Phân Tích Nhân Vật An Dương Vương ❤️️36+ Bài Văn Hay Nhất ✅ Tham Khảo Tại SCR.VN Tuyển Tập Những Bài Viết Đặc Sắc Được Chọn Lọc Và Chia Sẻ.
Dàn Ý Phân Tích Nhân Vật An Dương Vương
Lập dàn ý phân tích nhân vật An Dương Vương là bước rất quan trọng trong quá trình thực hiện bài viết. Dàn bài phân tích nhân vật An Dương Vương sẽ giúp các em học sinh định hướng bố cục và luận điểm cơ bản. Tham khảo mẫu phân tích nhân vật An Dương Vương dàn ý chi tiết như sau:
I. Mở bài phân tích nhân vật An Dương Vương:
Giới thiệu nhân vật cần phân tích – nhân vật An Dương Vương.
II. Thân bài phân tích nhân vật An Dương Vương:
1.Phân tích nhân vật An Dương Vương có công dựng nước và giữ nước:
a. Dời đô:
- An Dương Vương là người kế tục sự nghiệp dựng nước của các vua Hùng.
- Cho rời đô về vùng đồng bằng để ổn định cuộc sống con dân.
- Thể hiện tầm nhìn xa trông rộng, trí tuệ sáng suốt của vị vua anh minh.
b. Xây thành Cổ Loa:
- Ban đầu: nhiều khó khăn, thành đắp đến đâu lở đến đấy.
- Nhà vua cho lập đàn trai giới, nhờ thần Kim Quy giúp đỡ nên đã xây được tòa thành vững chắc trong nửa tháng.
- Thành cao hào sâu, giúp bảo vệ đất nước khỏi giặc ngoại xâm.
- Quá trình xây thành nhiều gian nan thử thách nhưng nhà vua lại không hề từ bỏ, cho thấy đức tính kiên trì, đồng thời cũng thể hiện lên trang giấy một vị vua tài năng với tầm nhìn xa trông rộng, biết quý trọng hiền tài.
- Thành xây được thần giúp đỡ cho thấy việc xây thành vừa hợp ý trời lại vừa lòng dân.
c. Chế nỏ thần:
- Nỏ thần được chế tạo theo sự giúp đỡ của thần Kim Quy trước khi từ biệt.
- Nhà vua khi thần Kim Quy từ biệt đã băn khoăn: “Nếu có giặc ngoại xâm thì lấy gì mà chống ?”, thần Kim Quy đã rút móng vuốt giúp vua làm lẫy.
- Câu hỏi cho ta thấy An Dương Vương là người biết lo xa, một vị vua luôn mang tinh thần cảnh giác cao độ trước mối nguy ngoại xâm.
d. Đánh giặc:
- Nhờ thành ốc kiên cố, có nỏ thần, tinh thần cảnh giác, nhà vua đã đánh thắng quân Triệu Đà.
- An Dương Vương trở thành tấm gương cho công cuộc dựng nước và giữ nước.
2.Phân tích nhân vật An Dương Vương và những sai lầm:
a. Nhưng sai lầm của An Dương Vương
- Bằng lòng gả con gái cho giặc, để Trọng Thủy ở rể, không nhận ra âm mưu đằng sau hành động cầu hòa của giặc.
- Ỷ vào sức mạnh của nỏ thần, vẫn điềm nhiên đánh cờ khi quân Triệu Đà tiến vào.
- Chủ quan, khinh địch, mất cảnh giác, ngủ quên trên chiến thắng và quên đi hiện tại.
b. An Dương Vương sửa sai
- Tự tay chém chết con gái Mị Châu.
- Chi tiết thể hiện sự dứt khoát của người làm vua, làm việc lớn, đặt đất nước nhân dân lên trên tình thân gia đình, tình phụ tử.
- Đồng thời còn là sự thức tỉnh muộn màng của An Dương Vương.
3.Phân tích cái chết của nhân vật An Dương Vương:
- Thần Kim Quy rẽ nước cho An Dương Vương đi xuống biển cả.
- Thể hiện sự bất tử của An Dương Vương.
- Là tấm lòng biết ơn đời đời của nhân dân với người có công lao to lớn với đất nước.
4.Đánh giá:
- An Dương Vương là vị vua vừa có công vừa có lỗi, là hình tượng lịch sử gắn liền với bài học dựng nước giữ nước và bài học mất nước.
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật: Kết hợp giữa yếu tố lịch sử và chi tiết hư cấu, tạo màu sắc huyền ảo cho câu chuyện.
- Thể hiện tấm lòng ngợi ca của nhân dân với vua An Dương Vương.
III. Kết bài phân tích nhân vật An Dương Vương:
Nêu cảm nhận về nhân vật.
Mời bạn xem nhiều hơn 🌟 Tóm Tắt Truyện An Dương Vương 🌟 15 Bài Tóm Tắt Hay Nhất
Mở Bài Phân Tích Nhân Vật An Dương Vương
Dưới đây chia sẻ đoạn văn mẫu mở bài phân tích nhân vật An Dương Vương sẽ giúp các em học sinh có cách dẫn dắt giới thiệu vấn đề nghị luận văn học hay và đặc sắc.
Truyền thuyết là một trong những thể loại tiêu biểu của dòng văn học dân gian Việt Nam. Mỗi câu chuyện truyền thuyết không chỉ chứa đựng những yếu tố kì ảo với cốt truyện hấp dẫn mà qua đó còn thể hiện tình cảm, thái độ của nhân dân ta về những nhân vật lịch sử. Tác phẩm An Dương Vương và Mị Châu-Trọng Thủy là một trong những truyền thuyết hay cho thấy rõ nhất điều đó.
Trong truyền thuyết, nhân vật An Dương Vương đã để lại cho chúng ta nhiều ấn tượng sâu sắc về một vị vua anh minh, có tầm nhìn xa trông rộng nhưng lại có những sai lầm trong quá trình dựng nước và giữ nước.
Kết Bài Phân Tích Nhân Vật An Dương Vương
Tham khảo đoạn văn mẫu kết bài phân tích nhân vật An Dương Vương dưới đây để nắm được những đánh giá tổng kết cho tác phẩm.
Nhân vật An Dương Vương được các tác giả dân gian xây dựng không theo hình thức lý tưởng hóa tuyệt đối mà được dựng lên như một chân dung đời thực, có điểm đáng khen cũng có điểm đáng chê trách. Thông qua các hành động, tính cách và phẩm chất nhân vật được bộc lộ rõ nét.
Qua hình tượng An Dương Vương, cha ông ta cũng muốn gửi gắm bức thông điệp đến thế hệ mai sau về tinh thần cảnh giác cao độ trong công việc, đặc biệt là khi phải đối mặt với vận mệnh, an nguy dân tộc. Đây là những bài học sâu sắc và muôn thuở cho đất nước và nhân dân. Đồng thời, dân gian cũng gửi gắm mơ ước về một đất nước hùng mạnh, độc lập, tự cường.
Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất
Phân Tích Nhân Vật An Dương Vương Trong Truyện An Dương Vương Và Mị Châu Trọng Thủy – Mẫu 1
Bài văn mẫu phân tích nhân vật An Dương Vương trong truyện An Dương Vương và Mị Châu Trọng Thủy dưới đây sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích dành cho các em học sinh.
“Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy” là một trong những truyền thuyết đặc sắc trong kho tàng lịch sử văn học nước ta về chủ đề đấu tranh giữ nước. Câu chuyện là sự sáng tạo mang đậm yếu tố thần kì của dân gian xung quanh cốt lõi lịch sử có thật về nhân vật An Dương Vương. Qua đó, chúng ta có thể thấy được An Dương Vương là vị vua có công vĩ đại trong việc xây thành đắp lũy, yêu nước thương dân nhưng vì chủ quan nên khinh địch nên khiến đất nước rơi vào tay kẻ thù.
An Dương Vương trước hết là một vị vua yêu nước thương dân, có tầm nhìn xa trông rộng, có công lớn trong việc xây thành đắp lũy. Ông xuất hiện với những sứ mệnh lịch sử mới; thống nhất đất nước về phương tiện dân tộc, lãnh thổ; xây dựng nhà nước sơ khai và chống giặc ngoại xâm. Ông là một trong những biểu tượng anh hùng của người Việt cổ.
Việc cho xây thành Cổ Loa cho thấy tầm nhìn của một nhà quân sự tài ba và tấm lòng của một ông vua lo lắng cho vận mệnh đất nước và sự bình yên của nhân dân, chứng tỏ nhà vua đã có ý thức thiết lập một nhà nước phong kiến sơ khai với kinh thành là trung tâm, điều hành, giải quyết những công việc trong đại của đất nước. Đây là một công lao to lớn vì trước đây, ở thời đại vua Hùng, nước ta chỉ mang tính chất tổ chức của những thị tộc, bộ lạc và chưa hề có thành lũy.
An Dương Vương còn là vị vua một lòng muốn xây dựng, bảo vệ đất nước và biết trọng dụng người tài. Việc xây thành gặp nhiều khó khăn nên nhà vua lo lắng và lập đàn cầu đảo bách thần. Khi có cụ già xuất hiện từ phương đông nói về việc xây thành, nhà vua mừng rỡ, tiến hành nghi thức chào đón.
Sau đó, khi Rùa Vàng xuất hiện, nhà vua dùng xe bằng vàng rước vào thành. Khi thành được xây xong và ba năm sau, Rùa Vàng từ biệt ra về, An Dương Vương lại lo lắng đến nguy cơ đất nước bị xâm lăng và hỏi Rùa Vàng cách chống lại quân thù. Câu hỏi “Nay có giặc ngoài lấy gì mà chống?” cho thấy ông là vị vua một lòng vì nước vì dân và luôn lắng lo cho vận mệnh dân tộc.
Tuy nhiên, sau đó, nhờ vào nỏ thần dễ dàng đánh lui quân xâm lược của Triệu Đà nên nhà vua trở thành người chủ quan khinh địch. Sai lầm đầu tiên gián tiếp dẫn đến việc mất nước Âu Lạc xuất phát từ việc nhà vua gả con gái là Mị Châu cho Trọng Thủy – con trai Triệu Đà và cho Trọng Thủy ở rể. Nhà vua không hề hay biết đằng sau việc cầu hôn chứa đựng âm mưu chính trị thôn tính đất nước. Sai lầm thứ nhất của ông chính là nguyên nhân dẫn đến sai lầm của Mị Châu.
Bởi sau khi trở thành vợ của Trọng Thủy, nàng nhẹ dạ cả tin đặt hết tình yêu và sự tin tưởng vào chồng mà không hề hay biết rằng mình bị lợi dụng và chỉ là một quân cờ trong bàn cờ chính trị. Sai lầm thứ hai của ông là khi Triệu Đà đem quân tấn công lần thứ hai, ông vì cậy có nỏ thần mà điềm nhiên đánh cờ, cho tới khi quân giặc tiến sát thì vua mới phát hiện ra lẫy nỏ bị đánh cắp, là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến việc mất nước. Vì cậy vào nỏ thần nên ông đã quên đi việc xây dựng quân đội và kêu gọi, đoàn kết nhân dân chống giặc ngoại xâm.
Tuy nhiên, đến cuối cùng, An Dương Vương vẫn là một vị vua đặt lợi ích quốc gia lên trên tình thân. Dù cho Mị Châu là con gái ruột duy nhất của mình nhưng trước lời buộc tội của Rùa Vàng, cho rằng Mị Châu là giặc, nhà vua đã rút gươm ra chém, thể hiện ông có lập trường dứt khoát, đứng về phía vận mệnh dân tộc. Chi tiết này thể hiện sự thức tỉnh muộn màng của nhà vua. Đồng thời cũng là cái giá mà ông phải trả cho sự chủ quan của chính mình.
Thông qua những chi tiết thần kì, nhân dân ta đã thể hiện thái độ, tình cảm và cách đánh giá đối với An Dương Vương. Trước hết đó là sự cảm phục, biết ơn, tự hào đối với vị vua đầu tiên tiến hành việc xây thành đắp lũy bảo vệ dân tộc, là minh chứng điển hình cho sự trưởng thành về mặt ý thức của thời đại An Dương Vương. Sự giúp đỡ thần kì của Rùa Vàng là ẩn dụ cho sự ủng hộ của nhân dân, đồng thời biểu trưng cho sức mạnh thần bí của dân tộc.
Và khi đất nước rơi vào tay giặc, An Dương Vương cầm sừng tê bảy tấc rẽ sóng xuống biển khơi. Nhân dân đã bất tử hóa người anh hùng để thể hiện tình cảm, thái độ đối với người anh hùng. Họ đính chính lại lịch sử theo quan điểm của mình, xây dựng người anh hùng lí tưởng, có công với dân tộc để biến họ trở thành những tấm gương tuyên truyền, giáo dục lịch sử cho các thế hệ sau.
Như vậy, nhân vật An Dương Vương hiện lên với vị thế là một người anh hùng có công lớn trong việc xây thành đắp lũy, bảo vệ đất nước nhưng cũng là vị vua vì chủ quan dẫn đến bi kịch mất nước. Thông qua việc xây dựng nhân vật cùng những chi tiết thần kì, truyền thuyết “Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy” đã để lại bài học giáo dục vô cùng sâu sắc. Đó là bài học về việc xây dựng đất nước phải đi đôi với việc bảo vệ đất nước, luôn phải nêu cao cảnh giác và đề phòng đối với kẻ thù.
SCR.VN tặng bạn 🌹 Sơ Đồ Tư Duy An Dương Vương 🌹 9 Mẫu Vẽ Tóm Tắt Hay
Phân Tích Nhân Vật An Dương Vương Hay Nhất – Mẫu 2
Đón đọc bài văn phân tích nhân vật An Dương Vương hay nhất được chọn lọc và chia sẻ dưới đây dành cho các em học sinh.
Nhà thơ Tố Hữu từng viết:
Tôi kể ngày xưa chuyện Mị Châu
Trái tim nhầm chỗ để trên đầu
Nỏ thần vô ý trao tay giặc
Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu
Những câu thơ ấy của Tố Hữu đã gợi lên trong mỗi chúng ta thật nhiều suy nghĩ về truyện “An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy” – một trong số những truyền thuyết với những lời răn dạy có ý nghĩa sâu sắc và to lớn của nhân dân trong quá trình dựng nước, giữ nước và giải quyết mối quan hệ riêng chung.
Trước hết, truyền thuyết “An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy” đã tái hiện lại công cuộc xây thành, chế nỏ, chống giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước của An Dương Vương. Để tiếp tục công cuộc dựng nước và giữ nước, vua An Dương Vương đã cho xây thành ở đất Việt Thường nhưng đáng tiếc thay, công cuộc xây thành lại gặp phải thật nhiều những khó khăn, thành cứ xây cao tới đâu là lại lở ngay đến đấy. Điều đó đã khiến cho An Dương Vương không khỏi suy nghĩ, lo lắng và vì vậy, ông đã cho “lập đàn trai giới, cầu đảo bách thần”.
