai, nồi xôi gạo mới bà nấu, bà dạy cháu biết sẻ chia, biết sống yêu thương, có thủy có chung, có tình làng nghĩa xóm. Có lẽ bà cũng không hề hay biết, bà là người đã Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ của đứa cháu cưng! Là điều gì vô cùng thiêng liêng và kỳ diệu trong cuộc đời cháu:
Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!
Điệp từ nhóm lặp đi lặp lại ở đầu mỗi câu thơ, tạo âm điệu mỗi lúc một mạnh hơn, tha thiết hơn. Khẳng định một suy gẫm giản đơn mà sâu sắc: Những gì thân thiết với tuổi thơ đều có sức tỏa sáng, nâng đỡ con người trong suốt hành trình dài rộng của cuộc đời! Bà là người truyền lửa, truyền cho cháu tình yêu thương và những phẩm chất tốt đẹp. Có một người bà như thế, đứa cháu nào chẳng ngoan ngoãn, nên người!
Vậy đó, hình ảnh bếp lửa còn mãi tỏa sáng trong tâm hồn đứa cháu xa nhà:
Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?
Bằng cách nói hoán dụ, những hình ảnh ngọn khói, con tàu, ngọn lửa, ngôi nhà… kết hợp với điệp từ trăm, diễn tả cảnh xa hoa, hiện đại nơi xứ người. Cháu đã lớn khôn, được đi đây đi đó, tầm mắt được mở rộng, được thấy nhiều thứ, có nhiều niềm vui mới mẻ. Nhưng không lúc nào cháu quên nguồn cội: Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?
Bài thơ sáng tác khi tác giả đang học ở Liên Xô, nơi có nhiều bếp ga, bếp điện. Nhưng người cháu không quên bếp lửa quê nhà. Nhớ đến bếp lửa là nhớ đến bà. Nhớ đến bà là nhớ đến quê hương, nguồn cội. Nhớ quê hương nơi xứ lạ, đó chính là tình yêu Tổ Quốc! Có thể nói, trong bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt, bà là Tổ Quốc, bà là Quê hương! Tình yêu thương và lòng biết ơn bà chính là biểu hiện sâu sắc của lòng yêu thương , gắn bó với gia đình, quê hương. Cũng là khởi đầu của tình yêu đất nước, con người.
Mời bạn xem nhiều hơn 🌹 Nghị Luận Về Bài Thơ Tiểu Đội Xe Không Kính 🌹 Dàn Ý Ngắn Gọn Và Chi Tiết
Phân Tích Bài Thơ Bếp Lửa Học Sinh Giỏi – Mẫu 10
Tham khảo ngay mẫu bài làm phân tích bài thơ Bếp lửa của học sinh giỏi lớp 9 bên dưới nhé!
Bằng Việt là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thơ của ông toát lên vẻ đẹp đằm thắm, mượt mà khi viết về những kỉ niệm với gia đình, với lứa tuổi học trò hồn nhiên, mơ mộng. Nổi bật nhất trong các sáng tác của ông là bài thơ Bếp lửa, được sáng tác năm 1963 khi tác giả đang học tập tại Liên Xô.
Nhớ bà và nhớ những kỉ niệm về bà, Bằng Việt đã viết bài thơ này, nó được trích trong tập Hương cây – Bếp lửa cùng với Lưu Quang Vũ. Đọc bài thơ, ta có thể cảm nhận được tình cảm thắm thiết của người cháu dành cho bà cũng như nỗi nhớ bà khôn nguôi của tác giả.
Hình ảnh bà hiện ra trong kí ức của nhà thơ là ở trong căn bếp của bà:
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm”
Từ láy “chờn vờn” trong hình ảnh bếp lửa gợi liên tưởng đến trong kí ức của người cháu hình ảnh bà và bếp lửa của bà hiện về chập chờn như khói bếp. Điệp từ “Một bếp lửa” có tác dụng nhấn mạnh cái bếp lửa để nấu cơm, đun nước hằng ngày cũng như là bếp lửa của cuộc đời bà, đã trải qua biết mấy nắng mưa: “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”.
Từ chỉ số lượng “một” khắc họa rõ nét hình ảnh bếp lửa của một người bà yêu thương cháu, một mình bà chứ không phải ai khác. Chính trong cái bếp lửa “ấp iu nồng đượm” ấy, người cháu được sống trong tình yêu thương của bà, được bà chở che cả tuổi thơ, cho nên tác giả rất yêu thương người bà của mình.
Nhà thơ gắn liền với một tuổi thơ cơ cực, thiếu thốn trong những năm tháng hai bà cháu sống cùng nhau:
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”
Tác giả là một trong những đứa trẻ phải trải qua những năm tháng vất vả, cơ cực đến mức đói mòn, đói mỏi của cả dân tộc. Hình ảnh khói bếp của bà được nhắc đến trong suốt khổ thơ cho thấy sự thấm sâu vào tâm hồn đứa trẻ của khói bếp. Chính những năm tháng vất vả, thiếu thốn ấy, nhà thơ mới càng thêm trân trọng tình cảm của bà dành cho mình. Nghĩ về những điều đó, nhà thơ thấy sống mũi cay cay, như rưng rưng xúc động trước một quá khứ gian khổ nhưng thấm đẫm tình yêu thương của bà.
Những kỉ niệm về bà được tác giả kể lại lần lượt ở những câu thơ tiếp theo:
“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà?
Bà thường kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!”
Tám năm là một khoảng thời gian tương đối dài, đủ để hình thành nên tuổi thơ của mỗi con người. Trong tám năm ở cùng với bà đó, nhà thơ đã trải qua biết bao nhiêu kỉ niệm cùng với bà. Hình ảnh tiếng tu hú kêu như giục giã những cây lúa ngoài đồng mau chín, để bà con người nông dân không phải chịu đựng cái đói thêm một ngày nào nữa.
Và khi tu hú kêu cũng là lúc người cháu được nghe bà kể chuyện của bà ngày trước, là những thứ tạo nên kí ức ngày hôm nay của tác giả. Từ “tu hú” được lặp lại đến ba lần với tiếng kêu tha thiết, như đang vang vọng đâu đây trong kí ức của tác giả. Kí ức ấy không hề đầy đủ cả mẹ và cha:
“Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học”
Dù nhà thơ phải chịu sự thiếu thốn tình cảm của cha mẹ nhưng bù lại vẫn nhận được sự yêu thương vô bờ của bà. Bà đã thay cha mẹ dạy dỗ cháu nên người, bà dạy cho cháu làm những công việc nhà, bà bảo ban cháu cố gắng học tập. Tất cả đều xuất phát từ tấm lòng yêu thương, sự chở che, đùm bọc của bà dành cho cháu. Đến đây, nhà thơ lại bộc lộ cảm xúc thương xót cho sự vất vả, khó nhọc của bà:
“Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc
Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”
Bếp lửa của cuộc đời bà khơi dậy trong tâm hồn người cháu một tình yêu thương bà tha thiết, một sự biết ơn đối với bà. Bếp lửa còn gắn liền với tiếng tu hú. Hình ảnh “tu hú” lại được lặp lại cho thấy nó đã đi sâu vào tiềm thức của nhà thơ, khi nhớ về bà và bếp lửa của bà thì nhà thơ cũng nhớ tới âm thanh của con tu hú. Tiếng tu hú kêu da diết, khắc khoải như khiến cho tác giả nhớ về những kỉ niệm ngày xưa.
Nếu ở trong những dòng thơ đầu, nhà thơ tái hiện lên cho người đọc những hình ảnh và kỉ niệm của tác giả với bà và bếp lửa của bà thì ở những dòng thơ sau, nhà thơ Bằng Việt lại làm hiện lên những kí ức đau thương mà có lẽ cho đến hiện tại, tác giả vẫn khó có thể quên được:
“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng mà dặn cháu đinh ninh
Bố ở chiến khu, bố còn việc bố
Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”
Sống nương tựa nhau cùng với bà, nhưng hai bà cháu không hề cô độc, mà họ còn có những người hàng xóm láng giềng tận tâm, rộng lượng giúp đỡ nhau trong lúc gian khó. Vì vậy mà hai bà cháu mới có thể vượt qua, cùng dựng lại căn nhà cũ. Trong khó khăn, bà vẫn không quên dặn cháu đừng cản trở người đang làm nhiệm vụ.
Bà nhắc nhở cháu đừng khiến cho bố phải thêm lo lắng, phiền lòng, không yên tâm mà đánh giặc. Chi tiết này không chỉ cho thấy tình cảm của bà, mà còn thể hiện lên suy nghĩ thấu đáo của người bà đối với công cuộc, sự nghiệp lớn lao của đất nước.
Ba câu thơ tiếp theo vẫn là hình ảnh bếp lửa, nhưng nó trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết:
“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một bếp lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một bếp lửa chứa niềm tin dai dẳng”
Bà lại tiếp tục với công việc nhóm bếp lửa hằng ngày, chỉ có điều, ta thấy được sự bất diệt trong bếp lửa của bà. Bếp lửa ấy không bao giờ tắt, vì bà luôn luôn có niềm tin rằng ngày chiến thắng nhất định sẽ đến. Niềm tin của bà không một thứ gì có thể dập tắt được, nó là niềm tin vào tương lai tươi sáng của đất nước.
Khổ thơ tiếp theo cho thấy hình ảnh người bà tận tụy, vất vả càng thấm sâu vào lòng người đọc:
“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm niềm xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”
Cả cuộc đời bà tần tảo nuôi nấng cháu, biết bao nhiêu mưa nắng không màng. Hình ảnh ẩn dụ: nắng, mưa gợi lên bao khó nhọc của cuộc đời bà. Bà dành cả cuộc đời bên bếp lửa, để nhóm lên bao yêu thương đong đầy. Từ những củ khoai, sắn trong những ngày đói khổ đến khi no đầy với nồi xôi thơm ngon.
Bà còn nhóm dậy trong tâm thức của tác giả những kí ức gian khó mà nghĩa tình. Đến đây, nhà thơ phải thốt lên: “Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!” Bếp lửa của bà kì diệu biết bao nhiêu, nó không chỉ là một bếp lửa, một vật dụng thông thường mà còn chứa đựng nhiều tầng ý nghĩa.
Khổ thơ cuối là lời tự nhắc nhở của tác giả đối với bà:
“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà. Niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở
-Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?”
Quá khứ luôn là một bàn đạp để mở ra tương lai. Nhờ có bà và sự chăm sóc, nuôi dạy của bà mà cháu mới có thể được như ngày hôm nay. Vì lẽ đó, dù cháu có đang ở một nơi hiện đại, tiện nghi, đủ đầy, cháu vẫn không bao giờ quên những năm tháng ở cùng bà. Tình cảm yêu thương, trân trọng, biết ơn bà của tác giả khiến cho mỗi chúng ta không khỏi cảm động. Đồng thời, ta hiểu thêm được về tình cảm gia đình trong những năm tháng chiến tranh hào hùng, oanh liệt của dân tộc.
Bài thơ là nỗi nhớ của tác giả về bà và những kỉ niệm cùng bà trong những năm tháng tuổi thơ, nó cũng là lời tự nhắc nhở của tác giả đối với chính mình, rằng không bao giờ được lãng quên đi quá khứ. Nhà thơ Bằng Việt đã rất khéo léo khi lồng ghép hình ảnh bếp lửa với hình ảnh người bà, làm cho người đọc bị cuốn vào dòng kí ức của tác giả tự lúc nào không hay, để rồi nhận ra bao ý nghĩa, bao điều tốt đẹp từ bài thơ.
Có thể bạn sẽ thích 🌼 Phân Tích Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính 🌼 Văn Mẫu Hay Nhất
Phân Tích Bếp Lửa Bằng Việt Chọn Lọc – Mẫu 11
Bài văn phân tích Bếp lửa Bằng Việt chọn lọc dưới đây sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích dành cho các em học sinh.
Có lẽ khi nhắc về quá khứ, nhất là những thời điểm đẹp đẽ, người ta vẫn thường kể nhiều hơn. Với “Bếp lửa” nhà thơ Bằng Việt thực đã dắt dẫn người đọc vào sâu trong mạch kể, mạch hồi tưởng của ông. Hồi ức đẹp một đi không trở lại của tuổi thơ được tái hiện không phải bằng một trí nhớ lan man, chắp vá.
Trái lại, ở sâu trong tiềm thức của tác giả, hình ảnh “Bếp lửa” và “người bà” lúc nào cũng tỏ sáng lạ kì – trở thành một điểm đi về trong cõi nhớ. Dòng suy tưởng và hoài niệm của người cháu xa quê nhà có lẽ đều được khởi nguồn từ những hình ảnh đầy giản dị mà thân thương, ấm áp vô cùng.
Việc đồng hiện lên hình ảnh “Bếp lửa” và “bà” trong bài thơ thật dễ khiến cho người ta có một sự liên tưởng về mối quan hệ lạ kì, thiêng liêng. Từ bếp lửa của củi rơm đến “Bếp lửa” của lòng người có lẽ hơn bao giờ hết con người cảm nhận thật rõ về tình bà cháu, tình quê nồng ấm.
