Phân Tích Truyện An Dương Vương ❤️️22+ Bài Văn Mẫu Hay ✅ Tuyển Tập Văn Đặc Sắc Phân Tích Truyền Thuyết An Dương Vương Và Mị Châu Trọng Thủy.
Dàn Ý Phân Tích Truyện An Dương Vương
Lập dàn ý phân tích truyện An Dương Vương sẽ giúp các em học sinh có được cho mình những định hướng viết bài cụ thể. Tham khảo mẫu phân tích truyện An Dương Vương dàn ý chi tiết như sau:
I. Mở bài phân tích truyện An Dương Vương:
- Giới thiệu khái quát về thể loại truyền thuyết: Truyền thuyết là những câu chuyện kể dân gian, kể lại những câu chuyện trong lịch sử dựng nước, giữ nước của cha ông ta, có sự kết hợp giữa cốt lõi lịch sử với yếu tố tưởng tượng, kì ảo.
- Giới thiệu xuất xứ, khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của Truyện an Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy: Truyện An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy trích từ Truyện Rùa Vàng trong Lĩnh Nam chích quái. Truyện kể về quá trình xây thành, chế nỏ bảo vệ đất nước của An Dương Vương và nguyên nhân mất nước Âu Lạc.
II. Thân bài phân tích truyện An Dương Vương:
1.An Dương Vương xây thành, chế nỏ, bảo vệ đất nước
- Vua An Dương Vương xây thành ở đất Việt Thường nhưng gặp rất nhiều khó khăn, “hễ đắp tới đâu là lại lở tới đấy”. Vì vậy, vua lập đàn tai giới, cầu đảo bách thần. Sau đó, đón tiếp cụ già từ phương Đông tới và ra tận của đông chờ đợi đón Rùa Vàng.
- An Dương Vương là người quyết tâm, kiên trì, không ngại khó khăn, dồn hết tâm huyết cho việc xây thành, luôn suy nghĩ cho vận mệnh của đất nước và biết trọng người hiền tài.
- An Dương Vương cho xây thành “rộng hơn ngàn trượng, xoắn như hình trôn ốc”, thể hiện tài năng và tầm nhìn xa trông rộng của An Dương Vương.
- Khi Rùa Vàng từ biệt trở về, An Dương Vương lo lắng hỏi: “Nếu có giặc ngoài thì lấy gì mà chống?” thể hiện ý thức, trách nhiệm của người đứng đầu và tinh thần cảnh giác cao độ.
- Lấy vuốt rùa làm lẫy, nhờ Cao Lỗ chế nỏ đánh thắng mọi kẻ thù, giặc xâm lược.
- Thông qua các chi tiết hư cấu, tưởng tượng (cụ già, Rùa Vàng) truyện đã xây dựng thành công hình tượng vua An Dương Vương – một vị vua anh minh, sáng suốt, luôn suy nghĩ cho vận mệnh của dân tộc, vì lợi ích của nhân dân, biết trọng người tài, được sự đồng tâm, giúp đỡ của cả trời đất và nhân dân. Vị vua ấy luôn nhận được sự tôn trọng, ngợi ca của toàn thể nhân dân.
2.Những sai lầm của An Dương Vương, bi kịch tình yêu của Mị Châu, Trọng Thủy và bài học từ bi kịch mất nước.
a. Phân tích truyện An Dương Vương những sai lầm của nhà vua
- Chủ quan, mất cảnh giác: Nhận lời cầu hòa của Triệu Đà, đồng ý gả con gái cho Trọng Thủy và đồng ý cho Trọng Thủy ở rể.
- Ỷ lại vào vũ khí mà không đề phòng, lơ là cảnh giác, xem thường kẻ địch: lúc giặc đến chân thành vẫn mải đánh cờ, cười nhạo kẻ thù.
- Chi tiết An Dương Vương tự tay giết chết con gái thể hiện hành động quyết liệt, dứt khoát đứng về phía công lí và lợi ích chung của cả dân tộc, để cái chung lên trên tình riêng đó cũng là sự thức tỉnh muộn màng của An Dương Vương
- Chi tiết An Dương Vương cầm sừng tê bảy tấc, Rùa Vàng rẽ nước dẫn vua đi xuống biển đã huyền thoại hóa, bất tử hóa hình tượng vua An Dương Vương, qua đó, thể hiện sự trân trọng, cảm mến của nhân dân với nhà vua.
b. Phân tích truyện An Dương Vương bi kịch tình yêu của Mị Châu và Trọng Thủy
-Nhân vật Mị Châu:
- Hết lòng yêu thương, tin tưởng chồng: cho Trọng Thuỷ xem nỏ thần, khiến bảo vật giữ nước bị đánh tráo mà hoàn toàn không biết.
- Nhẹ dạ cả tin, chỉ nghĩ đến hạnh phúc cá nhân: bị giặc đuổi, đánh dấu đường cho Trọng Thủy lần theo
- Bị kết tội là giặc, bị vua cha chém chết. Đó cũng là sự trừng trị nghiêm khắc cho sai lầm của Mị Châu
- Lời thề của Mị Châu trước lúc chết cũng chính là lời thanh minh của nàng cho tấm lòng trong trắng của mình.
- Mị Châu chết, máu hóa thành ngọc trai, xác hóa thành ngọc thạch. Thể hiện sự bao dung, thông cảm với sự trong trắng, ngây thơ, vô tình phạm tội; vừa thể hiện thái độ nghiêm khắc trừng trị cùng bài học lịch sử về giải quyết quan hệ giữa nhà với nước, chung với riêng.
-Nhân vật Trọng Thủy:
- Thời kì đầu: Trọng Thủy đóng vai trò là một tên gián điệp theo lệnh của vua cha sang làm rể → điều tra bí mật.
- Thời gian ở Loa Thành: lừa Mị Châu để thực hiện âm mưu, chính sự chủ quan lơ là mất cảnh giác của An Dương Vương, sự ngây thơ cả tin, toàn tâm toàn ý với chồng của Mị Châu đó giúp y hoàn thành kế hoạch đen tối.
- Khi Mị Châu chết, y ôm xác vợ khóc lóc, thương nhớ rồi tự tử. Đây chính là sự hối hận muộn màng của Trọng Thủy, đồng thời cho thấy Trọng Thủy cũng là một nạn nhân của cha mình.
- Hình ảnh ngọc trai – giếng nước ở cuối chuyện là cách kết thúc hợp lí nhất cho câu chuyện và cho số phận đôi trai gái. Hình ảnh này chứng tỏ sự trong sáng của Mị Châu, sự hóa giải tình cảm của Mị Châu, Trọng Thủy ở thế giới bên kia và đó cũng chính là tấm lòng bao dung, thông cảm của nhân dân dành cho Mị Châu và Trọng Thủy.
c. Phân tích bài học từ bi kịch mất nước trong truyện An Dương Vương
- Đề cao tinh thần cảnh giác với kẻ thù, không chủ quan khinh thường trước bất cứ hoàn cảnh nào.
- Luôn luôn đặt quan hệ riêng, chung cho đúng mực, phải đặt quyền lợi của dân tộc, đất nước lên trên quyền lợi cá nhân, gia đình.
III. Kết bài phân tích truyện An Dương Vương:
- Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của văn bản
- Mở rộng: Bài học dựng nước và giữ nước trong bối cảnh hiện nay.
Mời bạn xem nhiều hơn 🌟 Tóm Tắt Truyện An Dương Vương 🌟 15 Bài Tóm Tắt Hay Nhất
Mở Bài Phân Tích Truyện An Dương Vương
Dưới đây chia sẻ gợi ý viết mở bài phân tích truyện An Dương Vương giúp các em học sinh có được cách dẫn dắt giới thiệu tác phẩm sinh động và ấn tượng.
Truyền thuyết là lịch sử truyền miệng của nhân dân. Nếu như chức năng của thần thoại là nhận thức và lí giải các hiện tượng tự nhiên thì chức năng của truyền thuyết chủ yếu là nhận thức và lí giải lịch sử. Do đó truyền thuyết chủ yếu hướng vào để tài lịch sử, nhằm phản ánh, lí giải cá sự kiện lịch sử trọng đại, các nhân vật lịch sử có vai trò và ảnh hưởng lớn đối với sự tồn tại, phát triển của cộng đồng.
Nội dung chủ yếu của truyền thuyết thường chia làm hai phần. Phần cốt lõi của những sự kiện, nhân vật lịch sử được phản ánh và phần tâm tình ý nguyện của nhân dân được gửi gắm vào trong đó và một trong những truyền thuyết tiêu biểu viết theo mô tuýp đó là truyền thuyết thần Kim Quy (truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thuỷ).
Đây là một truyền thuyết lớn, một tấm bi kịch lịch sử, phản ánh được những nét cơ bản của lịch sử dân tộc thời kỳ Âu Lạc (thế kỷ thứ ba và thứ hai trước Công Nguyên). Nó đã được đông đảo quần chúng nhân dân lưu truyền, hâm mộ và thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu sử học, văn học, nhiều nhà thơ như Cao Bá Quát, Tản Đà, Xuân Diệu, Tố Hữu… đã làm thơ về truyện này:
Một đôi kẻ Việt, người Tầu
Nửa phần ân ái, nửa phần oán thương
Vuốt rùa chàng đổi móng
Lông ngỗng thiếp đưa đường
Thề nguyền phu phụ
Tình nhi nữ việc quân vương
Niệm gấm vô cảm
Trăm năm giọt lệ
Ngọc trai nước giếng
Ngòm thu khói nhang
(Tàn Đà)
Tôi kể người nghe chuyện Mị Châu
Trái tim lầm chỗ để trên đầu
Nỏ thần vô ý trao tay giặc
Nên với cơ đồ đắm biển sâu
(Tố Hữu)
Kết Bài Phân Tích Truyện An Dương Vương
Tham khảo đoạn văn mẫu kết bài phân tích truyện An Dương Vương dưới đây để nắm được những đánh giá tổng kết về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
Câu chuyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thuỷ kết thúc trong bi kịch đó là bi kịch về sự mất cảnh giác và mất nước đồng thời còn là bi kịch về tình yêu giữa Mị Châu và Trọng Thuỷ. Đồng thời ở mỗi nhân vật cũng có sự diễn biến, phát triển ít nhiều mang tính bi kịch.
Sự phong phú hàm súc về nội dung, cùng với sự chặt chẽ trong kết cấu, độc đáo trong cách thể hiện đã làm cho truyền thuyết này có một sức sống hấp dẫn đặc biệt mà ít truyện dân gian nào có thể sánh được. Và đó cũng là nguyên nhân khiến cho truyện này được nhiều nhà thơ, nghệ sĩ thuộc các ngành nghệ thuật đã khai thác, chuyển thể, sử dụng.
Bằng sự kết hợp hài hòa giữa sự thật lịch sử và yếu tố kì ảo, tác phẩm là một cách giải thích nguyên nhân mất nước Âu Lạc. Đồng thời, qua tác phẩm cũng gửi gắm bài học lịch sử sâu sắc cho các thế hệ muôn đời: bài học về tinh thần cảnh giác và bài học về cách xử lí đúng đắn giữa việc chung và việc riêng, giữa tình nhà và việc nước, giữa cá nhân và cộng đồng.
SCR.VN tặng bạn 🌹 Sơ Đồ Tư Duy An Dương Vương 🌹 9 Mẫu Vẽ Tóm Tắt Hay
Phân Tích Truyện An Dương Vương Và Mị Châu Trọng Thủy – Mẫu 1
Đón đọc bài văn phân tích truyện An Dương Vương và Mị Châu Trọng Thủy hoàn chỉnh dưới đây để nắm vững cách triển khai bài viết.
Truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy là một câu chuyện dã sử hư cấu, nhằm giả thích cho việc An Dường Vương vì sao làm mất nước Âu Lạc vào tay Triệu Đà phương Bắc. Tuy câu chuyện chỉ nói rất ngắn gọn về ba nhân vật chính, nhưng tinh ý ta có thể nhận ra đây là một câu chuyện đầy bi kịch, đó là bi kịch về tình cha con, bi kịch về tình yêu vợ chồng, cuối cùng là bi kịch nước mất, nhà tan. Mà cả ba nhân vật chính đều có kết cục bi thảm, phần là để đền tội, phần âu cũng là sự giải thoát khỏi số phận và những sai lầm đã mắc phải.
Trước hết, ta nói về An Dương Vương, ông là một người tài giỏi, mưu lược, lại anh dũng, có tấm lòng yêu nước thương dân. Chính vì thế nên đã được vua Hùng thứ 18 truyền lại ngôi vua. Trong 50 năm trị vì, quốc thái dân an, ông là một vị vua tốt, nên được sự giúp đỡ của sứ Thanh Giang là Rùa Vàng, ban cho điềm lành, ban cho nỏ thần.
Nhưng có lẽ đây cũng là sự khởi đầu của việc mất nước sau này, bởi Rùa Vàng đã từng nói một câu: “Vận nước suy thịnh, xã tắc an nguy đều do mệnh trời, con người có thể tu đức mà kéo dài thời vận”. Âý là lời khuyên răn đầy sâu xa mà sứ Thanh Giang dành cho nhà vua. Tuy nhiên An Dương Vương, lại quên mất, chỉ biết đến nỏ thần kỳ diệu, đánh đuổi muôn giặc thù. Từ đó nhà vua trở nên chủ quan, không có cái lòng mưu tính, ngờ vực của một quân vương, dễ dàng gả con gái yêu của mình cho con trai kẻ thù cũ, thậm chí còn cho ở rể.
Thật sự chưa có cái dại nào hơn thế, nghĩ sâu xa hơn có lẽ cậy có nỏ thần nhà vua cũng chẳng chăm rèn luyện quân đội, để thế nước trở nên suy kiệt. Chẳng vậy mà quân Triệu Đà mới tiến đánh một trận, nhà vua đã phải bỏ chạy thoát thân về phía nam, lúc này đây điềm lành hay nỏ thần cũng thành vô nghĩa, bởi vốn dĩ đất nước đã đến hồi kết.
Chi tiết nhà vua chém chết Mị Châu, có lẽ một phần là để bắt kẻ có tội đền nợ nước, phần là do nỗi xấu hổ vì để mất nước mình nên đành trút hết tức giận lên đứa con gái khờ dại của mình. Sau đó nhà vua theo Rùa Vàng về biển Đông, có nhiều thuyết khác cho rằng nhà vua cũng đã trầm mình xuống biển để đền nợ nước, chứ không phải là cầu cứu Rùa Vàng. Thiết nghĩ chi tiết này phù hợp hơn cả, bởi thật sự nhà vua có trách nhiệm rất lớn trong việc làm mất nước.
Còn về Mị Châu, nàng bị xem là tội đồ, là nguyên nhân chính dẫn tới bi kịch mất nước. Quả thực đúng vậy, nếu như nàng không cả tin, cho Trọng Thủy mượn nỏ thần, để Trọng Thủy đánh cắp thì có lẽ cũng không thành cớ sự như vậy. Sai lầm lớn nhất của của Mị Châu là nàng chỉ làm đúng vai trò của người vợ tốt, hết lòng tin tưởng chồng, yêu thương chồng, nhưng nàng lại quên mất nàng còn là một công chúa, trên vai nàng còn có trách nhiệm với dân tộc, với đất nước.
Một người phụ nữ thường sống trong cảnh lầu son gác tía, nên ngây thơ, không trải đời, đứng trước bi kịch mất nước, bị cha toan giết, bị chồng phản bội, rơi vào cảnh mất nước nhà tan. Chắc phải đau đớn và hối hận lắm, nếu không bị cha giết có lẽ nàng cũng tự quyên sinh để rửa mối nhục thù. Chi tiết ngọc trai giếng nước, âu cũng là niềm an ủi cho vong hồn, cho tấm lòng trong sáng, oan khuất của Mị Châu, người con gái vừa đáng thương lại cũng đáng trách.
Cuối cùng là nhân vật Trọng Thủy, truyện không đề cập nhiều về hắn, nhưng Trọng Thủy quả là người không từ thủ đoạn, sẵn sàng kết hôn vì mục đích chính trị, ăn cắp nỏ thần. Hành động của Trọng Thủy đối với nước hắn đó là hy sinh vì việc lớn, đối với với nhân dân Âu Lạc, đối với Mị Châu là sự vô sỉ, tàn nhẫn cùng cực, không đáng mặt đấng nam nhi. Thử hỏi có hay ho gì khi đi lừa một người phụ nữ yếu đuối, lại tin yêu mình hết mực?
Chi tiết cuối truyện, Trọng Thủy tự tử ở giếng Mị Châu thường tắm, đó là biểu hiện của sự ân hận, của sự hổ thẹn khôn nguôi về những chuyện trái lương tâm mà hắn làm, hắn phải đền tội. Có người thắc mắc, Trọng Thủy có tình cảm với Mị Châu hay không, câu trả lời chắc là có, nhưng so với người con gái ấy, hắn lại càng yêu quyền lực hơn cả.
Khi Mị Châu chết, Trọng Thủy có hối hận cũng muộn, hắn mãi mãi bị ám ảnh bởi hình bóng Mị Châu, chỉ cái chết mới làm hắn được giải thoát khỏi đau khổ ấy. Trọng Thủy chết, nước giếng đem rửa ngọc trai mò ở biển nơi Mị Châu chết, thì ngọc sáng và đẹp hơn. Đây là một chi tiết thể hiện việc Trọng Thủy đang ngàn năm phải rửa nỗi oan khuất cho Mị Châu.
Truyền thuyết đem lại cho người đọc một câu chuyện lịch sử, lại xen vào những chi tiết hư cấu nhằm tăng sức hấp dẫn cho truyện, đồng thời là lời giải thích cho những bi kịch xảy ra. Các nhân vật trong truyện đều có chỗ đáng trách lại cũng có chỗ đáng thương, âu thì đây cũng là số mệnh cả. Bài học rút ra từ câu chuyện này là lời cảnh tỉnh đến từng người, trong lối ứng xử với người thân, gia đình, chồng vợ, trách nhiệm với đất nước.