Dường như, cảm nhận được tấm lòng của An Dương Vương, ngày mồng bảy tháng ba có một cụ già từ phương Đông tới và được vua tiếp đón rất chu đáo, đồng thời, cụ già ấy đã nói với vua sẽ có sứ Thanh Giang tới giúp xây thành. Và quả nhiên, sau đó với sự giúp đỡ của Rùa Vàng – sứ Thanh Giang vua An Dương Vương đã có thể xây xong thành chỉ trong vòng nửa tháng. Hành động “lập đàn trai giới, cầu đảo bách thần” và sự tiếp đón niềm nở, nồng hậu của An Dương Vương xét đến cùng là biểu hiện ở tấm lòng trọng người hiền tài của ông.
Không chỉ trọng người hiền tài, An Dương Vương còn là người luôn lo lắng, suy nghĩ cho vận mệnh, tương lai của đất nước. Điều này được thể hiện rõ nét qua câu hỏi của An Dương Vương với Rùa Vàng trước lúc từ biệt Rùa Vàng về với biển cả: “Nếu nay có giặc ngoài thì lấy gì mà chống?”. Khi được Rùa Vàng cho chiếc vuốt phòng khi có giặc ngoại xâm, An Dương Vương đã sai Cao Lỗ lấy chiếc vuốt làm thành lẫy nỏ.
Và với chiếc nỏ thần này, về sau, khi Triệu Đà đưa quân sang xâm lược, quân và dân ta đã đánh thắng quân Triệu Đà, buộc chúng phải xin hòa. Chiến thắng của An Dương Vương trước quân Triệu Đà cho thấy sức mạnh quân sự cùng ý chí và tinh thần đoàn kết của nhân dân ta lúc bấy giờ. Như vậy, với những chi tiết tưởng tượng, kì ảo, truyện đã cho chúng ta thấy những công lao to lớn của An Dương Vương trong sự nghiệp xây dựng đất nước và chống giặc ngoại xâm.
Tuy nhiên, truyện không chỉ ngợi ca công lao to lớn của An Dương Vương mà nó còn cho chúng ta thấy được bi kịch nước mất nhà tan của vua An Dương Vương.Sau chiến thắng trước quân Triệu Đà xâm lược, An Dương Vương đã mất cảnh giác, vô tình gả con gái của mình là Mị Châu và cho Trọng Thủy ở rể mà không nhận thấy được âm mưu của kẻ thù.
Thêm vào đó, khi quân của Triệu Đà kéo sang xâm lược, An Dương Vương vẫn cậy có nỏ thần mà điềm nhiên ngồi chơi cờ, không chút lo lắng, chuẩn bị phòng ngự và đánh trả. Và để rồi, chính thái độ chủ quan, coi thường giặc này của An Dương Vương đã khiến cho ông nhanh chóng đi đến thất bại thảm hại. Cuối cùng, khi giặc đã kéo vào, vua An Dương Vương không còn có sự lựa chọn nào khác nên đành phải đem theo con gái lên lưng ngựa và chạy về phía hướng Nam.
Nhưng thật đáng tiếc thay, khi ngồi trên lưng ngựa sau cha, Mị Châu vẫn rải áo lông ngỗng của mình làm dấu và để rồi quân giặc cứ thế đuổi theo. Đến cùng đường, không còn lối nào để chạy thoát, vua cha ngửa mặt lên trời, hét lớn, tìm sứ Thanh Giang, lúc đấy Rùa Vàng hiện lên và nói “kẻ ngồi sau lưng ngươi chính là giặc đấy’.
Câu nói của Rùa Vàng như một lời kết tội đanh thép, đó cũng là lúc An Dương Vương nhận ra mọi thứ nhưng có lẽ đã quá muộn rồi, ông rút gươm và tự tay chém chết Mị Châu – người con gái mà ông nhất mực yêu thương. Hành động rút gươm và chém chết Mị Châu của An Dương Vương cho thấy sự tỉnh ngộ muộn màng của ông, đồng thời, qua đó cũng cho thấy ông là người luôn đứng về công lí, về lẽ phải và luôn đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc lên trên hết.
Thêm vào đó, trong phần cuối của tác phẩm, tác giả dân gian còn thể hiện thái độ, cách đánh giá của mình đối với nhân vậtg. Thông qua hình ảnh An Dương Vương “cầm sừng tê bảy tấc, Rùa Vàng rẽ nước dẫn vua xuống biển” tác giả đã bất tử hóa cái chết của An Dương Vương, từ đó, thể hiện sự kính trọng, yêu mến và có phần tiếc thương đối với vị vua này.
Tóm lại, với việc sử dụng hàng loạt các chi tiết tưởng tượng thần kì, độc đáo, hấp dẫn, truyền thuyết “An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy” đã nêu lên bài học sâu sắc về tinh thần cảnh giác với kẻ thù và cách để giải quyết tốt nhất mối quan hệ riêng chung. Đó là một bài học quan trọng và vẫn còn nguyên ý nghĩa cho đến ngày hôm nay.
Chia sẻ 🌼 Cảm Nhận Về Nhân Vật An Dương Vương 🌼 14 Bài Văn Hay
Phân Tích Nhân Vật An Dương Vương Ngắn Gọn – Mẫu 3
Bài văn phân tích nhân vật An Dương Vương ngắn gọn dưới đây sẽ giúp các em học sinh tham khảo cách hành văn súc tích và giàu ý nghĩa biểu đạt.
“Tôi yêu truyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa”
Câu thơ của Lâm Thị Vỹ Dạ đã cho thấy tình yêu sâu sắc của tác giả đối với những câu chuyện dân gian cổ xưa của dân tộc. Bởi vì trong mỗi câu chuyện lại chứa đựng rất nhiều những triết lý nhân sinh về cuộc đời và con người. Với tác phẩm “An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy”, dân gian đã mang đến sự xót xa về bi kịch mất nước của vị Vưa có công dựng nước An Dương Vương. Từ đó, rung lên trong lòng độc giả những dư âm sâu lắng.
Bi kịch mất nước có nguồn gốc từ mâu thuẫn lợi ích và tham vọng giữa Triệu Đà và An Dương Vương. Với tầm nhìn chiến lược, An Dương Vương đã nhìn thấy Cổ Loa là một vùng đất trù phú, tốt tươi có địa hình bằng phẳng, rộng rãi và thuận lợi cho việc giao thương buôn bán. Bởi vậy, ông quyết định cho dời kinh đô về Cổ Loa và tiếp tục sự nghiệp kiến thiết đất nước của cha ông. Được sự giúp đỡ của thần Kim Quy, ông đã xây dựng Loa Thành với chín vòng kiên cố, đảm bảo an toàn và vô cùng vững chãi.
Đặc biệt, Rùa Vàng còn giúp An Dương Vương đánh bại kẻ thù là Triệu Đà với âm mưu xâm lược và cướp nước. Khung cảnh tươi sáng, phồn thịnh của nước Nam hiện ra vô cùng đẹp đẽ với một vị vua anh minh sáng suốt. Vậy nhưng, chưa được bao lâu, toàn thể nhân dân nói chung và vua An Dương Vương nói riêng bị rơi vào bi kịch mất nước.
Bi kịch mất nước của An Dương Vương mở đầu bằng việc Vua đồng ý lời cầu hôn của Triệu Đà, gả công chua Mị Châu cho con trai của hắn là Trọng Thủy. Triệu Đà là một tên lòng dạ tàn độc, sau khi bị bại trận trước An Dương Vương, hắn không cam lòng chịu thua trận và nhục nhã. Bởi vậy, hắn đã tìm đủ mọi cách, thương thuyết bằng bao lời ngon ngọt và thiện ý hòa hoãn để đưa Trọng Thủy đến cầu thân Mị Châu nhưng thực chất là dùng con trai làm gián điệp cho mình.
Tuy là một vị vua anh minh nhưng vì mong muốn đất nước được hoà bình mà mang tâm thế chủ quan, khinh địch, An Dương Vương đã đồng ý gả con gái cho Trọng Thủy mà không mảy may nghi ngờ. Ông hoàn toàn không hề biết, mình đã giao trứng cho ác và châm ngòi cho bi kịch mất nước.
Tin vào lựa chọn của vua cha, nàng Mị Châu xinh đẹp đã không mảy may nghi ngờ người chồng của mình. Cùng chung sống dưới một mái ấm với Trọng Thủy, nàng hết mực yêu thương người chồng của mình và luôn làm tròn bổn phận của một người vợ. Còn Trọng Thủy, hắn vẫn giữ kín bộ mặt thật giả tạo của mình mà không để cho ai phát hiện. Nhờ vậy, hắn đã tìm được cách đánh cắp Nỏ thần một cách hoàn hảo và chờ thời cơ đánh bại An Dương Vương.
Không giống như lần đầu, khi quân Triệu Đà kéo sang xâm lược lần hai, An Dương Vương vẫn bình thản chơi cờ vì nghĩ rằng không kẻ nào có thể đánh bại được Nỏ thần. Quân của Triệu Đà ngang nhiên xông vào thành vô cùng hung bạo, chúng càn quét khiến cho người dân điêu đứng. Lúc này, An Dương Vương mới đi tìm nỏ thần nhưng Nỏ thần đã không còn sử dụng được nữa.
Ông đâu có ngờ nỏ thần đã bị đánh tráo từ lâu. An Dương Vương hoảng loạn vội vã đưa con gái Mị Châu đi trốn nhưng quân giặc đã ráo riết đuổi theo phía sau lưng. Ra đến biển lớn, bị dồn vào đường cùng, An Dương Vương chỉ còn cách nhờ Rùa Vàng ngoi lên giúp đỡ. Thế nhưng, đau lòng thay, nước đã không cứu được, chính bản thân ông lại phát hiện ra bí mật động trời.
Hóa ra bấy lâu nay Trọng Thủy chính là gián điệp giúp Triệu Đà có được Nỏ thần và đau lòng hơn, chính Mị Châu – con gái ông đã giúp Trọng Thuỷ lấy Nỏ thần, trên đường chạy trốn còn rải lông ngỗng khiến quân giặc tìm đến ông một cách dễ dàng. Quá đau lòng cùng sự thức tỉnh muộn màng, An Dương Vương đã giết chết con gái mình rồi theo thần Kim Quy xuống biển. Đó là sự trả giá cho những lỗi lầm mà một vị vua đã gây ra cho dân tộc.
Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy bi kịch mất nước đã để lại cho độc giả những bài học nhân sinh sâu sắc về con người và cuộc đời.
Tham khảo trọn bộ 🌹 Cảm Nhận Về Nhân Vật Mị Châu 🌹 15 Bài Văn Hay Nhất
Phân Tích An Dương Vương Ngắn Gọn Luyện Viết – Mẫu 4
Với bài phân tích An Dương Vương ngắn gọn luyện viết dưới đây, các em học sinh có thể củng cố cho mình kỹ năng phân tích nhân vật văn học.
An Dương Vương là vị vua có thật trong lịch sử Việt Nam từ những thời kì đầu dựng nước và giữ nước. Truyền thuyết về vua An Dương Vương được gắn thêm những yếu tố li kì huyền ảo lưu truyền trong dân gian. Câu chuyện về vua An Dương Vương dựng nước và để mất nước là bài học quý báu được ông cha ta gìn giữ và truyền lại qua bao thế hệ. Vua An Dương Vương là tấm gương cho tinh thần yêu nước và bài học giữ nước còn hiệu quả đến tận ngày nay.
Vua An Dương Vương là vị vua có lòng yêu nước sâu sắc và tinh thần quyết tâm bảo vệ đất nước. Vua có tài trí và tầm nhìn xa trông rộng khi dời đô từ vùng núi Nghĩa Lĩnh về vùng đồng bằng Cổ Loa – nơi đất đai màu mỡ, nguồn nước dồi dào, giao thông thuận tiện. Ngay sau khi dời đô, vua cho xây thành đắp lũy, chống giặc ngoại xâm.
Có thể thấy đây là một vị vua tài trí anh minh và biết lo nghĩ cho dân cho nước. Công việc xây thành của nhà vua gặp rất nhiều khó khăn, thành “hễ cứ đắp tới đâu lại lở tới đấy”, “tốn nhiều công sức mà không thành” nhưng với lòng yêu nước, quyết tâm bảo vệ đất nước mà nhà vua đã không bỏ cuộc, kiên trì xây thành không quản ngại khó khăn.
Sự giúp đỡ thần kì của Rùa Vàng thể hiện sự ngợi ca công đức nhà vua, tự hào về chiến công và thành tựu thời Âu Lạc và đồng thời là lời tán thưởng của nhân dân về những hành động bảo vệ nước của vua An Dương Vương. Những điều vua làm là hết mực hợp lòng dân, ý trời vì thế Trời đã sai Rùa Vàng đến giúp vua.
Cảm động trước tấm lòng vì dân, vì nước của nhà vua, Rùa Vàng tháo vuốt của mình cho An Dương Vương để làm lẫy nỏ thần, cùng với Quỷ Long Thành- một hệ thống phòng thủ vô cùng kiên cố, có “Linh quang Kim thần cơ”, một loại vũ khí tấn công từ xa hiệu nghiệm, An Dương Vương đã đánh tan quân Triệu Đà khi chúng sang xâm lược Âu Lạc, khiến chúng thua lớn “chạy về Trâu Sơn đắp luỹ không dám đối chiến, bèn xin hoà”.
Có thể nói, vua An Dương Vương đã để lại cho chúng ta niềm tự hào lớn về tinh thần chống xâm lược, bảo vệ đất nước của vua cũng như của ông cha ta hơn hai ngàn năm về trước.
Sáng suốt là thế nhưng An Dương Vương vẫn mất cảnh giác với kẻ địch để xảy ra một tấn bi kịch đau thương. Sau chiến thắng với Triệu Đà, vua đã nghĩ Triệu Đà khâm phục mà đầu hàng, không còn âm mưu xâm lược nước ta một lần nữa. Vua đã mất cảnh giác mà không phát hiện bản chất của Triệu Đà.
Triệu Đà không chỉ muốn thôn tính Âu Lạc mà còn đưa Trọng Thủy sang Âu Lạc làm rể để biến người Âu Lạc thành người phương Bắc. Mị Châu là công chúa nhưng thực lòng yêu thương chồng, gián tiếp tiếp tay cho Trọng Thủy đánh tráo và trộm nỏ thần. Bí mật quốc gia, sự an nguy của cả một đất nước đã bị đánh mất bởi chính những thiên tử mà nhân dân ta tin tưởng.