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hum nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay.
Cái “nỗi nhớ về bếp lửa” được nói trực tiếp song không vì thế mà giảm đi phần sâu lắng, tinh tế. Hình ảnh “Bếp lửa” gợi nhớ bằng nhiều giác quan bằng trí tưởng tượng. Thị giác (chờn vờn sương sớm), cảm giác (ấp iu nồng đượm) và khướu giác (sống mũi còn cay) rồi xúc giác (hun nhèm mắt cháu). Tác giả hướng mọi giác quan để quay về sống lại kỉ niệm trong trí tưởng tượng. Dường như không còn cảm giác khoảng cách của thời gian ở đây nữa, mọi hình ảnh gắn với bếp lửa đã tái hiện chân thật, rõ ràng từ một thời kí ức xa xôi !
Hình ảnh bếp lửa còn gắn với người bà đầy thân thương. Tuy không trực tiếp nói ra song người đọc hình dung được công việc của người bà : “nhóm bếp”. Tuổi thơ của cháu gắn với bếp lửa, với mùi khói cay nhèm và cũng gắn chặt với bà. Phải chăng hình ảnh: “Một bếp lửa ấp iu nồng đượm” chính là hoá thân của tình cảm bà dành cho cháu.
Vì vậy có lẽ tìm về với bếp lửa quê nhà cũng chính là tìm về tuổi thơ sống bên bà dành cho cháu. Sự tương đồng đẹp đẽ ấy dễ thường mấy ai nhận ra. Chỉ có Bằng Việt với khoảng cách thời gian đầu đời trong sáng được gắn bó bên bà mới có thể “cảm” sâu sắc đến thế, cái tưởng chừng quá bình dị, mộc mạc. Đắm mình trong dòng hồi ức tươi mát của tác giả, chúng ta muốn tìm đến với những tình thương yêu nồng hậu như thế.
“Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế…
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”.
Cái ấm áp của “Bếp lửa” và “tình người” trong sự tương đồng, ta đã biết.
Đằng sau đó dường như còn có một sự tương đồng nữa. Bếp lửa và người bà đều là những gì gắn bó, thân thương nhất với kỉ niệm của cháu. Nếu “Bếp lửa củi rơm” gắn với cảm nhận “mùi khói”, với kỉ niệm “khói hun nhèm mắt cháu”, với dư vị “sống mũi còn cay” thì người bà gắn với tuổi thơ cháu vừa như một người biết chăm sóc, vừa như một người bạn lớn.
Những kí ức như ùa vào trong tâm tưởng cháu. Đó là từ năm : “lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói”, lại cả những năm “đói mòn đói mỏi”, những lúc bà hay kể chuyện những ngày ở Huế những khi “giặc đốt nhà cháy tàn, cháy trụi”… Từ lúc nào tuổi thơ nhỏ bé của cháu đã được truyền hơi ấm từ bếp lửa, từ bà ! Một điều không thể ngẫu nhiên là : mỗi khi nhắc về bếp lửa thì lại thấy xuất hiện người bà và mỗi khi xuất hiện người bà lại thấy công việc của bà xoay quanh bếp lửa.
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc.
Không nói mà tình cảm vẫn dạt dào, không hô hào, bồng bột mà người ta vẫn không thể làm ngơ trước sự chân thành. Đó có lẽ là những gì Bằng Việt đã làm khi dựng lên hình ảnh song song mà hoà hợp với nhau giữa “Bếp lửa” và “người bà”.
Trong kỉ niệm, trong cảm xúc của mỗi nỗi nhớ, lí trí đã nhường chỗ cho tình cảm và cái rõ ràng, minh bạch đã nhoè đi để được thêm những cái mơ màng, chập chờn của hồi ức. Hình ảnh bà và bếp lửa qua tâm trạng ấy đã đồng nhất, hoà quyện với nhau. Tuy một mà hai tuy hai mà một để chỉ còn hiện lên trong tâm tưởng người cháu của một cái gì thật ấp iu, nồng đượm.
Hình ảnh bếp lửa trong bài thơ xét cho kĩ thì chính là điểm gợi hứng, là cầu nối để đứa cháu phương xa ngàn dặm gửi tình thương nỗi nhớ về bà, về quê hương. Nhưng qua dòng hồi tưởng nhẹ nhàng tươi mát của cháu, bếp lửa của củi rơm kia cũng không còn là bếp lửa bình thường như cái nhìn trước đó.
Nó trở thành một hình ảnh cứ trở đi trở lại trong bài thơ, trong tâm trí người cháu và không lần nào cái bếp lửa bình dị ấy không gắn với hình ảnh người bà tảo tần, đầy thân thương. Và vì lẽ đó mà người ta có cảm giác bếp lửa kia chính là tình cảm của người bà đôn hậu.
Nếu có một bếp lửa quê nhà vẫn “chờn vờn sương sớm” thì cũng có một ngọn lửa tình bà “ấp iu nồng đượm”. Có lúc hai thứ lửa ấy cùng tách ra, lại có khi hợp cùng nhau. Khi tách ra nó gợi về những kỉ niệm : kỉ niệm về bếp lửa củi rơm (“khói hun nhèm mắt cháu”, “sống mũi còn cay”) kỉ niệm về bếp lửa tình bà (“Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế”, “bà dạy cháu làm bà chăm cháu học”)
Nhưng khi đã hoà hợp với nhau nó trở thành một thứ tình cảm thiêng liêng, kì lạ biết bao trong cái bình dị. Sống mũi còn cay là thực của ngày xưa ngồi cạnh bếp lửa, bên bà và là thực của hôm nay (và chắc là mãi mãi) của tình bà cháu.
“Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới xẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm hồn tuổi nhỏ
Ôi kì lạ và thiêng liêng – Bếp lửa”.
Trong cái hoà quyện tuyệt vời, người ta thấy cái nóng cái đượm của bếp lửa củi rơm cũng như cái nồng cái ấm áp của bếp lửa lòng người. “Bếp lửa” kì lạ, thiêng liêng ấy nhóm “khoai sắn ngọt bùi”, “nồi xôi gạo mới” cũng dành nhóm cả “niềm yêu thương”, “tâm tình tuổi thơ”. Thực là diệu kì. Tại sao nói đoạn thơ trên là một trong những đoạn hay nhất của bài thơ, câu trả lời có lẽ nằm ở cái tình ấm lửa trong đó mà lúc nào cũng được ấp ủ.
“Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”.
Tình cảm của bà rõ ràng đã được tượng trưng hoá với “ngọn lửa”. Nếu nói “Bếp lửa” e chưa thật trúng, còn nói “ngọn lửa” thì người ta cảm thấy cái linh hồn, tình cảm đã nằm ngay ở đó. Ngọn lửa ấy phải chăng là tâm huyết, nhiệt huyết (chứa niềm tin dai dẳng) phải chăng là tình yêu (lòng bà luôn ủ sẵn). Từ “Bếp lửa” đến “ngọn lửa” có lẽ là hành trình từ cái đơn sơ giản dị đến những cái thiêng liêng cao cả, từ cái thực đến cái linh hồn.
Một lần nữa hình ảnh “Bếp lửa” hay “ngọn lửa” đã tiếp tục tôn cao lên tấm lòng chân chất, tình thương giản dị sâu sắc mà đôn hậu của bà. Có thể chấp nhận được chăng khi ta hình dung “Bếp lửa” trong kí ức tuổi thơ của tác giả chính là hiện hữu của một tình yêu nồng nàn, đượm đà bà dành cho cháu ? Cái chính là bà lúc nào cũng ấp ủ một ngọn lửa vô hình song “dai dẳng”, “thiêng liêng” để lúc nào cũng vậy hễ nhắc tới “Bếp lửa” thì tác giả và người đọc luôn cảm thấy có bà trong đó.
Chẳng phải vô tình mà trong suốt bài thơ, hình ảnh “Bếp lửa” cứ ám ảnh tâm trí Bằng Việt như vậy. Không dưới mười lần tác giả nhắc tới hình ảnh đó và lần nào cũng kèm theo sự xuất hiện của bà. Tác giả đang làm cái công việc của người đi so sánh, thí dụ giá trị hai vẻ đẹp “Bếp lửa” và “người bà” chăng ?
Không hẳn như vậy ! Đọc kĩ lại ta thấy Bằng Việt đã làm một mĩ từ pháp có hiệu quả cao nhất: ẩn dụ. Hình ảnh bếp lửa là ẩn dụ của ngọn lửa nồng hậu nơi người bà, và tình cảm người bà chính là ẩn dụ ngọn lửa – một thứ tình yêu cao cả nhất. Ta đã biết “người bà” và “Bếp lửa” là hai giá trị chẳng thể nào tách rời trong hồi ức của tác giả thì lẽ nào tác giả lại đi làm công việc trái ngược nhau : phân tích hai hình ảnh để so sánh ?
“Bếp lửa” tượng trưng cho cái đơn sơ, khiêm nhường. Đã bao giờ chúng ta nghĩ về bếp lửa nhà mình như thế này chưa : nó giản dị, đơn sơ (chỉ vài que củi, một ôm rơm, một cái kiềng là thành một bếp lửa). Nó cũng thật khép nép khi thu mình vào trong góc bếp chật chội. Nhưng bếp lửa cũng là một cái gì đó rất ấm áp nồng đượm (những ngày đông lạnh thấu da thấu thịt).
Người bà cũng vậy : thật chân chất, mộc mạc, dân dã, quê kiểng song ẩn chứa tình yêu vô bờ, tha thiết, chan chứa. Qua con mắt nhà thơ, bếp lửa và bà bình dị, cao quí, thiêng liêng. Lấy hình ảnh của bếp lửa để nói về tình cảm của bà dành cho mình, thiết tưởng Bằng Việt phải nặng lòng với bà, với quê hương lắm.
Một đứa con xa quê hương, một đứa cháu xa bà luôn luôn thường trực trong nỗi nhớ về “Bếp lửa” – về tình yêu ấm nồng tưởng như cái lạnh cái cô đơn ở quê người cũng đôi chút vợi đi vậy. Nhưng nhớ về cái “Bếp lửa” phải chăng cũng đồng nghĩa với việc nhớ quê nhà, nhớ về bà đồng nghĩa với việc nhớ về tổ ấm gia đình với niềm vui sum họp.
“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà. Niềm vui trăm ngã
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?…”
Trong tình cảm của bà có tình cảm của đất nước, tác giả nhớ đến tình bà cũng là nhớ đến đất nước quê hương. Có người từng nói: “Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc” Nói như vậy có nghĩa là tình cảm của bà trở nên lòng yêu Tổ quốc là một ẩn dụ của tình cảm của đất nước dành cho những người xa quê.
Hành trình từ “Bếp lửa” đến “Bếp lửa” là hành trình của giọt nước hoà vào suối và đổ ra sông… Càng ngày càng thiêng liêng, cao cả. “Bếp lửa” là một dòng hồi tưởng “chờn vờn”, “nồng đượm”, rực sáng mãi không thôi trong lòng những người dù chỉ đến với nó một lần. Làm sao chúng ta sống lại tuổi ấu thơ cảm động bên người bà yêu dấu với tình thương bao la, sâu đậm ở một miền quê còn nhiều đau khổ. Một ngọn lửa mãnh liệt như vậy liệu có bao giờ vụt tắt được chăng?
Khám phá thêm 💕 Phân Tích Bài Thơ Đồng Chí Chính Hữu 💕 10 Bài Hay Nhất
Phân Tích Văn Bản Bếp Lửa Đơn Giản – Mẫu 12
Tham khảo bài văn phân tích văn bản Bếp lửa đơn giản dưới đây với những ý văn ngắn gọn và súc tích.
Đối với mỗi người chúng ta, tình cảm gia đình vẫn luôn là thứ tình cảm đáng quý và đáng trân trọng nhất. Nhưng khi đất nước có chiến tranh thì người dân vẫn chấp nhận bỏ lại gia đình để lên đường đi chiến đấu. Chính từ tình yêu gia đình đã hình thành nên tình yêu đối với Tổ quốc. Nhà thơ Bằng Việt cũng có một tuổi thơ phải sống xa bố mẹ vì bố mẹ nhưng như thế không có nghĩa là nhà thơ sống thiếu thốn tình cảm.
Ngược lại, nhà thơ Bằng Việt lớn lên trong tình yêu thương và dạy bảo của người bà kính yêu. Chính vì vậy mà khi lớn lên, phải xa nhà, xa bà, có bao nhiêu nỗi nhớ, tác giả dành cả cho bà của mình để rồi bài thơ Bếp lửa đã ra đời từ nỗi nhớ ấy.