Chúng ta phải biết cân nhắc đến những lợi hại trong hành vi của mình, bởi mỗi một thay đổi đều đem đến những kết cục khác nhau. Người ta thường cảm thán nếu như An Dương Vương không cậy vào nỏ thần, không gả Mị Châu cho Trọng Thủy, nếu như Mị Châu không cả tin cho Trọng Thủy xem nỏ,… Thế nhưng nếu như mãi chỉ là nếu như, bởi sai một li đi một dặm, không bao giờ còn có thể cứu vãn được nữa.
Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất
Phân Tích Truyện An Dương Vương Hay Nhất – Mẫu 2
Tham khảo bài văn mẫu phân tích truyện An Dương Vương hay nhất được chọn lọc và chia sẻ dưới đây dành cho các em học sinh.
“Em hóa đá ở trong truyền thuyết
Để bao cô gái như em không phải hóa đá trên đời”
-Trần Đăng Khoa-
“Tôi kể người nghe chuyện Mị Châu
Trái tim lầm chỗ để lên đầu
Nỏ thần vô ý trao tay giặc
Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu”
-Tố Hữu-
Những vần thơ trên chính là minh chứng cho sự nổi tiếng của truyền thuyết An Dương Vương Mị Châu Trọng Thủy, một truyền thuyết gắn liền với lịch sử dân tộc và có ảnh hưởng sâu rộng trong nền văn hóa của nước nhà, đi vào các tác phẩm thơ ca, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc biết bao nhiêu thế hệ.
An Dương Vương Mị Châu Trọng Thủy không chỉ đơn thuần là một câu chuyện nói về biến cố cuộc đời của ba nhân vật chính, mà ẩn đằng sau nó là những bài học vô cùng sâu sắc về đạo làm vua, làm con, làm vợ, làm chồng và làm con dân của một quốc gia.
Đó là những bài học ứng xử trong cuộc sống, sự lựa chọn đúng đắn giữa tình thân, tình yêu, và an nguy của quốc gia mà cho đến tận ngày hôm nay nó vẫn mang trọn ý nghĩa thuở ban đầu. Dẫu rằng kết cục là bi thương nhưng có lẽ đó chính là cái giá phải trả cho sự lựa chọn, ứng xử sai lầm của các nhân vật chính, để lại trong lòng độc giả nhiều suy nghĩ trăn trở.
Truyền thuyết An Dương Vương, Mị Châu – Trọng Thủy gắn liền với quần thể di tích tại làng Cổ Loa huyện Đông Anh, ngoại thành Hà Nội. Truyền thuyết xuất xứ với tên Truyện Rùa Vàng nằm trong tập Lĩnh Nam chích quái được sưu tầm vào khoảng cuối thế kỷ XV.
Trước hết là nói về nhân vật An Dương Vương là người mở đầu cho cả truyền thuyết với hai giai đoạn cuộc đời, và dường như đâu đó ta cũng cảm nhận được ở hai đoạn đời này An Dương Vương lại hiện lên như hai con người khác nhau. Từ một con người anh minh sáng suốt gắn với công cuộc dựng nước và giữ nước oai hùng, thì ở đoạn đời thứ hai ông lại trở thành một người chủ quan, mất cảnh giác, khinh địch nên dẫn tới bi kịch nước mất nhà tan, tình thân đứt đoạn.
An Dương Vương là người có công lớn trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Với một số sự kiện tiêu biểu như: Dời đô từ vùng núi Nghĩa Lĩnh về vùng đồng bằng Cổ Loa, đây được xem là một quyết định sáng suốt, khi đất nước đã trải qua thời giữ nước đầy gian lao, nay đã bước sang giai đoạn phát triển kinh tế, văn hóa, chính trị, chính vì vậy vùng đồng bằng giao thông thuận lợi như Cổ Loa chính là một lựa chọn đúng đắn cho việc dời đô.
Sau khi dời đô về đồng bằng thì với đôi mắt nhìn xa trông rộng của một quân vương, An Dương Vương đã rất kỹ lưỡng trong công việc xây thành Cổ Loa một cách kiên cố theo hình xoắn ốc, để kinh đô được bảo vệ bởi nhiều vòng thành, phòng khi có giặc ngoại xâm. Không chỉ xây dựng thành trì kiên cố mà An Dương Vương còn chuẩn bị đầy đủ vũ khí để đề phòng giặc ngoại xâm, không còn là các loại vũ khí đánh giáp lá cà mà là loại vũ khí đánh xa, tiêu diệt quân địch khi chúng chưa kịp bước đến đến chân thành trì, nhằm các yếu tố nguy cơ.
Tiêu biểu cho loại vũ khí này chính là nỏ thần, cũng là đại diện cho các loại nỏ và cung tên với lực sát thương mạnh mẽ, từ xa, điều này đã thể hiện sự thông minh, tài thao lược của một đấng quân vương. Với tất cả sự anh minh, sáng suốt của mình thì kết quả mà An Dương Vương nhận được ấy là chiến thắng vang dội trong cuộc xâm lược của Triệu Đà lần thứ nhất.
Từ những nhận định trên có thể thấy rằng An Dương Vương trong giai đoạn thứ nhất của cuộc đời là người tài giỏi, mang tầm vóc của một vị đế vương tài ba, lý tưởng, có tinh thần cảnh giác cao độ và ý chí quyết tâm đánh giặc. Bên cạnh đó sự trợ giúp của thần linh (Rùa Vàng) chính là minh chứng cho tính chất chính nghĩa của các công việc mà An Dương Vương thực hiện bao gồm việc dời đô, xây thành, chuẩn bị vũ khí chống giặc ngoại xâm.
Bước sang giai đoạn thứ hai của cuộc đời An Dương Vương, cũng tức là khi đất nước vừa chiến thắng lần xâm lược đầu tiên của Triệu Đà, đất nước bắt đầu bước vào giai đoạn ổn định để phát triển, thì ở vị vua này bắt đầu có những biểu hiện của sự mất cảnh giác, buông lỏng tinh thần cuối cùng dẫn tới bi kịch mất nước.
Nguyên nhân chính đến từ việc An Dương Vương mất cảnh giác, mơ hồ trước âm mưu của kẻ thù. Khi Triệu Đà cầu hòa với mục đích trì hoãn để tìm hiểu tình hình thì An Dương Vương lại không hề nhận ra mưu sâu kế hiểm của giặc mà dễ dàng nhận lời không hề có sự đề phòng chuẩn bị. Sai lầm thứ hai cũng là sai lầm đặc biệt nghiêm trọng của nhà vua ấy là chấp nhận cả lời cầu thân của Triệu Đà, gả con gái yêu của mình cho con trai của giặc, chẳng khác nào giao trứng cho ác.
Sai lầm thứ nhất kéo theo sai lầm thứ 2, chính là cho Trọng Thủy sang ở rể theo tục lệ của nước Thục ta, chẳng khác nào đang cõng rắn cắn gà nhà cả, để con trai của kẻ thù làm nội gián ở ngay trong nhà mình mà không mảy may suy nghĩ. Bi kịch mất nước không chỉ nằm ở sự mất cảnh giác mà còn nằm ở sự chủ quan của nhà vua, dễ dàng cho Trọng Thủy về nước thăm cha mà không hề nghi ngờ.
Đặc biệt là đến khi Trọng Thủy trở kéo quân sang âm mưu xâm lược lần thứ hai, giặc đã đến gần sát chân thành rồi nhưng An Dương Vương vẫn bình chân như vại, không hề mảy may chuẩn bị chống giặc, cậy cả vào việc mình đã có nỏ thần lợi hại với sức mạnh vạn năng.
Từ những dẫn chứng trên ta có thể thấy rõ một điều rằng An Dương Vương đã đánh mất sự anh minh, sáng suốt đáng quý nhất của mình, sở dĩ có điều đó bởi trước đây bên cạnh nhà vua có sự xuất hiện của Rùa Vàng, vị thần đại diện cho trí tuệ, khi Rùa Vàng rời đi cũng là lúc vị thần trí tuệ ấy rời đi, cho nên An Dương Vương mới trở nên chủ quan, mất cảnh giác đến độ vậy.
Một cách lý giải khác cho sự đi xuống của nhà vua ấy là do tâm lý thông thường của con người, khi chiến thắng người ta thường dễ ngủ quên trong chiến thắng ấy, “mãn nguyện” với những gì mình có và không muốn phải suy nghĩ gì thêm, mong mọi chuyện đều trở nên dễ dàng, giống như kẻ được điểm mười, thì thường nghĩ mình đã giỏi vậy.
Cuối cùng sau tất cả những sai lầm của mình An Dương Vương đã phải đối mặt với hàng loạt bi kịch đau đớn, trước hết là bi kịch mất nước, bị kẻ thù – con rể của mình truy đuổi đến cùng đường, vô cùng thảm hại. Bi kịch thứ hai, ấy là bi kịch với tư cách cá nhân, bi kịch của một người cha trong gia đình, bị con gái đâm sau lưng mà không hề hay biết dù rằng Mị Châu không hề cố ý, rồi phải tự tay chém đầu đứa con gái ruột duy nhất của mình, để trả nợ cho nước, trừng phạt kẻ đã gây ra họa diệt quốc.
Có thể nói cùng với nỗi đau mất nước, thì nỗi đau tự tay kết liễu người thân cũng đau đớn chẳng kém gì. Kết thúc cuối cùng là bất tử hóa nhân vật An Dương Vương, thực tế là mỹ lệ hóa cái chết của ông, bởi do ông là người có công trong công cuộc dựng nước và giữ nước, dẫu rằng có sai lầm thế nhưng về phần công trạng là không thể nào phủ nhận.
Kết cục ấy cũng coi như là bù đắp cho An Dương Vương, tuy nhiên vì là người có tội với đất nước nên không thể được tiếp tục sống trên trần gian, cũng không thể có một cái kết huy hoàng như Thánh Gióng, mà chỉ có thể tiếp tục cuộc đời một cách im lặng theo ngòi bút của các tác giả dân gian.
Với nhân vật Mị Châu, nàng thuộc kiểu nhân vật phức tạp, là tội nhân của bi kịch mất nước nhưng đồng thời cũng là nạn nhân của bi kịch tình yêu, cuộc đời nàng phải chịu nhiều giằng xé và đau đớn hơn cả. Với tư cách là tội nhân làm mất nước, Mị Châu có hai tội lớn, đầu tiên là sự mất cảnh giác, mà nguyên nhân sâu xa ấy là xuất phát từ cha của nàng, nếu cha nàng không gả nàng cho Trọng Thủy, rồi cho Trọng Thủy ở rể có lẽ sẽ chẳng bao giờ có cớ sự đau thương.
Mị Châu là một người con gái yếu đuối, nghe theo sự sắp đặt của cha gả cho Trọng Thủy, dĩ nhiên rằng nàng cũng bị ám thị rằng chồng mình là người có thể tin tưởng, dẫn tới việc mất cảnh giác một cách nghiêm trọng. Sai lầm này chính là nguyên nhân cho sai lầm tiếp theo của Mị Châu, đó là cho Trọng Thủy xem trộm nỏ thần, được coi tội làm lộ bí mật quốc gia, vốn là cốt lõi của sự sống còn đất nước, dân tộc.
Thế nhưng chẳng biết Mị Châu là ngây thơ hay mù quáng tin vào tình yêu để nên nỗi quên mất cả bổn phận của một công dân, đặc biệt là tư cách của một công chúa có trách nhiệm bảo vệ quốc gia, dân tộc mình. Sự mất cảnh giác của Mị Châu còn tiếp tục lên một tầm cao mới khi Trọng Thủy về nước thăm cha có để lại lời dặn dò: “Tình vợ chồng không thể lãng quên, nghĩa mẹ cha không thể dứt bỏ, ta nay trở về thăm cha, nếu như đến lúc hai nước thất hòa, Bắc Nam cách biệt, ta lại tìm nàng lấy gì làm dấu?”
Nếu như là một người bình thường, chỉ cần có chút tỉnh táo thì đã có thể dễ dàng nhận ra những ẩn ý đằng sau câu nói của Trọng Thủy, thế nhưng chính vì sự tin tưởng tuyệt đối, mất cảnh giác của mình mà Mị Châu còn hồn nhiên đáp lại rằng sẽ lấy áo lông ngỗng rải đường cho Trọng Thủy tìm mình. Nàng cư nhiên nghĩ đến cả tình huống xấu nhất, thế nhưng cũng chỉ chăm chăm nghĩ cách bảo vệ hạnh phúc gia đình, chứ không hề mảy may nghĩ đến chuyện nghi ngờ, cân nhắc lợi ích quốc gia.
Tội thứ hai của Mị Châu ấy là đã không xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa việc nước và việc nhà, trong khi bản thân nàng không chỉ là một người vợ mà trên hết nàng là công chúa của một đất nước. Dẫu rằng không phải gánh trọng trách cầm đao đánh giặc nặng nề giống như cha mình, thế nhưng Mị Châu đã ngồi vị trí cao hơn người khác thì cần thiết phải có ý thức bảo vệ cơ đồ tổ tiên đã để lại cùng với cha mình.
Thế nhưng nàng vẫn xử lý theo cảm tính, vẫn chỉ chăm chăm vào tình cảm của mình với Trọng Thủy, ngay cả khi hai nước đã trở mặt thành thù, vẫn rắc áo lông ngỗng để Trọng Thủy đuổi theo tìm giết cha mình. Chính vì sự mê muội, cả tin của mình thế nên Mị Châu đã phải gánh chịu kết cục bi thảm, bị kết tội là giặc, là kẻ phản bội Tổ quốc, phản bội cha mình và cuối cùng là bị chính tay cha mình chém đầu, chịu cái chết tàn khốc và đau đớn vô cùng.
Bên cạnh tư cách là tội nhân của bi kịch mất nước thì Mị Châu còn hiện lên với tư cách là nạn nhân của bi kịch tình yêu. Ta có thể nhận thấy rõ ràng rằng, Mị Châu là một cô gái trong sáng, ngây thơ, nàng đã dành hết tất cả tình yêu tha thiết của cuộc đời mình dành tặng cho Trọng Thủy thế nhưng kết cục mà nàng nhận lại chỉ là sự lừa dối, phản bội, lợi dụng từ chồng.
Nàng bị rơi vào nghịch cảnh trái ngang ấy là khi trao đi tình yêu một cách chân thành thì lại bị lừa dối, lợi dụng, đến khi được nhận tình yêu thực sự từ Trọng Thủy, thì trong trái tim nàng lại chỉ còn biết bao nhiêu hận thù, đắng cay chồng chất. Có thể nói rằng cả đời Mị Châu chỉ mong ước một tình yêu vẹn toàn, thế nhưng tất cả chỉ là “hoa trong gương, trăng dưới nước”, thấy được mà không sờ được.
Tình yêu đặt nhầm chỗ của nàng đã biến nàng trở thành kẻ phản bội tổ quốc, trở thành tội đồ của cả dân tộc, khiến nàng phải gánh chịu tiếng xấu ngàn đời, khiến nàng phải chịu cái chết đau đớn dưới tay người cha thân yêu. Cái chết của Mị Châu chính là một kết cục hóa thân không trọn vẹn, ứng với lời khấn cầu chứng minh sự trong sạch của nàng, máu biến thành ngọc trai, còn xác thì biến thành ngọc thạch.
Điều đó thể hiện quan điểm và thái độ của dân gian đối với nhân vật, trước hết là sự thấu hiểu thông cảm, xót thương cho số phận của Mị Châu, đồng thời là sự bất tử hóa, mỹ lệ hóa cái chết của Mị Châu. mặt khác cũng thể hiện thái độ nghiêm khắc của dân gian trước sai lầm và tội lỗi của nhân vật, phải chấp nhận sự hóa thân không trọn vẹn.
Cuối cùng là nhân vật Trọng Thủy cũng là một nhân vật phức tạp hiếm có trong truyện dân gian, y bị mắc kẹt giữa tham vọng quyền lực và tình yêu, chính vì thế Trọng Thủy cũng xuất hiện với hai tư cách ấy là tội nhân và nạn nhân như Mị Châu. Có thể nói rằng Trọng Thủy chính là tội nhân trong bi kịch mất nước và bi kịch tình yêu mà Mị Châu phải gánh chịu.
Là đàn ông “Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao” thế nhưng Trọng Thủy không có được cái khí khái anh hùng, làm việc quang minh chính đại, mà lại giở trò khuất tất, cầu hôn Mị Châu, lừa dối hai cha con nàng, để lập mưu ăn cắp bí mật quốc gia. Đáng lên án nhất ấy là hành động lợi dụng tình cảm chân thành của Mị Châu để thực hiện âm mưu của mình, nhẫn tâm chà đạp lên thứ tình yêu cao đẹp ấy một cách không thương tiếc.
Dẫn tới việc đẩy người vợ kết tóc, đã có đến mấy năm chung sống mặn nồng vào cảnh nước mất nhà tan, chịu nỗi oan thiên cổ, cùng với sự tuyệt vọng và cái chết đau đớn. Phải nói rằng tham vọng quyền lực đã khiến Trọng Thủy không từ bất kỳ thủ đoạn hèn hạ nào kể cả việc lợi dụng người phụ nữ chân yếu tay mềm, lại hết lòng tin tưởng mình.
Trước những tội lỗi, trước sự tàn nhẫn của bản thân Trọng Thủy đã phải chịu kết cục tự kết liễu đời mình, hình ảnh nước giếng nơi Trọng Thủy tự tử nếu lấy làm nước rửa ngọc trai, thì ngọc trở nên sáng đẹp hơn, ấy chính là biểu trưng cho cái chết đền tội của Trọng Thủy đã góp phần minh oan cho Mị Châu.
Hoặc cũng có lẽ là một ẩn ý nói về việc Mị Châu đã phần nào nguôi ngoai mối hận dưới cửu tuyền, hoặc tượng trưng cho tình yêu đầy ngang trái của họ cuối cùng cũng thoát khỏi những thứ như lợi ích quốc gia, bổn phận nghĩa vụ của một công chúa, hoàng tử,… Bên cạnh tư cách là một tội nhân thì Trọng Thủy cũng là một nạn nhân của bi kịch tình yêu, khi bị mắc kẹt giữa tham vọng quyền lực và tình yêu.
