18+ Phân Tích Làng Của Kim Lân Ngắn Gọn Hay Nhất

18+ Bài Văn Phân Tích Làng Của Kim Lân Ngắn Gọn Hay Nhất, Tham Khảo Tuyển Tập Trọn Bộ Các Ý Tưởng, Dàn Ý Và Mẫu Cảm Nhận Chi Tiết Giúp Các Bạn Tham Khảo Làm Văn.

Giới Thiệu Tác Phẩm Làng Của Kim Lân

Tác giả Kim Lân

  • Kim Lân, tên thật là Nguyễn Văn Tài, sinh năm 1920 tại Từ Sơn, Bắc Ninh và mất năm 2007. Ông là một nhà văn gắn bó sâu sắc với cuộc sống nông thôn và người nông dân Việt Nam. Các tác phẩm của ông thường viết về sinh hoạt làng quê và cảnh ngộ của người nông dân, với phong cách viết chân thực và giản dị.

Tác phẩm “Làng”

  • Truyện ngắn “Làng” được viết vào năm 1948, trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Tác phẩm này được đăng lần đầu trên tạp chí Văn nghệ và nhanh chóng trở thành một trong những truyện ngắn tiêu biểu của Kim Lân.

Nội dung chính

  • “Làng” kể về ông Hai, một người nông dân yêu làng quê của mình sâu sắc. Khi nghe tin làng mình theo giặc, ông Hai trải qua những cảm xúc đau đớn và dằn vặt. Tuy nhiên, khi tin đồn được cải chính, ông vui mừng khôn xiết và tự hào về làng mình.

Giá trị nghệ thuật

  • Miêu tả tâm lý nhân vật: Kim Lân thành công trong việc miêu tả diễn biến tâm lý của ông Hai, từ đau khổ, dằn vặt đến vui mừng, tự hào
  • Ngôn ngữ trần thuật: Lời văn mộc mạc, giản dị, gần gũi với đời sống nông thôn, giúp người đọc dễ dàng cảm nhận và đồng cảm với nhân vật
  • Tình huống truyện: Tình huống nghe tin làng theo giặc và sau đó được cải chính tạo nên cao trào và sự hấp dẫn cho câu chuyện.

Ý nghĩa

  • Truyện ngắn “Làng” ngợi ca tình yêu làng quê, tình yêu đất nước của người nông dân trong kháng chiến. Tác phẩm thể hiện lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết và sự kiên cường của người dân Việt Nam.

Hy vọng những thông tin này sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn về truyện ngắn “Làng” của Kim Lân trước khi đi vào phân tích bên dưới.

Xem chi tiết: Tóm Tắt Làng Kim Lân

Các Ý Tưởng Phân Tích Truyện Ngắn Làng

Dưới đây là một số ý tưởng để phân tích truyện ngắn “Làng” của Kim Lân:

Tình yêu làng quê và lòng yêu nước

    • Tình yêu làng quê: Phân tích tình cảm sâu sắc của ông Hai đối với làng Chợ Dầu. Ông tự hào về làng mình, luôn kể về những thành tích và vẻ đẹp của làng.
    • Lòng yêu nước: Khi nghe tin làng theo giặc, ông Hai đau đớn và dằn vặt, thể hiện lòng yêu nước mãnh liệt. Tình yêu làng quê và lòng yêu nước của ông Hai hòa quyện, không thể tách rời.

    Diễn biến tâm lý nhân vật

      • Tâm trạng khi nghe tin làng theo giặc: Ông Hai trải qua những cảm xúc đau đớn, xấu hổ và dằn vặt. Ông cảm thấy bị phản bội và mất đi niềm tự hào về làng.
      • Tâm trạng khi tin đồn được cải chính: Ông Hai vui mừng, tự hào và hạnh phúc khi biết làng mình không theo giặc. Sự thay đổi tâm trạng này thể hiện rõ nét lòng yêu nước và tình yêu làng quê của ông.

      Nghệ thuật miêu tả và ngôn ngữ

        • Miêu tả tâm lý: Kim Lân thành công trong việc miêu tả diễn biến tâm lý phức tạp của ông Hai, từ đau khổ, dằn vặt đến vui mừng, tự hào.
        • Ngôn ngữ trần thuật: Lời văn mộc mạc, giản dị, gần gũi với đời sống nông thôn, giúp người đọc dễ dàng cảm nhận và đồng cảm với nhân vật.

        Tình huống truyện

          • Tình huống nghe tin làng theo giặc: Tình huống này tạo nên cao trào và sự hấp dẫn cho câu chuyện. Nó là điểm nhấn để thể hiện tình yêu làng quê và lòng yêu nước của ông Hai.

          Ý nghĩa và thông điệp

            • Ý nghĩa: Truyện ngắn “Làng” ngợi ca tình yêu làng quê, tình yêu đất nước của người nông dân trong kháng chiến. Tác phẩm thể hiện lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết và sự kiên cường của người dân Việt Nam.
            • Thông điệp: Qua câu chuyện của ông Hai, Kim Lân muốn gửi gắm thông điệp về lòng yêu nước và tình yêu quê hương, rằng dù trong hoàn cảnh nào, tình yêu đó vẫn luôn mạnh mẽ và bền vững

            Sơ Đồ Tư Duy Phân Tích Truyện Làng

            Mẫu sơ đồ tư duy phân tích truyện Làng dưới đây sẽ giúp các em học sinh hệ thống hoá kiến thức, tham khảo dưới đây để phân tích tốt tác phẩm.

            Sơ Đồ Tư Duy Phân Tích Truyện Làng
            Sơ Đồ Tư Duy Phân Tích Truyện Làng

            Xem chi tiết: Sơ Đồ Tư Duy Bài Làng Kim Lân

            Dàn Ý Phân Tích Làng Kim Lân

            Văn bản Làng là một trong những nội dung trọng tâm của môn Ngữ văn lớp 9, để phân tích tác phẩm, các em dàn ý phân tích Làng Kim Lân. Tham khảo mẫu phân tích Làng dàn ý chi tiết như sau:

            I. Mở bài phân tích Làng:

            • Giới thiệu về tác giả Kim Lân.
            • Giới thiệu về đối tượng phân tích – truyện ngắn Làng.

            II. Thân bài phân tích Làng:

            a. Phân tích khái quát về tác phẩm:

            • Phân tích hoàn cảnh sáng tác: Truyện ngắn “Làng” được viết năm 1948 – thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
            • Phân tích nội dung cốt truyện: Ông Hai là một người vô cùng yêu quý làng quê mình vì thế khi Pháp đến đánh chiếm ông quyết định ở lại làng làm du kích, làm thanh niên chống giặc dù tuổi đã cao. Nhưng vì hoàn cảnh gia đình ông buộc phải tản cư lên thị trấn Hiệp Hòa. Thế rồi một hôm ông nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc, khi đó ông đã vô cùng đau khổ. Nhưng cho đến khi nghe tin cải chính về làng ông vui sướng đến mức đi khoe nhà ông bị đốt hết trong niềm tự hào.

            b. Luận điểm 1: Phân tích tình huống truyện Làng.

            • Tình huống: Ông Hai luôn yêu và tự hào về làng của mình, nay nghe tin làng chợ Dầu theo giặc
            • Tình huống đối nghịch với tình cảm tự hào mãnh liệt về làng Chợ Dầu của ông Hai, khác với suy nghĩ về một làng quê “tinh thần cách mạng lắm” của ông.
            • Ý nghĩa của tình huống: Tình huống khiến diễn biến tâm trạng nhân vật thay đổi mạnh mẽ, thử thách lòng yêu làng và yêu nước của nhân vật ông Hai.

            c. Luận điểm 2: Phân tích tình yêu làng, yêu nước ở nhân vật ông Hai.

            -Phân tích tình yêu làng của ông Hai trước Cách mạng:

            • Ông khoe về làng: giàu và đẹp, lát đá xanh, có nhà ngói san sát sầm uất như tỉnh, phong trào cách mạng diễn ra sôi nổi, chòi phát thanh cao bằng ngọn tre…
            • Ông tự hào về làng mình từ cơ sở vật chất cho tới cái sinh phần của tổng đốc làng ông, vinh dự vì làng có bề dày lịch sử.

            -Phân tích tình yêu làng của ông Hai sau Cách mạng: Ông khoe về tinh thần cách mạng của làng ông, ngay cả cụ râu tóc bạc phơ cũng vác gậy đi tập, ông khoe những hố, ụ và hào.

            -Phân tích diễn biến tâm trạng ông Hai trong tác phẩm Làng:

            +Phân tích nhân vật ông Hai trước khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc:

            • Đến phòng thông tin nghe tin tức về kháng chiến.
            • Nghe ngóng được những tin chiến thắng của quân ta “ruột gan cứ múa cả lên”.
            • Tự hào, kiêu hãnh về truyền thống đấu tranh của làng

            +Phân tích nhân vật ông Hai khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc:

            • cổ họng nghẹn ắng, giọng lạc đi, đau khổ dằn vặt
            • Cay đắng, tủi nhục khi nghe tin làng theo giặc.
            • Đứng về phía cách mạng “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây thì phải thù”.

            +Phân tích nhân vật ông Hai khi biết tin làng chợ Dầu theo Tây được cải chính.

            • Rạng rỡ, hạnh phúc khi nghe tin cải chính
            • Chạy đi khoe khắp nơi về làng của mình

            d. Phân tích đặc sắc nghệ thuật trong tác phẩm Làng:

            • Ngôn ngữ đậm tính khẩu ngữ và lời ăn tiếng nói của người nông dân
            • Lời nói trần thuật có sự thống nhất về sắc thái, giọng điệu theo lời nhân vật ông Hai (ngôi thứ 3)
            • Ngôn ngữ nhân vật của ông Hai vừa mang nét chung của người nông dân nhưng cũng mang điểm riêng biệt đậm cá tính của nhân vật nên rất sinh động
            • Giọng điệu trần thuật tự nhiên thân mật đôi khi dí dỏm của nhân vật.
            • Miêu tả rất cụ thể, gợi cảm các diễn biến nội tâm qua ý nghĩ, hành vi, ngôn ngữ đối thoại và độc thoại.

