Thuyết Minh Về Bài Thơ Tiểu Đội Xe Không Kính ❤️️ 37+ Mẫu ✅ Tuyển Tập Văn Đặc Sắc Giúp Học Sinh Luyện Tập Và Nâng Cao Kỹ Năng Viết.
Dàn Ý Thuyết Minh Về Bài Thơ Tiểu Đội Xe Không Kính
Cùng tham khảo mẫu Dàn Ý Thuyết Minh Về Bài Thơ Tiểu Đội Xe Không Kính để có thể dễ dàng triển khai bài văn logic nhất.
- Mở bài
- Từ đề tài tác phẩm liên quan đến người lính trong kháng chiến để dẫn dắt về tác giả Phạm Tiến Duật và bài thơ
- Nêu đánh giá chung ban đầu
- Thân bài: thuyết minh bài thơ về tiểu đội xe không kính
- Tác giả Phạm Tiến Duật
- Sinh năm 1941 mất năm 2007
- Quê ở huyện Thanh Ba tỉnh Phú Thọ
- Năm 1946 ông gia nhập vào quân đội hoạt động trên tuyến đường Trường Sơn
- Không biết về hình ảnh của người lính và những cô gái thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn
- Giọng điệu thơ sôi nổi trẻ trung tinh nghịch vào chất lính
- Bài thơ về tiểu đội xe không kính
- Được sáng tác vào năm 1969 trong lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra gay go ác liệt
- Được in trong tập thơ “vầng trăng quầng lửa”
- Đề tài của tác phẩm là chiến tranh và người lính
- Có thể chia tác phẩm thành 3 phần
- Khắc họa nổi bật hình ảnh người lính lái xe ở Trường Sơn trong thời kỳ chống Mỹ với tư thế hiên ngang tinh thần lạc quan dũng cảm
- Thể thơ tự do ngôn ngữ ngang tàn tinh nghịch giàu tính khẩu ngữ
- Biện pháp nghệ thuật so sánh nhân hóa hoán dụ Điệp Từ liệt kê đối lập đảo ngữ động từ mạnh điệp cấu trúc
- Khái quát lại giá trị tác phẩm
- Tác giả Phạm Tiến Duật
- Kết bài
- Đánh giá chung
- Cảm nhận cá nhân
Chia Sẻ Bài 🌹 Thuyết Minh Về Bài Thơ Đồng Chí ❤️️ 15 Bài Văn Hay Nhất
Bài Văn Thuyết Minh Về Bài Thơ Tiểu Đội Xe Không Kính – Bài 1
Bài Văn Thuyết Minh Về Bài Thơ Tiểu Đội Xe Không Kính là tài liệu tham khảo hữu ích để các em có thêm nhiều tư liệu ôn tập tốt.
Những năm tháng chống Mỹ hào hùng của dân tộc đã để lại biết bao hồi ức và những dấu ấn khó phai mờ. Hình ảnh những những cô gái thanh niên xung phong, anh bộ đội cụ Hồ là một trong những hình ảnh đẹp nhất, lãng mạn và anh hùng nhất trong kháng chiến. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” chính là một trong những minh chứng tiêu biểu cho nét tinh nghịch cũng như tinh thần bất khuất, hiên ngang hào hùng của người chiến sĩ.
Với phong cách thơ tự do phóng khoáng, “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một bài thơ đặc sắc, tiêu biểu cho phong cách thơ Phạm Tiến Duật. Đây cũng là bài thơ nằm trong chùm thơ được giải nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ năm 1969 – 1970.
Mở đầu bài thơ là một hình ảnh hết sức cụ thể, chân thực và độc đáo:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Chỉ với hai câu thơ như hai nét chấm phá đã khiến cho người đọc hình dung được bức tranh ác liệt, tàn khốc của chiến tranh. Những chiếc xe vốn có kính, đã có kính nhưng vì “bom giật bom rung” cho nên “kính vỡ đi rồi”. Chiến tranh với những mưa bom bão đạn đã tàn phá những chiếc xe, làm cho chúng biến dạng, méo mó khiến cho chúng trở nên khác thường. Kì dị và độc đáo chính là những tính từ miêu tả chính xác cho những chiếc xe như vậy. Và có thể thấy rằng, lời giải thích rất thật thà, đơn giản nhưng lại chứa đựng một hiện thực sâu sắc.
Không có kính, tưởng chừng như thiếu thốn, tưởng chừng như vất vả nhưng ở đây những chiến sĩ lái xe lại không hề bi quan. Họ biến hình ảnh chiếc xe không kính không bình thường thành cái bình thường và biến cái thiếu thốn, khó khăn thành điều thú vị. Chính vì thế mà người đọc bắt gặp ở đây những nét tinh nghịch và lạc quan của người lính:
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời nhìn thẳng
Hai từ “ung dung” đảo lên đầu câu cho thấy tư thế hiên ngang, có thể làm chủ được tay lái, làm chủ được con đường phía trước của người lính lái xe. Không những thế, đại từ “ta” vừa là chỉ người lái xe, vừa là đại diện cho nhiều người, cho một đất nước trong tư thế sẵn sàng chiến đấu để giành lại độc lập, tự do và hòa bình. Với tâm thế này, thì phía trước là trời đất bao la, rộng lớn hay phía trước là những khó khăn vất vả thì người chiến sĩ vẫn tự tin tiến về phía trước, quân dân ta vẫn hùng mạnh bước tới.
Thật là điều vô lý nhưng lại rất hợp lý, bởi lẽ xe không có kính, mọi cảnh vật rất tự nhiên và chân thực. Ngay cả gió cũng có thể “nhìn thấy”, còn sao trời, cánh chim thì “như sa, như ùa vào buồng lại”. Từ “nhìn” cũng không chỉ đơn thuần là thị giác nữa mà đó còn cảm nhận, tình cảm: “Thấy con đường chạy thẳng vào tim”. Có lẽ trong lòng người chiến sỹ đang có một ý chí quyết tâm cao độ nên mới cảm nhận được sự tinh tế cũng như nhận ra những hiểm nguy phía trước, vẫn cố gắng kiên cường để vượt qua. Một không gian bao la, rộng lớn như bao trùm lên phía trước.
Nếu đoạn thơ trên nói đến những hình ảnh đẹp thì đoạn thơ tiếp theo sau lại nói về những vất vả, thiếu thốn của người lính lái xe. Song, dù ở bất kì hoàn cảnh nào thì các anh vẫn luôn nở nụ cười lạc quan, hóm hỉnh đầy chất lính.
Gió bụi của hiện thực và cũng là những gian khổ, thử thách mà các chiến sĩ lái xe phải vượt qua trên suốt chặng đường ra mặt trận. Qua chặng đường đầy gió bụi, mái tóc xanh của các chàng trai có sự thay đổi đáng sợ: “Bụi phun tóc trắng như người già”. Thế nhưng các anh vẫn rất lạc quan, yêu đời và hóm hỉnh: “Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”.
Trời nắng thì bụi. Trời mưa thì ướt sũng “như ngoài trời”, “Mưa tuôn mưa xối” thẳng vào người vì buồng lái đâu có kính che chắn gì nữa. Vậy là trên suốt chặng đường dài, người lính đã phải nếm trải đủ mùi gian khổ: gió bụi, mưa rừng.
Mặc dù vượt hết khó khăn này lại tới khó khăn kia nhưng người lính vẫn ngang tàng, phơi phới lạc quan: “Chưa cần rửa, lái trăm cây số nữa/ Mưa ngừng gió lùa khô mau thôi”. Điệp từ “chưa cần” đã cho thấy cái “ngông”, cái bất cần đời của anh lính bộ đội cụ Hồ. Những gió, những bụi chỉ là những cái khó khăn vụn vặt, cho nên các anh chẳng hề quan tâm. Thiên nhiên có khắc nghiệt, chiến tranh có tàn khốc thì cũng không làm chùn bước, ý chí của người lính cách mạng.
Qua bao bom đạn, từ khắp các ngả đường, những chiếc xe đã cùng về một nơi tụ hội để kể cho nhau nghe những chặng đường mà mình đã đi qua. Hình ảnh “bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi” đã cho thấy tinh thần đoàn kết, gắn bó với nhau của các chiến sĩ lái xe. Đó cũng chính là tinh thần của toàn dân ta, cùng nhau vượt qua những khốn khó gian lao để tiến bước đi đến thành công.
Những tình cảm ấy đã làm thành sức mạnh, giúp cho những người lính trở nên mạnh mẽ và lạc quan hơn. Chiến tranh vì thế cũng bớt thảm khốc, bớt ảm đạm hơn.
Một lần, sự tàn khốc của chiến tranh lại được Phạm Tiến Duật nhắc đến thông qua những chi tiết như xe “không kính, không đèn, không mui, thùng xe có xước”. Nhưng dù chiến tranh có tàn khốc đến mấy thì ý chí và sự nỗ lực vì miền Nam vẫn không ngừng nghỉ. Hình ảnh “trái tim” chính là một hình ảnh đẹp. Nó tượng trưng cho lý tưởng chiến thắng, thống nhất nước nhà. Những chiếc xe ngày đêm băng qua mọi nẻo đường, tất cả chỉ nhằm giúp sức cho miền Nam toàn thắng.
Với hình ảnh người chiến sĩ vận tải kiên cường, hùng dũng và đầy lạc quan, hóm hỉnh, “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Và cái kết tinh đẹp nhất trong bài thơ ấy chính là tình đồng chí gắn bó và tình yêu Tổ quốc thiêng liêng.
Đón Đọc Bài 🍀 Thuyết Minh Về Truyện Ngắn ❤️️ 15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Thuyết Minh Về Bài Thơ Tiểu Đội Xe Không Kính Ngắn – Bài 2
Bài văn Thuyết Minh Về Bài Thơ Tiểu Đội Xe Không Kính Ngắn được nhiều bạn đọc quan tâm và chia sẻ sau đây.
Hình ảnh những người lính hoạt động trên tuyến đường Trường Sơn đã trở nên quen thuộc với mỗi người Việt Nam. Họ là những anh hùng của dân tộc những người không sợ hy sinh để chiến đấu bảo vệ hòa bình cho đất nước. 97 công lao to lớn ấy mà họ đã trở thành hình tượng cao đẹp cho các văn nghệ sĩ mà Phạm Tiến Duật cũng thế. Gắn liền với tên tuổi của ông là bài thơ ” Bài thơ về tiểu đội xe không kính”
Phạm Tiến Duật sinh năm 1941 mất năm 2007 quê ở huyện Thanh Ba tỉnh Phú Thọ. Năm 1946 ông gia nhập vào quân đội hoạt động trên tuyến đường Trường Sơn và trở thành một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ thời kỳ chống Mỹ cứu nước. Hai hình tượng nổi bật trong thơ của Phạm Tiến Duật là người lính và những cô thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn. Thơ của ông có giọng điệu sôi nổi trẻ trung ngang tàn tinh nghịch giàu chất lính.
Bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” được viết vào năm 1969 trong lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước diễn ra gay go ác liệt. Bài thơ được in trong tập thơ ” vầng trăng quầng lửa” của tác giả được tặng giải nhất cuộc thi thơ của báo văn nghệ năm 1969.
Khi phân tích bài thơ ta có thể chia làm 3 phần. Phần thứ nhất gồm hai khổ thơ đầu với nội dung là tư thế hiên ngang ra trận của người lính, phần thứ hai gồm bốn khổ thơ tiếp theo nêu lên tinh thần dũng cảm lạc quan và phần thứ ba là khổ thơ cuối cùng nêu lên ý chí chiến đấu. Bên cạnh đó cũng có thể chia thành hai ý chính để phân tích là hình ảnh những chiếc xe không kính và người lính lái xe Trường Sơn xuyên suốt bài thơ.
