Phân Tích Bài Thơ Viếng Lăng Bác Của Viễn Phương ❤️️ 36+ Bài ✅ Đón Đọc Tuyển Tập Bài Văn Hay Và Đặc Sắc Nhất Phân Tích Tác Phẩm Ngữ Văn Lớp 9.
Cách Phân Tích Bài Thơ Viếng Lăng Bác Viễn Phương
Tham khảo cách phân tích bài thơ Viếng lăng Bác Viễn Phương sẽ giúp các em học sinh có những định hướng làm bài cụ thể.
- Bước 1: Giới thiệu về tác giả Viễn phương và tác phẩm cần phân tích – bài thơ Viếng lăng Bác.
- Viễn Phương là một nhà thơ tiêu biểu của văn học miền Nam.
- Tháng 4 năm 1976, sau một năm giải phóng đất nước. Khi lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa khánh thành, nhà thơ cùng đoàn đại biểu miền Nam ra thăm Hà Nội vào lăng viếng Bác.
- Bài thơ Viếng lăng Bác được Viễn Phương viết với tất cả tấm lòng thành kính biết ơn và tự hào pha lẫn nỗi xót đau của một người con từ miền Nam ra viếng Bác lần đầu.
- Bước 2: Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác.
1. Phân tích khổ thứ nhất bài thơ Viếng lăng Bác:
- Tác giả đã mở đầu bằng câu thơ tự sự: “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”:
- “Con và Bác” là cách xưng hô ngọt ngào thân thương rất Nam Bộ. Nó thể hiện sự gần gũi, kính yêu đối với Bác.
- Hình ảnh đầu tiên mà tác giả thấy được và là một dấu ấn đậm nét là hàng tre quanh lăng Bác: Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát.
- “Bão táp mưa sa” là một thành ngữ mang tính ẩn dụ để chỉ sự khó khăn gian khổ.
- Dù khó khăn gian khổ đến mấy cây tre vẫn đứng thẳng hàng. Đây là một ẩn dụ mang tính khẳng định tinh thần hiên ngang bất khuất, sức sống bền bỉ của dân tộc.
2. Phân tích khổ thứ hai bài thơ Viếng lăng Bác:
-Hai câu thơ đầu: “Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng/Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”.
- Hai câu thơ được tạo nên với những hình ảnh thực và hình ảnh ẩn dụ sóng đôi. Câu trên là một hình ảnh thực, câu dưới là hình ảnh ẩn dụ.
- Ví Bác như mặt trời là để nói lên sự trường tồn vĩnh cửu của Bác, giống như sự tồn tại vĩnh viễn của mặt trời tự nhiên.
-Ở hai câu thơ tiếp theo: “Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ/Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân…”
- Hình ảnh dòng người vào lăng viếng Bác được tác giả ví như tràng hoa, dâng lên Bác. Cách so sánh này vừa thích hợp và mới lạ, diễn ra được sự thương nhớ, tôn kính của nhân dân đối với Bác.
- “Tràng hoa” là hình ảnh ẩn dụ những người con từ khắp miền đất nước về đây viếng Bác giống như những bông hoa trong vườn Bác được Bác ươm trồng, chăm sóc nảy nở rộ ngát hương về đây tụ hội kính dâng lên Bác.
3. Phân tích khổ thứ ba bài thơ Viếng lăng Bác:
-Khung cảnh và không khí thanh tĩnh như ngưng kết cả thời gian và không gian trong lăng: “Bác nằm trong giấc ngủ bình yên/Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền”
- Hình ảnh Bác như vầng trăng sáng dịu hiền trong giấc ngủ bình yên là một hình ảnh tượng trưng cho vẻ đẹp thanh thản, phong thái ung dung và thanh cao của Bác.
- Người vẫn đang sống cùng với nhân dân đất nước Việt Nam thanh bình tươi đẹp.
-Hình ảnh “trời xanh” là hình ảnh ẩn dụ nói lên sự trường tồn bất tử của Bác.
- Trời xanh thì còn mãi mãi trên đầu, cũng giống như Bác vẫn còn sống mãi mãi với non sông đất nước.
- Dù rằng Người đã hóa thân vào thiên nhiên, đất nước, nhưng sự ra đi của Bác vẫn không sao xoá đi được nỗi đau xót vô hạn của cả dân tộc.
4. Phân tích khổ thơ cuối bài Viếng lăng Bác:
- Cảm xúc của nhà thơ khi trở lại miền Nam đối với Bác vô cùng chân thành và xúc động Mai về miền Nam thương trào nước mắt.
- Câu thơ như bộc lộ rất chân thành nỗi xót thương vô hạn bị kèm nén cho tới phút chia tay và tuôn thành dòng lệ.
- Trong cảm xúc nghẹn ngào, tâm trạng lưu luyến ấy, nhà thơ như muốn được hoá thân để mãi mãi bên Người.
- Bước 3: Khẳng định giá trị của tác phẩm và nêu cảm nhận của bản thân.
Đọc nhiều hơn với 🔥 Cảm Nhận Của Em Về Bài Thơ Viếng Lăng Bác 🔥 16 Bài Cảm Nghĩ Hay
Dàn Ý Phân Tích Bài Thơ Viếng Lăng Bác Của Viễn Phương
Dàn ý phân tích bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương dưới đây sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích dành cho các em học sinh.
1.Mở bài phân tích bài thơ Viếng lăng Bác:
- Giới thiệu đôi nét về nhà thơ Viễn Phương.
- Giới thiệu tác phẩm cần phân tích – bài thơ Viếng lăng Bác
2.Thân bài phân tích bài thơ Viếng lăng Bác:
a) Cảm xúc của tác giả trước cảnh quan bên ngoài lăng (khổ 1)
- Câu thơ thứ nhất như một lời thông báo giản dị mà chứa đựng nhiều tình cảm lớn lao.
- Cách xưng hô “Con – Bác”: Thể hiện sự gần gũi, thân thiết, không có khoảng cách.
- Tác giả dùng từ thay thế “thăm” không phải “viếng” làm vơi bớt đi nỗi đau đớn ẩn sâu trong đáy lòng mỗi người dân Việt Nam: Bác Hồ vẫn còn sống.
- Cụm từ “Con ở miền Nam” vừa thể hiện nỗi đau mất mát, vừa thể hiện niềm tự hào lớn lao: Miền Nam gian khổ mà anh dũng.
- Hình ảnh ấn tượng: “hàng tre” vừa có nghĩa thực (là loài cây quen thuộc của mỗi làng quê Việt Nam), vừa có nghĩa biểu tượng (hình ảnh con người Việt Nam với bao phẩm chất tốt đẹp…)
- Dùng từ cảm thán: “Ôi!” biểu thị niềm xúc động xen lẫn tự hào trước hình ảnh hàng tre.
b) Cảm xúc của nhà thơ trước hình ảnh dòng người chầm chậm vào lăng viếng Bác (khổ 2)
-2 câu thơ đầu: Cách dùng từ đặc sắc, giàu sức sáng tạo: cặp từ tả thực và ẩn dụ sóng đôi.
- “Mặt trời” thứ nhất: Là mặt trời từ thiên nhiên của tạo hóa.
- “Mặt trời” thứ 2: Là hình ảnh ẩn dụ để chỉ Bác.
- Chi tiết “rất đỏ” đã gợi lên một trái tim đầy yêu thương, nhiệt huyết vì nhân dân của Bác.
-2 câu thơ sau:
- Điệp từ “ngày ngày”
- Hình ảnh “dòng người đi trong thương nhớ” là hình ảnh tả thực gợi tả hằng ngày dòng người vào lăng viếng Bác trong niềm xúc động, tiếc thương.
- Hình ảnh “tràng hoa” là hình ảnh ẩn dụ: Tác giả ví dòng người dài như kết thành tràng hoa để dâng lên Người.
c) Cảm xúc của tác giả khi đứng trước di hài của Bác trong lăng (khổ 3)
- Thể hiện tình cảm bị dồn nén bấy lâu nay đã trào dâng, thổn thức.
- Từ ngữ “giấc ngủ bình yên”: Chỉ là giấc ngủ bình thường, không phải giấc ngủ vĩnh viễn. Bình yên trong niềm yêu thương của con người và vạn vật.
- Hình ảnh “vầng trăng” được nhà thơ dùng để ví với Bác.
- Hình ảnh ẩn dụ “trời xanh” gợi lên những suy ngẫm về con người vĩ đại, cao cả, bất diệt.
- Câu thơ cuối là một sự thật: Bác đã ra đi mãi mãi. Đó là một nỗi đau vô hạn, xót thương. Dù lí trí đã không muốn tin đó là sự thật.
d) Cảm xúc của tác giả trước lúc sắp phải về miền Nam (khổ cuối)
- Lòng thương nhớ bấy lâu nay đã vỡ òa trong tiếng khóc nghẹn ngào. Đó là những giọt nước mắt của nhớ thương, lưu luyến không nỡ rời xa.
- Điệp từ “muốn làm” cùng các hình ảnh đứng sau đó đã tạo nên nhịp thơ dồn dập diễn tả tình cảm tha thiết, khát vọng trào dâng mãnh liệt và ước nguyện chân thành của nhà thơ và của tất cả mọi người.
- Hình ảnh cây tre được lặp lại ở câu thơ cuối mang thêm một ý nghĩa mới.
3.Kết bài phân tích bài thơ Viếng lăng Bác:
Bài thơ là nỗi lòng không chỉ của nhà thơ mà của hàng triệu trái tim nhân loại muốn thể hiện sự thành kính, biết ơn sâu sắc tới vị lãnh tụ kính yêu của cả nước.
Giới thiệu cùng bạn 🍀 Suy Nghĩ Của Em Về Bài Thơ Viếng Lăng Bác 🍀 10 Bài Văn Phân Tích Hay
Sơ Đồ Tư Duy Phân Tích Thơ Viếng Lăng Bác Lớp 9
Mẫu sơ đồ tư duy phân tích thơ Viếng lăng Bác lớp 9 dưới đây sẽ giúp các em học sinh hệ thống hoá kiến thức và luận điểm khi phân tích bài thơ..
Mời bạn tham khảo 🌠 Sơ Đồ Tư Duy Viếng Lăng Bác 🌠 11 Mẫu Vẽ Tóm Tắt Phân Tích Bài Thơ Ngắn Gọn
Mở Bài Phân Tích Về Bài Thơ Viếng Lăng Bác
Gợi ý viết mở bài phân tích về bài thơ Viếng lăng Bác sẽ giúp các em học sinh có cách giới thiệu tác phẩm ấn tượng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nguồn cảm hứng của biết bao thi nhân nổi tiếng và trong số rất nhiều tên tuổi nổi tiếng, Viễn Phương với bài thơ “Viếng lăng Bác” vẫn để lại trong lòng người đọc những ấn tượng sâu đậm. Bài thơ là những tình cảm chân thành nhất, sâu nặng nhất của tác giả và đồng bào miền Nam dành cho vị Cha già kính yêu vĩ đại của dân tộc.
Viễn Phương viết bài thơ “Viếng lăng Bác” năm 1976, một năm sau khi miền Nam được giải phóng, đất nước thống nhất đồng thời cũng là thời điểm lăng chủ tịch Hồ Chí Minh vừa được khánh thành. Nhà thơ có dịp ra Bắc thăm lăng Bác Hồ với tâm trạng xúc động vô bờ bến, cũng chính điều này đã tạo nguồn cảm hứng để tác giả sáng tác bài thơ đầy xúc cảm này.
Giới thiệu cùng bạn 🍀 Mở Bài Viếng Lăng Bác 🍀 20 Đoạn Văn Mẫu Hay Nhất
Kết Bài Phân Tích Bài Viếng Lăng Bác Của Viễn Phương
Tham khảo đoạn văn kết bài phân tích bài Viếng lăng Bác của Viễn Phương dưới đây để đánh giá tổng kết về tác phẩm.
Bài thơ Viếng lăng Bác thật giàu hình ảnh và giàu cảm xúc, có mấy ai đọc bài thơ mà không thấy rung cảm trong lòng. Giọng điệu bài thơ phù hợp với nội dung tình cảm, nhịp thơ chậm thể hiện sự trang nghiêm, lòng thành kính và cảm xúc sâu lắng. Riêng ở khổ thơ cuối với nhịp thơ nhanh hơn, phù hợp với sắc thái của niềm mong ước, khát vọng của nhà thơ.
Bằng nghệ thuật sử dụng biện pháp ẩn dụ và biểu tượng, tác giả thể hiện tình cảm chân thành của mình đối với Bác. Hình ảnh Bác không chỉ trong tâm khảm dân tộc Việt Nam mà còn trong trái tim nhân loại. Bác ra đi để lại một tấm gương sáng ngời thật cao quí, đó là “Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” mà cả dân Việt Nam đã và đang hướng tới để hoàn thiện mình.
Xem nhiều hơn 🌟 Kết Bài Viếng Lăng Bác 🌟 20 Đoạn Văn Mẫu Ngắn Hay Nhất
Bài Văn Phân Tích Viếng Lăng Bác Hay Nhất – Mẫu 1
Đón đọc bài văn phân tích Viếng lăng Bác hay nhất được chọn lọc và chia sẻ dưới đây dành cho các em học sinh.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh – vị cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam thường nói “Miền Nam trong trái tim” hẹn ngày thống nhất Bác sẽ vào thăm. Vậy mà khi miền Nam giải phóng, nước nhà thống nhất thì Bác lại không còn nữa.
Những người con miền Nam nhớ Bác cũng chỉ biết vào lăng viếng Bác và Viễn Phương là một trong những người con đó. Với cảm xúc dâng trào của đứa con về thăm cha, Viễn Phương đã cho ra đời bài thơ Viếng lăng Bác thể hiện tình cảm của nhà thơ, của những đứa con dân tộc, của tiếng lòng kính yêu dâng lên Bác.
Đây là một trong những bài thơ cảm động và xuất sắc nhất viết về lãnh tụ Hồ Chí Minh. Bài thơ được viết theo thể thơ tự do, gồm 4 khổ, mỗi khổ có 4 câu. Cảm hứng bao trùm bài thơ là niềm xúc động, thành kính là lòng biết ơn và tự hào, xen lẫn nỗi xót đau khi tác giả từ miền Nam ra Viếng lăng Bác. Giọng điệu thành kính, trang nghiêm của bài thơ rất phù hợp với cảm xúc, và cũng phù hợp với không khí trang nghiêm nơi lăng Bác. Mạch cảm xúc vận động theo trình tự thời gian kết hợp với không gian của một chuyến viếng thăm.
Vì vậy, đọc bài thơ mà như ta theo chân tác giả vào lăng viếng Bác. Khổ 1 cảm xúc về cảnh bên ngoài lăng tập trung ở hình ảnh hàng tre; khổ 2-3 từ dòng người bất tận ngày ngày vào lăng viếng Bác, nhà thơ cảm xúc và suy ngẫm về lãnh tụ kính yêu của dân tộc. Khổ 4 là cảm xúc khi sắp phải trở về miền Nam, nhà thơ mong muốn lòng mình được mãi mãi ở lại nơi lăng Bác.
Hai câu thơ đầu như một lời tự sự đã chứa đựng bao nhiêu cảm xúc:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Bác đã vĩnh viễn ra đi khi đất nước còn chia cắt. Câu thơ của Viễn Phương mang theo niềm xúc động của đứa con miền Nam sau bao ngày mong mỏi lần đầu tiên được ra viếng lăng Bác. Cách xưng hô “con” và “Bác” vừa gần gũi vừa thân thương, vừa trân trọng, vừa thành kính như một đứa con đã lâu nay được trở về thăm cha. Vì vậy, tác giả đã dùng từ “thăm” thay cho từ “viếng” như dấu đi một nỗi đau đang chất chứa trong lòng mình.
Cũng trong khổ thơ này, hình ảnh đầu tiên đập vào mắt tác giả về cảnh quanh lăng Bác là hàng tre. Nhà thơ cảm nhận đó là linh hồn quen thuộc của quê hương Việt:
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt nam
Bão táp mưa sa vẫn thẳng hàng.
Hình ảnh những hàng tre quen thuộc đi vào mạch cảm xúc rất tự nhiên mà có nhiều ý nghĩa sâu sắc. Từ hàng tre cụ thể bên lăng Bác, nhà thơ liên tưởng đến cây tre Việt Nam, đến bản lĩnh, sức sống bền bỉ kiên cường của dân tộc Việt Nam. Tre vừa được hiểu theo nghĩa thực, vừa được hiểu theo nghĩa ẩn dụ.
Vì vậy, Lăng Bác như ở giữa làng quê Việt Nam và trở nên gần gũi và giản dị, và lăng Bác cũng như đang ở giữa lòng dân tộc, thật ấm áp vô cùng! Nói đến tre là nói đến Việt Nam, nói đến Việt Nam là liên tưởng ngay đến Bác. Một sự kết nối khó có thể hiểu khác được!
Khổ thơ thứ hai được bắt đầu từ hình ảnh “Mặt trời”:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Có hai “mặt trời”: “mặt trời” trong câu thơ trên là hình ảnh thực, “mặt trời” trong câu thơ dưới là hình ảnh ẩn dụ. Bác chính là mặt trời sáng rực, vừa thể hiện cái vĩ đại bất diệt, vừa sự sống cho nhân loại; vừa là mặt trời sáng rực của cách mạng vô sản… Lấy “mặt trời” để ví với Bác, nhà thơ thể hiện niềm tôn kính của mình, cũng là sự tôn kính của toàn thể nhân dân Việt Nam đối với vị lãnh tụ kính yêu.
Sự tôn kính ấy còn thể hiện trong hình ảnh dòng người ngày ngày vào lăng viếng Bác:
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân
Người vào thăm Bác, mang hoa viếng Bác, đó là một hình ảnh thực. Nhưng nhà thơ lại muốn nói đến một “tràng hoa” khác. Nhìn dòng người bất tận nối tiếp nhau, nhà thơ thấy giống như một tràng hoa dâng Bác. Lại là một sự kết hợp giữa hình ảnh thực và hình ảnh ẩn dụ, tô đậm niềm tôn kính của nhân dân đối với Bác Hồ.
Đến khổ thơ thứ 3, nhà thơ diễn tả cảm xúc của mình khi đã vào trong lăng:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim!
Khổ thơ gồm 4 câu 7 chữ cân đối, trang nghiêm, phù hợp với không khí thiêng liêng và thanh tịnh trong lăng. Không gian và thời gian như ngừng đọng trước một hình ảnh có tính vĩnh hằng. Nhà thơ cảm nhận như Bác chỉ đang ngủ một “giấc ngủ bình yên”. Đó cũng là ấn tượng thật của mọi người khi được vào thăm lăng, viếng Bác.
Hình ảnh “vầng trăng” là một liên tưởng độc đáo, bất ngờ của nhà thơ. Có thể liên tưởng ấy bắt đầu từ ánh sáng rất dịu nhẹ, trong trẻo của không gian trong lăng. Khi đã xuất hiện thành hình ảnh thơ, “vầng trăng sáng dịu hiền” gợi nghĩ đến tâm hồn cao đẹp, sáng trong và những vần thơ tràn đầy ánh trăng của Người.
Từ hình ảnh “vầng trăng”, nhà thơ lại tiếp tục liên tưởng đến hình ảnh “trời xanh”. Bầu trời xanh là hình ảnh thiên nhiên lớn lao, vĩnh hằng. “Trời xanh”, “vầng trăng”, “mặt trời” trở thành một mối tổng hoà của một vũ trụ bao la, kì vĩ.
Nhà thơ Tố Hữu đã từng viết: “Bác sống như trời đất của ta”. Bác ra đi, nhưng vẫn còn mãi với quê hương đất nước, như trời xanh còn mãi. Dù vẫn tin như thế nhưng không thể không đau xót vì sự ra đi của Người: “Mà sao nghe nhói ở trong tim!”. Câu thơ biểu hiện cụ thể và trực tiếp nỗi đau xót trong hình thức của một câu hỏi tu từ.