            III. Kết bài phân tích Làng:

            • Khẳng định lại giá trị nội dung, nghệ thuật của truyện.
            • Nêu cảm nhận của bản thân khi phân tích tác phẩm Làng.

            Xem chi tiết: Tóm Tắt Làng Kim Lân

            Mở Bài Phân Tích Làng

            Nếu như nhà văn Nam Cao thành công với nhân vật Chí Phèo, Ngô Tất Tố gây tiếng vang với nhân vật chị Dậu thì không thể không nhắc đến sự thành công của Kim Lân với nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng. Kim Lân là nhà văn sống gắn bó và gần gũi với nông thôn và người nông dân nên những đề tài mà ông viết cũng xoay quanh người nông dân.

            Kim Lân thành công với nhiều tác phẩm và một trong những tác phẩm đặc sắc nhất đó chính là truyện ngắn Làng. Truyện ngắn Làng được viết năm 1948 trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Đây là một câu chuyện về tình yêu làng yêu nước của ông Hai và tất cả những người nông dân nghèo khổ. Lòng yêu nước này phát xuất từ tình yêu nơi chôn nhau cắt rốn của mình và nó đã hòa hợp giữa làng và nước. Tình cảm và ý nghĩa này đã trở thành phổ biến ở mỗi người dân Việt Nam ta trong những ngày đầu kháng chiến đương thời.

            Xem chi tiết các mẫu: Mở Bài Làng

            Kết Bài Phân Tích Làng

            Truyện ngắn Làng của Kim Lân để lại ấn tượng trong lòng người đọc chính là nghệ thật sử dụng ngôn ngữ nhân vật mà ông Hai là điển hình. Cách miêu tả tâm lý nhân vật, diễn biến tâm lý của ông Hai đã làm cho người đọc có những cảm xúc vô cùng xúc động. Qua cách miêu tả nhân vật của tác giả giúp ta hình dung được một thời kỳ chống Pháp sôi nổi của nhân dân, mọi người một lòng theo Bác, theo Đảng kháng chiến đến cùng, có lẽ vì vậy mà cuộc chiến của ta đã giành được thắng lợi vẻ vang.

            Có thể nói truyện ngắn Làng của Kim Lân đã mang lại tiếng vang lớn trên bầu trời văn học nghệ thuật thời kháng chiến chống Pháp! Qua truyện ngắn Làng của Kim Lân ta còn có thể thấu hiểu được tinh thần yêu làng, yêu quê hương đất nước sâu đậm của những người nông dân nghèo khổ. Nhân vật ông Hai chính là đại diện cho nét tâm lí và tinh thần yêu nước sôi nổi ấy của người nông dân thôn quê thời kháng chiến chống Pháp!

            Tham khảo các mẫu: Kết Bài Làng

            Bài Văn Phân Tích Truyện Ngắn Làng Của Kim Lân – Mẫu 1

            Tham khảo bài văn phân tích truyện ngắn Làng của Kim Lân hoàn chỉnh dưới đây sẽ giúp các em học sinh có những định hướng phân tích tác phẩm Làng cụ thể.

            Nếu như trước Cách mạng Tháng Tám, Ngô Tất Tố mang tới một chị Dậu với sức sống mãnh liệt của người nông dân, Nam Cao mang tới một Lão Hạc đầy lòng tự trọng và tình yêu thương con vô bờ bến,… thì sau Cách mạng Tháng Tám, Kim Lân – nhà văn nông dân – mang tới cho bạn đọc hình ảnh người nông dân thời kì đổi mới. Đó chính là nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “Làng” với tình yêu làng quê và lòng yêu nước sâu đậm, tha thiết.

            Sinh ra và lớn lên nơi làng quê Việt Nam, giữa những người nông dân chất phác, nhà văn Kim Lân đã sớm gắn bó và am hiểu sâu sắc về cuộc sống ở nông thôn, sáng tác nhiều tác phẩm về đề tài này.

            Trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, khi người dân miền Bắc được lệnh tản cư, ông lại một lần nữa khắc họa hình ảnh người nông dân trong truyện ngắn “Làng”, không phải trong những vấn đề thường nhật, mà về tình yêu làng quê và đất nước của những con người chân lấm tay bùn ấy. Tác phẩm được đăng lần đầu tiên trên tạp chí Văn nghệ năm 1948, đánh dấu bước chuyển biến tích cực trong hình tượng người nông dân và nhân thức của họ, đặc biệt qua nhân vật ông Hai.

            Nét tính cách đầu tiên và dễ nhận thấy nhất ở ông Hai là tình yêu tha thiết đối với làng ông. Đối với người nông dân, làng không chỉ là một đơn vị hành chính, địa lí. Ở đó chứa đựng cuộc sống của họ, tất cả những gì gần gũi và thân thuộc với họ. Làng chính là quê hương, là cuộc đời họ.

            Ông Hai cũng vậy, ông có tính hay khoe làng với tất cả niềm hãnh diện. “Ông nói về cái làng ấy một cách say mê và náo nức lạ thường. Hai mắt ông sáng hẳn lên, khuôn mặt biến chuyển hoạt động.” Tình yêu làng đã biến ông Hai thành một con người hoàn toàn khác so với một ông Hai bị gò bó, tù túng trong căn bếp tản cư. Một nguồn sinh lực mới như dồi dào trong ông lúc đó. Tối này đến tối khác, ông nói đi nói lại về cái làng của ông.

            Kim Lân điểm nhịp câu chuyện bằng những lời trách móc ông hàng xóm nhãng ý không nghe chuyện, nhưng kỳ thực là để cho ta thấy rằng ông Hai không thực sự cần bác Thứ nghe, ông nói cho chính mình, nói để cho sướng miệng và cũng để thỏa nỗi nhớ làng. “Ông lại nghĩ về cái làng của ông, lại nghĩ đến những ngày cùng làm việc với anh em. […] Ông lại muốn về làng, lại muốn được cùng anh em đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá.” Những ký ức về làng xưa, xóm cũ trở thành niềm an ủi, động viên ông Hai mỗi khi chán nản.

            Chỉ cần được ở lại làng, cùng chiến đấu với anh em thì như có một luồng sinh lực mới chảy dồi dào trong ông, và dù có gian khổ, khó nhọc, nguy hiểm đến bao nhiêu ông cũng chịu được. Hình ảnh đó hoàn toàn trái ngược với ông Hai lúc nào cũng buồn chán, bức bối, không biết làm gì trong căn bếp tản cư. Thế nhưng đó cũng chỉ là hồi ức, một hồi ức tươi vui và đầy tự hào đến nỗi mỗi khi nhớ lại, trong ông lại trào dâng một nỗi nhớ khôn nguôi: “Ông Hai nhớ cái làng, nhớ cái làng quá.”

            Với ông, ngôi làng của ông vốn đã là một điều gì đó vô cùng thiêng liêng và đẹp đẽ. Nay ở trong căn bếp tản cư chật hẹp, cái làng ấy lại càng đẹp hơn, trở thành một niềm mong ước, khao khát mãnh liệt. Điều đó hoàn toàn không phải phóng đại. Tâm sự của ông Hai là tâm sự của một người gắn bó với làng tha thiết, yêu làng bằng một niềm tự hào chân chính.

            Tình yêu làng của ông Hai được thể hiện nổi bật và đậm nét nhất khi ông nghe tin làng ông theo Tây. Như sét đánh ngang tai, ông từ chối tin vào điều đó. “Cổ ông lão nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng chừng như không thở được. Một lúc sau ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ.” Nếu như tin dữ ấy là cái làng đẹp đẽ của ông bị đốt trụi, nhà cửa, ruộng vườn của ông bị cướp mất thì có lẽ ông cũng không đau khổ bằng tin làng mình theo Tây.

            Tội nghiệp ông lão vui tính, xởi lởi giờ đây phải “cúi gằm mặt đi thẳng”, “nước mắt ông cứ dàn ra”. Giá ông không quá yêu làng, không quá tự hào về làng thì ông đã không thấy tủi nhục đến thế. Mấy chữ “cả làng chúng nó Việt gian theo Tây” như găm vào trái tim ông, vào niềm tự hào về cái làng mà ông yêu vô cùng. Tất cả những gì ông trân trọng giữ gìn trong tim giờ đây như đều sụp đổ tan tành.

            Ông không chấp nhận được sự thật ấy và đấu tranh nội tâm dữ dội. Lúc đầu là nghi ngại (“Nhưng sao lại nảy ra cái tin như vậy được ?“), nhưng sau đó là đau đớn khi được biết những bằng chứng rõ ràng (“Mà thằng chánh Bệu thì đích là người làng không sai rồi“). Phải thừa nhận cái tin đó, không thể nào tả được nỗi đau của ông lúc ấy. “Chao ôi ! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian !”

            Có lẽ trong đời mình, ông Hai chưa từng chịu đựng hay thậm chí tưởng tượng được một nỗi đau, nỗi nhục như thế. Những tiếng ấy như thốt lên từ trái tim bị tổn thương, từ niềm tự hào bị chà đạp của ông, khiến người đọc cũng như cảm nhận được nỗi xót xa, tủi nhục của ông lúc ấy. Mà ông Hai đâu chỉ đau cho mình, đau cho làng, mà ông còn đau cho những người đồng hương, đồng cảnh ngộ. “Lại còn bao nhiêu người làng, tan tác mỗi người một phương nữa, không biết họ đã rõ cái cơ sự này chưa ?”