Về nội dung qua hình ảnh độc đáo những chiếc xe không kính bài thơ đã khắc họa nổi bật hình ảnh người lính lái xe ở Trường Sơn trong thời kỳ chống Mỹ với tư thế hiên ngang tinh thần lạc quan dũng cảm bất chấp khó khăn nguy hiểm và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
Để xây dựng thành công nội dung cũng không thể không kể đến sự góp mặt của những nét nghệ thuật đặc sắc. đó là thể thơ tự do ngôn ngữ thơ ngang tàn tinh nghịch giàu tính khẩu ngữ tự nhiên khỏe khoắn và việc sử dụng một loạt các biện pháp nghệ thuật như so sánh nhân hóa hoán dụ điệp từ liệt kê đối lập đảo ngữ động từ mạnh và điệp cấu trúc.
Năm tháng dần trôi những công lao to lớn của các anh đã được ghi chép đầy đủ trong kho tàng lịch sử nước nhà cũng như trong thơ ca. Đọc bài thơ về Tiểu Đội Xe Không Kính càng khơi dậy trong em niềm tự hào về những vị anh hùng của dân tộc đã hi sinh xương máu của mình đến ngày nay chúng ta có được một cuộc sống yên bình và tươi đẹp.
Xem Thêm Bài 🌿 Thuyết Minh Về Truyện Ngắn Làng ❤️️ 10 Bài Văn Mẫu Hay
Thuyết Minh Về Bài Thơ Tiểu Đội Xe Không Kính Hay – Bài 3
Thuyết Minh Về Bài Thơ Tiểu Đội Xe Không Kính Hay giúp các em có thêm nhiều tài liệu ôn tập và nâng cao kĩ năng viết của mình.
Cuộc kháng chiến chống mỹ cứu nước đầy cam go và oanh liệt của nhân dân đã kết thúc thắng lợi. Trong “mưa bom bão đạn” trên tuyến đường Trường Sơn trước đây có bao kỳ tích xảy ra. Một trong những thần thoại của thế kỷ XX là hình ảnh nhưng đoàn xe không có kính vẫn băng ra trận tuyến, nối đuôi nhau đi lên phía trước, góp phần làm nên những kỳ tích của dân tộc.
Xúc động trước hiện thực lớn lao đó của đồng đội. Phạm Tiến Duật đã sáng tác “bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Trong bài ca người lính độc đáo này, tác giả đã bộc lộ cảm xúc, suy nghĩ của mình về những chiến sĩ lái xe, về dân tộc và đất nước :
“……. Những chiếc xe từ trong bom rơi … Chỉ cần trong xe có một trái tim.”
Tìm hiểu bài thơ và đặc biệt ba đoạn thơ trên ta sẽ cảm nhận được cái hay, cái đẹp kỳ diệu của thơ ca Việt Nam thời chống mỹ cứu nước.
Nhịp đập ở đây hơi lắng lại. Người chiến sĩ đang nói về đồng đội và cũng đang tự nói về mình. “Từ trong bom rơi” có nghĩa là từ trong ác liệt, từ trong cái chết trở về. Vượt qua tuyến lửa, bom rơi, những chiếc xe bỗng tụ nhau thành tiểu đội thật kỳ khôi, thú vị. Tiểu đội những chiếc xe không kính. Những con người đã qua thử thách trên con đường đi tới bỗng trở thành bạn bè và cái “bắt tay qua cửa kính vỡ rồi “ mới thật tự hào, sảng khoái biết bao!
Hình như, chính ô cửa vỡ ấy khiến họ gần nhau thêm, khiến cái bắt tay của họ thêm chặt hơn và tình đồng đội lại càng thêm thắm thiết. Cái bắt tay qua ô cửa kính vỡ như là sự chia sẻ, cảm thông lẫn nhau của người lính Trường Sơn. Đó là sự mừng vui, là chúc mừng nhau hoàn thành nhiệm vụ,cũng là niềm tin, niềm tự hào của người chiến thắng. Đoàn xe không kính ngày càng ra đi xa. Càng đi sâu vào chiến trường.
Sinh hoạt của người lái xe, cái ăn cái ngủ bình thường của con người, được tóm lược vào trong hai hình ảnh “Bếp Hoàng Cầm” và “võng mắc chông chênh”. Cái gì cũng tạm bợ, cơ động, gian khổ nhưng cách nhìn, cách nghĩ của người chiến sĩ vế chúng thật tươi tắn và cảm động : là gia đình đấy. Chất thơ nghịch ngợm đầy ý vị đã mở ra từ những hình ảnh chân chất đời lính đã ấm lên tình đồng ngũ, nghĩa anh em.
Sức sống thơ cũng chính là ở đây và câu thơ đó đã cất cánh bay cao :” Lại đi, lại đi, trời xanh thêm”. Hai chữ “lại đi” được lặp lại biểu hiện đoàn xe không ngừng tiến tới, không một sức mạnh bạo tàn nào của giặc Mỹ có thể ngăn nổi. “Trời xanh thêm” là một hình ảnh đầy chất thơ và giàu ý nghĩa. Trời xanh là trời đẹp, bầu trời yên tĩnh, không gian cao xa … Câu thơ đã gợi mở biết bao tâm hồn vẫn sôi nổi lên đường, rộng mở những ngày mai, những ngày vẫn “xanh thêm” niềm tin chiến thắng …
Khổ thơ cuối cùng, vẫn một giọng thơ mộc mạc, gần với lời nói bình thường. Vậy mà nhạc điệu, hình ảnh, ngôn ngữ rất đẹp, rất thơ, cảm hứng và suy tưởng vừa bay bổng, vừa sâu sắc để hoàn thiện bức chân dung tuyệt vời của người chiến sĩ vận tải Trường Sơn:
Bốn câu thơ dựng hai hình ảnh đối lập đầy kịch tính, rất bất ngờ, thú vị. Hai câu đầu dồn dập, những mất mát, khó khăn do quân địch gieo xuống : không kính, không đèn, không mui, thùng xe có xước. Điệp ngữ “không có” nhắc lại ba lần như nhân lên ba lần những thử thách khốc liệt. Hai câu cuối âm điệu đối chọi lại, trôi chảy, êm ru.
Hình ảnh đậm nét. Vậy là đoàn xe đã chiến thắng, vượt lên bom đạn, hăm hở hướng ra phía trước, hướng ra tiền tuyến lớn với một tình cảm thiêng liêng “vì miền Nam.” Vì cuộc chiến đấu giành độc lập, thống nhất cho cả nước. đặc biệt, tỏa sáng chói ngời cả đoạn thơ là hình ảnh “trong xe có một trái tim.”
Thì ra cội nguồn sức mạnh của cả đoàn xe, gốc rễ phẩm chất anh hùng của người cầm lái tích tự động kết lại ở cái “trái tim” gan góc, kiên cường,giàu bản lĩnh và chan chứa tình yêu thương này. Phải chăng chính trái tim co người đã cầm lái ? Tình yêu tổ quốc, tình thương đồng bào, đồng chí ở miền Nam đau khổ đã khích lệ, động viên người chiến sĩ vững tay lái xe về tới đích ?
Và ẩn sau ý nghĩa “trái tim cầm lái”, câu thơ còn muốn hướng người đọc về một chân lý của thời đại chúng ta :sức mạnh quyết định chiến thắng không phải là vũ khí, là công cụ… mà là con người, con người mang trái tim nồng nàn yêu thương, ý chí kiên cường, dũng cảm, niềm lạc quan và mọi niềm tin vững chắc.
Có thể nói, cả bài thơ, hay nhất là câu thơ cuối cùng. Nó là “con mắt của thơ” bật sáng chủ đề, tỏa sáng vẻ đẹp của hình tượng nhân vật trong thơ. Bài thơ được khép lại mà âm hưởng của nó như vẫn vang xa chính là nhờ câu thơ ấy.
Đọc Thêm Bài 🌿Thuyết Minh Về Truyện Ngắn Lão Hạc ❤️️ 15 Bài Văn Hay
Văn Mẫu Thuyết Minh Về Bài Thơ Tiểu Đội Xe Không Kính – Bài 4
Văn Mẫu Thuyết Minh Về Bài Thơ Tiểu Đội Xe Không Kính giúp các em có thể học hỏi và trau dồi thêm nhiều kĩ năng viết hay, ấn tượng.
Trong chùm thơ bốn bài của Phạm Tiến Duật đoạt giải nhất cuộc thi thơ Tuần báo Văn nghệ năm 1969, có ba bài viết về đường Trường Sơn, cụ thể là những chiến sĩ lái xe, thanh niên xung phong trên con đường huyền thoại ấy. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một trong ba bài ấy. Khi in lại bài thơ này, có nhà biên tập có ý muốn bỏ đi ba chữ đầu tiên, chỉ để lại “Tiểu đội xe không kính”, với lý luận rằng “ba chữ bài thơ về là thừa ra, vì ai đọc lên chẳng biết đây là bài thơ”.
Như vậy là chưa hiểu được ý của tác giả. Ở bài thơ này, để nói sự lạc quan của lính vận tải trên đường Trường Sơn, tác giả nhìn thực tế bằng con mắt chiến sĩ lái xe: Mọi gian khổ, khó khăn chỉ là chuyện vặt, xe không có kính có cái hay, cái được mà xe có kính không có! Hay nói một cách khác, tác giả viết bài thơ này để ngợi ca tiểu đội xe không kính mà nội dung sự ngợi ca đó đã báo trước trong ba chữ bài thơ về nằm ở đầu đề.
Để hiểu được hoàn cảnh ra đời của bài thơ này, chúng ta cùng nhắc lại một thực tế: Trong 16 năm, từ 1959 đến 1975, qua đường Trường Sơn chúng ta đã chở vào chiến trường miền Nam hơn một triệu tấn hàng và vũ khí nhưng cũng bị máy bay Mỹ đốt cháy và phá hủy mất 90 nghìn tấn hàng và 14.500 xe, máy. Chính Phạm Tiến Duật từng viết: “Mỗi trọng điểm là một nghĩa địa ô tô. Xác xe cháy ngổn ngang lưng đèo, đỉnh núi”.
Biết bao chiếc xe đã được thu gom, chắp nhặt từ các nghĩa địa ô tô đó. Chỉ cần có bánh xe, máy nổ là coi như còn xe. Và tất nhiên, người ta phải chắp nhặt những bộ phận sót lại ở những chiếc xe khác nhau để làm nên một chiếc xe có thể chạy được. Đã có biết bao tiểu đội xe vận tải có những chiếc xe như thế chạy, chở hàng đã hoạt động trên đường Trường Sơn, thế thì mất kính có thấm tháp gì đâu ngoài việc tạo sự phóng túng cho lính lái:
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất nhìn trời, nhìn thẳng.
Thì ra chiến sĩ lái xe không hề bận tâm về việc xe mình không có kính, ngược lại, chính xe không có kính càng tạo cho anh cái thế ung dung ngồi trong buồng lái mà không có gì ngăn cách với thiên nhiên
Sao trời và cánh chim là biểu tượng của ban đêm và ban ngày. Xe chạy không phân biệt ngày đêm, nhưng thực tế những năm tháng ấy, xe chạy đêm là chính để tránh máy bay Mỹ. Lòng yêu những con đường của người lái xe được tác giả mô tả bằng cảm giác khi xe chạy nhanh: “con đường chạy thẳng vào tim”, chạy thẳng được vì không có kính ngăn lại!
Điệp ngữ ừ thì thể hiện sự tất yếu đã biết, là một lẽ tất nhiên đã lường trước. Bụi chỉ làm trắng tóc lính trẻ, chỉ gây chuyện vui, chuyện buồn cười:
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Còn mưa ướt áo, ừ thì chuyện xoàng:
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa mau khô thôi.