Và đến khổ thơ cuối, nhà thơ bày tỏ tâm trạng lưu luyến khi sắp phải trở về miền Nam:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này
“Mai về miền Nam”, nhớ thương Bác đến “trào nước mắt”. Câu thơ có cách diễn đạt chân thành, mộc mạc kiểu Nam Bộ. Ba câu thơ cuối bắt đầu bằng điệp ngữ “muốn làm”, bày tỏ niềm mong ước, tấm lòng lưu luyến của nhà thơ gửi vào niềm mong ước thiết tha muốn hoá thân vào cảnh vật bên lăng Bác: “muốn làm con chim hót”, “muốn làm bông hoa toả hương,” và hơn hết, “muốn làm cây tre trung hiếu” nhập vào “hàng tre bát ngát” quanh lăng Bác.
Hình ảnh hàng tre ở khổ thơ đầu được lặp lại ở cuối bài, tạo nên kết cấu đầu cuối tương ứng, tô đậm hình ảnh gây ấn tượng sâu sắc và dòng cảm xúc được trọn vẹn.
Bài thơ có giọng điệu phù hợp với nội dung tình cảm, cảm xúc: vừa trang nghiêm, sâu lắng, vừa tha thiết, đau xót, tự hào. Với thể thơ tám chữ xen lẫn những dòng thơ bảy chữ hoặc chín chữ. Nhịp thơ chủ yếu là nhịp chậm, diễn tả sự trang nghiêm, thành kính và những cảm xúc sâu lắng.
Riêng khổ cuối nhịp thơ nhanh hơn, phù hợp với sắc thái của lòng mong ước. Hình ảnh thơ có nhiều sáng tạo, kết hợp hình ảnh thực với hình ảnh ẩn dụ, biểu tượng. Những hình ảnh ẩn dụ- biểu tượng như “Mặt trời trong lăng”, “tràng hoa”, “vầng trăng”, “trời xanh”… vừa thân thuộc vừa gần gũi với hình ảnh thực, vừa sâu sắc, có ý nghĩa khái quát và tình cảm của cả dân tộc đối với vị lãnh tụ kính yêu.
Viếng lăng Bác đã để lại trong lòng bạn đọc những cảm xúc sâu lắng và tha thiết. Với những hình ảnh ẩn dụ độc đáo và những biện pháp tu từ đặc sắc, Viễn Phương đã thể hiện một hồn thơ rất riêng. Qua bài thơ, Viễn Phương đã thay nhân dân miền Nam nói riêng và nhân dân cả nước nói chung dâng lên Bác niềm cảm xúc chân thành, lòng tôn kính thiêng liêng.
Bài thơ sẽ tiếp tục sống trong lòng người đọc, gợi nhắc cho những thế hệ kế tục thành quả rực rỡ của cách mạng cách sống sao cho xứng đáng với sự hi sinh của một con người vĩ đại mà giản dị- Chủ tịch Hồ Chí Minh, người đã sống trọn một đời:
Chỉ biết quên mình cho hết thảy
Như dòng sông chảy nặng phù sa
Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất
Bài Văn Phân Tích Bài Thơ Viếng Lăng Bác Ngắn Gọn – Mẫu 2
Tham khảo bài văn phân tích bài thơ Viếng lăng Bác ngắn gọn dưới đây với những ý văn súc tích và cô đọng nội dung.
Bác Hồ là vị cha già kính yêu của dân tộc ta. Để viết về Bác có lẽ chẳng bao giờ có thể ghi hết được công lao to lớn của Người dành cho dân tộc. Ngay cả sau khi Bác mất, rất nhiều bài thơ hay về Bác đã ra đời. Tiêu biểu trong số đó phải kể đến bài thơ Viếng Lăng Bác của Viễn Phương.
Cũng như nhiều người dân khác của nước Việt Nam, mỗi lần nhắc đến Bác Hồ là trong lòng lại trào dâng một nỗi xúc động lớn lao. Sự ra đi của Bác là nỗi tiếc thương cho toàn thể dân tộc Việt. Chính vì vậy mà trong mỗi vần thơ đều có hàm chứa sự biết ơn, lòng tôn kính đối với Người. Và bài thơ Viếng Lăng Bác đã thể hiện rất rõ điều đó.
Mở đầu bài thơ, tác giả cho ta thấy được xuất xứ:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Lòng tôn kính dành cho Bác đã thôi thúc người chiến sĩ Viễn Phương từ miền Nam ra thăm lăng Bác. Không quản ngại đường xa gian khó. Đến được với Bác là một điều tuyệt vời và có ý nghĩa hơn cả. Nhìn từ đằng xa qua lớp sương mù bao phủ nhưng nhà thơ đã thấy rõ hàng tre:
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng
Thán từ “ôi” gợi lên cho người đọc bao nỗi xúc động lớn lao. Dù chưa gặp Bác mà mới chỉ thấy hàng tre thôi đã khiến cho tác giả nghẹn lòng. “Hàng tre xanh xanh Việt Nam”, một hình ảnh tượng trưng vô cùng tuyệt vời. Người Việt Nam vốn gắn bó với lũy tre xanh. Nhìn thấy tre, ta liên tưởng đến những con người Việt Nam cần cù, chịu khó hai sương, một nắng. Cho dù phải hứng chịu biết bao bom đạn của những năm tháng chiến tranh thì tre và người đều đứng hiên ngang, thẳng hàng.
Hai câu thơ tiếp theo mới thật là đặc sắc:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Chúng ta đều biết, trong tự nhiên chỉ có một mặt trời. Điệp từ “ngày ngày” cho ta thấy sự diễn biến liên tục của thời gian. Dường như không có một ngày nào mặt trời không đi qua trên lăng Bác. Mặt trời bao trùm lên không gian bên ngoài lăng Bác. Còn không gian bên trong thì đã có một mặt trời khác soi rọi. Mặt trời ấy chính là Bác Hồ. Nhà thơ Viễn Phương đã có sự ví vón vô cùng tinh tế bởi Bác Hồ khi còn sống là người đã chỉ đường cho chúng ta tìm thấy ánh sáng của sự tự do. Màu sắc “rất đỏ” càng làm nổi bật thêm hình ảnh con người Bác.
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân
Hai câu thơ tiếp theo, Viễn Phương vẫn sử dụng điệp từ “ngày ngày” để chỉ sự liên tục tiếp diễn của những dòng người tới viếng lăng Bác. Không riêng gì nhà thơ, ai ai cũng muốn tới thăm Bác một lần để tưởng nhớ người anh hùng của dân tộc. Động từ “dâng” cho thấy sự biết ơn và lòng kính trọng của người dân đối với Bác. Ở đây, tác giả không nói dâng hoa lên Bác mà là “bảy mươi chín mùa xuân” ý chỉ số tuổi của Bác. Bác của chúng ta đã nằm xuống ở tuổi bảy mươi chín.
Khổ thơ thứ ba miêu tả sự bình yên của Bác.
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim
Sau bao nhiêu năm tháng lăn lộn vì Tổ quốc, giờ đây Bác nằm xuống, đôi mắt nhắm tưởng như là đang ngủ. Đó là một giấc ngủ sâu và kéo dài mãi mãi. Nhìn thì bình yên vậy nhưng lòng người ở lại vẫn cứ thấy nhói đau. Đọc câu thơ thôi mà chúng ta cũng thấy gợn trong lòng. Đó là một sự mất mát quá lớn, một nỗi tiếc thương mà bao nhiêu năm cũng chẳng thể nào nguôi ngoai.
Khổ thơ cuối khép lại với lời chào tạm biệt Bác của nhà thơ. Đồng thời, nhà thơ cũng mong ước được hóa thân vào làm chim, làm hoa, làm cây tre để được ở mãi bên cạnh Người.
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
Qua 4 khổ thơ với giọng điệu chân thành, bình dị, người đọc cảm nhận được tình cảm của nhà thơ miền Nam dành cho Bác kính yêu. Bài thơ khép lại nhưng vẫn đọng lại trong lòng người đọc những nỗi ám ảnh và những nỗi tiếng thương. Nhà thơ Viễn Phương không chỉ nói lên được tình cảm của mình mà còn nói thay cho toàn dân tộc. Thật đáng quý biết bao.
SCR.VN tặng bạn 💧 Cảm Nhận Khổ 1 Bài Viếng Lăng Bác 💧 10 Bài Văn Hay Nhất
Em Hãy Phân Tích Bài Thơ Viếng Lăng Bác Ngắn Nhất – Mẫu 3
Với đề văn yêu cầu em hãy phân tích bài thơ Viếng lăng Bác, các em học sinh có thể tham khảo cho mình gợi ý phân tích bài thơ Viếng lăng Bác ngắn nhất dưới đây:
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhân vật lịch sử thân yêu nhất của dân tộc Việt Nam. Người để lại hình ảnh một người Cha già hiền từ, một tên gọi Bác thân thiết, người hiện thân cho những gì cao đẹp và mạnh mẽ của dân tộc. Lăng Bác trở thành nơi lưu giữ bóng dáng Bác lúc sinh thời, nơi chiêm ngưỡng thành kính của nhân dân cả nước và bạn bè quốc tế.
Biết bao nhà thơ đã làm thơ về Người, về lăng Người. “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương là một bài thơ ngắn đầy xúc động, thể hiện tấm lòng của đồng bào miền Nam đối với Người. Mở đầu bài thơ, tác giả tự giới thiệu: “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”. Lời thơ giản dị chứa đựng rất nhiều cảm xúc. Sinh thời, Người luôn nghĩ đến miền Nam. Nhà thơ Tố Hữu từng viết:
Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác nỗi mong Cha
(Bác ơi)
Lời bài thơ đúng là lời của người con miền Nam ra thăm lăng Bác, nơi yên nghỉ của người Cha già dân tộc. Tình cảm trong bài đúng là tình cảm của người con ở xa mà nỗi niềm nhớ thương ấp ủ bấy lâu như chỉ chờ gặp lại bóng dáng thân yêu là trào dâng, thổn thức. Từ xa, nhà thơ vừa nhìn thấy hàng tre quanh lăng, đã biết bao xúc động:
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.
Nhà thơ hẳn phải đến rất sớm để xếp hàng vào viếng, khi sương sớm còn bao phủ quanh lăng. Theo con đường quanh quanh dẫn tới lăng nổi lên hàng tre bát ngát. Bát ngát của tre và bát ngát của sương. Nhà thơ bắt gặp một hình ảnh thân thuộc mà bao năm đã in hẳn tiềm thức: “hàng tre xanh xanh Việt Nam / Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”.
Một tình cảm vừa thân quen, vừa thương xót và tự hào. Thân quen vì người Việt Nam nào mà không biết tre. Thương xót vì tre phải chịu đựng bão táp, mưa sa, và tự hào vì tre vẫn thẳng hàng, không nghiêng ngả. Từ sương sa mà liên tưởng đến bão táp, mưa sa cũng rất tự nhiên. Từ cây tre mà nghĩ đến Việt Nam, rồi sẽ nghĩ đến Bác cũng là tự nhiên, bởi từ lâu “cây tre”, ‘Việt Nam”, “Hồ Chí Minh” là những từ ngữ có mối liên hệ nội tại.
Khổ thứ hai nói tới cảm xúc trước cảnh đoàn người xếp hàng vào lăng. Hẳn là đoàn người rất dài, tốc độ đi rất chậm. Khổ thơ trên, cảnh vật đang còn sương phủ, bây giờ mặt trời đã lên cao trên đầu. Mặt trời trên lăng lại gợi lên một liên hệ mới:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ví Bác với mặt trời là hình ảnh đã quen, nhưng đem so sánh mặt trời trên lăng và mặt trời trong lăng là một sáng tạo mới xuất thần, thoát sáo, chưa hề có. Mặt trời “rất đỏ” làm nhớ đến trái tim, trái tim nhiệt huyết, chân thành, trái tim thương nước, thương dân. Ngắm nhìn dòng người vào viếng, nhà thơ lại nghĩ đến vòng hoa:
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân…
Tràng hoa là chuỗi hoa vòng kết thành tròn. Từng đoàn người đi viếng di chuyển từ phía sau lăng, qua bên lăng, vòng ra trước lăng rồi quay vào chính diện của lăng, đúng là tạo thành một vòng tròn, khiến nhà thơ nghĩ đến tràng hoa. Bởi vì con người là hoa của đất, những con người từng được Bác Hồ quan tâm.
Mọi người hình như không phải đến viếng một người đã từ trần, viếng một thi hài, mà là đến viếng một cuộc đời bảy mươi chín mùa xuân đã hiến dâng bao nhiêu hoa trái. Ở đây tác giả không chỉ liên tưởng sâu sắc, mà còn dùng từ tinh tế, đầy tình cảm nâng niu, quý trọng.
Những chữ “ngày ngày” được lặp lại hai lần gây cảm giác một thời gian vô tận, vĩnh viễn, không bao giờ ngừng, như tấm lòng nhân dân không nguôi nhớ Bác.
Khổ thơ thứ ba nói về cảm xúc khi đã vào đến trong lăng. Đây là nơi ngự trị của cái im lặng trang nghiêm của sự yên nghỉ đời đời. Câu thơ đã viết rất đỗi chân thực và thơ mộng:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Khung cảnh bình yên, lặng lẽ gợi lên giấc ngủ ban đêm, êm đềm dưới vầng trăng sáng dịu hiền. Nhà thơ một mặt không muốn cảm nhận đây là giấc ngủ vĩnh viễn, ngủ giữa ban ngày, nhưng mặt khác không thể không thấy một sự thật rằng con người đang nằm kia đã vĩnh viễn ra đi:
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi.
Mà sao nghe nhói ở trong tim
Dù biết Bác sống vĩnh viễn như trời xanh thì cũng không che giấu được một sự thật mất mát, làm đau nhói con tim. Câu thơ nghe như một tiếng khóc nghẹn ngào. Khổ thơ cuối cùng là cảm xúc trước khi ra về:
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này
Nghĩ đến ngày mai về miền Nam, nỗi thương xót làm trào rơi nước mắt. Không phải rưng rưng, rơm rớm, mà là trào, một cảm xúc mãnh liệt. Tình thương xót như nén giữa tâm hồn, làm nảy sinh bao ước muốn. Ước muốn làm con chim hót quanh lăng Bác, để lại chút vui tươi, nhí nhảnh bên một người đã hy sinh cả gia đình, tình riêng vì đất nước. Ước muốn làm đóa hoa tỏa hương quanh lăng, một làn hương như thực như hư “đâu đây”, thoang thoảng.
Ước muốn làm cây tre trung hiếu quanh lăng. Mọi ước muốn đều quy tụ vào một điểm là mong được gần Bác mãi mãi, hẳn là muốn làm vui, làm khuây, làm vợi nỗi lạnh lẽo của con người đã suốt đời hy sinh cho sự nghiệp giải phóng Tổ quốc, giải phóng dân tộc, một con người lúc sinh thời đã dành trọn tình thương yêu cho mọi tầng lớp nhân dân và đặc biệt cho đồng bào miền Nam ruột thịt.
Bài thơ tả lại một ngày ra thăm lăng Bác, từ tinh sương đến trưa, đến chiều. Nhưng thời gian trong tưởng niệm là thời gian vĩnh viễn của vũ trụ, của tâm hồn. Cả bài thơ bốn khổ, khổ nào cũng trào dâng một niềm thương nhớ bao la và xót thương vô hạn. Bốn khổ thơ, khổ nào cũng đầy ắp ẩn dụ, những ẩn dụ đẹp và trang nhã, thể hiện sự thăng hoa của tình cảm từ cõi hằng ngày lên cõi cao cả.
Tình cảm đối với Bác chỉ có thể là tình cảm cao cả, nâng cao tâm hồn con người. Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương là một đóng góp quý báu vào kho tàng thi ca viết về Hồ Chủ tịch, vị lãnh tụ vĩ đại, kính yêu của dân tộc.
Đón đọc tuyển tập 💧 Phân Tích 2 Khổ Thơ Đầu Bài Viếng Lăng Bác 💧 8 Bài Hay
Phân Tích Bài Viếng Lăng Bác Chi Tiết – Mẫu 4
Bài văn mẫu phân tích bài Viếng lăng Bác chi tiết dưới đây sẽ giúp các em học sinh nắm vững giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ.
Thời gian có thể phủ bụi dường như tất cả nhưng có những chân giá trị, những con người càng rời xa thời gian, càng sáng, càng đẹp. Đã gần nửa thế kỷ trôi qua, Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ vĩ đại cống hiến và hy sinh cả cuộc đời mình cho quốc gia, dân tộc – vẫn chiếm trọn tình cảm của mỗi người con Việt Nam.
“Bác Hồ đó, chiếc áo nâu giản dị. Màu quê hương bền bỉ đậm đà. Ta bên Người, Người tỏa sáng trong ta…” (Tố Hữu). Và một lần nữa, ta lại không khỏi bồi hồi trước những dòng thơ trong bài thơ Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương. Bài thơ chính là tấm lòng “tủy cốt chung tình” nhất không chỉ của tác giả, mà còn của toàn thể đồng bào Việt.
Nhắc đến Viễn Phương, Mai Văn Tạo có lần từng nhận xét: “Thơ Viễn Phương nền nã, thì thầm, man mác, bâng khuâng, day dứt, không gút mắc, cầu kỳ, kênh kiệu, khoa ngôn. Hình ảnh nào trong đời sống anh cũng tìm thấy chất thơ. Không đợi đến “Tiếng tù và trong sương đêm”, “Hoa lục bình trôi man mác tím, bông lau bát ngát nắng chiều” hay “Chòm xanh điên điển nhuộm vàng mặt nước”…
Một mái lá khô hanh trong rừng vắng anh cũng đưa vào đấy cái thực, cái hư, rất thơ mà thực, rất thực mà thơ” Quả thật như vậy, các sáng tác của Viễn Phương đã thể hiện rất rõ điều đó. Ông có rất nhiều thi phẩm hay nhưng nổi bật nhất phải kể đến Viếng lăng Bác.
Bài thơ được in trong tập “Như mây mùa xuân” năm 1978 với những dòng cảm xúc chân thành, sâu sắc, niềm thành kính và biết ơn của nhà thơ cũng như toàn thể đồng bào miền Nam, của nhân dân toàn quốc dành cho người cha vĩ đại của dân tộc. Bởi lẽ đó, bài thơ cũng được coi như một nén tâm hương chân thành dâng lên Người. Trước hết có thể thấy hiện lên ở khổ thơ đầu là cảm xúc tự hào, niềm xúc động khi được đến thăm lăng Bác để thỏa nỗi lòng của thi nhân:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.
Câu thơ mở đầu thay cho một lời chào, một lời giới thiệu về hành trình của những đứa con từ miền Nam ra Hà Nội thăm Bác Hồ kính yêu. Cách xưng hô “con -Bác” của người Nam Bộ gợi đến những tình cảm rất thân thương và gần gũi. Nó cho thấy mối quan hệ giữa Bác và những đứa con tựa như tình cha con ruột thịt.
Tác giả như một đứa con lâu ngày mới có dịp về thăm vị cha già kính yêu. Với từ “thăm”- một cách nói giảm nói tránh, tác giả cố giấu đi, nén lại trong lòng cảm xúc đau thương mất mát không thể nào bù đắp được của cả dân tộc và cũng như để nói với tự lòng mình: Bác còn sống mãi với non sông đất nước, còn sống mãi “như trời đất của ta”, trong “từng ngọn lúa mỗi nhành hoa” (Tố Hữu).
Hình ảnh “hàng tre bát ngát” hiện ra trong sương mờ buổi sớm trên con đường đến thăm Bác, đó là hình ảnh tả thực, hình ảnh của quê hương thân thương, yên bình, gần gũi luôn ở bên Người. Một câu cảm thán tác giả sử dụng để bộc lộ cảm giác ngỡ ngàng về hình ảnh hàng tre:
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Đó là hình ảnh ẩn dụ tuyệt đẹp cho người dân Việt Nam, là biểu tượng cho dân tộc Việt Nam trải qua “bão táp mưa sa”- thành ngữ chỉ muôn vàn khó khăn gian khổ để rồi thi nhân như khẳng định chắc nịch rằng: mỗi cây trẻ như một con người Việt Nam bền bỉ, kiên trung, vững vàng nay trở về kính cẩn nghiêng mình trước anh linh của Bác. Ba hình ảnh đã tạo nên một trường liên tưởng độc đáo, thú vị: Lăng Bác hiện lên như một làng quê yên bình với những con người bình dị, gần gũi vô cùng.