Trọng Thủy không chỉ là con trai của Triệu Đà, mà còn là một bề tôi trung thành, là một hoàng tử có nghĩa vụ duy trì sự hưng thịnh của đất nước, làm trong sứ mệnh được giao mà ở đây lại là sứ mệnh gián điệp. Y yêu Mị Châu là có thật bởi tình nghĩa vợ chồng chung sống bao lâu đâu phải dễ dàng từ bỏ, đặc biệt đứng trước tình cảm chân thành, tha thiết của Mị Châu thì Trọng Thủy lại càng mềm lòng.
Thế nhưng việc đại sự thì vẫn phải hoàn thành mà bản thân y cũng không muốn từ bỏ tình yêu của mình, chính vì vậy mới có lời dặn dò nếu như Nam – Bắc phân li. Trọng Thủy vẫn hy vọng về một mái ấm với Mị Châu, thế nhưng rất tiếc tình yêu của hai người chẳng bao giờ có thể vượt qua được lợi ích của quốc gia, kết cục chỉ có thể là thù hận, là bi kịch.
Sau khi kết thúc sứ mệnh của mình, trong mắt Trọng Thủy có lẽ chỉ còn tình yêu, cái chết của Mị Châu đã làm y đau đớn khôn xiết, thế nên cái chết chính là để tạ lỗi với nàng, đồng thời có lẽ cũng là một con đường mà Trọng Thủy nghĩ ra để sum họp với Mị Châu ở dưới cửu tuyền chăng?
Chung quy lại cả Mị Châu và Trọng Thủy đều đáng trách mà cũng đáng thương, sự trẻ trung đã khiến họ có nhiều mong ước về tình yêu, thế nhưng lợi ích quốc gia dân tộc vốn là bổn phận của mỗi con người, ngay từ đầu đã định rằng họ là người của hai chiến tuyến khác biệt, chỉ tại cái duyên ngang trái thế nên cuộc đời họ mới rơi vào bi kịch chồng chéo và phức tạp đến tử biệt sinh ly.
An Dương Vương, Mị Châu – Trọng Thủy là một truyền thuyết có ý nghĩa sâu sắc khi đề cập đến các cách ứng xử trong mối quan hệ giữa công dân với Tổ quốc, mối quan hệ cha con, vợ chồng, quân thần,… Từ đó đưa ra những bài học đáng giá dành cho hậu thế về cách xử lý giữa tình cảm cá nhân và lợi ích dân tộc, con người ta cần phải lý trí khi đứng trước an nguy của Tổ quốc, phải đặt cái lợi ích chung của đất nước lên trên tình cảm cá nhân, bằng không nếu cứ sống theo cảm tính thì chính là đại hận thiên thu.
Thêm vào đó truyền thuyết còn răn dạy con người chớ ngủ quên trên chiến thắng, dù là trong việc trị quốc, bình thiên hạ hay trong đời sống thường ngày, bởi đó chính là vực sâu vạn trượng, bước nhầm một bước thì không có ngày mai.
Khám phá thêm 💕 Mở Bài Phân Tích Nhân Vật An Dương Vương 💕 20 Mẫu Phân Tích Truyện Hay
Phân Tích Truyện An Dương Vương Ngắn Gọn – Mẫu 3
Bài văn phân tích truyện An Dương Vương ngắn gọn dưới đây sẽ giúp các em học sinh tham khảo cách hành văn súc tích và giàu ý nghĩa diễn đạt.
Truyện An Dương Vương-Mị Châu, Trọng Thủy là một trong những truyền thuyết vô cùng tiêu biểu và để lại những giá trị sâu sắc. Qua câu chuyện giữ nước của An Dương Vương và chuyện tình yêu đời thường của Mị Châu và Trọng Thủy, tác giả dân gian đã nâng lên thành những tư tưởng lớn lao, những bài học về cách ứng xử trong đời sống, trong các mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng, giữa tình riêng và lý chung.
Vua An Dương Vương vốn là một vị vua anh minh và yêu nước. Ông đã dồn hết sức lực và tâm trí nhằm xây dựng kinh thành vững chắc, mong muốn đất nước được vững bền, nhân dân ấm no. Nhưng dù đã cố gắng mà thành xây mấy cũng đổ, nhờ sự trợ giúp của sứ Thanh Giang mà chỉ sau nửa tháng thì thành xây xong. Thành Cổ Loa được xây dựng nên là nhờ hợp lòng người, thuận ý trời, quyết định xây thành của An Dương Vương là vô cùng đúng đắn và cho thấy được sự nhìn xa trông rộng của một nhà quân sự lỗi lạc.
Rùa Vàng giúp đỡ tạo ra Nỏ thần, là vũ khí lợi hại bảo vệ đất nước tránh khỏi những tai hoạ của giặc ngoại xâm. Bởi vậy khi Triệu Đà đem quân xâm lược, chúng cũng bị bại trận bởi sự thần kỳ của một báu vật mà chỉ có duy nhất ở nước nhà Âu Lạc. Những kẻ bại trận luôn là những kẻ ôm mối tức và lòng hận thù lớn.
Một thời gian sau ngày chiến bại, hắn âm mưu lợi dụng chuyện cầu hôn mà chiếm đoạt nỏ thần. Trọng Thủy- con trai Triệu Đà trở thành rể vua An Dương Vương, cũng là rể của muôn dân Âu Lạc, chính từ đây mà bị kịch xảy ra, nước mất, nhà tan, người chiến thắng trở thành kẻ bại trận, dẫu đau đớn, dẫu xót xa vẫn không thể ngừng khóc cho mối tình đẹp mà oan trái, cho một vị vua anh minh vẫn không tránh khỏi những phút giây chủ quan, khinh địch.
Một câu chuyện buồn mang những tâm tình mà nhân dân gửi gắm. Trước hết, Mị Châu và Trọng Thủy vốn là con dân của hai nước đối địch, vì kế hoà hoãn của địch mà thành vợ thành chồng. Khi đến với Mị Châu, Trọng Thủy đã nuôi âm mưu đoạt lấy nỏ thần, tình yêu lúc này mang sự tính toán vô cùng lớn. Mị Châu vốn hiền lành, lại là người yêu chồng hết mực, tin tưởng chồng mình là một lẽ tự nhiên, người đầu ấp tay kề với nhau vốn phải dành lòng tin cho nhau là điều bình thường.
Nhưng cái không bình thường ở đây chính là Trọng Thủy là con của một kẻ đã từng sang xâm lược, tuyên chiến với đất nước mình, một bảo vật giữ nước mà nàng có thể đưa cho Trọng Thủy xem không mảy may nghĩ ngợi hay bàn bạc với vua cha, quần thần là điều đáng trách.
Khi bị mất nước phải chạy trốn cùng vua cha, nàng cũng không hề nghĩ tai hoạ ập đến lúc này là vì chồng mình, vẫn rải những lông ngỗng trên đường chạy trốn dẫn đến bị giặc đuổi đến cùng không lối thoát lại là điều đáng trách thứ hai. Suy cho cùng, giữa tình và lý thì Mị Châu vừa đáng trách vừa đáng thương, vì lòng chung thủy và tin yêu quá lớn cho Trọng Thủy mà mất nước, cái chết của nàng dưới thanh kiếm của cha khiến người đọc không khỏi xót xa, nghẹn ngào nhưng cũng là lẽ hợp lý.
Thứ hai, vua An Dương Vương là người có kinh nghiệm chinh chiến và đủ tài năng, cảm quan để hiểu rõ địch ta. Nhưng rồi cũng vì chủ quan, vì cậy trong tay có nỏ thần mà yên vị khinh địch là sai. Nước Âu Lạc mất có lỗi rất lớn từ ông. Vô tình, vua đã nuôi kẻ thù ngày trong nhà mình mà không hề hay biết, khi giặc đến ông cũng ung dung, điềm nhiên mà chơi cờ, sự mất cảnh giác này gây đến những hậu quả vô cùng tai hại.
Qua đó, nhân dân muốn gửi gắm đến mọi người lời cảnh tỉnh về ý chí chiến đấu, về tinh thần cảnh giác trước mọi kẻ thù, trong mọi mối quan hệ cần giữ lý trí sáng suốt để nhìn nhận vấn đề kĩ càng, suy tính cặn kẽ hơn. Khi nghe Rùa Vàng bảo: “Kẻ ngồi sau chính là giặc đó”, ông sẵn sàng rút kiếm chém người con gái duy nhất của mình. Đó là một hành động kiên quyết, cho thấy được An Dương Vương không vì tình riêng mà tha thứ cho kẻ có tội bởi về tình, Mị Châu là con ruột của mình, về lí nàng là kẻ mang trọng tội, với quốc gia, dân tộc.
Sau khi chết, Mị Châu biến thành ngọc trai, Trọng Thủy hoá thành những giọt nước hóa viên ngọc sáng trong, đó là minh chứng cho mối tình đẹp, cho sự bao dung là lòng nhân ái của nhân dân Âu Lạc dành cho họ.
Có thể thấy, những cuộc chiến tranh phi nghĩa đã làm cho bao gia đình tan nát, bao tiếng khóc thương khốn khổ, bi ai, bao cảnh nước mất nghẹn ngào khó tả. Bởi vậy, dù sống trong hoà bình vẫn phải nỗ lực xây dựng quân sự vững chắc, phải cảnh giác trước mọi âm mưu thù địch. Tránh những sự thờ ơ, chủ quan, quyền lợi quốc gia, dân tộc phải được đặt lên hàng đầu. Đất nước có vững bền thì nhân dân mới được sống trong hòa bình, ấm no , mỗi công dân phải ý thức được vị trí và vai trò của mình trong xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc.
Mời bạn xem nhiều hơn 🌟 Kết Bài Phân Tích Nhân Vật An Dương Vương 🌟 20 Mẫu Hay
Phân Tích Truyền Thuyết An Dương Vương Ngắn Nhất – Mẫu 4
Tham khảo bài văn phân tích truyền thuyết An Dương Vương ngắn nhất dưới đây để nhanh chóng ôn tập và chuẩn bị cho bài viết trên lớp.
Truyền thuyết Mị Châu – Trọng Thủy “Truyện An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy”, là một trong những truyền thuyết nằm trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam nói về lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Tuy nhiên đây là một truyện đặc biệt, bởi nó vừa là một câu chuyện bi kịch gia đình lại vừa là truyền thuyết bi tráng nhất, bài học và ý nghĩa của truyện còn vang vọng mãi trong lòng nhân dân và xuyên suốt các thời đại lịch sử Việt Nam.
Câu chuyện cảm động, thấm thía về tình nghĩa cha con và tình cảm vợ chồng giữa An Dương Vương, Mị Châu và Trọng Thủy được tác giả dân gian kết hợp nhuần nhuyễn giữa các yếu tố lịch sử và các yếu tố kì ảo, phản ánh bài học đắt giá về lòng tin và cảnh giác đối với kẻ thù. Vua An Dương Vương sau khi được thần Kim Quy giúp đỡ xây thành Cổ Loa xong còn tặng cho một chiếc vuốt để làm nỏ thần.
Chiếc nỏ thần đã giúp cho quân của An Dương Vương đánh thắng quân của Triệu Đà, đất nước Âu Lạc thái bình vắng bóng quân xâm lược. Tuy nhiên An Dương Vương đã không cảnh giác lại gả con gái Mị Châu cho chính con trai của Triệu Đà là Trọng Thủy, hai nước vốn là kẻ thù của nhau nay lại có chung hôn sự không thể tránh khỏi hiểm họa về sau.
Và đúng như vậy, việc xin cưới Mị Châu chẳng qua là âm mưu của Triệu Đà muốn gài gián điệp phục vụ cho dã tâm cướp nước Âu Lạc. Cha con Triệu Đà mưu sâu kế hiểm là vậy, thế nhưng An Dương Vương lại chủ quan có nỏ thần trong tay nên khinh địch, an nhàn và lơ là cảnh giác. Sai lầm này đã khiến vua An Dương Vương rơi vào cảnh nước mất nhà tan, vào bước đường cùng nhà vua mới biết con gái của mình là người đã nối giáo cho giặc xâm lược.
Chính tay vua đã phải cầm kiếm chém đầu con gái rồi kết thúc cuộc đời mình, tức giận và đau xót muôn phần nhưng đó là sự trừng phạt thích đáng và cái giá phải trả cho sự chủ quan, thiếu cảnh giác. Mị Châu vốn là một người vợ có lòng chung thủy, tình nghĩa với chồng nhưng lại thiếu sáng suốt và thiếu trách nhiệm với vận mệnh của dân tộc. Nàng đã ngu muội và tin tưởng Trọng Thủy một cách mù quáng, không chỉ tiết lộ bí mật thiên cơ về nỏ thần mà còn đưa nỏ thần cho quân giặc, chẳng khác nào là một kẻ bán nước.
Tuy nhiên chính Mị Châu cũng không ngờ Trọng Thủy lại lợi dụng lòng tin và tình yêu của nàng để thực hiện dã tâm cướp nước. Nhân dân ta biết tội của Mị Châu nhưng vì cảm động tình máu mủ cha con nên vẫn lập đền thờ cha con Mị Châu ở gần nhau, nhằm hóa giải nỗi oan và thù hận giữa cha với con.
Tình yêu và tình nghĩa vợ chồng giữa Mị Châu và Trọng Thủy là một chuyện tình đẹp gắn liền với chi tiết giếng ngọc và ngọc trai, khi Mị Châu chết, Trọng Thủy đã rất đau xót và nhớ thương nàng, bản chất của hắn là một người có tình nghĩa, coi trọng tình cảm vợ chồng với Mị Châu. Suy cho cùng Trọng Thủy cũng là vì nghĩa vụ trung quân với cha và với nước mà trở thành gián điệp, phản bội tình yêu của Mị Châu, ăn cắp nỏ thần của Âu Lạc.
Có thể ngàn đời sau nhân dân ta vẫn oán hận Trọng Thủy vì đã đánh cắp nỏ thần, cướp nước nhưng ta cũng cảm thấy thương cho hắn khi phải trở thành tay sai của Triệu Đà, phải đứng giữa nghĩa vụ Tổ quốc và tình yêu sâu đậm. Hình ảnh “ngọc trai – giếng nước” chính là biểu tượng cho tình yêu của Mị Châu – Trọng Thủy, ngọc trai tượng trưng cho tấm lòng trong sáng, ngây thơ của Mị Châu, còn giếng ngọc có hồn Trọng Thủy là tượng trưng cho sự hối hận của hắn.
Truyền thuyết “Truyện An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thuỷ” tuy có một kết thúc đầy bi kịch và đau buồn nhưng đã hóa giải được những nỗi oan, niềm oán giận và sự hối hận trong các nhân vật. Kết thúc đó vừa thể hiện được truyền thống yêu nước gắn liền tự tôn dân tộc lại vừa thể hiện sự bao dung độ lượng của nhân dân ta. Truyện đã để lại cho đời sau bài học quý giá để bảo vệ đất nước, phải biết đề cao cảnh giác trước kẻ thù, đặt cái chung của dân tộc lên trên cái riêng của cá nhân.
Chia sẻ 🌼 Cảm Nhận Về Nhân Vật An Dương Vương 🌼 14 Bài Văn Hay
Phân Tích Truyện An Dương Vương Học Sinh Giỏi – Mẫu 5
Đón đọc bài văn phân tích truyện An Dương Vương học sinh giỏi dưới đây với những ý văn phân tích chuyên sâu và đặc sắc.
Nhà thơ Tố Hữu từng viết:
Tôi kể ngày xưa chuyện Mị Châu
Trái tim nhầm chỗ để trên đầu
Nỏ thần vô ý trao tay giặc
Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu
Những câu thơ ấy của Tố Hữu đã gợi lên trong mỗi chúng ta thật nhiều suy nghĩ về truyện “An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy” – một trong số những truyền thuyết với những lời răn dạy có ý nghĩa sâu sắc và to lớn của nhân dân trong quá trình dựng nước, giữ nước và giải quyết mối quan hệ riêng chung.
Trước hết, truyền thuyết “An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy” đã tái hiện lại công cuộc xây thành, chế nỏ, chống giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước của An Dương Vương. Để tiếp tục công cuộc dựng nước và giữ nước, vua An Dương Vương đã cho xây thành ở đất Việt Thường nhưng đáng tiếc thay, công cuộc xây thành lại gặp phải thật nhiều những khó khăn, thành cứ xây cao tới đâu là lại lở ngay đến đấy. Điều đó đã khiến cho An Dương Vương không khỏi suy nghĩ, lo lắng và vì vậy, ông đã cho “lập đàn trai giới, cầu đảo bách thần”.
Dường như, cảm nhận được tấm lòng của An Dương Vương, ngày mồng bảy tháng ba có một cụ già từ phương Đông tới và được vua tiếp đón rất chu đáo, đồng thời, cụ già ấy đã nói với vua sẽ có sứ Thanh Giang tới giúp xây thành. Và quả nhiên, sau đó với sự giúp đỡ của Rùa Vàng – sứ Thanh Giang vua An Dương Vương đã có thể xây xong thành chỉ trong vòng nửa tháng. Hành động “lập đàn trai giới, cầu đảo bách thần” và sự tiếp đón niềm nở, nồng hậu của An Dương Vương xét đến cùng là biểu hiện ở tấm lòng trọng người hiền tài của ông.
Không chỉ trọng người hiền tài, An Dương Vương còn là người luôn lo lắng, suy nghĩ cho vận mệnh, tương lai của đất nước. Điều này được thể hiện rõ nét qua câu hỏi của An Dương Vương với Rùa Vàng trước lúc từ biệt Rùa Vàng về với biển cả: “Nếu nay có giặc ngoài thì lấy gì mà chống?”. Khi được Rùa Vàng cho chiếc vuốt phòng khi có giặc ngoại xâm, An Dương Vương đã sai Cao Lỗ lấy chiếc vuốt làm thành lẫy nỏ.
Và với chiếc nỏ thần này, về sau, khi Triệu Đà đưa quân sang xâm lược, quân và dân ta đã đánh thắng quân Triệu Đà, buộc chúng phải xin hòa. Chiến thắng của An Dương Vương trước quân Triệu Đà cho thấy sức mạnh quân sự cùng ý chí và tinh thần đoàn kết của nhân dân ta lúc bấy giờ. Như vậy, với những chi tiết tưởng tượng, kì ảo, truyện đã cho chúng ta thấy những công lao to lớn của An Dương Vương trong sự nghiệp xây dựng đất nước và chống giặc ngoại xâm.