Chúng ta lưu ý rằng, cái gió lùa hong khô áo đó chính do xe không có kính mang lại! Qua hai khổ thơ coi chuyện khó khăn do việc xe không có kính mang lại là chuyện vặt, tác giả trở lại khai thác cái thuận lợi, cái được sinh ra từ xe không có kính, đó là việc thể hiện tình đồng đội, đồng chí, tình những người lính lái xe trên tuyến lửa:
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Động tác bắt tay nhau vồn vã này không thể làm được khi xe có kính! Phạm Tiến Duật là nhà thơ tiêu biểu thế hệ nhà thơ thời chiến tranh chống Mỹ, những người luôn khai thác ở lính tinh thần lạc quan, coi thường gian khổ, chắt lọc ngọt ngào từ cay đắng, tìm kiếm thuận lợi từ khó khăn.
Bên cạnh đó, ý thức trách nhiệm của thế hệ nhà thơ này cũng luôn thường trực: Tất cả vì công cuộc giải phóng miền Nam. Đọc khổ cuối bài thơ này, chúng ta không chỉ biết được rằng tiểu đội xe không kính chỉ là một ví dụ, còn bao chiếc xe nữa thiếu nhiều thứ khác, mặc dù vũ khí và phương tiện là quan trọng, nhưng con người mới quyết định:
Không có kính rồi không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Trong khổ thơ này có một chữ mà tác giả và bạn đọc đều chưa ưng ý, đó là chữ xước, bởi từ đó quá nhẹ, nên dùng cho những chiếc xe con sang trọng bị va quệt nhẹ tróc sơn, hơn là dùng cho những chiếc xe tải đã đi qua bom đạn mà có khi thùng xe chỉ còn lại vài thanh xơ tướp hoặc gẫy gập, cháy sém. Đã có lần chính tác giả muốn sửa lại từ này, nhưng lại thôi vì nghĩ nó đã nhập tâm vào bạn đọc rồi
Nói về ngôn ngữ của bài thơ này, nhà thơ Phạm Tiến Duật tâm sự: “Tôi không tự cho tôi cái quyền quy định phạm vi ngôn ngữ cho từng bài thơ. Mỗi bài thơ có một văn hóa riêng, ngôn ngữ riêng”. Và theo tôi, ngôn ngữ trong bài thơ này là ngôn ngữ của lính, chính xác hơn là ngôn ngữ của cánh lính lái xe rất phù hợp với nội dung coi thường gian khổ, hy sinh… trong hoàn cảnh thiếu thốn mọi thứ và cái chết luôn cận kề khi thực thi nhiệm vụ của mình.
Gợi Ý Bài 🌿 Thuyết Minh Đặc Điểm Chính Của Truyện Ngắn ❤️️12 Mẫu Hay
Thuyết Minh Về Bài Thơ Tiểu Đội Xe Không Kính Chi Tiết – Bài 5
Cùng khám phá những thông tin hay và thú vị qua bài văn Thuyết Minh Về Bài Thơ Tiểu Đội Xe Không Kính Chi Tiết sau đây.
Được coi là “viên ngọc Trường sơn” của thơ ca, Phạm Tiến Duật, với những bài thơ nóng hổi chất thời sự, chất lính nhưng cũng rất trữ tình, giàu sức gợi đã cuốn hút người đọc. Trong số rất nhiều những bài thơ ấy phải kể đến Bài thơ về tiểu đội xe không kính.
Phạm Tiến Duật (1941-2007), quê ở huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ. Tốt nghiệp đại học năm 1964, tạm biệt giảng đường và đến với Trường Sơn, công tác tại binh đoàn vận tải 559 (Binh đoàn có nhiệm vụ chuyên chở vũ khí, quân trang, vật dụng từ Miền Bắc vào chiến trường Miền Nam).
Sau chiến tranh, Phạm Tiến Duật tiếp tục hoạt động trên lĩnh vực văn học với những đóng góp đáng kể cho văn học nước nhà. Là nhà thơ quân đội trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Lửa đèn, Trường Sơn đông, Trường Sơn tây, Gửi em cô thanh niên xung phong, Bài thơ về tiểu đội xe không kính … là những bài thơ nổi tiếng của nhà thơ – chiến sĩ này.
Có bài đã được phổ nhạc vang lên như một bài ca chiến trận. Thơ Phạm Tiến Duật sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, phơi phới tinh nghịch mà sâu sắc. Trong thơ của mình, Phạm Tiến Duật tập trung thể hiện hình ảnh thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ qua các hình tượng người lính và cô thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn.
Nhà thơ đã được nhận Giải nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ 1969-1970. Các tác phẩm đã xuất bản bao gồm: Vầng trăng quầng lửa (thơ, 1970); Thơ một chặng đường (thơ, 1971); Ở hai đầu núi (thơ, 1981); Vầng trăng và những quầng lửa (thơ, 1983); Thơ một chặng đường (tập tuyển, 1994); Nhóm lửa (thơ, 1996).
Bài thơ về tiểu đội xe không kính được Phạm Tiến Duật sáng tác vào năm 1969 in trong tập Vầng trăng-quầng lửa (1970), nằm trong chùm thơ của Phạm Tiến Duật được giải nhất báo Văn nghệ năm 1969. Trong bài thơ, tác giả đã thể hiện khá đặc sắc hình ảnh những chiến sĩ lái xe và những chiếc xe không kính ngộ nghĩnh trong đoàn vận tải quân sự trên con đường chiến lược Trường Sơn thời đánh Mỹ: dũng cảm, ngoan cường, lạc quan, yêu đời… trong mưa bom bão đạn.
Qua đó ca ngợi thế hệ trẻ trong kháng chiến chống Mỹ quyết chiến đấu hy sinh vì một lý tưởng cao cả là giải phóng Miền Nam thống nhất Tổ quốc. Bài thơ về tiểu đội xe không kính vừa mang tính chiến đấu nóng bỏng, tính thời sự vừa mang tầm vóc lịch sử.
Đọc bài thơ ta bắt gặp giọng thơ rất trẻ, rất lính, ngôn ngữ thơ giản dị đậm chất văn xuôi, hình ảnh thơ sáng tạo bất ngờ, đặc biệt là sự linh hoạt của nhạc điệu trong thơ đã góp phần tạo nên sức hấp dẫn sâu sắc của bài thơ trong lòng độc giả. Chất giọng ấy bắt nguồn từ tâm hồn phơi phới của thế hệ trẻ, từ trái tim yêu nước nồng nàn và ý thức về vai trò của thế hệ mình trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc mà chính Phạm Tiến Duật đã từng sống, từng trải nghiệm.
Bài thơ về tiểu đội xe không kính trở thành biểu tượng tuyệt vời cho thế hệ trẻ Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ và có vị trí xứng đáng trong thơ ca cách mạng Việt Nam.
Xem Thêm Bài ❤️️ Thuyết Minh Truyện Kiều ❤️️ 12 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Bài Văn Thuyết Minh Về Bài Thơ Tiểu Đội Xe Không Kính Đơn Giản – Bài 6
Bài Văn Thuyết Minh Về Bài Thơ Tiểu Đội Xe Không Kính Đơn Giản được nhiều bạn đọc quan tâm và chia sẻ sau đây.
Phạm Tiến Duật là một trong những nhà thơ trẻ tiêu biểu trong những năm kháng chiến chống Mĩ. Với phong cách trẻ sôi nổi, hồn nhiên mà sâu sắc, những bài thơ viết về hình ảnh thế hệ trẻ Việt Nam qua hình tượng những cô gái thanh niên xung phong và những anh bộ đội trên tuyến đường Trường Sơn trong thời kì kháng chiến đã để lại trong người đọc ấn tượng sâu đậm. Bài thơ về tiểu đội xe không kính là một bài thơ như thế.
Những chiếc xe không có kính – hình ảnh thơ độc đáo đã khiến cho nhan đề bài thơ trở nên hết sức đặc biệt – tưởng chừng như tác giả sắp viết một câu truyện dài vậy. Hình ảnh ấy đã làm nổi bật lên hình tượng những người lính trẻ, những người lái xe ở thời kì đó: trẻ trung, sôi nổi và có gì đó ngang tàng, hóm hỉnh. Không biết nhà thơ đã bao giờ ngồi trong buồng lái hay trực tiếp cầm vô lăng chưa mà giọng thơ lại sôi động, tự nhiên và đầy hứng khởi đến vậy?
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Từ ngôn từ, phong cách, nội dung đến nhịp điệu thơ đều rất tự nhiên, mộc mạc, có sức gợi tả, gợi cầm. Câu thơ làm hiện lên trước mắt người đọc một hình ảnh lạ lùng: những chiếc xe không kính. Mặt khác, lời giải thích của tác giả về những chiếc xe đặc biệt ấy cũng rất đỗi chân thực đến gần như là lột trần ra một chiếc xe đã bị phá huỷ bởi bom giật, bom rung – những động từ mạnh làm nổi bật hình ảnh và ý thơ.
Hai câu thơ thật tự nhiên, không có hình ảnh hoa mĩ, tráng lệ, không có hình ảnh tượng trưng, giọng thơ có chút gì đó ngang tàng tạo nên điểm khởi đầu đầy ấn tượng cho bài thơ. Rồi ở khổ cuối cùng của bài thơ, Phạm Tiến Duật lại một lần nữa tái hiện lại hình ảnh chiếc xe:
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước,
Những chiếc xe ấy bị biến dạng, bị phá huỷ gần như là toàn bộ. Bom đạn, chiến tranh mới khốc liệt làm sao: sắt thép còn như thế nữa thì huống chi con người. Vậy mà, những chiếc xe ấy, dưới con mắt của Phạm Tiến Duật, vẫn hiện lên một cách rất độc đáo, rất có hồn, rất ngang tàng.
Và vô hình trung, chúng đã trở thành biểu tượng đặc trưng của cuộc kháng chiến chống Mĩ. Và có lẽ vì thế, mà chúng đã làm nổi bật lên hình ảnh những người lính lái xe – thế hệ trẻ Việt Nam hiện lên trong cuộc kháng chiến trường kì. Thơ như lời nói, lời kể chân tình:
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Giọng thơ âm vang rộn rã, tràn đầy sức sống sôi nổi của tuổi mười tám, đôi mươi. Những người lính trẻ ấy thật kiên cường và trẻ trung, hóm hỉnh. Không chỉ vậy, họ còn là những người đồng chí gắn bó keo sơn, khăng khít. Sự tụ họp lại của những chiếc xe đồng cảnh ngộ đã gắn kết những người lính lại với nhau và qua của kính vỡ họ làm quen với nhau:
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Chao ôi! Kì lạ làm sao! Những con người ấy vốn dĩ không hề quen biết vậy mà giờ đây, trong gian khổ, họ thân thiết gắn bó, họ chào nhau như những người bạn đã quen. Và rồi kỉ niệm như ùa về trong tâm trí nhà thơ. Có lẽ vì ông cũng là một người lính nên ông thấu hiểu, đồng cảm tình đồng đội, đồng chí:
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Gia đình – hai tiếng thân thương gợi hình ảnh những con người cùng huyết thống. Họ, những người lính Trường Sơn ấy, cũng mang trong mình dòng máu nóng – dòng máu sôi sục khát vọng giải phóng miền Nam, giải phóng đất nước:
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Tuy chiếc xe có bị phá huỷ, nát tan đến mức nào, dù gian khổ khó khăn bao nhiêu, nhưng chỉ cần trong xe có một trái tim. Đúng vậy! Chính tình yêu Tổ quốc đã cầm lái, đã là động lực thúc đẩy, giúp những người lính có thêm sức mạnh trước mỗi khó khăn. Lời thơ nhẹ nhàng như một lời khẳng định chắc nịch, ngắn gọn.