Chầm chậm theo dòng người vào trong lăng, nơi Bác đang yên nghỉ, tâm hồn nhà thơ chứa chan lòng thành kính, biết ơn và ngưỡng mộ sâu sắc đối với Bác Hồ:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một Mặt Trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.
“Mặt trời đi qua trên lăng” là mặt trời của vũ trụ, của thiên nhiên ngày ngày sưởi ấm Trái Đất, mang lại sự sống cho vạn vật muôn loài. Tác giả cũng nhận ra, trong lăng cũng có một “mặt trời”, một “mặt trời rất đỏ”. Đó cũng chính là hình ảnh ẩn dụ tuyệt đẹp chỉ Bác Hồ kính yêu vì Bác như vầng mặt trời có công lao to lớn cho toàn thể dân tộc, dìu dắt ta từ chỗ lầm than đến ngày tự do huy hoàng.
Đồng thời phép ẩn dụ cũng như một cách thể hiện tấm lòng thành kính của chính tác giả với Bác Hồ. Cụm từ “ngày ngày” đã khẳng định quy luật bất biến của con người cũng như tự nhiên: nơi lăng Bác dòng người nối dài vô tận không ngừng nghỉ, lặng lẽ, kính cẩn, trang nghiêm để được vào lăng viếng Bác.
Dòng người ấy là tấm gương điển hình trên các mặt trận lao động, sản xuất, chiến đấu, đại diện cho gần sáu mươi dân tộc anh em từ khắp nơi trên mọi miền Tổ quốc tụ họp lại đây. Họ kết thành hình ảnh một “tràng hoa” – hình ảnh ẩn dụ giàu ý nghĩa tượng trưng cho những gì tốt đẹp nhất, tinh túy nhất của thiên nhiên, của con người Việt Nam thành kính dâng lên Bác, dâng lên “bảy mươi chín mùa xuân”.
Phép hoán dụ, cũng là cách nói trang trọng nhằm diễn đạt ý tứ sâu xa: bảy mươi chín tuổi đời của Bác là bảy mươi chín mùa xuân tươi đẹp, một cuộc đời đẹp và tràn đầy ý nghĩa. Bác đã đem lại cho ta một mùa xuân vĩnh hằng, mùa xuân của độc lập tự do và hạnh phúc.Với những cảm xúc và suy nghĩ của riêng mình, lời thơ của Y Phương đã chạm vào trái tim của tất cả chúng ta khi nghĩ về Bác:
Vì sao trái đất nặng ân tình
Nhắc mãi tên Người Hồ Chí Minh.
Mạch cảm xúc của tác giả tiếp tục với những dòng cảm xúc tiếc thương vô hạn, cho dù cố giấu đi những dòng cảm xúc ấy nhưng vẫn đủ sức lay động trái tim của hàng triệu người:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim.
Vẫn là phép nói giảm, nói tránh “giấc ngủ bình yên”, tác giả như cố gắng muốn xua đi sự thật phũ phàng: Bác không còn nữa. Hai câu thơ như tái hiện trước mắt độc giả hình ảnh chân thực: Bác đang nằm trên kính, ánh đèn hồng chiếu xuống khiến cho gương mặt Bác trở nên hồng hào và sáng dịu hiền như vầng trăng.
“Trời xanh” và “ánh trăng” được nhắc đến vừa là hình ảnh thực, vừa có ý nghĩa ẩn dụ thể hiện sự bất diệt và trường tồn của thiên nhiên. Kết hợp với cặp quan hệ từ “vẫn biết – mà sao”, tác giả như muốn lấy quy luật của tự nhiên để khẳng định quy luật của con người, nhằm tự trấn an lòng mình: vẫn biết Bác luôn sống mãi trong lòng dân tộc nhưng sự thật phũ phàng rằng Bác đã ra đi mãi mãi khiến tác giả thấy “nghe nhói ở trong tim”.
Từ “nghe nhói” là nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác một cách rõ nét nhất cảm giác đau đớn tột cùng của tác giả khi nghĩ sự thật rằng Bác không còn nữa. Đó là nỗi đau quá lớn khiến tác giả không giấu nổi nghẹn ngào. Có lẽ cũng bởi vậy mà mới nghĩ đến việc ngày mai phải xa Bác kính yêu, lòng tác giả và những đứa con miền Nam đã dâng niềm xúc động bồi hồi:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…
Lời thơ nghẹn ngào, nức nở, cảm xúc nhớ thương được bộc lộ một cách trực tiếp, “thương trào nước mắt” không chỉ là cảm xúc của Viễn Phương mà ông như đang nói hộ tấm lòng của muôn vàn những trái tim ấm nóng khác khi phải xa chốn thiêng liêng.
Để rút ngắn khoảng cách không gian, nhà thơ đã bày tỏ niềm ước muốn chân thành, thiết tha, xúc động bằng một loạt các động từ “muốn làm” kết hợp với hình ảnh thiên nhiên đầy ẩn dụ tượng trưng: làm con chim để dâng tiếng hót lên lăng Bác, làm cây trẻ thành kính, tôn nghiêm như người lính canh giữ giấc ngủ bình yên cho Người.
Đó không chỉ là hình ảnh tinh túy của thiên nhiên mà còn là hình ảnh kết tinh vẻ đẹp sức sống con người kính dâng lên Bác. Bình dị, khiêm nhường, không ồn ào khoa trương, ước nguyện của nhà thơ cũng là ước nguyện của chúng ta: Ai cũng muốn ở bên Bác, muốn làm điều gì đó dẫu là nhỏ bé cho Bác vui lòng.
Đặc biệt hơn cả là hình ảnh “cây tre trung hiếu” kết thúc bài thơ tạo ra kết cấu đầu cuối tương ứng. Đồng thời còn là hình ảnh nhân hóa, ẩn dụ mang ý nghĩa khái quát, nhất là đặt trong hoàn cảnh đất nước ta lúc bấy giờ, câu thơ khẳng định tấm lòng chung thủy, sắt son với Đảng, với Bác Hồ của đồng bào miền Nam. Cứ thế, bước chân đi nhưng lòng còn níu lại. Cảm xúc của nhà thơ thật chân thành, xúc động đã chạm vào dây đồng cảm của tất cả chúng ta.
Cùng với tất cả những tác phẩm ca ngợi về hồ chủ tịch, bài thơ Viếng lăng Bác đã để lại dòng cảm xúc xót thương biết bao trong lòng người đọc suốt bốn mươi năm qua bởi thành công rực rỡ về cả nội dung lẫn nghệ thuật. Ngôn ngữ thơ giản dị, mộc mạc, đậm chất Nam Bộ, hình ảnh thơ chân thực gợi nhiều trường liên tưởng, tưởng tượng.
Trong đó, đặc sắc nhất là những biện pháp như: nói giảm, nói tránh, ẩn dụ, hoán dụ, điệp từ… được tác giả sử dụng linh hoạt, hiệu quả cao về giá trị thẩm mỹ. Bài thơ bởi lẽ đó đã mang đến cho ta những cảm xúc sâu sắc về Bác Hồ kính yêu với những công lao vĩ đại mà Người đã cống hiến, hy sinh cho dân tộc.
Với ý nghĩa đó, bài thơ thực sự trở thành nén tâm hương thành kính của nhà thơ cũng như của nhân dân cả nước kính dâng lên Bác. Bên cạnh đó, Viễn Phương đã góp phần lớn của mình vào đề tài ca ngợi lãnh tụ. Một bài thơ hay, một cảm xúc chân thành, lắng đọng trong lòng người đọc.
Cùng với rất nhiều bài thơ ca ngợi Bác, Viếng lăng Bác của Viễn Phương mãi mãi là bài ca đi cùng năm tháng. Bài thơ đã thể hiện trong lòng ta những cảm xúc tự hào, biết ơn vô hạn với vị cha già vĩ đại của dân tộc.
Có thể bạn sẽ thích 🌟 Cảm Nhận Khổ 2 3 Bài Viếng Lăng Bác 🌟 10 Bài Ngắn Hay
Phân Tích Viếng Lăng Bác Nâng Cao – Mẫu 5
Tham khảo bài văn mẫu phân tích Viếng lăng Bác nâng cao dưới đây để đi sâu phân tích những hình ảnh thơ đặc sắc trong tác phẩm.
Bác Hồ đã ra đi mãi mãi để lại niềm tiếc thương vô cùng cho hàng triệu con người Việt Nam. Người ra đi khi mà miền Nam còn chưa được độc lập, đất nước Việt Nam còn chưa được thống nhất. Mong muốn mãnh liệt là đi miền Nam của Bác cũng không kịp thực hiện.
Vậy nên, năm 1976, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ vừa kết thúc thắng lợi và lăng Bác được khánh thành thì nhà thơ Viễn Phương – một người con của miền Nam yêu dấu đã thay mặt nhân dân miền Nam ra thăm và viếng lăng Bác. Cũng ở dịp này, ông đã sáng tác nên bài thơ “Viếng lăng Bác” và in trong tập thơ Như mây mùa xuân.
Bài thơ Viếng lăng Bác là niềm cảm xúc dạt dào, chân thành của một người con từ miền Nam xa xôi lặn lội ra thăm người Cha già của dân tộc, vừa thành kính lại tha thiết, sâu nặng. Bài thơ được viết bằng thể thơ tám chữ với bốn khổ thơ. Mỗi khổ thơ lại là những cảm xúc khác nhau kể từ khi nhà thơ nhìn thấy lăng Người cho tới khi trước lúc rời xa lăng Bác để trở về quê hương.
Bài thơ được mở đầu bằng những cảm xúc rất đỗi nghẹn ngào, chân thành của nhà thơ khi từ xa nhìn về lăng của Người:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”
Lời giới thiệu trực tiếp chứa chan niềm xúc động của nhà thơ. Nhà thơ giới thiệu mình là người con từ “miền Nam” xa xôi ra “thăm” Người. Bởi lẽ, miền Nam luôn là nơi Bác Hồ luôn đau đáu thuở còn sinh thời, tới tận khi cuối đời, Người luôn mong mỏi về một miền Nam độc lập và Người sẽ được vào thăm nhân dân miền Nam yêu quý. Thế nhưng, chưa kịp thực hiện thì Người đã mãi ra đi.
“Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác nỗi mong cha”
(Tố Hữu)
Cách xưng hô con-bác thể hiện sự gần gũi, gắn bó thân thiết. Tác giả đã sử dụng từ “thăm” chứ không phải “viếng” một cách tinh tế, ý nhị. Đó không chỉ là cách nói giảm nói tránh để vơi bớt đi nỗi tiếc thương mà với nhà thơ Viễn Phương, chuyến đi này là một cuộc thăm hỏi, gặp gỡ thân tình của những người con Việt Nam với vị cha già muôn vàn kính yêu của dân tộc.
Từ xa nhìn lại, lăng Bác ẩn hiện trong làn sương và trong làn sương ấy lại thấp thoáng “hàng tre bát ngát”. Trước hết đây là hình ảnh tả thực về những hàng tre xanh ngát trước lăng Bác. Không chỉ vậy, hàng tre trong câu thơ “Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát” mang ý nghĩa biểu tượng.
Tre với người Việt Nam từ bao đời nay đã trở nên quen thuộc, đã trở thành biểu tượng cho sự kiên cường, bất khuất của con người Việt Nam. Cây tre xuất hiện từ thời Thánh Gióng đánh đuổi giặc Ân đến thời kháng chiến, nó trở thành những cây chông để ngăn bước chân thù. Tre gắn bó với cuộc sống sinh hoạt, chiến đấu, tre đi vào đời sống tinh thần qua những câu ca dao, những áng thơ văn. Và giờ đây, quanh lăng Bác, hàng tre ấy lại hiện lên mênh mông, bát ngát chứa đựng hồn cốt, vẻ đẹp của con người Việt Nam.
Hàng tre xanh bát ngát cũng như hàng triệu con người Việt Nam, luôn ở bên Bác, bảo vệ chốn nghỉ bình yên của Người. Nguồn xúc cảm mãnh liệt đã khiến cho mạch thơ ở đây thật bồi hồi, thật xúc động. Và từ đó, nó biến thành sự cảm thán nghẹn ngào:
“Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”
Nhìn hàng tre thấp thoáng trong sương nơi lăng Bác nhà thơ lại chợt liên tưởng tới những con người Việt Nam với ý chí kiên cường. Thán từ “ôi” đặt đầu câu đã nhấn mạnh sự xúc động, niềm tự hào của tác giả trước vẻ đẹp kiên cường, bất khuất của con người Việt Nam giữa bão táp lịch sử. Hàng tre ấy như bao thế hệ con người Việt Nam, lớp này nối tiếp lớp kia, hiên ngang “đứng thẳng” giữa đất trời, dù có khó khăn, dù có thử thách cam go!
Bao trọn khổ thơ đầu tiên là cảm xúc của nhà thơ khi lần đầu tiên được nhìn thấy lăng Bác. Niềm cảm xúc ấy vừa có sự đau xót, thương tiếc chân thành đối với vị lãnh tụ kính yêu của đất nước, vừa có niềm tự hào dân tộc về ý chí, về con người Việt Nam.
Hai khổ thơ tiếp theo là những xúc cảm của nhà thơ khi đứng trước vị Cha già dân tộc. Đó là sự đau xót, là niềm biết ơn, sự thành kính chân thành của Viễn Phương đối với Bác Hồ.
Theo chân nhà thơ, chúng ta bước dần vào trong lăng Bác trong không khí trang nghiêm, thành kính.
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”
Sự gặp gỡ của mặt trời của thiên nhiên và “mặt trời” của dân tộc, con người Việt Nam đã mang đến những cảm xúc thật xúc động, tự hào. Một mặt trời của thiên nhiên vũ trụ “ngày ngày” luân chuyển tạo thành đêm và ngày “đi qua trên lăng”. Còn một “mặt trời” khác đang nằm trong lăng, “mặt trời” ấy cũng rất “đỏ”, rực rỡ và chiếu sáng khắp non sông đất nước ta, “mặt trời” đó chính là Bác Hồ.
Đây là một hình ảnh so sánh, ẩn dụ hết sức đặc sắc của nhà thơ. Nếu như mặt trời ngoài kia “ngày ngày” đi qua trên lăng Bác, toả ánh sáng, sưởi ấm cho Bác thì Bác cũng là “mặt trời”, là ánh sáng chỉ đường cho dân tộc Việt Nam ta. Ánh sáng ấy là nguồn sáng chói lòa rực rỡ, đưa cả đất nước ta bước ra khỏi lầm than.
Không ít nhà thơ đã lấy hình ảnh “mặt trời” để so sánh với Người, như Tố Hữu cũng đã từng so sánh Bác trong bài thơ Sáng tháng năm:
“Người rực rỡ một mặt trời cách mạng
Còn đế quốc là loài dơi hốt hoảng”.
Thế nhưng, không thể phủ nhận rằng hình ảnh so sánh sáng tạo của Viễn Phương mang một vẻ đẹp, một sắc thái hoàn toàn riêng biệt. Hình ảnh so sánh mộc mạc, giản dị nhưng lại chứa đựng cảm xúc dạt dào, mãnh liệt.
“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”
Tiếp theo là hình ảnh của đoàn người vào “thăm” viếng Bác. Đoàn người ấy xếp thành hàng dài, lặng lẽ tiến từng bước chậm bước vào trong lăng. Họ đều mang trong lòng nỗi thương nhớ, sự xót xa, tiếc thương đối với Người.
Tác giả đã cố tình đặt ở đầu câu thơ điệp từ “ngày ngày” để diễn tả sự lặp lại, thường xuyên, vô tận những dòng người vào lăng viếng Bác trong niềm thương tiếc. Nếu mặt trời của thiên nhiên “ngày ngày” đều đi qua lăng Bác lặng lẽ, đều đặn sưởi ấm cho Người thì những dòng người xếp hàng vào lăng viếng Người trong nỗi thương nhớ cũng đều đặn, lặng lẽ như thế!
Và có lẽ, hình ảnh kết tinh đẹp đẽ nhất bài thơ là hình ảnh:
“Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”.
Đây là hình ảnh ẩn dụ rất sáng tạo của nhà thơ, “dòng người” đang lặng lẽ ngoài lăng, giống như một “tràng hoa” lớn đang được kết lại và dâng lên Người. Đó là tràng hoa của lòng người, của lòng biết ơn, trân trọng của con người Việt Nam với Bác. “Bảy mươi chín mùa xuân” là hình ảnh hoán dụ số tuổi của Người. Cả cuộc đời Bác đều cống hiện trọn vẹn từng phút giây cho sự nghiệp giải phóng của dân tộc Việt Nam, không một phút ngơi nghỉ.
Bác Hồ đã mãi mãi ra đi, thế nhưng, với nhà thơ Bác chỉ như đang “nằm trong giấc ngủ bình yên”. Người dường như chỉ đang vừa chợp mắt sau những giờ làm việc căng thẳng và mệt mỏi. Người nằm dưới ánh sáng của đèn điện bao quanh, thế nhưng, nhà thơ lại tưởng đó là ánh sáng của “vầng trăng sáng dịu hiền”. Hình ảnh “một vầng trăng sáng dịu hiền”: liên tưởng thú vị của nhà thơ gợi liên tưởng đến tâm hồn thanh cao, giản dị của Bác đồng thời gợi nhớ đến những bài thơ ngập ánh trăng của Người.
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”
(Cảnh khuya)
Hay:
“Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”
(Vọng nguyệt)
Cuộc đời Bác là hoà quyện của sự thanh cao, vĩ đại mà gần gũi, giản dị vô cùng. Có lẽ vì thế mà khi nhà thơ được nhìn thấy Bác, trong lòng Viễn Phương đã dâng lên một niềm xúc động mãnh liệt:
“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”
Ông biết quy luật của thiên nhiên, của tạo hoá thì cái chết là điều không tránh khỏi, thế nhưng sự ra đi của Bác Hồ là một sự mất mát to lớn, một niềm tiếc thương cho toàn thể dân tộc Việt Nam. Vẫn biết Bác vẫn còn mãi trong trái tim mỗi người con Việt Nam giống sự bất tử của trời xanh “trời xanh là mãi mãi” thế nhưng đối diện với sự thật đau lòng, tác giả vẫn “nhói” lên nỗi đau đớn khôn cùng.
Sự ra đi của Bác là hoá thân vào đất trời, vào thiên nhiên để cùng trường tồn với dân tộc, thế nhưng, nỗi đau vẫn còn đó, trong lòng nhà thơ, trong lòng tất cả con người Việt Nam. Câu thơ nghe như một sự cảm thán, một sự trách cứ với quy luật của thiên nhiên. “Vẫn biết” quy luật sinh tử là không thể tránh khỏi, nhưng đau đớn quá, tê tái quá!
Cuộc gặp gỡ nào rồi cũng tới hồi kết, và cuộc viếng thăm của Viễn Phương cũng vậy. Giờ phút nói lời từ biệt với Bác, trong lòng ông dâng lên một cảm xúc mãnh liệt, những nỗi niềm đau xót từ ban đầu giờ đây biến thành tiếng nấc đầy nghẹn ngào:
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa ngát hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”
Ngày mai thôi là nhà thơ phải rời khỏi nơi đây, rời xa vị Cha già dân tộc mà không biết bao giờ có thể gặp lại. Chính vì thế, những nỗi nghẹn ngào đã bật thành tiếng khóc, bật thành những giọt nước mắt bịn rịn, lưu luyến. Và tận sâu trong lòng nhà thơ bật lên những ước nguyện thật nhỏ bé:
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa ngát hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”
Tác giả muốn trở thành “chim”, thành “hoa”, thành những cây “tre” nơi đây dù là bé nhỏ thôi, để được gần cạnh Người, bầu bạn cùng Người. Ước nguyện của nhà thơ thật mãnh liệt và cháy bỏng khi liên tục lặp lại ba lần điệp từ “muốn làm”. Nhịp thơ ở đây chậm hơn những khổ thơ trước như muốn kéo dài giây phút chia xa. Và cuối bài thơ, hình ảnh “cây tre” lại một lần nữa xuất hiện.