            Có thể những con người ấy trước kia có hiềm khích với ông, nhưng trước nỗi đau, nỗi nhục quá lớn này, tình yêu làng trỗi lên thật mạnh mẽ và đánh thức tình đồng hương trong ông. Kim Lân đã rất tài tình khi sử dụng hàng loạt câu cảm, câu hỏi liên tiếp trong nghệ thuật độc thoại nội tâm để lột tả sự đau khổ, xót xa, uất ức mà ông Hai phải chịu đựng. Lúc này đây, làng không chỉ là nơi chôn rau cắt rốn nữa, mà là một cái gì đó lớn lao hơn, là lòng tự trọng, là danh dự.

            Không chỉ thế, tình yêu làng còn trở thành một nỗi ám ảnh day dứt trong ông, buộc ông phải lựa chọn giữa làng và nước. Nếu lúc trước ông tự hào, ông thao thao bất tuyệt về làng mình bao nhiêu thì bây giờ ông xấu hổ, trốn tránh bất nhiêu. Cái tin đồn quái ác kia trở thành một nỗi ám ảnh, một nỗi sợ vô hình luôn đè nặng lên tâm trí ông.

            “Một đám đông túm lại, ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa, ông cũng chột dạ. Lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta đang để ý, người ta đang bàn tán đến “cái chuyện ấy”. Cứ thoáng nghe những tiếng Tây, Việt gian, cam-nhông… là ông lủi ra một góc nhà, nín thít.

            Thôi lại chuyện ấy rồi !” Lẽ thường tình, khi người ta suy nghĩ quá nhiều về một điều gì đó, lúc nào ta cũng có cảm tưởng những người khác cũng như vậy. Thế thì nỗi ám ảnh và lo sợ của ông Hai phải lớn đến chừng nào để ông bị dằn vặt tới vậy ! Lòng yêu làng của ông phải lớn biết chừng nào ! Kim Lân đã diễn tả rất cụ thể và sâu sắc tâm trạng nặng nề ấy, vì bản thân tác giả cũng từng gặp hoàn cảnh tương tự.

            Ông Hai đã trải qua những giờ phút không thể đau đớn và tủi hổ hơn khi bị mụ chủ nhà nói móc nói máy để đuổi khéo. Người đọc như cảm nhận được từng lời từng chữ của mụ như xoáy sâu vào tình yêu làng vốn đã quá tổn thương của ông. Dù đã dứt khoát đi theo kháng chiến, ông vẫn không thể dứt bỏ tình cảm sâu đậm với làng quê, và vì thế mà ông càng đau xót, tủi hổ hơn.

            Bên cạnh tình yêu làng, nhân vật ông Hai còn ghi dấu trong mắt người đọc bằng lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến. Ông luôn theo sát tin tức kháng chiến và tự hào về những chiến công mà nhân dân ta đã lập nên. “Ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui quá !” Nhưng đến khi phải lựa chọn giữa làng và nước, tình yêu ấy mới bộc lộ rõ rệt. Dù bị tin đồn làng mình theo Tây dồn vào “tuyệt đường sinh sống”, ông vẫn nhất quyết không trở về làng.

            Đến đây, ta mới hiểu rõ về con người hay chuyện tưởng chừng rất đơn giản, bộc trực kia. Tình yêu làng giờ đây đã trở thành tình yêu có ý thức, hòa nhập và lòng yêu nước. “Về làm gì cái làng ấy nữa. Về làng là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ.” Nhớ lại những tháng ngày đen tối bị đàn áp xưa kia, ông đã có quyết định rõ ràng, đúng đắn.

            Là người nông dân chân lấm tay bùn nhưng ông Hai có nhân thức cách mạng rõ ràng : “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù.” Nhận thức rất mới này là một nét đặc biệt trong tính cách của ông Hai, đánh dấu sự thay đổi của người nông dân sau Cách mạng Tháng Tám.

            Ông luôn luôn muốn được giãi bày nỗi lòng ấy của mình. Tuy nói chuyện với đứa con, nhưng thực chất ông đang mượn lời đứa trẻ để bày tỏ tâm sự. Những gì đứa trẻ nói chính là những gì đang dâng trào trong lòng ông mà không nói ra được. “Ừ đúng rồi, ủng hộ cụ Hồ con nhỉ.” Ông Hai nói với đứa con như thể nói với anh em đồng chí, để minh oan cho tấm lòng thành thật của mình, để nỗi khổ tâm trong lòng như vơi đi được đôi phần. Lòng yêu nước của ông thật giản dị nhưng vô cùng chân thành, sâu sắc và cảm động.

            Chính điều ấy đã giúp ông chịu đựng được tin đồn quái ác về làng mình, vì ông có niềm tin vào cách mạng, vào kháng chiến. Từ đây, ông Hai nói riêng hay người nông dân nói chung, đã nhìn rộng hơn, xa hơn lũy tre làng. Không chỉ yêu làng, trong ông còn có một tình yêu lớn gấp nhiều lần – lòng yêu nước.

            Đến khi tin làng chợ Dầu theo giặc được cải chính, tình yêu làng, yêu nước của ông Hai mới được vẽ lên hoàn chỉnh. Ông Hai như sống lại. “Cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên.” Một lần nữa, tình yêu làng, yêu nước của ông được thể hiện một cách chân thực, cảm động. Nguồn sinh lực ngày nào lại trở về trong ông. Ông Hai lại là ông Hai xưa. Ông lại nói về làng mình, về “Tây nó đốt nhà tôi rồi, đốt nhẵn !” Niềm vui sướng của ông được thể hiện thật hồn nhiên, chân thật và rất mãnh liệt.

            Có lẽ không ai trên đời lại đi khoe, đi mừng việc nhà mình bị đốt như thế. Nhưng với ông Hai, điều đó đâu có là gì so với niềm vui khi thanh danh của làng được rửa. Vì sự mất mát ấy cũng là sự hồi sinh của một làng Chợ Dầu mà ông hằng yêu và xứng đáng với tình yêu ấy: làng Chợ Dầu kháng chiến. Tình yêu làng là cơ sở, là biểu hiện hùng hồn nhất của tình yêu nước trong ông Hai.

            Quả đúng như nhà văn I-li-a Ê-ren-bua đã từng nói : “Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê làm nên lòng yêu tổ quốc.” Nếu so với lão Hạc của Nam Cao hay chị Dậu của Ngô Tất Tố trước Cách mạng tháng Tám – những người nông dân cả cuộc đời đầu tắt mặt tối trong ruộng vườn thì nhân vật ông Hai đã có nhận thức rõ ràng về cách mạng, về kháng chiến. Ông đã nhận ra rằng: Đất nước còn thì làng còn, đất nước mất thì làng cũng mất.

            Đây không chỉ là sự thay đổi trong suy nghĩ người nông dân, mà còn là suy nghĩ của mỗi người dân Việt Nam thời điểm đó. Họ sẵn sàng hy sinh những cái riêng, những cái nhỏ vì sự nghiệp chung, vì cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Họ không hề quên đi cội nguồn của mình mà gìn giữ nơi ấy ở trong tim, biến thành động lực chiến đấu để giải phóng đất nước, giải phóng quê hương.

            Truyện ngắn “Làng” đã xây dựng thành công nhân vật ông Hai, đặc biệt qua tình huống làng Chợ Dầu bị đồn là theo Tây. Nguyễn Minh Châu từng nói : “Tình huống là một loại sự kiện đặc biệt của đời sống, được sáng tạo ra theo hướng lạ hóa. Tại đó, vẻ đẹp nhân vật hiên ra sắc nét, ý nghĩa tư tưởng phát lộ toàn diện.”

            Kim Lân đã sáng tạo được một tình huống truyện có tính căng thẳng để thử thách nhân vật. Nó đã cho ta thấy chiều sâu của nhân vật ông Hai, những nét tính cách, những chuyển biến trong nhận thức và tính cảm của ông, và hơn hết là tình yêu làng, yêu nước tha thiết. Nhà văn cũng vô cùng thành công trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, khi thì miêu tả cử chỉ hành động, khi thì độc thoại nội tâm, độc thoại, đối thoại để lột tả tính cách nhân vật.

            Ngôn ngữ kể chuyện rất linh hoạt, tự nhiên, lúc dềnh dàng, lúc đột ngột tùy theo diễn biến. Bên cạnh đó, tác giả vốn am hiểu cuộc sống nông thôn nên ngôn ngữ của ông Hai là khẩu ngữ, rất bình dị và gần gũi, đậm chất nông dân. Với nhân vật ông Hai, Kim Lân quả thực rất xứng đáng là một cây bút “quý hồ tinh, bất quý hồ đa”.

            Nguyễn Đình Thi từng viết rằng: “Tác phẩm nghệ thuật nào cũng xây dựng bằng những vật liệu mượn ở thực tại. Nhưng nghệ sĩ không những ghi lại cái đã có rồi mà còn muốn nói một điều gì mới mẻ. Anh gửi vào tác phẩm một lá thư, một lời nhắn nhủ, anh muốn đem một phần của mình góp vào đời sống chung quanh.”

            Truyện ngắn “Làng” đã được viết nên từ những điều nhà văn từng trải nghiệm, khắc họa một cách chân thực nhất những tháng ngày đi tản cư của nhân dân miền Bắc trong buổi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, cũng như những chuyển biến trong nhận thức và tình cảm của họ.. Thông qua nghệ thuật xây dựng tình huống truyện và miêu tả tâm lí, ngôn ngữ nhân vật, Kim Lân đã mang đến cho bạn đọc nhân vật ông Hai với tình yêu làng quê và lòng yêu nước sâu đậm, thiết tha.

            Tặng bạn: Thẻ Cào Miễn Phí

            Phân Tích Truyện Ngắn Làng Của Nhà Văn Kim Lân Hay – Mẫu 2

            Dưới đây chia sẻ bài văn mẫu phân tích truyện ngắn Làng của nhà văn Kim Lân hay sẽ mang đến cho các em học sinh những ý văn phân tích đặc sắc tác phẩm Làng.