Câu thơ kết của bài thơ có lẽ là câu thơ hay nhất đã kết lại sức mạnh của con người chính là ở tình yêu, tình yêu Tổ quốc, tình thương đồng bào và tình yêu hoá thành ý chí – kiên cường và vững bền. Nhưng đồng thời, nó cũng mở ra, gợi ra cánh cửa ánh sáng: miền Nam, nơi mà người dân đang trông ngóng cách mạng trong từng khoảnh khắc.
Phạm Tiến Duật với lời thơ, chất thơ trẻ trung, ngang tàng, nghịch ngợm, có phần tếu táo đã làm cho bài thơ trở nên thật đặc biệt, rất có hồn. Ngôn từ giản dị, thơ mà có nhạc, trong nhạc có thơ, hình ảnh sáng tạo mà vẫn đầy chân thực… Tất cả những yếu tố đó đã tạo nên dấu ấn đặc trưng cho tác phẩm – in sâu trong tâm trí người đọc một thế hệ trẻ anh hùng. Trong những năm kháng chiến chống Mĩ gian khổ, ác liệt.
Đọc thêm văn mẫu ❤️️Thuyết Minh Về Tác Phẩm Bình Ngô Đại Cáo ❤️️ 15 Bài Hay
Thuyết Minh Về Bài Thơ Tiểu Đội Xe Không Kính Ngắn Hay – Bài 7
Thuyết Minh Về Bài Thơ Tiểu Đội Xe Không Kính Ngắn Hay được nhiều bạn đọc quan tâm và chia sẻ rộng rãi đến các bạn đọc.
Là một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ thời chống Mĩ cứu nước, Phạm Tiến Duật đem đến cho người đọc sự vui tươi, hồn nhiên, tinh nghịch trong thơ ông. Bài thơ về tiểu đội xe không kính có giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, dí dỏm làm nổi bật hình ảnh những anh chiến sĩ lái xe Trường Sơn ngang tàng, ung dung và lạc quan yêu đời.
Không như các nhà thơ khác, Phạm Tiến Duật đã thể hiện tính cách khác người của mình ngay ở hai câu thơ mở đầu. Không mĩ lệ hoá, không dùng hình ảnh thiên nhiên đẹp đẽ để so sánh, không trau chuốt, không bóng bẩy, hình ảnh chiếc xe trong thơ Phạm Tiến Duật rất trần trụi, bình dị, không nguyên vẹn:
Không có kính không phải vì xe không có kính.
Đơn giản là vì “Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi” nên xe không còn nguyên vẹn nữa. Thế nhưng, chiếc xe không kính ấy vẫn băng băng ra chiến trường.
Chiếc xe đầy tự tin, không hề lo sợ trước bom đạn khủng khiếp của giặc Mĩ. Khác với những gì trần trụi bên ngoài, đây là một chiếc xe dũng cảm, hiên ngang. Xe vẫn băng ra tiền tuyến trên những đoạn đường đầy hiểm nguy. Có khác chăng đó là hình tượng những anh chiến sĩ lái xe Trường Sơn. Vì xe không có kính nên các anh được tiếp xúc trực tiếp với thế giới bên ngoài. Gió, sao trời, cánh chim, và cả bầu trời rộng cũng ùa vào buồng lái, hoà cùng nhịp thở nhộn nhịp của các anh:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái.
Không có một sự ràng buộc hay rào cản nào ngăn cách các anh tiếp xúc với đất trời. Mà cả thiên nhiên cũng muốn hoà mình với khí thế ấy. Chính vì thế mà các anh có thể nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng một cách rất thoải mái, tự nhiên.
Không có kính thì điều kiện chiến đấu cũng thiếu thốn nhưng các anh vẫn yêu đời, vẫn tự tin vào chiến thắng. Các anh xem mọi trở ngại chỉ là dịp để thử thách bản thân:
Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già.
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau, mặt lấm, cười ha ha.
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
Điệp cấu trúc “không có kính… ừ thì” chưa cần thể hiện tính cách ngàng tàng, bất chấp tất cả khó khăn. Không có kính chắn bụi thì đương nhiên phải có bụi bám lên tóc, nhưng các anh vẫn không lo, cứ để vậy mà nhìn nhau, mặt lấm, cười ha ha. Không có kính che mưa thì dĩ nhiên phải ướt áo, dù áo ướt nhưng các anh cũng mặc kệ, cứ để vậy mà lái tiếp bởi mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi. Các anh vẫn giữ cái tư thế ấy, hiên ngang mà sao yêu đời quá đi thôi! Dù có thiếu thốn, cực khổ đến đâu, các anh vẫn yêu thương, chia sẻ cho nhau tình yêu thương:
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Dường như trong chiến đấu gian khổ giúp chiến sĩ tôi rèn ý chí và giúp cho tình đồng đội của các anh thêm gắn bó, keo sơn. Dù vào sinh ra tử nhưng người lính vẫn hồn nhiên, vô tư và lạc quan tin tưởng. Chỉ một cái bắt tay qua khung kính vỡ rồi những cũng đủ gieo vào nhau những tình cảm tốt đẹp, các anh động viên nhau tiến bước quân hành. Tình cảm ấy đã làm các anh cảm thấy đầm ấm khi cùng chung tiểu đội:
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.
Tiểu đội của các anh như một gia đình vui vẻ, hạnh phúc. Ở đó có vẻ đẹp của sự sum họp, chan hoà. Các anh có chung một điểm tựa, tâm hồn nên gia đình ở chiến trường của các anh đều cùng chung một nhiệm vụ thiêng liêng. Các anh luôn tin tưởng vào tương lai đang chờ đợi phía trước. Câu thơ lại đi, lại đi trời xanh thêm với năm thanh bằng và điệp ngữ lại đi đã tạo nên một âm điệu thanh thản, nhẹ nhàng.
Điều làm nên sự chiến thắng của các anh chính là lòng yêu nước, là ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà:
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước,
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cản trong xe có một trái tim.
Ở các anh có sự tương phản rõ rệt giữa vật chất và tinh thần, giữa bên ngoài và bên trong, giữa cái không có và cái có. Bom đạn kẻ thù đã làm cho xe không có rất nhiều. Không kính, không đèn, không mui nên chiếc xe đã trở nên trần trụi đến kì lạ, xe không còn nguyên vẹn… Nhưng một thứ rất cần mà các anh đã có, đó là trái tim yêu nước.
Trái tim đầy nhiệt thành cách mạng, sẽ chiến thắng những thiếu thốn về vật chất. Trái tim yêu nước đã điều khiển chiếc xe không nguyên vẹn ấy băng về phía trước, nơi miền Nam ruột thịt. Sức mạnh để xe băng mình ra trận chính là sức mạnh của trái tim người lính.
Với chất liệu hiện thực độc đáo, bài thơ thể hiện hình ảnh hào hùng của chiếc xe không kính, qua đó khắc hoạ nổi bật hình ảnh cao quí của người lính lái xe ở Trường Sơn trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứa nước.
Xem thêm văn mẫu ❤️️Thuyết Minh Về Tác Giả Nam Cao ❤️️ 10 Bài Văn Mẫu Hay
Bài Văn Thuyết Minh Về Bài Thơ Tiểu Đội Xe Không Kính Đặc Sắc – Bài 8
Bài Văn Thuyết Minh Về Bài Thơ Tiểu Đội Xe Không Kính Đặc Sắc giúp các em có thêm nhiều tư liệu hay để làm bài văn của mình.
Bài thơ đã khắc họa thành công hình ảnh những chiếc xe không kính và những người lính lái xe ở chiến trường Trường Sơn trong kháng chiến chống Mĩ. Qua đó, nhà thơ phản ánh hiện thực khốc liệt của chiến tranh và tinh thần lạc quan, dũng cảm, tư thế hiên ngang, bất khuất, ý chiến chiến đấu ngoan cường của những người lính trong công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Đầu tiên, điểm gây ấn tượng khác lạ và độc đáo ban đầu nơi người đọc qua tác phẩm là cách đặt nhan đề của Phạm Tiến Duật: “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Nhan đề khá dài, có vẻ như có chỗ thừa nhưng chính cái điểm ấy mà tạo nên cái độc lạ, thu hút sự chú ý của bạn đọc. Tác giả đã thêm vào nhan đề tác phẩm hai chữ “bài thơ”, điều đó cho thấy được chất thơ trong bài thơ, đồng thời cho thấy được cái nhìn lãng mạn của tác giả trước hiện thực khốc liệt của chiến tranh về những chiếc xe không kính do bom rơi, đạn lạc.
Và với cách đặt nhan đề bài thơ như vậy, Phạm Tiến Duật cũng muốn nhấn mạnh đến những chiếc xe không kính trong khói lửa chiến tranh chỉ có ở chiến trường miền Nam thời kháng chiến chống Mĩ có rất nhiều, rất đông trở thành cả một “tiểu đội xe không kính”.
Từ đó, nhà thơ làm nổi bật lên sự tàn khốc của chiến tranh và tinh thần hiên ngang, dũng cảm, sôi nổi và trẻ trung của người lính khi lái những chiếc xe không kính bon bon ra chiến trường. Cho nên, ngay nhan đề thơ đã gợi mở chủ đề, tạo được giọng điệu, sắc thái thẩm mĩ riêng cho toàn bộ bài thơ: hóm hình, tươi vui, tinh nghịch, rất lính tráng.
Mở đầu bài thơ là lời giới thiệu về hình ảnh của những chiếc xe không kính vẫn băng băng tiến ra chiến trường. Tác giả chỉ ra nguyên nhân của những chiếc xe không có kính bằng một câu thơ văn xuôi rất tự nhiên, rất chân thực.
Nhưng tất cả những xe cộ, tàu thuyền ấy khi đi vào thơ đều được lãng mạn hóa, mang một ý nghĩa biểu tượng nào đó. Còn những chiếc xe không kính của Phạm Tiến Duật lại xuất phát từ hình ảnh có thực, thật đến trần trụi, “sống sít”.
Điệp từ “không” được lặp lại ba lần trong một dòng thơ kết hợp với động từ mạnh “giật” , “rung” vừa có ý nghĩa giải thích nguyên nhân xe không có kính, lại vừa có ý nghĩa nhấn mạnh đến sự dữ dội, tàn phá của chiến tranh. Không dừng lại ở đó, trong chiến tranh bom rơi đạn lạc, những chiếc xe không chỉ bị vỡ kính mà còn bị biến dạng trở nên hết sức trần trụi khủng khiếp:
Chủ nhân của những chiếc xe không kính ấy là những người chiến sĩ lái xe Trường Sơn. Phạm Tiến Duật đã dùng thủ pháp “đòn bẩy”, những chiếc xe không kính càng trần trụi, khốc liệt bao nhiêu thì phẩm chất của những người lính lái xe lại càng nổi bật lên bấy nhiêu. Qua đó tác giả muốn cho người đọc thấy được: lòng quả cảm, can trường, bất chấp mọi hiểm nguy, thiếu thốn của người lính lái xe nơi chiến trường.
Các câu thơ được viết lên bằng sự trải nghiệm của người trong cuộc nên vô cùng chân thực. Không có kính nên các anh chiến sĩ phải đối diện với biết bao nhiêu là sự nguy hiểm, khó khăn. Nào là “gió vào xoa mắt đắng”, nào là sao trời, cánh chim “như sa, như ùa vào mặt, vào người, vào buồng lái của người lính lái xe. Các động từ mạnh “chạy thẳng, đột ngột, như sa, như ùa” đã cho thấy những cảm giác đầy căng thẳng, thách thức và hiểm nguy mà người lính phải đối diện.