Hình ảnh “cây tre trung hiếu” là biểu tượng cho con người Việt Nam kiên trung, là phẩm chất đạo đức quan trọng nhất của con người, luôn “trung với Đảng, hiếu với dân”. Nhà thơ muốn được hoá thành một cây tre nhỏ, “trung hiếu” để được bên Bác, được Bác soi đường và dẫn lối. Qua đó, Viễn Phương muốn khẳng định sự tin tưởng, sự trung thành của mỗi người dân Việt Nam trước những lý tưởng và chân lý mà Bác đã mở đường cho chúng ta.
Bài thơ khép lại nhưng vẫn còn lưu lại trong chúng ta tình cảm dạt dào của một người con phương Nam khi tới thăm lăng Bác. Với lối thơ tám chữ, chậm rãi như đang kể một câu chuyện, Viễn Phương đã giúp người đọc cùng cảm nhận sự đau xót, thương tiếc cũng như niềm tự hào trong lòng ông.
Những hình ảnh đẹp, những ẩn dụ sáng tạo đã làm sống dậy trong lòng mỗi người đọc chúng ta niềm kính yêu vô bờ trước vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc. Và dù Người đã đi xa hơn năm mươi năm nhưng những lý tưởng và tấm gương của Người sẽ còn sáng mãi trong lòng người dân Việt Nam.
Gợi ý cho bạn 🌹 Nghị Luận Về Bài Thơ Mùa Xuân Nho Nhỏ 🌹 5 Mẫu Hay Nhất
Phân Tích Viếng Lăng Bác Học Sinh Giỏi – Mẫu 6
Tham khảo văn mẫu phân tích Viếng lăng Bác học sinh giỏi dưới đây với những nội dung phân tích bài thơ chuyên sâu và đặc sắc.
Bác Hồ luôn là đề tài muôn thuở trong thơ ca của Việt Nam. Người là nguồn cảm hứng bất tận cho các nhà thơ, nhà văn thể hiện tài năng trong các tác phẩm của mình. Có thể nói, Bác chính là hình ảnh đẹp nhất, ngời sáng nhất trong thơ ca Việt Nam. Không ít tác phẩm viết về Người, viết về những cuộc viếng thăm, gặp gỡ Người, nhưng có lẽ, cảm xúc nhất trong những tác phẩm đó là “Viếng lăng Bác” của nhà thơ Viễn Phương. Bài thơ là nỗi niềm của một người con ở tận miền Nam xa xôi được trở ra thăm Bác sau ngày Bác đi xa.
Viễn Phương là một nhà thơ xuất hiện khá nhiều trong dòng văn học Cách mạng ở miền Nam từ những ngày còn trong thời gian chiến đấu. Nhưng tác phẩm “Viếng lăng Bác” có lẽ là tác phẩm thành công nhất của ông khi viết về Bác Hồ. Cả bài thơ chứa đựng trong đó là nỗi niềm đau xót, là sự xúc cảm chân thành dành cho vị Cha già của dân tộc của một người con nơi phương xa được trở về thăm. Mở đầu bài thơ, tác giả đã mở lời chào giới thiệu với chúng ta, với Bác Hồ kình yêu rằng:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng
Không như những nhà thơ khác dùng lời mời chào mỹ miều để miêu tả một cuộc viếng thăm, Viễn Phương đã dùng sự chân thành nhất của mình để giới thiệu. Tác giả ở tận miền Nam xa xôi, mãi tới hôm nay, sau ngày độc lập dân tộc mới được ra thăm vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc. hai từ “miền Nam” như nhấn mạnh hơn sự xa xôi trong khoảng cách địa lý giữa hai đầu Tổ quốc.
Và sự viếng thăm của nhà thơ như là một mong mỏi từ lâu để được ra viếng lăng Bác Hồ. Bác Hồ đã ra đi từ năm 1969 nhưng mãi đến tận năm 1976, Viễn Phương mới được trở ra Bắc để thăm Người. Nói là thăm, nhưng thực ra là một cuộc viếng thăm lăng của Người bởi Người đã ra đi từ lâu.
Nhưng ở đây, nhà thơ rõ ràng không dùng từ “viếng” như mục đích thực sự của chuyến đi này mà lại dùng từ “thăm”. Bởi vì tác giả cũng như những người con Nam Bộ khác ra đây để thăm lại nhà, thăm lại vị Cha già của mình. Cũng bởi vì, miền Nam là một phần máu thịt của đất nước Việt Nam, là một phần “nhà” mà Bác Hồ luôn đau đáu vào thăm mà chưa có dịp:
Bác thương miền Nam nỗi thương nhà
Miền Nam mong Bác nỗi mong cha
(Tố Hữu)
Nghệ thuật nói giảm nói tránh đã được nhà thơ sử dụng ở đây như một cách để làm giảm đi nỗi đau xót vô vàn đang trào dâng trong lòng ông. Bao nhiêu xúc cảm đau xót cứ thể trào ra trong lòng như một cơn sóng mạnh mẽ vậy mà ấn tượng đầu tiên để lại trong lòng tác giả lại là “hàng tre”. Ẩn hiện trong làn sương sớm long lanh bao phủ quanh lăng Bác là hàng tre xanh.
Cây tre từ bao đời nay đã trở thành một loài cây biểu tượng cho dân tộc ta, cho tinh thần bất khuất của cha ông ta. Từ thời Thánh Gióng cầm tre đuổi giặc, tới những cây chông, cây gai vót nhọn làm cản bước quân thù. Cây tre cứ thế đi vào đời sống tinh thần của người Việt. Hàng tre trước mắt Viễn Phương hiện lên “bát ngát”.
Không phải bất cứ từ nào khác mà lại là “bát ngát” tạo cho người đọc như cảm thấy sự cao lớn, sự mênh mông, rộng lớn của những hàng tre bao quanh lăng của Người. Ấn tượng đó của nhà thơ chợt chuyển thành một sự cảm thán.
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng
Nhìn hàng tre quanh lăng Bác, nhà thơ chợt cảm thấy rằng những cây tre kia như ý chí con người Việt Nam qua bao năm tháng luôn luôn bất khuất, kiên cường, hiên ngang. Dù có trải qua “bão táp mưa sa” nhưng họ vẫn đoàn kết một lòng cùng nhau đứng lên. Từ láy “xanh xanh”được sử dụng ở đây như để biểu đạt, để diễn tả rằng con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam sẽ luôn luôn “xanh” màu xanh bất diệt.
“Xanh xanh” tức là lúc nào cũng vậy, lúc nào cũng một màu xanh như thế. Lớp con cháu kế tiếp lớp cha ông luôn mạnh mẽ để bảo vệ cho dân tộc ta. Cả khổ thơ thứ nhất bao trọn là những xúc cảm đầu tiên của tác giả khi lần đầu được tới thăm lăng Bác. Trong khổ thơ đó, có nỗi đau xót mất đi Bác, nhưng ẩn chứa trong đó phảng phất là niềm tự hào dân tộc.
Bước sang khổ thơ thứ hai, chúng ta theo chân Viễn Phương tiến dần vào lăng Bác. Trong không khí trang nghiêm ấy, nhà thơ chợt thấy hiện ra hình ảnh của mặt trời. Một mặt trời của vũ trụ luôn luôn luân chuyển không ngừng nghỉ ngày và đêm. Mặt trời ấy “ngày ngày” đi qua lăng của Bác, sưởi ấm cho Người. Và từ đó, nhà thơ cũng chợt nhận ra “một mặt trời trong lăng rất đỏ”.
Một hình ảnh ẩn dụ vô cùng tinh tế và đặc sắc. Bác Hồ – Người là vầng dương, con thuyền chỉ hướng cho dân tộc Việt Nam đi qua những ngày tăm tối nhất. Nếu như mặt trời của vũ trụ mỗi ngày tỏa xuống nhân gian thứ ánh sáng ấm áp, thì Bác Hồ – mặt trời của dân tộc Việt Nam cũng đã và luôn tỏa ra một nguồn ánh sáng vĩ đại soi tỏ con đường cho dân tộc. Trong thơ ca đã có không ít tác giả sử dụng hình ảnh của mặt trời để so sánh với Bác. Như Tố Hữu cũng đã từng nói:
Người rực rỡ một mặt trời cách mạng
Còn đế quốc là loài dơi hốt hoảng
(Sáng tháng năm)
Nhưng ở đây, với Viễn Phương vẫn là hình ảnh ấy, mà lại mang một màu sắc riêng biệt vô cùng. Nếu như mặt trời ngoài kia mỗi ngày đều đỏ rực, thì mặt trời trong lăng đây cũng đỏ rực sắc màu của chính mình. Màu đỏ ấy toát lên từ phẩm chất con người của Hồ Chí Minh, từ lý tưởng vĩ đại mà Người mang tới, từ ý chí bất khuất, kiên cường đấu tranh mà Người đã thể hiện, từ công lao mà Người đã làm nên.
Tất cả những điều đó tạo nên một mặt trời rực rỡ, sánh ngang bằng với mặt trời của vũ trụ ngoài kia. Tác giả đã khéo léo sử dụng ở đây điệp từ “ngày ngày”. “Ngày ngày” tức là sự liên tục của thời gian, sự lặp lại tuần hoàn của thiên nhiên cũng như lý tưởng, ý chí của Người sẽ luôn luôn sáng tỏ như mặt trời kia vậy. Lần thứ hai, “ngày ngày” được lặp lại khi diễn tả dòng người đang lặng lẽ vào lăng thăm Người. Hàng người đi trong sự trang nghiêm và tĩnh lặng, trong nỗi tiếc thương, đau xót vô vàn.
Ở đây, tác giả đã thật tinh tế khi không phải là đoàn người, hàng người mà là dòng người. Điều này khiến cho người đọc như cảm thấy được sự tĩnh lặng, sự trải dài miên man vô tận của hàng người vào viếng Bác. Cả đoàn người ấy cứ lặng lẽ “đi trong thương nhớ”, thương nhớ vị lãnh tụ vĩ đại vô vàn kính yêu của dân tộc. Nỗi nhớ ấy đã kết thành “tràng hoa”, dòng người ấy đã trở thành một tràng hoa dài vô tận để dâng lên Bác Hồ.
Và Viễn Phương hòa cùng dòng người ấy đem tấm lòng yêu kính chân thành của mình dâng lên Bác, dâng lên “bảy mươi chín mùa xuân” của Người. “Bảy mươi chín mùa xuân” là số tuổi của Bác Hồ. Cả cuộc đời Người, với bảy mươi chín mùa xuân, tất cả đều cống hiến cho dân tộc, không một phút giây nào ngơi nghỉ dành cho bản thân mình. Tác giả muốn thể hiện sự cống hiến lớn lao mà Bác Hồ đã hi sinh của đất nước. Và sự hi sinh ấy đã giúp cho cả dân tộc được sống trong hòa bình.
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân
Có lẽ đây là khổ thơ đắt giá nhất bài thơ. Cả khổ thơ là sự ca ngợi công ơn của Bác, đó cũng là niềm cảm kích, niềm biết ơn vô bờ của tất cả mọi người dân Việt Nam dành cho Bác. Tiếp theo đây, nhà thơ lại tiếp tục cuộc hành trình vào viếng thăm lăng Bác. Và giờ đây, ông đã được gặp gỡ Người cha già mà mình hằng yêu quý, kính trọng:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim
Bác đang nằm ở đó, nhẹ nhàng thanh thản như đang chìm trong một giấc ngủ ngon. Cả cuộc đời Người chỉ có một niềm mong ước, đó là đất nước được hòa bình. Vậy nên giờ đây, khi đất nước được hòa bình, độc lập, Người đã được nghỉ ngơi trong giấc ngủ yên bình.
Cả cuộc đời Người đã cống hiến hết sức lực cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, vậy nên giờ đây, Người đang “nằm trong giấc ngủ yên bình”. Đối với nhà thơ hay với bất cứ ai, Bác như vừa mới đây năm xuống, thưởng cho mình một giấc ngủ ngon sau bao ngày vất vả, khuya sớm lo cho cuộc đấu tranh của nhân dân:
Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà
Một lần nữa, Viễn Phương đã phải sử dụng tới biện pháp nói giảm nói tránh để làm bớt đi không khí đau thương đang tràn ngập trong tâm hồn ông. Bác Hồ đang nằm đó, giữa một giấc ngủ bình yên hơn bao giờ hết, giữa một thứ ánh sáng nhẹ nhàng lan tỏa trong không gian.
Thứ ánh sáng đó có thể là một ngọn đèn ngủ dìu dịu được thắp trong lăng Bác. Nhưng cũng có thể nhà thơ đang muốn nói tới vầng trăng thiên nhiên – vầng trăng mà Bác Hồ yêu thích nhất. Có thể thấy, thơ của Người luôn tràn ngập hình ảnh của trăng. Ví dụ như:
Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa
Hay:
Giữa dòng bàn bạc việc quân
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền
Có lẽ ở đây, tác giả không chỉ đơn giản là muốn nói tới ngọn đèn trong lăng Bác mà còn muốn nói tới vầng trăng thiên nhiên ngoài kia. Bởi sinh thời, Bác Hồ là người yêu trăng hơn bao giờ hết. Giờ đây khi được bước sang một thế giới khác, yên bình hơn, Người muốn được hòa mình cùng với vầng trăng của thiên nhiên, luôn luôn sáng tỏ, đẹp đẽ, trường tồn cùng thời gian như lý tưởng của Người vậy. Và tiếp theo, sau bao nhiêu sự kìm nén, nhà thơ đã phải bật lên tiếng nấc nghẹn ngào:
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim
Một lời trách cứ mới đau đớn làm sao! Lời trách cứ ấy là lời trách trời xanh kia. Bầu trời thì vẫn vậy, bao năm tháng vẫn xanh một màu trường tồn vĩnh cửu, vậy mà vị Cha già của dân tộc sao đã phải ra đi? Vẫn biết quy luật sinh tử của tạo hóa nhưng vẫn thấy xót xa, đau đớn vô cùng. Dù lý trí luôn tỏ tường rằng quy luật của thiên nhiên là bất biến, nhưng nhà thơ vẫn “nghe nhói ở trong tim”.
Nỗi đau xót nghẹn ngào ấy đã trở thành lời trách cứ đối với trời xanh. Và cảm giác “nghe nhói” khiến người đọc cũng như đồng cảm được một phần nào đó cảm giác đau xót, quặn thắt tim gan mà tác giả muốn biểu đạt. Thứ cảm xúc ấy dồn nén tới mọi giác quan trên cơ thể con người.
Cuộc gặp gỡ nào rồi cũng đến hồi chia ly và cuộc viếng thăm của Viễn Phương với Hồ Chủ tịch cũng vậy. Đến khi phải nói lời từ biệt, nhà thơ đã vô cùng xúc động. Sự xúc động ấy cùng với nỗi niềm đau xót kìm nén từ ban đầu đã bật thành một tiếng khóc, tiếng nấc nghẹn ngào:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa ngát hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này
Ngày mai, con phải rời xa Cha, rời xa vị Cha già kính mến để trở lại miền Nam xa xôi, biết bao giờ mới có dịp được thăm lại Người. Chính vì thế, nhà thơ đã bật lên tiếng nức nở. Bao nhiêu nỗi đau xót, nghẹn ngào cứ thế tuôn theo dòng lệ trào. Chính lúc này, trong tâm nhà thơ chợt hiện lên một ước nguyện:
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa ngát hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”
Điệp từ “muốn” lặp lại ba lần như khẳng định lại ước muốn của nhà thơ. Đó là một ước muốn mãnh liệt, niềm khao khát cháy bỏng của nhà thơ. Ước nguyện đó là được ở lại bên cạnh Người – vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, chỉ để làm “một con chim hót”, “một đóa hoa”, “một cây tre trung hiếu”. Tất cả chỉ đều là những vật vô cùng nhỏ bé, tầm thường, nhưng lại là mong ước của tác giả.
Bởi vì chim hót sẽ ru thêm giấc ngủ ngon cho Người, hoa sẽ tỏa ngát hương thơm và một cây tre nhỏ mãi trung hiếu với nơi đây. Nhịp thơ ở đây chậm đi một nhịp so với các khổ thơ trước. Sự chậm rãi ấy như muốn kéo dài thêm giây phút sắp phải chia xa. Kết lại bài thơ, hình ảnh cây tre lại một lần nữa xuất hiện như một vòng lặp tuần hoàn.
Cây tre là biểu tượng của con người Việt Nam, biểu tượng cho ý chí và sức mạnh của dân tộc. Tác giả muốn ở lại bên lăng Hồ Chủ Tịch trở thành một cây tre trung thành với Bác, với lý tưởng mà Người đã chỉ lối. Qua đó, nhà thơ càng muốn khẳng định một điều, đó là sự tin tưởng, sự trung thành của mỗi người dân Việt Nam vào Bác, vào lý tưởng và chân lý mà Bác đem tới cho chúng ta.
Cả khổ thơ đã thể hiện niềm mong ước cháy bỏng của tác giả, cũng chính là mong ước của mỗi người dân Việt Nam. Đó là luôn luôn được ở cạnh Người, ở cạnh vị lãnh tụ muôn vàn kính yêu của dân tộc cũng từ đó, thể hiện sự tin tưởng tuyệt đối vào Bác và lý tưởng mà Bác đã gây dựng.
Bài thơ đã kết lại nhưng lại mang đến cho người đọc chúng ta thật nhiều cảm xúc. Chỉ một cuộc viếng thăm thôi, nhưng lại chứa đựng trong đó bao nhiêu tình cảm, bao nhiêu tình yêu sâu sắc của một người con Nam Bộ đối với Bác Hồ kính yêu của chúng ta. Bài thơ được cấu tứ theo lối tám chữ. Lối thơ này được kết cấu như một câu chuyện kể với mạch văn chậm rãi khiến cho người đọc cảm nhận được hết tất cả những tình cảm mà nhà thơ muốn diễn tả.
Cùng với hệ thống biện pháp tu từ mà nhiều nhất là nói giảm nói tránh, “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương đã làm sống dậy trong lòng bạn đọc sự yêu kính dành cho Bác, và cũng từ đó hòa chung vào niềm đau xót cũng như ước muốn mà tác giả muốn thể hiện.
“Hồ Chí Minh – Người ở khắp muôn nơi”. Đây là lời khẳng định của Tố Hữu trước sự hiện diện của Bác. Bác tuy đã đi xa nhưng sự hiện diện của Người thì còn mãi trong mỗi người con Việt Nam. Người là vị cha già đáng kính là “hồn của muôn hồn”. Sự ra đi của Người có đau xót, có xót xa, nhưng lý tưởng của Người để lại, ý chí và phẩm chất của Người sẽ mãi là tấm gương soi tỏ con đường mà dân tộc Việt Nam sẽ đi và mang vinh quang trở về. Đó cũng là lời mà Viễn Phương muốn ngỏ qua bài thơ “Viếng lăng Bác”.
Tiếp theo phân tích bài thơ Viếng lăng Bác, chia sẻ 🌼 Phân Tích Bài Thơ Mùa Xuân Nho Nhỏ 🌼 5 Bài Văn Hay Nhất
Viếng Lăng Bác Phân Tích Điểm Cao – Mẫu 7
Tài liệu văn Viếng lăng Bác phân tích điểm cao dưới đây sẽ giúp các em học sinh trau dồi những ý văn hay và đặc sắc khi phân tích bài thơ.
“Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác nỗi mong cha.”
Nỗi mong chờ và ao ước của đồng bào miền Nam được Bác vào thăm không còn nữa! Người đã ra đi mãi mãi để lại bao niềm nuối tiếc trong lòng mỗi người dân Nam Bộ. Viễn Phương – nhà thơ trẻ miền Nam – được vinh dự ra thăm lăng Bác. Tác giả đã thay mặt nhân dân miền Nam bày tỏ tình cảm của mình khi đứng trước người cha già dân tộc. Xúc động tận đáy lòng, Viễn Phương viết bài “Viếng lăng Bác”. Đây là bài thơ gợi cho em niềm cảm xúc sâu xa nhất.
Cảm xúc đầu tiên mà em cảm nhận được từ bài thơ có lẽ vì bài thơ thể hiện được tình cảm chân thành và giản dị của đồng bào Nam Bộ muốn nhắn gửi, nhờ Viễn Phương nói hộ cùng Bác nỗi mong chờ và mong đợi Bác vào thăm.