Bếp lửa ở đây không đơn thuần chỉ là bếp lửa, nó là cả tình yêu thương của bà ở trong đó:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa
Hình ảnh một bếp lửa chỉ vừa mới xuất hiện nhưng nó đã đi kèm với các từ láy như chờn vờn, ấp iu khiến cho người đọc cảm nhận được tình cảm ấm áp và chan chứa của người cháu dành cho bà của mình. Câu thơ thứ ba một lần nữa khẳng định cho tình cảm ấy. Đó là tình thương của cháu dành cho người bà đã phải chịu nhiều vất vả, nắng mưa. Cùng với tình thương ấy, những hồi ức của tuổi thơ hiện lên trong đầu tác giả. Mọi thứ vẫn còn nguyên vẹn nên cứ ngỡ như là chuyện vừa mới xảy ra ngày hôm qua vậy:
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay
Năm đói mòn đói mỏi ấy chính là năm 1945, nhân dân miền Bắc rơi vào nạn đói khủng khiếp. Nó cướp đi sinh mạng của không biết bao nhiêu người dân vô tội. Nhà thơ đã lớn lên trong bối cảnh đất nước như vậy thế nhưng trong kí ức nhà thơ không có hình ảnh người chết đầy đường, không bị mùi tanh thối ám ảnh. Đó là bởi vì mùi khói bếp đã át đi hết những cảnh đau thương ngoài kia.
Đó là cách để người bà làm cho cuộc sống của cháu bớt đau thương hơn. Mùi khói đã hun nhèm đôi mắt của người cháu để rồi hơn mười năm sau, nghĩ lại chuyện cũ sống mũi vẫn còn cay. Có lẽ sự xúc động đã khiến cho mắt nhà thơ nhòe đi, cay xè vì những kỉ niệm đói khổ.
Bà đã cùng cháu đi qua những năm tháng đói khổ như vậy. Để rồi suốt những năm tháng tuổi thơ, hình ảnh người bà vẫn gắn liền bên cháu. Hai bà cháu đã cùng nhau nhóm lên không biết bao nhiêu ngọn lửa trong suốt 8 năm ròng:
Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế
Hình ảnh cháu cùng bà nhóm lửa thể hiện sự gắn kết giữa hai bà cháu. Không chỉ là nhóm lửa, đó còn là nhóm lên sự sống, nhóm lên tình yêu. Từ hình ảnh nhóm bếp lửa đã gợi lên trong nhà thơ những hình ảnh khác đó là tiếng chim tu hú kêu. Đối với người nông dân Việt Nam tiếng chim tu hú đã trở thành tiếng kêu quen thuộc và là sự báo hiệu cho một mùa lúa chín.
Tiếng tu hú kêu vì vậy tượng trưng cho sự no đủ của người dân. Tiếng tu hú kêu như tiếng của chiếc đồng hồ báo thức nhắc nhở người bà rằng đã đến giờ kể chuyện cho cháu nghe. Trong một đoạn thơ mà tiếng tu hú kêu được lặp lại tới 3 lần khiến cho độc giả có cảm tưởng như tiếng tu hú đang từ xa vọng về. Nó khiến cho lòng người cháu ở nơi xa xứ lâng lâng. Tiếng tu hú kéo nỗi nhớ của nhà thơ về khiến cho nó dài hơn, rộng hơn.
Bà không chỉ kể chuyện, bà còn dạy bảo cho cháu nhiều điều, thay cha mẹ chăm lo cho cháu để cháu được nên người:
Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc
Tu hú ơi, chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa
Ngôi nhà nhỏ vắng người, chỉ có hai bà cháu. Bà đã thay cha mẹ, làm nhiệm vụ của cha mẹ đó là dạy cháu làm, chăm cháu học. Bà dù già yếu nhưng vẫn tận tụy hết lòng vì cháu. Chính vì vậy mà hình ảnh bếp lửa, hình ảnh người bà hiện lên càng ấm áp hơn. Hai bà cháu đã nương tựa vào nhau để sống qua những ngày tháng khó khăn như vậy. Chính từ tình cảm ấy nên khi nhà thơ đi xa, nỗi nhớ thương bà càng lớn hơn. Nhà thơ đi xa rồi, thương cho bà ở nhà không có ai chăm sóc.
Câu hỏi tu từ Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà giống như một lời than thở thể hiện nỗi nhớ mong bà sâu sắc. Hai từ bà, cháu được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong đoạn thơ này, thể hiện sự sóng đôi, quấn quýt, gắn bó giữa bà và cháu.
Những năm tháng chiến tranh, hai bà cháu đã cùng nhau trải qua nhiều khó khăn khi mà ngôi nhà bị cháy rụi:
Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh:
“Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên”
Chính từ trong khó khăn đó, nghị lực của người bà càng trở nên bền vững hơn. Những câu thơ vừa cho thấy bà là người cần cù, nhẫn nại và giàu đức hi sinh. Ngôi nhà của hai bà cháu dù bị giặc đốt cho cháy rụi nhưng thương con đang công tác xa nhà, không muốn con phải lo lắng, bà đã dặn cháu không được nói gì với bố. Thậm chí bà còn dặn cháu nói với bố là ở nhà mọi chuyện được yên. Bà là đại diện cho những người phụ nữ Việt Nam giàu đức hy sinh, hết lòng vì con vì cháu.
Từ hình ảnh bếp lửa, nhà thơ đã nâng lên thành hình ảnh ngọn lửa:
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng
Hình ảnh ngọn lửa như bừng sáng và nó có một sức truyền cảm vô cùng mạnh mẽ. Đó là ngọn lửa của tình yêu thương, ngọn lửa của tình bà cháu,… Chính vì vậy mà cứ nhìn thấy ngọn lửa là người cháu lại cảm thấy như nhìn thấy bà của mình. Cuối bài thơ, nhà thơ tiếp tục suy ngẫm về bà và bếp lửa:
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Hình ảnh bếp lửa ấp iu, nồng đượm một lần nữa được nhắc đến ở cuối bài. Bà không chỉ là người truyền lửa, bà còn truyền cho cháu tình yêu thương từ những miếng khoai, miếng sắn, nhắc cháu nhớ về những năm tháng cơ cực, bởi đó là những năm tháng đã nuôi dưỡng tâm hồn của cháu.
Trong cả bài thơ, hình ảnh bếp lửa xuất hiện 10 lần, đó là 10 lần hình ảnh bà cũng xuất hiện. Bài thơ mang âm điệu dồn dập như sóng vỗ khiến người đọc cảm nhận được tình cảm dạt dào của bà dành cho cháu và ngược lại. Đi xa rồi, cháu vẫn nhớ về bà:
Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?
Nơi trời Âu giá lạnh, hình ảnh của bà đã sưởi ấm trái tim người cháu. Mặc dù đã trưởng thành nhưng trong lòng cháu vẫn nhớ mong về nơi góc bếp với mùi khói bếp cay nồng nặc. Nhớ lời bà dặn, cháu chưa bao giờ quên đi nguồn cội của mình.
Thông qua bài thơ này, chúng ta thấy được hình ảnh bếp lửa và dáng bà đang ngồi lặng lẽ ở bên. Hình ảnh bếp lửa từ đó tượng trưng cho sự ấm áp, nghĩa tình. Qua bài thơ này, hẳn mỗi người sẽ thấy yêu hơn gia đình của chính mình.
Chia sẻ 🌼 Cảm Nhận Về Bài Thơ Đồng Chí 🌼 Top Những Bài Hay Nhất
Phân Tích Hình Ảnh Người Bà Trong Bài Thơ Bếp Lửa – Mẫu 13
Gửi bạn mẫu bài văn phân tích về hình anh người bà trong bài thơ Bếp Lửa của Bằng Việt dưới đây.
Bạn đã bao giờ đắm chìm trong những kỉ niệm tuổi thơ với một hình ảnh thân thuộc nào đó? Phải chăng hình ảnh ấy đã để lại cho bạn ấn tượng sâu sắc nơi tâm hồn? Với Bằng Việt, có lẽ bóng dáng thân thương của người bà bên bếp lửa đã thấm đẫm trang kí ức tuổi thơ.
Những kí ức đó đã được Bằng Việt tái hiện chân thực qua bài thơ “Bếp lửa”. Vậy hình ảnh người bà hiện lên trên những vần thơ ấy sâu sắc như thế nào? Điều đó góp phần thể hiện nội dung tư tưởng của tác phẩm ra sao? Hãy thử hòa mình vào hơi ấm ngọn lửa của tình bà ngay từ những câu thơ đầu tiên:
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.”
Dòng cảm xúc trong trẻo, bình dị ấy bắt nguồn từ hình ảnh bếp lửa “chờn vờn sương sớm”, “ấp iu nồng đượm” gợi bàn tay nhóm lửa khéo léo, chi chút của người bà. Sự hi sinh thầm lặng miệt mài của bà đã sưởi ấm trái tim đứa cháu nhỏ, sưởi ấm những năm tháng tuổi thơ của cháu. Tuổi thơ ấy có thật sự bình yên, êm đềm bên ngọn lửa ấm áp? Không! Những kỉ niệm tuổi thơ bên cạnh bà là cuộc sống có nhiều gian khổ, thiếu thốn và nhọc nhằn:
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”
Những dòng thơ chân thực đến ám ảnh, xót xa. Năm lên bốn, cháu đã phải đối mặt với nạn đói năm 1945, vậy mà trong những mảnh ghép kí ức mơ hồ ấy vẫn lưu giữ mùi khói bếp của bà – mùi khói đã hun nhèm mắt cháu, để đến bây giờ nghĩ lại “sống mũi còn cay”.
Cay vì khói bếp, cay vì cảm xúc sống dậy những mùi khói của mấy chục năm qua. Không thể không nhận thấy sức ám ảnh, lay động trong tâm hồn cháu khi mà dù cho những kỉ niệm đã nhạt nhòa thì mùi khói bếp năm nào vẫn để lại dư vị cay cay nơi sống mũi. Bà vẫn lặng lẽ, vẫn âm thầm tích góp hơi ấm nuôi dưỡng cháu trong những năm tháng ấy, đến tận “tám năm ròng”. Càng lớn lên trong vòng tay của bà, những kí ức về bà lại càng sâu đậm trong tâm hồn người cháu:
“Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học.”
Trong sương khói mịt mờ của chiến tranh, cháu không được sống cùng bố mẹ, nhưng lại được yêu thương, che chở, nuôi dưỡng tâm hồn từ tấm lòng bà. Bên bếp lửa hồng bà kể chuyện, chuyện đời thường ngày nay, chuyện cổ tích ngày xưa. Từng việc, từng việc, nhỏ nhẹ, hai bà cháu từng ngày, từng tháng và “tám năm ròng” cùng nhau “nhóm bếp lửa” để nấu nướng thức ăn, để sưởi ấm chỗ ở, và hơn thế, là để soi sáng trí tuệ và tâm hồn.
Bà đã đóng vai trò thay thế người mẹ, người cha, người thầy để dạy dỗ, yêu thương cháu một cách vô điều kiện. Bởi vậy, tình yêu và kính trọng bà được Bằng Việt thể hiện sâu sắc qua hình ảnh: “Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”. Bà và bếp lửa là chỗ dựa tinh thần, là sự chăm chút, đùm bọc dành cho cháu.
Hơi ấm của bếp lửa ấy lại gợi thêm những kỉ niệm về một thời đầy vất vả, đau thương. Hình ảnh bà già nua, nhỏ bé nơi làng quê hoang tàn trong khói lửa chiến tranh vẫn không một lời kêu ca, phàn nàn khiến biết bao con tim chúng ta cảm phục. Đặc biệt, lời dặn cháu đã làm ngời sáng vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ giàu lòng vị tha, giàu đức hi sinh, cả đời vì con vì cháu:
“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàm xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:
‘Bố ở chiến khu, bố còn việc bố
Mày có viết thư, chớ kể này, kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”
Bằng Việt đã thổi vào những vần thơ truyền cho người đọc sức mạnh của lòng yêu nước, sự can đảm và hi sinh lớn lao qua hình tượng người bà. Thật vậy! Người bà ấy gồng mình lên gánh vác mọi lo toan để các con yên tâm công tác với tấm lòng của một người hậu phương luôn hướng ra tiền tuyến, trong ý chí và nghị lực kiên cường. Bà mang vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam truyền thống, sẵn sàng hi sinh tình riêng để đặt tình chung lên trên.
Đó chẳng phải là biểu hiện cao cả nhất của lòng yêu Tổ quốc, yêu kháng chiến và cách mạng đấy ư? Bằng Việt đã thổi vào những vần thơ truyền cho người đọc sức mạnh của lòng yêu nước, sự can đảm và hi sinh lớn lao qua hình tượng người bà. Càng về cuối, nỗi xúc động dâng trào lên càng tha thiết và mãnh liệt khiến cho hình ảnh người bà càng trở nên chân thực và sống động hơn bao giờ hết, làm điểm sáng cho cả bài thơ với những hành động và phẩm chất tuyệt đẹp:
“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”
Bếp lửa không chỉ được nhen lên bằng nguyên liệu củi rơm mà còn được nhen lên từ ngọn lửa sức sống, lòng yêu thương, “luôn ủ sẵn” trong bà, của niềm tin vô cùng “dai dẳng”, bền bỉ và bất diệt… Giọng thơ vang lên mạnh mẽ, đầy xúc động tự hào đã khẳng định ý chí, bản lĩnh sống của bà, cũng là của người phụ nữ Việt Nam thời chiến. Bà là người nhóm lửa, truyền lửa, cũng là người luôn giữ cho ngọn lửa ấm nóng, tỏa sáng trong gia đình.