Người lính lái xe không chỉ hiện lên là những chàng dũng sĩ, hiên ngang, bất khuất, sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn, nguy hiểm mà họ còn là những người chiến sĩ trẻ tuổi, trẻ lòng chan chứa tình đồng chí, đồng đội. Có thể nói, khó khăn, thử thách không chỉ tôi luyện cho người lính thêm bản lĩnh, thêm ý chí, nghị lực kiên cường mà còn giúp cho tình bạn, tình đồng chí, đồng đội của họ thêm gắn bó, keo sơn:
Trên dọc đường từ hậu phương ra tiền tuyến có biết bao nhiêu những chiếc xe không kính ào ào ra trận. Họ gặp gỡ nhau và chào hỏi nhau bằng cái bắt tay qua ô cửa kính vỡ. Cái cầm tay, nắm tay là một hành động đẹp, chứa chan tình cảm đồng chí đồng đội. Họ truyền cho nhau hơi ấm của tình thương, động viên và cảm thông với nhau lúc hiểm nguy khó khăn, vất vả.
Những câu thơ được viết ra mang đậm khẩu khí ngang tàn sôi nổi của những người lính kháng Mĩ. Họ hăm hở nhập ngũ lên đường với một mục tiêu cao cả tiêu diệt giặc, bảo vệ quê hương. Mọi khó khăn, gian nan, mọi hiểm nguy, trông gai, những người lính đã chia sẻ, động viên giúp đỡ lẫn nhau cùng vượt qua thử thách. Người đọc như cảm nhận thấy mọi khó khăn ấy đều trở nên nhẹ tựa lông hồng trước tiếng cười lạc quan của anh bộ đội cụ Hồ.
Cuối cùng, động lực mạnh mẽ và sâu xa tạo nên sức mạnh tinh thần lớn lao, bất chấp mọi nguy nan, mọi sự hủy diệt, tàn phá của kẻ thù ở người chiến sĩ đó chính là ý chí chiến đấu vì giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Bom, đạn có thể làm chiếc xe trở nên trần trụi, tàn tạ nhưng không thể nào đè bẹp được ý chí chiến đấu của những người lính lái xe. Hình ảnh “trái tim” vừa là hình ảnh hoán dụ, vừa là hình ảnh ẩn dụ cho sức mạnh, lòng dùng cảm, niềm lạc quan và tình thần yêu nước mạnh mẽ của người lính.
Chính “trái tim” của họ là một động cơ hoàn hảo, có thể thay thế cho toàn bộ những cái “không có” bên trên của những chiếc xe hư hỏng, trần trụi. Tất cả vì một mục tiêu cao cả mà người lính lái xe đã xác định cho mình “vì miền Nam” ruột thịt. Hình ảnh người lính lái xe trong bài thơ là một bức tượng đài rực rỡ và chói sáng, một biểu tượng cao đẹp cho một thế hệ thanh niên Việt Nam trong thời kì kháng Mĩ cứu nước.
Tóm lại, với một giọng thơ trẻ trung, tinh nghịch, ngạo nghễ, ngang tàng; kết hợp với ngôn ngữ thơ giản dị, sống động, giàu hình ảnh, giàu tính nhạc điệu…Phạm Tiến Duật đã khắc họa thành công những chiếc xe không kính và làm nổi bật hình ảnh người lính lái xe ở Trường Sơn trong thời chống Mĩ: dũng cảm hiên ngang, lạc quan yêu đời và giàu ý chí chiến đấu, tinh thần yêu nước mạnh mẽ, sắt son.
Dù chiến tranh đã lùi về quá khứ, lịch sử dân tộc đã bước sang trang mới: tự do – độc lập nhưng hình ảnh những chiếc xe bị bom đạn tàn phá cùng những anh chiến sĩ lái xe Trường Sơn chống Mĩ vẫn mãi sống với thời gian và trong lòng dân tộc.
Tham Khảo Bài ❤️️Thuyết Minh Về Một Tác Giả Văn Học ❤️️ 15 Bài Văn Mẫu Hay
Thuyết Minh Về Bài Thơ Tiểu Đội Xe Không Kính Ấn Tượng – Bài 9
Thuyết Minh Về Bài Thơ Tiểu Đội Xe Không Kính Ấn Tượng sau đây sẽ giúp các em học sinh nắm bắt được phương pháp làm bài và nâng cao kỹ năng viết.
Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, những chiến sĩ lái xe trên đường chiến lược Trường Sơn đã đi vào văn học với tư cách là những anh hùng. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật là một trong những bài thơ hay viết về những chiến sĩ lái xe trên đường Trường Sơn.
Mở đầu bài thơ đã thấy cái dữ dội của chiến tranh và nổi bật tư thế của người chiến sĩ lái xe:
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi.
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.”
Phạm Tiến Duật thuộc vào loại những nhà thơ thích đùa. Giọng điệu tưng tửng “Không có kính không phải vì xe không có kính” nhà thơ được truyền tinh thần lạc quan của các chiến sĩ lái xe trước sự ác liệt của chiến tranh. Bằng giọng điệu bông đùa, nhà thơ giải thích lí do “xe không có kính”:
“Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi.”
Tác giả lại thay đổi nhịp điệu, từ câu thơ nhịp 2/2/2 (Nhìn đất/ nhìn trời/ nhìn thẳng), nhịp 2/2/3 (Như sa/ như ùa/ vào buồng lái) đến câu thơ 3/1/3 (Không có kính/ ừ / thì có bụi). Và từng cặp đối lập vừa diễn tả nỗi gian khổ của người lính vừa diễn tả niềm lạc quan của họ:
“Không có kính, ừ thì có bụi.
Bụi phun tóc trắng như người già”.
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha!”
Cái hay ở đây là tác giả đã miêu tả được nét đặc trưng về nỗi gian khổ của người lính lái xe “không có kính”. Câu thơ “Bụi phun tóc trắng như người già” gợi nhớ câu thơ của Quang Dũng “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”. Thật đúng là một sợi tóc cũng làm ta kinh ngạc về hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mĩ.
Những hình ảnh “Bụi phun tóc trắng như người già” hay “Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời” gợi lên tình thương đối với những người chiến sĩ lái xe ra mặt trận.Câu thơ Phạm Tiến Duật chẳng những hay về hình ảnh mà còn hay về âm điệu. Những thanh trắc (có kính, ướt áo, xối, lái …) phô diễn được cái nghiệt ngã của người lái xe trên đoạn đường chiến tranh. Những thanh bằng, đặc biệt là câu kết của đoạn thơ gần như toàn thanh bằng êm ru, một phút yên ả trong tâm hồn người lái xe:
“Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi”
Tình đồng đội của người lái xe cũng được Phạm Tiến Duật phát hiện những nét riêng. Họ tập hợp lại “từ trong bom rơi”, họ gặp bè bạn “Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi” (Thương nhau tay nắm lấy bàn tay – Chính Hữu), họ nấu ăn bằng bếp Hoàng Cầm bếp gần như không có khói vì khói là tai họa đối với người lái xe Trường Sơn. Họ nghỉ ngơi bằng “Võng mắc chông chênh đường xe chạy” và cũng không thiếu những phút thanh bình: “Lại đi, lại đi trời xanh thêm.”
Tác giả phát hiện tất cả mọi khía cạnh của cái KHÔNG (xe không có kính) để dẫn đến một cái Có (có một trái tim) thế là chủ đề sâu sắc của bài thơ được phát triển trọn vẹn:
“Không có kính: rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.”
Tác giả lại thay đổi giọng điệu, lối nói tưng tửng trong những khổ thơ đầu dần nhường cho lối nói nghiêm trang đượm vẻ thiêng liêng:
“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.”
Hình ảnh “miền Nam phía trước” vừa nói lên được nhiệm vụ nặng nề là tiếp viện cho chiến trường miền Nam của “tiểu đội xe không kính” vừa gợi lên tình cảm thiêng liêng của người chiến sĩ lái xe đối với miền Nam ruột thịt. Và tứ thơ cuối cùng (chỉ cần trong xe có một trái tim) đã cân bằng lại tất cả những gian khổ, những tàn phá của chiến tranh. Sức mạnh của tình yêu nước đã chiến thắng kẻ thù hung bạo.
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là bài thơ hay và độc đáo. Phát hiện được đề tài, nhà thơ đã khai thác mọi khía cạnh bất ngờ và thú vị. Giọng điệu thay đổi thích hợp, nhịp điệu luôn luôn biến hóa. Hình ảnh người chiến sĩ lái xe “Vì miền Nam phía trước” được khắc họa đậm nét, sinh động, nổi bật được cốt cách của những người anh hùng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Xem thêm bài ❤️️Thuyết Minh Về Tác Giả Nguyễn Dữ ❤️️ 10 Bài Văn Mẫu Hay
Thuyết Minh Về Bài Thơ Tiểu Đội Xe Không Kính Sinh Động – Bài 10
Thuyết Minh Về Bài Thơ Tiểu Đội Xe Không Kính Sinh Động được SCR.VN chọn lọc và chia sẻ đến các bạn đọc quan tâm đến sau đây.
Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai
Lời của bài thơ vang lên làm cho chúng ta cùng nhớ về những năm tháng chiến đấu chống quân xâm lược của những người lính đã xả thân để hi sinh vì đất nước. Thời gian này, tuy là thời gian khó khăn thế nhưng những người lính bộ đội cụ hồ vẫn giữ cho mình những niềm lạc quan, hứng khởi trong cuộc sống và công việc.
Và bài thơ về tiểu đội xe không kính là bài thơ như vậy. đó là hình ảnh của những chiếc xe không có kính, trần trụi một cách thật tự nhiên nhưng lại mang rất nhiều những ý nghĩa trong đó. Qua đây, tác giả Phạm Tiến Duật đã cho chúng ta thấy được những khó khăn gian khổ và ý chí của những người lính bộ đội lớn như thế nào.
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Mở đầu bài thơ như một lời nói chuyện nho nhỏ về cuộc đời của chiếc xe, cũng như lời nói đùa vui của anh lính với những ai đang thắc mắc về chiếc xe của mình. Bom đạn chiến đấu ác liệt đa làm tàn phá những chiếc xe ban đầu vốn rất tốt, sau đó, những bộ phận của chúng dần dần không còn nữa, từng thứ một đã bị hỏng trước những áp lực công suất của bom chiến biến thành không có kính, không mui, không đèn, thùng xe bị xước và không còn nguyên vẹn nữa.
Hình ảnh những chiếc xe như vậy không phải là hình ảnh hiếm hoi nữa mà thậm chí nó còn vô cùng phổ biến trong suốt những cuộc kháng chiến. Thế nhưng dù hoàn cảnh có khó khăn như vậy thì hình ảnh của những người lính lái xe mới lại càng được nổi bật.
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Nhịp thơ tự do có phần nhanh hơn, nhưng lại khiến cho người đọc có cảm giác như đang được cùng ngồi trên chiếc xe ấy để nhìn thấy mọi thứ xung quanh. Tất cả những điều mà chúng ta tưởng rằng khó khăn thì chúng lại trở thành những ưu điểm có thể nhìn được trời đất một cách tự do không bị gò bó, có thể có được cảm giác tự tại mà hiếm khi nào những người lính mới có thể cảm nhận được, bất chấp hết cả những khó khăn và gian khổ trước mắt.
Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người giá
Hay là những khi: Không có kính ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Những điều đó đã làm cho họ càng trở nên vui vẻ hơn bao giờ hết, như một gia vị của cuộc sống và hiếm khi mới được trải nghiệm.
Những chiếc xe về trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tớ
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi
Thế đấy, những người lính trẻ tuổi vẫn mang trong mình một tâm hồn trẻ trung dù là ở bất cứ hoàn cảnh nào đi chăng nữa. Họ vẫn luôn tin vào tương tại của tổ quốc, nơi mà tình bạn tình đồng chí luôn được mọi người quan tâm, coi trọng.
Tóm lại, với một chất giọng trẻ, tâm hồn tươi đẹp mà bài thơ đã mang tới những luồng gió mới, khiến chúng ta càng thêm cảm phục những người lính đã chiến đấu vì tổ quốc.