Khi Triệu Đà sang xâm lược, An Dương Vương không những không tỉnh ngộ mà còn cậy có nỏ thần, vẫn điềm nhiên đánh cờ, cười mà nói rằng: “Đà không sợ nỏ thần sao?”. Có lẽ chiến thắng dễ dàng nhờ nỏ thần khi trước đã làm cho vua An Dương Vương chủ quan khinh địch. Vua không biết rằng để bảo vệ đất nước ta phải luôn luôn cảnh giác phòng bị với kẻ thù mọi nơi, mọi lúc. Sự chủ quan ấy dẫn đến kết cục bi thảm, đất nước phút chốc rơi vào bi kịch nước mất, nhà tan.
An Dương Vương cho ta một bài học trong việc bảo vệ đất nước. Tình yêu con sâu sắc đã làm vua An Dương Vương mù quáng. Khi đến bước đường cùng, vua mới nhận ra địch ngay bên cạnh mình. Chính tay vua đã hạ kiếm chém Mị Châu, điều đó biểu lộ thái độ công bằng trước lịch sử.
Rùa Vàng – biểu tượng dân tộc – giúp nhà vua xây thành, chế nỏ tượng trưng cho trí tuệ, sức sáng tạo, công sức bền bỉ của cha ông ta trong sự nghiệp xây dựng bảo vệ đất nước. Rùa Vàng gọi Mị Châu là giặc vì nàng thân là công chúa nhưng vì tình yêu mù quáng mà dẫn giặc hại nước, hại cha. Cái chết thảm của Mị Châu thể hiện sự kiên quyết, thái độ không khoan nhượng của nhân dân ta đối với bất kì hành động nào làm tổn hại đến lợi ích quốc gia.
An Dương Vương tuy có tấm lòng thương nước thương dân, có công xây dựng và bảo vệ đất nước nhưng đồng thời cũng có tội. Cái tội của vua là chủ quan, mất cảnh giác xem thường kẻ địch dẫn đến bi kịch nước mất nhà tan. Vua An Dương Vương không chết bởi điều đó thể hiện lòng tự tôn dân tộc, đồng thời là sự phán xét công bằng của ông cha ta với một vị vua đáng kính trọng vừa có công vừa có tội.
Mời bạn khám phá thêm 💕 Mở Bài Phân Tích Nhân Vật An Dương Vương 💕 20 Mẫu Hay
Phân Tích Nhân Vật An Dương Vương Ngắn Nhất – Mẫu 5
Bài văn mẫu phân tích nhân vật An Dương Vương ngắn nhất dưới đây sẽ giúp các em học sinh chuẩn bị nhanh chóng cho bài viết trên lớp.
Truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy là một câu chuyện dã sử hư cấu, nhằm giả thích cho việc An Dường Vương vì sao làm mất nước Âu Lạc vào tay Triệu Đà phương Bắc. Tuy câu chuyện chỉ nói rất ngắn gọn nhưng tinh ý ta có thể nhận ra đây là một câu chuyện đầy bi kịch, đó là bi kịch về tình cha con, bi kịch nước mất, nhà tan thông qua nhân vật An Dương Vương.
Trước hết, An Dương Vương là một người tài giỏi, mưu lược, lại anh dũng, có tấm lòng yêu nước thương dân. Chính vì thế nên đã được vua Hùng thứ 18 truyền lại ngôi vua. Trong 50 năm trị vì, quốc thái dân an, ông là một vị vua tốt, nên được sự giúp đỡ của sứ Thanh Giang là Rùa Vàng, ban cho điềm lành, ban cho nỏ thần.
Nhưng có lẽ đây cũng là sự khởi đầu của việc mất nước sau này, bởi Rùa Vàng đã từng nói một câu: “Vận nước suy thịnh, xã tắc an nguy đều do mệnh trời, con người có thể tu đức mà kéo dài thời vận”. Âý là lời khuyên răn đầy sâu xa mà sứ Thanh Giang dành cho nhà vua. Tuy nhiên An Dương Vương, lại quên mất, chỉ biết đến nỏ thần kỳ diệu, đánh đuổi muôn giặc thù.
Từ đó nhà vua trở nên chủ quan, không có cái lòng mưu tính, ngờ vực của một quân vương, dễ dàng gả con gái yêu của mình cho con trai kẻ thù cũ, thậm chí còn cho ở rể. Thật sự chưa có cái dại nào hơn thế, nghĩ sâu xa hơn có lẽ cậy có nỏ thần nhà vua cũng chẳng chăm rèn luyện quân đội, để thế nước trở nên suy kiệt. Chẳng vậy mà quân Triệu Đà mới tiến đánh một trận, nhà vua đã phải bỏ chạy thoát thân về phía nam, lúc này đây điềm lành hay nỏ thần cũng thành vô nghĩa, bởi vốn dĩ đất nước đã đến hồi kết.
Chi tiết nhà vua chém chết Mị Châu, có lẽ một phần là để bắt kẻ có tội đền nợ nước, phần là do nỗi xấu hổ vì để mất nước mình nên đành trút hết tức giận lên đứa con gái khờ dại của mình. Sau đó nhà vua theo Rùa Vàng về biển Đông, có nhiều thuyết khác cho rằng nhà vua cũng đã trầm mình xuống biển để đền nợ nước, chứ không phải là cầu cứu Rùa Vàng. Thiết nghĩ chi tiết này phù hợp hơn cả, bởi thật sự nhà vua có trách nhiệm rất lớn trong việc làm mất nước.
Truyền thuyết đem lại cho người đọc một câu chuyện lịch sử, lại xen vào những chi tiết hư cấu nhằm tăng sức hấp dẫn cho truyện, đồng thời là lời giải thích cho những bi kịch xảy ra. Các nhân vật trong truyện đều có chỗ đáng trách lại cũng có chỗ đáng thương, âu thì đây cũng là số mệnh cả. Bài học rút ra từ câu chuyện này là lời cảnh tỉnh đến từng người, trong lối ứng xử với người thân, gia đình, trách nhiệm với đất nước.
Chúng ta phải biết cân nhắc đến những lợi hại trong hành vi của mình, bởi mỗi một thay đổi đều đem đến những kết cục khác nhau. Người ta thường cảm thán nếu như An Dương Vương không cậy vào nỏ thần, không gả Mị Châu cho Trọng Thủy… Thế nhưng nếu như mãi chỉ là nếu như, bởi sai một li đi một dặm, không bao giờ còn có thể cứu vãn được nữa.
Mời bạn xem nhiều hơn 🌟 Kết Bài Phân Tích Nhân Vật An Dương Vương 🌟 20 Mẫu Hay
Phân Tích An Dương Vương Ngắn Nhất Chọn Lọc – Mẫu 6
Chia sẻ dưới đây bài văn mẫu phân tích An Dương Vương ngắn nhất chọn lọc để các em học sinh cùng tham khảo:
Truyền thuyết An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy kể về quá trình An Dương Vương xây thành và chế tạo nỏ thần thành công nhờ sự giúp đỡ của Rùa Vàng và kể lại nguyên nhân mất nước Âu Lạc liên quan đến mối tình Mị Châu – Trọng Thủy.
Qua truyền thuyết, ta thấy được nhân vật An Dương Vương là một vị vua đáng được ca ngợi vì những công lao to lớn nhưng cũng đáng phê phán vì những sai lầm dẫn đến mất nước. Nhân vật An Dương Vương được xây dựng dựa trên “minh chứng lịch sử cho sự sáng tạo và lưu truyền chuỗi truyền thuyết về sự ra đời và sự suy vong của nhà nước Âu Lạc”.
An Dương Vương với tầm nhìn xa trông rộng chọn vùng đồng bằng làm kinh đô để giúp cuộc sống nhân dân ổn định và xây thành lũy để bảo vệ bờ cõi. Vị vua tài đức với tầm nhìn xa trông rộng gặp không ít những lần khó khăn trong việc xây đắp thành lũy, cho đắp tới đâu thì lở tới đó. Dù gặp vô vàn khó khăn nhưng do biết trọng hiền tài mà việc xây thành đắp lũy thành công chỉ sau nửa tháng nhờ sự giúp đỡ của Rùa Vàng.
Nhờ vào tài năng, tầm nhìn xa trông rộng cùng với sự kiên trì, mến trọng nhân tài giúp nước, An Dương Vương ghi danh muôn đời với sử sách nước nhà. Sau khi xây thành xong, Rùa Vàng từ biệt trở về. An Dương Vương với ý thức cao độ về việc giữ nước bèn hỏi Rùa Vàng: “Nay nếu có giặc ngoài thì lấy gì mà chống”. Với sự thành khẩn mong con dân được yên bình nên đã làm động lòng đến thánh thần mà Rùa Vàng đã đem vuốt của Rùa cho.
Khi giặc xâm lăng, nhờ thành lũy kiên cố và bộ nỏ thần được chế từ vuốt của Rùa Vàng mà đất nước được an toàn, thái bình, kẻ thù phải run sợ xin hòa. Qua đó cho thấy An Dương Vương rất anh minh, sáng suốt, tầm nhìn xa trông rộng, biết quý hiền tài. Nhân dân dành cho An Dương Vương một thái độ ngợi ca và tự hào. Qua chi tiết hư cấu “Rùa Vàng”, “Chiếc nỏ thần”,… kết hợp với chi tiết sự thật lịch sử đã tạo nên câu chuyện lập nước Âu Lạc.
Tuy nhiên, với những công lao to lớn đấy, An Dương Vương vẫn phạm những sai lầm để kẻ thù chiếm mất Âu Lạc. Sai lầm đầu tiên đó là việc An Dương Vương gả Mị Châu cho Trọng Thủy- con của kẻ thù và cho về ở rể. Vì sự chủ quan của mình mà đã bị kẻ thù che mắt thực hiện âm mưu cướp vũ khí lợi hại.
Từ sai lầm đầu tiên, An Dương Vương đã nối tiếp các sai lầm khác. Vì ỷ vào nỏ thần mà để đến khi giặc tiến hành xâm bờ cõi vẫn ung dung đánh cờ, mặc cho đất nước đang hiểm nguy. Để khi giặc tới sát thành mới biết nỏ thần đã bị đánh tráo. Sai lầm của An Dương Vương đã để lại một bài học to lớn cho chúng ta sau này: không được chủ quan, khinh địch, không được ngủ quên trong chiến thắng để tránh hậu họa về sau.
Hành động chém Mị Châu của An Dương Vương thể hiện sự dứt khoát, sửa sai của mình trong muộn màng. Trước hành động đứng về phía công lý đó, nhân dân đã bày tỏ thái độ khoan dung cũng như biết ơn tới vị vua có công lao to lớn đối với đất nước bằng việc xây dựng nên chi tiết hư cấu “Vua cầm sừng tê bảy tấc, Rùa Vàng rẽ nước dẫn vua đi xuống biển”.
Nhân dân ta đã kết hợp chi tiết lịch sử cùng với các chi tiết hư cấu để làm nên câu chuyện truyền thuyết giải thích cho sự ra đời của nước Âu Lạc và nguyên nhân mất nước. Ngoài ra, nhân dân ta còn bày tỏ thái độ ngợi ca trước những thành quả mà An Dương Vương đã mang đến, tuy cùng với những sai lầm làm mất nước nhưng nhân dân ta vẫn bày tỏ thái độ khoan dung và nhân hậu cho vị vua này.
Gợi ý cho bạn 💕 Sơ Đồ Tư Duy Chiến Thắng Mtao Mxây 💕 10 Mẫu Vẽ Tóm Tắt Hay
Phân Tích Nhân Vật An Dương Vương Học Sinh Giỏi – Mẫu 7
Tham khảo bài phân tích nhân vật An Dương Vương học sinh giỏi dưới đây để hoàn thành tốt và đạt kết quả cao cho bài viết của mình.
“Em hóa đá ở trong truyền thuyết
Để bao cô gái như em không phải hóa đá trên đời”
(Trần Đăng Khoa)
“Tôi kể người nghe chuyện Mị Châu
Trái tim lầm chỗ để lên đầu
Nỏ thần vô ý trao tay giặc
Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu”
(Tố Hữu)
Những vần thơ trên chính là minh chứng cho sự nổi tiếng của truyền thuyết An Dương Vương Mị Châu Trọng Thủy, một truyền thuyết gắn liền với lịch sử dân tộc và có ảnh hưởng sâu rộng trong nền văn hóa của nước nhà, đi vào các tác phẩm thơ ca, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc biết bao nhiêu thế hệ.
An Dương Vương Mị Châu Trọng Thủy không chỉ đơn thuần là một câu chuyện nói về biến cố cuộc đời của ba nhân vật chính, mà ẩn đằng sau nó là những bài học vô cùng sâu sắc về đạo làm vua, làm con, làm vợ, làm chồng và làm con dân của một quốc gia. Đó là những bài học ứng xử trong cuộc sống, sự lựa chọn đúng đắn giữa tình thân, tình yêu, và an nguy của quốc gia mà cho đến tận ngày hôm nay nó vẫn mang trọn ý nghĩa thuở ban đầu.
Dẫu rằng kết cục câu chuyện là bi thương nhưng có lẽ đó chính là cái giá phải trả cho sự lựa chọn, ứng xử sai lầm của các nhân vật chính, để lại trong lòng độc giả nhiều suy nghĩ trăn trở. Truyền thuyết An Dương Vương, Mị Châu – Trọng Thủy gắn liền với quần thể di tích tại làng Cổ Loa huyện Đông Anh, ngoại thành Hà Nội. Truyền thuyết xuất xứ với tên Truyện Rùa Vàng nằm trong tập Lĩnh Nam chích quái được sưu tầm vào khoảng cuối thế kỷ XV.
Nói về nhân vật An Dương Vương là người mở đầu cho cả truyền thuyết với hai giai đoạn cuộc đời, và dường như đâu đó ta cũng cảm nhận được ở hai đoạn đời này An Dương Vương lại hiện lên như hai con người khác nhau. Từ một con người anh minh sáng suốt gắn với công cuộc dựng nước và giữ nước oai hùng, thì ở đoạn đời thứ hai ông lại trở thành một người chủ quan, mất cảnh giác, khinh địch nên dẫn tới bi kịch nước mất nhà tan, tình thân đứt đoạn.
An Dương Vương là người có công lớn trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Với một số sự kiện tiêu biểu như: Dời đô từ vùng núi Nghĩa Lĩnh về vùng đồng bằng Cổ Loa, đây được xem là một quyết định sáng suốt, khi đất nước đã trải qua thời giữ nước đầy gian lao, nay đã bước sang giai đoạn phát triển kinh tế, văn hóa, chính trị, chính vì vậy vùng đồng bằng giao thông thuận lợi như Cổ Loa chính là một lựa chọn đúng đắn cho việc dời đô.