Trong tâm trí của Bằng Việt, bếp lửa và bà tuy thật bình dị, song ẩn giấu nhiều điều cao quý thiêng liêng: “Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”. Mỗi câu, mỗi chữ cứ như hồng lên, nồng ấm biết bao tình cảm nhớ thương, ơn nghĩa. Và đứa cháu hiếu thảo ấy giờ đây đã lớn, đã đi đến những chân trời mới mẻ, hạnh phúc. Thế nhưng dù có rời xa bếp lửa của bà, cháu vẫn nhớ mãi về ngọn lửa làm nhèm mắt cháu thuở lên bốn, vẫn nhớ mãi hình ảnh tảo tần nắng mưa nơi góc bếp của bà:
“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”
Đứng trong những điều mới mẻ của thế giới rộng lớn, tuổi thơ đã lùi xa, đứa cháu nhỏ giờ đã được chắp cánh bay cao nhưng quên sao được bà và bếp lửa quê hương, nơi nắng mưa hai bà cháu có nhau bởi bà và quê hương yêu dấu là điểm tựa, là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho cháu trên mỗi bước đường đời. Hình ảnh bàn tay khéo léo, chắt chiu nhóm lửa vẫn luôn tỏa hơi ấm trong tâm hồn người cháu.
Bạch Cư Dị từng nói: “Cảm động lòng người trước hết không gì bằng tình cảm và tình cảm và tình cảm là cái gốc của văn chương”. Thật vậy! Bài thơ “Bếp lửa” là một bài thơ như thế. Đọc những vần thơ thấm đẫm cảm xúc của Bằng Việt dường như trong ai cũng sống dậy những tình cảm đẹp, kí ức đẹp. Với bạn có thể là tình cảm với gia đình, người thân. Với bạn có thể là tình cảm với bạn bè, thầy cô.
Bằng Việt cũng mang những cảm xúc đó, nhưng ông có thể chuyển tải nó qua những vần thơ tha thiết làm xao xuyến biết bao tâm hồn độc giả. Dòng cảm xúc trong trẻo ấy đã để lại trong ta nhiều ấn tượng, đặc biệt là hình ảnh thân thương của người bà.
Gợi ý cho bạn 🌳 Cảm Nhận Bài Thơ Đoàn Thuyền Đánh Cá 🌳 15 Bài Hay Nhất
Mẫu Phân Tích Bài Thơ Bếp Lửa Lớp 9 – Mẫu 14
Nếu bạn chưa biết phân tích bài thơ Bếp lửa sao cho ấn tượng nhất thì bài viết dưới đây là gợi ý dành cho bạn đấy.
Chúng ta đã được đọc nhiều áng thơ hay về tình yêu quê hương, tình cảm gia đình. Có người thích vẻ đẹp thiết tha, nồng nàn của Tế Hanh ở bài Quê hương. Có người yêu sự mộng mơ, lãng mạn của tình mẹ con trong bài Mây và Sóng của Ta-go… Riêng tôi, tôi đồng cảm cùng tình bà cháu nồng đượm, đằm thắm trong bài Bếp lửa của Bằng Việt.
Bếp lửa là một bài thơ của nỗi nhớ về một bếp lửa tuổi thơ, nhớ rành rọt, nhớ ngọn ngành. Không dễ gì mà biết nhớ như vậy. Nhà thơ đã thổi bùng lên một bếp lửa ấp iu nồng đượm trong kí ức để hiện lên mối tình bà cháu đẹp như trong truyện cổ tích.
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa,
Trong thơ văn, còn có mối tình bà cháu nào cảm động hơn? Mối tình bà cháu như một dòng sông, dòng sông êm đềm và trong vắt, một dòng sông chở đầy kỉ niệm: một bếp lửa và một làn sương sớm. Tiếng tu hú và giọng kể chuyện của bà.
Rồi những ngày đói khổ làm nhoà mắt đứa cháu còn bé… Và kỉ niệm này xin để nguyên khối, không dám lược bớt:
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu, nhà thơ nói thế, chúng ta cũng thấy cay sống mũi. Những kỉ niệm trôi theo một nhạc điệu tâm tình âm ỉ, thầm thì, triền miên như nỗi nhớ. Dòng sông êm đềm và trong vắt vẫn âm thầm chảy. Chúng ta được dạo trên chiếc thuyền thơ với một tay lái khoan thai, chúng ta đang say mê với những kỉ niệm thì thấy biển cả hiện ra trước mắt!
Dòng sông của tình bà cháu đã đổ vào biển cả của tình yêu nước. Biển yên sóng lặng thôi, nhưng cũng bát ngát sâu thẳm.
Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh
Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!
Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen…
Mấy câu thơ chẳng có gì là kĩ xảo, chẳng có gì là gọt tỉa, giản dị như lời nói thường thôi: như được nghe chính lời bà thủ thỉ, như có một thứ gió lạ kì lay động tâm hồn ta mãi. Đứa cháu có nghĩa có tình đã biết đã quý điều bà thường cất giấu kín đáo trong rương trong hòm. Và chính ánh sáng của những thứ của quý đó đã từng rọi vào tâm hồn thơ bé của đứa cháu, nhóm dậy, nhóm dậy, nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ. Nhịp thơ trở nên xốn xao như sự sống sinh đôi, như cây non xoè lá, như chim non chớp cánh.
Rồi đứa cháu lớn vụt lên, bay bổng:
Giờ cháu đã đi xa.
Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?
Những năm tháng sống ở nước ngoài, giữa ngọn khói trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả, giữa những hoa mĩ, dễ hấp dẫn lòng người, nhưng nhà thơ tỏ ra không bị choáng ngợp. Có thể nói, tình cảm chủ đạo chi phối tâm não tác giả là những hình ảnh thân yêu quen thuộc của quê hương đất nước, đã từ lâu gắn bó với tuổi thơ. Vì thế nhà thơ đã gửi về bà – người bà rất đỗi kính yêu – như lời tâm tình chân thật, thiết tha: sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?
Từ tình bà cháu đẹp như trong truyện cổ tích, bài thơ gợi lên những yêu thương đầu tiên, những suy nghĩ đầu tiên về cuộc đời, về đất nước… Cảm xúc tinh tế, chân thật và đượm buồn của nhà thơ trỗi dậy trong kí ức người đọc những kỉ niệm về cuộc sống gia đình, về truyền thống tình nghĩa của dân tộc. Và đó chính là sức hấp dẫn của bài thơ Bếp lửa.
Tiếp tục tham khảo 🌹 Phân Tích Đoàn Thuyền Đánh Cá Huy Cận 🌹 19 Mẫu Hay Nhất
Phân Tích Bài Bếp Lửa Lớp 9 Luyện Viết – Mẫu 15
Tham khảo bài văn mẫu phân tích bài Bếp lửa lớp 9 dưới đây để chắt lọc cho mình cách viết hay.
Khi lớn lên ai cũng nhớ về những kỉ niệm của tuổi thơ. Có thể là kỉ niệm với người mẹ thân yêu, với người cha tôn kính, có thể là với người bà trân trọng. Với Bằng Việt, kỉ niệm tuổi thơ đáng nhớ nhất của mình là hình ảnh người bà tần tảo sớm hôm. Hiện diện cùng bà là hình ảnh bếp lửa. Nó đã khơi nguồn cảm xúc để tác giả nhớ về bà và viết về bà qua bài thơ đậm chất trữ tình: Bếp lửa.
Mở đầu bài thờ là hình ảnh bếp lửa:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm.
Ba tiếng “một bếp lửa” đã trở thành điệp khúc, gợi lại một hình ảnh thân thuộc trong mỗi gia đình ở làng quê Việt Nam. Hình ảnh “bếp lửa” thật ấm áp giữa cải giá lạnh của sương sớm. Đó không chỉ là cái chờn vờn của ngọn lửa mới được nhóm lên trong sương mà còn là cái chờn vờn trong tâm trí của người chầu nơi phương xa. Hình ảnh bếp lửa thân quen với biết bao tình cảm ấp iu nồng đượm. Nó đã gợi lại sự săn sóc, lo lắng, chăm chút, che chở cho đứa cháu nhỏ của người bà. Từ hình ảnh bếp lửa, người cháu lại nhớ thương khi nghĩ về bà:
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.
Đọng lại trong câu thơ là chữ “thương”, thể hiện tình cảm của người cháu dành cho bà. Bà vất vả, lặng lẽ trong khung cảnh “biết mấy nắng mưa”, làm sao tính được có bao nhiêu mưa nắng khổ cực đã đi qua đời bà. Cháu thương người bà vất vả, tần tảo để khi nhớ về bà, trong kí ức của cháu hiện về những gian khổ thời còn bé!
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy.
Nạn đói năm 1945 đã khiến bao người phải chịu cảnh lầm than, phải chết đi. Năm ấy, Bằng Việt mới lên bốn tuổi. Sống trong hoàn cảnh ấy thì làm sao tránh được những cơ cực. Từ ghép “mòn mỏi” được chia tách ra, đan xen với từ đói đã gợi cái cảm giác nạn đói ấy vừa kéo dài và còn làm khô cạn sức người lẫn gia súc. Kỉ niệm đáng nhớ nhất đối với người cháu là khói bếp, luồng khói được hun từ bếp lửa thân thuộc:
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói…
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay.
Giờ đây nghĩ lại, cháu như đang sống lại những năm tháng ấy. Câu thơ ấy sức truyền cảm đặc biệt khiến người đọc không khỏi có cảm giác cay cay nơi sống mũi. Tuổi thơ ấy lớn lên trong cảnh hoang tàn của chiến tranh. Quê hương, xóm làng bị giặc tàn phá. Cuộc sống khó khăn song hai bà cháu cũng được an ủi bởi tình cảm hàng xóm láng giềng. Bởi trong hoàn cảnh chung của nhiều gia đình Việt Nam lúc ấy, những người lớn phải tham gia kháng chiến, ở nhà chỉ còn cụ già và cháu nhỏ:
Mẹ cùng cha công tác bận không về.
Và vì thế chỉ có hai bà cháu côi cút bên nhau. Bà kể chuyện ở Huế cho cháu nghé, bà dạy cháu học, chỉ cháu làm. Bao công việc bà đều lo hết vì bố mẹ bận công tác không về. Bà là chỗ dựa cho cháu, và đứa cháu ngoan ngoãn là nguồn vui sống của bà. Những kỉ niệm của tuổi thơ đều gắn liền với hình ảnh “bếp lửa”, bởi “lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói”, đã sớm phải lo toan. “Cháu cùng bà nhóm lửa” trong tám năm ròng rã.
Tám năm đó nó cũng không phải là dài lắm nhưng sao cứ kéo dài lê thê trong lòng cháu. Cho nên, nhớ về tuổi thơ, người cháu lại “chỉ nhớ khói hun nhèm mắt”. Cảm giác ấy chân thật và xúc động. Cái làn khói bếp của ngày xưa ấy như bay đến tận bay giờ làm cay nơi sống mũi. Ngày xưa cay vì khói còn giờ đây sống mũi lại cay khi nhớ về tuổi thơ và cũng vì thương nhớ đến người bà.
Người cháu nghĩ đến bà rồi nghĩ đến quê hương, đến loài chim tu hú. “Tu hú” được nhắc lại bốn lần, tiếng kêu của nó trên đồng xa như sự cảm thông cho cuộc sống đói nghèo trong chiến tranh của hai bà cháu. Và trong lời kể của bà có cả “tiếng tu hú sao mà tha thiết thế”. Tâm hồn trẻ thơ của cháu chợt dậy lên một mong mỏi:
Tù hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa
Kỉ niệm của tuổi thơ đã được đánh thức, ở đó có hình ảnh người bà tần tảo sớm hôm và có hình ảnh cả quê hương.
Từ những hồi tưởng về tuổi thơ, người cháu đã suy ngẫm về cuộc đời của bà. Bà đã hi sinh cả đời mình để nhóm bếp lửa và giữ cho ngọn lửa luôn ấm áp, toả sáng trong gia đình:
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm.
Bà là người phụ nữ tần tảo, giàu đức hi sinh. Bếp lửa bà nhen mỗi sớm mai không chỉ bằng rơm rạ mà còn được nhen lên bằng chính ngọn lửa trong lòng bà, ngọn lửa của sự sống, lòng yêu thương và niềm tin tưởng. Từ bếp lửa bình dị, quen thuộc, người cháu nhận ra bao điều “kì diệu” và “thiêng liêng”.