            Có người nói rằng: “chúng ta có thể tách con người ra khỏi quê hương chứ không ai tách quê hương ra khỏi con người được”, con người có thể đi xa, xa cách quê hương về mặt địa lý nhưng trái tim con người luôn luôn ôm ấp hình bóng của quê hương. Điều này càng được thể hiện rõ trong truyện ngắn “làng” của nhà văn Kim Lân. Với đề tài là người nông dân, ông đã khắc họa nên tính cách, hành động của nhân vật một cách tinh tế và sâu sắc.

            Truyện ngắn “Làng” được viết năm 1948, thời kì đầu của thời kì kháng chiến chống Pháp, trong thời kì này người dân thực hiện chính sách của chính phủ là đưa dân đi tản cư để chúng ta thực hiện chiến lược kháng chiến lâu dài.

            Kim Lân kể lại: “hồi ấy gia đình tôi cũng đi sơ tán. Trên khu tản cư mới, làng tôi là làng việt gian. Mọi người nhìn những người dân làng tôi đều chế giễu, khinh thường. Tôi yêu dân làng của tôi và tôi cũng không tin người dân làng tôi lại đi theo giặc. Tôi viết truyện ngắn “làng” để khẳng định niềm tin của mình và minh oan cho làng của tôi.”

            Truyện Làng đã xây dựng được một tình huống truyện làm bộc lộ sâu sắc tình cảm yêu làng, yêu nước ở người nông dân. Ông Hai trong truyện là người rất yêu cái làng chợ Dầu của mình, luôn hãnh diện khoe về làng, ấy thế mà ông lại phải nghe cái tin làng ông theo giặc, lập tề từ miệng những người tản cư dưới xuôi lên.

            Tình huống ấy khiến ông đau xót, tủi hổ, day dứt trong sự xung đột giữa tình yêu làng quê và tình yêu nước, mà tình cảm nào cũng mãnh liệt, thiết tha. Đặt nhân vật vào tình huống gay gắt ấy, tác giả đã làm bộc lộ sâu sắc cả hai tình cảm nói trên ở nhân vật và cho thấy tình yêu nước, tinh thần kháng chiến lớn rộng bao trùm lên tình yêu làng, nó chi phối và thống nhất, mọi tình cảm khác trong con người Việt Nam thời kháng chiến.

            Trước khi nghe tin dữ: ở nơi tản cư, tình yêu làng của ông hai hoà nhập với tình yêu nước. Xa làng, ở nơi tản cư ông nhớ làng da diết. Nỗi nhớ làng khiến ông thay tâm đổi tính: “Lúc nào ông cũng thấy bực bội, ít cười, cái mặt lúc nào cũng lầm lầm, hơi một tí là gắt, hơi một tý là chửi”.

            Khi được nói chuyện về làng, ông vui náo nức đến lạ thường “Hai con mắt ông sáng hắt lên, cái mặt biến chuyển hoạt động”. Ông quan tâm đến tình hình chính trị thế giới, đến các tin chiến thắng của quân ta. Tin một em bé trong ban tuyên truyền xung phong bơi ra giữa hồ Hoàn Kiếm cầm quốc kỳ trên tháp rùa. Một anh trung đội trưởng sau khi giết được 7 tên giặc đã tự sát bằng quả lựu đạn cuối cùng.

            Đội nữ du kích Trưng Trắc giả làm người mua hàng đã bắt sóng được tên quan hai bốt ngay giữa chợ mà “Ruột gan ông lão cứ múa cả lên”, đó là niềm vui của một con người biết gắn bó tình cảm của mình với vận mệnh của toàn dân tộc, là niềm vui mộc mạc của một tấm lòng yêu nước chân thành.

            Khi nghe tin làng Dầu theo giặc: Nỗi bất hạnh lớn đã đổ sụp xuống đầu ông, ông sững sờ “Cổ ông lão nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân ông lão lặng đi tưởng như đến không thở được”. Khi trấn tĩnh được phần nào, ông còn cố chưa tin cái tin ấy. Từ lúc ấy, trong tâm trí ông Hai chỉ có cái tin dữ ấy xâm chiếm, nó thành một nỗi ám ảnh, day dứt. Nghe tiếng chửi bọn Việt gian, ông “cúi gằm mặt xuống mà đi”. Về đến nhà, ông “nằm vật ra giường”, rồi tủi thân khi nhìn đàn con, “nước mắt ông lão cứ giàn ra”.

            Nỗi tủi hổ khiến ông không dám ló mặt ra ngoài. Lúc nào cũng nơm nớp, hễ thấy đám đông nào tụ tập nhắc đến hai từ “Việt gian”, “Cam nhông” thì ông lại tự nhủ “Thôi lại chuyện ấy rồi”. Tác giả diễn tả rất cụ thể nỗi ám ảnh nặng nề biến thành sự sợ hãi thường xuyên trong ông Hai cùng với nỗi đau xót, tủi hổ của ông trước cái tin làng mình theo giặc.

            Khi nghe tin làng Dầu theo giặc, tình yêu làng quê và tinh thần yêu nước của ông Hai đã có một cuộc xung đột nội tâm gay gắt. Ông Hai đã dứt khoát chọn lựa theo cách của ông: “Làng thì yêu thật nhưng làng đã theo Tây thì phải thù”, tình yêu làng nước đã rộng lớn hơn bao trùm lên tình cảm với làng quê. Nhưng dù xác định như thế, ông Hai vẫn không thể dứt bỏ tình cảm với làng quê, vì thế mà càng đau xót, tủi hổ.

            Khi mụ chủ nhà biết chuyện, có ý muốn đuổi khéo gia đình ông đi, ông đã rơi vào tình trạng tuyệt vọng, bế tắc hoàn toàn. Đi đâu bây giờ? Không ai muốn chứa chấp dân của cái làng Việt gian. Ông thoáng có ý nghĩa “Hay là trở về làng”. Tuy nhiên ông đã gạt bỏ ý nghĩ ấy bởi “Làng đã theo Tây, về làng nghĩa là rời bỏ Kháng chiến, bỏ cụ Hồ, là cam chịu trở về kiếp sống nô lệ”. Mối mâu thuẫn trong nội tâm và tình thế của nhân vật như đã thành sự bế tắc, đòi hỏi phải được giải quyết.

            Yêu làng Dầu, ông muốn khắc sâu vào trái tim bé nhỏ của con tình cảm với làng, với kháng chiến, với Cụ Hồ, đó cũng chính là tấm lòng thuỷ chung “trước sau như một” với cách mạng của ông. Đây là một đoạn văn diễn tả rất cảm động và sinh động nỗi lòng sâu xa, bền chặt, chân thành của ông Hai – một người nông dân – với quê hương, đất nước, với cách mạng và kháng chiến.

            Ngần ấy tuổi đầu mà nước mắt ông cứ ròng ròng khi nghĩ về làng. Nỗi đau ấy mới đáng trân trọng làm sao bởi đó là nỗi đau của một con người danh dự của Làng như chính bản thân mình. Khi tin đồn được cải chính: Thái độ của ông thay đổi hẳn “Cái mặt buồn thiu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên”. Ông lại chạy đi khoe khắp nơi “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ, đốt nhẵn! Ông chủ tịch làng tôi vừa mới lên đây cải chính cái tin làng Dầu chúng tôi đi Việt gian ấy mà. Láo! Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả”.

            Truyện khắc hoạ thành công nhân vật ông Hai, một người nông dân yêu làng, yêu nước tha thiết. Đặc biệt, việc đặt nhân vật vào tình huống cụ thể góp phần thể hiện tính cách, diễn biến tâm trạng nhân vật. Ngôn ngữ nhân vật lúc đối thoại, lúc độc thoại mang đậm chất nông thôn, nhuần nhuỵ mà đặc sắc, gợi cảm. qua truyện ngắn “Làng” ta thấy hiện lên một chân dung sống động, đẹp đẽ của người nông dân thời kỳ đầu kháng chiến.

            “Làng” có tình huống được xây dựng hết sức đặc sắc, bất ngờ mà hợp lý. “Làng” là lời khẳng định giai đoạn tìm đường và nhận đường của nền văn hoá mới. Văn hoá kháng chiến chống Pháp trở thành một bộ phận của kháng chiến, tích cực tham gia kháng chiến, phục vụ cho kháng chiến, cho niềm tin.

            Tặng bạn -> Phân Tích Tình Huống Truyện Làng

            Bài Văn Phân Tích Làng Hay Nhất – Mẫu 3

            Đón đọc bài văn phân tích Làng hay nhất được chọn lọc và chia sẻ dưới đây giúp các em học nắm vững phương pháp phân tích tác phẩm và kiến thức trọng tâm của truyện ngắn Làng.

            Truyện ngắn Làng của Kim Lân được viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Tác phẩm thể hiện lòng yêu nước tha thiết, nồng nàn của người nông dân, đồng thời cũng là những khám phá, phát hiện mới mẻ của tác giả về lòng yêu nước.

            Tác phẩm kể về ông Hai, người có lòng yêu làng chợ Dầu tha thiết, nhưng vì chiến tranh phải đưa cả gia đình đi tản cư. Dù phải xa làng nhưng ông lúc nào cũng đau đáu nhớ về quê hương, luôn dõi theo tin tức cách mạng và những tin xung quanh làng mình. Ông Hai là người có lòng yêu quê hương tha thiết.

            Trong những ngày tản cư, ông Hai cũng như bao người nông dân khác, ông tự hào về cái làng của mình lắm và ông luôn khoe với mọi người về làng Chợ Dầu giàu tinh thần kháng chiến. Ông nhớ về những ngày làm việc cùng anh em đồng chí đào đường, đắp ụ xẻ hào, khuân đá, những ngày tháng gian lao, nhưng mỗi lần nhớ về lòng ông lại hào hứng hẳn lên, ông hứng khởi và thấy mình trẻ hẳn ra.