Sau khi dời đô về đồng bằng thì với đôi mắt nhìn xa trông rộng của một quân vương, An Dương Vương đã rất kỹ lưỡng trong công việc xây thành Cổ Loa một cách kiên cố theo hình xoắn ốc, để kinh đô được bảo vệ bởi nhiều vòng thành, phòng khi có giặc ngoại xâm.
Không chỉ xây dựng thành trì kiên cố mà An Dương Vương còn chuẩn bị đầy đủ vũ khí để đề phòng giặc ngoại xâm, không còn là các loại vũ khí đánh giáp lá cà mà là loại vũ khí đánh xa, tiêu diệt quân địch khi chúng chưa kịp bước đến đến chân thành trì, nhằm các yếu tố nguy cơ. Tiêu biểu cho loại vũ khí này chính là nỏ thần, cũng là đại diện cho các loại nỏ và cung tên với lực sát thương mạnh mẽ, từ xa, điều này đã thể hiện sự thông minh, tài thao lược của một đấng quân vương.
Với tất cả sự anh minh, sáng suốt của mình thì kết quả mà An Dương Vương nhận được ấy là chiến thắng vang dội trong cuộc xâm lược của Triệu Đà lần thứ nhất. Từ những nhận định trên có thể thấy rằng An Dương Vương trong giai đoạn thứ nhất của cuộc đời là người tài giỏi, mang tầm vóc của một vị đế vương tài ba, lý tưởng, có tinh thần cảnh giác cao độ và ý chí quyết tâm đánh giặc.
Bên cạnh đó sự trợ giúp của thần linh (Rùa Vàng) chính là minh chứng cho tính chất chính nghĩa của các công việc mà An Dương Vương thực hiện bao gồm việc dời đô, xây thành, chuẩn bị vũ khí chống giặc ngoại xâm.
Bước sang giai đoạn thứ hai của cuộc đời An Dương Vương, cũng tức là khi đất nước vừa chiến thắng lần xâm lược đầu tiên của Triệu Đà, đất nước bắt đầu bước vào giai đoạn ổn định để phát triển, thì ở vị vua này bắt đầu có những biểu hiện của sự mất cảnh giác, buông lỏng tinh thần cuối cùng dẫn tới bi kịch mất nước.
Nguyên nhân chính đến từ việc An Dương Vương mất cảnh giác, mơ hồ trước âm mưu của kẻ thù. Khi Triệu Đà cầu hòa với mục đích trì hoãn để tìm hiểu tình hình thì An Dương Vương lại không hề nhận ra mưu sâu kế hiểm của giặc mà dễ dàng nhận lời không hề có sự đề phòng chuẩn bị. Sai lầm thứ hai cũng là sai lầm đặc biệt nghiêm trọng của nhà vua ấy là chấp nhận cả lời cầu thân của Triệu Đà, gả con gái yêu của mình cho con trai của giặc, chẳng khác nào giao trứng cho ác.
Kéo theo sai lầm thứ nhất, chính là sai lầm tiếp theo của An Dương Vương khi cho Trọng Thủy sang ở rể theo tục lệ của nước Thục ta, chẳng khác nào đang cõng rắn cắn gà nhà cả, để con trai của kẻ thù làm nội gián ở ngay trong nhà mình mà không mảy may suy nghĩ. Bi kịch mất nước không chỉ nằm ở sự mất cảnh giác mà còn nằm ở sự chủ quan của nhà vua, dễ dàng cho Trọng Thủy về nước thăm cha mà không hề nghi ngờ.
Đặc biệt là đến khi Trọng Thủy trở kéo quân sang âm mưu xâm lược lần thứ hai, giặc đã đến gần sát chân thành rồi nhưng An Dương Vương vẫn bình chân như vại, không hề mảy may chuẩn bị chống giặc, cậy cả vào việc mình đã có nỏ thần lợi hại với sức mạnh vạn năng.
Từ những dẫn chứng trên ta có thể thấy rõ một điều rằng An Dương Vương đã đánh mất sự anh minh, sáng suốt đáng quý nhất của mình, sở dĩ có điều đó bởi trước đây bên cạnh nhà vua có sự xuất hiện của Rùa Vàng, vị thần đại diện cho trí tuệ, khi Rùa Vàng rời đi cũng là lúc vị thần trí tuệ ấy rời đi, cho nên An Dương Vương mới trở nên chủ quan, mất cảnh giác đến độ vậy.
Một cách lý giải khác cho sự đi xuống của nhà vua ấy là do tâm lý thông thường của con người, khi chiến thắng người ta thường dễ ngủ quên trong chiến thắng ấy, “mãn nguyện” với những gì mình có và không muốn phải suy nghĩ gì thêm, mong mọi chuyện đều trở nên dễ dàng, giống như kẻ được điểm mười, thì thường nghĩ mình đã giỏi vậy.
Cuối cùng sau tất cả những sai lầm của mình An Dương Vương đã phải đối mặt với hàng loạt bi kịch đau đớn, trước hết là bi kịch mất nước, bị kẻ thù – con rể của mình truy đuổi đến cùng đường, vô cùng thảm hại. Bi kịch thứ hai, ấy là bi kịch với tư cách cá nhân, bi kịch của một người cha trong gia đình, bị con gái đâm sau lưng mà không hề hay biết dù rằng Mị Châu không hề cố ý, rồi phải tự tay chém đầu đứa con gái ruột duy nhất của mình, để trả nợ cho nước, trừng phạt kẻ đã gây ra họa diệt quốc.
Có thể nói cùng với nỗi đau mất nước, thì nỗi đau tự tay kết liễu người thân cũng đau đớn chẳng kém gì. Kết thúc cuối cùng là bất tử hóa nhân vật An Dương Vương, thực tế là mỹ lệ hóa cái chết của ông, bởi do ông là người có công trong công cuộc dựng nước và giữ nước, dẫu rằng có sai lầm thế nhưng về phần công trạng là không thể nào phủ nhận.
Kết cục ấy cũng coi như là bù đắp cho An Dương Vương, tuy nhiên vì là người có tội với đất nước nên không thể được tiếp tục sống trên trần gian, cũng không thể có một cái kết huy hoàng như Thánh Gióng, mà chỉ có thể tiếp tục cuộc đời một cách im lặng theo ngòi bút của các tác giả dân gian.
An Dương Vương, Mị Châu – Trọng Thủy là một truyền thuyết có ý nghĩa sâu sắc khi đề cập đến các cách ứng xử trong mối quan hệ giữa công dân với Tổ quốc, mối quan hệ cha con, vợ chồng, quân thần,… Từ đó đưa ra những bài học đáng giá dành cho hậu thế về cách xử lý giữa tình cảm cá nhân và lợi ích dân tộc, con người ta cần phải lý trí khi đứng trước an nguy của Tổ quốc, phải đặt cái lợi ích chung của đất nước lên trên tình cảm cá nhân, bằng không nếu cứ sống theo cảm tính thì chính là đại hận thiên thu.
Thêm vào đó, thông qua nhân vật An Dương Vương, truyền thuyết còn răn dạy con người chớ ngủ quên trên chiến thắng, dù là trong việc trị quốc, bình thiên hạ hay trong đời sống thường ngày, bởi đó chính là vực sâu vạn trượng, bước nhầm một bước thì không có ngày mai.
Giới thiệu tuyển tập 💕 Cảm Nhận Về Nhân Vật Đăm Săn 💕 12 Bài Cảm Nghĩ Hay
Phân Tích Nhân Vật An Dương Vương Nâng Cao – Mẫu 8
Đón đọc bài văn phân tích nhân vật An Dương Vương nâng cao dưới đây với những phân tích chuyên sâu và đặc sắc.
Trong nền văn học Việt Nam, nếu kể đến sự hình thành và phát triển mạnh mẽ trong buổi đầu sơ khai thì văn học dân gian là mạch nguồn nuôi dưỡng tâm hồn của dân tộc Lạc Việt. Có rất nhiều thể loại được hình thành qua sự truyền miệng dân gian và hình thức sinh hoạt tập thể của nhân dân.
Một trong số thể loại được nhiều người quan tâm và nó đã tác động đến cuộc sống của chúng ta đó chính là truyền thuyết. Khác với thần thoại, truyền thuyết phản ánh cốt lõi của lịch sử. Đó là công cuộc đấu tranh ngoại xâm bảo vệ đất nước, thể hiện niềm tự hào của dân tộc như Thánh Gióng, Lạc Long Quân – Âu Cơ. Một trong những câu chuyện lịch sử để lại cho người đọc nhiều suy nghĩ sâu sắc đó là “truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy”.
Nhân vật An Dương Vương trong tác phẩm là một nhân vật then chốt để lại bao ấn tượng sâu sắc. Đó vừa là ông vua anh minh sáng suốt nhưng vì một phút chủ quan mà dẫn đến bi kịch mất nước. Số phận bi kịch của nhân vật để lại bài học sâu sắc cho muôn thế hệ sau.
“Thành quách còn mang tiếng Cổ Loa
Trải bao gió táp với mưa sa
Nỏ thiêng hờ hững dây oan buộc
Giếng ngọc vơi đầy hạt lệ pha
Cây cỏ vẫn cười ai bạc mệnh
Cung đình chưa sạch bụi phồn hoa
Hưng vong biết chửa, người kim cổ
Tiếng cuốc năm canh bóng nguyệt tà.”
Bài thơ vang lên như bao quát nỗi đau mất nước lẫn bi kịch lớn của tình yêu: tình yêu gia đình lẫn tình yêu đôi lứa. Xuất hiện đầu tiên và xuyên suốt cả tác phẩm, nhân vật An Dương Vương vừa là một vị vua có thực trong cổ sử Việt Nam, vừa là nhân vật gắn với nhiều hư cấu li kì trong truyền thuyết… Tìm hiểu và phân tích nhân vật An Dương Vương cần đi qua công cuộc xây dựng đất nước, bảo vệ đất nước cũng như bài học mất nước chỉ vì chủ quan khinh địch.
Ta thấy trước hết, An Dương Vương là một vị vua anh minh, sáng suốt, có tầm nhìn xa trông rộng. An Dương Vương nối nghiệp các vua Hùng đã dời đô từ núi Nghĩa Lĩnh về đồng bằng Cổ Loa để mở rộng giao thương về kinh tế, văn hóa. Việc làm đó đã thể hiện ý chí và quyết sách sáng suốt của An Dương Vương, thể hiện tầm nhìn xa trông rộng của nhà vua. Bởi dễ thấy việc về đồng bằng là xu thế tất yếu trong sự phát triển của đất nước.
Đồng bằng với vốn đất đai màu mỡ, nguồn nước dồi dào, thuận lợi cho việc trồng lúa nước, nuôi sống và phát triển con người. Hơn nữa, đồng bằng với sông ngòi ngang dọc trùng xếp, đi thuyền, đi bộ đều dễ dàng. Nếu nội lực chưa đủ mạnh thì rừng núi hiểm yếu chính là chỗ dựa an toàn nhất, nhưng muốn phát triển thì rừng núi không phải là nơi đắc địa.
Quá trình dời đô phản ánh sự lớn mạnh của nhà nước Âu Lạc, đồng thời phản ánh trí tuệ bản lĩnh sáng suốt của vua An Dương Vương. Bài học ấy sau này được thế hệ đời sau dùng đến như vua Lí Thái Tổ cho dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) về Thăng Long, lập ra một triều đại oai hùng.
Dời đô là quốc sách, nhưng cũng có nghĩa là phơi lưng ra giữa đồng bằng, thách thức đối phương. Quá trình dựng nước luôn đi liền với quá trình giữ nước, cho nên ngay khi về Cổ Loa, An Dương Vương thấy trước mối đe dọa đó, nên ngay sau khi quyết định dời đô về giữa Cổ Loa trống trải, người đã cho xây thành đắp lũy, sẵn sằng phòng thủ giặc ngoại xâm.
Phân tích nhân vật An Dương Vương, ta cũng nhận thấy ông tự chuẩn bị cho mình sự che chở nhân tạo là chín vòng thành. Công việc xây thành của nhà vua gặp rất nhiều khó khăn, thành “hễ cứ đắp tới đâu lại lở tới đấy”, “tốn nhiều công sức mà không thành” nhưng với lòng yêu nước, với bản lĩnh vững vàng, không sợ khó, sợ khổ, không nản chí trước thất bại tạm thời, nhà vua đã không bỏ cuộc mà kiên trì, quyết tâm xây thành giữ nước. Khi thấy cứ xây vào ban ngày thì đêm lại đổ, vua bèn “lập đàn trai giới, cầu đảo bách thần”.
Chi tiết một cụ già từ phương Đông đi tới báo sẽ có người đến giúp, và sự giúp đỡ của sứ Thanh Giang đã khẳng định tính chất đúng đắn của việc xây dựng Loa Thành. Cùng với sự giúp đỡ của Rùa Vàng, chỉ nửa tháng sau thì chín vòng thành đã xây xong, tạo thành một thành lũy kiên cố bảo vệ đất nước.
Hình ảnh Loa Thành “rộng hơn ngàn thước, xoắn như hình trôn ốc” phản ánh tinh thần cảnh giác, sẵn sàng bảo vệ đất nước, quyết tâm cao độ chống giặc ngoại xâm của nhà vua và toàn thể nhân dân Âu Lạc. Không chỉ vậy ông còn có tầm nhìn xa trông rộng, khi xây thành xong ông bày tỏ nỗi lòng với Rùa Vàng: “Nhờ ơn của thần, thành đã xây được. Nay nếu có giặc ngoài thì lấy gì mà chống?”. Nỗi băn khoăn ấy đã phản ánh nỗi lo lắng thường trực của đất nước thường có nạn giặc ngoại xâm.
Phân tích nhân vật An Dương Vương, người đọc cũng thấy khi được Rùa Vàng tặng vuốt, vị vua này đã ngay lập tức chế tạo nỏ thần, thể hiện ý chí quyết tâm chống giặc xâm lược của vua tôi Âu Lạc. Và nhờ sự chuẩn bị ấy, vua tôi An Dương Vương đã giành được thắng lợi to lớn, đánh tan từng bước xâm lược của quân Triệu Đà. Quân binh Âu Lạc buộc chúng thua lớn, “chạy về Trâu Sơn đắp lũy không dám đối chiến, bèn xin hòa”. Điều đó khẳng định công lao và vai trò to lớn của An Dương Vương trong buổi đầu dựng nước và giữ nước.