Ngọn lửa được nhóm lên từ chính bàn tay bà đã nuôi lớn tuổi thơ cháu: “Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi thơ”. Bà lặng lẽ chịu đựng, hi sinh để: “Bố ở chiến khu, bố còn việc bố”. Chính vì thế, đứa cháu đã cảm nhận được trong bếp lửa bình dị mà thân thuộc có nỗi vất vả, gian lao của người bà.
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui.
Trong bài thơ có tới mười lần người bà hiện diện cùng bếp lửa với vẻ đẹp tần tảo, hi sinh, yêu thương con cháu. Và từ “bếp lửa”, tác giả đã đi đến hình ảnh “ngọn lửa”:
Rồi sớm chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…
Người cháu năm xưa giờ đã trưởng thành, đi xa. Trước mắt có những “niềm vui trăm ngả”, “có khói trăm tàu”, “có lửa trăm nhà”, một thế giới rộng lớn với bao điều mới mẻ được hiện ra. Nhưng đứa cháu vẫn không ngừng hỏi: “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”. Mỗi ngày đều tự hỏi “Sớm mai này” là mỗi ngày cháu đều nhớ về bà, Hình ảnh người bà luôn làm ấm lòng và nâng đỡ cháu trên bước đường đi tới.
Qua dòng kí ức tuổi thơ của người cháu, bài thơ “ Bếp lửa” gửi gắm lòng biết ơn bà sâu nặng. Nhà thơ Bằng Việt khéo léo xây dựng hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình tượng người bà vừa làm nổi bật vẻ đẹp cao cả vừa tạo tính biểu tượng cho hình ảnh thơ.
Gửi tặng bạn 💕 Phân Tích Bài Thơ Viếng Lăng Bác Của Viễn Phương 💕 18 Bài Đặc Sắc Nhất
Phân Tích Bài Thơ Bếp Lửa Khổ 1 – Mẫu 16
Đón đọc bài văn phân tích bài thơ Bếp lửa khổ 1 dưới đây để đi sâu phân tích nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ.
Những kỉ niệm tuổi ấu thơ ai mà chẳng có. Tế Hanh có “con sông xanh biếc” với những người bạn bè bơi lội, vui đùa. Giang Nam có “thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường”. Nguyễn Duy có một sân “chơi đáo, chơi vòng” của bạn bè cùng lứa, có tuổi thơ thả hồn với đồng ruộng. Bằng Việt cũng có một tuổi thơ da diết vọng về với hình ảnh người bà thân yêu. Chính tình cảm bà cháu thân thương, ấm áp đã đan dệt thành một bài thơ đầy xúc động và khơi gợi nhiều ý nghĩa. Đó là bài thơ “Bếp lửa”.
Khi nhớ về quê hương, người ta thường nhớ về những kỉ niệm gắn bó với làng quê có con sông xanh biếc, cây đa, bến nước, sân đình… Những dòng hồi tưởng của Bằng Việt lại bắt đầu từ hình ảnh thân thương về bếp lửa:
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm”
Từ láy tượng hình “chờn vờn” giúp ta hình dung ánh lửa hồng khi mờ khi tỏ trong sớm mai, gợi về cái mờ nhòa của kí ức theo thời gian. Người cháu xa nhà không thể nào quên được bếp lửa bình dị, thân quen. Không chỉ thấy cái “chờn vờn” của ngọn lửa mà cháu còn cảm nhận được cái hơi ấm của màu than đỏ đang “ấp iu nồng đượm”. Từ láy “ấp iu” vừa diễn tả chính xác công việc nhóm lửa vừa gợi bàn tay khéo léo, kiên nhẫn và tấm lòng chăm chút của người nhóm bếp. Tình cảm trào dậy một cách tự nhiên:
“Cháu thương bà biết mấy nắng mưa!”
“Nắng mưa” là hình ảnh ẩn dụ quen thuộc gợi ra bao vất vả, nhọc nhằn, thăng trầm trong cuộc đời bà để nuôi cháu khôn lớn. Chữ “thương” được dùng thật đắt qua vần thơ cảm thán đã gói trọn bao cảm xúc của cháu dành cho bà. Từ đây bà và bếp lửa là hai hình ảnh sóng đôi, đi suốt dọc bài thơ và theo cả nỗi nhớ của người cháu.
Bài thơ đã sáng tạo hình ảnh bếp lửa vừa thực vừa mang ý nghĩa biểu tượng. Bài thơ có sự kết hợp giữa miêu tả, biểu cảm, tự sự và bình luận, giọng điệu và thể thơ tám chữ phù hợp với cảm xúc hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu. Bài thơ chứa đựng một ý nghĩa thầm kín: Những gì là thân thiết nhất với tuổi thơ mỗi người đều có sức tỏa sáng, nâng đỡ con người trên hành trình dài rộng của cuộc đời.
“Tác phẩm là kết tinh tâm hồn người sáng tác”. Bài thơ “Bếp lửa” đã thể hiện được tất cả tình yêu thương của Bằng Việt đối với người bà kính yêu của mình. Chính tình cảm bà cháu thiêng liêng ấm áp đã đan dệt thành một bài thơ xúc động và mang nhiều ý nghĩa.
Đọc nhiều hơn dành cho bạn ☀️ Phân Tích Khổ 1 Bếp Lửa ☀️ 10 Bài Văn Mẫu Ngắn Hay Nhất
Phân Tích Bài Thơ Bếp Lửa Khổ 2 – Mẫu 17
Tham khảo bài văn mẫu phân tích bài thơ Bếp lửa khổ 2 dưới đây với những gợi ý làm bài sinh động và đặc sắc.
Bằng Việt thuộc thế hệ nhà văn trẻ được rèn luyện và trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thơ Bằng Việt trong trẻo, mượt mà, tràn đầy cảm xúc, đề tài thơ thường đi vào khai thác những kỉ niệm, những kí ức thời thơ ấu và gợi những ước mơ tuổi trẻ.
Thành công nổi bật đầu tiên của Bằng Việt là Bài thơ Bếp lửa (1963). Đó là một bài thơ viết về tình bà cháu, tình gia đình gắn liền với tình quê hương đất nước. Tuổi thơ khó nhọc gian nan cháu bên bà, là những gì mà đã đi cùng cháu đến suốt quãng đời trưởng thành con lại, nhưng những hình ảnh đẹp đẽ, tình thương bà da diết không ngăn nổi những ký ức ùa về:
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi vẫn còn cay!”
Dường như tuổi thơ đầy gian khổ đã ăn sâu và trở thành một nỗi ám ảnh trong tâm trí của tác giả. Nhớ về những tháng ngày thơ ấu bên bà, tác giả như cảm nhận được mùi khói vẫn còn đang hăng nồng bên sống mũi. Cái mùi khói bếp ấy, mùi khói quen thuộc mà cháu đã được chịu đựng từ khi cháu lên bốn, mùi khói đã từng hun nhèm đôi mắt của cháu ngày xưa, mùi khói cay, khét vì củi ướt, ví sương nhiều và giá lạnh.
Mùi khói ấy đâu chỉ do ngọn lửa bập bùng từ bếp của bà, mà đó còn là mùi khói của bom đạn, của chiến tranh, là niềm đau, nỗi cơ cực, là những khó khăn, thiếu thốn của cuộc đời của hai bà cháu nói riêng và những người dân Việt Nam nói chung trong những năm kháng chiến chống Pháp đầy vất vả, gian lao.
Tuổi thơ ấy thật gian khổ, nhọc nhằn và vất vả. Tuổi thơ ấy có cái bóng đen ghê rợn của nạn đói năm 1945. Cụm từ “đói mòn đói mỏi” đã diễn tả xúc động về cái khổ của con người, của cuộc sống trong thời kỳ đó. Ta chợt nhớ đến lời thơ của Tố Hữu miêu tả tình cảnh nhân dân ta ngày ấy:
“Con đói lả ôm lưng mẹ khóc
Mẹ đợ con đấu thóc cầm hơi
Kiếp người cơm vãi cơm vãi rơi
Biết đâu nẻo đất phương trời mà đi”.
Nỗi khổ ấy đã được cụ thể hóa, hình tượng hóa bằng những chi tiết gợi tả:
“Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy”
Bút pháp kể, tả đan lồng vào nhau gây xúc động lòng người. câu thơ vừa miêu tả cái biểu hiện đáng sợ của “giặc đói”, vừa là nguyên nhân khiến đứa cháu phải sống với bà. Cái đói, cái nghèo lan tràn khắp thôn xóm khiến người bố phải lên thành thị đánh xe cùng với con người gầy rộc đi vì không đủ ăn, bỏ lại đứa con thơ cho người đàn bà yêu thương, chăm sóc.
Cảm nhận về nỗi vất vả, đói khổ của tuổi thơ ấu, kỉ niệm như vẫn còn nguyên, tác giả không thể nào quên:
“Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”
Cái cay, cái xót của cuộc sống đói khổ, cơ cực thầm đến lồng xương, ống máu để đến bây giờ, hơn mười năm sau nghĩ lại, cái cảm giác “cay” ấy vẫn còn nguyên vẹn nơi cánh mũi. Cái cay nơi sống mũi cứ lan tỏa, triền miên trong tâm hồn người cháu. Dường như đó là một nỗi niềm mang vị chua xót, nghẹn ngào lẫn yêu thương.
Lời thơ giản dị, đậm chất văn xuôi. Người đọc như đang lạc vào một câu chuyện cổ tích về tuổi thơ của người cháu. Ở đây, bà là một bà tiên, luôn gắn bó, chăm sóc, che chở về cả tinh thần lẫn vật chất cho cháu. Tình yêu thương của bà, tấm lòng nhân hậu của bà như xua tan đi bao đau thương, bao khổ cực chiến tranh. Khổ thơ đã trở thành một trong những khổ thơ gây xúc động lòng người trong cả bài thơ.
Giới thiệu đến bạn 🌟 Phân Tích Khổ 2 Bài Bếp Lửa 🌟 11 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Phân Tích Khổ 1 2 Bếp Lửa – Mẫu 18
Chia sẻ dưới đây bài văn mẫu phân tích khổ 1 2 Bếp lửa giúp các em học sinh luyện tập trau dồi kỹ năng viết.
Quê hương, gia đình, làng xóm là những kỉ niệm đẹp đẽ, bình dị và thân thuộc với những ai xa quê. Đối với nhà thơ Tế Hanh, quê hương là làng chài ven biển “nước bao vây cách biển nửa ngày sông”; với nhà thơ Đỗ Trung Quân thì “Quê hương là chùm khế ngọt”, “là con diều biếc”… Nhưng riêng với Bằng Việt, quê hương của ông gợi về bằng một hình ảnh rất quen thuộc, bình dị, mộc mạc – Bếp lửa. Ra đời năm 1963, bài thơ “Bếp lửa” còn là những dòng cảm xúc nói lên lòng kính yêu với bà và niềm nhớ mong về bà của tác giả.
Trong bài thơ có hai hình ảnh nổi bật, gắn bó mật thiết với nhau, vừa tách bạch, vừa nhòe lẫn trong nhau,tỏa sáng bên nhau. Đó là hình ảnh người bà và bếp lửa. Vì sao trong dòng hồi tưởng và suy nghĩ của nhà thơ, hai hình ảnh ấy lại luôn gắn bó, song hành, đồng hiện? Vì bà luôn hiện diện cùng bếp lửa. Bên bếp lửa là bóng hình bà. Bà nhóm bếp lửa mỗi sáng, mỗi chiều và suốt cả cuộc đời trong từng cảnh ngộ: từ những ngày khó khăn gian khổ đến lúc bình yên.
Bếp lửa còn là biểu tượng giàu ý nghĩa: nó là biểu hiện cụ thể và đầy gợi cảm về sự tảo tần, chăm sóc, và yêu thương của người bà dành cho cháu con. Bếp lửa là tình bà ấm nồng. Bếp lửa là tay bà chăm chút. Bếp lửa gắn với bao vất vả, cực nhọc đời bà. Ngày ngày bà nhóm bếp lửa là nhóm lên sự sống, niềm vui, tình yêu thương, niềm tin, và hi vọng cho cháu con, cho mọi người.
Trong khổ thơ thứ nhất, hình ảnh đầu tiên được tác giả tái hiện là hình ảnh một bếp lửa ở làng quê Việt Nam thời thơ ấu:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.
Ba câu thơ mở đầu đã diễn tả cảm xúc đang dâng lên cùng với những kí ức, hồi tưởng của tác giả về bếp lửa, về bà, là sự khái quát tình cảm của người cháu với cuộc đời lam lũ của người bà. Ba tiếng “một bếp lửa” được nhắc lại hai lần, trở thành điệp khúc mở đầu bài thơ với giọng điệu sâu lắng, khẳng định hình ảnh“bếp lửa” như một dấu ấn không bao giờ phai mờ trong tâm tưởng của nhà thơ. “Bếp lửa chờn vờn sương sớm” là hình ảnh quen thuộc đối với mỗi gia đình Việt Nam trước đây mỗi buổi sớm mai.