Tuy nhiên, truyện không chỉ ngợi ca công lao to lớn của An Dương Vương mà nó còn cho chúng ta thấy được bi kịch nước mất nhà tan của vua An Dương Vương và bi kịch trong tình yêu của Mị Châu và Trọng Thủy. Trước hết, trong tác phẩm chúng ta thấy được bi kịch nước mất nhà tan. Sau chiến thắng trước quân Triệu Đà xâm lược, An Dương Vương đã mất cảnh giác, vô tình gả con gái của mình là Mị Châu và cho Trọng Thủy ở rể mà không nhận thấy được âm mưu của kẻ thù.
Thêm vào đó, khi quân của Triệu Đà kéo sang xâm lược, An Dương Vương vẫn cậy có nỏ thần mà điềm nhiên ngồi chơi cờ, không chút lo lắng, chuẩn bị phòng ngự và đánh trả. Và để rồi, chính thái độ chủ quan, coi thường giặc này của An Dương Vương đã khiến cho ông nhanh chóng đi đến thất bại thảm hại. Cuối cùng, khi giặc đã kéo vào, vua An Dương Vương không còn có sự lựa chọn nào khác nên đành phải đem theo con gái lên lưng ngựa và chạy về phía hướng Nam.
Nhưng thật đáng tiếc thay, khi ngồi trên lưng ngựa sau cha, Mị Châu vẫn rải áo lông ngỗng của mình làm dấu và để rồi quân giặc cứ thế đuổi theo. Đến cùng đường, không còn lối nào để chạy thoát, vua cha ngửa mặt lên trời, hét lớn, tìm sứ Thanh Giang, lúc đấy Rùa Vàng hiện lên và nói “kẻ ngồi sau lưng ngươi chính là giặc đấy’.
Câu nói của Rùa Vàng như một lời kết tội đanh thép, đó cũng là lúc An Dương Vương nhận ra mọi thứ nhưng có lẽ đã quá muộn rồi, ông rút gươm và tự tay chém chết Mị Châu – người con gái mà ông nhất mực yêu thương. Hành động rút gươm và chém chết Mị Châu của An Dương Vương cho thấy sự tỉnh ngộ muộn màng của ông, đồng thời, qua đó cũng cho thấy ông là người luôn đứng về công lí, về lẽ phải và luôn đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc lên trên hết.
Không chỉ dừng lại ở bi kịch nước mất nhà tan, trong tác phẩm tác giả dân gian còn thể hiện bi kịch trong tình yêu của Mị Châu và Trọng Thủy. Mị Châu là công chúa của một nước nhưng vì nhẹ dạ cả tin, nàng đã cưới Trọng Thủy và còn lén cho chàng xem trộm nỏ thần để rồi kết quả là bị Trọng Thủy tráo chiếc nỏ và kết quả cuối cùng là đất nước lâm vào cảnh khốn cùng.
Không chỉ nhẹ dạ, cả tin, Mị Châu vì tình yêu mù quáng với Trọng Thủy nàng đã rải lông ngỗng làm áo dọc đường cùng cha bỏ trốn, khiến quân giặc đuổi theo và hai cha con nàng không còn đường để thoát thân. Như vậy, Mị Châu vì tình yêu mù quáng và sự cả tin với Trọng Thủy đã vô tình tiếp tay cho bọn giặc và có lẽ không sai khi Rùa Vàng gọi nàng là giặc. Yêu và tin Trọng Thủy nhưng đến cuối cùng, Mị Châu lại vô tình hại cha, hại đất nước, hại nhân dân vào cảnh khốn cùng, đấy chính là bi kịch của nàng.
Không riêng gì Mị Châu, Trọng Thủy cũng là một nhân vật phải chịu bi kịch của tình yêu. Thoạt đầu, Trọng Thủy lấy Mị Châu chỉ để thực hiện ý đồ xâm lược của cha mình, để thực hiện âm mưu tráo nỏ thần về cho cha mình. Tuy nhiên, trong suốt quãng thời gian sống với Mị Châu ở Loa Thành, Trọng Thủy đã thực sự cảm mến tình yêu, sự hồn nhiên, ngây thơ của Mị Châu và yêu nàng. Nhưng giữa tham vọng lấy nỏ thần để đánh thắng nước Âu Lạc và khát vọng tình yêu không đi cùng một hướng, buộc Trọng Thủy phải lựa chọn.
Chàng chấp nhận hi sinh tình yêu vì sự nghiệp của cha nhưng đến cuối cùng khi đã giành được chiến thắng, vì yêu Mị Châu và rất nhớ thương nàng, “lúc đi tắm tưởng tượng thấy bóng của Mị Châu chàng lao đầu xuống giếng mà chết”. Như vậy, tình yêu giữa Mị Châu và Trọng Thủy là một mối tình thắm thiết nhưng đầy éo le và bi kịch, không đem đến sự vẹn tròn cho các nhân vật.
Thêm vào đó, trong phần cuối của tác phẩm, tác giả dân gian còn thể hiện thái độ, cách đánh giá của mình đối với các nhân vật được kể đến. Trước hết, thông qua hình ảnh An Dương Vương “cầm sừng tê bảy tấc, Rùa Vàng rẽ nước dẫn vua xuống biển” tác giả đã bất tử hóa cái chết của An Dương Vương, từ đó, thể hiện sự kính trọng, yêu mến và có phần tiếc thương đối với vị vua này. Đồng thời, qua tác phẩm, nhân dân cũng thể hiện thái độ, tình cảm của mình đối với công chúa Mị Châu.
Với chi tiết Mị Châu bị chính cha của mình chém chết dường như nhân dân đã lên tiếng phê phán Mị Châu vì nàng đã nhẹ dạ cả tin, nhẹ dạ cả tin mà làm lộ bí mật của dân tộc, tiếp tay cho kẻ thù thực hiện được âm mưu xâm lược của mình và bởi Mị Châu đã không thể rạch ròi, phân định được rõ ràng được mối quan hệ giữa tình nhà và nghĩa nước.
Tuy nhiên, trong tác phẩm, nhân dân còn thể hiện thái độ đồng cảm, thương cảm trước nỗi oan và sự chung thủy trong tình yêu với Kim Trọng của Mị Châu. Và có lẽ, xuất phát từ tình cảm này nên nhân dân đã sáng tạo nên chi tiết máu Mị Châu hóa thành ngọc trai, xác nàng hóa thành ngọc thạch, nước giếng rửa ngọc thì ngọc càng sáng ra như để giải bớt nỗi oan tình cho Mị Châu.
Tóm lại, với việc sử dụng hàng loạt các chi tiết tưởng tượng thần kì, độc đáo, hấp dẫn, truyền thuyết “An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy” đã nêu lên bài học sâu sắc về tinh thần cảnh giác với kẻ thù và cách để giải quyết tốt nhất mối quan hệ riêng chung. Đó là một bài học quan trọng và vẫn còn nguyên ý nghĩa cho đến ngày hôm nay.
Tham khảo trọn bộ 🌹 Phân Tích Nhân Vật An Dương Vương 🌹 15 Bài Văn Phân Tích Truyện Hay Nhất
Phân Tích Truyện An Dương Vương Nâng Cao – Mẫu 6
Bài văn mẫu phân tích truyện An Dương Vương nâng cao dưới đây sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích dành cho các em học sinh.
Thành quách còn mang tiếng Cổ Loa
Trải bao gió táp với mưa sa
Nỏ thiêng hờ hững dây oan buộc
Giếng ngọc vơi đầy hạt lệ pha
Cây cỏ vẫn cười ai bạc mệnh
Cung đình chưa sạch bụi phồn hoa
Hưng vong biết chửa, người kim cổ
Tiếng cuốc năm canh bóng nguyệt tà.
Bài thơ vang lên một truyền thuyết rất đỗi quen thuộc xuất hiện “An Dương Vương và Mị Châu Trọng Thủy”. Dân ta không ai là không biết đến truyền thuyết này. Cô công chúa Mị Nương ngốc nghếch trao nhầm niềm tin cho người chồng nội gián (Trọng Thủy).
Vua An Dương Vương chủ quan do có nỏ thần mà không phòng bị binh lính, chiếc nỏ thần bị trộm mất mà không hay biết, khi quân Triệu Đà đánh tới trở tay không kịp, kết cục nước mất nhà tan. Chàng rể Trọng Thủy chính là nội gián, kẻ trộm mất chiếc nỏ thần sau khi Mị Nương chết thì quyên sinh cùng. Trong truyền thuyết này kết cục của các nhân vật chính thật đáng thương.
Truyện xưa kể rằng, vua An Dương được thần Kim Quy giúp đỡ sau khi xây thành Cổ Loa xong đã tặng thêm cho một chiếc móng để làm lẫy nỏ thần, chiếc nỏ đó sẽ bắn trăm phát trúng cả trăm và có thể giết hàng ngàn tên địch. Triệu Đà nhăm nhe sang xâm lược nước Âu Lạc, nhưng lần nào đánh là bại lần đấy. Dân Âu lạc kể từ khi có nỏ thần không lo chiến tranh, sống trong thái bình, no ấm.
Nhưng Triệu Đà liệu có dừng lại âm mưu cướp nước Âu Lạc hay không? Là một vị vua ông muốn nhân dân của mình sống trong cảnh no ấm, không có chiến tranh, không đổ máu, muốn hai nước sống trong hòa thuận. Chính điều đó cho ta thấy ông là một vị vua nhân hậu, cũng chỉ vì nước vì dân. Mà đâu hay biết âm mưu của Triệu Đà thật thâm sâu. Biết dùng binh không được, Triệu Đà đã dùng kế điệu hổ ly sơn, sang Âu Lạc cầu xin giảng hòa và xin hỏi cưới Mị Châu con gái của An Dương Vương cho Trọng Thủy là con trai của mình.
Vua An Dương Vương cứ nghĩ rằng Triệu Đà là có thành ý và không hề nghi ngờ gì. Liền gả con gái của mình cho Trọng Thủy, từ quyết định của vua An Dương Vương đã dẫn đến câu chuyện bi thảm nước mất nhà tan. Trọng Thủy là một tên nội gián, Triệu Đà vì muốn cướp nước ta nên đã cho Trọng Thủy ở lại làm rể bên đất nước Âu Lạc để dò bí mật của An Dương Vương một ngày nào đó sẽ quay trở lại xâm chiếm Âu Lạc.
Trọng Thủy vì nghe lời cha đã trở thành một tên nội gián, tên phản bội. An Dương Vương vì không đề cao cảnh giác đã nuôi ong tay áo, Trọng Thủy chính là tên vong ơn bội nghĩa dù yêu Mị Châu nhưng mục đích hàng đầu của Trọng vẫn là giúp cha dò la bí mật của vua An Dương Vương để xâm chiếm nước Âu Lạc.
Vào một đêm trăng sáng, ngồi cùng nhau trên phiến đá trắng và nói chuyện. Trọng Thủy đã nhân cơ hội hỏi Mị Châu: “Nàng ơi! Bên Âu Lạc có bí quyết gì mà không ai đánh được? Mị Châu không hề nghi ngờ liền đáp: “Có bí quyết gì đâu chàng, Âu Lạc đã có thành cao, hào sâu, lại có nỏ thần bắn một phát chết hàng nghìn quân địch, như thế còn có kẻ nào đánh nổi được?”
Nàng không hề hay biết rằng chính câu trả lời đó của nàng đã khiến vua cha thua trận, đất nước rơi vào tay giặc. Trọng Thủy khi nghe đến nỏ thần ngạc nhiên và muốn Mị Châu dẫn đi xem. Vì tình nghĩa vợ chồng nàng lén dẫn Trọng đến nơi cất dấu nỏ thần. Nàng thật ngốc nghếch khi đã tin lời Trọng Thủy kẻ thù cướp nước:
“Tôi kể ngày xưa chuyện Mị Châu
Trái tim lầm chỗ để trên đầu
Nỏ thần vô ý trao tay giặc
Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu”
-Tố Hữu-
Nàng đã vô ý trao nước mình cho giặc, mà cũng không ngờ rằng người đầu ấp tay gối với mình mà lại có thể phản bội mình. Trọng Thủy khi biết về nỏ thần đã mau chóng, chế tạo ra một chiếc nỏ giống vậy và đánh tráo chiếc nỏ thần thật sự của vua An Dương Vương mà không hề bị nghi ngờ. Khi thực hiện thành công âm mưu của mình Trọng đã lấy lí do về thăm cha xin được về nước.
Trước khi về, chàng đã nói với Mị Châu: “Tình nghĩa vợ chồng không thể lãng quên, nghĩa cha mẹ không thể dứt bỏ. Ta nay trở về thăm cha, nếu như đến lúc hai nước thất hòa, Bắc Nam cách biệt, ta lại tìm nàng, lấy gì làm dấu?” Tình yêu làm con người trở nên mù quáng, nếu là một người thông minh đáng lẽ Mị Châu phải nghi ngờ và đặt ra dấu chấm hỏi, tại sao lại nói như vậy trong khi hai nước vẫn đang hòa thuận, tại sao lại thất hòa?
Nàng lúc nào cũng chỉ nghĩ về chuyện lứa đôi hạnh phúc, mong chờ đến ngày đoàn tụ mà đáp rằng: “Thiếp phận nữ nhi, nếu gặp cảnh biệt ly thì đau đớn khôn xiết. Thiếp có áo gấm lông ngỗng thường mặc trên mình, đi đến đâu sẽ rứt lông mà rắc ở ngã ba đường để làm dấu, như vậy có thể tìm được nhau”. Với chi tiết này ta thấy Mị Nương là một người nhu nhược chỉ biết răm rắp nghe theo lời chồng nói, về sau cũng vì chiếc áo lông ngỗng này mà chính Mị Châu đã đưa cha mình tới bước đường cùng, để dấu cho quân xâm lược biết đuổi theo cha.
Trọng Thủy mang nỏ thần về cho cha, Triệu Đà sau khi lấy được nỏ thần đã đem quân sang xâm lược Âu Lạc, khi quân địch đánh đến nơi vua An Dương Vương vẫn ung dung ngồi đánh cờ. Vẫn không hề hay biết nỏ thần đã bị Trọng tráo mất, khi mang ra bắn lỏ không có tác dụng. Vua An Dương Vương dẫn theo Mị Châu cưỡi ngựa bỏ trốn. Mị Châu khoác theo chiếc áo rồi đi cùng vua cha, nàng không quên lời Trọng đi đến đâu rắc lông ngỗng đến đó.
Đến bên bờ biển vua An Dương Vương phát hiện quân thù đuổi theo cầu cứu thần Kim Quy. Khi rùa vàng hiện lên đã chỉ rõ sự thật: “Kẻ ngồi sau lưng chính là giặc đó”, vua An Dương Vương rút gươm chém đầu Mị Châu. Trước khi chết nàng đã nói rằng: “Thiếp là phận gái, nếu có lòng phản nghịch mưu hại cha sẽ biến thành hạt cát bụi. Nếu một lòng trung hiếu mà bị người ta lừa dối khi chết đi sẽ biến thành ngọc châu để rửa sạch mối nhục thù”.
Sau khi chết xác nàng biến thành ngọc thạch, máu biến thành ngọc châu. Điều đó chính là sự cảm thông của nhân dân ta đối với nàng công chúa xinh đẹp, khờ dại tin kẻ dã tâm, vô tình đưa nước ta vào ngàn năm nô lệ. Vua An Dương Vương sau khi chém đầu con gái, rùa vàng rẽ nước đưa ông xuống biển sâu. Trọng Thủy sau khi thấy xác vợ đã ôm nàng và khóc rồi không lâu sau cũng chết bên giếng ngọc.
Ba nhân vật với ba số phận khác nhau nhưng kết cục của họ giống nhau là đều đi đến cái chết (vua An Dương Vương dù là được rùa vàng rẽ nước xuống biển sâu, thì đó cũng là cái chết). Chỉ có Triệu Đà là người thắng lớn, chính là là kẻ đứng sau tất cả.
Qua truyền thuyết “An Dương Vương và Mị Châu- Trọng Thủy” đã đem đến cho chúng ta bài học thiết thực : không được chủ quan, địch là con kiến cũng không được khinh thường sẽ chuốc lấy bại vong, trong cuộc sống nhất định phải yêu nhưng yêu là phải sáng suốt, yêu mù quáng như Mị Châu sẽ có ngày đưa vua cha đến đường cùng.
Nhân dân ta đã cảm thông cho số phận của các nhân vật đáng trách nhưng cũng thật đáng thương, căm thù và phẫn nộ Triệu Đà tên lòng lang dạ sói, âm mưu và thủ đoạn thâm độc. Truyền thuyết khác với cái kết có hậu của cổ tích, thông qua truyền thuyết đã khiến chúng ta suy ngẫm được nhiều điều. Truyền thuyết “An Dương Vương và Mị Châu- Trọng Thủy” đã nhiều thế kỉ trôi qua nhưng vẫn mãi được lưu truyền từ thế hệ này đến thế hệ sau.
Tiếp theo đón đọc 🌹 Cảm Nhận Về Nhân Vật Mị Châu 🌹 15 Bài Văn Phân Tích Truyện An Dương Vương Hay Nhất
Phân Tích Truyện An Dương Vương Đặc Sắc – Mẫu 7
Đón đọc bài văn phân tích truyện An Dương Vương đặc sắc dưới đây để trau dồi cho mình những ý văn hay và giàu hình ảnh.
Suốt chặng đường 4000 năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta có vô số những trận chiến lớn nhỏ, trải qua vô số triều đại, chứng kiến đủ mọi bi kịch khổ đau. Có những trận chiến, những triều đại đã đi vào sử sách, trở thành một trong những tác phẩm văn học nổi tiếng nhất để ngàn đời sau còn ca tụng.
Thế nhưng bên cạnh đó cũng có những trận chiến, những câu chuyện đau thương khiến cho ngàn đời sau còn đau xót. Và một trong số những câu chuyện làm tan nát trái tim về một thời dựng nước và giữ nước đầy oai hùng nhưng lại có một kết thúc bi thương đó là truyện An Dương Vương và Mị Châu- Trọng Thủy.