Mặc dù phản ánh các sự kiện lịch sử có liên quan tới An Dương Vương nhưng trong truyền thuyết, nhân dân ta đã phần nào kì ảo hoá các yếu tố lịch sử khách quan. Và chính việc sáng tạo nên những yếu tố kì ảo đan xen với các yếu tố lịch sử đã khiến cho câu chuyện thêm lung linh, kì ảo, tăng tính khái quát, ý nghĩa biểu trưng của các chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm.
Chi tiết nhà vua xây thành được rùa vàng giúp đỡ, chi tiết rùa vàng cho vuốt để An Dương Vương chế tạo nỏ thần và cả việc công dụng thần kỳ của nỏ thần đã khẳng định việc làm của An Dương Vương được lòng dân, hợp lòng trời nên được cả thần và người cùng giúp đỡ. Đó là một cách để nhân dân ta ngợi ca công đức của nhà vua, tự hào về những chiến công và thành tựu kỹ thuật của nhân dân thời Âu Lạc.
Như vậy ở phần đầu của tác phẩm, với vị trí là vua nước Âu Lạc, là người lãnh đạo cao nhất của một quốc gia, An Dương Vương đã khẳng định vai trò và công lao to lớn của mình trong buổi đầu xây dựng và bảo vệ đất nước. Là một vị vua yêu nước, luôn có tinh thần trách nhiệm trước đất nước, nhà vua xứng đáng được nhân dân đời đời mến phục ngợi ca.
Khi phân tích nhân vật An Dương Vương, ta thấy cũng chính vì lợi thế có nỏ thần trong tay mà đã hình thành tính tự mãn nơi ông. An Dương Vương không ngờ rằng quân xâm lược chưa từ bỏ giấc mộng xâm chiếm bờ cõi xứ mình. Khi Triệu Đà đem quân đánh mãi không thành, y bèn nghĩ kế độc, đưa con trai là Trọng Thủy sang cầu hôn Mị Châu – người thân thích duy nhất của ông.
An Dương Vương không mảy may chút nghi ngờ, ông đã đồng ý gả con gái mình cho con trai kẻ thù. An Dương Vương cho Trọng Thủy sang ở rễ theo tục lệ của nước Âu Lạc. Đây chính là đầu mối dẫn đến bi kịch mất nước, là cơ hội lớn cho phía tên gián điệp đội lốt chú rể khám phá bí mật quốc gia. Cuộc hôn nhân giữa hai nước vốn đã có hiềm khích chính là sự dự báo cho những mối hiểm họa về sau.
“Một đôi kẻ Việt người Tần
Nửa phần ân ái nửa phần oán thương”
“Một đôi kẻ Việt người Tần” lấy nhau như thế là một sự nguy hiểm khôn lường. Thế nhưng An Dương Vương không hề màng tới điều đó. Vị vua xứ Âu Lạc phần vì chủ quan phía thông gia, phần vì tin yêu con rể nên đã mất cảnh giác. Hơn nữa, trong suy nghĩ của mình, ông chỉ mong hai nước sớm thuận hòa qua cuộc hôn nhân này và nhân dân sẽ không phải chịu cảnh khổ đau.
Nhưng ông không biết được, kẻ thù dù quỳ dưới chân ta nhưng chúng vẫn vô cùng nguy hiểm. Ông nghĩ cho dân, nghĩ đến cái lợi ích hòa hiếu giữa hai nước nên không hề có kế sách đối phó. Ông và các quân ung dung, vui vẻ mà không nghĩ đến những điều nguy hiểm sắp đến. Vì thế, ông đã đưa cả cơ đồ “đắm biển sâu”.
Phân tích nhân vật An Dương Vương, ta thấy nhà vua là người xuất hiện từ đầu đến cuối tác phẩm, là người có công lao to lớn trong sự nghiệp dựng nước nhưng cũng mắc sai lầm nghiêm trọng, là một trong những nguyên nhân chính đẩy Âu Lạc rơi vào thảm kịch ngàn năm Bắc thuộc. Ở phần sau, tác phẩm thể hiện bi kịch nước mất, nhà tan và cũng là lúc An Dương Vương chịu trách nhiệm của mình với đất nước.
Trước đây, ông cảnh giác bao nhiêu khi dời đô về, sợ kẻ thù sẽ kéo sang, nên chuẩn bị chu đáo cả chín vòng thành. Nhưng khi có được mọi thứ trong tay, An Dương Vương đã ngủ quên trên chiến thắng, không một chút cảnh giác. Ông cậy mình có nỏ thần, ngồi cùng quan lại đánh cờ, điềm nhiên trông ra bờ cõi. Khi quân Triệu Đà kéo sang, ông cười mà hỏi rằng: “Đà không sợ nỏ thần sao?”.
Sự nghiệp bao nhiêu năm nay gây dựng bỗng chốc tan thành mây khói. Cũng vì bản tính chủ quan, mất cảnh giác, An Dương Vương đã để đất nước rơi vào tay kẻ thù. Lúc rời bỏ thành mà chạy, ông chỉ biết mang theo con gái yêu của mình mà tìm đường ra cửa biển. Trong lòng ông mong nhờ sự giúp đỡ từ phía thần Kim Quy.
Tình thế vô cùng nguy cấp, nhà vua bị đẩy đến bước đường cùng. Trước mặt ông là biển cả mênh mông, sau lưng bóng quân giặc thấp thoáng đã đuổi theo cận kề, ông thất vọng, kêu cứu sứ Thanh Giang: “Trời hại ta, sứ Thanh Giang ở đâu mau lại cứu”. Rùa Vàng nổi sóng xuất hiện và chỉ kẻ sau lưng chính là giặc.
An Dương Vương quay lưng nhìn con gái rơi nước mắt và chiếc áo lông ngỗng, ông từ từ hiểu ra và dù vô cùng đau khổ nhưng ông phải rút gươm giết chết người con gái duy nhất của mình. Hành động đó không còn dưới cương vị, danh phận của một người cha mà thể hiện sự kiên quyết, dứt khoát, ông thể hiện nó khi đứng trên lập trường công dân, công lí và quyền lợi của dân tộc để trừng trị kẻ có tội với đất nước.
Phân tích nhân vật An Dương Vương, ta thấy hành động cuối cùng của ông tùy muộn màng nhưng cũng chính là cái giá cho sự thức tỉnh, là bài học xương máu cho thế hệ sau trong quá trình giữ nước. Cuối cùng, ông được Rùa Vàng dẫn đi về nơi biển sâu. Xây dựng nhân vật An Dương Vương các tác giả đã sử dụng nhiều yếu tố kì ảo: sự giúp đỡ của Rùa Vàng, nỏ thần, … để khẳng định đề cao những chiến công của ông đối với đất nước. Sau khi giết chết Mị Châu, An Dương Vương cầm sừng tê bảy tấc, rẽ nước trở về với biển cả.
Ở đoạn này, nhân dân ta đã thể hiện sự sáng tạo cốt truyện và thể hiện tấm lòng của mình. Việc bất tử hóa sự sống của An Dương Vương qua sự xuất hiện chi tiết kì ảo thể hiện tình cảm, thái độ của nhân dân. Nhân dân tiếc thương vị anh hùng có công dựng nước nhưng vì một chút lơ là mà cơ đồ đắm biển sâu.
Phân tích nhân vật An Dương Vương, ta nhận thấy vị vua này tuy có tội nhưng là vô tình nên được nối dài sự sống. Ngoài ra, tác phẩm còn mang giọng điệu phong phú, khi ngợi ca tôn vinh, khi ngậm ngùi, chua xót cho cảnh nước mất nhà tan.
Qua văn bản Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy, các tác giả dân gian đã dựng lên chân dung vị vua vừa có công vừa có tội. Có công khi đã dời đô, xây dựng kinh thành kiên cố, phát triển đất nước giàu mạnh. Có tội vì đã lơ là mất cảnh giác để đất nước rơi vào tay giặc, nhân dân chịu cảnh lầm than. Nhân vật đã để lại bài học sâu sắc cho muôn thế hệ sau về việc dựng nước và giữ nước, luôn nêu cao tinh thần cảnh giác trước kẻ thù.
Tham khảo trọn bộ 🍀 Tóm Tắt Chiến Thắng Mtao Mxây 🍀 16 Mẫu Văn Bản Hay
Phân Tích Nhân Vật An Dương Vương Facebook – Mẫu 9
Chia sẻ dưới đây bài văn phân tích nhân vật An Dương Vương Facebook giúp các em học sinh có thêm cho mình tư liệu tham khảo phong phú hơn.
Suốt chặng đường 4000 năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta có vô số những trận chiến lớn nhỏ, trải qua vô số triều đại, chứng kiến đủ mọi bi kịch khổ đau. Có những trận chiến, những triều đại đã đi vào sử sách, trở thành một trong những tác phẩm văn học nổi tiếng nhất để ngàn đời sau còn ca tụng, thế nhưng bên cạnh đó cũng có những trận chiến, những câu chuyện đau thương khiến cho ngàn đời sau còn đau xót.
Và một trong số những câu chuyện làm tan nát trái tim về một thời dựng nước và giữ nước đầy oai hùng nhưng lại có một kết thúc bi thương đó là truyện An Dương Vương và Mị Châu- Trọng Thủy, nổi bật lên là hình tượng vua An Dương Vương để lại nhiều suy ngẫm với độc giả.
An Dương Vương là vua của nước Âu Lạc, là người đã đưa ra quyết định rời đô từ Phong Châu về Phong Khê, nhờ có sự giúp đỡ của rùa vàng thì xây xong thành và trước khi về ông còn được rùa vàng để lại cho một cái móng vuốt để làm lẫy Nỏ thần. Thật vậy nhờ có chiếc Nỏ thần ấy mà quân ta đã giành được chiến thắng nhiều lần trước sự xâm lăng của quân Triệu Đà. Tưởng chừng như được thần giúp đỡ, có trong tay chiếc nỏ thần là có thể giữ được hòa bình và sự phát triển phồn thịnh cho đất nước thế nhưng sự thực thì không phải như thế.
Những kẻ có dã tâm luôn muốn chà đạp lên mảnh đất của người khác thì đâu có bao giờ từ bỏ thủ đoạn của mình. Không đánh được trên chiến trường, Triệu Đà đưa con trai sang liên hôn nhưng mục đích thật sự là đánh cắp bí mật quân sự của nước ta. Tình yêu có thể cứu rỗi linh hồn con người nhưng nó cũng có thể khiến cho người ta rơi vào tận cùng của bất hạnh. Thật vậy điều đó được thể hiện rõ qua cuộc hôn nhân chính trị giữa Mị Châu và Trọng Thủy.
Triệu Đà thua trận xin cầu hòa và đã đưa con trai của mình sang cầu hôn với con gái của An Dương Vương, là một vị vua cả đời anh minh thế nhưng khi ấy An Dương Vương lại đưa ra quyết định sai lầm khi đã đồng ý cuộc hôn nhân và cho Trọng Thủy ở rể. Trong thời gian ở rể thì Trọng Thủy lợi dụng thời cơ đổi trộm mất Nỏ thần rồi mang về phương Bắc.
Không còn Nỏ thần An Dương Vương thua trận và cùng con gái chạy về Phương Nam, cuối cùng đau đớn chém chết con và đi xuống biển. Trọng Thủy mang xác vợ về chôn ở Loa Thành, xác liền biến thành ngọc thạch, không lâu sau vì quá thương tiếc Mị Châu mà Trọng Thủy đã nhảy xuống giếng tự tử, kết liễu sinh mạng của mình.
Nhắc đến truyền thuyết này thì không thể không nhắc đến An Dương Vương. Người là một vị vua anh minh, tài đức, sớm có ý thức xây dựng đất nước. Thật vậy An Dương Vương đã dời đô từ Phong Châu về Phong Khê, thế nhưng việc xây thành lại gặp nhiều trắc trở, cũng vì xây đến đâu lở đến đấy nên người ta đồn đoán rằng chuyện này do ma quỷ.
Để giải quyết khó khăn này vua đã đã lập đàn trai giới, đón tiếp cụ già ở phương xa, ra cửa Đông đón Rùa Vàng, nhờ thành tâm nên được Rùa Vàng trợ giúp xây thành, chỉ trong vòng nửa tháng đã xây xong.
Không những thế An Dương Vương còn là người có tầm nhìn xa trông rộng, biết cảnh giác trước kẻ thù: “Nếu có giặc ngoài thì lấy gì mà chống?”, thấy vậy Rùa Vàng trước khi đi đã để lại cho một chiếc vuốt để làm lẫy Nỏ thần giúp đánh tan quân xâm lược. Chiếc Nỏ thần là sức mạnh thần linh ban tặng cho nước Âu Lạc, cũng là sức mạnh của nhà nước Âu Lạc, sự đoàn kết đồng lòng quyết tâm đánh tan quân xâm lược.
Thế nhưng là một vị vua anh minh không có nghĩa là sẽ không phạm phải sai lầm. Và sai lầm lớn nhất của An Dương Vương đó chính là lơ là, mất cảnh giác trước âm mưu của kẻ thù. Ông không những đồng ý cuộc liên hôn giữa hai nước mà còn đồng ý cho con trai kẻ thù ở rể. Sự anh minh, lỗi lạc cùng sáng suốt của vị vua ngày nào vậy mà nay ông lại trở nên lầm đường lạc lối, thiếu tỉnh táo đến vậy.
Hơn thế ông còn chủ quan, khinh địch, để mất thế chủ động của mình khi địch đến nhưng vẫn ung dung đánh cờ, ỷ lại vào sức mạnh của thành trì và vũ khí. Nhưng vũ nỏ thần giờ không còn, giặc đánh vào thành chỉ còn là vấn đề thời gian, thua trận An Dương Vương dẫn con gái chạy thoát về phía Nam.
Là vua nhưng An Dương Vương cũng là một người cha, hành động tuốt gươm chém chết Mị Châu ở cuối truyện thể hiện sự dứt khoát của một vị vua đã thức tỉnh sẵn sàng cắt đứt tình cha con để thực hiện nghĩa vụ cuối cùng của một vị vua.
Sau khi tự tay chém chết con gái ruột ông cầm sừng tê bảy tấc rẽ một đường xuống biển, đây là chi tiết thể hiện sự bất tử của nhà vua và sự trân trọng của nhân dân với nhà vua. An Dương Vương tuy đã để mất nước nhưng ông lại là vị vua đa tài, biết chăm lo cho đất nước và cả đời vì dân vì nước nên được người đời tôn kính và tưởng nhớ.
Truyện An Dương Vương và Mị Châu- Trọng Thủy đã thành công trong việc kết hợp giữa sự kiện lịch sử và các yếu tố kì ảo, góp phần thể hiện được thái độ của nhân dân ta đối với các nhân vật, giúp cho câu chuyện thêm sinh động và linh hoạt.