Gợi ý ❤️️Thuyết Minh Về Tác Giả Trương Hán Siêu ❤️️12 Bài Văn Hay
Bài Văn Thuyết Minh Về Bài Thơ Tiểu Đội Xe Không Kính Điểm 10 – Bài 11
Bài Văn Thuyết Minh Về Bài Thơ Tiểu Đội Xe Không Kính Điểm 10 giúp các em có thể học hỏi cách dùng từ ngữ sáng tạo và sinh động.
Phạm Tiến Duật là nhà thơ trưởng thành trong phong trào kháng chiến chống Mỹ. Những sáng tác của ông lôi cuốn người đọc không phải bằng ngôn từ hoa lệ, trau chuốt mà bằng sự mạnh mẽ, bằng hiện thực cuộc sống. Bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” tiêu biểu cho phong cách sáng tác độc đáo đó. Hình ảnh người lính hiện lên đậm nét qua ngòi bút sắc sảo của Phạm Tiến Duật.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ tàn khốc, ác liệt đã khiến nhân dân phải rơi vào cảnh lầm than, đất nước điêu đứng. Những người chiến sỹ vượt qua gian lao để làm nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc. Hình ảnh những anh bộ đội cụ Hồ được đặc tả chân thực, sâu sắc qua những vần thơ của Phạm Tiến Duật.
Tác giả mở đầu bài thơ bằng một lời khẳng định chắc nịch:
Không có kính không phải vì xe không có kính
om giật bom rung kính vỡ đi rồi
Chỉ với hai câu thơ như hai nét chấm phá nhưng tác giả đã vẽ lên bức tranh hiện thực tàn khốc của chiến tranh. Tác giả đưa ra một lý do hiển nhiên, đủ sức thuyết phục cho việc chiếc xe không có kính. Hai từ “không” được đặt trong một câu thơ đã khẳng định rằng đó là sự thật hiển nhiên, bọn Mỹ độc ác đã trút bao nhiêu hận thù xuống mảnh đất đầy đau thương này. Những lời thơ của tác giả gần gũi với lời ăn tiếng nói của mỗi người nên rất dễ hiểu, dễ thấm.
Sang đến câu thơ thứ ba, hình ảnh người lính bộ đội cụ Hồ hiện lên với phong thái hiên ngang, oai phong:
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng
Với biện pháp đảo trật tự cú pháp, tính từ “ung dung” được đặt ở đầu câu đã nhấn mạnh tư thế ngồi lái xe đầy kiêu hãnh, có thể làm chủ được chiến trường mà không hề nao núng. Đại từ “ta” vừa là chính mình, vừa mang ý nghĩa đại diện cho nhiều người, cho một quốc gia luôn trong tâm thế sẵn sàng đánh địch. Đây là một thủ pháp nghệ thuật đầy ẩn ý của chính tác giả.
Trước mắt người chiến sỹ là trời đất bao la, rộng lớn, phải tiến về phía trước thì mới có thể giành được chiến thắng. Từ “nhìn” ở câu thơ tiếp theo được lặp lại 3 lần như khẳng định sự kiên trì, vững vàng và tập trung cao độ cho trận chiến.
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái
Hai câu thơ này đã có sự chuyển đổi cảm giác thật tinh tế, nhạy cảm. Từ “nhìn” không còn giữ nguyên nghĩa gốc nữa mà đã chuyển sang ý nghĩa khác. Lúc này không những nhìn thấy đường, thấy trời đất, mà thấy cả “gió vào xoa mắt đắng”, “thấy con đường chạy thẳng vào tim”. Có lẽ trong lòng người chiến sỹ đang có một ý chí quyết tâm cao độ nên mới cảm nhận được sự tinh tế cũng như nhận ra những hiểm nguy phía trước, vẫn cố gắng kiên cường để vượt qua. Một không gian bao la, rộng lớn như bao trùm lên phía trước.
Hiện thực chiến tranh không còn khốc liệt, đan xen vào đó là sự hóm hỉnh, vui tươi của những người lính cách mạng. Các anh đã liên tưởng đến một không gian lãng mạn, vui tươi giữa cảnh bom đạn khốc liệt. Những ngôi sao trên trời cao và những cánh chim chao liệng ở phía ngoài kia khiến người lính cách mạng cứ ngỡ như đang “sa”, đang “ùa” vào buồng lái.
Hiện thực chiến tranh khốc liệt, tàn khốc được vẽ lên qua ngòi bút chân thực của tác giả. Với ngôn ngữ giản dị, gần gũi với đời sống của con người. Một từ “ừ” khiến cho câu thơ trở nên nhẹ tênh, không một chút do dự hay vướng bận. Một từ “ừ” khiến cho tâm trạng của những người lính trở nên nhẹ nhõm hơn. Sự khốc liệt của chiến tranh và thiên nhiên không làm chùn bước, ý chí của những người lính cách mạng.
Điệp từ “chưa cần” càng khẳng định tâm thế hiên ngang, bất cần đời của anh bộ đội cụ Hồ. Nhưng chính điều này đã làm nên phong cách “ngông”, phong thái ung dung cần phải có trong cuộc kháng chiến đầy ác liệt như thế này.
Hình ảnh thơ thật đẹp, thật đáng ngưỡng mộ. Vượt qua bao nhiêu bom đạn, thử thách những chiếc xe từ trăm mọi ngả đường đã về một nơi tụ hội, để kể cho nhau nghe những trận chiến đã vượt qua. Hình ảnh “bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi” thực sự khiến người đọc ứa nước mắt, vì nó thật đẹp và cao cả.
Tình cảm thân thiết, gắn bó giữa những người đồng đội dường như khiến cho cuộc chiến tranh bớt tàn khốc, bớt ảm đạm hơn. Dù trong mọi hoàn cảnh thì tình cảm luôn có thể chiến thắng tất cả. Nó là sức mạnh tạo nên sự đoàn kết, niềm tin chiến thắng.
Có lẽ đoạn thơ cuối là đoạn thơ đẹp nhất, ấn tượng nhất:
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Một lần nữa Phạm Tiến Duật khẳng định sự tàn khốc của chiến tranh, nhưng hơn hết vẫn là ý chí, là niềm tin và sự nỗ lực vì miền Nam phía trước. Hình ảnh “trái tim” ở cuối bài thơ như mở ra một không gian nghệ thuật thật nên thơ, trữ tình.
Bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật đã khắc họa thành công hình ảnh người chiến sỹ trong cuộc kháng chiến chống mỹ cứu nước vừa kiên cường, vừa hiên ngang. Đó là một hình ảnh đẹp xuyên suốt cả bài thơ.
Tìm hiểu hướng dẫn 🌵 Kiếm Thẻ Cào Miễn Phí 🌵 Kiếm Tiền Online Kiếm Thẻ Cào
Thuyết Minh Về Bài Thơ Tiểu Đội Xe Không Kính Ngắn Gọn – Bài 12
Thuyết Minh Về Bài Thơ Tiểu Đội Xe Không Kính Ngắn Gọn và súc tích thể hiện qua từng câu văn, cách diễn đạt chân thực và sinh động.
Thơ Phạm Tiến Duật đem lại một giọng điệu tinh nghịch mà sâu lắng, vừa trẻ trung vừa dân dã. Ngay ở đầu đề bài thơ đã có cái gì khác thường ngộ nghĩnh: ” … Tiểu đội xe không kính: là một cái tên đặt có tính chất bông đùa rất lính tráng. Nhan đề một bài thơ không nhất thiết cứ phải thêm cụm từ “Bài thơ về …” người ta mới biết là thơ. Việc thêm cụm từ đó có tác dụng khẳng định một chất thơ mới mà trước đó người ta có thể chưa nghĩ là thơ, cũng có thể chỉ là tác dụng nhấn mạnh mà thôi.
Câu mở đầu bài thơ là lời giải thích của người lính về “xe không kính” ngộ nghĩnh, bởi vì chẳng có ai sản xuất xe mà không có kính:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi.
Xe không kính – biểu tượng thách thức của sự tàn phá, hủy diệt. Nhưng không sự tàn bạo nào lay chuyển được tinh thần các chiến sĩ lái xe:
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Tư thế của họ mới đàng hoàng làm sao! Con mặt nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng có một vẻ trang nghiêm bất khuất như lời thề. Họ không thẹn với đất, với trời. Hay nhất là hai chữ “nhìn thẳng” – Nhìn thẳng vào gian khổ, nhìn thẳng vào hi sinh, không run sợ, không né tránh.
Nhưng các chàng trai lái xe là những con người rất trẻ và yêu đời. Không có kính chắn gió thì thấy gió thổi “vào xoa mắt đắng”, giữa người lái và cảnh vật dường như không còn gì ngăn cách, họ như cảm thấy trực tiếp sự tiếp xúc với ngoại giới:
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Đó là phát hiện khi xe chạy nhanh, con đường như chạy ngược trở lại. “Chạy thẳng vào tim” là một khái quát sâu sắc, bởi đó là con đường của trái tim. Nhưng khi nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim là xe đi trên đường bằng. Khi xe lên dốc, hoặc khi trời tối tối thì trước mắt là sao trời. Khi đường cua đột ngột trên dốc thì cũng đột ngột thấy cánh chum “Như sa như ùa vào buồng lái”. Chỉ có điều nhìn thấy mà gợi ra vao địa thế con đường cheo leo, hiểm nguy và cũng đầy thú vị.
Tình cảm của người chiến sĩ trong chiếc xe không kính được miêu tả chân thực, bụi phun tóc trắng, mặt lấm lem, mưa tuôn mưa xối như ngoài trời. Nhưng người chiến sĩ chấp nhận thử thách như một tất yếu: “ừ thì có bụi”, “ừ thì ướt áo”. Với tinh thần chấp nhận thử thách, họ hết sức bình thản: “Chưa cần rửa”, “chưa cần thay”. Cái cách “phì phèo châm điếu thuốc” và “nhìn nhau cười ha ha” thì sự bình thản đã đạt tới mức vô tư lự một cách thật trẻ trung! Cái thái độ phớt tỉnh: ” … lái trăm cây số nữa.
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi” cũng rất trẻ trung. Quả là tiếng thơ, lời thơ của một thế hệ trẻ tuổi. Khi viết bài này, nhà thơ chưa đến ba mươi ấy thực sự khơi một nguồn cảm xúc trẻ trung, tinh nghịch cho thơ cách mạng, kháng chiến.
Hình ảnh “Những chiếc xe từ trong bom rơi” gợi lên cái ý những chiếc xe gan góc, những chiếc xe đã qua thử thách. Những người đã qua thử thách trên con đường đi tới bỗng trở thành bạn bè, và cái “bắt tay qua cửa kính vỡ rồi” mới thật tự hào, sảng khoái biết bao! Họ có thể chào nhau, bắt tay nhau mà không có gì phải hổ thẹn.
Câu thơ “Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới” cũng đầy ý tứ sâu xa; những người gặp trên đường đi tới giải phóng miền Nam mới thật sự là bạn bè. Và mặt khác, con đường đi tới là đường chính nghĩa, càng đi càng gặp nhiều bạn.
Những người đã được thử thách, đầy lòng dũng cảm khi gặp nhau trong bữa ăn là trở thành “gia đình” ruột thịt. Họ không ngừng được bổ sung vào cái gia đình ấy. “Mắc võng chông chênh” ngủ trên xe để có thể người nghỉ, người lái xe chạy liên tục. Hai chữ “lại đi. Lại đi” được nhắc lại đã biểu hiện đoàn xe không bao giờ ngừng tiến tới. “Trời xanh thêm” là một hình ảnh đầy chất thơ và giàu ý nghĩa. Trong xanh là trời đẹp, bầu trời bình yên, không gian cao xa, viễn cảnh rộng lớn. Mạch thơ nối tiếp khổ thơ đầu: “Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”.