An Dương Vương là vua của nước Âu Lạc, là người đã đưa ra quyết định rời đô từ Phong Châu về Phong Khê, nhờ có sự giúp đỡ của rùa vàng thì xây xong thành và trước khi về ông còn được rùa vàng để lại cho một cái móng vuốt để làm lẫy Nỏ thần. Thật vậy nhờ có chiếc Nỏ thần ấy mà quân ta đã giành được chiến thắng nhiều lần trước sự xâm lăng của quân Triệu Đà. Tưởng chừng như được thần giúp đỡ, có trong tay chiếc nỏ thần là có thể giữ được hòa bình và sự phát triển phồn thịnh cho đất nước thế nhưng sự thực thì không phải như thế.
Những kẻ có dã tâm luôn muốn chà đạp lên mảnh đất của người khác thì đâu có bao giờ từ bỏ thủ đoạn của mình. Không đánh được trên chiến trường, Triệu Đà đưa con trai sang liên hôn nhưng mục đích thật sự là đánh cắp bí mật quân sự của nước ta. Tình yêu có thể cứu rỗi linh hồn con người nhưng nó cũng có thể khiến cho người ta rơi vào tận cùng của bất hạnh. Thật vậy điều đó được thể hiện rõ qua cuộc hôn nhân chính trị giữa Mị Châu và Trọng Thủy.
Triệu Đà thua trận xin cầu hòa và đã đưa con trai của mình sang cầu hôn với con gái của An Dương Vương, là một vị vua cả đời anh minh thế nhưng khi ấy An Dương Vương lại đưa ra quyết định sai lầm khi đã đồng ý cuộc hôn nhân và cho Trọng Thủy ở rể. Trong thời gian ở rể thì Trọng Thủy lợi dụng thời cơ đổi trộm mất Nỏ thần rồi mang về phương Bắc.
Không còn Nỏ thần An Dương Vương thua trận và cùng con gái chạy về Phương Nam, cuối cùng đau đớn chém chết con và đi xuống biển. Trọng Thủy mang xác vợ về chôn ở Loa Thành, xác liền biến thành ngọc thạch, không lâu sau vì quá thương tiếc Mị Châu mà Trọng Thủy đã nhảy xuống giếng tự tử, kết liễu sinh mạng của mình.
Nhắc đến truyền thuyết này thì không thể không nhắc đến An Dương Vương. Người là một vị vua anh minh, tài đức, sớm có ý thức xây dựng đất nước. Thật vậy An Dương Vương đã dời đô từ Phong Châu về Phong Khê, thế nhưng việc xây thành lại gặp nhiều trắc trở, cũng vì xây đến đâu lở đến đấy nên người ta đồn đoán rằng chuyện này do ma quỷ.
Để giải quyết khó khăn này vua đã đã lập đàn trai giới, đón tiếp cụ già ở phương xa, ra cửa Đông đón Rùa Vàng, nhờ thành tâm nên được Rùa Vàng trợ giúp xây thành, chỉ trong vòng nửa tháng đã xây xong. Không những thế An Dương Vương còn là người có tầm nhìn xa trông rộng, biết cảnh giác trước kẻ thù: “Nếu có giặc ngoài thì lấy gì mà chống?”, thấy vậy Rùa Vàng trước khi đi đã để lại cho một chiếc vuốt để làm lẫy Nỏ thần giúp đánh tan quân xâm lược.
Chiếc Nỏ thần là sức mạnh thần linh ban tặng cho nước Âu Lạc, cũng là sức mạnh của nhà nước Âu Lạc, sự đoàn kết đồng lòng quyết tâm đánh tan quân xâm lược.Thế nhưng là một vị vua anh minh không có nghĩa là sẽ không phạm phải sai lầm. Và sai lầm lớn nhất của An Dương Vương đó chính là lơ là, mất cảnh giác trước âm mưu của kẻ thù. Ông không những đồng ý cuộc liên hôn giữa hai nước mà còn đồng ý cho con trai kẻ thù ở rể.
Sự anh minh, lỗi lạc cùng sáng suốt của vị vua ngày nào vậy mà nay ông lại trở nên lầm đường lạc lối, thiếu tỉnh táo đến vậy. Hơn thế ông còn chủ quan, khinh địch, để mất thế chủ động của mình khi địch đến nhưng vẫn ung dung đánh cờ, ỷ lại vào sức mạnh của thành trì và vũ khí. Nhưng vũ nỏ thần giờ không còn, giặc đánh vào thành chỉ còn là vấn đề thời gian, thua trận An Dương Vương dẫn con gái chạy thoát về phía Nam.
Là vua nhưng An Dương Vương cũng là một người cha, hành động tuốt gươm chém chết Mị Châu ở cuối truyện thể hiện sự dứt khoát của một vị vua đã thức tỉnh sẵn sàng cắt đứt tình cha con để thực hiện nghĩa vụ cuối cùng của một vị vua.
Sau khi tự tay chém chết con gái ruột ông cầm sừng tê bảy tấc rẽ một đường xuống biển, đây là chi tiết thể hiện sự bất tử của nhà vua và sự trân trọng của nhân dân với nhà vua. An Dương Vương tuy đã để mất nước nhưng ông lại là vị vua đa tài, biết chăm lo cho đất nước và cả đời vì dân vì nước nên được người đời tôn kính và tưởng nhớ.
Nhân vật thứ hai được nhắc đến trong truyện là Mị Châu, con gái An Dương Vương. Là người thiếu nữ xinh đẹp tuyệt trần, có có đủ tài sắc thế nhưng lại có một số phận bất hạnh nhiều khổ đau. Mị Châu hết mực thủy chung và tin tưởng chồng, cũng vì vậy mà nàng dẫn Trọng Thủy đi thăm thú khắp nơi, cho xem nỏ thần và dạy cách sử dụng.
Đâu hay những lời ngon ngọt đầu môi ấy thực chất chỉ là những lời nói dối của kẻ phụ bạc đang lợi dụng tình cảm của nàng. Và sự tin tưởng ấy đã phải trả giá bằng cả mạng sống, nàng không những hại chính mình mà còn hại cả dân tộc mình.
Chi tiết ngọc trai, giếng nước mang những ý nghĩa sâu sắc. Sau khi Mị Châu chết máu chảy xuống nước khiến sò ăn phải đều hóa thành hạt châu, đó là sự giải oan, là minh chứng cho sự trung hiếu của nàng với cha, Mị Châu không hề theo giặc bán nước mà đó chỉ là sự mù quáng vô thức trong tình yêu.
Qua chi tiết ấy ta cũng thấy được thái độ cảm thông đầy nhân hậu của nhân dân ta dành cho nàng. Còn Trọng Thủy, kẻ giả tình giả nghĩa đầy mưu mô thủ đoạn ấy sau khi Mị Châu chết thì vô cùng xót thương để rồi cuối cùng kết liễu đời mình trong giếng nước. Giếng nước là tấm gương phản chiếu mọi tội lỗi của Trọng thủy, đồng thời qua đó chúng ta cũng thấy được một Trọng Thủy đang đau đớn và dằn vặt biết bao, hắn cũng là nạn nhân trong ván cờ của kẻ bạo chúa, là công cụ bị người cha của mình lợi dụng.
Truyện An Dương Vương và Mị Châu- Trọng Thủy đã thành công trong việc kết hợp giữa sự kiện lịch sử và các yếu tố kì ảo, góp phần thể hiện được thái độ của nhân dân ta đối với các nhân vật, giúp cho câu chuyện thêm sinh động và linh hoạt.
Cuộc sống luôn mang đến những điều bất ngờ không tưởng và bất hạnh luôn chầu trực phía trước để bóp nghẹt số phận con người. Và đúng như vậy, chẳng ai có thể đoán trước được điều gì, chỉ đến phút chót chúng ta mới nhận ra, đó là sai lầm, là sự cả tin hay mất cảnh giác đôi chút thôi thế nhưng đổi lại nó lại trở thành sai lầm lớn khiến thay đổi vận mệnh của cả một dân tộc.
Đúng vậy, đó cũng là sai lầm của người lãnh đạo, của một vị vua cả đời anh minh lỗi lạc nhưng lại mất một vài phút giây lầm lỡ khiến dân tộc mình tiêu vong. Và đó là kết cục đáng buồn của câu chuyện về An Dương Vương và Mị Châu- Trọng Thủy, là một câu chuyện đầy đau thương và ẩn chứa nhiều bài học ý nghĩa.
Giới thiệu cùng bạn 🍀 Phân Tích Nhân Vật Mị Châu 🍀 15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Phân Tích Câu Chuyện An Dương Vương Chi Tiết – Mẫu 8
Bài văn mẫu phân tích câu chuyện An Dương Vương chi tiết sẽ giúp các em học sinh nắm được đầy đủ các khía cạnh của tác phẩm và hoàn thành tốt bài viết.
An Dương Vương và Mị Châu Trọng Thủy được xem là một cốt truyện hay, đặc sắc và bi tráng. Nó luôn có ý nghĩa lịch sử đối với dân tộc Việt Nam ta. Truyền thuyết là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố lịch sử và yếu tố tưởng tượng hoang đường. Nó phản ánh quan niệm đánh giá thái độ tình cảm của nhân dân với các yêu tố lịch sử và các nhân vật lịch sử.
Truyện An Dương Vương Mị Châu Trọng Thủy là câu chuyện cảm động về tình cha con tình cảm vợ chồng của Mị Châu và Trọng Thủy. Từ câu chuyện đó nhân dân ta muốn nhắn nhủ với thế hệ con cháu phải đề cao cảnh giác với kẻ thù kể cả con gái.
Câu chuyện kể và con rùa vàng sau khi giúp An Dương Vương xây dựng xong Loa Thành, trước khi ra về, thần Kim Quy còn tặng cho chiếc vuốt để làm lẫy nỏ thần. Nhờ có nỏ thần, An Dương Vương đánh bại quân Triệu Đà khi chúng sang xâm lược. Triệu Đà cầu hôn Mị Châu cho Trọng Thủy, vua vô tình đồng ý. Trọng Thủy dỗ Mị Châu cho xem trộm nỏ thần rồi ngầm đổi mất lẫy thần mang về phương Bắc. Sau đó, Triệu Đà phát binh đánh Âu Lạc.
Không còn nỏ thần, An Dương Vương thua trận, cùng Mị Châu chạy về phương Nam. Thần Kim Quy hiện lên kết tội Mị Châu, vua chém chết con rồi đi xuống biển. Mị Châu chết, máu chảy xuống biển thành ngọc trai. Trọng Thủy mang xác vợ về chôn ở Loa Thành, xác liền biến thành ngọc thạch. Vì quá tiếc thương Mị Châu, Trọng Thủy lao đầu xuống giếng mà chết. Người đời sau mò được ngọc trai, rửa bằng nước giếng ấy thì ngọc trong sáng thêm.
Câu chuyện bắt đầu từ chỗ An Dương Vương được rùa vàng cho mượn nỏ thần. Ông được nhà vua giúp đỡ bởi vì ông đã có ý thức đề cao cảnh giác cho xây thành đắp lũy để bảo vệ đất nước khỏi giặc ngoại xâm. Bên cạnh đó ông còn có lo rèn luyện binh sĩ ,chuẩn bị vũ khí để bất cứ khi nào cũng có thể chống giặc.
Như vậy An Dương Vương trong những năm đầu xây dựng nước đã đạt được những thành công to lớn,đã làm được những việc trọng đại như chuyển đô từ miền núi về đồng bằng xây được thành cao hào sâu chế được nỏ thần và thành công lớn nhất là chiến thắng được Triệu Đà bảo vệ được chủ quyền của đất nước. Ta có thể phân tích những nguyên nhân dẫn đến thành công là do An Dương Vương kiên trì quyết tâm không nản chí trước khó khăn thất bại tạm thời và cũng do An Dương Vương thành tâm cầu thần tài.
Và mấu chốt của câu chuyện ở đây là do An Dương Vương được sự giúp đỡ từ thần linh (cụ rùa vàng) và ông cũng được sự giúp đỡ từ phía nhân dân. Như vậy An Dương Vương là một ông vua anh hùng là một thủ lĩnh sáng suốt của người Au Lạc có trách nhiệm và tinh thần cảnh giác cao độ .
Vì vậy nhân dân luôn tôn kính ngưỡng mộ An Dương Vương. điều đó được chứng minh ở chỗ nhân dân đã sáng tạo ra hình ảnh rùa vàng và nỏ thần tạo ra sự kì ảo thần thánh hóa bất tử hóa sự nghiệp dựng nước và giữ nước chính nghĩa hợp lòng dân của An Dương Vương. Nỏ thần là sự kì ảo hóa vũ khí tinh sảo của người Việt xưa.
Nhưng sự nghiệp dựng nước ấy không được bao lâu thì tình cảnh mất nước đã xảy ra. An Dương Vương mất nước trước hết là do ông đã lơ là cảnh giác không hiểu rõ dã tâm nham hiểm của Triệu Đà nhận lời cầu hôn của Trọng Thủy cho phép giặc ở trong cung điều này chẳng khác nào “dẫn rắn về nhà”. Chính sai lầm ấy đã đẩy ông đến những sai lầm liên tục tiếp theo ông lơ là cảnh giác chủ quan khinh địch và sớm có tư tưởng an nhàn.
Ông đã tự đánh mất mình tự mãn thiếu sáng suốt cảnh giác không hiểu bản chất nham hiểm của kẻ thù nên chuốc thất bại thảm hại. Ông thua là thua ở mưu kế hiểm độc do bị phá từ bên trong chứ không phải là do thua binh kém tướng. Cuối cùng : Nhà vua rơi vào bi kịch nước mất nhà tan .
Ông chỉ tỉnh ngộ khi thành đã mất, lâm vào bước đường cùng, phía sau lưng là giặc, phía trước mặt là biển khơi mênh mông, không lối thoát; tự tay ông phải chém đầu con gái yêu và kết thúc cuộc đời mình. Đó là hành động trừng phạt nghiêm khắc, đích đáng, đau đớn , đầy bi kịch.
Nhân vật Mị Châu trong truyện là một người phụ nữ thuận theo tình cảm vợ chồng mà quên mất nghĩa vụ với đất nước. Đây là quan niệm đúng. Ta chỉ có thể trách mị châu ở tinh tinh thần đối với vận mệnh của đất nước. Nàng đã đánh cắp nỏ thần đưa cho quân giặc mà không ngoảnh đầu lại đằng sau không để ý đến vận mệnh đất nước sẽ ra sao.
Nàng đã tiết lộ bí mật của quốc gia do vậy tội chém đầu là không oan ức gì và nàng đã trở thành kẻ bán nước. Tuy vậy nhưng nhấn dân ta vẫn lập đền thờ và thờ hai cha con ở cạnh nhau điều đó thể hiện nhân dân ta quan niệm về tình máu mủ ruột thịt rất sâu sắc dù họ đã từng trở thành kẻ thù. Đây cũng là cách làm giảm bớt nỗi oan cho hai cha con nhà vua An Dương Vương và Mị Châu.
Nhân vật Trọng Thủy trong truyện là một nhân vật có dã tâm. Tuy vậy truyện tình đẹp giữa Mị Châu và Trọng Thủy đã được nhân dân ngợi ca trong sáng và được gắn liền với chi tiết ngọc trai và giếng ngọc. Nhưng suy cho cùng cuối cùng Mỵ Nương cũng là một nhân vật bị trọng Thủy lợi dụng. Khi Mị Nương chết Trọng Thủy đã vô cùng đau xót và luôn nhớ thương nàng.
Đối với nước Âu Lạc, Trọng Thủy là lên gián điệp lợi hại kẻ đã lợi dụng tình yêu để đánh cắp bảo vật của An Dương Vương và phản bội tình yêu trong sáng ngây thơ và cũng rất thủy chung của Mị Nương. Song chi tiết Trọng Thủy thương nhớ vợ cho thấy hắn vẫn là người có tình có nghĩa. Nhân dân vừa oán giận vừa thương xót Trọng Thủy. Oán giận vì hắn là tên đánh cắp nỏ thần là kẻ thù cảu nước Âu Lạc nhưng cũng thương xót vì hắn cũng là một người có tình cảm phải đứng trước sự chọn lựa giữa nghĩa vụ và tình yêu.
Hình ảnh “ngọc trai – giếng nước” là một hình ảnh đẹp lại vừa giàu ý nghĩa. Nó là một sự kết thúc hoàn mỹ cho một mối tình. Chi tiết “ngọc trai” đã chứng thực được tấm lòng trong sáng của Mị Châu. Chi tiết “giếng nước” có hồn Trọng Thủy lại là chi tiết được dựng lên để hóa giải nỗi hối hận vô cùng và tội lỗi của nhân vật này. Hình ảnh “ngọc trai – giếng nước” với việc ngọc trai kia đem rửa trong nước giếng này lại càng sáng đẹp hơn còn nói lên rằng Trọng Thủy đã tìm được lời hóa giải trong tình cảm của Mị Châu ở thế giới bên kia.
Nhìn ở khía cạnh này Trọng Thủy lại là một kẻ si tình thật đáng thương. Phần kết truyện liên quan đến cái chết của Mị Châu thể hiện hai cái nhìn tưởng như trái ngược nhưng lại rất thống nhất của tác giả dân gian. Mị Châu bị trừng trị là một dứt khoát, rõ ràng của lịch sử. Nó xuất phát từ truyền thống yêu nước và lòng thiết tha với độc lập tự do của người Việt ta. Nhưng Mị Châu lại được “hồi sinh” (hóa thân vào ngọc và đá) bởi dân tộc ta bao giờ cũng bao dung. Kết thúc ấy thể hiện niềm cảm thông với sự trong trắng ngây thơ của nàng công chúa.
Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy, cho đến tận ngày nay vẫn chiếm được cảm tình của người đọc. Người ta đọc truyện để hiểu về lịch sử, để rút ra những bài học bổ ích cho mình và cho con cháu đời sau. Nhưng không chỉ thế, đọc truyền thuyết này, người ta còn muốn hiểu sâu sắc hơn bi kịch của một mối tình rất đẹp trong lịch sử. Sức sống của truyền thống An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy còn khơi nguồn cho những cảm hứng thi ca sau này.