Cuộc sống luôn mang đến những điều bất ngờ không tưởng và bất hạnh luôn chầu trực phía trước để bóp nghẹt số phận con người. Và đúng như vậy, chẳng ai có thể đoán trước được điều gì, chỉ đến phút chót chúng ta mới nhận ra, đó là sai lầm, là sự cả tin hay mất cảnh giác đôi chút thôi thế nhưng đổi lại nó lại trở thành sai lầm lớn khiến thay đổi vận mệnh của cả một dân tộc.
Đúng vậy, đó cũng là sai lầm của người lãnh đạo, của một vị vua cả đời anh minh lỗi lạc nhưng lại mất một vài phút giây lầm lỡ khiến dân tộc mình tiêu vong. Và đó là kết cục đáng buồn của câu chuyện về An Dương Vương và Mị Châu- Trọng Thủy, là một câu chuyện đầy đau thương và ẩn chứa nhiều bài học ý nghĩa.
Tiếp theo đón đọc 🌹 Phân Tích Chiến Thắng Mtao Mxây 🌹 11 Bài Văn Mẫu Hay
Phân Tích Nhân Vật An Dương Vương Văn 10 – Mẫu 10
Bài văn mẫu phân tích nhân vật An Dương Vương văn 10 dưới đây sẽ giúp các em học sinh ôn tập tác phẩm và học tốt Ngữ văn.
An Dương Vương và Mị Châu Trọng Thủy qua ngòi bút khắc họa của tác giả dân gian trở nên quen thuộc với nhiều người Việt. Mỗi nhân vật đều được “thần thánh hóa” tạo nên nét đặc sắc cho câu chuyện. Trong đó nhân vật An Dương Vương là một trong những nhân vật được khắc họa rõ nét từ hình ảnh đến hành động.
An Dương Vương là vị vua có tầm nhìn xa trông rộng. Điều ấy thể hiện được việc ông dời đô từ núi Nghĩa Lĩnh về đồng bằng Cổ Loa để ổn định cuộc sống nhân dân. Khi dời đô về Cổ Loa, việc đầu tiên An Dương Vương làm đó là xây dựng thành kiên cố. Việc xây thành là để chống giặc ngoại xâm, nhưng cũng là sự chuẩn bị bảo vệ cho chính mình của An Dương Vương.
Nhưng việc xây thành không như suy nghĩ. Thực tế dù đã tập trung nhiều nhân công, nhưng ngày xây thì đêm đổ. Dù xây thành đắp lũy gặp không ít gian nan, thử thách nhưng An Dương Vương không hề bỏ cuộc. Đến mức An Dương Vương phải “lập đàn làm chay mấy tháng liền”. Chi tiết cụ già từ phương Đông đi lại báo tin cho vua biết sẽ có sứ Thanh Giang đến giúp thể hiện nước cờ này của vua là đúng.
Vậy nên dưới sự giúp sức, chỉ đường dẫn lối của thần Kim Quy, An Dương Vương đã trừ được yêu tinh, xây xong thành. Hình tượng Loa Thành “cao dài hơn nghìn trượng, hình trôn ốc” thể hiện sự cảnh giác và bất khả xâm phạm tới nhân dân Âu Lạc.
Khi thần Kim Quy làm tròn sứ mệnh, từ giã ra về, An Dương Vương ngoài lời cảm tạ, đã không ngần ngại bày tỏ nỗi lòng “nhờ thần phù trợ, thành đã xây xong, nhưng làm thế nào chống giữ quận địch”. Điều này cho thấy vị vua này không tin tưởng tuyệt đối vào thành lũy, mà luôn băn khoăn lo sợ giặc ngoại xâm chiếm đóng.
Vậy nên khi được thần Kim Quy tặng móng để làm nỏ, theo lời thần dặn, An Dương Vương đã ngay lập tức tìm người chế nỏ thần. Đó là chiếc nỏ “bắn trăm phát trúng cả trăm, và chỉ một phát có thể giết hàng ngàn quân địch”. Thế nên, An Dương Vương quý chiếc nỏ thần vô cùng, vì cả vận mệnh dân tộc nằm trong tay ông, “lúc nào cũng treo gần chỗ nằm”.
Nhờ sự chuẩn bị kỹ lưỡng, nhìn xa trông rộng, nên cùng với nỏ thần vua tôi An Dương Vương đã giành nhiều thắng lợi to lớn, đánh tan dã tâm xâm lược của quân Triệu Đà, đến mức “chạy về Trâu Sơn đắp lũy không dám đối chiến, bèn xin hòa”.
Dù là một vị vua anh minh, sáng suốt bao nhiêu nhưng cũng có lúc An Dương Vương mắc vào mưu sâu kế hiểm của địch. Vì quân Triệu Đà không thể chống lại được vũ khí và chín vòng thành của An Dương Vương nên đã trì hoãn bằng cách cầu hòa và còn cầu hôn Mị Châu – con gái yêu của An Dương Vương cho Trọng Thủy.
Việc đồng ý gả Mị Châu cho Trọng Thủy là một sai lầm lớn của An Dương Vương. Đến việc cho Trọng Thủy ở rể theo tục lệ của nước Âu Lạc lại càng sai. Đó chính là hành động “cõng rắn cắn gà nhà” mở đầu cho liên tiếp bi kịch sau này. Có lẽ khi cho Mị Châu lấy Trọng Thủy, An Dương Vương không đứng ở góc độ là một quân vương, mà là một người cha, người cha “thấy đôi trẻ yêu thương nhau” nên không ngần ngại gả con gái mình.
Và chính sự ngây thơ của Mị Châu lại tiếp tay cho Trọng Thủy biết được bí mật quốc gia và tráo đổi nỏ thần. Trước đây An Dương Vương cảnh giác bao nhiêu thì giờ đây lại sơ hở bấy nhiêu. Vì chủ quan khinh địch, cậy có nỏ thần mà ngủ quên trên chiến thắng, không phòng bị gì. Đến mức khi quân Triệu Đà đánh sang cổng thành, An Dương Vương vẫn điềm nhiên mà rằng “Đà không sợ nỏ thần sao”. Để khi thức tỉnh nhận ra thì đất nước đã rơi vào tay kẻ thù.
An Dương Vương cùng con gái Mị Châu bỏ chạy, tình thế nguy cấp vô cùng, quân địch đuổi ngay sau lưng. Khi đến bước đường cùng, An Dương Vương liền chạy ra biển “Trời hại ta, sứ Thanh Giang ở đâu mau mau lại cứu”. Thần Kim Quy xuất hiện và bảo An Dương Vương rằng “giặc ở sau lưng nhà vua đấy”.
Lúc này vua mới thật sự tỉnh ngộ, dù đau khổ vô cùng nhưng ông không ngần ngại rút gươm giết chết con gái duy nhất của mình. Hành rộng rút gươm giết con gái thể hiện sự kiên quyết, dứt khoát. Khi ấy ông không còn là một người cha, ông đứng trên lập trường của một vị vua vì công lý và quyền lợi dân tộc để trừng trị kẻ tội đồ.
Cùng một lúc An Dương Vương phải chịu tới hai nỗi đau, đó là nỗi đau mất nước và nỗi đau nhà tan cửa nát. Sự hối hận muộn màng của An Dương Vương cũng là bài học xương máu, lời cảnh tỉnh cho thế hệ sau trong quá trình giữ nước. Cuối cùng, An Dương Vương cầm sừng tê bảy tấc trở về với biển cả. Có lẽ chi tiết kì ảo cuối bài là thể hiện sự khoan dung của nhân dân dành cho vị vua ấy. Vì dù có tội nhưng đó là vô tình mà gây ra.
Thông qua phân tích nhân vật An Dương Vương ta thấy được công tội mà ông đã gây ra. Thông qua hình tượng An Dương Vương có lẽ cũng là thông điệp mà ông cha muốn gửi gắm đến thế hệ sau này về tính cảnh giác trong đấu tranh giữ nước.
Gợi ý trọn bộ 🌼 Phân Tích Nhân Vật Đăm Săn 🌼 14 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Phân Tích An Dương Vương Lớp 10 Đạt Điểm Cao – Mẫu 11
Để viết bài phân tích An Dương Vương lớp 10 đạt điểm cao, các em học sinh có thể tham khảo gợi ý làm bài như sau:
Kho tàng truyện dân gian Việt Nam là nơi đúc kết kinh nghiệm cũng như lưu giữ những giá trị lịch sử, đặc biệt là thể loại truyền thuyết. Ở thể loại này, chúng ta không thể không nhắc tới truyền thuyết “An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy”. Bởi đây là một câu chuyện nhắc nhở chúng ta bài học về dựng nước và giữ nước. Không chỉ vậy, nó còn giúp chúng ta tìm hiểu về một vị vua anh minh, tài đức, có tầm nhìn xa trông rộng – An Dương Vương.
An Dương Vương là vị vua có công xây dựng và lập ra đất nước Âu Lạc. Suốt cả cuộc đời của mình, ông đã tạo dựng được những điều lớn lao mà không phải ai cũng có thể làm được. Thế nhưng, vì một chút tự tin thái quá, tin tưởng người con rể – nội gián – con trai của kẻ thù, cùng với sự tự phụ, tự mãn, ông đã khiến sự nghiệp cả đời mình dựng lên sụp đổ và cũng làm tan vỡ cả hạnh phúc của gia đình.
Trước hết, ta thấy ở An Dương Vương là một vị vua có tài có đức, biết trọng dụng người tài, biết nhìn xa trông rộng, có tài thao lược nên nhận được sự ủng hộ của muôn dân và cả thần linh. Nói ông là một vị vua có tài bởi vì chính ông là người đã gây dựng sự nghiệp của mình bằng việc lập ra đất nước Âu Lạc – đất nước mà do ông làm chủ.
Mặc dù có nhiều người tài trong xã hội lúc bây giờ nhưng liệu mấy ai có đủ chí khí, tài năng mà đứng lên lãnh đạo để lập ra một đất nước của riêng mình? Nếu không có tài thao lược dẫn dắt, có đức năng hợp lòng dân thì liệu có thể xây dựng được cho mình một đế chế riêng như vậy chăng?
Không chỉ vậy, ông còn tỏ ra là một vị vua có tầm nhìn xa trông rộng. Bởi khi đó, nước ta chỉ là một vương quốc nhỏ ở phía Nam, thường xuyên bị các cường quốc bên cạnh nhòm ngó. Chính vì vậy, ông đã tìm kiếm một vùng đất để xây dựng một thành trì vững chãi chống lại quân thù.
Nơi vùng đất ông chọn là vùng Phong Khê, Đông Anh ngày nay, ông lệnh cho quân lính của mình xây dựng một thành trì vững chắc có hình xoáy ốc, bên ngoài đào hào sâu, nhằm chống lại những cuộc tấn công của kẻ thù. Ngoài ra, ông cũng luôn chuẩn bị vũ khí (nỏ thần) để nghênh chiến kẻ thù bất cứ lúc nào. Nếu như không phải là một vị vua anh minh, biết nhìn xa, thì liệu An Dương Vương có thể có được những quyết định đúng đắn như vậy hay không?
Hơn thế, An Dương Vương còn là một người luôn có lòng kiên trì, quyết tâm hoàn thành công việc, dù việc đó có khó khăn đến thế nào đi nữa. Tương truyền, An Dương Vương cho “xây thành ở đất Việt Thường, nhưng hễ đắp tới đâu lại lở tới đấy”, “xây nhiều lần nhưng cứ bị sập đổ, tốn nhiều công sức”.
Thế nhưng, không nản lòng, ông vẫn tiếp tục cho xây dựng thành trì trên mảnh đất ấy. Nếu như là một người dễ dàng nản chí, chịu thất bại thì liệu sau bao nhiêu lần sập đổ, “tốn nhiều công sức mà không thành”, liệu ông có tiếp tục cho xây dựng thành trì tại đó nữa hay không? Phải nói rằng, đây là một vị vua có chính kiến, có lòng kiên trì với công việc chung của đất nước, có trách nhiệm, lo lắng cho an nguy của đất nước. Chính vì thế, ông luôn kiên trì tới cùng với những quyết định của mình và thực hiện tới cùng quyết định ấy.
Không chỉ là một người có lòng quyết tâm sắt đá, ông cũng là người luôn biết trọng dụng người tài, biết trọng kẻ sĩ trong xã hội. Khi xây thành nhiều lần không được, ông đã cho người lập đàn cầu đảo mong thánh thần sẽ tới phù hộ cho công việc của mình. Thế nhưng vẫn không có kết quả, cho tới khi có một cụ già từ phương tây tới cửa thành mà than rằng: ” Xây dựng thành này biết bao giờ mới xong được?”. Chính vì câu nói này, nhà vua đã vội đón cụ vào trong điện, “vái mà hỏi rằng”.
Nếu không nặng lòng với non nước, quyết tâm với công việc của mình, trọng người tài giúp ích cho việc nước thì liệu ông – một nhà vua trên cao có phải cúi mình vái một ông già xa lạ hay không? Không chỉ vậy, sau khi nghe tin sẽ được thánh thần giúp đỡ, ông đã thức dậy “chờ đợi” ở cửa đông.
Thân là một vị vua trên cao nhưng luôn hết lòng vì dân vì nước. Đến khi gặp được Cao Lỗ, là một thợ làm cung tiễn giỏi, ông cũng đã đón vào cung, dành cho Cao Lỗ vị trí đặc biệt, giao cho việc chế tạo nỏ thần, cùng giúp ông việc nước. Phải nói, An Dương Vương là một vị vua tài đức, luôn sẵn lòng trọng dụng người giúp ích cho đất nước.
Không chỉ vậy, ông cũng là vị vua có tinh thần cảnh giác cao độ, có ý chí chiến đấu mạnh mẽ cùng tài chỉ huy thao lược, luôn chuẩn bị sẵn sàng cho việc chiến đấu chống kẻ thù. Chính vì vậy, nhiều lần Triệu Đà ở phương Bắc mang quân đánh chiếm Âu Lạc đều bị An Dương Vương đánh bại. Đó chính là kết quả từ việc xây dựng Loa thành kiên cố cùng với việc có tinh thần cảnh giác cao độ và vũ khí sẵn sàng.
Tóm lại ta thấy rằng, An Dương Vương là một vị vua anh minh, có tài thao lược, có tinh thần trách nhiệm cao với đất nước, đồng thời luôn có lòng cảnh giác cao độ với kẻ thù. Chính vì những phẩm chất đó, ông đã được sự ủng hộ của nhân dân và cả thần linh trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước của mình.