Khổ thơ thứ bảy, kết bài nêu lên hình ảnh về những thử thách ngày càng nhiều, càng ác kiệt. Chỉ tiếc chữ “xước” hơi nhẹ quá:
Không có kính, rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước.
Những chiếc xe từ trong bom rơi vẫn đi qua những trận mưa bom, và chiếc xe ngày càng hư hại, biến dạng. Nhưng:
Xe vẫn chạy về miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Câu kết khẳng định quyết tâm giải phóng miền Nam không lay chuyển, tình yêu miền Nam là sức mạnh vô song. Sự đối lập tình trạng hư hỏng của xe và hoạt động không ngừng của xe đã nói lên tinh thần bất khuất của con người. Xe chạy bằng trái tim, bằng xương máu của những người chiến sĩ anh hùng. Câu kết bài thơ đã biểu dương cao độ sức mạnh tinh thần của con người. Xe có thể thiếu nhiều thứ, nhưng không thể thiếu được trái tim hướng về miền Nam.
Cả bài thơ là lời nói, cảm xúc của người chiến sĩ lái xe trên con đường xe chạy liên tục. Thử thách ngày càng tăng nhưng tốc độ và hướng đi không thay đổi. Vẫn là khẳng định tinh thần bất khuất quyết thắng của quân đội ta, nhưng Phạm Tiến Duật đã đem lại nhiều hình ảnh mới và giọng điệu mới trẻ trung, tinh nghịch ngang tang mà kiên định. Bài thơ đâu chỉ nói về tiểu đội xe không kính, nó phản ánh cả khí thế quyết tâm giải phóng miền Nam của đoàn quân và toàn dân ta, khẳng định con người mạnh hơn sắt thép.
SCR.VN tặng bạn 💧 Nhận Thẻ Cào 50k Miễn Phí 💧 Kiếm Thẻ Cào Free
Bài Thuyết Minh Về Bài Thơ Tiểu Đội Xe Không Kính Đạt Điểm Cao – Bài 13
Bài Thuyết Minh Về Bài Thơ Tiểu Đội Xe Không Kính Đạt Điểm Cao giúp các em có thêm nhiều nguồn tài liệu ôn tập tốt và hiệu quả.
Phạm Tiến Duật là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong, thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Bài thơ về tiểu đội xe không kính là một trong những bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ của ông: giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, tinh nghịch mà sâu sắc.
Câu thơ tự nhiên như một lời nói thường ngày, mang đậm chất văn xuôi:
Không có kính không phải vì xe không có kính.
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi.
Chiến tranh khốc liệt của giặc Mĩ, “bom giật”, “bom rung” đã gây ra bao tổn hại cho những chiếc xe ấy. Và nó còn gợi lên cảm giác rằng tính mạng của người lính cũng luôn bị đe doạ.
Một sự đối lập khá độc đáo được tác giả sử dụng trong đoạn thơ này: đi trong mưa bom bão đạn mà người lính vẫn luôn ung dung, bình thản. Người lính thật khẳng khái, bất chấp bom đạn:
Ung dung buồng lái ta ngồi!
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Đây là một cái nhìn tự do như coi thường tất cả những hiểm nguy và vất vả trong cuộc chiến. Đây là cái nhìn của những con người bản lĩnh. Cái nhìn của người lính trong tiểu đội xe không kính là cái nhìn ung dung, bình thản, tập trung cao độ. Mặc dù xe không kính như thế nhưng người lính vẫn bình tĩnh, tự tin để ra tiền tuyến, vẫn có cái nhìn ngạo mạn trước hiểm nguy.
Người lái xe không kính thật bản lĩnh. Lòng căm thù giặc đã giúp họ vững vàng tay lái để đưa tiểu đội ra tiền tuyến. Tình yêu Tổ quốc đã làm người chiến sĩ bất chấp mọi khó khăn, gian khổ của cuộc chiến tranh. Ý chí chiến đấu đã làm người lính lái xe không cảm thấy vất vả khi xe không có kính. Xe không kính đã làm người chiến sĩ gần gũi với thiên nhiên, hoà nhập với thiên nhiên trên đường ra trận:
Nhìn thấy gió xoa vào mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim.
Vì không có kính chắn gió nên người lính nhìn thấy rõ hơn. “Con đường chạy thẳng vào tim” – con đường vừa mang giá trị hiện thực vừa mang ý nghĩa tượng trưng thật độc đáo: con đường đi đã được nâng lên thành con đường cách mạng, con đường ở trong tim của mỗi người chiến sĩ, con đường giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Không có kính là một mất mát lớn nhưng đã tạo điều kiện thuận lợi cho người lính có dịp chiêm ngưỡng vẻ đẹp của thiên nhiên. Không chỉ là mặt đất mà cả bầu trời đầy sao, cánh chim như ùa vào buồng lái:
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái.
Trong cuộc chiến tranh khốc liệt, chính tình yêu thiên nhiên và cả vẻ đẹp lãng mạn trong tâm hồn đã giúp người chiến sĩ vượt qua những khó khăn. Khổ sở là như thế, nhưng đối với người lính thì có hề chi, họ bất chấp mọi hiểm nguy:
Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già.
Hai tiếng “ừ thì” chắc nịch nhưng nhẹ nhàng, không hề phàn nàn, kêu ca. Dường như những gian khổ, nguy hiểm của chiến tranh cũng không ảnh hưởng đến tinh thần đầy lạc quan của người lính.
Vì xe không có kính nên nắng thì có bụi mà mưa thì xối xả. Ngồi trong buồng lái nhưng chẳng khác nào là ở ngoài trời. Hai chữ “ừ thì” được lặp lại đã khẳng định được thái độ sẵn sàng bất chấp khó khăn, cũng như có bụi thì chưa cần rửa, khi có mưa, áo có ướt cũng chưa cần thay:
Chưa cần thay lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
Ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam tạo ra sức mạnh vô biên thúc giục người lính chạy thêm “trăm cây số nữa”. Một qui luật tự nhiên không gì thay thế được: mưa rồi sẽ tạnh, gió sẽ lùa vào, áo sẽ “khô mau thôi”. Những người lính hiện lên trong câu thơ thật hồn nhiên, vui vẻ, lạc quan.
Chính tình yêu Tổ quốc, tinh thần giải phóng miền Nam thống nhất đất nước đã tạo ra một sức mạnh lớn lao để người lính vượt qua mọi gian khổ hiểm nguy trong cuộc chiến tranh khốc liệt.
Chiếc xe không kính ấy đã chở tiểu đội ra chiến trường miền Nam đánh Mỹ, thống nhất nước nhà. Tuy tác giả không nói ra ngồi trên chiếc xe bị quân thù tàn phá đi ra từ chốn bom rơi ấy là những người lính như thế nào nhưng người đọc đều hình dung được rằng đó là những người dạn dày và gan góc trong bom đạn:
Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai.
Một sự trẻ trung, yêu đời lại được thể hiện trong một chi tiết ngộ nghĩnh. Họ lại gặp nhau trên đường đi tới và đã ‘‘bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”. Tình bạn, tình đồng chí không bị ngăn cách bởi cái không thuận lợi của hoàn cảnh mà trái lại nó càng khăng khít hơn, tiếp thêm sức mạnh cho nhau để hoàn thành nhiệm vụ.
Tình đồng chí, đồng đội giữa những người, lính Trường Sơn đã được thể hiện một cách sâu sắc, họ là những người cùng chí hướng:
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy.
Giữa đất trời tự do phóng khoáng, họ cùng nhau dựng bếp Hoàng Cầm, cùng nhau xây dựng lí tưởng, cùng nhau nhóm ngọn lửa cách mạng. Không cần lạ quen, chỉ cần “chung bát đũa” là những người lính có thể họp lại thành một gia đình, Vì thế mặc dù xa nhà, xa quê hương đi chiến đấu nhưng người lính không hề cảm thấy cô đơn. Họ mắc võng để nghỉ ngơi, chuyện trò cùng nhau trong những giây phút thanh thản ngắn ngủi rồi lại đi.
Điệp ngữ “lại đi” nối tiếp nhau như cuộc đời của những người lính cứ đi về phía trước. Chính nhờ những chuyến đi ấy mà họ lại có cảm giác “trời xanh thêm”. Nó không chỉ có ý nghĩa tả thực mà còn mang ý nghĩa tượng trưng: đó không chỉ là màu xanh của bầu trời mà còn là màu xanh của hoà bình, của hi vọng về một tương lai tốt đẹp hơn.
Sự đối lập giữa hai phương diện vật chất và tinh thần, giữa bên ngoài và bên trong chiếc xe đã làm nổi bật phẩm chất tốt đẹp của anh bộ đội cụ Hồ. Các anh đã vượt qua tất cả:
Không có kính, rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước.
Những chiếc xe còn thiếu nhiều thứ mà đáng lẽ ra nó cần phải có. Nhưng đó chỉ là những thứ vật chất, nếu thiếu thì các anh vẫn khắc phục được. Các anh đã nhấn mạnh thêm một cái “có” thật cần, đó là lí tưởng cộng sản, lí tưởng yêu nước căm thù giặc:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Đây là “trái tim” của một con người đầy nhiệt huyết chiến đấu vì miền Nam yêu thương, và vì thế xe vẫn băng ra tiền tuyến, mặc dù: “Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi”.
Với những câu thơ gần gũi như những lời nói thường ngày đậm chất văn xuôi, Phạm Tiến Duật đã xây dựng được một hình tượng độc đáo: những chiếc xe không kính vẫn băng băng trên con đường ra trận. Và qua hình ảnh những chiếc xe, tác giả đã làm nổi bật lên hình ảnh của những người lính gan góc, dũng cảm, bất chấp khó khăn nguy hiểm ở Trường Sơn thời chống Mĩ.
Xem thêm❤️️ Thuyết Minh Về Nhân Vật Ngô Tử Văn ❤️️ 12 Bài Văn Hay Nhất
Thuyết Minh Về Bài Thơ Tiểu Đội Xe Không Kính Văn Ngắn – Bài 14
Thuyết Minh Về Bài Thơ Tiểu Đội Xe Không Kính Văn Ngắn để cùng trau dồi thêm kiến thức và rèn luyện kĩ năng viết của mình.
Phạm Tiến Duật từ lâu đã được biết đến là một trong những nhà thơ trẻ tiêu biểu trong những năm kháng chiến chống Mĩ. Là một người lính chính vì thế mà nhà thơ có được phong cách trẻ sôi nổi, hồn nhiên mà sâu sắc ở trong thơ. Viết về hình ảnh những người lính trong sáng tác của ông không thể không kể đến là “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”.
Có lẽ rằng trên chiến trường thì hình ảnh của những chiếc xe không có kính – hình ảnh thơ độc đáo đã in sâu vào trong trí nhớ của Phạm Tiến Duật. Với hình ảnh của chiếc xe không kính như đã khiến cho nhan đề bài thơ trở nên hết sức đặc biệt – ta như nhận thấy được tác giả như cũng sắp viết ra một câu chuyện dài và vô cùng đặc sắc vậy. Quả thực cũng chính hình ảnh đó như đã làm nổi bật lên được hình tượng của những người lính trẻ, họ là những người lính lái xe đã anh dũng, bỏ cả tuổi thanh xuân của mình để nghe theo tiếng gọi của Tổ quốc.
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Thật ấn tượng biết bao nhiêu ngay từ ngôn từ, phong cách, nội dung cho đến cả nhịp điệu thơ đều rất tự nhiên và vô cùng mộc mạc, có sức gợi tả, gợi cầm. Câu thơ trên cũng đã làm hiện lên trước mắt người đọc một hình ảnh lạ lùng và mang được sự tếu táo, đó là hình ảnh của những chiếc xe không kính.