Hình ảnh bếp lửa thật ấm áp giữa cái lạnh chờn vờn “sương sớm”,thật thân thương với bao tình cảm “ấp iu nồng đượm”. Từ láy“chờn vờn” rất thực như gợi nhớ, gợi thương đến dáng hình bập bùng, chập chờn của ngọn lửa trong kí ức. Từ láy “ấp iu” gợi bàn tay kiên nhẫn, khéo léo và tấm lòng chi chút của người nhóm lửa, lại rất chính xác với công việc nhóm bếp cụ thể.
Rất tự nhiên, hình ảnh bếp lửa đã làm trỗi dậy tình yêu thương: “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. Tình thương tràn đầy của cháu đã được bộc lộ một cách trực tiếp và giản dị. Đằng sau sự giản dị ấy là cả một tấm lòng, một sự thấu hiểu đến tận cùng những vất vả, nhọc nhằn, lam lũ của đời bà.
Theo dòng hồi tưởng ấy, Bằng Việt trở về với những năm tháng tuổi thơ thiếu thốn, nhọc nhằn ám đầy mùi khói :
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay.
Tuổi thơ ấy có bóng đen ghê rợn của nạn đói năm 1945. Hơn hai triệu người dân Việt Nam chết đói vì chính sách cai trị dã man của giặc Nhật, giặc Pháp. Người sống thì “dật dờ như những bóng ma”. Cái đói cơ hồ đã ám ảnh trong văn chương Việt Nam một thời, đói đến nỗi phải ăn đất sét (trong văn Ngô Tất Tố), những trăn trở về miếng ăn luôn dằn vặt trang viết của Nam Cao… Đến nỗi nhà thơ Chế Lan Viên đã từng tổng kết trong một câu thơ đau đớn: “Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ”.
Hình ảnh “bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy” cũng phần nào diễn tả được hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn của gia đình tác giả trong cái khốn khó chung của những người lao động. “Đói mòn đói mỏi”, “khô rạc ngựa gầy”- những chi tiết thơ đậm chất hiện thực đã tái hiện lại hình ảnh xóm làng xơ xác,tiêu điều cùng những con người tiều tụy, vật lộn mưu sinh. Không trải qua cái đói quay, đói quắt thì Bằng Việt chẳng thể viết được những câu thơ chân thực đến thế!
Ấn tượng nhất đối với cháu trong những năm đói khổ là mùi khói bếp của bà – mùi khói đã hun nhèm mắt cháu để đến bây giờ nghĩ lại “sống mũi còn cay”. Cái cay vì khói bếp của cậu bé bốn tuổi và cái cay bởi xúc động của người cháu đã trưởng thành khi nhớ về bà hòa quyện.Quá khứ và hiện tại đồng hiện trên những dòng thơ. Điều này cho thấy, mùi khói bếp của bà có sức ám ảnh, làm lay động cả thể chất và tâm hồn cháu.
Trong 2 khổ thơ đầu, Bằng Việt đã sáng tạo hình tượng “bếp lửa” vừa mang ý nghĩa thực vừa mang ý nghĩa tượng trưng. Giọng điệu tâm tình trầm lắng, giàu chất suy tư đã làm say lòng người đọc. Và bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt như một triết lí thầm kín. Những gì đẹp đẽ của tuổi thơ đáng được trân trọng và nó sẽ nâng đỡ con người suốt hánh trình dài rộng của cuộc đời. Bằng Việt đã thể hiện lòng yêu thương, biết ơn bà sâu sắc. Lòng biết ơn chính là biểu hiện cụ thể của tình yêu quê hương, đất nước khi đã đi xa.
👉Ngoài Phân Tích Bài Thơ Bếp Lửa Dàn Ý Chia sẻ đến bạn Thơ Bằng Việt ❤️️ Tuyển Tập Trọn Bộ Những Bài Thơ Hay
Phân Tích Khổ 3 Bài Bếp Lửa – Mẫu 19
Khi phân tích bài thơ Bếp lửa khổ 3 cần nắm vững nội dung và nghệ thuật của khổ thơ. Giới thiệu đến bạn mẫu văn phân tích khổ 3 bài thơ Bếp lửa cực hay và độc đáo dưới đây.
Bằng Việt để lại ấn tượng trên thi đàn với giọng văn tự sự, trữ tình riêng biệt, ông đã có những tập thơ để lại dấu ấn trong lòng người đọc như Hương cây – Bếp lửa, Những gương mặt những khoảng trời, Đất sau mưa… Bài thơ “Bếp lửa”, trích từ tập thơ Hương cây – Bếp lửa, là một trong những sáng tác xuất sắc nhất của nhà thơ khi khắc họa lại những ký ức về người bà ở quê nhà trong những năm tháng tác giả xa quê hương.
Bếp lửa là những kỷ niệm khó phai về hình ảnh người bà trong trí tưởng tượng của nhà thơ, mỗi khi nhắc đến bếp lửa, hình ảnh người bà tần tảo lại ùa về trong ký ức. Thuở ấy, tuổi thơ của cháu gắn gắn liền với 8 năm kháng chiến chống Pháp đầy tủi cực.
“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế”
Cháu cùng bà trải qua bao năm tháng, cùng bà sống bên cánh đồng quê hương, cùng bà nhen nhóm yêu thương mỗi ngày bên bếp lửa thân thuộc. “Tám năm”- khoảng thời gian đủ dài để cháu khắc cốt ghi tâm những lời bà dạy, những câu chuyện kể của bà về ngày ở Huế, về những kỉ niệm xưa. Tiếng tu hú vang vọng trong bài thơ như gọi quá khứ trở về, khơi dậy những câu chuyện xưa. Những vần thơ lúc này đây chứa chan những yêu thương, thấm đẫm nỗi niềm xúc động:
“Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc
Tu hú ơi, chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa!”
Có những khi “Giặc đốt làng cháy tàn, cháy rụi” trong khi mẹ và cha bận công tác xa, đứa cháu ngây thơ chỉ biết sống trong vòng tay cưu mang, đùm bọc của bà. “Bà bảo cháu nghe” từng câu chuyện quê hương, “bà dạy cháu làm” từng công việc trong nhà, “bà chăm cháu học” mỗi đêm trong làng vắng tiếng bom thù. Tất cả những nhỏ nhặt, tủn mủn trong cuộc sống đều đặt lên đôi vai của người bà tần tảo khiến bà phải kiên cường mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
Có lẽ phải xa cha mẹ từ bé, sống bên bà bao năm mà tình cảm của cháu dành cho bà luôn lớn lao như thế. Cháu luôn trân trọng công dạy dỗ của bà, những ngày bà dạy cháu làm, bà ân cần chỉ cháu học. Cả những lần bà dặn cháu viết thư đừng kể ra những khó nhọc nơi quê nhà khiến ba mẹ phải để tâm lo lắng. Bà vẫn vậy, luôn lắng lo cho con cho cháu, dẫu có vất vả, có nhọc nhằn vẫn chẳng lời kêu than, trách oan.
Hình ảnh tú hú vẫn kêu xa trên những cánh đồng, lại chẳng thế đến cùng bà phải chăng chính là hình ảnh của cháu lúc này, nỗi nhớ bà đã diết, tiếng gọi bà vọng về nhưng chẳng thể trở về bên bà, chỉ có thể gửi gắm nỗi nhớ qua từng lời thơ.
Hình ảnh bà bao giờ cũng ấm áp yêu thương và tình cảm hai bà cháu bao giờ cũng thắm thiết sâu nặng không dễ gì quên. Bằng lời thơ nhẹ nhàng, tâm tình, hình ảnh giàu giá trị biểu tượng cùng lối viết kết hợp giữa tự sự, trữ tình và biểu cảm, khổ thơ thứ 3 thật sự tràn đầy xúc cảm. Đọc bài thơ, ta thêm hiểu cảm giác của những người con xa quê mong ngóng ngày sum họp, thêm trân trọng những khoảnh khắc sum vầy bên gia đình mình, thêm yêu quê hương, đất nước, nơi đã nuôi dưỡng tâm hồn mình qua bao khoảnh khắc thời gian.
Đừng bỏ qua 🔥 Phân Tích Khổ 3 Bài Bếp Lửa 🔥 12 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Phân Tích Khổ 4 Bài Bếp Lửa – Mẫu 20
Để viết phân tích bài thơ Bếp lửa khổ 4, các em học sinh có thể tham khảo thêm những tư liệu văn đặc sắc. Tặng bạn bài phân tích khổ 4 tác phẩm Bếp lửa thật hay và sâu sắc, xem ngay bên dưới nhé!
Nhà thơ Bằng Việt có một người bà, người mà suốt bao nhiêu tháng năm tuổi thơ đã cùng ông lớn lên, người đã thổi vào tâm hồn thân thiện, giúp ông hiểu thế nào là sự biết ơn, thán phục và là người đã tạo dựng lên cho ông có một tuổi thơ không thể nào quên trong những năm tháng chiến tranh. Chính vì vậy mà bài thơ Bếp lửa được ra đời, một bài thơ ông viết để dành riêng cho người bà kính yêu của mình.
Du học ở một đất nước xa xôi, nó khiến cho ông nhớ lại những kỷ niệm không thể xóa mờ của một tuổi thơ đầy gian khổ, khó nhọc, khoảng thời gian mà ông được nhận tình yêu thương bao bọc của người bà của mình. Khi cô đơn người ta thường hoài niệm, nó hiện về trong ông, về người cháu trong bài thơ.
Kỷ niệm cũ như những thước phim thời thơ ấu tràn về trong tâm tưởng của người cháu:
“Năm giặc đốt làng cháy tàn rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh”.
Chiến tranh. Chỉ cần nhắc đến hai chữ ấy thôi, ai trong chúng ta cũng đều liên tưởng đến tính khốc liệt, tàn ác mà nó đem đến cho dân tộc. Nó đã gây ra bao đau thương, mất mát cho bao người, bao gia đình. Hai bà cháu trong bài thơ cũng không ngoại lệ: gia đình bị chia cắt, nhà cửa bị đốt “cháy tàn cháy rụi”.
Những lúc như vậy, duy chỉ có tình làng xóm, tình cảm giữa những con người cùng khổ, những con người cùng thấm thía được nỗi đau thương của chiến tranh, là không bị hủy diệt. Họ đỡ đần nhau, đùm bọc nhau, cùng nhau vượt qua những ngày tháng gian lao, vất vả.
Và trong hoàn cảnh này, hình ảnh người bà hiện lên thật đẹp với tấm lòng hy sinh cao cả. Nỗi khổ vì nhà của bị giặc tàn phá, bà âm thầm chịu đựng. Từ “lầm lũi” diễn đạt rất xúc động hình ảnh bà lặng lẽ sớm hôm, muốn chia sẻ, gánh vác cùng con cháu những lo toan vất vả, nhọc nhằn.
Bà vẫn chịu thương chịu khó, cặm cụi làm việc chỉ vì không muốn con mình ở chiến khu phải lo lắng cho gia đình:
“Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:
Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,
Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”
Nỗi khổ giặc phá làng xóm, nỗi vất vả, thiếu thốn, bà âm thầm chịu đựng. Chỉ mong sao con mình ở nơi tiền tuyến xa xôi luôn yên lòng để bảo vệ mảnh đất quê hương. Lời dặn dò giản dị ấy không chỉ giúp hiểu thêm về tấm lòng, về tình cảm thương con, thương cháu của người bà, mà còn gián tiếp đề cao những phẩm chất cao quý của bà: bình tĩnh, vững lòng, làm tròn nhiệm vụ hậu phương để yên lòng người đi công tác.
Đức hy sinh, tần tảo; sự nhẫn nại, kiên trì trụ thật vững trong lòng bà đến cảm động! Cháu nhớ đến bà, nghĩ về bà và cảm nhận được rằng: bà đang hiện diện bên mình. Lời bà yêu thương, ấm lòng cứ như văng vẳng bên tai… Làm sao cháu có thể quên?
Mời bạn tiếp tục đón đọc 🌳 Phân Tích Khổ 4 Bài Bếp Lửa 🌳 10 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Phân Tích Khổ 5 Bài Bếp Lửa – Mẫu 21
Phân tích bài thơ Bếp lửa khổ 5 là nội dung nghị luận văn học trọng tâm xoay quanh tác phẩm. Dưới đây là bài phân tích khổ 5 tác phẩm Bếp lửa của nhà thơ Bằng Việt độc đáo nhất, cùng xem ngay nào.
Bằng Việt bắt đầu làm thơ từ những năm 60 của thế kỉ XX. Thơ ông toát lên vẻ đẹp trong sáng mượt mà “như những bức tranh lụa”; rất đằm thắm và sâu sắc khi viết về những kỉ niệm tuổi ấu thơ, tuổi học trò, tình cảm gia đình…
Bài thơ “Bếp lửa” là một trong các bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất cho đặc điểm thơ, phong cách nghệ thuật và sự nghiệp cầm bút của ông. Tác phẩm được sáng tác năm 1963, khi tác giả đang là sinh viên ngành luật bên Liên Xô, là tập thơ đầu tay của Bằng Việt, sau được đưa vào tuyển tập “Hương cây – Bếp lửa” cùng với Lưu Quang vũ. Qua bài thơ người đọc cảm nhận được tình cảm bà cháu bình dị, sâu sắc, cảm động và rất đỗi thiêng liêng, rất đáng trân trọng.