            Nỗi nhớ ấy đôi khi trào dâng, buột thành lời nói đầy chân thành: Nhớ làng, nhớ cái làng quá. Không chỉ dừng lại ở suy nghĩ, lòng nhớ làng quê của ông còn gắn với tình yêu nước, ngày nào ông cũng ra phòng thông tin để nghe người khác đọc tin tức, ông nghe không sót một tin nào: một em bé bơi ra giữa hồ Hoàn Kiếm cắm quốc kì, đội du kích bắt sống một tên quan,… Niềm vui của ông thật mộc mạc, giản dị, nhưng đó cũng chính là cách ông thể hiện tình yêu nước chân thành của mình.

            Nhưng giữa những ngày đó, ông nghe được tin dữ, làng ông xiết bao nhớ thương, tự hào đã đi theo Tây. Cái tin đột ngột ấy khiến ông bàng hoàng, sững sờ. Cổ họng ông lão nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân, ông lặng cả người đến nỗi không thể thở được. Câu hỏi liệu có thật không hở bác ? Hay là… càng nhấn mạnh hơn nữa nỗi sửng sốt của ông, trong lòng ông trào lên nỗi băn khoăn, nghi ngờ.

            Nhưng sau khi nghe những lời quá rành rọt của người phụ nữ kia, ông chẳng biết làm gì ngoài nói một câu: Hà nắng gớm về nào… mà thực chất là nói lảng để ra về. Từ lúc ấy, đầu óc ông lúc nào cũng bị cái tin ấy xâm chiếm.

            Nếu như mọi ngày, về đến nhà ông sẽ đến bên lũ trẻ, kể cho chúng nghe nhiều điều thì hôm nay ông nằm vật ra giường, buồn bã, tủi thân nên nước mắt cứ thế trào ra. Bấy lâu nay ông tự hào về quê hương, khoe làng với khắp mọi người thì nay nơi ấy chỉ còn là nỗi xấu hổ, uất ức. Căm phẫn đến cùng cực ông rít lên tiếng chửi: Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước, để nhục nhã thế này.

            Những ngày sau đó, xấu hổ, tủi nhục ông chẳng dám đi đâu, chỉ cần nghe tiếng lào xào ông cũng tưởng là người ta đang chửi mình, ông chỉ dám quanh quẩn ở nhà. Hễ thấy đám đông nhắc đến việt gian, cam nhông ông lại lủi vào góc nhà, im thin thít, tình cảnh của ông thật đáng thương.

            Trong tình cảnh khốn cùng ấy, ông còn bị đẩy đến một tình huống đầy bi kịch khác, chính là khi bị bà chủ nhà đuổi khéo, câu nói: Tưởng làng chợ Dầu tinh thần lắm cơ mà, như cào xé, dày vò tâm can ông. Nhưng cũng chính trong lúc này đã buộc ông phải lựa chọn giữa tình yêu làng và tình yêu nước.

            Đã có lúc ông nghĩ hay là bỏ về làng, nhưng ông lại phản đối ngay vì về làng tức là theo giặc. Bởi vậy, ông đã đưa ra lựa chọn dứt khoát: Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù. Như vậy tình yêu làng có tha thiết, mãnh liệt nhưng cũng không thể mạnh hơn tình yêu nước, tình yêu nước bao trùm, chi phối tình yêu làng.

            Trong tác phẩm, đoạn ông Hai trò chuyện với đứa con út là đoạn văn đầy xúc động, thể hiện tình yêu nước sâu nặng của ông. Trong tâm trạng bế tắc, ông tìm đến cu Húc để bày tỏ nỗi lòng của mình, trò chuyện với đứa con ngây thơ mà thực chất là ông đang trò chuyện với chính mình. Những lời ông tâm sự thể hiện tình yêu sâu nặng với làng chợ Dầu, dù căm thù lũ Việt gian nhưng sâu thẳm ông vẫn nhớ về nó, bởi vậy ông mới hỏi cu Húc quê con ở đâu, cũng là muốn khắc sâu vào tâm trí đứa trẻ tình yêu làng để nó không quên nguồn cội.

            Đồng thời trong cuộc trò chuyện đó cũng thể hiện tấm lòng thủy chung với cách mạng qua câu khẳng định: Ủng hộ cụ Hồ Chí Minh muôn năm và nước mắt ông cứ thế ròng ròng chảy khi nghĩ về làng. Nỗi đau ấy là nỗi đau của một người coi danh dự của làng cũng như danh dự của chính mình. Qua đó ta thấy được tình cảm của ông Hai với làng, với nước là một tình cảm hết sức sâu sắc, kiên định, bền vững và thiêng liêng.

            Niềm vui lớn nhất trong cả cuộc đời ông có lẽ là khi nghe tin cải chính, “Cái mặt buồn thiu mọi ngày bỗng tươi vui rạng rỡ hẳn lên, cặp mắt hung hung đỏ hấp háy”. Vừa về đến nhà ông đã gọi lũ trẻ để chia quà. Không chỉ vậy, ông còn cứ mua lên và khoe với mọi người cái tin Tây đốt nhẵn làng mình.

            Tâm lý khoe khoang ấy hoàn toàn hợp lí, bởi tình yêu nước cao cả, lớn lao khiến ông chấp nhận hi sinh tài sản của mình. Đồng thời nó cũng là minh chứng, chứng minh làng ông luôn một lòng, một dạ đi theo kháng chiến. Ở ông tình yêu làng hòa quyện, thống nhất với tình yêu nước. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào ông cũng đặt tình yêu nước trên tình yêu làng. Vì thế từ hình ảnh ông Hai làng chợ Dầu ông đã trở thành hình ảnh tiêu biểu cho người nông dân Việt Nam yêu làng, yêu nước thiết tha trong thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp.

            Tác phẩm xây dựng được tình huống truyện đặc sắc, giúp nhân vật bộc lộ rõ tình yêu làng của mình. Ngôn ngữ kể chuyện giàu hình tượng, giản dị như lời ăn tiếng nói hàng ngày. Vận dụng linh hoạt các kiểu câu, câu văn giàu cảm xúc, tạo nên những đoạn miêu tả sống động về cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt trong ông Hai.

            Qua tác phẩm Làng, Kim Lân đã làm nổi bật tình yêu làng, yêu nước thiết tha sâu nặng của nhân vật. Tình yêu làng gắn với tình yêu nước và bị tình yêu nước chi phối, đây cũng là điểm mới mẻ về tình yêu nước của người nông dân sau cách mạng.

            Giới thiệu đến bạn 🌟 Cảm Nhận Về Nhân Vật Ông Hai Truyện Ngắn Làng 🌟 15 Mẫu Đặc Sắc

            Phân Tích Bài Làng Ngắn Gọn – Mẫu 4

            Văn mẫu phân tích bài Làng ngắn gọn dưới đây sẽ giúp các em học sinh tham khảo cách viết súc tích. Đón đọc bài văn mẫu phân tích Làng ngắn dưới đây:

            Quê hương là chùm khế ngọt
            Cho con trèo hái mỗi ngày
            Quê hương là cầu tre nhỏ
            Con về rợp bướm vàng bay.

            (Quê hương – Đỗ Trung Quân)

            Quê hương trong tâm khảm mỗi người là nơi thân thương nhất, bình dị nhất. Tình yêu quê hương vì thế luôn là một chủ đề xuyên suốt trong văn học. Truyện ngắn Làng cũng nằm trong mạch nguồn cảm xúc ấy. Đây là một trong những truyện ngắn hay nhất của Kim Lân được viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp (1948). Truyện đã khắc họa nhân vật ông Hai – một lão nông cần cù, chăm chỉ, mang nặng lòng yêu làng, yêu kháng chiến.

            Ông Hai yêu cái làng chợ Dầu của ông thật đậm đà, tha thiết, yêu đến nỗi đi đâu ông cũng khoe về cái làng của ông. Kể về làng Chợ Dầu, ông nói một cách say sưa mà không cần biết người nghe có chú ý hay không. Ông khoe làng ông có nhà ngói san sát, sầm uất, đường trong làng lát toàn bằng đá xanh, trời mưa đi từ đầu làng đến cuối xóm bùn không dính đến gót chân. Tháng 5 ngày 10 phơi rơm và thóc tốt thượng hạng, không có lấy một hạt thóc đất.

            Ông còn tự hào về cái sinh phần của tổng đốc làng ông. Ông tự hào, vinh dự vì làng mình có cái nét độc đáo, có bề dày lịch sử. Nhưng khi cách mạng thành công, nó đã giúp ông hiểu được sự sai lầm của mình. Và từ đó, mỗi khi khoe về làng là ông khoe về những ngày khởi nghĩa dồn dập những buổi tập quân sự có cụ râu tóc bạc phơ cũng vác gậy đi tập.

            Ông còn khoe cả những hố, những ụ, những hào,… lắm công trình không để đâu hết. Chính cái tình huống ngặt nghèo khi giặc tràn vào làng, ông buộc phải xa làng. Xa làng ông mang theo tất cả nỗi niềm thương nhớ. Vì vậy, nên lúc tản cư, ông khổ tâm day dứt khôn nguôi.

            Quả thật, cuộc đời và số phận của ông Hai thật sự gắn bó với buồn vui của làng. Tự hào và yêu nơi “chôn rau cắt rốn” của mình trở thành một truyền thống và tâm lí chung của mọi người nông dân thời bây giờ. Có thể tình yêu nước của họ bắt nguồn từ cái đơn giản, nhỏ: cây đa, giếng nước, sân đình… và nâng cao lên đó chính là: tình yêu đất nước. Tới đây, là chợt nhớ đến câu nói bất hủ của nhà văn I-li-a Ê-ren-bua: “lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc”.