Thế nhưng, sau chiến thắng trước kẻ thù mạnh, có được thành trì Loa thành vững chãi cùng vũ khí lợi hại, ông đã mắc phải những sai lầm quan trọng khiến cho mình rơi vào cảnh nước mất nhà tan. Đó là sự tự phụ và mất cảnh giác với kẻ thù. Như chúng ta thấy rằng, sau chiến thắng với Triệu Đà, An Dương Vương đã ngày càng trở nên tự phụ. Ông coi mình có “nỏ thần”, một lần bắn ra trăm mũi tên, khiến cho quân giặc khiếp hãi thì chúng sẽ không tấn công Âu Lạc nữa.
Chính sự tự phụ ấy đã khiến ông phải trả một cái giá đắt: Đất nước rơi vào tay kẻ thù, gia đình phải ly tán đau đớn. Ông luôn cho rằng có nỏ thần thì quân địch sẽ không dám tiến đánh Âu Lạc mà không hề nghi ngờ, cảnh giác được âm mưu thâm hiểm của kẻ thù. Đến khi quân địch tới chân Loa thành, ông vẫn tự phụ cho rằng: ” Đà không sợ nỏ thần hay sao?” mà không hề biết rằng nỏ thần đã bị con rể đánh tráo.
Cũng chính vì lòng tự phụ, tự mãn ấy của bản thân mình, An Dương Vương đã lơi lỏng cảnh giác. Ông đã chấp nhận dễ dàng lời cầu hòa của Triệu Đà mà không hề nghi ngờ âm mưu mà hắn dựng lên phía sau đó. Hơn thế, ông còn chấp nhận gả con gái của mình cho con trai của kẻ thù và còn để hắn ở rể tại Loa thành.
Có lẽ sự tự tin thái quá trước kẻ thù, sự mất cảnh giác, những sai lầm liên tiếp ấy chính là những nguyên nhân gây ra sự đại bại của Âu Lạc. An Dương Vương đã mất cảnh giác, lơi lỏng tới mức uống say để kẻ thù có cơ hội đánh tráo cả báu vật quốc gia. Ông đã quá tin tưởng con rể vốn là con trai của kẻ thù mà gây ra thảm kịch cho cả Âu Lạc.
Đến khi nhận ra tình thế không thể cứu vãn, bị giặc đuổi giết, An Dương Vương cũng chỉ biết đường trốn tránh mà không dám suy xét, đương đầu với kẻ thù. Sự tự mãn, tự phụ đã khiến ông mất đi tất cả! Nó khiến ông không nhận ra được mưu kế cũng như không đánh giá đúng thực lực của kẻ thù để rồi phải nhận lấy thất bại nặng nề.
Cũng chính sai lầm to lớn ấy của ông khiến ông phải chính tay mình giết chết con gái ruột – người thân ruột thịt của mình. Đây là một hình phạt đau đớn nhất mà ông phải nhận khi đã buông lỏng cảnh giác với kẻ thù, gây nên những cảnh lầm than cho vương quốc. Dù sau này, ông được thần Kim Quy cứu rồi cầm sừng tê tê rẽ nước xuống biển rồi biến mất. Nhưng sự bất tử đó của ông lại đánh dấu sự kết thúc của đất nước Âu Lạc.
Tóm lại ta có thể thấy ở đây, An Dương Vương hiện lên là một vị vua thông thạo việc trị nước, có lòng thương dân, có tài có đức, là một vị vua anh minh sáng suốt. Thế nhưng chỉ vì một phút lơi lỏng cảnh giác với kẻ thù đã khiến ông mất đi tất cả, kết thúc một triều đại do ông dựng xây lên. Đó là bài học to lớn mà ông cha ta muốn truyền lại cho con cháu thời sau: Phải luôn cảnh giác trước kẻ thù xâm lược.
Kết thúc câu chuyện là cái chết của con gái An Dương Vương – Mị Châu. Đó là một kết thúc buồn nhưng đó là hình phạt thích đáng dành cho An Dương Vương khi chính ông đã tự tay đánh mất đất nước của mình. Bằng hình ảnh đi vào bất tử của ông, nhân dân muốn bày tỏ lòng thương tiếc với vị vua tài giỏi, đã có công dựng xây và bảo vệ đất nước, non sông.
Chia sẻ thêm cùng bạn 🍀 Phân Tích Bài Ca Ngắn Đi Trên Bãi Cát 🍀 15 Bài Văn Hay Nhất
Phân Tích Truyện An Dương Vương Chi Tiết – Mẫu 12
Tham khảo bài phân tích truyện An Dương Vương chi tiết dưới đây để nắm được đầy đủ những khía cạnh của nhân vật văn học này.
Truyện An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy”, là một trong những truyền thuyết nằm trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam nói về lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Tuy nhiên đây là một truyện đặc biệt, bởi nó vừa là một câu chuyện bi kịch gia đình lại vừa là truyền thuyết bi tráng nhất, bài học và ý nghĩa của truyện còn vang vọng mãi trong lòng nhân dân và xuyên suốt các thời đại lịch sử Việt Nam.
Trong phần đầu của truyện, An Dương Vương hiện lên là một vị vua anh minh, sáng suốt, có lòng yêu nước, thương dân. Tinh thần trách nhiệm cao cả của ông không thể hiện qua lời nói, suy nghĩ mà được chứng minh qua những hành động cụ thể.
Sau khi lên ngôi vua, An Dương Vương đã quyết định xây thành Cổ Loa nhằm tạo thành trì vững chắc phục vụ cho nhiệm vụ chống giặc ngoại xâm, giữ thái bình, yên ổn cho dân. Trước đó, các thế hệ tiền nhân chưa ai nghĩ đến việc xây thành để phòng thủ, An Dương Vương bằng tầm nhìn của một bậc minh quân đã quyết định thực hiện nó, đó là một quyết định đúng đắn, cho thấy tầm nhìn xa hiểu biết rộng của ông.
Trong quá trình xây thành, gặp phải trắc trở, An Dương Vương vẫn kiên trì xây thành vì sự an nguy và ổn định của nhân dân lập đàn trai giới cho thấy được sự tin tưởng của nhà vua trong chiến lược xây thành của mình là hợp ý trời, thuận lòng người. Bởi vậy mà khi lập đàn cầu đảo, vua đã được cụ già từ phương Đông báo sẽ có sứ giả Thanh Giang đến giúp đỡ xây thành.
Chỉ nửa tháng sau khi được sứ Thanh Giang giúp đỡ, thành Cổ Loa được hoàn thiện với sự kiên cố vững chắc “thành rộng hơn ngàn thước, xoắn như hình trôn ốc”- một thành luỹ to lớn bảo vệ đất nước được dựng lên nơi vùng đất rộng lớn, màu mỡ. Có thể nói, An Dương Vương đã rất tâm huyết với việc xây thành, đó là thành quả xứng đáng cho những gì nhà vua đã tận tâm xây dựng.
Không chỉ vậy, An Dương Vương còn rất mực cẩn trọng, lo cho an nguy của xã tắc, khi chia tay sứ Thánh Giang, nhà vua không quên bày tỏ nỗi lo lắng: “Nhờ ơn của thần, thành đã xây được. Nay nếu có giặc ngoài thì lấy gì mà chống?”. Đó là nỗi băn khoăn của một vị vua có trách nhiệm với đất nước.
Ngay sau khi được Rùa Vàng tặng vuốt, một chiếc nỏ thần được chế tạo thành công thể hiện ý chí, quyết tâm đánh đuổi giặc ngoại xâm của vua và nhân dân u Lạc lúc bấy giờ. Chính nhờ cái nhìn lâu dài và sự chuẩn bị chu đáo ấy, mà đội quân u Lạc đã giành thắng lợi vinh quang trước quân ác chiến Triệu Đà.
Trong phần đầu truyện, ta thấy công đức mà An Dương Vương đã làm cho con dân u Lạc là điều đáng trân trọng và cảm phục. Là vị vua đứng đầu một quốc gia, ông đã hoàn thành nhiệm vụ của mình trong việc lo cho dân cho nước, công lao đó được nhân dân và con cháu đời sau ngợi ca và ghi nhớ.
Không chỉ là một vị vua thương dân, yêu nước mà An Dương Vương còn là một bậc anh hùng tin vào công lý, yêu chuộng hoà bình. Khi Triệu Đà, kẻ thù đem quân xâm chiếm nước ta, hắn dùng mưu đưa con trai là Trọng Thủy vào xin làm rễ để giữ tinh thần hòa hiếu cho hai bên, lúc này vua cũng vui vẻ chấp nhận. Lòng khoan dung, tinh thần chuộng hoà bình của dân tộc được An Dương Vương kế thừa và tiếp nối, ông là đại điện tiêu biểu cho phẩm chất nhân ái của con người Việt Nam.
Tuy nhiên, hành động đồng ý gả con gái cho con trai kẻ thù mà không mảy may chút nghi ngờ cho thấy sự chủ quan, tự mãn nơi An Dương Vương.
“Một đôi kẻ Việt người Tần
Nửa phần ân ái nửa phần oán thương”
Vì trọng nghĩa hoà yếu, yêu con gái và tự tin vào sức mạnh của Nỏ thần, An Dương Vương đã không lường trước được âm mưu xâm lược thâm độc của Triệu Đà. Chủ quan, khinh địch, quá phụ thuộc vào chiếc nỏ thần là nguyên nhân khiến cơ đồ u Lạc “đắm biển sâu”. Vì giây phút “ngủ quên” trên chiến thắng, tự mãn vì cậy có nỏ thần, mất cảnh giác khi tin vào con kể thù mà An Dương Vương đã phải đánh đổi cả sự nghiệp to lớn bấy lâu gây dựng, đánh đổi cả mạng sống và sự bình yên của nhân dân.
Rời bỏ thành chạy trốn cùng con gái, An Dương Vương tìm đường cầu cứu thần Kim Quy, khi Rùa Vàng bảo “kẻ sau lưng chính là giặc”, vua bàng hoàng hiểu ra mọi chuyện, đau đớn trăm phần. Tự tay mình rút đao gươm giết đi người con gái hết mực yêu quý, còn điều gì đau đớn hơn? Nhưng đứng trên lập trường của công lý, Mị Châu là kẻ có tội, kẻ có tội với đất nước, với nhân dân không thể không trừng trị.
Bi kịch nước mất, nhà tan của An Dương Vương là bài học quý giá cho thế hệ sau trong quá trình dựng và giữ nước. Cuối truyện, An Dương Vương cầm sừng tê bảy tấc được Rùa Vàng đưa trở về với biển cả. Chi tiết kì ảo ấy đã thể hiện sự khoan dung và niềm tiếc thương vô hạn của nhân dân về một vị anh hùng đã có công dựng nước.
Truyền thuyết “Truyện An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thuỷ” tuy có một kết thúc đầy bi kịch và đau buồn nhưng đã hóa giải được những nỗi oan, niềm oán giận và sự hối hận trong các nhân vật. Kết thúc đó vừa thể hiện được truyền thống yêu nước gắn liền tự tôn dân tộc lại vừa thể hiện sự bao dung độ lượng của nhân dân ta. Truyện đã để lại cho đời sau bài học quý giá để bảo vệ đất nước, phải biết đề cao cảnh giác trước kẻ thù, đặt cái chung của dân tộc lên trên cái riêng của cá nhân.
Đọc nhiều hơn dành cho bạn ☀️ Phân Tích Thu Điếu Nguyễn Khuyến ☀️ 15 Bài Văn Hay Nhất
Phân Tích Nhân Vật An Dương Vương Từ Đó Rút Ra Bài Học – Mẫu 13
Với đề văn phân tích nhân vật An Dương Vương từ đó rút ra bài học, dưới đây chia sẻ bài văn mẫu để các em học sinh vận dụng khi làm bài.
Truyền thuyết là một thể loại truyện dân gian nhằm ghi chép những sự kiện, nhân vật liên quan đến lịch sử. Chúng ta biết đến một số truyền thuyết như “Sơn Tinh,Thủy Tinh” , “Thánh Gióng”, “Con Rồng cháu Tiên”…
Đến với truyền thuyết “An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy”, chúng ta sẽ thấy được một tinh thần chống giặc ngoại xâm của cha ông ta ngày xưa, bên cạnh đó là bài học đắt giá về tinh thần luôn luôn cảnh giác với kẻ thù bên ngoài qua nhân vật An Dương Vương. Chúng ta cũng thấy được cách xử lí, hành xử đúng đắn giữa các mối quan hệ trong xã hội từ gia đình đến tình yêu cá nhân.
Trước tiên, ta thấy được công lao to lớn của An Dương Vương trong việc xây dựng Loa Thành và chế ra nỏ thần để giữ thành, giữ nước. Thục Phán đã cho xây thành ở đất Việt Thường nhưng khó khăn chồng chất khi đắp đến đâu thì lở tới đấy. Nhưng ông không nản chí, với tấm lòng của một vị vua muốn giữ nước ông quyết định lập đàn trai giới, cầu các vị thần linh.
Tấm lòng của ông đã thấu cả trời xanh nên đã có một cụ già xuất hiện đúng ngày bảy tháng ba. Cụ già này chính là nhân vật thần kì do nhân dân sáng tạo ra nhằm đề cao tinh thần xây thành giữ nước của vua Thục Phán là rất đúng đắn. Ông xây thành ắt sẽ được giúp đỡ. Quả đúng như lời cụ già đã nói, Rùa Vàng xuất hiện tự xưng là sứ Thanh Giang thông tỏ mọi việc. Rùa Vàng đã giúp cho An Dương Vương xây dựng Loa Thành.
Thành là một công trình vô cùng đồ sộ và kiên cố “Thành rộng hơn ngàn trượng, xoắn như hình trôn ốc”. Điều này cho thấy rằng, An Dương Vương đã có ý thức rất lớn phòng trừ trước nguy cơ bị giặc xâm lược. Sau khi xây thành xong, vua còn nhờ Rùa Vàng nói bí quyết để giữ thành, giữ nước. Nhờ chiếc vuốt của Rùa Vàng mà chế ra được nỏ thần gọi là “Linh quang Kim Quy thần cơ”.
Có thành trì kiên cố, có nỏ thần – một vũ khí tấn công mà Rùa Vàng đã nói “Giữ vật này làm lẫy nỏ. Khi có giặc, mang ra bắn thì sẽ không lo gì nữa” mà vua An Dương Vương đã đánh đuổi quân Triệu Đà. Nỏ thần bắn một phát chết hàng vạn tên khiến giặc thua phải khiếp sợ và xin cầu hòa.
Nhưng có thực là An Dương Vương giữ nước bằng thực lực của bản thân không khi nhờ Rùa Vàng mà An Dương Vương xây dựng được thành, cũng nhờ Rùa Vàng mới chế được nỏ thần. Chính việc chiến thắng quá dễ dàng trước quân giặc đã khiến cho ông chủ quan khinh thường giặc và cuối cùng để dẫn hậu quả về sau này.