Tiếp theo phân tích truyện An Dương Vương, gợi ý cho bạn 💕 Sơ Đồ Tư Duy Chiến Thắng Mtao Mxây 💕 10 Mẫu Vẽ Tóm Tắt Hay
Phân Tích Truyện An Dương Vương Trọng Thủy Mỵ Châu Ngắn Hay – Mẫu 9
Tham khảo và vận dụng những gợi ý phân tích truyện An Dương Vương Trọng Thủy Mỵ Châu ngắn hay dưới đây sẽ giúp các em học sinh đạt kết quả cao cho bài viết trên lớp.
Trong kho tàng văn học Việt Nam có rất nhiều câu chuyện ý nghĩa răn dạy ta nhiều điều trong cuộc sống. Và yếu tố kì ảo đóng góp vai trò rất lớn làm cho các tác phẩm khiến tác phẩm trở nên hay và sinh động nhất.Truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu Trọng Thủy là một tác phẩm nói về quá trình dựng nước và giữ nước của An Dương Vương chứa đựng yếu tố kì ảo đầy sự thú vị và đặc sắc.
Truyền thuyết “An Dương Vương và Mị Châu- Trọng Thủy” trích từ “Truyện Rùa Vàng” trong “ Lĩnh Nam chích quái” kể về Vua An Dương Vương xây thành nhưng nhiều lần bị đổ, nhờ có thần Kim Quy mà dựng được Loa thành và được tặng cho chiếc vuốt làm lẫy nỏ . Nhờ có nỏ thần, An Dương Vương đánh bại quân Triệu Đà xâm lược. Nhưng vì sự chủ quan khinh thường địch vua đã khiến cơ đồ đắm biển sâu.
Phần mở đầu của câu chuyện cuốn hút người đọc bởi nội dung câu chuyện hướng về chủ đề dựng nước và giữ nước. Vua An Dương Vương lại là người chăm lo việc triều chính. Từ khi bờ cõi mở rộng, vua nghĩ đến việc kinh doanh và phòng thủ đất nước. Xuất hiện là một vị vua toàn tài, luôn mang trong mình tinh thần chống giặc mạnh mẽ. Rừng núi có thuận tiện cho việc chống giặc bao nhiêu nhưng muốn phát triển nhất định phải rời đô. An Dương Vương nghĩ ngay phải có một tòa thành kiên cố thì mới giữ được giang sơn xã tắc lâu dài.
Nhưng bởi thiếu sự hiểu biết về vị trí địa lí đồng bằng ông xây thành rất khó cứ hễ xây thành lên cao quá đầu người, thì chỉ trong một đêm tự nhiên đổ sụp. Xây đi xây lại đã mươi bận, lớp dân phu này về có lớp khác đến, ấy thế mà thành vẫn không xong. Điều này khiến vua An Dương Vương lo lắng và suy nghĩ rất nhiều. Nhưng không vì thế mà vua nản lòng, ông liền sai các quan lại lập đàn rồi tự mình trai giới cầu cúng. Và sau đó đã có thần Kim Quy xuất hiện giúp đỡ chẳng mấy chốc mà thành đã xây xong chỉ trong vòng nửa tháng.
Yếu tố kì ảo xuất hiện khi Thần Kim Quy tặng một cái vuốt và cua An dương Vương đã tạo ra một chiếc nỏ nhờ cái vuốt ấy. Chi tiết kì ảo được hiểu là những điều không có thực, nó được xây dựng để tăng lên sự biểu đạt mà tác phẩm muốn thể hiện, nó hư cấu và được tạo nên để củng cố niềm tin cho con người. Nỏ thần chính là tượng trưng cho niềm tin sức mạnh của nhân dân. Sức mạnh đó có thể vượt xa cái tầm thường, tiêu diệt tất cả bè lũ xâm lược.
Triều Đà cậy có đất rộng, dân đông, lại thiện chiến, mấy lần kéo quân sang đánh, nhưng mỗi lần vượt cõi là một lần chuốc lấy thất bại. Bên này An Dương Vương sai đem nỏ thần ra bắn. Mỗi phát bắn ra, tên bay rào rào, quân Nam-việt chết như rạ. Tuy nhiều lần thất bại thảm hại, Triệu Đà vẫn nuôi âm mưu xâm chiếm nước Âu Lạc. Vì vậy, Triệu Đà mượn cớ giảng hòa, cho sứ giả sang cầu hôn Mị Châu cho con trai mình là Trọng Thủy. Mục đích đích của hắn không phải là thắt chặt tình giao hiếu giữa hai nước mà để dò xét tình hình Âu-lạc.
Bằng sự ngây thơ và thật thà Trọng Thủy đã lừa Mị Châu – con gái Vua An dương Vương để lấy nỏ thần. Bị đánh cắp nỏ thần mà không hề hay biết cũng chính sự thiếu cảnh giác chủ quan của Vua An Dương Vương.
An Dương Vương còn là sự ỷ lại vào nỏ thần mà quên mất sức mạnh dân tộc không chuẩn bị nghênh địch mà lại thản nhiên đánh cờ đến khi biết mất nỏ thần mà địch ngay trước mắt mới vội vã mang con gái lên ngựa bỏ chạy. Đây cũng chính là bài học răn dạy dân tộc ta không nên khinh địch và mất cảnh giác ,bất cứ lúc nào đất nước cũng có thể rơi vào tay địch.
Nạn nhân của chiến tranh chính là Mị Châu – Trọng Thủy. Bi kịch của mối tình éo le này mị Châu đã rắc lông ngỗng để Trọng Thủy tìm được mình nhưng không ngờ đã chuốc lấy cái chết bằng nhát chém của cha cho chính mình. Nàng đáng trách là khi không nhận ra ẩn ý rõ ràng trong lời nói ly biệt của Trọng thủy mà chỉ đợi ngày đoàn viên, giặc đuổi giết nhưng vẫn rải lông ngỗng. Đặt tình yêu lên trên vận mệnh quốc gia, Mị Châu vô cùng đáng phê phán.
Nhưng Trọng Thủy cũng thật đáng thương mất Mị Châu chàng như ngây dại và lao đầu xuống giếng mà chết .Tiếng thét “Người ở sau lưng nhà vua chính là giặc đó!” chính là sự giác ngộ thức tỉnh nhà vua. Một lần nữa tinh thần rằng cần phải nâng cao mạnh mẽ được sức mạnh và giá trị to lớn để bảo vệ nền độc lập cho nhân dân. Cái nhìn nhân hậu của nhân dân chính là lòng bao dung, thương cảm cho tình yêu lứa đôi đối mặt với những âm mưu và tương truyền máu Mỵ Châu chảy xuống nước, những con trai con hến ăn vào đều hóa thành ngọc.
Truyền thuyết “An Dương Vương và Mị Châu- Trọng Thủy” đã đẻ lại cho người đọc về bài học dựng nước, không nên chủ quan mất cảnh giác mà khinh thường địch. Yếu tố kì ảo được xây dựng nên nhằm gia tăng lên giá trị của tác phẩm và nhiều ý nghĩa của nó được biểu hiện một cách mạnh mẽ có nhiều giá trị nhất làm cho truyền thuyết trở nên đặc sắc mà hiếm có câu truyện nào được như vậy.
Ngoài phân tích truyện An Dương Vương, mời bạn xem nhiều hơn 🌹 Phân Tích Chiến Thắng Mtao Mxây 🌹 11 Bài Văn Mẫu Hay
Bài Văn Phân Tích Tác Phẩm An Dương Vương Đơn Giản – Mẫu 10
Tham khảo bài văn phân tích tác phẩm An Dương Vương đơn giản dưới đây với những ý văn ngắn gọn và cơ bản nhất.
Truyền thuyết là một thể loại truyện dân gian nhằm ghi chép những sự kiện, nhân vật liên quan đến lịch sử. Chúng ta biết đến một số truyền thuyết như “Sơn Tinh,Thủy Tinh” , “Thánh Gióng”, “Con Rồng cháu Tiên”…
Đến với truyền thuyết “An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy”, chúng ta sẽ thấy được một tinh thần chống giặc ngoại xâm của cha ông ta ngày xưa. Bên cạnh đó là bài học đắt giá về tinh thần luôn luôn cảnh giác với kẻ thù bên ngoài. Chúng ta cũng thấy được cách xử lí, hành xử đúng đắn giữa các mối quan hệ trong xã hội từ gia đình đến tình yêu cá nhân.
Trước tiên, ta thấy được công lao to lớn của An Dương Vương trong việc xây dựng Loa Thành và chế ra nỏ thần để giữ thành, giữ nước. Thục Phán đã cho xây thành ở đất Việt Thường nhưng khó khăn chồng chất khi đắp đến đâu thì lở tới đấy. Nhưng ông không nản chí, với tấm lòng của một vị vua muốn giữ nước ông quyết định lập đàn trai giới, cầu các vị thần linh. Tấm lòng của ông đã thấu cả trời xanh nên đã có một cụ già xuất hiện đúng ngày bảy tháng ba.
Cụ già này chính là nhân vật thần kì do nhân dân sáng tạo ra nhằm đề cao tinh thần xây thành giữ nước của vua Thục Phán là rất đúng đắn. Ông xây thành ắt sẽ được giúp đỡ. Quả đúng như lời cụ già đã nói, Rùa Vàng xuất hiện tự xưng là sứ Thanh Giang thông tỏ mọi việc. Rùa Vàng đã giúp cho An Dương Vương xây dựng Loa Thành. Thành là một công trình vô cùng đồ sộ và kiên cố “Thành rộng hơn ngàn trượng, xoắn như hình trôn ốc”.
Điều này cho thấy rằng, An Dương Vương đã có ý thức rất lớn phòng trừ trước nguy cơ bị giặc xâm lược. Sau khi xây thành xong, vua còn nhờ Rùa Vàng nói bí quyết để giữ thành, giữ nước. Nhờ chiếc vuốt của Rùa Vàng mà chế ra được nỏ thần gọi là “Linh quang Kim Quy thần cơ”. Có thành trì kiên cố, có nỏ thần – một vũ khí tấn công mà Rùa Vàng đã nói “Giữ vật này làm lẫy nỏ. Khi có giặc, mang ra bắn thì sẽ không lo gì nữa” mà vua An Dương Vương đã đánh đuổi quân Triệu Đà.
Nỏ thần bắn một phát chết hàng vạn tên khiến giặc thua phải khiếp sợ và xin cầu hòa. Nhưng có thực là An Dương Vương giữ nước bằng thực lực của bản thân không khi nhờ Rùa Vàng mà An Dương Vương xây dựng được thành, cũng nhờ Rùa Vàng mới chế được nỏ thần. Chính việc chiến thắng quá dễ dàng trước quân giặc đã khiến cho ông chủ quan khinh thường giặc và cuối cùng để dẫn hậu quả về sau này.
Bi kịch sau này chính là nước mất, nhà tan. Chính Triệu Đà là quân sang xâm lược nước ta, và chúng bị đánh thua ắt hẳn sẽ rất thù hằn mà nhằm cơ hội tấn công lại. Vậy mà, khi Triệu Đà cầu hôn, nhà vua đã gả con gái Mị Châu cho con trai Đà là Trọng Thủy. Lại còn để Trọng Thủy ở rể chẳng khác nào rước giặc vào nhà. An Dương Vương đã mất sự cảnh giác và tạo cơ hội cho tên gián điệp kia biết được bí mật của vũ khí chống lại giặc. Trọng Thủy đã dùng lời lẽ ngọt ngào để Mị Châu tin tưởng, nhằm lấy nỏ thần đưa cho hắn.
Nàng đâu biết rằng chính hành động đó đã làm mất nước, mất gia đình, mất cả tình yêu của mình. Đã chiếm được nỏ thần, Triệu Đà bèn xâm lược lại nhưng An Dương Vương rất chủ quan, ỷ lại có nỏ thần. Quân giặc sang xâm lược mà vua còn thản nhiên đánh cờ nói: “Đà không sợ nỏ thần sao?”. Sự chủ quan, mất cảnh giác và ỷ lại vào vũ khí của thần đã khiến cho bi kịch nước mất nhà tan là tất yếu. Đó chính là bài học đắt giá cho thái độ mất cảnh giác trước kẻ thù xâm lược.
Đến lúc vua bỏ chạy cùng con gái ra bờ biển Rùa Vàng đã hiện lên thét lớn: “Kẻ ngồi sau lưng chính là giặc”. Câu nói của Rùa Vàng chính là lời kết tội của nhân dân trước hành động của Mị Nương. Hành động đó tuy chỉ là hành động vô tình vì sự tin tưởng người chồng nhưng nhà vua đã tự tay chém đứa con gái của mình. Thật đau đớn biết bao!
Truyện còn hiện lên một bi kịch của tình yêu giữa Mị Châu -Trọng Thủy. Bi kịch tình yêu ấy cũng gắn liền bi kịch của đất nước. Mị Châu chỉ là cô công chúa trong sáng, ngây thơ, nghe lời vua cha mà lấy Trọng Thủy. Trọng Thủy vốn dĩ có yêu thương gì Mị Châu, hắn đến nước Âu Lạc chỉ để làm gián điệp và tìm cách cướp lấy nỏ thần. Mị Châu luôn giữ là một người vợ yêu chồng, thủy chung và cả sự yêu đuối của người con gái trước sự dỗ dành ngon ngọt của tên gián điệp.
Khi lấy được nỏ thần, trước khi về nước, trong lời nói của Trọng Thủy có nói rõ âm mưu nhưng Mị Châu đã không nghĩ đến mà chỉ cho rằng thể hiện lòng thủy chung của tình yêu vợ chồng. Biết mình có tội Mị Châu chấp nhận cái chết, nàng chỉ cầu mong được giải oan qua hình tượng: máu – châu ngọc.
Mị châu vừa có một tình yêu chân thật và vừa có trách nhiệm với đất nước. Nàng không cố tình để đất nước mình rơi vào tay kẻ thù. Còn với Trọng Thủy, mặc dù sau có nhảy xuống dưới tử tự khi thấy hình bóng của Mị Châu nhưng nó chỉ thể hiện sự hối lỗi với Mị Châu.
Truyền thuyết “An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy” đã để lại nhiều dấu ấn trong lòng người đọc. Nhân dân ta vừa ca ngợi công lao của An Dương Vương trong việc dựng thành bảo vệ đất nước nhưng cũng phê phán ông đã quá chủ quan để cuối cùng đất nước lại rơi vào tay giặc. Truyện cũng có một bi kịch của tình yêu giữa Mị Châu – Trọng Thủy để cho chúng ta một bài học về sự cảnh giác bởi kẻ thù có khi ngay ở bên cạnh ta.
Chia sẻ 🌼 Phân Tích Nhân Vật Đăm Săn 🌼 14 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Bài Phân Tích Truyện An Dương Vương Lớp 10 – Mẫu 11
Dưới đây là bài phân tích truyện An Dương Vương lớp 10 để các em học sinh cùng tham khảo và vận dụng trong quá trình thực hiện bài viết.
Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, nếu cổ tích có “Tấm Cám”, truyện ngụ ngôn có “Thầy bói xem voi” thì truyền thuyết có “An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy”. Đây có thể xem là câu chuyện bi kịch đầu tiên trong văn học dân tộc, nó đã lấy đi không ít nước mắt cũng như sự căm phẫn của người đọc. Tuy nhiên, cũng chính vì thế mà ta đã rút ra được bài học cho chính mình: đừng quá chủ quan, khinh thường địch mà chuốc lấy thất bại.
Truyện xưa kể rằng, vua Hùng có một người con gái đẹp tuyệt trần tên là Mị Nương. Năm đó, Thục vương sai sứ đi cầu hôn Mị Nương. Vua Hùng tính đồng ý nhưng tướng Lạc Hầu cản lại, bảo rằng Thục chỉ có mưu đồ chiếm nước ta mà thôi. Không cầu hôn được vợ, Thục vương tức lắm. Di chúc để lại cho đời sau buộc phải cướp được nước Văn Lang của vua Hùng. Con cháu vua Thục mấy lần kéo binh sang đánh mà không được. Vua Hùng thấy thế đâm ra tự mãn, chỉ lo vui chơi, không lo việc binh biến, cuối cùng phải nhảy sông tự vẫn.
Nước Văn Lang bị mất. Năm Giáp Thìn (257 trước công nguyên), Thục Phán đã đứng lên dẹp loạn, tự xưng là An Dương Vương, lập ra nước Âu Lạc. Ông đã một lòng vì nước, rất thương dân. Triệu Đà đánh thua bèn rút về nước, cầu hòa và xin An Dương Vương gả con gái Mị Châu cho con trai Đà là Trọng Thủy.
Mặc dù tướng Cao Lỗ đã hết sức can ngăn nhưng An Dương Vương vẫn mặc, lại còn bãi chức tướng Cao Lỗ. Và bi kịch cũng xuất phát từ đó. Truyền thuyết “An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy”, trích truyện “Rùa Vàng” trong “Lĩnh Nam chích quái”, đã nói lên chiến công của An Dương Vương trong việc xây thành Cổ Loa và diễn tả nỗi bi thảm của mối tình giữa Mị Châu và Trọng Thủy.
Trong buổi đầu dựng nước, An Dương Vương đã rất có công với dân tộc. Ông cho xây thành Cổ Loa với hi vọng nhân dân sẽ được ấm no hạnh phúc. Việc xây thành mãi vẫn không thành công, ông bèn cầu trời phật, giữ cho tâm mình trong sạch. Điều đó đủ để thấy tâm huyết của ông dành cho dân tộc là như thế nào. Nhờ sự giúp đỡ của sứ Thanh Giang cùng với tấm lòng yêu nước thương dân của ông, chỉ nửa tháng sau, thành đã được xây xong. Có lẽ ông đã vui mừng khôn xiết khi thấy điều đó.
Ông còn lo cho vận mệnh đất nước khi tâm sự mối băn khoăn lại bị Đà xâm chiếm với thần Kim Quy. Thần đã cho An Dương Vương một cái vuốt. Ông đã làm thành nỏ, cái nỏ ấy có thể bắn ra hàng ngàn mũi tên chỉ trong một lần bắn (nhân dân gọi là nỏ thần). Nước Âu Lạc nhờ thế nên đã được sống trong thái bình thịnh trị. Ta thấy rằng An Dương Vương quả là một vị minh quân, một người biết nhìn xa trông rộng, biết lo trước những mối lo của thiên hạ.