Mặt khác, ta như nhận thấy được cả lời giải thích của tác giả về những chiếc xe vô cùng đặc biệt ấy cũng được Phạm Tiến Duật miêu tả cũng rất đỗi chân thực đến gần như là lột trần ra một chiếc xe này cũng đã bị phá huỷ bởi chính hình ảnh bom giật, bom rung. Không chỉ vậy ta nhận thấy được có các những động từ mạnh làm nổi bật hình ảnh và ý thơ.
Thêm vào đó thì hai câu thơ thật tự nhiên, không có hình ảnh hoa mĩ, cũng chẳng phải hình ảnh tráng lệ, không có hình ảnh tượng trưng, giọng thơ được sử dụng có chút gì đó ngang tàng tạo nên điểm khởi đầu chứa được biết bao nhiêu ấn tượng trong bài thơ. Tiếp đến là khổ cuối cùng của bài cũng đã lại khiến cho Phạm Tiến Duật tái hiện lên hình ảnh chiếc xe như một dụ ý nghệ thuật độc đáo.
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Có thể nói rằng cũng chính với những chiếc xe ấy bị biến dạng, cũng đã bị phá huỷ gần như là toàn bộ. Thế rồi bom đạn, chiến tranh mới khốc liệt và nguy hiểm biết bao nhiêu. Ngay cả sắt thép còn như thế nữa thì huống chi con người bằng da bằng thịt.Tuy khó khăn và thiếu thốn, luôn đối mặt với sự hiểm nguy thì những cỗ xe kia cũng cứ vẫn hiện lên một cách rất độc đáo và cũng lại rất có hồn, rất ngang tàng.
Cũng không quá chút nào khi nói rằng hình ảnh chiếc xe không kính như đã trở thành biểu tượng trong những năm tháng kháng chiến chống Mĩ. Thông qua hình ảnh xe không kính thì còn nổi bật được hình ảnh của người chiến sĩ lái xe cũng thật hiên ngang, mưu trí và dũng cảm.
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Sử dụng giọng thơ âm vang rộn rã, tràn đầy sức sống sôi nổi của tuổi mười tám, đôi mươi. Ta như nhận thấy được hình ảnh của những người lính trẻ ấy thật kiên cường và trẻ trung, hóm hỉnh. Không chỉ dừng lại ở đó thơi đâu, những người họ còn là những người đồng chí gắn bó keo sơn và có tình cảm thật khăng khít. Và cũng không có kính nên họ mới có thể
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi
Hình ảnh gia đình – hình ảnh gợi thương gợi nhớ khiến cho con người, cho những người lính Trường Sơn ấy, cũng mang trong mình dòng máu nóng, đó mà một dòng máu sôi sục khát vọng giải phóng miền Nam để có thể giải phóng đất nước:
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Hình ảnh chiếc xe như đã bị chiến tranh làm phá hủy đến không có kính, bao nhiêu khó khăn đó như cũng qua hết bởi chỉ cần trong xe có một trái tim là đủ. Tình yêu tổ quốc đã thể hiện vô cùng rõ ràng và khiến cho chúng ta nhận thấy được tình yêu tổ quốc, yêu đồng bào, yêu gia đình đã biến thành sức mạnh để có thể giúp người lính có thêm ý chí để có thể vượt lên trên tất cả vì tự do của đất nước.
Phạm Tiến Duật đã sáng tác ra bài thơ về tiểu đội xe không kính với lời thơ, chất thơ trẻ trung, ngang tàng, nghịch ngợm đã thế lại có phần tếu táo đã làm cho bài thơ trở nên thật đặc biệt, rất có hồn nữa. Bài thơ như đã để lại trong tâm trí người đọc một thế hệ trẻ anh hùng trong những năm tháng kháng chiến chống Mĩ cứu nước gian khổ và ác liệt.
Đừng bỏ lỡ cơ hội 🍀 Nhận Thẻ Cào 100k Miễn Phí 🍀 Card Viettel Mobifone
Bài Văn Thuyết Minh Về Bài Thơ Tiểu Đội Xe Không Kính Chọn Lọc – Bài 15
Bài Văn Thuyết Minh Về Bài Thơ Tiểu Đội Xe Không Kính Chọn Lọc từ SCR.VN và chia sẻ rộng rãi đến các bạn đọc sau đây.
Nhan đề Bài thơ về tiểu đội xe không kính khá dài, tưởng như có chỗ thừa. Nhưng vì thế mà rất độc đáo, thu hút sự chú ý. Nhan đề ấy làm nổi bật hình ảnh của bài thơ. Những chiếc xe không kính. Hình ảnh này là sự phát hiện thú vị của tác giả, thể hiện sự gắn bó và am hiểu sâu sắc hiện thực đời sống chiến tranh trên tuyến đường Trường Sơn.
Hai chữ “Bài thơ” cho thấy rõ hơn cách nhìn, cách khai thác hiện thực của tác giả: không phải chỉ viết về những chiếc xe không kính hay là cái hiện thực khốc liệt của chiến tranh mà điều chủ yếu là Phạm Tiến Duật muốn nói về chất thơ của hiện thực ấy, chất thơ của tuổi trẻ hiên ngang, dũng cảm, trẻ trung, vượt lên thiếu thốn, gian khổ, hiểm nguy của chiến tranh.
Những chiếc xe không kính vẫn băng ra chiến trường là một hình ảnh độc đáo của bài thơ. Hình ảnh xe cộ, tàu thuyền đưa vào thơ văn thường được “mĩ lệ hóa”, “lãng mạn hoá” và thường mang ý nghĩa tượng trưng.
Trong bài thơ này, những chiếc xe không kính là một hình ảnh thực, thực đến trần trụi. Tác giả giải thích nguyên nhân cũng rất thực: “Không có kính không phải là xe không có kính Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”, câu thơ đậm chất văn xuôi lại có giọng thản nhiên, càng gây ra sự chú ý về vẻ khác lạ của những chiếc xe. Cách giải thích của tác giả cho thấy đây là những chiếc xe đã đi qua bom đạn thử thách, là xe của những con người quả cảm. Cái không bình thường của xe đã được bình thường hóa.
Bom đạn chiến tranh còn làm cho những chiếc xe bị phá hủy, biến dạng đi, trần trụi hơn nữa: “Không có kính, rồi xe không có đèn – Không có mui xe, thùng xe có xước”. Tất cả “không” và “có” ấy (có “xước” cũng là thêm sự hư hại) đều là tổn thất, mất mát, có thế ảnh hưởng đến sự lăn bánh của xe. Nhưng bộ não, linh hồn của xe dường như không phải là máy móc mà là tấm lòng người chiến sĩ nên: “Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước – Chỉ cần trong xe có một trái tim”.
Hình ảnh những chiếc xe không kính vốn không phải hiếm trong chiến tranh, nhưng phải có hồn thơ nhạy cảm với nét ngang tàng, tinh nghịch, thích cái lạ như Phạm Tiến Duật mới nhận ra được và đưa nó vào thơ trở thành hình tượng độc đáo của thơ thời chiến tranh chống Mĩ. Hình ảnh này tạo nên cái tứ độc đáo, vừa nói được cái ác liệt, dữ dội của chiến tranh, vừa bộc lộ được phẩm chất cao đẹp của người chiến sĩ trong cuộc chiến tranh khốc liệt chống đế quốc Mĩ.
Hình ảnh những chiếc xe không kính trong bài thơ góp phần khắc họa một nét tư thế, chân dung của một dân tộc anh hùng. Hình ảnh người lính lái xe ở Trường Sơn trong thời kì kháng chiến. chống Mĩ được khắc họa đậm nét trong bài thơ. hình ảnh họ được miêu ta gắn liền với những chiếc xe, đồng thời nổi bật lên trong toàn bài thơ.
Xe không kính là biểu tượng của khó khăn, thiếu thốn, gian khổ. Thiếu đi những điều kiện phương tiện vật chất tối thiểu lại là cơ hội để người lính lái xe bộc lộ những phẩm chất cao đẹp, sức mạnh tinh thần lớn lao và đặc biệt là lòng dũng cảm, tinh thần bất chấp gian khổ, khó khăn.
Giọng ngang tàng, bất chấp gian khổ thể hiện rõ trong cấu trúc lặp lại: “Không có kính… ừ thì… chưa cần…” và những chi tiết “phì phèo châm điếu thuốc nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”, “lái trăm cây số nữa” (trăm cây số giữa đường Trường Sơn đầy bom đạn, đèo dốc). Gió, bụi, mưa,… có thể gây bao khó khăn, nhưng người chiến sĩ đã bình thường hóa cái không bình thường đó và vượt lên với tất cả sự cố gắng cùng tinh thần trách nhiệm rất cao.
Họ chấp nhận gian khổ như một tất yếu. Khó khăn không mảy may ảnh hưởng tới tinh thần của họ. Hình ảnh họ mang một vẻ đẹp kiên cường và lãng mạn.
Những chiến sĩ lái xe còn là những chàng trai trẻ sôi nổi, vui nhộn, lạc quan, rất gắn bó với đồng đội. Khuôn mặt phủ đầy bụi đường lấm lem mà họ: “Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc – Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”. Quả là tiếng thơ, tiếng cười của một thế hệ trẻ tuổi: Sự khốc liệt của chiến tranh đã tạo nên những tiểu đội xe không kính.
Họ có thể bắt tay qua cửa kính vỡ rồi mà không cần mở cửa xe, thật thoải mái, tự hào, thắm tình đồng đội. Con đường giải phóng miền Nam là con đường đi tới chính nghĩa, họ càng đi càng có thêm nhiều bè bạn: “Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới”. Tình cảm ấy thắm thiết như ruột thịt, như anh em trong gia đình: “Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”.
Động lực mạnh mẽ và sâu xa tạo nên sức mạnh phi thường, bất chấp mọi nguy nan, mọi sự hủy diệt tàn phá như vậy của người lái xe chính là ý chí chiến đấu để giải phóng miền Nam, là tình yêu nước nồng nhiệt của tuổi trẻ. Khổ thơ cuối tạo nên kết cấu đối lập, bất ngờ mà sâu sắc: đối lập giữa hai phương diện vật chất và tinh thần, giữa vẻ bên ngoài và bên trong những chiếc xe. Những chiếc xe bị bom Mĩ làm cho biến dạng đến trần trụi: “Không có kính rồi xe không có đèn – Không có mui xe, thùng xe có xước”.
Nhưng điều lạ là những chiếc xe trơ trụi ấy vẫn băng ra chiến trường. Tác giả lí giải bất ngờ mà chí lí: “Chỉ cần trong xe có một trái tim”. Mọi thứ của xe có thể không còn nguyên vẹn, chỉ cần: vẹn nguyên trái tim người chiến sĩ – trái tim vì miền Nam thì xe vẫn chạy, “tất cà cho tiền tuyến”.
Đó không chỉ là sự ngoan cường, dũng cảm, vượt lên mọi gian khổ, ác liệt mà còn là sức mạnh của tình yêu nước trái tim ấy khiến chiếc xe trở thành một cơ thể sống thống nhất với người lái xe, không gì tàn phá, ngăn trở được. Xe chạy bằng tim, bằng xương máu những chiến sĩ anh hùng. Trái tim ấy tạo ra niềm tin, niềm lạc quan và sức mạnh chiến thắng. Điều ấy làm cho những chiếc xe càng thêm độc đáo. Vì đó là những chiếc xe do trái tim cầm lái.
Bài thơ đã khắc chạm được hình ảnh đẹp đẽ, ngang tàng đầy khí phách, đầy chất kiêu hùng trong vẻ giản dị nhất của người chiến sĩ lái xe ở Trường Sơn thời chống Mĩ. Đó cũng là hình ảnh anh bộ đội Việt Nam, dân tộc Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ.
Chia sẻ cơ hội 💧 Nạp Thẻ Ngay Miễn Phí 💧 Tặng Card Nạp Tiền Ngay Free Mới