Bi kịch sau này chính là nước mất, nhà tan. Chính Triệu Đà là quân sang xâm lược nước ta, và chúng bị đánh thua ắt hẳn sẽ rất thù hằn mà nhằm cơ hội tấn công lại. Vậy mà, khi Triệu Đà cầu hôn, nhà vua đã gả con gái Mị Châu cho con trai Đà là Trọng Thủy. Lại còn để Trọng Thủy ở rể chẳng khác nào rước giặc vào nhà. An Dương Vương đã mất sự cảnh giác và tạo cơ hội cho tên gián điệp kia biết được bí mật của vũ khí chống lại giặc.
Trọng Thủy đã dùng lời lẽ ngọt ngào để Mị Châu tin tưởng, nhằm lấy nỏ thần đưa cho hắn. Nàng đâu biết rằng chính hành động đó đã làm mất nước, mất gia đình, mất cả tình yêu của mình. Đã chiếm được nỏ thần, Triệu Đà bèn xâm lược lại nhưng An Dương Vương rất chủ quan, ỷ lại có nỏ thần. Quân giặc sang xâm lược mà vua còn thản nhiên đánh cờ nói: “Đà không sợ nỏ thần sao?”. Sự chủ quan, mất cảnh giác và ỷ lại vào vũ khí của thần đã khiến cho bi kịch nước mất nhà tan là tất yếu.
Đó chính là bài học đắt giá cho thái độ mất cảnh giác trước kẻ thù xâm lược. Đến lúc vua bỏ chạy cùng con gái ra bờ biển Rùa Vàng đã hiện lên thét lớn: “Kẻ ngồi sau lưng chính là giặc”. Câu nói của Rùa Vàng chính là lời kết tội của nhân dân trước hành động của Mị Nương. Hành động đó tuy chỉ là hành động vô tình vì sự tin tưởng người chồng nhưng nhà vua đã tự tay chém đứa con gái của mình. Thật đau đớn biết bao!
Truyền thuyết “An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy” đã để lại nhiều dấu ấn trong lòng người đọc. Nhân dân ta vừa ca ngợi công lao của An Dương Vương trong việc dựng thành bảo vệ đất nước nhưng cũng phê phán ông đã quá chủ quan để cuối cùng đất nước lại rơi vào tay giặc.
Gợi ý cho bạn 🌳 Phân Tích Bài Thơ Khóc Dương Khuê 🌳 11 Bài Văn Hay Nhất
Phân Tích Nhân Vật An Dương Vương Về Việc Để Mất Nước Nhà Tan – Mẫu 14
Bài văn phân tích nhân vật An Dương Vương về việc để mất nước nhà tan dưới đây sẽ là nội dung tham khảo cần thiết dành cho các em học sinh.
Có lẽ trong kho tàng văn học dân gian thì những câu chuyện cổ tích hay truyền thuyết là những giá trị lịch sử một thời mà cha ông ta gửi gắm và là suối nguồn mát lành nuôi dưỡng văn học viết sau này.
Trong số ấy, thì truyền thuyết An Dương Vương-Mị Châu-Trọng Thủy là một trong những truyền thuyết tiêu biểu phản ánh bi kịch mất nước nhà tan và ý thức lịch sử của nhân dân, trong đó nhân vật An Dương Vương đã để lại nhiều bài học sâu sắc về việc dựng nước và giữ nước, cùng tấm lòng yêu nước thương dân và tầm nhìn xa trông rộng của một vị lãnh tụ.
Trước hết, An Dương Vương hiện lên là một vị vua yêu nước, thương dân có tinh thần trách nhiệm với vận mệnh của xã tắc non sông. Sau khi lên ngôi Vua, ngài lập đàn trai giới, cầu đảo bách thần để mong xây thành được thuận lợi. Lo lắng cho an nguy của xã tắc, non sông mong muốn cho nhân dân được sống ấm no hạnh phúc nên ý thức muốn xây thành giữ nước chính là biểu hiện của một bậc thánh quân, một vị lãnh tụ có tầm nhìn xa trông rộng, điều này là điều mà các thế hệ trước chưa ai nghĩ tới.Hơn thế nữa, ông cũng tỏ ra là người biết trọng dụng người tài.
Khi được một cụ già báo tin sẽ có xứ Thánh Giang đến giúp đỡ việc xây thành, nhà vua đã dùng xe bằng vàng rước vào trong thành, kính cẩn tiếp đón. Những bậc hiền tài là nguyên khí quốc gia, biết quý trọng và trọng dụng người tài chính là biểu hiện của sự sáng suốt và biết xây dựng chính sách có ích cho sự cai trị và phát triển đất nước. Sau đó, được sự giúp đỡ của Rùa Vàng nhà vua cho người đúc nỏ thần gọi là nỏ “Linh quang Kim Quy thần cơ”.
Không chỉ dừng lại ở đấy , tấm lòng của nhà vua còn thể hiện ở việc, sau khi Triệu Đà đem quân sang đánh thất bại bèn dùng kế cho Trọng Thủy làm rể để mật thám tin tức thì vua An Dương Vương cũng vui vẻ chấp nhận vì sự hòa hiếu bang giao của hai bên. Đó cũng chính là truyền thống ngàn đời của người dân ta đó là yêu chuộng hòa bình, không muốn xảy ra chiến tranh, xung đột.
Như vậy với những phẩm chất như yêu nước, thương dân, có tinh thần trách nhiệm cao với non sông và tầm nhìn xa trông rộng cùng tấm lòng bao dung, khoan hòa đấy cũng chính những phẩm chất mà cha ông ta gửi gắm vào những vị lãnh tụ vĩ đại.Nhưng An Dương Vương lại mất đề cao, cảnh giác và quá tin tưởng mù quáng vào bản chất của kẻ thù.
Khi thấy Triệu Đà đem quân sang đánh lần hai, vẫn điềm nhiên đánh cờ vì quá tin tưởng, và thiếu cảnh giác vào sự mưu mô nham hiểm của kẻ thù. Ông đã không nhận ra được bản chất thâm độc, cố hữu và tham vọng, dã tâm của những kẻ xâm lược nên vẫn còn ngoan cố mà không hề đề phòng hay sáng suốt phân tích tình hình.
Qua sự sai lầm và sự tin tưởng mù quáng ấy Của An Dương Vương cha ông ta muốn gửi gắm đến con cháu đời sau bài học về việc giữ nước, về sự tin tưởng, sáng suốt đặc biệt là những nhà lãnh đạo. Đó là nỗi đau mất nước sâu sắc để lại nhiều bài học đớn đau cho dân tộc, nhắc nhở nhân dân ta bài học về việc giữ nước mà cho đến tận hôm nay vẫn còn nguyên giá trị.
Qua hình tượng An Dương Vương, cha ông ta đã gửi gắm những thông điệp triết lí sâu sắc về việc dựng nước và giữ nước. Đồng Thời gửi gắm khát khao muốn xây dựng một đất nước độc lập, tự cường, hùng mạnh.
Đọc nhiều hơn dành cho bạn ☀️ Phân Tích Vịnh Khoa Thi Hương ☀️ 9 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Phân Tích Nhân Vật An Dương Vương Trong Việc Xây Thành Chế Nỏ Đánh Thắng Triệu Đà – Mẫu 15
Tham khảo bài văn mẫu phân tích nhân vật An Dương Vương trong việc xây thành chế nỏ đánh thắng Triệu Đà để trau dồi cho mình những ý văn hay.
Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, nếu cổ tích có “Tấm Cám”, truyện ngụ ngôn có “Thầy bói xem voi” thì truyền thuyết có “An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy”. Đây có thể xem là câu chuyện bi kịch đầu tiên trong văn học dân tộc, nó đã lấy đi không ít nước mắt cũng như sự căm phẫn của người đọc. Tuy nhiên, cũng chính qua nhân vật An Dương Vương mà ta đã rút ra được bài học cho chính mình: đừng quá chủ quan, khinh thường địch mà chuốc lấy thất bại.
Truyện xưa kể rằng, vua Hùng có một người con gái đẹp tuyệt trần tên là Mị Nương. Năm đó, Thục vương sai sứ đi cầu hôn Mị Nương. Vua Hùng tính đồng ý nhưng tướng Lạc Hầu cản lại, bảo rằng Thục chỉ có mưu đồ chiếm nước ta mà thôi. Không cầu hôn được vợ, Thục vương tức lắm. Di chúc để lại cho đời sau buộc phải cướp được nước Văn Lang của vua Hùng. Con cháu vua Thục mấy lần kéo binh sang đánh mà không được.
Vua Hùng thấy thế đâm ra tự mãn, chỉ lo vui chơi, không lo việc binh biến, cuối cùng phải nhảy sông tự vẫn. Nước Văn Lang bị mất. Năm Giáp Thìn (257 trước công nguyên), Thục Phán đã đứng lên dẹp loạn, tự xưng là An Dương Vương, lập ra nước Âu Lạc. Ông đã một lòng vì nước, rất thương dân. Triệu Đà đánh thua bèn rút về nước, cầu hòa và xin An Dương Vương gả con gái Mị Châu cho con trai Đà là Trọng Thủy.
Mặc dù tướng Cao Lỗ đã hết sức can ngăn nhưng An Dương Vương vẫn mặc, lại còn bãi chức tướng Cao Lỗ. Và bi kịch cũng xuất phát từ đó. Truyền thuyết “An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy”, trích truyện “Rùa Vàng” trong “Lĩnh Nam chích quái”, đã nói lên chiến công của An Dương Vương trong việc xây thành Cổ Loa và diễn tả nỗi bi thảm của mối tình giữa Mị Châu và Trọng Thủy.
Trong buổi đầu dựng nước, An Dương Vương đã rất có công với dân tộc. Ông cho xây thành Cổ Loa với hi vọng nhân dân sẽ được ấm no hạnh phúc. Việc xây thành mãi vẫn không thành công, ông bèn cầu trời phật, giữ cho tâm mình trong sạch. Điều đó đủ để thấy tâm huyết của ông dành cho dân tộc là như thế nào. Nhờ sự giúp đỡ của sứ Thanh Giang cùng với tấm lòng yêu nước thương dân của ông, chỉ nửa tháng sau, thành đã được xây xong.
Có lẽ ông đã vui mừng khôn xiết khi thấy điều đó. Ông còn lo cho vận mệnh đất nước khi tâm sự mối băn khoăn lại bị Đà xâm chiếm với thần Kim Quy. Thần đã cho An Dương Vương một cái vuốt. Ông đã làm thành nỏ, cái nỏ ấy có thể bắn ra hàng ngàn mũi tên chỉ trong một lần bắn (nhân dân gọi là nỏ thần). Nước Âu Lạc nhờ thế nên đã được sống trong thái bình thịnh trị. Ta thấy rằng An Dương Vương quả là một vị minh quân, một người biết nhìn xa trông rộng, biết lo trước những mối lo của thiên hạ.
Nhưng cũng chính vì thế cũng đã hình thành tính tự mãn nơi ông. Khi Đà sang cầu hôn, ông đã đồng ý gả con gái mình cho con trai Đà là Trọng Thủy. Cuộc hôn nhân giữa hai nước vốn đã có hiềm khích là sự dự báo cho những mối hiểm họa về sau.
“Một đôi kẻ Việt người Tàu
Nửa phần ân ái nửa phần oán thương”
Sự tự mãn là bạn đồng hành của thất bại. Có nỏ thần trong tay, An Dương Vương dường như đã nắm chắc phần thắng trong tay. Đỉnh điểm là lúc được báo Triệu Đà sang đánh chiếm thì ông “vẫn điềm nhiên ngồi đánh cờ, cười mà nói rằng: ‘Đà không sợ nỏ thần sao?'” Ông đã bước vào vết xe đổ của người xưa, để rồi lúc nguy cấp nhất, ông mới lấy nỏ thần ra bắn và biết là nỏ giả, liền dắt con gái bỏ chạy về phương Nam.
Trong lúc cấp bách, ông chỉ biết mỗi việc bỏ chạy chứ không còn cách đối kháng nào khác. Khi ra đến biển Đông, ông còn không nhận ra được đâu là giặc, ông chỉ ngửa mặt kêu “trời” mà không biết phải làm gì. Đến khi thần Rùa Vàng hiện lên và nói: “Kẻ ngồi sau lưng chính là giặc đó!” thì ông đã rút gươm chém con gái của mình. Hành động dứt khoát, không do dự ấy đã chứng minh ông là một vị minh quân. Ông đặt việc nước lên trên việc nhà, không để việc riêng làm lung lay ý chí.
Thần Rùa Vàng hay chính thái độ của nhân dân lao động đã bổ sung mọi khiếm khuyết cho ông. Khi ông không xây được thành, thần hiện lên giúp đỡ, khi ông lo cho vận mệnh đất nước, thần cũng hết sức chỉ bào ông và lúc này, khi nguy cấp nhất, thần cũng hiện lên để giúp ông. Phải chăng đó là sự ngưỡng mộ, sự tha thứ cho một vị minh quân của nhân dân?
Chi tiết “vua cầm sừng tê bảy tấc, Rùa Vàng rẽ nước dẫn vua đi xuống biển” đã chứng minh điều đó. Biển cả đã mở rộng tấm lòng đón ông về. Những con sóng trôi dạt vào bờ lại bị bật ra năm nào liệu có còn nhớ hình ảnh hai cha con tội nghiệp? Nếu như kì tích xây thành Cổ Loa là một chiến thắng vẻ vang mang tính huyền thoại thì sự thất bại lần này của An Dương Vương mang tính hiện thực sâu sắc.
Không như cổ tích, cái kết luôn có hậu cho mọi người. Truyền thuyết buộc ta phải suy ngẫm thật nhiều sau đó. Chúng ta phải biết đặt cái chung lên trên cái riêng, nhất là phải cảnh giác, đừng như An Dương Vương “nuôi ong tay áo, nuôi cáo trong nhà”. Và trong tình yêu phải luôn luôn sáng suốt, đừng nên lầm đường lạc lối để rồi phải trả một cái giá quá đắt như Mị Châu. Truyện vừa mang tính triết lí vừa thấm đậm ý vị nhân sinh như Tố Hữu trong “Tâm sự” đã nói:
“Vẫn còn đây pho tượng đá cụt đầu
Bởi đầu cụt nên tượng càng rất sống
Cái đầu cụt gợi nhớ dòng máu nóng
Hai ngàn năm dưới đá vẫn tuôn trào
Anh cũng như em muốn nhắc Mị Châu
Đời còn giặc xin đừng quên cảnh giác
Nhưng nhắc sao được hai ngàn năm trước
Nên em ơi ta đành tự nhắc mình”.
Tham khảo văn mẫu 🍀 Phân Tích Tự Tình Hồ Xuân Hương 🍀 15 Bài Văn Hay Nhất