Xúc động dạt dào, mở đầu bài thơ, tác giả viết:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi hàng tre! Xanh xanh Việt Nam”
Tình cảm của nhà thơ rất chân thành và cũng rất gần gũi. Đối với người chiến sĩ miền Nam được ra thăm lăng Bác là một điều rất vinh dự. Nhưng không vì thế mà giảm mất tình yêu thương của tác giả đối với Bác. Câu thơ ấm áp tình người với cách xưng hô thân mật “con”. Bởi tất cả mọi người đều là những người con trung hiếu của Bác, xem Bác như “là cha, là bác, là anh”. Tình người bao la, giản dị, tình dân tộc đằm thắm mến yêu. Đoạn thơ đã tạo nên một không khí ấm áp, gần gũi.
Tác giả khéo léo chọn hình ảnh cây tre, hình ảnh thân thuộc của đất nước để mở bài thơ rộng hơn. Xa hơn nhưng cũng gần gũi hơn bao giờ hết. Nhắc đến hình ảnh cây tre, ta lại nghĩ tới đất nước, tới dân tộc Việt Nam với bao đức tính cao quý. Tre anh dũng trong chiến đấu, tre yêu thương giúp đỡ dân tộc, tre hi sinh cho thế hệ mai sau và tre cũng rất anh hùng bất khuất:
“Nòi tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường”
Tre đã vất vả, chịu nhiều nắng mưa nhưng vẫn hiên ngang đứng giữa trời xanh, như dân tộc ta không bao giờ khuất phục bọn giặc cướp nước “Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”.
Theo đoàn người, tác giả vào thăm lăng Bác, nhà thơ nhìn thấy:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.”
“Mặt trời” ngày ngày đi qua trên lăng là mặt trời của đất, nguồn sáng lớn nhất, rực rỡ và vĩnh viễn trên thế gian. Nhưng mặt trời ấy còn thấy và nhận ra một mặt trời khác, một “‘mặt trời trong lăng” rất đỏ. Mặt trời trên cao được nhân hóa, nhìn mặt trời trong lăng bằng đôi mắt của mặt trời.
Một hình ảnh chứa chan bao tôn kính đối với Bác Hồ vĩ đại. Bằng hình ảnh ẩn dụ, nhà thơ đã ví Bác là mặt trời. Người là mặt trời đỏ rực màu cách mạng sẽ mãi mãi chiếu sáng đường chúng ta đi bằng sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Người. Đây là nét nghệ thuật sáng tạo của tác giả.
Độc đáo hơn, nhà thơ còn sáng tạo một hình ảnh khác nữa để ca ngợi Bác:
“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.”
Hình ảnh những dòng người đi trong thương nhớ kết thành những tràng hoa không chỉ là hình ảnh tả thực so sánh những dòng người xếp thành hàng dài vào lăng Bác trông như những tràng hoa vô tận. Nó còn có nghĩa tượng trưng: Cuộc đời của họ đã nở hoa dưới ánh sáng của Bác.
Những bông hoa tươi thắm đó đang đến dâng lên Người những gì tốt đẹp nhất. “Dâng bảy mươi chín mùa xuân” – đây là hình ảnh hoán dụ mang ý nghĩa tượng trưng. Con người bảy mươi chín mùa xuân ấy đã sống một cuộc đời đẹp như những mùa xuân và đã làm ra những mùa xuân cho đất nước, cho con người.
Nhà thơ vào lăng, được nhìn thấy Bác nằm trong giấc ngủ bình yên giữa một vùng ánh sáng nhè nhẹ dịu hiền. Ánh sáng ấy nơi Bác nằm được nhà thơ miêu tả như ánh sáng một vầng trăng hiền dịu:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim!”
Ánh sáng của những ngọn đèn mờ ảo trong lăng gợi nhà thơ sự liên tưởng thật là thú vị “ánh trăng”. Tác giả đã thể hiện sự am hiểu của mình về Bác qua sự liên tưởng kì lạ đó. Bởi trăng với Bác từng là đôi bạn tri âm tri kỉ. Ánh trăng bát ngát ngoài trời đã từng vào thơ Bác trong nhà lao, trên chiến trận, giờ đây trăng cũng đến để ru giấc ngủ ngàn thu cho Người. Với hình ảnh “vầng trăng sáng dịu hiền” dụng ý nhà thơ còn muốn tạo ra một hệ thống hình ảnh vũ trụ để ví với Bác. Người có lúc như mặt trời ấm áp, có lúc dịu hiền như ánh trăng rằm.
Bác của chúng là là vậy. “Mặt trời”, “vầng trăng”, “trời xanh” đó là những cái mênh mông bao la của vũ trụ được nhà thơ ví như cái bao la rộng lớn trong tình thương của Bác. Đó cũng là biểu hiện sự vĩ đại, rực rỡ, cao siêu của con người và sự nghiệp của Bác.
Biết rằng Bác vẫn sống mãi trong sự nghiệp cách mạng và tâm trí nhân dân như bầu trời xanh vĩnh viễn trên cao. Nhưng nhà thơ vẫn không khỏi thấy nhói đau trong lòng khi đứng trước thi thể của Người: “Mà sao nghe nhói ở trong tim”. Nỗi đau như hàng ngàn mũi kim đâm vào trái tim thổn thức của tác giả. Đó là sự rung cảm chân thành của nhà thơ.
Còn đứng trong lăng Bác, nhưng khi nghĩ đến lúc phải xa Bác, Viễn Phương thấy bịn rịn không muốn dứt. Tình cảm của nhà thơ trong suốt thời gian trên luôn sâu lắng, đau lặng lẽ nhưng đến giây phút này, Viễn Phương không thể nào ngăn được nữa để cho tình cảm theo dòng nước mắt tuôn trào, dâng lên cao và tha thiết nhất “mơ về miền Nam thương trào nước mắt”.
Chỉ nghĩ đến việc về miền Nam, tác giả cũng đã “trào nước mắt”, luyến tiếc khi chia tay, bịn rịn không muốn xa nơi Bác nghỉ, ở câu thơ này, tác giả không sử dụng một nghệ thuật gì cả, chỉ là lời nói giản dị, là tình thương sâu lắng tự tấm lòng nhưng lại làm cho ta xúc động, bài thơ thêm giàu cảm xúc. Một cách nói không hoa mĩ, chân thành như người dân Nam Bộ, nhưng lại lắng trong đó nỗi thương yêu đau đớn không có gì có thể nói và tả được.
Tác giả thay mặt cho nhân dân miền Nam bày tỏ niềm thương tiếc vô hạn đối với vị cha già dân tộc. Câu nói giản dị ấy làm người đọc thêm hiểu và đồng cảm với cảm xúc của Viễn Phương, bởi lời nói đó đều xuất phát từ muôn triệu trái tim bé nhỏ cùng chung nỗi đau không khác gì tác giả. Được gần Bác dù chỉ trong giây phút nhưng không bao giờ ta muốn xa Bác bởi Người ấm áp quá, rộng lớn quá. Ước nguyện thành kính của Viễn Phương cũng là mong ước chung của những người đã hoặc chưa một lần nào gặp Bác:
“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.”
Từ ngữ “muốn làm” được lặp đi lặp lại nhiều lần trong đoạn thơ thể hiện được ước muốn, sự tự nguyện của tác giả. Hình ảnh cây tre lại xuất hiện khép bài thơ lại một cách khéo léo. Một mong ước chân thành của nhà thơ. Tác giả muốn làm con chim hằng ngày ca hót cho Bác yên ngủ, làm đóa hoa tỏa hương thơm ngào ngạt, cùng muôn đóa hoa khác làm đẹp nơi Bác nghỉ.
Và vui sướng nhất khi được làm cây tre trung hiếu đứng mãi bên Bác canh từng giấc ngủ của Người. Cánh hoa ấy, tiếng chim hót và cây tre trung hiếu ấy giữ mãi cho Người giấc ngủ bình yên. Viễn Phương nói lên mong ước của mình cũng như là ước nguyện của tất cả chúng ta muốn được gần Bác để được lớn lên một chút:
“Ta bên Người, Người tỏa sáng trong ta
Ta bỗng lớn ở bên Người một chút.”
Bác của chúng ta là vậy. Người giàu tình thương yêu, giàu đức hi sinh và đời Người thì vô cùng giản dị. Đất nước ta mất Bác như mất người cha vĩ đại, người cha luôn luôn dành cho nhân loại tình thương vô bờ bến.
Bài thơ “Viếng lăng Bác” thật giàu hình ảnh, giàu cảm xúc, mấy ai đọc bài thơ mà không thấy rung động trong lòng. Bằng cách sử dụng điêu luyện những biện pháp tu từ một cách sáng tạo, tác giả đã thể hiện tình cảm ngọt ngào đằm thắm lại rất giản dị chân thành đối với Bác.
Nhà thơ đã truyền được cảm xúc của mình đến với người đọc chính bởi cảm xúc của cả đồng bào Nam Bộ nói riêng của dân tộc nói chung. Chúng ta những cháu ngoan của Bác Hồ cũng xin nguyện như Viễn Phương làm cây tre trung hiếu, làm bông hoa đẹp, làm tiếng chim hay và làm muôn ngàn công việc tốt để dâng lên Người.
Mời bạn khám phá thêm 💕 Cảm Nhận Của Em Về Bài Thơ Mùa Xuân Nho Nhỏ 💕 12 Bài Hay
Phân Tích Bài Viếng Lăng Bác Facebook – Mẫu 8
Chia sẻ dưới đây bài văn mẫu phân tích bài Viếng lăng Bác facebook giúp các em học sinh có thêm những gợi ý hay khi nghị luận văn học về bài thơ.
Bác Hồ-người anh hùng, một người con vĩ đại của dân tộc. Cả cuộc đời người đã cống hiến hết sức mình vì nhân dân,vì đất nước,….Để rồi khi người ra đi,đã để lại cho nhân dân sự tiếc thương vô hạn. Bác ra đi là điều mất mát lớn nhất của dân tộc, là nỗi đau của hàng vạn trái tim Việt Nam. Những bài thơ, lời hát ra đời viết về nỗi thương nhớ, xót xa Người gây niềm xúc động mãnh liệt. Nổi bật hơn cả có lẽ là thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương. Nhà thơ đã bày tỏ sự kính trọng, biết ơn và nỗi niềm thương tiếc, đau xót qua từng dòng thơ.
Mở đầu bài thơ là lời thông báo của nhà thơ:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”
Viễn Phương đã xưng “con” đầy thân thương mà gần gũi, tha thiết. Nhà thơ đã dùng từ “thăm” để giảm đi sự đau buồn nhưng ta vẫn thấy sự đau buồn của cảnh sinh li tử biệt. Phải yêu thương, kính trọng biết bao mới xưng hô thân thiết như thế. Qua đó ta thấy được sự gần gũi, tình cảm của Bác với nhân dân như ruột thịt.
“Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam Nam
Bão táp mưa sa vẫn thẳng hàng”
Màu tre xanh là hình ảnh thân thuộc của làng quê Việt Nam, trên xanh dũng cảm, kiên cường, dẫu đất cằn sỏi đá vẫn vươn mình cứng cỏi. Hình ảnh “bão táp mưa sa” vẫn thẳng hàng” đã cho ta thấy được sự kiên cường, anh dũng, thanh cao của chính con người Việt Nam trước khó khăn, giông bão. Quanh lăng Bác là những hàng tre “xanh xanh”,”bát ngát” như những đứa con của dân tộc Việt Nam đang bảo vệ, canh giữ cho Người. Dù là lúc sống hay khi đã mất thì những người con Việt Nam vẫn luôn ở bên Người.
Ở khổ thơ thứ hai, nhà thơ thể hiện cảm xúc của mình trước đoàn người vào lăng:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân….”
Ở hai câu thơ đầu có hai hình ảnh của mặt trời. Mặt trời thứ nhất là mặt trời tả thực
trời của thiên nhiên. Mặt trời thứ hai là hình ảnh ẩn dụ cho Bác Hồ. Mặt trời rất đỏ tượng trưng cho sự sáng chói, sống mãi của Người. Bác là Người đã soi lối, chỉ đường đưa dân tộc đến với độc lập, tự do. Bằng hình ảnh mặt trời ở cả hai câu thơ, tác giả muốn nói:”Bác Hồ là mặt trời đẹp nhất và luôn sống mãi trong tim của người dân Việt Nam”. Qua đó, phải chăng con đường cách mạng của Người như chính ánh mặt trời đẹp đẽ, rực rỡ mang lại cả nguồn sống cho dân tộc.
Đồng thời, bày tỏ tấm lòng thành kính, trân trọng của nhà thơ, của nhân dân với sự cao quý của Người. Ngày ngày, luôn có những dòng người lần lượt vào thăm Bác. Hình ảnh dòng người viếng lăng Bác được ví như tràng hoa dâng lên tặng Người, dâng lên Bác tình yêu, sự biết ơn và kính trọng những gì xinh đẹp nhất, tươi tắn nhất. “Bảy mươi chín mùa xuân” là hình ảnh hoán dụ đầy đẹp đẽ, Bác đã sống cuộc đời 79 mùa xuân cống hiến và hi sinh hết mình vì dân, vì nước. Một cuộc đời thật đẹp đẽ và ý nghĩa, một cuộc đời vì mọi cuộc đời.
Khi vào trong lăng viếng Bác, cảm xúc của tác giả lên tới cao trào:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”
Tác giả sử dụng biện pháp nói giảm nói tránh đã giúp giảm đi sự đau thương mất mát của nhân dân cả nước, “Vầng sáng dịu hiền” như chính tâm hồn cao đẹp, trong sáng của Người, như chính trái tim bao dung, nhân ái của Người.
Trong trái tim mỗi người Việt Nam, Bác mãi mãi là “trời xanh”, là nguồn sống, niềm tin bất diệt. Dù biết Bác sẽ mãi sống trong trái tim mỗi người nhưng vẫn mất mát, đau thương trước sự ra đi của Người. Câu thơ “mà sao nghe nhói ở trong tim” đã cho ta thấy được tình cảm sâu sắc, đau đớn của tác giả nói riêng và cả dân tộc nói chung.
Nếu như ở cả ba khổ thơ đầu, tác giả cố kìm nén cảm xúc nơi sâu thẳm đáy lòng thì đến với khổ thơ cuối, khi sắp phải chia xa người, lòng lại nặng trĩu, cảm xúc chợt tuôn trào:
“Mai về miền Nam dâng trào nước mắt”
Xa Bác, làm sao không buồn, không luyến tiếc cơ chứ. Vừa mới đến với Bác thôi nhưng vì một lẽ nào đó mà phải chia tay, cảm giác thật bịn rịn khó tả. Tác giả còn bộc bạch niềm mong muốn, khát vọng của mình:
“Muốn là con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.”
Điệp ngữ “muốn làm” được nhắc tới 3 lần vừa thấy được sự gấp gáp, sự khát khao mãnh liệt của nhà thơ. Chỉ muốn làm con chim nhỏ để cất tiếng hót quanh Bác mỗi ngày, muốn làm đóa hoa để tỏa hương thơm ngát, để tô sắc thắm cho nơi đây. Và lời ước nguyện cuối cùng của tác giả:
“Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”
Mỗi người là một cây tre trung hiếu với Bác, thì cả hàng tre là cả dân tộc trung hiếu với Người. Nguyện trung thành và hiếu kính với Người suốt một đời. Luôn học tập và đi theo con đường lí tưởng cách mạng của Người. Ước nguyện đâu phải chỉ của riêng mình Viễn Phương đâu mà còn là ước nguyện của con dân miền Nam, là ước nguyện của cả dân tộc.
Đọc bài thơ em càng trân trọng biết bao công lao của Bác, trân quý biết bao nhân cách của Người. Và em cũng hiểu được rằng, mỗi tác phẩm văn học thành công không phải được tạo nên từ những lấp lánh, huyền ảo, cao sang của thực tại mà đến từ những điều bình dị, giản đơn nhất. Hơn hết, một tác phẩm thành công phải được xuất phát từ sự chân thành, từ tấm lòng tha thiết của người nghệ sĩ, “Viếng lăng Bác” xứng đáng với thành công ấy.
Đọc nhiều hơn 🌻 Mở Bài Mùa Xuân Nho Nhỏ 🌻 20 Đoạn Văn Ngắn Hay Nhất
Phân Tích Bài Văn Viếng Lăng Bác Ngắn Hay – Mẫu 9
Chia sẻ dưới đây tài liệu văn phân tích bài văn Viếng lăng Bác ngắn hay để các em học sinh cùng tham khảo:
Bác đã đi rồi sao Bác ơi!
Mùa thu đang đẹp nắng xanh trời
(Tố Hữu)
Có thể nói sự ra đi của vị lãnh tụ vĩ đại là một mất mát lớn đối với tất cả nhân dân Việt Nam. Có không ít những lời thơ thể hiện niềm thương xót xúc động trước sự ra đi của Bác. Tuy một năm sau ngày đất nước ta hoàn toàn thống nhất Viễn Phương mới có cơ hội ra thăm lăng Bác nhưng ông cũng không kìm nén được dòng cảm xúc của mình. Sự xót xa, thương nhớ ấy được tác giả bộc lộ qua bài thơ “Viếng lăng Bác”
Mở đầu bài thơ, Viễn Phương đã nêu lên hoàn cảnh mình ra thăm lăng Bác:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng
Nhà thơ là một người con của đồng bào miền Nam Tổ quốc xa xôi không quản ngại khó khăn ra “thăm lăng Bác”. Tình cảm của ông dành cho Bác thật đáng quý. Miền Nam là mảnh đất đã hứng chịu biết bao bom đạn và sự tàn phá của kẻ thù trong suốt những năm dài.
Nhờ sự chỉ đạo sáng suốt của Bác và cách mạng mà miền Nam mới được giải phóng, đất nước mới được thống nhất như ngày hôm nay. Nhưng Bác đã không thể có mặt để chứng kiến niềm vui ấy, đó quả là một điều đáng tiếc. Đối với nhân dân miền Nam nói riêng và nhân dân cả nước nói chung Bác Hồ như một vị cha đầy kính yêu:
Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác nỗi mong cha
(Tố Hữu)
Có lẽ nhà thơ ra thăm lăng Bác vào buổi sáng sớm nên ông mới có thể trông thấy những hàng tre “xanh xanh” nối tiếp nhau bát ngát trong sương dù cho có phải trải qua bao nhiêu “bão táp mưa sa” thì chúng “vẫn thẳng hàng”. Tre là biểu tượng cho đức tính ngay thẳng, quật cường, dẻo dai của con người đất Việt. Những hàng tre thẳng tắp đứng trước lăng càng tôn lên sự uy nghiêm vốn có của khung cảnh nơi đây.
Khi đến viếng lăng, nhà thơ đã thấy xuất hiện hai hình ảnh mặt trời:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân
Hình ảnh ẩn dụ mặt trời mà Viễn Phương sử dụng trong câu thơ đã giúp bạn đọc phần nào thấy được tình cảm cao quý, thiêng liêng của tác giả đối với vị cha già của dân tộc. Mặt trời của vũ trụ rực rỡ bao nhiêu thì “mặt trời” trong lăng cũng rực rỡ bấy nhiêu. Mặt trời của vũ trụ mang đến ánh sáng cho cuộc sống muôn loài thì “mặt trời” trong lăng cũng mang lại ánh sáng và cuộc sống ấm no cho nhân dân. Bác thật vĩ đại, công ơn của Bác đối với dân tộc không thể nào kể hết.
Nhà thơ đã hòa mình vào cùng dòng người đến viếng lăng để dâng lên Người tràng hoa thành kính nhất. “Tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân” cũng là bảy mươi chín năm Người sống và cống hiến sức mình cho Tổ quốc. Nhịp thơ chậm rãi như nhịp của những bước chân ẩn chứa bao nỗi xúc động của biết bao người đến viếng thăm. Cuộc đời của Người ít có giây phút nào được ngơi nghỉ và Bác không thể nghỉ ngơi, vui thú khi đời sống nhân dân còn khổ cực, đói kém.