Nhưng cũng chính vì thế cũng đã hình thành tính tự mãn nơi ông. Khi Đà sang cầu hôn, ông đã đồng ý gả con gái mình cho con trai Đà là Trọng Thủy. Cuộc hôn nhân giữa hai nước vốn đã có hiềm khích là sự dự báo cho những mối hiểm họa về sau.
“Một đôi kẻ Việt người Tàu
Nửa phần ân ái nửa phần oán thương”
“Một đôi kẻ Việt người Tàu” lấy nhau như thế là một sự nguy hiểm khôn lường. Thế nhưng An Dương Vương không hề màng tới điều đó. Có lẽ ông chỉ mong hai nước sớm thuận hòa qua cuộc hôn nhân này và nhân dân sẽ không phải chịu cảnh khổ đau. Nhưng ông không biết được, kẻ thù dù quỳ dưới chân ta thì chúng vẫn vô cùng nguy hiểm. Ông nghĩ cho dân, nghĩ đến cái lợi trước mắt nhưng lại không nghĩ đến những điều nguy hiểm sắp đến. Vì thế, ông đã đưa cả cơ đồ “đắm biển sâu”.
Sự tự mãn là bạn đồng hành của thất bại. Có nỏ thần trong tay, An Dương Vương dường như đã nắm chắc phần thắng trong tay. Đỉnh điểm là lúc được báo Triệu Đà sang đánh chiếm thì ông “vẫn điềm nhiên ngồi đánh cờ, cười mà nói rằng: ‘Đà không sợ nỏ thần sao?'” Ông đã bước vào vết xe đổ của người xưa, để rồi lúc nguy cấp nhất, ông mới lấy nỏ thần ra bắn và biết là nỏ giả, liền dắt con gái bỏ chạy về phương Nam.
Trong lúc cấp bách, ông chỉ biết mỗi việc bỏ chạy chứ không còn cách đối kháng nào khác. Khi ra đến biển Đông, ông còn không nhận ra được đâu là giặc, ông chỉ ngửa mặt kêu “trời” mà không biết phải làm gì. Đến khi thần Rùa Vàng hiện lên và nói: “Kẻ ngồi sau lưng chính là giặc đó!” thì ông đã rút gươm chém con gái của mình. Hành động dứt khoát, không do dự ấy đã chứng minh ông là một vị minh quân. Ông đặt việc nước lên trên việc nhà, không để việc riêng làm lung lay ý chí.
Thần Rùa Vàng hay chính thái độ của nhân dân lao động đã bổ sung mọi khiếm khuyết cho ông. Khi ông không xây được thành, thần hiện lên giúp đỡ, khi ông lo cho vận mệnh đất nước, thần cũng hết sức chỉ bào ông và lúc này, khi nguy cấp nhất, thần cũng hiện lên để giúp ông.
Phải chăng đó là sự ngưỡng mộ, sự tha thứ cho một vị minh quân của nhân dân? Chi tiết “vua cầm sừng tê bảy tấc, Rùa Vàng rẽ nước dẫn vua đi xuống biển” đã chứng minh điều đó. Biển cả đã mở rộng tấm lòng đón ông về. Những con sóng trôi dạt vào bờ lại bị bật ra năm nào liệu có còn nhớ hình ảnh hai cha con tội nghiệp?
Nếu như kì tích xây thành Cổ Loa là một chiến thắng vẻ vang mang tính huyền thoại thì sự thất bại lần này của An Dương Vương mang tính hiện thực sâu sắc. Và bi kịch nước mất nhà tan ấy xuất phát từ mối tình duyên của Mị Châu và Trọng Thủy. Mị Châu là con An Dương Vương, là vợ Trọng Thủy và là con dâu của Triệu Đà. Nàng rất ngây thơ, yêu Trọng Thủy với một tình yêu trong sáng của con gái. Nàng đã trao cho Trọng Thủy tất cả trái tim mình. Mấu chốt chính là lúc nàng chỉ cho Trọng Thủy xem nỏ thần.
Nỏ thần là bí mật quốc gia, là việc đại sự, thế mà nàng lại “vô tư” đến mức đưa cho Trọng Thủy xem. Nàng u mê, ngu muội đến mức lầm lẫn giữa “tình nhi nữ” và “việc quân vương”. Còn gì đau xót hơn chăng? Nếu xét về khía cạnh một người vợ thì Mị Châu là một mẫu hình lí tưởng cho chữ “tòng” thời ấy. Nhưng không chỉ là một người vợ, Mị Châu còn là công chúa của nước Âu Lạc. Khi đã tráo được nỏ thần, Trọng Thủy biện cớ về thăm cha.
Trước khi đi, chàng nói với Mị Châu: “Tình vợ chồng không thể lãng quên, nghĩa mẹ cha không thể dứt bỏ. Ta nay trở về thăm cha, nếu như đến lúc hai nước thất hòa, Bắc Nam cách biệt, ta lại tìm nàng, lấy gì làm dấu?”. Câu nói đầy ẩn ý của Trọng Thủy thế mà Mị Châu không nhận ra. Nàng yêu Trọng Thủy đến mức còn không thèm đặt ra câu hỏi tại sao hai nước phải thất hòa, tại sao Bắc Nam phải cách biệt trong khi ta đã là “người một nhà”.
Nàng chỉ hướng về hạnh phúc lứa đôi, mong đến ngày sum họp: “Thiếp phận nữ nhi, nếu gặp cảnh biệt li thì đau đớn khôn xiết. Thiếp có áo gấm lông ngỗng thường mặc trên mình, đi đến đâu sẽ rứt lông mà rắc ở ngã ba đường để làm dấu, như vậy sẽ có thể cứu được nhau”. Câu nói của Mị Châu là lời nói của một người vợ yêu chồng tha thiết. Nhưng nàng không biết rằng hành động của nàng đã cho Triệu Đà chiến thắng vua cha, cho Trọng Thủy đuổi theo giết cha mình.
“Lông ngỗng rơi trắng đường chạy nạn
Những chiếc lông không tự biết giấu mình”
Khi bị giặc truy đuổi, Mị Châu đã mặc chiếc áo lông ngỗng trên mình. Chiếc áo hóa trang lông ngỗng là trang phục của người phụ nữ Việt xưa trong những dịp lễ hội. Thế nhưng Mị Châu lại mặc nó vào lúc nguy cấp như thế này. Điều đó cho thấy nàng đã không còn lí trí sáng suốt nữa. Mọi hành động của nàng đều bị tình cảm vợ chồng chi phối.
Trước khi bị vua cha chém đầu, nàng đã nói: “Thiếp là phận gái, nếu có lòng phản nghịch mưu hại cha, chết đi sẽ biến thành cát bụi. Nếu một lòng trung hiếu mà bị người lừa dối thì chết đi sẽ biến thành châu ngọc để rửa sạch mối nhục thù”.
Nàng đã nhận ra được chân tướng sự việc, rằng người nàng đã yêu, đã tin tưởng bấy lâu nay chỉ là kẻ lừa bịp. Cái chết của Mị Châu là sự hóa thân không trọn vẹn, xác biến thành ngọc thạch, máu biến thành châu ngọc. Điều đó cho thấy sự cảm thông của nhân dân ta với Mị Châu, một người đã “vô tình” đưa nước Việt vào một ngàn năm nô lệ.
Ba nhân vật, ba số phận, ba vai diễn đều do Triệu Đà đứng phía sau làm đạo diễn. Nhưng có lẽ, vai diễn của Trọng Thủy là khó khăn nhất. Chàng phải hóa thân thành nhiều vai, mỗi vai một tính cách khác nhau, đòi hỏi ở con người ta phải có tài năng diễn xuất kiệt xuất. Trước mặt An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy đeo chiếc mặt nạ là một người con rể, một người chồng hết sức yêu thương vợ.
Nhưng chiếc mặt nạ còn lại Trọng Thủy giấu vào trong bóng tối. Chàng diễn hay đến mức không ai có thể nhận ra. Lời chàng nói với Mị Châu khi từ biệt, những hành động âu yếm của chàng đối với Mị Châu cho ta thấy chàng là một người đàn ông mẫu mực. Thế nhưng tất cả đã hoàn toàn sụp đổ khi ta nhận ra được âm mưu của chàng. Cuối truyện, Trọng Thủy cũng không thể nào sống yên cùng với những vinh hoa phú quý mà mình chiếm được.
Tâm trạng chàng rất dằn vặt. Có lẽ trước khi thực hiện mưu đồ ấy, chàng cũng đã đấu tranh tư tưởng rất nhiều. Nhưng suy cho cùng chàng cũng là thân phận người Tàu, là con trai Triệu Đà và là nạn nhân của cuộc chiến tranh phi nghĩa. Chàng đã hết lòng trung thành với cha. Nhưng chi tiết chàng nhảy xuống giếng vì tưởng nhớ Mị Châu đã cho ta một cách nhìn khác về nhân vật này. Chàng đã gài một cái bẫy giúp cha mình, một cú lừa ngoạn mục để rồi chàng cũng chính là nạn nhân của cái bẫy ấy.
Người đời sau mò được ngọc ở biển Đông lấy nước giếng này rửa thì thấy ngọc sáng thêm. Phải chăng Mị Châu đã tha thứ cho Trọng Thủy? Nhưng tin chắc rằng nàng sẽ không ngu muội nữa, vì lời nguyền của nàng là sẽ “rửa sạch mối nhục thù” chứ không cầu mong gì thêm. Ngọc sáng đã minh chứng cho tình yêu, lòng chung thủy và sự trong sáng, vô tội của nàng.
Không như cổ tích, cái kết luôn có hậu cho mọi người. Truyền thuyết buộc ta phải suy ngẫm thật nhiều sau đó. Chúng ta phải biết đặt cái chung lên trên cái riêng, nhất là phải cảnh giác, đừng như An Dương Vương “nuôi ong tay áo, nuôi cáo trong nhà”. Và trong tình yêu phải luôn luôn sáng suốt, đừng nên lầm đường lạc lối để rồi phải trả một cái giá quá đắt như Mị Châu. Truyện vừa mang tính triết lí vừa thấm đậm ý vị nhân sinh như Tố Hữu trong “Tâm sự” đã nói:
“Vẫn còn đây pho tượng đá cụt đầu
Bởi đầu cụt nên tượng càng rất sống
Cái đầu cụt gợi nhớ dòng máu nóng
Hai ngàn năm dưới đá vẫn tuôn trào
Anh cũng như em muốn nhắc Mị Châu
Đời còn giặc xin đừng quên cảnh giác
Nhưng nhắc sao được hai ngàn năm trước
Nên em ơi ta đành tự nhắc mình”.
Mời bạn tham khảo 🌹 Sơ Đồ Tư Duy Tấm Cám 🌹 12 Mẫu Vẽ Tóm Tắt Truyện Hay
Phân Tích Truyện An Dương Vương Facebook – Mẫu 12
Chia sẻ dưới đây bài văn phân tích truyện An Dương Vương Facebook được nhiều em học sinh quan tâm tìm kiếm:
“Tôi yêu truyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa”
Câu thơ của Lâm Thị Vỹ Dạ đã cho thấy tình yêu sâu sắc của tác giả đối với những câu chuyện dân gian cổ xưa của dân tộc. Bởi vì trong mỗi câu chuyện lại chứa đựng rất nhiều những triết lý nhân sinh về cuộc đời và con người. Với tác phẩm “An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy”, dân gian đã mang đến sự xót xa về bi kịch mất nước và bi kịch tình yêu. Từ đó, rung lên trong lòng độc giả những dư âm sâu lắng.
Trong truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy, hai bi kịch đan lồng vào nhau tạo nên một cốt truyện kịch tính, gay cấn nhưng cũng không kém phần đau thương, xót xa. Cả vua An Dương Vương và công chúa Mị Châu đều rơi vào bi kịch bởi chính niềm tin mù quáng của mình. Cả hai đã lầm lỡ khi tin vào chính kẻ đã lừa mình để cướp Nỏ thần, cướp nước và phản bội lại tình nghĩa vợ chồng. Dân gian thật sâu sắc khi khắc họa những hình tượng nghệ thuật độc đáo, vừa có giá trị nghệ thuật lại vừa có giá trị nhân văn sâu sắc.
Bi kịch mất nước có nguồn gốc từ mâu thuẫn lợi ích và tham vọng giữa Triệu Đà và An Dương Vương. Với tầm nhìn chiến lược, An Dương Vương đã nhìn thấy Cổ Loa là một vùng đất trù phú, tốt tươi có địa hình bằng phẳng, rộng rãi và thuận lợi cho việc giao thương buôn bán. Bởi vậy, ông quyết định cho dời kinh đô về Cổ Loa và tiếp tục sự nghiệp kiến thiết đất nước của cha ông.
Được sự giúp đỡ của thần Kim Quy, ông đã xây dựng Loa Thành với chín vòng kiên cố, đảm bảo an toàn và vô cùng vững chãi. Đặc biệt, Rùa Vàng còn giúp An Dương Vương đánh bại kẻ thù là Triệu Đà với âm mưu xâm lược và cướp nước. Khung cảnh tươi sáng, phồn thịnh của nước Nam hiện ra vô cùng đẹp đẽ với một vị vua anh minh sáng suốt. Vậy nhưng, chưa được bao lâu, toàn thể nhân dân nói chung và vua An Dương Vương nói riêng bị rơi vào bi kịch mất nước.
Bi kịch mất nước của An Dương Vương mở đầu bằng việc Vua đồng ý lời cầu hôn của Triệu Đà, gả công chua Mị Châu cho con trai của hắn là Trọng Thủy. Triệu Đà là một tên lòng dạ tàn độc, sau khi bị bại trận trước An Dương Vương, hắn không cam lòng chịu thua trận và nhục nhã. Bởi vậy, hắn đã tìm đủ mọi cách, thương thuyết bằng bao lời ngon ngọt và thiện ý hòa hoãn để đưa Trọng Thủy đến cầu thân Mị Châu nhưng thực chất là dùng con trai làm gián điệp cho mình.
Tuy là một vị vua anh minh nhưng vì mong muốn đất nước được hoà bình mà mang tâm thế chủ quan, khinh địch, An Dương Vương đã đồng ý gả con gái cho Trọng Thủy mà không mảy may nghi ngờ. Ông hoàn toàn không hề biết, mình đã giao trứng cho ác và châm ngòi cho bi kịch mất nước.
Tin vào lựa chọn của vua cha, nàng Mị Châu xinh đẹp đã không mảy may nghi ngờ người chồng của mình. Cùng chung sống dưới một mái ấm với Trọng Thủy, nàng hết mực yêu thương người chồng của mình và luôn làm tròn bổn phận của một người vợ. Còn Trọng Thủy, hắn vẫn giữ kín bộ mặt thật giả tạo của mình mà không để cho ai phát hiện. Nhờ vậy, hắn đã tìm được cách đánh cắp Nỏ thần một cách hoàn hảo và chờ thời cơ đánh bại An Dương Vương.
Không giống như lần đầu, khi quân Triệu Đà kéo sang xâm lược lần hai, An Dương Vương vẫn bình thản chơi cờ vì nghĩ rằng không kẻ nào có thể đánh bại được Nỏ thần. Quân của Triệu Đà ngang nhiên xông vào thành vô cùng hung bạo, chúng càn quét khiến cho người dân điêu đứng. Lúc này, An Dương Vương mới đi tìm nỏ thần nhưng Nỏ thần đã không còn sử dụng được nữa. Ông đâu có ngờ nỏ thần đã bị đánh tráo từ lâu. An Dương Vương hoảng loạn vội vã đưa con gái Mị Châu đi trốn nhưng quân giặc đã ráo riết đuổi theo phía sau lưng.
Ra đến biển lớn, bị dồn vào đường cùng, An Dương Vương chỉ còn cách nhờ Rùa Vàng ngoi lên giúp đỡ. Thế nhưng, đau lòng thay, nước đã không cứu được, chính bản thân ông lại phát hiện ra bí mật động trời. Hóa ra bấy lâu nay Trọng Thủy chính là gián điệp giúp Triệu Đà có được Nỏ thần và đau lòng hơn, chính Mị Châu – con gái ông đã giúp Trọng Thuỷ lấy Nỏ thần, trên đường chạy trốn còn rải lông ngỗng khiến quân giặc tìm đến ông một cách dễ dàng.
Quá đau lòng cùng sự thức tỉnh muộn màng, An Dương Vương đã giết chết con gái mình rồi theo thần Kim Quy xuống biển. Đó là sự trả giá cho những lỗi lầm mà một vị vua đã gây ra cho dân tộc.
Truyền thuyết còn nói về bi kịch tình yêu giữa Mị Châu và Trọng Thuỷ. Mị Châu là nàng công chúa hồn nhiên, ngây thơ, được sống bao bọc trong nhung lụa và sự yêu thương, che chở của vua cha. Cuộc đời nàng bước sang một trang mới khi nghe theo lời vua cha lấy Trọng Thủy làm chồng. Trong những năm tháng chung sống dưới một mái ấm, cả hai người đã nảy sinh trong nhau tình yêu và tình nghĩa vợ chồng.
Mị Châu trải qua những tháng ngày hạnh phúc, đắm chìm trong tình yêu và cảm nhận thứ tình cảm thủy chung của một người vợ dành cho người chồng của mình. Chính vì thế, dù là con trai của kẻ thù nhưng nàng vẫn không mảy may nghi ngờ Trọng Thủy. Và có lẽ, đó chính là những ngày tháng hạnh phúc nhất của hai người.
Tuy vậy, tình yêu của Trọng Thủy dành cho Mị Châu không đơn thuần và trong trắng như nàng dành cho chàng. Nếu trước đây, Trọng Thủy cưới Mị Châu chỉ là làm theo lời căn dặn của vua cha với âm mưu làm nội gián và ăn cắp Nỏ thần thì sau này, trong chàng đã nảy sinh tình yêu với cô công chúa nước Nam. Trong lòng Trọng Thủy vô cùng mâu thuẫn giữa một bên là tình yêu và một bên là bổn phận đối với dân tộc. Và cuối cùng, chàng đã chấp nhận hi sinh tình yêu, làm tổn thương người vợ đầu ấp tay kề với mình để trả thù cho vua cha.