            Tình yêu làng của ông Hai càng được thể hiện rõ qua những ngày ông đi tản cư. Ông luôn nhớ về làng những ngày ở vùng tản cư, ông yêu làng, yêu đường làng, ngõ xóm, yêu nhà ngói, sân gạch. Ông yêu tất cả những gì gần gũi, độc đáo của làng. Ông yêu những giờ phút hạnh phúc được cùng anh em đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá.

            Từ tình yêu làng nồng cháy ấy, truyền thống ấy, ông đến với Cách mạng từ lúc nào, từ bao giờ mà chính ông cũng không hay biết. Ông tham gia tản cư vì tản cư cũng là tham gia kháng chiến. Ở vùng tản cư, ông luôn dõi theo tin tức của làng, ông hay đến phòng thông tin nghe đọc báo.

            Hôm ấy, ông nghe được bao nhiêu là tin hay: “Một em nhỏ xung phong bơi ra giữa hồ Hoàn Kiếm cắm quốc kì lên Tháp Rùa”, “Một anh trung đội trưởng sau khi giết được bảy tên giặc đã tự sát bằng quả lựu đạn cuối cùng”; “Đội nữ du kích Trưng Trắc giả làm người đi mua hàng đã bắt được một tên quan hai bốt Thao ngay giữa chợ. Chao ôi! Bao nhiêu là tin hay, ruột gan ông lão cứ náo nức cả lên. Đến đâu, ông cũng thấy hãnh diện, ông hay khoe về làng, về tinh thần kháng chiến của làng.

            Sau Cách mạng, ông khoe về làng cũng khác, ông không còn tự hào vì cái sinh phần cụ Thượng nữa mà thấy thù nó. Cách mạng tháng Tám thành công đã đưa đến cho người nông dân những nhận thức mới, suy nghĩ mới về làng. Họ đã biết nhận thức được rằng cái gì đúng, cái gì sai.

            Thế nhưng, niềm vui chưa kịp bày tỏ thì một cú sốc lớn đã đến với ông Hai: đó là cái tin làng Chợ Dầu là Việt gian theo Tây. Hôm ấy, ông vừa bước ra khỏi phòng thông tin thì nghe được cái tin ấy từ miệng người đàn bà tản cư khiến ông lão: “lặng người đi, tưởng như đến không thở được.

            Một lúc lâu ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ, ông cất tiếng hỏi, giọng lạc hẳn đi. Ông Hai vô cùng bàng hoàng trước cái tin ấy. Thế rồi ông rơi vào tột cùng của sự đau đớn, ông cố lê những bước chân chậm rãi về nhà. Những ngày sau đó, ông chỉ ru rú ở trong nhà, không dám đi đâu cả, ở đâu ông cũng được bộc lộ rõ nét.

            Đầu tiên, ông về nhà và không dám đi đâu cả, chỉ ở nhà một mình, giọng nói chua lanh lảnh của người đàn bà tản cư kia lại cứ văng vẳng trong tâm trí ông mãi: “Đói khổ ăn cắp ăn trộm, bắt được người ta còn thương chứ cái giống Việt gian bán nước ấy thì cứ cho mỗi đứa một nhát”. Chao ôi! Sao lại có chuyện ấy được, chẳng lẽ lại là sự thật, nhìn lũ con thơ, tủi thân, nước mắt ông lão cứ thế tràn ra: “Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư; Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu… “.

            Lòng ông lão như bị giằng xé, có cái gì như đang bóp nghẹt quả tim ông khiến ông khó thở, đau đớn tột cùng. Rồi ông lại tự mình nói chuyện với mình, lúc thì ông bảo không phải và lấy cớ để thanh minh cho chuyện ấy. Rồi ông lại thấy điều đó là sự thật thì hợp lí hơn: “Không có lửa làm sao có khói. Ai hơi đâu người ta bịa tạo ra những chuyện ấy làm gì? Chao ôi! Cực nhục chưa? Khắp cái nước Việt Nam này người ta ghê tởm cái giống Việt gian bán nước…”. Rồi lòng ông lại quặn đau, nội tâm ông luôn luôn thay đổi, luôn có hai quan điểm đối lập nhau.

            Rồi ông lại trò chuyện với đứa con út để vơi đi đôi phần, ông hỏi đứa con ông ủng hộ làng hay Cụ Hồ, nghe nó ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh, lòng ông như được vun đắp phần nào, càng vững trí hơn. Cái lòng bố con ông như thế đấy, đâu dám đơn sai: “Các đồng chí biết cho bố con ông, Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông”. Ông rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan khi biết ở vùng tản cư không ai chứa những người làng Chợ Dầu nữa để đi đến một quyết định cao đẹp.

            “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Đó là một hành động cao đẹp của ông Hai – một người dân yêu nước. Cuối cùng, ông đã chọn đi theo Cụ Hồ theo lí tưởng cách mạng, ở đây ta thấy được sự hòa quyện giữa tình yêu làng với tình yêu nước. Đó là bước chuyển biến mới trong tư tưởng tình cảm của người nông dân Việt Nam buổi giao thời mới – cũ.

            Và rồi tin làng ông Việt gian theo Tây đã được cải chính, ông lại rơi vào sư hả hê sung sướng, hạnh phúc vô bờ. Ông lại được khoe về làng, được tự hào về làng thậm chí ông khoe cả cái nhà ông bị Tây đốt cháy, ông kể tỉ mỉ, chi tiết cho bác Thứ nghe về trận đánh hôm Tây nó vào khủng bố, chúng nó cả bao nhiêu thằng chúng ta đánh được bao nhiêu, làng ông chống đỡ, phòng ngự ra sao, như chính ông lão vừa dự trận đánh vậy.

            Đến đây, ta thấy được nội tâm, tâm trạng ông Hai đã có sự thay đổi rõ rệt, từ tình huống thay đổi mà con người cũng đổi thay, sự đau đớn tột cùng giờ đã chuyển sang hả hê sung sướng. Qua đây ta thấy được tầm quan trọng của nghệ thuật xây dựng tình, huống truyện và miêu tả nội tâm nhân vật đối với một tác phẩm văn học.

            Quê hương là hình ảnh không thể phai mờ trong thơ ca. Nhà văn I-li-a Ê-ren-bua đã từng viết: “Lòng yêu làng quê trở thành tình yêu đất nước”. Kim Lân đã đưa được thông điệp ấy đến với người đọc thông qua tình huống truyện bất ngờ, gay cấn và nội tâm nhân vật thay đổi bất ngờ, phù hợp. Đó là nét đẹp mới của người nông dân, hòa quyện tình yêu với làng quê thân yêu. Ông Hai là tiêu biểu của người nông dân Việt Nam buổi giao thời mới – cũ.

            Gợi ý cho bạn ☔ Suy Nghĩ Của Em Về Nhân Vật Ông Hai ☔ 12 Bài Văn Hay Nhất

            Phân Tích Tác Phẩm Làng Ngắn Nhất – Mẫu 5

            Bài văn phân tích tác phẩm Làng ngắn nhất dưới đây sẽ giúp các em học sinh ôn tập tác phẩm Làng và chuẩn bị tốt cho bài viết phân tích văn học trên lớp.

            Làng của Kim Lân là một tác phẩm hay, thể hiện tình yêu thương quê hương đất nước của nhân vật ông Hai, tác phẩm đã để lại cho người đọc nhiều cảm xúc bởi nhiều tình huống hay và hấp dẫn. Làng là một tác phẩm nhằm tái hiện lại xã hội xưa với rất nhiều những biến cố, khó khăn và bom đạn vẫn đang đe dọa mỗi ngày. Nhưng trong đó hình ảnh những người nông dân hiền lành chất phát vẫn luôn được đề cao bởi tinh thần yêu nước, yêu quê hương.

            Hình ảnh đó đã thể hiện sự gắn bó da diết của những con người nơi đây, vì tổ quốc quê hương, những người nông dân đó phải bỏ lại quê hương, làng để đi bảo vệ đất nước. Ông Hai là nhân vật điển hình trong đó, do giặc đến làng nên ông phải xa làng, nhưng ra đi nhưng một lòng vẫn luôn nhớ đến làng của mình, ông tự phải động viên mình để bớt đi cảm xúc nhớ thương.

            Với niềm vui và sự tự hào về làng của mình, ông luôn hăm hở và khoe với tất cả mọi người về ngôi làng của mình, ông giãi bày với mọi người về tình cảm với cái chợ Dầu thân yêu, ông luôn thể hiện tình cảm của mình một cách mãnh liệt. Với tình cảm về làng nên những gì ông kể với mọi người cũng mang một niềm da diết, khôn nguôi, ông kể say mê, và không thấy mỏi miệng.

            Ông gặp ai cũng kể về ngôi làng của mình, từ những người hàng xóm ở nơi tản cư mới, đến cả những người an hem đào hào, đắp ụ cùng, ông thể hiện tình cảm của mình ở tất cả mọi lúc, mọi nơi, niềm vui đó đã mang lại cho ông một cái nhìn mới mẻ, và đầy chất nhân văn.

            Ông coi làng của mình như ruột thịt của mình, háo hức vui vẻ say mê trong những câu chuyện kể về làng, ông khoe những người xuất thân từ làng đều là những người có tinh thần cách mạng cao, những con người anh dũng luôn hết mình vì dân tộc. Với tình cảm đó chính vì thế mà ông không muốn tản cư một chút nào, khi phải ra đi ông đau khổ, tuyệt vọng, ban đầu ông còn trở nên trầm tính, khó tính với vợ con, bởi tấm lòng của mình gắn bó với quê hương đất nước rất lớn, với ngôi làng của mình.

            Ông còn khoe với mọi người về chiếc chợ Dầu, nơi đã đánh tây, ông kiêu hãnh để khoe với tất cả mọi người về ngôi làng của mình, niềm vui đó của ông vẫn luôn khơi dậy trong tâm hồn của ông một niềm vui, hạnh phúc biết bao. Với sự tự hào vô bờ bến với ngôi làng của mình.