Khi vào bên trong lăng Bác, tác giả như lặng người đi khi trông thấy:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim
Bác đã dành cả cuộc đời để cống hiến cho nhân dân, đất nước mà không có một phút giây nghĩ cho bản thân mình. Và hình ảnh “Bác nằm trong giấc ngủ bình yên” chỉ là một sự nghỉ ngơi của Bác. Bác vẫn luôn hiện diện trong trái tim nhân loại, Bác vẫn còn sống mãi trong tâm thức của con người Việt Nam. Trời xanh vẫn còn đó, bầu trời của hòa bình nhân dân ta sẽ nguyện một lòng gìn giữ, bảo vệ nhưng thiếu đi Bác nhân dân ta đau xót biết nhường nào. Bác đã hóa thân vào trời xanh để tồn tại mãi mãi cùng dân tộc Việt Nam.
Dù không muốn nhưng nhà thơ vẫn phải kính chào Bác với tâm trạng đầy thương xót để trở về mảnh đất miền Nam yêu dấu:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương nơi đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này
Tác giả muốn hóa thân vào con chim, đóa hoa, cây tre để có thể được ở bên cạnh Bác. Ông muốn trở thành con chim để hót quanh lăng Hồ chủ tịch, muốn trở thành đóa hoa để góp phần tô điểm vẻ đẹp cho khuôn viên lăng và nhà thơ cũng muốn làm cây tre để vẹn lòng trung hiếu với Người. Điệp ngữ “muốn làm” thể hiện ước nguyện vô cùng chân thành của Viễn Phương bởi có người con nào lại không muốn ở cạnh người cha già kính yêu của mình?
Với giọng điệu trang trọng, chậm rãi cùng việc sử dụng các hình ảnh ẩn dụ, bài thơ “Viếng lăng Bác” đã thể hiện những tình cảm chân thành của nhà thơ đối với vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc. Những cảm xúc đau xót, thương nhớ của tác giả cũng là cảm xúc của tất cả mọi người dân Việt Nam khi Bác đi xa.
Giới thiệu đến bạn 🌟 Kết Bài Mùa Xuân Nho Nhỏ 🌟 20 Đoạn Văn Ngắn Hay Nhất
Phân Tích Đoạn Thơ Viếng Lăng Bác Chọn Lọc – Mẫu 10
Bài văn mẫu phân tích đoạn thơ Viếng lăng Bác chọn lọc dưới đây sẽ giúp các em học sinh có thêm những ý tưởng làm bài phong phú.
Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác nỗi mong cha
Bác luôn khao khát được một lần đến miền Nam yêu thương, nhưng ước nguyện đấy chưa đạt thì Bác đã đi xa. Với Viễn Phương – một con người Nam Bộ lần đầu tiên được đặt chân lên Hà Nội, viếng lăng Bác – thăm vị cha già của dân tộc sau bao năm mong mỏi chờ mong, từ những rung động đầu tiên ấy, ông đã viết bài thơ Viếng Lăng Bác (1976) với tất cả cảm xúc, tình cảm chân thành, sâu sắc, thành kính, thiêng liêng cho Bác.
Trước hết, đọc bài thơ Viếng Lăng Bác, người đọc cảm nhận được cảm xúc chân thành, xúc động, sâu sắc của Viễn Phương khi nhìn thấy lăng Bác. Từ miền Nam sau bao năm khói lửa, nơi đi trước về sau, nay lần đầu tiên nhà thơ được đặt chân lên mảnh đất Ba Đình lịch sử, viếng lăng Bác. Ngay từ đoạn đầu bài thơ, Viễn Phương đã thể hiện cảm xúc dạt dào khi nhìn thấy hàng tre quanh Lăng Bác:
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Từ những chuyện cổ tích xa xôi đến những bài thơ, bài văn: từ thế giới kỳ ảo cổ tích đến đời sống thường ngày, tre vẫn là loài cây quen thuộc. Trước lăng Bác, trong lòng Viễn Phương, tre như dài rộng mênh mông. Tre vẫn uy nghi, vẫn màu xanh của Việt Nam. Hàng tre ấy đã gợi cho nhà thơ lấy lại cuộc sống thầm lặng đã từng sát cánh cùng dân tộc chống lại kẻ thù chung của tre. Tre đã kiên cường chiến đấu bất khuất hiên ngang, là biểu tượng của dân tộc Việt Nam.
Nòi tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã thẳng như chông lạ thường
Bao năm cùng người xông pha trận mạc, tre vẫn giữ thế uy nghiêm:
Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng.
Viễn Phương thật thành công khi sử dụng hàng tre để gợi sự gần gũi, thân quen của lăng Bác. Lăng Bác như bóng dáng quê hương, ở tre mà Viễn Phương không khỏi thốt lên:
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Chỉ với từ cảm thán “Ôi” mà bao nghẹn ngào tràn ngập cả câu thơ. Tất cả dân tộc đã quay về quanh Bác, xếp thành đội ngũ chỉnh tề giữ giấc ngủ yên cho Người. Tình cảm chân thành của Viễn Phương hay cũng chính là của người dân Nam Bộ dành cho Bác thật chân thành, cảm động:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân
Vâng! Đó là tình cảm chân thành nhất, thành kính nhất mà Viễn Phương hay cũng chính là của dân tộc Việt Nam dành cho Bác. Nhìn hình ảnh dòng người vào lăng Bác, nhà thơ đã rung động mạnh mẽ. “Tràng hoa” ấy là tấm lòng của người dân Việt Nam dành cho người. Mỗi con người trên đất nước nguyện làm một bông hoa trong tràng hoa dâng lên cuộc đời Bác – bảy mươi chín mùa Xuân.
Quan hệ tình cảm giữa một vị lãnh tụ và nhân dân được diễn tả thật giản dị mà tinh tế khiến người đọc cảm động và càng trân trọng tình cảm ấy. Tình cảm mà Viễn Phương dành cho Bác thật mãnh liệt khi vào thăm lăng Bác:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Tác giả xưng con với Bác như sự gần gũi thân quen trong gia đình. Đó là thứ tình cảm sâu sắc, giản dị của một người con đối với cha. Các nhà thơ như Xuân Diệu, Tố Hữu… khi viết đều cũng xưng con với Bác:
Hôm nay con lại về thăm lăng Bác
(Bác ơi – Tố Hữu)
Nhưng “con ở Miền Nam” của Viễn Phương lại mang sắc thái riêng biệt mới, xúc động thành kính vì đó là nơi Bác hằng mong nhớ. Thơ cứ tuôn ra trong dòng cảm xúc kì lạ:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Nhà thơ dùng hình ảnh ẩn dụ mặt trời để thể hiện công đức của Bác – Bác là mặt trời chân lý cách mạng, là ánh hào quang rạng sáng soi đường dân tộc, là nắng xuân tươi tắn cho hoa cỏ sinh sôi kết trái. Bác đã đưa nhân dân từ nô lệ bước lên cuộc sống tự do. Đồng thời, hình ảnh ấy còn thể hiện sự tường tồn của bác trong lòng dân tộc – Bác là nguồn sống. Đó quả là một hình ảnh đẹp, mang ý nghĩa sâu sắc mà tinh tế, giản dị mà cảm động. Trong cái cảm xúc trào dâng mạnh mẽ ấy, sự tôn kính Bác lại được thể hiện rõ nét:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
“Vầng trăng… trời xanh…” các hình ảnh đẹp, rộng lớn nối tiếp nhau xuất hiện khiến ta phải suy ngẫm. Ngẫm về cái bất diệt, cái vô cùng của vũ trụ đến cái bất diệt, cái vô cùng cao cả của một con người.
Nhà thơ nhìn thấy Bác – vị cha già dân tộc đang nằm thanh thản trong giấc ngủ, trong ánh sáng dịu hiền của vầng trăng. Nhưng vần trăng ấy là vầng trăng lý tưởng, là hình ảnh tượng trưng bằng tất cả cảm xúc yêu kính đối với Bác. Viễn Phương đã thật thành công khi diễn tả dòng cảm xúc này, giữa thực và ảo, giữa lý trí và thực tế. Ông từ tình cảm kính yêu chân thành.
Trong tâm lý của người con Nam Bộ đã có sự thay đổi, nhà thơ đang thay mặt cho toàn dân tộc thắp dâng lên Người nén nhang thành kính.
Nhưng rồi cũng đến lúc phải chia tay. Thời gian ở bên Bác thật ngắn ngủi, nhà thơ phải trở về Miền Nam. Và đến đây dòng cảm xúc được đẩy tới mức cao nhất, tuôn trào thật mạnh mẽ:
Mai về miền Nam tuôn trào nước mắt
Câu thơ như lời nói bình thường, không cần dùng đến kỹ thuật. Giọng thơ không ồn ào, nhưng đọc lên lại thấy xúc động. Trước hết bởi cách nói, cách bộc lộ có một cái nhìn rất Nam Bộ: chân thành, bộc trực mà không thô. Tác giả thay mặt cho đồng bào miền Nam, những con người ở xa, bày tỏ niềm tiếc thương vô hạn. Người đọc đồng cảm với nhà thơ, với nỗi thương nhớ, xót xa khi đứng trước linh cữu của Bác của nhà thơ cũng như tất cả của mọi người.
Cái ước nguyện chân thành ở cuối bài thơ cũng không của riêng ai:
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…
Điệp ngữ muốn làm như lớp sóng dồi dào khẳng định sự thuỷ chung của nhà thơ đối với Bác. Hình ảnh cây tre lại xuất hiện, thật tự nhiên, nhuần nhị để khép lại bài thơ, song không còn hàng tre, khách thể như ở đầu bài thơ mã đã hoà tan vào chủ thể. Nhà thơ nói cho mình, cũng là nói cho ý nguyện của mỗi chúng ta: muốn được hoá thân làm những sự vật (con chim, đoá hoa, cây tre) để được ở mãi bên Bác.
“Nay Bác ngủ chúng con canh giấc ngủ”. Bài thơ đã khép lại nhưng để lại trong lòng người đọc ấn tượng sâu sắc. Bài thơ thể hiện tình cảm chân thành, thành kính thiêng liêng của tác giả dành cho Bác, đồng thời cũng là tình cảm của toàn dân tộc dành cho Bác. Để mỗi chúng ta càng thêm yêu kính Bác, sống và làm việc theo gương Bác Hồ.
Gợi ý cho bạn ☔ Phân Tích Bài Thơ Con Cò ☔ 15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Phân Tích Khổ Thơ Viếng Lăng Bác Đặc Sắc – Mẫu 11
Tham khảo bài văn mẫu phân tích khổ thơ Viếng lăng Bác đặc sắc để chắt lọc cho mình những ý văn hay.
Có rất nhiều nhà văn, nhà thơ viết về Bác với tấm lòng thành kính và biết ơn sâu sắc, như Tố Hữu với bài thơ Bác ơi!, viết ngay sau ngày Bác mất, Trần Đăng Khoa với bài thơ Ảnh Bác, hay Đêm nay Bác không ngủ của Minh Huệ, cùng rất nhiều tác phẩm khác nữa. Mỗi một tác phẩm đều mang những nỗi niềm và cảm xúc riêng của tác giả dành cho vị cha già kính yêu của dân tộc.
Riêng Viễn Phương đã để lại cho độc giả Việt Nam một bài thơ tràn đầy cảm xúc trầm lắng và xót thương khi đứng trước lăng của Người, ấy là bài thơ Viếng lăng Bác được sáng tác năm 1976, trong lần đầu nhà thơ được ra viếng lăng Bác.
Thơ của Viễn Phương thường mang nhiều cảm xúc, lời thơ trong sáng giản dị và lãng mạn. Trong Viếng lăng Bác cũng vậy, một trong những điểm đặc sắc nhất của bài thơ đó chính là nguồn cảm xúc của tác giả, đó là nỗi xúc động khi lần đầu được gần kề Bác, mà Bác lại đã đi xa, là nỗi nghẹn ngào, đau xót, là niềm tiếc thương và biết ơn sâu sắc dành cho chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.
Đọc câu thơ đầu, ta cứ ngỡ là tác giả đang thủ thỉ kể chuyện, “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”, câu thơ có sự gần gũi thân thiết lạ lùng chỉ nhờ cặp xưng hô “Con-Bác”, điều ấy đã cho ta một cảm giác ấm áp, tựa như Bác là một người thân yêu mà tác giả hằng tôn kính trong nhà.
Rồi cái cảm giác thân quen gần gũi ấy lại tiếp tục được nhà thơ gợi lên thông qua hình ảnh đẹp mà tác giả nhìn thấy đầu tiên trước lăng đó là “hàng tre xanh xanh”, biểu tượng của những làng quê Việt, gợi nhắc đến một dân tộc Việt Nam anh hùng, bền bỉ như những hàng tre bát ngát đã ăn sâu cắm rễ ở đất Việt thân thương này.
Dù bao nhiêu “bão táp mưa sa” như giặc ngoại xâm, thiên tai lũ lụt quét qua, thì có khi nào nhân dân ta phải lùi bước khuất phục đâu. Dân Việt ta cứ như những hàng tre xanh tươi, đoàn kết “đứng thẳng hàng” khiến mưa cũng phải tan, bão cũng phải tàn. Qủa thực hình ảnh tre xanh trong khổ thơ đầu là hình ảnh mang nhiều sức gợi, làm nên cho bài thơ những cảm xúc vừa thân thương vừa hoài niệm đẹp đẽ.
Đến khổ thơ thứ hai Viễn Phương lại tiếp tục gây ấn tượng với hình ảnh sóng đôi, ẩn dụ rất đặc biệt và mang ý nghĩa thật sâu sắc.
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”
Vốn hình ảnh “mặt trời đi qua trên lăng” là quy luật tự nhiên vĩnh hằng của tạo hóa, còn hình ảnh ẩn dụ “mặt trời trong lăng rất đỏ” là Viễn Phương đang gợi nhắc đến Bác Hồ, vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc đang yên giấc ngàn thu. Ngụ ý Bác chính là mặt trời chân lý vừa ấm áp vừa sáng chói trong trái tim mỗi người dân Việt Nam, những tư tưởng và cống hiến của Người đã soi đường dẫn lối cho dân tộc ta bước ra khỏi bóng đêm khổ đau và lầm than của đế quốc.
Hơn thế nữa hình ảnh ẩn dụ này còn chứng minh tầm vóc và sức mạnh tư tưởng của Hồ Chủ tịch, đó là tầm vóc và tư tưởng mang tính vũ trụ, tính chân lý và cũng là duy nhất, không một ai có thể thay thế được, tựa như mặt trời của thiên nhiên tạo hóa.
Tiếp tục với những phép hoán dụ và ẩn dụ trong câu:
“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân…”
Đọc câu thơ ta tưởng chừng dòng người ấy là vô tận là mãi mãi chẳng bao giờ dứt được, kết hợp với cụm “đi trong thương nhớ” khiến ta liên tưởng đến ngay cái sợi dây tình cảm của nhân dân Việt Nam dường như cứ dài mãi vậy, đời đời nhớ ơn và xót thương cho vị cha già kính yêu.
Hình ảnh “Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân” là một hình ảnh ẩn dụ đẹp và lãng mạn, tràng hoa ấy thể hiện cho sự đoàn kết đồng lòng của dân tộc Việt Nam cùng thành kính dâng lên cho Bác, mà chẳng phải chỉ dâng cho một khoảnh khắc trong đời Người, mà đấy là cả 79 mùa xuân – 79 năm cuộc đời, Bác đã hi sinh trọn vẹn cho dân tộc cho đất nước. Đó là sự hi sinh cao cả và lớn lao, chưa một người nào có thể làm được.
Đọc bài thơ ta lại nhận ra một điều thú vị, hình như Viễn Phương rất hay liên tưởng đến các hình ảnh mang tính bền vững và vĩnh cửu, không bao giờ có thể tận diệt được, trước là hàng tre xanh Việt Nam, sau là mặt trời và bây giờ là vầng trăng và trời xanh.
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”
Khi đứng trước di hài của Bác, trước cái không khí thiêng liêng và yên ắng, nhà thơ đã mường tượng ra Bác như chỉ đang ngủ, phía trên là vầng trăng tỏa ánh sáng vàng nhàn nhạt.
Ôi, cái hình ảnh sao lãng mạn và êm đềm đến thế, ở đây Viễn Phương đã phải cố dằn lòng mà tránh đi cái sự xót thương khi đứng trước di hài Bác bằng những hình ảnh thật duy mỹ, mang nhiều sức gợi về một tâm hồn cao đẹp và trong sáng của Bác như vậy. Thế nhưng dường như cảm xúc ấy, có cố nói giảm nói tránh đi thì nó vẫn luôn hiện diện ở trong tim của người con miền Nam.
Viễn Phương lại tiếp tục dùng biện pháp ẩn dụ, “trời xanh” ở đây chính là Bác, Bác còn sống mãi trong tâm hồn người dân Việt Nam đấy, nhưng đó chỉ là những ký ức mà Bác còn để lại, Bác đã thực sự ra đi mãi mãi, để lại cho cả dân tộc Việt Nam một nỗi đau sâu sắc tựa như dằm vẫn nhói trong tim, mà mỗi khi đụng vào lại đau đớn khôn nguôi. Điều đó càng chứng minh tấm lòng kính yêu, lòng biết ơn thủy chung, sắt son mà nhân dân ta luôn dành cho Bác.
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…”
Khổ thơ cuối nếu tinh ý nhận ra, ta sẽ thấy ở đây tác giả có sự biến đổi cảm xúc, dường như nỗi đau của tác giả đã được bộc lộ hẳn ra ngoài, không còn nằm trong nỗi niềm âm thầm lặng lẽ ở những khổ thơ đầu nữa. Điều đó là bởi tác giả lại sắp phải rời xa Bác, khi mà nỗi lòng được gần gũi Bác chưa thỏa, biết bao niềm thương, niềm kính yêu đều như trực trào ra, bởi nỗi tiếc nhớ, tác giả sợ phải xa Bác lần này, rồi biết khi nào mới lại được một lần nữa ra thăm Bác.
Tất cả điều đó đã khiến tác giả “thương trào nước mắt”, nỗi đau xót, nỗi buồn bã này liệu có ai hiểu? Trước niềm đau như thế, Viễn Phương đã nảy ra những khao khát lạ lùng, cốt chỉ để được gần Bác, ngày ngày canh giữ cho Bác một giấc ngủ ngàn thu êm đềm. Nhà thơ ước được làm một chú chim nho nhỏ hót quanh lăng cho Bác vui, lại ước làm đóa hoa thơm để Bác ngắm, và cuối cùng là ước được là “cây tre trung hiếu”, quay lại đúng với biểu tượng của dân tộc Việt Nam, trung thành và giữ trọn lòng hiếu nghĩa với Bác.
Viếng lăng Bác là một bài thơ có ngôn từ giản dị, trong sáng, những hình ảnh ẩn dụ dễ hiểu lại mang nhiều sức gợi, đặc biệt là nguồn cảm xúc nghẹn ngào, đau xót lan tỏa trong bài thơ, đã làm nên một tác phẩm rất riêng biệt, có giá trị cho đến tận ngày hôm nay, chưa bao giờ phai mờ. Điều đó cũng chứng tỏ Bác sẽ luôn sống mãi trong tâm hồn của từng người con đất Việt, dù có là 100 năm hay 1000 năm nữa, điều đó cũng mãi không bao giờ đổi thay.
Tiếp theo đón đọc 🍃 Phân Tích Bài Thơ Ánh Trăng Của Nguyễn Duy 🍃 Những Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Phân Tích Từng Khổ Thơ Viếng Lăng Bác – Mẫu 12
Đón đọc dưới đây bài văn mẫu phân tích từng khổ thơ Viếng lăng Bác sẽ giúp các em học sinh nắm vững giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm
Trước sự ra đi của Chủ tịch Hồ Chí Minh cả dân tộc đã không khỏi bàng hoàng, đau xót. Bằng tất cả tình yêu, sự kính trọng và xót xa khôn nguôi, Viễn Phương đã viết nên bài thơ Viếng lăng Bác. Bài thơ được sáng tác vào năm 1976, khi nhà thơ được đại diện là một trong những người con miền Nam đầu tiên ra thăm Bác. Sau này bài thơ đã được in trong tập “Như mây” và xuất bản năm 1978.
Mở đầu bài thơ là khung cảnh lăng Bác được miêu tả qua niềm xúc động của nhà thơ:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng.”