Trọng Thủy đã lừa dối Mị Châu để ăn cắp nỏ thần và bí mật đưa về nước. Khi chiến tranh xảy ra, mặc dù rơi vào hoàn cảnh ngàn cân treo sợi tóc nhưng Mị Châu vẫn không hề nghi ngờ người chồng của mình. Ngược lại, nàng vẫn tin tưởng, rải lông ngỗng trên đường đi trốn để mong Trọng Thủy sẽ đến cứu mình.
Nhưng chao ôi, Mị Châu quả thật đáng thương khi đặt niềm tin của mình lẫm chỗ. Đến cuối cùng, nàng mới nhận ra sự thật vì tất cả đã muộn. Tình yêu sâu nặng mà nàng dành cho chàng hóa thành nỗi đau và niềm hận thù không bao giờ nguôi cạn. Từ một đôi trai tài gái sắc bỗng trở thành bi kịch tình yêu khiến ai cũng vô cùng thương xót.
Để hóa giải cho bi kịch tình yêu và đặt ra bài học nhân sinh có ý nghĩa, dân gian đã nghĩ ra chi tiết ngọc trai – giếng nước. Trọng Thủy sau khi Mị Châu chết đã quá đau lòng nhảy xuống giếng tự vẫn. Máu Mị Châu chảy xuống biển biến thành ngọc châu, khi lấy ngọc ấy rửa với nước giếng nơi Trọng Thủy tự vẫn thì càng sáng đẹp hơn. Chi tiết này cho thấy tấm lòng của Mị Châu và Trọng Thủy, dù đã hóa kiếp nhưng tình yêu của họ vẫn còn mãi.
Bởi suy cho cùng, tình yêu không có lỗi, lỗi là ở hoàn cảnh hai người quá khác nhau mà thôi. Trọng Thủy cuối cùng cũng phải trả giá. Dù mang về lợi ích cho dân tộc nhưng chàng mãi mãi mất đi người vợ mình yêu thương nhất, cũng như tình yêu sâu nặng nhất cuộc đời. Hình ảnh ngọc trai – giếng nước qua đó cũng minh oan cho tấm lòng trong sạch của nàng Mị Châu và thể hiện sự tha thứ của dân gian đối với nàng.
Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy mặc dù mang hai bi kịch: Bi kịch mất nước và bi kịch tình yêu nhưng vẫn để lại cho độc giả những bài học nhân sinh sâu sắc về con người và cuộc đời.
Không chỉ có phân tích truyện An Dương Vương, đón đọc 🌜 Bình Giảng Tấm Cám 🌜 15 Bài Văn Ngắn Gọn Hay Nhất
Phân Tích Nhân Vật An Dương Vương Trong Truyện – Mẫu 13
Đón đọc bài văn phân tích nhân vật An Dương Vương trong truyện dưới đây sẽ mang đến cho các em học sinh những gợi ý viết bài đặc sắc.
“Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy” là một trong những truyền thuyết đặc sắc trong kho tàng lịch sử văn học nước ta về chủ đề đấu tranh giữ nước. Câu chuyện là sự sáng tạo mang đậm yếu tố thần kì của dân gian xung quanh cốt lõi lịch sử có thật về nhân vật An Dương Vương. Qua đó, chúng ta có thể thấy được An Dương Vương là vị vua có công vĩ đại trong việc xây thành đắp lũy, yêu nước thương dân nhưng vì chủ quan nên khinh địch nên khiến đất nước rơi vào tay kẻ thù.
An Dương Vương trước hết là một vị vua yêu nước thương dân, có tầm nhìn xa trông rộng, có công lớn trong việc xây thành đắp lũy. Ông xuất hiện với những sứ mệnh lịch sử mới; thống nhất đất nước về phương tiện dân tộc, lãnh thổ; xây dựng nhà nước sơ khai và chống giặc ngoại xâm. Ông là một trong những biểu tượng anh hùng của người Việt cổ.
Việc cho xây thành Cổ Loa cho thấy tầm nhìn của một nhà quân sự tài ba và tấm lòng của một ông vua lo lắng cho vận mệnh đất nước và sự bình yên của nhân dân, chứng tỏ nhà vua đã có ý thức thiết lập một nhà nước phong kiến sơ khai với kinh thành là trung tâm, điều hành, giải quyết những công việc trong đại của đất nước. Đây là một công lao to lớn vì trước đây, ở thời đại vua Hùng, nước ta chỉ mang tính chất tổ chức của những thị tộc, bộ lạc và chưa hề có thành lũy.
An Dương Vương còn là vị vua một lòng muốn xây dựng, bảo vệ đất nước và biết trọng dụng người tài. Việc xây thành gặp nhiều khó khăn nên nhà vua lo lắng và lập đàn cầu đảo bách thần. Khi có cụ già xuất hiện từ phương đông nói về việc xây thành, nhà vua mừng rỡ, tiến hành nghi thức chào đón.
Sau đó, khi Rùa Vàng xuất hiện, nhà vua dùng xe bằng vàng rước vào thành. Khi thành được xây xong và ba năm sau, Rùa Vàng từ biệt ra về, An Dương Vương lại lo lắng đến nguy cơ đất nước bị xâm lăng và hỏi Rùa Vàng cách chống lại quân thù. Câu hỏi “Nay có giặc ngoài lấy gì mà chống?” cho thấy ông là vị vua một lòng vì nước vì dân và luôn lắng lo cho vận mệnh dân tộc.
Tuy nhiên, sau đó, nhờ vào nỏ thần dễ dàng đánh lui quân xâm lược của Triệu Đà nên nhà vua trở thành người chủ quan khinh địch. Sai lầm đầu tiên gián tiếp dẫn đến việc mất nước Âu Lạc xuất phát từ việc nhà vua gả con gái là Mị Châu cho Trọng Thủy – con trai Triệu Đà và cho Trọng Thủy ở rể. Nhà vua không hề hay biết đằng sau việc cầu hôn chứa đựng âm mưu chính trị thôn tính đất nước. Sai lầm thứ nhất của ông chính là nguyên nhân dẫn đến sai lầm của Mị Châu.
Bởi sau khi trở thành vợ của Trọng Thủy, nàng nhẹ dạ cả tin đặt hết tình yêu và sự tin tưởng vào chồng mà không hề hay biết rằng mình bị lợi dụng và chỉ là một quân cờ trong bàn cờ chính trị. Sai lầm thứ hai của ông là khi Triệu Đà đem quân tấn công lần thứ hai, ông vì cậy có nỏ thần mà điềm nhiên đánh cờ, cho tới khi quân giặc tiến sát thì vua mới phát hiện ra lẫy nỏ bị đánh cắp, là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến việc mất nước. Vì cậy vào nỏ thần nên ông đã quên đi việc xây dựng quân đội và kêu gọi, đoàn kết nhân dân chống giặc ngoại xâm.
Tuy nhiên, đến cuối cùng, An Dương Vương vẫn là một vị vua đặt lợi ích quốc gia lên trên tình thân. Dù cho Mị Châu là con gái ruột duy nhất của mình nhưng trước lời buộc tội của Rùa Vàng, cho rằng Mị Châu là giặc, nhà vua đã rút gươm ra chém, thể hiện ông có lập trường dứt khoát, đứng về phía vận mệnh dân tộc. Chi tiết này thể hiện sự thức tỉnh muộn màng của nhà vua. Đồng thời cũng là cái giá mà ông phải trả cho sự chủ quan của chính mình.
Thông qua những chi tiết thần kì, nhân dân ta đã thể hiện thái độ, tình cảm và cách đánh giá đối với An Dương Vương. Trước hết đó là sự cảm phục, biết ơn, tự hào đối với vị vua đầu tiên tiến hành việc xây thành đắp lũy bảo vệ dân tộc, là minh chứng điển hình cho sự trưởng thành về mặt ý thức của thời đại An Dương Vương. Sự giúp đỡ thần kì của Rùa Vàng là ẩn dụ cho sự ủng hộ của nhân dân, đồng thời biểu trưng cho sức mạnh thần bí của dân tộc.
Và khi đất nước rơi vào tay giặc, An Dương Vương cầm sừng tê bảy tấc rẽ sóng xuống biển khơi. Nhân dân đã bất tử hóa người anh hùng để thể hiện tình cảm, thái độ đối với người anh hùng. Họ đính chính lại lịch sử theo quan điểm của mình, xây dựng người anh hùng lí tưởng, có công với dân tộc để biến họ trở thành những tấm gương tuyên truyền, giáo dục lịch sử cho các thế hệ sau.
Như vậy, nhân vật An Dương Vương hiện lên với vị thế là một người anh hùng có công lớn trong việc xây thành đắp lũy, bảo vệ đất nước nhưng cũng là vị vua vì chủ quan dẫn đến bi kịch mất nước. Thông qua việc xây dựng nhân vật cùng những chi tiết thần kì, truyền thuyết “Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy” đã để lại bài học giáo dục vô cùng sâu sắc. Đó là bài học về việc xây dựng đất nước phải đi đôi với việc bảo vệ đất nước, luôn phải nêu cao cảnh giác và đề phòng đối với kẻ thù.
Giới thiệu cùng bạn 🍀 Nghị Luận Tấm Cám 🍀 15 Bài Văn Ngắn Gọn Hay Nhất
Phân Tích Nhân Vật Mị Châu Trong Truyện An Dương Vương – Mẫu 14
Bài văn mẫu phân tích nhân vật Mị Châu trong truyện An Dương Vương dưới đây sẽ giúp các em học sinh có thêm cho mình tư liệu hay để tham khảo:
“Tôi kể ngày xưa chuyện Mị Châu
Trái tim lầm chỗ để trên đầu
Nỏ thần vô ý trao tay giặc
Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu”
(Tố Hữu)
Là người con đất Việt, chắc hẳn chẳng ai còn lạ lẫm với truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy. Đây không chỉ là câu chuyện gối đầu giường của lũ con trẻ mà còn là lời răn dạy sâu sắc, thể hiện thái độ và tình cảm của nhân dân qua từng nhân vật mà đặc biệt là nhân vật Mị Châu. Bài học lịch sử muôn đời cũng vì thế mà trở nên thấm thía hơn!
An Dương Vương là vua nước Âu Lạc, có ý định xây thành. Nhưng hễ đắp tới đâu là thành lở tới nó. Cuối cùng, nhờ sự giúp đỡ của Rùa Vàng, thành cũng được xây xong. Rùa Vàng còn tặng vua một chiếc móng vuốt để làm Nỏ thần. Nhờ nó mà vua mấy lần đánh tan quân Triệu Đà sang xâm lược. Thất bại, Đà bèn cầu hòa và cầu hôn công chúa Mị Châu cho con trai mình là Trọng Thủy. Trọng Thủy lừa lấy Nỏ thần về nước, Triệu Đà lại sang xâm lược lần nữa.
An Dương Vương vì chủ quan mà thua, đem Mị Châu chạy ra biển. Sau khi nghe Rùa Vàng bảo: “Giặc sau lưng nhà vua đó”, An Dương Vương liền hiểu ra và rút gươm đâm chết Mị Châu. Không dừng lại ở kết thúc đầy đau đớn, bi kịch ấy, bằng lòng bao dung cao cả, nhân dân ta đã sáng tạo thêm chi tiết máu Mị Châu hóa thành ngọc trai, xác thành ngọc thạch để gửi gắm những điều lớn lao.
Tình cảm của nhân dân với Mị Châu trước nay lại luôn chia hai hướng rõ ràng: giận và thương. Giận bởi nàng thân là công chúa một nước nhưng quá nhẹ dạ, thiếu cảnh giác, làm lộ bí mật quốc dạ, xem nhẹ vận mệnh dân tộc hơn tình vợ chồng. Nhân dân bày tỏ sự nghiêm khắc, công minh khi để Rùa Vàng gọi nàng là giặc và để nàng chết dưới chính lưỡi kiếm của vua cha. Với tư cách là một người con, nàng mang tội bất hiếu; Với tư cách là công chúa một nước, nàng mang tội bất trung với dân.
Mị Châu có tội nhưng tội đó cuối cùng đã được nhân dân đồng cảm, xót thương và tìm cách rửa oan cho bằng cách sáng tạo ra chi tiết kì ảo cuối cùng và ngọc trai ấy chỉ có thể sáng trong khi rửa bằng nước giếng nơi Trọng Thủy tự vẫn. Nhân dân đã phân xử tội, tình cho nàng một cách không thể công bằng và hợp lí hơn.
Đây cũng là lời răn xương máu cho thế hệ sau phải luôn biết đặt cái riêng sau cái chung, rạch ròi giữa tình cảm cá nhân và lợi ích quốc gia dân tộc. Không chỉ vì một chút vui vẻ nhất thời mã hủy đi cả một khối lợi ích của toàn dân. Đơn giản hơn, mỗi chúng ta cần biết cân nhắc việc của cá nhân và việc của tập thể, cộng đồng, xã hội. Sống trong một tập thể, cần đặt tập thể lên trên hết, không thể quá đề cao cái tôi bản thân.
Như vậy có thể thấy, từ thời xa xưa, nhân dân ta đã có nhận thức về mối quan hệ cá nhân – cộng đồng và bày tỏ thái độ của mình một cách rạch ròi, thưởng phạt công minh. Trách kẻ có tội nhưng sẵn sàng dung thứ cho người biết hối cải. Nhân dân cũng đồng thời ca ngợi, thể hiện niềm tự hào kiên định với công lao dựng nước và giữ nước của tổ tiên.
Giá trị của bài học quý báu này vẫn còn mãi đến ngày nay, là lời răn ý thức, trách nhiệm sống cho mỗi người con đất Việt thuộc dòng giống con Rồng cháu Tiên. Nàng Mị Châu tuy thể xác đã không còn nữa nhưng giếng ngọc vẫn còn đấy, như một chứng tích thiêng liêng cho một tâm hồn trong trắng mà vô tình có lỗi với non sông gấm vóc…
SCR.VN tặng bạn 💧 Cảm Nhận Về Nhân Vật Tấm 💧 15 Bài Cảm Nghỉ Hay Nhất
Phân Tích Nhân Vật Trọng Thuỷ Trong Truyện An Dương Vương – Mẫu 15
Để hoàn thành tốt bài viết phân tích nhân vật Trọng Thuỷ trong truyện An Dương Vương, các em học sinh có thể tham khảo gợi ý như sau:
Từ bao đời nay, ông cha ta luôn có những cách giáo dục con người thông qua các bài học trong quá khứ. Thông qua các câu ca dao, tục ngữ, các mẩu chuyện ngụ ngôn,.. nhiều bài học đắt giá đã được đúc kết. Truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy là một trong những bài học về việc giữ nước và tinh thần cảnh giác. Trong truyện, có một nhân vật vừa đáng thương mà cũng đáng trách vô cùng, đó là Trọng Thủy – một nhân vật khiến chúng ta phải suy ngẫm.
Trọng Thủy là một trong ba nhân vật chính của chuyện như tên của tác phẩm, nhân vật này đóng vai phản diện tạo nên mâu thuẫn của chuyện. Thủy là con trai của Triệu Đà – một tên mưu mô xảo quyệt, luôn tìm cách xâm lược Âu Lạc. Thủy chính là một con cờ cho Triệu Đà lên kế hoạch tái xâm chiếm nước ta. Biết ý đồ xấu của cha, hắn không hề ngăn cản, hắn “ngoan ngoãn” nghe theo lời sắp đặt của cha, có thể thấy rằng Thủy là một người có tâm cơ không kém cha mình.
Trọng Thủy cùng cha đã có những kế hoạch riêng. Đầu tiên, hắn sang Âu Lạc cầu hòa, kết thân với Mị Châu, rồi tiến tới muốn cầu hôn nàng. Mị Châu là người con gái mới lớn, vô cùng hồn nhiên ngây thơ, trong sáng. Nàng đã rơi vào bẫy tình của Trọng Thủy.
Được lòng Mị Châu và vua cha, hắn đã cưới nàng và ở rể tại Âu Lạc. Hắn luôn tìm cách kiếm được lòng tin của nàng, lừa nàng để biết được bí mật của vua cha. Hắn đã không mảy may do dự, nhân cơ hội đã đánh tráo chiếc nỏ thần, rồi lừa gạt Mị Châu trở về báo cho Triệu Đà, mang quân sang đánh, mưu sát An Dương Vương.
Trong mối quan hệ vợ chồng, Trọng Thủy đối xử tốt với Mị Châu tất cả là vì đã có âm mưu sẵn có, không hề từ trái tim, cho thấy hắn là một người chồng bạc tình, bạc nghĩa, đã lợi dụng tình yêu của nàng để vụ lợi cho mục đích riêng của mình.
Nhưng rồi “ác giả, ác báo”, chính Trọng Thủy đã gặp phải bi kịch không lối thoát của mình. Sau thời gian sống chung với Mị Châu, Thủy nhận ra được tình cảm sâu đậm mà vợ đã dành cho mình, nàng luôn chung thủy, tin tưởng mình. Thủy cũng nhận ra mình rất yêu vợ, hắn hối hận với những việc mình đã làm, hắn đã phụ tình với người mình yêu. Và cái chết có thể là cách tốt nhất mà hắn muốn chuộc tội với nàng. Sau cùng, Trọng Thủy cũng chính là một quân cờ của cha mình, bị xoáy vào cuộc chiến của những kẻ tham lam.
Trọng Thủy đáng bị lên án về những hành động đã gây ra, một tên có thủ đoạn hèn hạ, lợi dụng sự ngây ngô cả tin của Mị Châu để đánh cắp nỏ thần rồi gây ra sự đau khổ lầm than của toàn một dân tộc Âu Lạc. Nhưng ta cũng có phần cảm thông vì xét cho cùng hắn cũng là một quân cờ trong tay cha mình, và nhân dân ta đã vô cùng bao dung khi tạo thêm chi tiết giếng ngọc.
Qua nhân vật Trọng Thủy với những việc mà hắn đã làm, tác giả đã mang đến bài học cho thế hệ sau về sự cảnh giác cũng như kết quả của những kẻ làm việc sai trái sẽ phải trả giá đắt, sống trong tội lỗi, và đau đớn khôn nguôi.
Tham khảo trọn bộ 🌟 Phân Tích Uy Lít Xơ Trở Về 🌟 10 Bài Văn Mẫu Hay Nhất