            Nhưng khi ông Hai nghe tin làng của mình theo giặc, ông đã vô cùng đau khổ, cổ của ông nghẹn đứng lại, da mặt rân rân, ông không thể thở được, ông vẫn coi đó không phải là sự thật. “Một lúc lâu ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ…giọng lạc hẳn đi” ; ” Ông Hai cúi gằm mặt xuống mà đi”.

            Ông cảm thấy xấu hổ, ông không tin đó là sự thật, nếu trước đây ông tôn sùng và yêu quý làng như thế nào thì đây lại là tiếng sấm đánh ngang tai làm ông chết điếng người. Ông mang trong mình những nỗi nhục nhã, ê chề: ” Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông cứ dàn ra…chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư…? “Sự đau khổ tuyệt vọng đang dần thể hiện lên đôi mắt và trái tim của ông.

            Ông xấu hổ với tất cả mọi người, khi mọi người biết tin đó, gia đình ông lâm vào cảnh không có chỗ nương thân. Tinh thần của ông Hai vô cùng cứng rắn, với tấm lòng yêu làng vô bờ bến nhưng khi biết tin nó theo Tây thì ông thấy nhục nhã và không muốn quay về đó, nó là nơi nhục nhã, ê chề, ông căm thù nó, khi đã bỏ lại kháng chiến, cụ Hồ….

            Một con người với tình cảm rõ rệt, vẫn quý quê hương khi quê hương có những người luôn vì cách mạng, chiến đấu vì cách mạng, nhưng khi nghe theo Tây, với sự dứt khoát, ông không thể sùng bái một vùng mà bỏ lại dân tộc của mình để theo giặc được. Một tâm hồn đang đau khổ, đang chìm đắm trong sự nhục nhã, ê chề đã làm cho ông cảm thấy đau khổ.

            Nhưng niềm vui mạnh mẽ đến với ông khi ông nghe tin làng cải chính, ông bỗng vui vẻ hẳn lên, rạng rỡ nụ cười, đi mua quà cho con, và lại đi khoe về làng của mình không theo tây, sự sung sướng lại quay trở lại với ông. Với tình yêu quê hương, đất nước của mình, ông đã thể hiện một tính cách đa diện về tình yêu với làng của mình.

            Tác phẩm đã để lại cho người đọc nhiều cảm xúc, về tình cảm của những con người đối với quê hương, và với cách mạng..

            Đọc nhiều hơn 🌻 Suy Nghĩ Về Nhân Vật Ông Hai Trong Truyện Ngắn Làng 🌻 Đặc Sắc

            Phân Tích Bài Làng Của Kim Lân Đầy Đủ – Mẫu 6

            Kim Lân là một trong những nhà văn luôn hướng các tác phẩm của mình vào cuộc sống ở làng quê Việt Nam. Có người đã cho rằng chính từ những bức tranh nông thôn bình dị ấy, ông đã tìm ra phong cách cho riêng mình và đã thể hiện tài năng sáng tạo của một cây bút văn xuôi xuất sắc trong văn học hiện đại Việt Nam.

            Những trang viết mộc mạc của ông đã gợi cho chúng ta biết bao điều sâu sắc, để ta thêm yêu mến, trân trọng những người dân lao động trong những hoàn cảnh lịch sử nhất định. Nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng là một điển hình như vậy. Có theo dõi diễn biến sự phát triển của cốt truyện hấp dẫn, đặc sắc này mới hiểu được vì sao người đọc yêu mến và khâm phục Kim Lân!

            Cũng viết về tình yêu quê hương đất nước trong chiến tranh nhưng tác phẩm của Kim Lân không có bom rơi đạn nổ, không có đổ máu mà đơn thuần chỉ có con người với một tấm lòng và những tình cảm thiêng liêng, sâu sắc.

            Là một văn bản tự sự, Làng cũng có cốt truyện gồm nhiều sự việc xoay quanh nhân vật chính với những tình huống bất ngờ, đầy kịch tính. Diễn biến tâm lí và sự phát triển tính cách của ông Hai đã làm nên toàn bộ cốt truyện. Ở nhân vật này, tình cảm chủ đạo xuyên suốt tác phẩm là lòng yêu làng xóm quê hương tha thiết, lòng yêu nước sâu nặng !

            Ngay từ đầu, tình cảm của ông Hai đã được khắc hoạ khá đậm nét đó là tình yêu làng quê mang đậm tính truyền thống. Làng Chợ Dầu của ông Hai là nơi ông sinh ra và lớn lên, nơi ông đã gắn bó bằng một thứ tình cảm máu thịt. Ông đã từng tự nhủ lòng “mình sinh sống ở làng này từ tấm bé đến bây giờ. Ông cha cụ kị mình xưa kia cũng ở cái làng này bao nhiêu đời nay…”.

            Cho nên, ông không thể không yêu từng con đường đất nhỏ, từng nếp nhà tranh đơn sơ, từng thửa ruộng, từng ngọn cỏ, cánh đồng lúa thẳng cánh cò bay hay con đường làng lát toàn đá tảng… Ông tự hào và hãnh diện về làng mình ở vô cùng. Tình cảm đó trải qua nhiều biến cố lịch sử đã trở thành những thử thách của “lửa thử vàng”, tôi luyện phẩm chất con người.

            Trước Cách mạng tháng Tám, vì yêu làng quê mình quá ông đâm biến thành người hay khoe. Nghe những lời giới thiệu đầy vẻ khoe khoang của ông khiến bà con bên ngoại “mắt tròn mắt dẹt” vì kinh ngạc, chúng ta thấy vừa buồn cười lại vừa đáng quý tấm lòng của ông. Ông cứ hồn nhiên coi làng mình là nhất ở trên đời này, dù rằng những thứ để khoe đâu có phải của riêng ông, đâu có đem lợi lại cho bà con dân làng ông… !

            Phải cho đến khi Cách mạng về, ý thức được người dân làng ông quá khổ vì bị áp bức nay được đổi đời, có cơm ăn áo mặc, không còn bị nô lệ… thì những phẩm chất đáng quý trước kia nay được thể hiện khác lạ hẳn. Ông vẫn thích kể chuyện làng, vẫn thích khoe một cách say sưa về làng mình.

            Nhưng mỗi lời của ông lúc này chứa đầy sự giác ngộ về cách mạng, về ý thức giai cấp mà ông là người trực tiếp tham gia trong đó. Lúc này đây, lòng yêu quý làng quê của người nông dân làng Chợ Dầu đã trở thành một phẩm chất đáng quý, một tính cách đáng trân trọng của nhân vật.

            Từng bước một, câu chuyện dẫn dắt chúng ta tới mảnh đất miền trung du, nơi ông Hai cùng bà con dân làng đã đến tản cư. Xa làng, tình cảm đối với quê nhà của người dân tản cư, rõ nhất là qua ông Hai, càng làm nổi bật sự phát triển của cốt truyện. Vì kháng chiến mà họ rời làng đi xa, nhưng có phút giây nào lòng họ không ngóng về quê hương. Nỗi nhớ cồn cào, da diết của họ đã chứa đựng trong câu ca xưa :

            Anh đi anh nhớ quê nhà,
            Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương…

            Đến nơi mới này cái bệnh “khoe làng” của ông Hai vẫn không thay đổi. Nó càng sâu sắc hơn để biến thành nét tính cách riêng biệt. Ngày bận rộn sản xuất thì thôi chứ chiều tối ông không sao chịu đựng nổi sự gặm nhấm của nỗi lòng, của tiếng rì rầm đếm tiền hàng của bà vợ. Hình như được chia sẻ đã trở thành nhu cầu bức thiết, làm vơi đi những tâm tư đang chất chứa trong lòng của ông lão vốn quen cởi mở, giãi bày.

            Ông lại sang hàng xóm khoe về cái làng nhỏ như để vơi đi phần nào sự mong nhớ. Chỉ có lúc ấy ông mới trở nên có khí sắc, mới thực sự được sống với bao kỉ niệm đẹp đẽ, với niềm tự hào của một tình yêu làng tha thiết, nồng nàn nhất. Sự phát triển của câu chuyện khiến ta xúc động vô cùng trước tình cảm trong sáng, thuần khiết và hồn hậu của một người nông dân chân chất, ít học !

            Như vậy, Cách mạng về, kháng chiến bùng nổ không chỉ đem lại sự đổi đời cho nhân vật mà nó còn tạo cơ hội để nhân vật bộc lộ tấm lòng và tình cảm của mình với quê hương, đất nước. Trước, cái sinh phần viên tổng đốc làng ông lúc nào cũng khiến ông hãnh diện. Tình yêu làng của ông lão nhà quê bây giờ đầy kiêu hãnh, vì làng Chợ Dầu không chỉ đẹp mà còn đánh giặc rất hăng.

            Có thế, ông với bà con dân làng mới phải đĩ tản cư để dân quân du kích làng ông còn chiến đấu với lũ đầu trâu mặt ngựa đó chứ ! Phải chăng, khi phải rời quê đi tản cư, bao chuyện vui buồn của quá khứ và hiện tại cứ chất chứa tràn đầy và nồng ấm trong ông !

            Cái tin thất thiệt làng Chợ Dầu theo giặc và tin đó được cải chính sau này là những tình huống bất ngờ đầy kịch tính của truyện. Ngòi bút của Kim Lân đã đẩy cốt truyện phát triển đến đỉnh điểm. Hai tình huống trên được đặt vào phần sau của truyện tựa như có một sức hút lạ kì, lôi cuốn người đọc theo dõi sự phát triển tính cách của một người đã yêu làng bằng cả trái tim mình.