Cách xưng hô “con – Bác” đem đến cho người đọc cảm giác gần gũi, thân quen đồng thời nó cũng giống như một lời kể, một lời tâm tình nhẹ nhàng. Điều đáng chú ý sau đó là hình ảnh hàng tre được tác giả nhìn thấy, cảm nhận và miêu tả khi đến lăng Bác. Có phải ngẫu nhiên mà bên cạnh bao nhiêu hình ảnh khác Viễn Phương lại chỉ chọn và miêu tả hang tre xanh?
Như chúng ta đều biết, từ lâu nay tre vốn là biểu tượng của dân tộc Việt Nam. “Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh…”, tre tham gia vào chiến đấu, có mặt trong lao động sản xuất, tre là bóng mát những buổi trưa hè, tre kiên cường bền bỉ. Nếu “hàng tre xanh xanh” gợi sức sống, sự tươi mát thì “bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng” lại gợi lên ý chí quật cường của dân tộc ta.
Hòa cùng dòng người vào lăng, Viễn Phương bắt đầu chuyển tâm hồn mình về vị cha già kính yêu của dân tộc:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”.
Trong hai câu thơ đầu xuất hiện một sự sóng đôi rất thú vị. Tả thực ngày ngày mặt trời đi qua lăng Bác cùng so sánh Bác giống như vầng mặt trời ẩn chứa ngụ ý rằng Bác giống như ánh sáng, soi đường chỉ lối giúp cho dân tộc ta thoát khỏi xiềng xích nô lệ, có một cuộc sống tự do, hạnh phúc như ngày hôm nay. Đặc biệt hơn sự so sánh này còn thể hiện được tầm vóc lớn lao, vĩ đại của Bác.
Hình ảnh của Người đã sánh ngang với những gì đẹp đẽ nhất, kỳ vĩ nhất của tạo hóa. Điều này đã thể hiện được sự kính trọng cùng tấm long biết ơn sâu sắc mà nhà thơ dành cho Bác. Tiếp đến là hình ảnh “ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ” vừa thể hiện dòng chảy không ngừng của thời gian vừa thể hiện sự thương tiếc vô bờ của tác giả.
Hình ảnh này cũng khẳng định được rằng cả dân tộc Việt Nam luôn nhớ đến Người, luôn hướng về Người bằng tất cả tình yêu thương vô bờ. Hình ảnh “tràng hoa” xuất hiện cùng dòng người đã khiến cho đoạn thơ càng trở nên thiêng liêng, xúc động. “Bảy mươi chín mùa xuân” ở đây ý chỉ bảy mươi chín năm cuộc đời Bác đã hy sinh vì đất nước, đã cống hiến cho cả dân tộc và chúng ta luôn biết ơn vì điều đó.
Với tất cả tình cảm đó, khi vào trong lăng nhà thơ đã không khỏi nghẹn ngào, xúc động:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yê
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền,
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi,
Mà sao nghe nhói ở trong tim”
Khung cảnh im ắng cùng dáng vẻ thư thái của Bác trong lăng đã được Viễn Phương tái hiện một cách rất chân thực. “Vầng trăng sáng dịu hiền” mà tác giả nói đến ở đây thật ra chính là nguồn ánh sáng nhẹ nhàng, vàng dịu phủ khắp căn phòng nơi Bác nằm. Thế nhưng hình ảnh này không chỉ đơn thuần là gợi ánh đèn mà nó còn để chỉ tâm hồn cao quý, trong sáng tựa như ánh trăng của Bác.
Ẩn dụ “Vẫn biết trời xanh là mãi mãi/ Mà sao nghe nhói ở trong tim” là một lời khẳng định hình ảnh Bác luôn sống mãi trong tâm trí của toàn thể nhân dân Việt Nam nhưng điều đó càng khiến ta thêm đau xót trước sự ra đi của Người.
Cuối cùng tất cả cảm xúc nhớ thương, đau xót đó đã không thể kìm nén được khiến nhà thơ phải cất lên thành lời:
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…”
Thời gian bên Bác dường như là quá ngắn ngủi và nó chẳng thể nào thỏa hết nỗi nhớ mong của nhà thơ. Chính niềm xót thương ấy đã khiến nhà thơ có những ước muốn thật giản dị được “làm con chim hót”, được “làm đóa hoa” tỏa ngát hương thơm, được làm rặng tre để mãi được ở bên Bác.
Có thể thấy, bằng những hình ảnh giản dị cùng việc kết hợp khéo léo các biện pháp tu từ ta không chỉ thấy được hình ảnh Bác hiện ra thật đẹp mà còn thấy được tất cả tình yêu thương, long biết ơn mà nhà thơ dành cho Bác. Bài thơ như một lời khẳng định rằng Bác sẽ luôn sống mãi trong trái tim của mọi người dân Việt Nam.
Mời bạn tham khảo 🌹 Cảm Nhận Bài Thơ Ánh Trăng 🌹 10 Bài Văn Mẫu Hay
Phân Tích Bài Thơ Viếng Lăng Bác Khổ 1 – Mẫu 13
Tham khảo bài văn mẫu phân tích bài thơ Viếng lăng Bác khổ 1 dưới đây sẽ mang đến cho các em học sinh những ý văn giàu hình ảnh.
Khi nhắc đến hai tiếng Bác Hồ, mỗi người dân Việt Nam chúng ta luôn cảm thấy thân thương và gần gũi hơn bao giờ hết. Vẻ đẹp của một vị lãnh tụ hết lòng vì dân vì nước, một trái tim tràn ngập yêu thương và bản lĩnh phi thường ấy đã trở thành cảm hứng để các nhà thơ sáng tạo nên những tác phẩm song hành cùng thời gian. Viếng lăng Bác của Viễn Phương là bài thơ như thế, đặc biệt khổ thơ đầu của văn bản đã để lại trong lòng người đọc nhiều suy nghĩ và liên tưởng sâu xa:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng.
Viếng lăng Bác được sáng tác vào năm 1976, khi công trình lăng Bác vừa được khánh thành. Lần đầu tiên từ miền Nam hòa vào dòng người vào lăng viếng Bác, Viễn Phương chất chứa cảm xúc vừa trân trọng, vừa xúc động nghẹn ngào. Đặc biệt, khổ thơ đầu tiên khái quát cảm xúc của tác giả khi đứng trước lăng Bác.
Câu thơ đầu như lời thông báo mộc mạc mà chất chứa biết bao cảm xúc thân thương của người con ở miền Nam lần đầu được vào lăng viếng Bác: ” Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”. Chữ “con” cất lên sao mà ngọt ngào, ấm áp nhưng cũng không vơi bớt lòng thành kính, trân trọng đến thế. Khoảng cách về không gian địa lí được thu hẹp và khoảng cách giữa lãnh tụ và nhân dân cũng trở nên thân mật như tình cha con một nhà.
Nghệ thuật nói giảm nói tránh được Viễn Phương sử dụng rất khéo léo, tác giả không dùng chữ “viếng” mà lại sử dụng từ “thăm” để giảm nhẹ nỗi đau thương mất mát, đồng thời cũng gợi sự gần gũi, gắn bó giữa Bác với “con”. Bác dường như vẫn còn sống mãi trong muôn triệu trái tim, khối óc của người con đất Việt. Câu thơ đã khái quát được hoàn cảnh và cảm xúc của tác giả, đó cũng là cảm xúc của tất cả người dân Việt Nam dành cho Bác – vị cha già của dân tộc.
Đứng trước lăng Bác, hình ảnh đầu tiên để lại ấn tượng sâu đậm với tác giả đó chính là hàng tre bát ngát:
“Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”.
Có phải ngẫu nhiên không mà trước bao nhiêu loài cây, loài hoa rực rỡ sắc màu trước lăng Bác, Viễn Phương lại chỉ ấn tượng với cây tre giản dị? Câu trả lời là không, bởi cây tre là hình ảnh thân thuộc gắn với làng quê đất Việt, nó vừa gợi lên sự trang nghiêm nhưng cũng không kém phần gần gũi. Thế nhưng, không chỉ dừng lại ở nghĩa tả thực, cây tre còn mang ý nghĩa biểu tượng sâu xa.
Ẩn dụ “hàng tre xanh xanh Việt Nam” để chỉ con người, dân tộc Việt Nam kết hợp với thành ngữ “bão táp mưa sa” và nghệ thuật nhân hóa “đứng thẳng hàng” biểu tượng cho vẻ đẹp thanh cao, ý chí bất khuất kiên cường của mỗi công dân nước Việt. Dù trải qua bao thăng trầm chống giặc ngoại xâm nhưng nhân dân ta vẫn chung một ý chí quyết tâm chiến thắng, giành lại độc lập cho dân tộc.
Hàng tre ấy còn như một đội quân anh dũng đứng canh bảo vệ giấc ngủ của Bác. Thán từ “ôi” ở đầu câu thơ đã trở thành phương tiện chuyển tải cảm xúc xúc động của người con miền Nam xa xôi ra thăm người.
Chỉ với bốn câu thơ ngắn ngủi, người đọc đã hình dung được cảm xúc của nhà thơ khi đứng trước lăng Bác. Đó cũng là cảm xúc của nhân dân ta khi đứng trước lăng Bác, đứng trước người cha già vĩ đại của dân tộc Việt Nam.
SCR.VN chia sẻ 🌹 Phân Tích Bài Thơ Bếp Lửa 🌹 10 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Phân Tích Bài Thơ Viếng Lăng Bác Khổ 2 – Mẫu 14
Bài văn mẫu phân tích bài thơ Viếng lăng Bác khổ 2 dưới đây sẽ là nội dung tham khảo hữu ích trong quá trình làm bài.
“Bốn mươi năm trước Bác “đi xa”
Cả nước đau thương mắt lệ nhòa
Ngoài Bắc mưa tuôn – trời vĩnh biệt
Trong Nam gió nổi – đất chia xa”.
Ngày Bác mất, cả dân tộc ta chìm trong nước mắt, nước mắt của sự đau thương và xót xa tê tái lòng. Năm năm sau sự mất mát to lớn đó, lăng Bác được khánh thành, nơi đây trở thành chốn linh thiêng để nhân dân cả nước bày tỏ lòng tôn kính dành cho Người. Viếng lăng Bác là tác phẩm thể hiện rất sâu sắc cảm xúc của Viễn Phương khi lần đầu tiên vào lăng viếng Bác. Có lẽ khổ thơ thứ hai kết tinh lắng đọng nhất tư tưởng của cả bài thơ:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.
Tác giả khi ấy là người con miền Nam ra thăm miền Bắc, cùng đoàn người hành hương vào lăng viếng Người. Khổ thơ đầu tiên khái quát cảm xúc của tác giả khi đứng trước lăng với những ấn tượng về hàng tre xanh bát ngát. Đến với khổ thơ thứ hai, người đọc thấy được cảm xúc của Viễn Phương khi cùng đoàn người xếp hàng vào lăng viếng Bác.
Xuyên suốt cả khổ thơ là nỗi niềm thương nhớ khôn nguôi của tác giả khi đứng trước thềm lăng. Trước tiên, đó là tấm lòng thành kính, biết ơn lãnh tụ được gói trọn trong hình ảnh ẩn dụ:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”.
Mặt trời được nhắc đi nhắc lại sóng đôi trong hai câu thơ. Nếu “mặt trời đi qua trên lăng” là hình ảnh tả thực miêu tả bước dịch chuyển của mặt trời hàng ngày, hàng giờ gắn với bối cảnh không gian quen thuộc là “trên lăng” thì “mặt trời trong lăng” lại là ẩn dụ để chỉ Bác Hồ. Nghệ thuật nhân hóa qua động từ “thấy” nhấn mạnh vầng thái dương vũ trụ chứng kiến “mặt trời trong lăng rất đỏ” với thái độ có phần ngưỡng mộ, trân trọng.
Mặt trời thiên tạo gợi ra sự kì vĩ, vĩnh hằng, nguồn gốc của sự sống và là cái nôi đem lại ánh sáng cho con người. Bác Hồ cũng vậy, Bác là người cha già vĩ đại, Bác vĩnh hằng bởi Người luôn tồn tại trong trái tim nhân dân Việt Nam, dẫn lối cho sự nghiệp cách mạng giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Từ láy “ngày ngày” đứng ở đầu câu thơ vừa diễn tả sự bất biến của tự nhiên vừa góp phần bất tử hóa hình ảnh Bác Hồ trong lòng mọi người. Viễn Phương như đang nói hộ tấm lòng tôn kính của bao người đối với vị lãnh tụ mà cả cuộc đời:
“Chỉ biết quên mình cho hết thảy
Như dòng sông chảy nặng phù sa”
(Tố Hữu).
Trước lăng Bác, cảm xúc của tác giả cứ thế trào dâng:
“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.”
Nghệ thuật điệp cấu trúc “ngày ngày” khiến đoạn thơ hiện lên trong tâm trí người đọc như một bản nhạc chậm rãi, tần suất lặp đi lặp lại của những người vào lăng viếng Bác cứ như một nhịp điệu đã rất quen thuộc. Hai câu thơ như vẽ ra một bức tranh từng dòng người xếp hàng, bước chân chầm chậm lắng đọng nỗi niềm xúc động bồi hồi – “đi trong thương nhớ”. Dòng người ấy như đang “kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”, mỗi người là một bông hoa, cả đoàn người là một tràng hoa đẹp diệu kì kính dâng lên Người.
Đó là đóa hoa của nỗi niềm biết ơn sâu sắc, thành kính phân ưu, tiếc thương vô hạn mà nhân dân ta kính gửi tới Bác Hồ. Hoán dụ “bảy mươi chín mùa xuân” để chỉ số tuổi của Bác, đồng thời cũng là hình ảnh ẩn dụ ngợi ca cuộc đời sống đẹp và trọn vẹn, cống hiến những gì tinh túy nhất cho dân tộc của Bác. Câu thơ nhẹ nhàng mà kết tinh bao cảm xúc biết ơn ấy như chạm vào trái tim của biết bao bạn đọc.
Khổ thơ là cảm xúc của tác giả khi cùng dòng người xếp hàng vào lăng viếng Bác. Nhà thơ sử dụng các hình ảnh ẩn dụ, hoán dụ có ý nghĩa sâu sắc khiến vẻ đẹp của vĩ lãnh tụ như càng ngời sáng hơn bao giờ hết. Bởi vậy, có thể nói đây là khổ thơ kết tinh trọn vẹn vẻ đẹp của Bác – người cha già cống hiến trọn vẹn tuổi xuân cho non sông, đất nước.
Chia sẻ thêm cùng bạn 🍀 Cảm Nhận Bài Thơ Bếp Lửa 🍀 18 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Phân Tích Bài Thơ Viếng Lăng Bác Khổ 3 – Mẫu 15
Tham khảo và vận dụng gợi ý phân tích bài thơ Viếng lăng Bác khổ 3 sẽ giúp các em học sinh hoàn thành tốt bài viết của mình.
Viếng lăng Bác là bài thơ kết tinh trọn vẹn cảm xúc của Viễn Phương khi ở miền Nam lần đầu được ra Hà Nội và vào lăng viếng Bác. Nếu hai khổ thơ đầu miêu tả dòng cảm xúc của tác giả khi đứng trước lăng Bác và khi hòa vào cùng dòng người vào lăng thì khổ thơ thứ ba lại thể hiện nỗi niềm xúc động thiêng liêng của nhà thơ khi vào lăng viếng Bác:
“ Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”.
Hai câu thơ đầu tiên miêu tả cảm xúc của Viễn Phương khi nhìn thấy di hài của Bác:
” Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền.”
Nhà thơ cùng dòng người tiến vào lăng, chiêm ngưỡng Bác từ xa và liên tưởng Bác như đang đi vào giấc ngủ yên bình không mộng mị, ánh sáng dịu nhẹ của ngọn đèn lúc đó bỗng trở thành vầng trăng lan tỏa ánh sáng dìu dịu, sáng trong. Câu thơ đã miêu tả vừa khái quát nhưng cũng không kém phần tinh tế không gian trang nghiêm trong lăng Bác.
Bác đã ra đi nhưng trong mắt tác giả, đó chỉ là một giấc ngủ dài thanh thản, không còn lo toan việc nước việc dân, không còn lắng lo trăn trở. Bầu không khí ấy bất kì người Việt Nam nào khi vào lăng viếng Bác cũng có thể cảm nhận được, Viễn Phương đã nói lên nỗi lòng và cảm xúc của triệu triệu con tim khi đứng trước di hài của Bác.
Nhìn thấy hình ảnh của Bác, Viễn Phương thốt lên nghẹn ngào:
“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”.
Nghệ thuật tương phản giữa “vẫn biết” và “mà sao” diễn tả sự mâu thuẫn, đối lập giữa lí trí và trái tim. Lí trí thì khẳng định chân lí muôn thuở Bác vẫn sống mãi trong tâm trí của người dân Việt Nam, vĩnh hằng bất tử, nhưng trái tim thì vẫn xót xa, nghẹn ngào chấp nhận hiện thực rằng Bác đã ra đi mãi mãi. Nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác “nghe” thấy điều chỉ có thể cảm nhận – “nhói ở trong tim” giúp khắc sâu, nhấn mạnh nỗi đau như đang quặn thắt, xót xa và đau đớn vô cùng.
Người đọc chợt nhớ đến những vần thơ nghẹn ngào của Tố Hữu khi khóc Bác:
“Bác đã đi rồi sao Bác ơi!
Mùa thu đang đẹp nắng xanh trời.”
Hai bài thơ tuy viết ở hai thời điểm khác nhau nhưng đều chung nỗi xót xa đau đớn, chạm đến tâm hồn của bạn đọc.
Khổ thơ bày tỏ cảm xúc của Viễn Phương khi vào lăng viếng Bác một lần nữa nói hộ tấm lòng tiếc thương của biết bao người. Những vần thơ như nghẹn lại, rưng rưng mà cảm động nhưng vẫn không kém phần trang trọng, chỉnh chu. Bác vẫn sống trong lòng mỗi chúng ta, bởi “trời xanh là mãi mãi”.
Gợi ý trọn bộ 🌹 Phân Tích Đoàn Thuyền Đánh Cá Huy Cận 🌹 19 Mẫu Hay Nhất
Phân Tích Bài Thơ Viếng Lăng Bác Khổ 1 2 – Mẫu 16
Chia sẻ dưới đây bài văn mẫu phân tích bài thơ Viếng lăng Bác khổ 1 2 sẽ giúp các em học sinh có thêm cho mình những ý tưởng làm bài đặc sắc.
Viễn Phương là nhà thơ miền Nam trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Ông là một trong những cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng ở miền Nam. Thơ của ông bình dị mà trữ tình, mộc mạc chân chất nhưng nhẹ nhàng sâu lắng.
Tháng 4 năm 1976, lăng Bác được khánh thành, Viễn Phương được ra miền Bắc viếng thăm lăng Bác. Bao cảm xúc yêu thương dồn nén trào dâng thành những vần thơ thành kính trang nghiêm. Bài thơ “Viếng lăng Bác” ra đời ngay sau đó và nhanh chóng đi vào lòng người đọc bởi cảm xúc chân thành, tha thiết của nhà thơ. Trong đó, hai khổ thơ đầu đã bộc lộ tâm trạng nhà thơ khi nhìn thấy hàng tre bên lăng Bác và cảnh vật quanh lăng.