Mạch cảm xúc của bài thơ đi từ hồi tưởng đến hiện tại, từ kỉ niệm đến suy ngẫm. Điều đó được gợi ra qua hình ảnh bếp lửa quê hương và hình ảnh người bà. Từ đó mà người cháu (chính là Bằng Việt) bộc lộ nỗi nhớ về những kỉ niệm thời ấu thơ và được sống trong sự yêu thương, chăm sóc của bà. Đồng thời thể hiện niềm biết ơn, sự kính trọng của người cháu đối với người bà, đối với gia đình, đối với quê hương, đất nước.
Sau những đoạn thơ hồi tưởng về thời ấu thơ được sống cùng bên bà của mình, ở khổ thơ thứ 5, người cháu tiếp tục suy ngẫm, chiêm nghiệm về cuộc đời của bà qua hình ảnh bếp lửa:
Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…
Từ “bếp lửa” bài thơ đã gợi đến “ngọn lửa” với ý nghĩa trừu tượng và khái quát. Bếp lửa bà nhen lên trong mỗi buổi sớm mai và buổi chiều tà không đơn giản chỉ bằng nguyên liệu của tự nhiên, mà cao hơn đã được tác giả nâng lên thành biểu tượng cho tình yêu thương và niềm tin trong sáng, mãnh liệt. Điệp ngữ “một ngọn lửa” vừa có ý nghĩa nhấn mạnh đến sự sống dai dẳng bất diệt của ngọn lửa; lại vừa có ý nghĩa thể hiện tình yêu thương mà người bà dành cho cháu.
Ngọn lửa chính là hình ảnh khúc xạ cho tâm hồn, cho ý chí, nghị lực sống phi thường của người bà. Vì thế, bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người tiếp lửa, truyền lửa cho người cháu thân yêu. Đó là ngọn lửa của sự sống, niềm tin cho thế hệ nối tiếp.
Đoạn thơ dạt dào cảm xúc. Hình tượng bếp lửa được thể hiện độc đáo qua giọng điệu tâm tình, thiết tha; nhịp điệu thơ linh hoạt; kết hợp với lối trùng điệp được sử dụng biến hóa, khiến cho lời thơ với hình ảnh bếp lửa cứ tràn ra, dâng lên, mỗi lúc thêm nồng nàn, ấm nóng. Từ đó, khiến cho người đọc cảm thấy thật thấm thía, xúc động trước nỗi nhớ nhung da diết về những kỉ niệm ấu thơ của người cháu và cả tấm chân tình của nhà thơ đối với người bà kính yêu.
Qua đó, chúng ta càng cảm thấy yêu, càng cảm thấy trân trọng hơn tình cảm đối với gia đình, với quê hương, đất nước. Từ đó, ta mới thấm thía hết được lời bài hát của nhạc sĩ Trung Quân, thật ý nghĩa biết chừng nào:
Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người…
Gợi ý cho bạn ☔ Phân Tích Khổ 5 Bài Bếp Lửa ☔ 12 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Cảm Nhận Khổ 5 Bài Thơ Bếp Lửa Ngắn Hay – Mẫu 22
Gửi bạn tham khảo bài phân tích cảm nhận khổ 5 thơ Bếp Lửa ấn tượng nhất.
Hẳn ai cũng có một quá khứ bên người thân, gia đình. Trong thời kỳ đất nước chống giặc ngoại xâm, biết bao người đã rời khỏi gia đình để nhập ngũ, dốc sức vì đất nước. Nhà thơ Bằng Việt cũng có một tuổi thơ mà bố mẹ ông đều đi đánh giặc. Một mình sống với bà nhưng ông không hề cảm thấy cô đơn mà còn rất tự hào và vui sướng vì được sống bên bà. Ông đã sáng tác nên bài thơ “Bếp lửa” để nói lên tình cảm của ông giành cho bà cũng như khẳng định rằng bếp lửa không chỉ làm ấm tình cảm bà cháu mà còn sưởi ấm một đời người.
Trong khổ thơ thứ 5 bài Bếp lửa, giữa những ngày tháng vất vả của thời chiến, bà vẫn giữ vững hy vọng, một niềm tin mãnh liệt vào kháng chiến:
“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…”
Giữa tro tàn, mất mát, đau thương, bà lại nhóm lửa. Bếp lửa ân cần ấm cúng, nhẫn nại của bà tương phản hoàn toàn với ngọn lửa hung tàn, thiêu hủy dã man của bọn giặc. Bếp lửa bà nhen ấm nồng tình yêu thương, niềm tin trong sáng mà “lòng bà luôn ủ sẵn”, “chứa niềm tin dai dẳng”.
Bếp lửa bà nhen không chỉ là bếp lửa thông thường nữa mà nó chứa ngọn lửa của nghĩa tình, ngọn lửa nhóm lên trong tâm hồn đứa cháu thơ một tình cảm rộng lớn. Đó là tình bà hằng ấp ủ, tình thương bao la dạt dào suốt cả cuộc đời bà luôn dành cho cháu và những người thân yêu. Từ “bếp lửa” của lòng yêu gia đình và quê hương đất giờ đã trở thành hình ảnh “ngọn lửa” mang đậm giá trị biểu tượng.
Ngọn lửa. Đó là sức sống, là niềm hy vọng và niềm tin mãnh liệt của bà vào cuộc kháng chiến, vào một tương lai tươi sáng, một tương lai không có chiến tranh. Đất nước được độc lập, hòa bình, gia đình được đoàn tụ, sum họp. Ngọn lửa ấm nồng như tình bà cháu, soi sáng cả quãng đường cháu đi. Đây cũng là hình ảnh bao trùm, khái quát, là nét tình cảm tinh túy của cả bài thơ.
Hình ảnh người bà hiện lên thật mộc mạc mà rực rỡ, một người bà cần cù, bền bỉ, chắt chiu, giàu nghị lực và có tấm lòng hi sinh cao cả. Đó là hiện thân của người phụ nữ Việt Nam, người mẹ Việt Nam trong các cuộc chiến tranh khốc liệt, vừa anh hùng, trung hậu, dũng cảm, vừa rất mực đảm đang. Ba câu thơ như một nốt nhấn, một điệp khúc khó quên trong bản tình ca: tình bà thiêng liêng cao quý.
Từ tình cảm bà cháu, bài thơ nâng dần thành tình cảm yêu làng quê, yêu Tổ quốc. Và hình tượng “bếp lửa” tượng trưng cho những kỷ niệm ấm lòng đã trở thành niềm tin thiêng liêng, kỳ diệu, in sâu vào tâm hồn tác giả; là hành trang để người cháu bước vào đời, nâng cánh ước mơ cho cháu ở những phương trời xa…
Trong khổ thơ thứ 5, bằng việc vận dụng âm điệu thơ trữ tình, sâu lắng; ngôn ngữ thơ bình dị, hình tượng bếp lửa sáng tạo cùng với các điệp ngữ, ẩn dụ đặc sắc, bài thơ đã khắc họa chân thực, xúc động hình ảnh người bà giàu tình yêu thương, đức hi sinh; tình bà cháu ấm nồng, sâu nặng thiết tha…
Qua đó, tác giả đã bộc lộ thật xúc động tâm trạng nhớ nhung cùng với tình yêu thương xen lẫn cảm phục đối với người bà đáng kính. Đọc xong bài thơ, người đọc như được sưởi chung với Bằng Việt hơi ấm của tình yêu thương của gia đình, của cội nguồn, của Tổ quốc. Bếp lửa bồi dưỡng cho mỗi chúng ta cách sống nghĩa tình, nhân hậu, thủy chung. Bài thơ cũng là bài học đạo lý sâu sắc, thấm thía mà đến với nó, ta như tìm được những yêu thương, ấp ủ mặn nồng của cuộc sống đến suốt cuộc đời không thể nào quên.
Đừng bỏ qua 🔥 Sơ Đồ Tư Duy Ánh Trăng Nguyễn Duy 🔥 12 Mẫu Vẽ Tóm Tắt
Phân Tích Bài Thơ Bếp Lửa Khổ 6 – Mẫu 23
Đón đọc bài văn phân tích bài thơ Bếp lửa khổ 6 dưới đây sẽ giúp các em học sinh tham khảo hoàn thành tốt bài viết trên lớp.
Bằng Việt sinh năm 1941, là một nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Năm 1963, Bằng Việt sáng tác bài thơ Bếp Lửa, một bài thơ có nhiều đặc sắc về giá trị nghệ thuật và nội dung. Đặc biệt có giá trị về mặt nội dung bài thơ, gợi lại những kỉ niệm về người bà, tình cảm bà cháu sâu sắc, thấm thía. Bài thơ đã để lại nhiều cảm xúc đối với người đọc.
Hình ảnh bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa, ngọn lửa của sự sống, niềm tin cho các thế hệ nối tiếp. Trong khổ thơ thứ 6 đã thể hiện niềm tự hào, lòng biết ơn bà đối với đức hi sinh tần tảo bền bỉ của người bà kính yêu:
“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,
Nhóm nồi xôi gạo mới, sẻ chung vui,
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ…
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa! “
Những suy nghĩ của cháu về bà và việc bà nhóm lửa trong suốt cuộc đời trải qua “bao nắng mưa mấy chục năm rồi” bà nhóm lửa không chỉ bằng đôi bàn tay gầy guộc mà bằng cả tấm lòng đôn hậu “Ấp iu nồng đượm…” của bà với cháu và mọi người. Điệp từ nhóm cùng câu thơ cảm thán khắc sâu hình ảnh người bà tiêu biểu cho những phẩm chất cao quí của người phụ nữ Việt Nam, tần tảo, nhẫn lại đầy yêu thương.
Bà nhóm lên bếp lửa cũng là nhóm lên niềm vui sự sống, niềm yêu thương chăm chút dành cho con cháu và mọi người chính vì thế mà nhà thơ cảm nhận được trong hình ảnh bếp lửa bình dị gần gũi thân thuộc sự kì diệu thiêng liêng: “Ôi! kì lạ và thiêng liêng bếp lửa”. Bếp lửa thật giản dị, bình thường và phổ biến trong mọi gia đình Việt Nam, nhưng bếp lửa cũng thật cao quý, kì diệu, thiêng liêng vì nó luôn gắn liền với bà – người giữ lửa tạo lên tuổi thơ ấu của cháu…
Tóm lại, bài thơ “Bếp lửa” đã khơi dậy cho mỗi chúng ta một tình cảm cao đẹp đối với quê hương, gia đình và xã hội. Càng đọc, càng suy ngẫm thấm thía từng lời thơ của Bằng Việt ta lại càng hiểu thế nào là nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương, nhớ hình ảnh quen thuộc gắn liền với bếp lửa.
Qua khổ thơ thứ 6, tác giả muốn gửi gắm cho các thế hệ chúng ta cần phải nhớ về cội nguồn, nhớ về những nơi đã sinh ra ta khôn lớn, nhớ về những hình ảnh thiêng liêng bên bếp lửa để giúp cho cuộc sống của chúng ta trở nên ý nghĩa hơn.
Tham khảo thêm 🌳 Phân Tích Khổ 6 Bài Bếp Lửa 🌳 11 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Phân Tích Khổ 6 Bài Bếp Lửa Mở Rộng – Mẫu 24
Tặng bạn mẫu phân tích khổ 6 bài thơ Bếp lửa. Cùng xem để có bài làm văn thật hay cho mình nhé!
Tuổi thơ của mỗi một con người đều hiện diện những hình ảnh rất thiêng liêng đáng quý trong ký ức, đó có thể là bóng dáng của người mẹ với những lời ru ngọt ngào, người cha với những lời dạy sâu sắc,… Và đối với tác giả Bằng Việt thì đó là hình ảnh người bà và bếp lửa đầy thiêng thiêng, đã nằm sâu trong ký ức tuổi thơ, với những tình cảm kính yêu, mặn nồng chan chứa của người cháu dành cho bà trong bài thơ Bếp lửa.
Phong cách thơ của Bằng Việt giàu những suy tưởng, triết luận sâu sắc, giọng thơ trầm bổng, tâm tình, thủ thỉ. Bài thơ Bếp lửa được sáng tác năm 1963, khi tác giả có chuyến đi du học ở nước ngoài, rời xa quê hương. Tác phẩm được in trong tập Hương cây – Bếp lửa (1968) cùng chung với tác giả Lưu Quang Vũ.
Xuyên suốt một bài thơ dài như thế có lẽ hình ảnh người bà và bếp lửa hiện lên rõ nét và thiêng liêng nhất trong ký ức, với nhiều những suy ngẫm của tác giả ở trong đoạn thơ sau:
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,
Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui,
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ…
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”
Người cháu đã có những suy ngẫm về cuộc đời của bà. Bà nuôi cháu nhỏ từ năm lên 4, cuộc đời bà vốn chất đầy những khó khăn cực nhọc, bà là hiện thân của những người phụ nữ chịu thương chịu khó, tần tảo sớm trưa, hết nuôi con nay lại nuôi cháu.