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi, hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân
Cảm hứng bao trùm trong thơ chính là niềm xúc động thiêng liêng, thành kính, lòng biết ơn và tự hào pha lẫn nỗi xót đau khi tác giả từ miền Nam ra viếng thăm lăng Bác. Nguồn cảm hứng ấy chi phối cả giọng điệu của bài thơ: thành kính, suy tư, trầm lắng xen lẫn niềm đau xót, tự hào. Mạch vận động của cảm xúc đi theo trình tự không gian từ xa tới gần. Bài thơ được mở đầu bằng lời tâm sự:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Từ xưng hô “con” trong câu thơ mang đậm chất Nam Bộ, thể hiện tình cảm yêu thương kính trọng của của nhà thơ đối với Bác. Cách xưng hô nghe vừa chân chất mộc mạc lại vừa gần gũi thân tình. Đó là tiếng xưng hô yêu thương không chỉ của nhà thơ mà còn là của nhân dân miền Nam đối với Bác. Trong tâm khảm của mọi người, Bác là một người cha vĩ đại:
Người là Cha, là Bác, là Anh
Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ
(Tố Hữu)
Cụm từ “ở miền Nam” gợi lên tình cảm thân thương ruột thịt giữa Bác với đồng bào miền Nam, mảnh đất thành đồng chống Mĩ, nơi Bác bắt đầu bước hành trình đi tìm đường cứu nước:
Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác nỗi mong cha
(Tố Hữu)
Tự đáy lòng của người con đến thăm cha, Viễn Phương như muốn nói với Bác: Con ở miền Nam… Câu thơ giản dị nhưng bao hàm một ý nghĩa lớn. Trong tim Bác và trong tim miền Bắc, miền Nam luôn luôn là nỗi đau chia cắt, nỗi nhớ thương, là niềm tự hào, là biểu tượng anh hùng, bất khuất, dũng cảm, kiên cường, là thành đồng Tổ Quốc… Giờ đây, nhà thơ mang theo cả niềm tự hào đó của đồng bào miền Nam để đến với Bác. Và hình ảnh đầu tiên tác giả bắt gặp qua màn sương mờ buổi sớm chính là bóng dáng quen thuộc của làng quê:
“Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi, hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”
Hàng tre bát ngát xanh tươi trải rộng bên lăng như những hàng quân canh giữ cho giấc ngủ yên bình của Bác. Hàng tre xanh mộc mạc và bình dị của quê hương được nhà thơ nhấn mạnh:
Ôi, hàng tre xanh xanh Việt Nam
Từ cảm thán “Ôi” bộc lộ cảm xúc trào dâng khi bắt gặp hình ảnh thân thiết của quê nhà. Từ gợi tả “xanh xanh” đảo ra phía trước như muốn nhấn mạnh sức sống bền bỉ của quê hương, dân tộc. Màu xanh ấy đã được nhà thơ Nguyễn Duy ca ngợi:
Tre xanh, xanh tự bao giờ
Chuyện ngày xưa… đã có bờ tre xanh
(Tre Việt Nam)
Quả thật, đi suốt chiều dài của đất nước Việt Nam, từ miền ngược đến miền xuôi, nơi nào ta cũng thấy bóng dáng của làng quê qua hình ảnh hàng tre quen thuộc: “Tre Đồng Nai, nứa Việt Bắc, tre ngút ngàn Điện Biên Phủ, lũy tre thân mật làng tôi… Đâu đâu ta cũng có nứa tre làm bạn” – (Cây tre, Thép Mới). Cho nên, giữa muôn ngàn cây và hoa bên lăng Bác, Viễn Phương chọn hình ảnh hàng tre để miêu tả không phải ngẫu nhiên mà là một dụng ý nghệ thuật của nhà thơ.
Từ màu xanh đầy sức sống của hàng tre, nhà thơ liên hệ đến phẩm chất cao đẹp của con người:
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng
Cây tre mộc mạc giản dị là thế, nhưng lại kiên cường bất khuất không hề khuất phục trước bão giông:
Bão bùng thân bọc lấy thân
Tay vươn, tay níu tre gần nhau hơn
(Tre Việt Nam)
Phẩm chất của tre gần gũi với phẩm chất của người dân Việt, chân chất bình dị trong cuộc sống lao động, nhưng lại anh hùng bất khuất trong cuộc đấu tranh giải phóng nước nhà. Hòa vào dòng người đang tiến dần đến trước lăng, mạch suy tưởng của nhà thơ tiếp tục dâng trào khi đứng giữa quảng trường Ba Đình rộng lớn:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.
Ai đã từng viếng lăng Bác mới cảm nhận hết hàm ý ẩn chứa trong hai câu thơ trên của Viễn Phương. Nếu hình ảnh “mặt trời trên lăng” là bút pháp tả thực để chỉ một thực thể trong vũ trụ thì “mặt trời trong lăng” là hình ảnh ẩn dụ để chỉ Bác. Một hình ảnh đối chiếu đầy sáng tạo để ca ngợi sự vĩ đại của Bác Hồ. Mặt trời là nguồn sống của muôn loài vạn vật khi nó mang lại ánh sáng và hơi ấm khắp hành tinh. Bác Hồ kính yêu cũng là người mang lại ánh sáng Cách mạng từ Luận cương của Lênin soi sáng trên bầu trời đêm của những cuộc đời tối tăm, nô lệ.
Thật ra, việc so sánh Bác với hình ảnh mặt trời không phải là phát hiện mới của Viễn Phương. Trước đây, trong ca dao kháng chiến chúng ta cũng từng bắt gặp cách so sánh tương tự:
Bác Hồ là vị cha chung
Là sao Bắc Đẩu, là vầng Thái Dương
Nhưng sáng tạo của Viễn Phương chính là hình ảnh “mặt trời trong lăng rất đỏ”, để từ đó khái quát được hình ảnh Bác Hồ vĩ đại biết chừng nào! Cùng với mặt trời ngày ngày đi qua trên lăng là dòng người đi trong thương nhớ.
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân
Nhịp thơ chầm chậm như bước chân của dòng người lặng lẽ đi trong suy tưởng, bao trùm một không khí thương nhớ Bác khôn nguôi, thành kính kết tràng hoa tình yêu dâng bảy mươi chín mùa xuân của Người. “Người ta là hoa của đất”, nhà thơ thật sâu sắc và tinh tế khi tôn quí nhân dân. Mỗi người dân là một bông hoa và dòng người đi trong thương nhớ chính là tràng hoa dâng lên Bác.
Ngày ngày… ngày ngày…, sự lặp lại của thời gian, cũng là sự lặp lại của lòng thương nhớ. Cứ mỗi ngày mặt trời đi qua trên lăng Bác, thì mỗi ngày dòng người như bất tận lại nối tiếp nhau vào lăng dâng lên Người những đóa hoa đời tươi thắm nhất. Tình cảm của người dân Việt Nam đối với Bác đã trở thành chân lí như vòng tuần hoàn của thời gian.
Tóm lại, chỉ qua hai khổ thơ, Viễn Phương đã bộc lộ được cảm xúc trào dâng của mình khi lần đầu tiên được viếng thăm lăng Bác. Những hình ảnh trong thơ được xây dựng bằng rung cảm thiết tha của nhà thơ. Từ đó, tác giả bộc lộ tình cảm chân thành, bình dị mà tha thiết của mình đối với Bác. Đó cũng là tình cảm chung của nhân dân miền Nam dành cho vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc.
Tham khảo văn mẫu 🌳 Cảm Nhận Bài Thơ Đoàn Thuyền Đánh Cá 🌳 15 Bài Hay Nhất
Phân Tích Bài Thơ Viếng Lăng Bác Khổ 2 3 – Mẫu 17
Bài văn mẫu phân tích bài thơ Viếng lăng Bác khổ 2 3 dưới đây sẽ giúp các em học sinh tham khảo cách viết ngắn gọn và đầy đủ nội dung.
Nhà thơ Viễn Phương viết Viếng Lăng Bác năm 1976, ngay sau khi đất nước thống nhất, nhà thơ được ra thăm lăng Bác. Bao trùm lên bài thơ là niềm xúc động thiêng liêng, thành kính, niềm tự hào, đau xót của nhà thơ đối với Bác. Dòng cảm xúc chân thành, niềm vui chất chứa cùng tấm lòng mến yêu tha thiết, nhà thơ bày tỏ niềm tự hào lớn lao đối với lãnh tụ vĩ đại, vị cha già của dân tộc. Khổ thơ 2 và 3 thể hiện sâu sắc cảm xúc ấy.
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”.
Ở đây, tác giả đã sử dụng biện pháp ẩn dụ, ẩn dụ bác là mặt trời, ẩn dụ sự vĩ đại của mặt trời lên Bác, mặt trời chỉ có một, tạo ra ánh sáng cho các hành tinh và trái đất, bác cũng vậy, trong lòng người dân Việt Nam, Bác luôn là người vĩ đại nhất.
Hình ảnh “mặt trời đi qua trên lăng” là hình ảnh thực. Đó là mặt trời thiên tạo, là hành tinh quan trọng nhất của vũ trụ, nó gợi ra sự kì vĩ, sự bất tử, vĩnh hằng. Mặt trời là nguồn cội của sự sống, ánh sáng. Hình ảnh “mặt trời trong lăng” là một ẩn dụ đầy sáng tạo,độc đáo – đó là hình ảnh của Bác Hồ. Giống như “mặt trời”, Bác Hồ cũng là nguồn ánh sáng, nguồn sức mạnh. “Mặt trời” – Bác Hồ soi đường dẫn lối cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do, thống nhất đất nước.
“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân…”
Lại một lần nữa biện pháp ẩn dụ được tác giả sử dụng trong câu trên. Bằng sự quan sát trong thực tế, tác giả đã tạo ra một hình ảnh ẩn dụ đẹp và sáng tạo: “tràng hoa”. Kết tràng hoa ý chỉ là những bông hoa kết lại thành vòng, dài, biểu thị cho những người đến viếng lăng Bác, tưởng nhớ người đã dành cả đời để cứu nước. “Tràng hoa” ở đây theo nghĩa thực là những bông hoa tươi thắm kết thành vòng hoa được những người con khắp nơi trên đất nước và thế giới về thăm dâng lên Bác để bày tỏ tình cảm, tấm lòng nhớ thương, yêu quý, tự hào của mình.
“Tràng hoa” ở đây còn mang nghĩa ẩn dụ chỉ từng người một đang xếp hàng viếng lăng Bác mỗi ngày là một bông hoa ngát thơm. Những dòng người bất tận đang ngày ngày vào lăng viếng Bác nối kết nhau thành những tràng hoa bất tận. Những bông hoa – tràng hoa rực rỡ đó dưới ánh mặt trời của Bác đã trở thành những bông hoa – tràng hoa đẹp nhất dâng lên “bảy mươi chín mùa xuân”
Mùa xuân ở đây biểu thị cho tuổi đời của Bác, mỗi mùa xuân sang lại là một tuổi mới, tuy bác dừng lại ở mùa xuân thứ 79, lúc chiến tranh còn dang dở, nhưng giờ đây khi đã hòa bình, người người cùng nhau đến lăng để tưởng nhớ nó, 79 mùa xuân vì đất nước.
Vào trong lăng, khung cảnh và không khí như ngưng kết cả thời gian, không gian. Hình ảnh thơ đã diễn tả thật chính xác, tinh tế sự yên tĩnh, trang nghiêm cùng ánh sáng dịu nhẹ, trong trẻo của không gian trong lăng Bác.
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên.
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền”.
Đối với nhân dân Việt Nam, Bác chỉ đang ngủ, dù mất đi sự hiện hữu mà thôi, bình yên ở đây là đất nước đã ngừng tiếng bom đạn, bầu trời đã trong xanh, bác “ngủ” trong hòa bình, ngủ trong cái khát khao của bản thân Bác. Trong thơ ca của Bác, trăng được nhắc đến phần lớn, Bác xem trăng là tri kỷ khi còn sống, dù là khi Bác đã không còn, nhưng Trăng vẫn luôn ở đó, ở với Bác, ở với người xem nó là tri kỷ, tác giả lại dùng biện pháp nhân hóa ở hình ảnh trăng.
Giữa tình cảm và lý trí có sự mâu thuẫn. Con người đã không kìm nén được khoảnh khắc yếu lòng. Chính đau xót này đã làm cho tình cảm giữa lãnh tụ và nhân dân trở nên ruột già, xót xa:
“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”.
Tác giả đã ẩn dụ sự hòa bình bằng hình ảnh trời xanh, đất nước nay đã hòa bình, chiến tranh kết thúc, bầu trời chim bay lượn, thanh bình vô cùng, nhưng tác giả lại tiếc thương thay, bác lại không được nhìn thấy cảnh ấy mặc dù nó chỉ cách năm Bác ra đi không mấy là bao, bác một đời chỉ sống trong chiến tranh, chưa tận mặt thấy hòa bình là như thế nào, Bác tạo ra những giá trị tinh thần lớn lao nhưng không biết được nó có được đón nhận hay không, tác giả đã cảm nhận được sự tiếc nuối ấy.
Khổ 2 và 3 bài thơ “Viếng lăng Bác” gói trọn tình cảm kính yêu của nhà thơ dành cho vị cha già của dân tộc. Cảm xúc tự nhiên, chan thành, bột phát thể hiện tấm lòng của nhà thơ và nhân dân toàn miền Nam đêm ngày mong mỏi. Người cha già ấy đã mãi mãi nằm xuống nhưng tình cảm của Người, tình thần của Người mãi mãi soi rọi non sông, làm ấm lòng dân tộc.
Chia sẻ 🌼 Cảm Nhận Về Bài Thơ Đồng Chí 🌼 Top Những Bài Hay Nhất
Phân Tích Bài Thơ Viếng Lăng Bác Khổ 3 4 – Mẫu 18
Với bài văn mẫu phân tích bài thơ Viếng lăng Bác khổ 3 4 dưới đây, các em học sinh có thể tham khảo để đạt kết quả cao cho bài viết trên lớp.
“Viếng lăng Bác” của Viễn Phương là một bài văn xuất sắc được sáng tác vào năm 1976, bài thơ mang đậm chất trữ tình ghi lại tình cảm thành kính, sâu lắng của nhà thơ khi hòa vào dòng người đang vào viếng lăng Bác. Qua đó bài thơ được xem là tiếng nói nỗi niềm tâm sự của nhân dân dành cho Bác. Đặc biệt, những tình cảm ấy lại chan chứa và dạt dào ở hai khổ thơ 3 và 4.
Hai khổ 3 và 4 cuối bài thơ như những nốt nhạc du dương, trầm bổng, réo rắt như tấm lòng tha thiết yêu mến của nhà thơ với Hồ Chủ tịch. Bằng những ngôn từ ẩn dụ đặc sắc, từ ngữ bình dị mà giàu sức gợi, câu thơ đã khơi gợi trong lòng người đọc những rung động sâu sắc và đáng quý…
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền”
Khung cảnh bên trong lăng thật êm dịu, thanh bình. Lúc này, trước mặt mọi người chỉ có hình ảnh Bác. Bác nằm đó trong giấc ngủ vĩnh hằng. Bác mất thật rồi sao? Không đâu. Bác chỉ nằm đó ngủ thôi, Bác chỉ ngủ thôi mà! Suốt bảy mươi chín năm cống hiến cho đất nước, bây giờ đất nước đã bình yên, Bác phải được nghỉ ngơi chứ. Bao quanh giấc ngủ của Bác là một “vầng trăng sáng dịu hiền”. Đó là hình ảnh ẩn dụ cho những năm tháng làm việc của Bác, lúc nào cũng có vầng trăng bên cạnh bầu bạn.
Từ giữa chốn tù đày, đến “Cảnh khuya” núi rừng Việt Bắc, rồi “Nguyên tiêu”…Tuy vậy, Bác chưa bao giờ thảnh thơi để ngắm trăng đúng nghĩa. Khi thì “trong tù không rựơu cũng không hoa”, khi thì “việc quân đang bận”. Chỉ có bây giờ, trong giấc ngủ yên, vầng trăng ấy mới thật sự là vầng trăng yên bình, để Bác nghỉ ngơi và ngắm. Trăng dịu hiền, soi sáng hình ảnh Bác. Nhìn Bác ngủ ở đấy thật bình yên, nhưng có một sự thật dù đau lòng cách mấy ta vẫn phải chấp nhận: Bác đã thật sự ra đi mãi mãi.
“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim!”
Trời xanh bao la kia kéo dài đến vô tận, không bao giờ chấm dứt. Dù lí trí vẫn luôn trấn an lòng mình rằng Bác vẫn sống đấy, vẫn còn dõi theo Tổ quốc mãi mãi như màu xanh thanh bình trên nền trời Tổ quốc độc lập nhưng con tim ta vẫn nhói đau vì một sự thật đau lòng.
Một từ “nhói” của nhà thơ nói hộ ta nỗi đau đớn, nỗi đau vượt lên mọi lí lẽ, mọi lập luận lí trí. Bác như trời xanh, Bác là mãi mãi, Bác vẫn sống trong tâm tưởng mỗi chúng ta, Bác mãi hiện diện trên mỗi phần đất, mỗi thành quả, mỗi phần tử tạo nên đất nước này. Nhưng mà Bác mất thật rồi, ta không còn có Bác trong cuộc đời thường này. Mất Bác, cái thiếu vắng ấy liệu có thể nào bù đắp được?
Tổ quốc ta đã thật sự không còn Bác dõi theo từng bước chân, không còn được Bác nâng đỡ mỗi khi vấp ngã. Bác ra đi, nỗi đau ấy liệu có từ ngữ nào diễn tả hết? Cả đàn con Việt Nam luôn tiếc thương Bác, luôn nhớ về Bác như một cái gì đó thật vĩ đại, không thể xoá nhoà. Dù Bác ra đi thật sự rồi nhưng những điều Bác đã làm vẫn sẽ đọng lại trong tâm hồn, hình ảnh Bác vẫn tồn tại trường kì trong trái tim mỗi người dân Việt Nam.
Cuối cùng dẫu thương tiếc Bác đến mấy, cũng đến lúc phải rời lăng Bác để ra về. Khổ thơ cuối như một lời từ biệt đầy xúc động:
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt”
Ngày mai phải rời xa Bác rồi. Một tiếng “thương của miền Nam” lại vang lên, gợi về miền đất xa xôi của Tổ quốc, một nơi từng có vị trí sâu sắc trong trái tim người. Một tiếng “thương” ấy là yêu, là biết ơn, là kính trọng cuộc đời cao thượng, vĩ đại của Người. Đó là tiếng thương của nỗi đau xót khi mất Bác. Thương Bác lắm, nước mắt trào ra, thật đúng là tình thương của người Việt Nam, vô bờ bến và rất thật.
“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”
Cùng với nỗi niềm yêu thương vô hạn, tác giả nói lên muôn vàn lời tự nguyện. Điệp ngữ “muốn làm” khẳng định mạnh mẽ những ước nguyện ấy. Ước chi ta có thể biến hình thành những gì thân yêu quanh nơi Bác ngủ để mãi mãi được chiêm ngưỡng Bác, cuộc đời và tâm hồn của Bác, để bày tỏ lòng ta với Bác.
Một con chim nhỏ góp tiếng hót làm vui những bình minh của Bác, một đóa hoa góp mùi hương làm thơm không gian quanh Bác hay một cây tre trong hàng tre xanh xanh Việt Nam tỏa bóng mát dịu dàng quê hương của Bác, tất cả đều làm Bác vui và ngủ an giấc hơn. Đây cũng chính là nguyện ước chân thành, sâu sắc của hàng triệu con tim người Việt sau một lần ra thăm lăng Bác.
Bác ơi! Bác hãy ngủ lại bình yên nhé, chúng cháu về miền Nam tiếp tục xây dựng Tổ quốc từ nền móng Bác đã tạo ra đây! Câu thơ trầm xuống để kết thùc, ngừng lặng hòan toàn…
Về nghệ thuật, bài thơ Viếng lăng Bác có nhiều điểm nghệ thuật rất đặc sắc, giúp biểu hiện thành công thêm về những giá trị nội dung. Bài thơ viết theo thể tám chữ, trong có có xen một vài câu bảy và chín chữ. Nhiều hình ảnh trong bài thơ lấy từ ngoài đời thực đã được ẩn dụ, trở thành một cách thể hiện cảm xúc thành kính của tác giả. Nhịp thơ của bài linh hoạt, lúc nhanh là biểu hiện cho ước nguyện đền đáp công ơn Bác, lúc chậm là lúc thể hiện lòng thành kính với Bác. Giọng điêu của bài trang trọng, tha thiết, ngôn ngữ thơ bình dị mà cô đúc.
Bằng những từ ngữ, lời lẽ chân thành, giàu cảm xúc, nhà thơ Viễn Phương đã bày tỏ được niềm xúc động cùng lòng biết ơn sâu sắc đến Bác trong một dịp ra miền Bắc viếng lăng Bác. Bài thơ như một tiếng nói chung của toàn thể nhân dân Việt Nam, biểu lộ niềm đau xót khi thấy Bác kính yêu ra đi. Qua bài thơ, tôi cảm thấy rằng đất nước ta có hoà bình như ngày hôm nay một phần lớn là nhờ công lao của Bác, như vậy chúng ta cần phải biết xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Khám phá thêm 💕 Phân Tích Bài Thơ Đồng Chí Chính Hữu 💕 10 Bài Hay Nhất