Cứ như thế “Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa”, mà bà chưa một lần than khó nhọc. Bà chăm chỉ, thức khuya dậy sớm, thói quen ấy dường như đã ăn sâu vào tâm hồn của bà “mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ”, bà chưa một lúc nào quên nhóm lên ngọn lửa hồng nơi góc bếp, nấu cho gia đình những bữa ăn giản dị, khoai sắn nhưng đầy ắp tình yêu thương, bảo bọc.
Bếp lửa bà nhóm mỗi sớm chiều là hiện thân cho những tình cảm chan chứa của người bà dành cho cháu, là sự đoàn kết sẻ chia lẫn nhau trong gia đình và bếp lửa ấy cũng chính là khởi nguồn cho những giấc mơ trong tâm hồn của người cháu. Bếp lửa ấy tưởng thân quen và bình dị nhưng nó lại mang cả những giá trị và ý nghĩa cực kỳ thiêng liêng sâu sắc mà Bằng Việt đã phải thốt lên “Ôi! Kỳ lạ và thiêng liêng-Bếp lửa”.
Đúng như vậy, qua những dòng ký ức của người cháu, ta có thể nhận ra rằng, bếp lửa và người bà là những ký ức đáng quý nhất trong lòng người cháu, bà giống như người giữ lửa và truyền lửa cho cháu. Ngọn lửa trong tâm hồn ấy là tinh thần yêu quê hương, đất nước sâu sắc, nỗi khát khao được ra tiền tuyến giành lại tự do cho dân tộc, cho bà.
Và hình ảnh bếp lửa của bà cứ bập bùng mấy chục năm trời ấy chính là niềm tin bất diệt của người bà cũng là của người cháu về một tương lai đất nước tươi đẹp hơn, về một tương lai bà cháu đoàn tụ, về lại bên nhau như những ngày thơ bé.
Trong khổ thơ thứ 6, bằng những hình ảnh giản dị, trong sáng và thân thuộc kết hợp với giọng thơ như thủ thỉ tâm tình, hình ảnh người bà và ngọn lửa trong ký ức của tác giả đã hiện lên với một tình cảm ấm áp, trân trọng. Hình ảnh ấy cũng mang nhiều ý nghĩa sâu sắc và triết luận về niềm tin chiến thắng, về tình yêu thương tin tưởng của người bà dành cho đứa cháu đang ở chiến trường xa xôi, đó là những tình cảm cao đẹp và trân quý nhất.
Gửi đến bạn 🍃 Phân Tích Bài Thơ Ánh Trăng Của Nguyễn Duy 🍃 Những Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Phân Tích Bài Thơ Bếp Lửa Lận Đận Đời Bà – Mẫu 25
Chia sẻ dưới đây bài văn mẫu phân tích bài thơ Bếp lửa lận đận đời bà giúp các em học sinh có thêm gợi ý làm bài phong phú.
Ai sinh ra và lớn lên cũng mang theo bên mình một hành trang chứa đựng bao kỷ niệm của một thời tuổi thơ. Cái tuổi thơ của một thời trong trẻo bên người thân. Và với riêng nhà thơ Bằng Việt thì ông đã có cho mình một tuổi thơ như thế, tuổi thơ bên người bà, những kỷ niệm mà cho mãi đến sau này khi đã trưởng thành, khi xa nhà thì những kỷ niệm đó vẫn trở về hiện hữu.
Những kỷ niệm về bà bên chiếc bếp lửa chính lý do mà bài thơ Bếp lửa ra đời. Tác phẩm đã thể hiện tình cảm bà cháu tha thiết qua những dòng hồi tưởng của tác giả chân thành và cảm động. Điều này được bộc lộ rõ nét qua hai khổ cuối của bài.
Khổ thơ đầu là những suy ngẫm sâu sắc của nhà thơ, của đứa cháu về cuộc đời của bà:
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Một lần nữa, tác giả khẳng định cuộc sống của bà còn nhiều vất vả, thiếu thốn “lận đận, biết mấy nắng mưa”. Bà cần mẫn, chịu thương chịu khó, thức khuya “dậy sớm” vì con vì cháu. Những vần thơ chan chứa bao nghĩa nặng tình sâu của đứa cháu đối với bà. Bà quen dậy sớm để tiếp tục nhóm lên ngọn lửa:
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Điệp từ “nhóm” được nhắc lại bốn lần gắn với hành động nhóm bếp, nhóm lửa của bà. Bà nhóm lên những gì? Đầu tiên là nhóm bếp lửa “ấp iu nồng đượm” để sưởi ấm cho bà cháu qua cái lạnh của sương sớm. Bà nhóm bếp luộc khoai luộc sắn cho cháu ăn đỡ đói lòng, đem đến cho đứa cháu nhỏ cái ngọt bùi của sắn khoai, của tình thương yêu vô hạn.
Rồi “nồi xôi gạo mới sẻ chung vui” của bà thay lời dạy cháu phải biết mở lòng với mọi người xung quanh, phải biết đoàn kết, gắn bó với xóm làng. Cuối cùng, “nhóm dậy tâm tình tuổi nhỏ” – bà không chỉ là người chăm lo cho cháu đầy đủ về vật chất mà còn là người làm cho tuổi thơ của cháu thêm đẹp, thêm lung linh huyền ảo. Theo mạch suy ngẫm đó, nhà thơ đi đến khái quát rất tự nhiên và hợp lí:
Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!
Đúng vậy. Bếp lửa thật giản dị, phổ biến trong mỗi gia đình Việt Nam, nhưng bếp lửa cũng thật cao quý, kì diệu và thiêng liêng vì nó luôn gắn liền với bà – người giữ lửa, nhóm lửa, truyền lửa, người tạo nên tuổi thơ của cháu.
Bếp lửa nhóm lên không chỉ bằng nhiên liệu bên ngoài mà được nhóm lên từ chính ngọn lửa trong lòng bà. Bếp lửa trở thành một mảnh tâm hồn, một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của cháu. Hơn thế, qua bếp lửa của bà, người đọc cảm nhận thật sâu sắc linh hồn của một dân tộc vất vả gian lao mà tình nghĩa.
Trong bài thơ, mười lần xuất hiện bếp lửa là mười lần tác giả nhắc tới bà. Người bà đã, đang và sẽ mãi mãi là người quan trọng nhất đối với cháu dù ở bất kì phương trời nào. Bốn câu kết thể hiện một cách xúc động tình thương nhớ, niềm kính yêu và biết ơn của đứa cháu bé bỏng nay đã đi xa:
Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tà
Có lửa trăm nhà, tiền vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở.
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?
Cháu đã lớn khôn, đã được sống trong cuộc đời mới thật vui thật đẹp, giữa ngọn khói trăm tàu lửa trăm nhà. Nhưng cháu vẫn không thể quên bếp lửa đơn sơ ấm áp của bà để rồi mỗi ngày đều tự hỏi: “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”. Câu hỏi mà cũng là lời khẳng định: Cháu sẽ không bao giờ quên và chẳng thể nào quên được bà và bếp lửa vì đó chính là nguồn cội, là nơi mà tuổi thơ cháu đã được nuôi dưỡng và lớn lên từ đó.
Chúng ta biết rằng bài thơ này được viết khi tác giả đang là sinh viên du học tại Liên Xô. Ở nơi xứ lạ xa xôi, tác giả nhớ về bếp lửa, về bà cũng đồng nghĩa nhở về tổ ấm gia đình với niềm vui sum họp, nhớ thương quê hương đất nước. Như nhà thơ I – li – a Ê – ren – bua đã viết : “Lòng yêu nhà yêu làng xóm yêu miền quê … trở lên lòng yêu tổ quốc.
“Bếp lửa” là một bài thơ hay, kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố biểu cảm, tự sự và trữ tình, nhiều hình ảnh ẩn dụ đặc sắc. Tình bà cháu trong bài thơ là tình cảm thiêng liêng, cảm động. Bà dành cho cháu những hi sinh thành lặng. Bà là mái ấm chở che, bao bọc tuổi thơ dại khổ của cháu trước những mất mát, đau thương của cuộc sống.
Và người cháu dù lớn khối, xa vòng tay bà vẫn nhớ đến bà với lòng tin yêu và biết ơn sâu sắc. Ngọn lửa bà trao cho, cháu được cháu giữ vẹn nguyên để trở thành ngọn lửa trường tồn bất diệt. Bài thơ đã khơi dậy trong lòng người đọc một tình cảm đẹp đối với gia đình, quê hương, đất nước.
Mời bạn xem nhiều hơn 🌹 Cảm Nhận Bài Thơ Ánh Trăng 🌹 10 Bài Văn Mẫu Hay
Phân Tích Khổ Cuối Bài Bếp Lửa – Mẫu 26
Phân tích khổ cuối bài Bếp lửa đầy ý nghĩa. Cùng tham khảo ngay cho mình nhé!
Trong cuộc đời, ai cũng có riêng cho mình những kỉ niệm của một thời ấu thơ hồn nhiên, trong sáng. Những kỉ niệm ấy là những điều thiêng liêng, thân thiết nhất, nó có sức mạnh phi thường nâng đỡ con người suốt hành trình dài và rộng của cuộc đời. Bằng Việt cũng có riêng một kỉ niệm, đó chính là những tháng năm sống bên bà, cùng bà nhóm lên bếp lửa thân thương.
Khổ thơ cuối là lời tư bạch của người cháu đi xa khi đã trưởng thành. Nhà thơ đã làm nổi bật sức mạnh cội nguồn ấy. Khoảng cách về không gian, thời gian và khói trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả không thể làm cháu lãng quên ánh sáng và hơi ấm từ bếp lửa của bà, của quê hương, không quên được những lời dặn dò, tấm lòng ấm áp của bà, những tân tuy hi sinh vì tình nghĩa của bà…
Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu,
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở
-Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?
Hình ảnh bếp lửa gọi lại trong lòng cháu kỷ niệm về năm lên bốn tuổi đói kém, bếp khói hun nhèm mắt. Rồi những mùa vải chín, chim tu hú kêu, những câu chuyện kể của bà. Những việc bà dạy bảo, bà chăm cháu học, bà lo lắng cho mọi người. Bếp lửa gợi lại những niềm vui của nồi xôi gạo mới, niềm yêu thương, những tâm tình tuổi thơ.
Bếp lửa tượng trưng cho tình cảm vững bền của bà cháu, tình quê hương sâu nặng. Chính vì thế, khi người cháu đi xa, có những niềm vui mới, có những tình cảm mới, có những bến bờ mới, nhưng vẫn không thể quên bếp lửa, nơi ủ sẵn tình cảm bà cháu, quê hương. Đó là đạo lí thuỷ chung cao đẹp của con người Việt Nam được nuôi dưỡng trong mỗi tâm hồn con người từ thuở ấu thơ.
Tấm lòng mong nhớ, trân trọng, mến yêu của người cháu được kết thúc bằng câu hỏi tu từ: mai này bà nhóm bếp lên. Câu hỏi tu từ ấy gợi cho người đọc cảm nhận như có một nỗi nhớ khắc khoải, thường trực, một nỗi nhớ đau đáu khôn nguôi, luôn nhớ về bà.
Nhớ về bà cũng chính là nhớ về quê hương, nhớ về cội nguồn. Đó là những tình cảm kính trọng, biết ơn, là nỗi nhớ thương da diết của đứa cháu dành cho người bà kính yêu của mình. Đôi mắt càng già càng thấm thía yêu thương. Dù da dẻ khô đi, vẻ ngoài cằn cỗi nhưng tấm lòng không hẹp lại. Đâu chỉ giàu kiên nhẫn mà bà còn nặng đức hi sinh.
Tác giả đã rất thành công trong việc sáng tạo một hình tượng vừa mang ý nghĩa thực, vừa mang ý nghĩa biểu tượng: Bếp lửa. Kết hợp miêu tả, biểu cảm, tự sự và bình luận: giọng điệu và thể thơ tám chữ phù hợp với cảm xúc, hồi tưởng và suy ngẫm trong khổ cuối khép lại bài thơ.
Bài thơ chứa đựng một ý nghĩa, triết lý thầm: những gì thân thiết của tuổi thơ mỗi người đều có sức tỏa sáng, nâng đỡ con người suốt hành trình dài rộng của cuộc đời. Tình yêu thương và lòng biết ơn bà chính là một biểu hiện cụ thể của tình yêu thương, sự gắn bó với gia đình, quê hương, đất nước.
Tiếp theo đón đọc 🌻 Phân Tích Khổ Cuối Bài Bếp Lửa 🌻 12 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Trên đây là tuyển tập một số bài văn mẫu phân tích tác phân tích Bếp lửa đầy cảm xúc và ấn tượng nhất! Cảm ơn bạn đã tham khảo tại scr.vn.