            Hình ảnh “Cổ ông lão nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân” như nói lên được tấm lòng đầy nghĩa tình của ông với kháng chiến, với Cụ Hồ. Nỗi buồn khổ vì tin làng phản bội như một nhát dao cứa vào tim ông, làm sụp đổ bao niềm kiêu hãnh về làng quê của mình. Ông thấy tủi hổ cho bản thân ông, cho gia đình ông, cho cái làng Chợ Dầu và cả dân làng nơi đó nữa. Nhà văn diễn tả tâm trạng của nhân vật chính này như một sự bất lực, tuyệt vọng.

            Và cũng chính lúc này, ông nhận ra vẻ đẹp của lòng yêu nước ẩn chứa trong tâm hồn những người khác nữa. Từ mụ chủ nhà xấu người xấu nết mà hễ cứ thấy mặt là ông lại ghét cay ghét đắng, hay người đàn bà tản cư ngồi cho con bú với câu chửi đổng bâng quơ và còn bao người dân khác nữa,…

            Tất cả họ đều sẵn sàng nhường cơm sẻ áo, chia nhà chia cửa cho đồng bào của mình khi có hoạn nạn, khó khăn, nhất là khi có hoạ ngoại xâm. Nhưng cũng chính họ đã phản ứng quyết liệt trước sự phản bội và không nhân nhượng với bất cứ ai hèn nhát đầu hàng hay chỉ cần là dân của một làng đã đi theo giặc. Mong nhớ và chờ đợi từng ngày từng giờ được trở về làng vậy mà lòng ông thắt lại, và đã dứt khoát với chính mình : “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”.

            Phải chăng, đến đây diễn biến của chuyện đã để cho tình yêu Tổ quốc rộng lớn thực sự vượt lên trên tình yêu làng xóm, quê hương vốn nhỏ bé trong trái tim nhân hậu, giàu tình cảm của ông Hai. Lời tâm sự của ông với cậu con trai út, nhất là những giọt nước mắt cứ trào ra, chảy dài trên khuôn mặt một người vất vả, đã sống qua mấy chế độ, từng trải cũng nhiều.

            Ông khóc như thế “để ngỏ lòng mình, minh oan lại cho mình”. Bản chất tốt đẹp của chế độ, ý nghĩa cao cả của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã khiến cho tình cảm truyền thống của người nông dân có nhiều biến chuyển sâu sắc.

            Câu chuyện còn đưa ta đến với một chi tiết rất thú vị, độc đáo. Đó là niềm vui sướng, hoan hỉ của ông khi rối rít đi khoe “Tây nó đốt làng tôi rồi ông chủ ạ. Đốt nhẵn.”. Có lỗ ông Hai là người duy nhất trên thế giới này vui sướng khi bị đốt nhà cửa, làng xóm. Phải đặt vào hoàn cảnh lịch sử của câu chuyện mới hiểu việc mất mát đó chứng tỏ được tinh thần chống giặc của làng Chợ Dầu quyết liệt như thế nào.

            Niềm hạnh phúc của người nông dân trong cuộc kháng chiến chống Pháp là được đánh đổi tất cả để đất nước được độc lập, người dân được sống yên bình, êm ả nơi quê cha đất tổ của mình. Không khí thiêng liêng của thời khắc lịch sử đã xoá bỏ được những gì vốn nhỏ hẹp, tư hữu có từ lâu đời ở người nông dân.

            Phải chăng, Ê-ren-bua đã nói đúng trong trường hợp này, tình cảm của các nhân vật trong truyện khác nào “dòng suối đã đổ ra sông, dòng sông lại đã đổ ra biển” để tình yêu làng xóm quê hương mở rộng ra hòa vào tình yêu Tổ quốc, tình yêu cách mạng lớn lao.

            Toàn bộ tác phẩm đã nêu lên một ý nghĩa sâu sắc, đó là sự thay đổi lớn lao về nhận thức của người nông dân trong thời kì đầu kháng chiến chống thực dân Pháp. Cốt truyện không phức tạp, dài dòng, ngược lại rất đơn giản, dễ hiểu nhưng đầy bất ngờ, lôi cuốn.

            Từ những việc tưởng như bình thường nhỏ bé nhờ sự phát triển hợp lí và tài tình của diễn biến cốt truyện mà chứa đựng bên trong những ý nghĩa hàm ẩn sâu sắc, lớn lao. Để cốt truyện phát triển song hành cùng diễn biến tâm lí nhân vật là một thành công trong phong cách sáng tác của nhà văn. Phải nói rằng, Kim Lân rất giỏi trong việc “đãi cát” để “lấy được vàng”. Làng khép lại trong một dư âm nhẹ nhàng của sự hòa quyện giữa tình yêu làng quê với tình yêu đất nước của người nông dân nói riêng và người Việt Nam nói chung.

            Mời bạn khám phá thêm các mẫu -> Phân Tích Nhân Vật Ông Hai

            Nghị luận về tác phẩm truyện hoặc đoạn trích Làng – Mẫu 7

            Tham khảo bài văn nghị luận về tác phẩm truyện hoặc đoạn trích Làng dưới đây để củng cố lại những kiến thức trọng tâm xoay quanh tác phẩm Làng cũng như trau dồi kỹ năng phân tích văn bản:

            Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập và nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được khai sinh, tạo ra một thế đứng chính nghĩa đối lập với âm mưu thống trị và phi nghĩa của giặc Pháp cùng bọn tay sai. Sức sống và âm vang của cuộc cách mạng truyền rộng khắp quê hương và cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ.

            Dưới sự lãnh đạo của Bác Hồ lực lượng cách mạng đã mau chóng khơi dậy và chuyển hóa cả một dân tộc… Trong bối cảnh đó, nhà văn Kim Lân đã viết truyện ngắn “Làng” như một biểu tượng về bức tranh rộng lớn nêu trên. Nhà văn kể cho chúng ta về cảnh đời của ông Hai, một nông dân ở làng Chợ Dầu cùng với vợ con tản cư sang ở tạm làng bên vì giặc Pháp tiến vào làng ông, bao vây, càn quét, khủng bố.

            Từ ngày ở nơi tạm cư, vừa phần không có việc gì ra hồn cho ông làm, vừa phần vì nhớ làng, nhớ anh em du kích còn ở làng nên ông Hai rất bực bội. Ông thường hay chạy sang nhà bác Thứ bên cạnh để nói chuyện cho khuây khỏa. Hết chuyện thời sự đâu đâu mà ông nghe được, lại đến chuyện làng của ông bởi ông vốn hay khoe cái làng từ xưa và ông cứ ân hận vì vợ, vì con mà không được ở lại làng chiến đấu cùng anh em du kích.

            Chuyện trò rồi đi vỡ đất, nhưng ông Hai như chẳng lúc nào quên được làng và nôn nóng ngóng tin kháng chiến khắp nơi. Ông đến cả văn phòng thông tin nghe đọc báo. Rồi nghe tin dọc đường đồn rằng làng Chợ Dầu theo giặc khiến ông Hai buồn đau tủi nhục vô cùng, về nơi ở tạm, ông vật vã đau xót. Nhưng rồi tin ấy được cải chính, ông Hai sung sướng như được rửa nhục và ông lại tiếp tục say sưa kể bao nhiêu chuyện về cái làng Chợ Dầu thân yêu của ông.

            Câu chuyện chỉ diễn ra ít ngày ở nơi tạm cư, xoay quanh hình ảnh ông Hai cùng bà vợ, đứa con và mụ chủ nhà cùng đôi ba nhân vật khác, gắn liền với âm vang dân làng, cũng như tin tức kháng chiến nơi nơi vọng về. Nhưng tất cả câu chuyện lại có sức khơi mở một bức tranh sinh động đầy sức lôi cuốn và giàu ý nghĩa thú vị…

            Từ không gian chật hẹp chung đụng như tù túng ở nơi tạm cư của gia đình ông Hai, tác giả đã tuần tự kể rất tự nhiên về các tình huống khi mà ông Hai bung ra ngoài đi tới, đi lui, đi đây đi đó bộc lộ tâm tình, tính cách một nông dân. Trang văn có chất dí dỏm và tạo những giây phút xúc động. Làm sao không mỉm cười khi mà ông Hai vốn chỉ quen cày cuốc già nửa đời người nơi gốc tre bờ ruộng, tầm hiểu biết chính trị lõm bõm vụn vặt ấy.

            Thế mà ông chuyện trò với bác hàng xóm toàn là những tin thời sự liên quan đến vận mệnh cả nước “… Này Đác-giăng-li-ơ nó lại về Pháp đấy nhỉ! Hừ, chơi vào! Còn là đi đi, về về! …”, hoặc “Báo Cứu quốc hôm nay nghe sướng quá. Cụ Hồ đối đáp với các nhà báo ngoại quốc đâu vào đấy. Cứng rắn mà lại mềm mỏng lắm. Cụ bảo rằng thì là dân ta chỉ muốn độc lập và thống nhất thôi, không thì dân ta đánh đến cùng. Thật đấy, chuyến này không được độc lập và thống nhất thì chết cả đi chứ sống làm gì cho nó nhục. Mà có khi nào mình không muốn thống nhất độc lập hở bác?”.

            Rồi ông miên man nói sang cả chuyện chính trị quân sự nữa “Ta bố trí nó thế này, ta bố trí nó thế kia. Ta chính trị nó thế này, ta chính trị nó thế kia. Rất trơn tru, rất thành thạo mà chẳng ra đâu vào đâu cả”. Và người đọc cười xòa trước cái ngộ nghĩnh của ông lão khi ông giải thích tài nói huyên thuyên của ông. Đó là lúc ông “kéo dài một bên ria mép ra, tủm tỉm: – cũng là học lỏm cả đấy thôi bác ợ… Chả là tôi cũng là phụ lão cứu quốc mà…”.

            Và cũng thật tếu táo, sống động khi tác giả để cho ông Hai bộc lộ lời nói dân dã bình dị tự nhiên khi cao hứng khoe lấy, khoe để cái làng của ông khi xưa. “… Chết… Chết lắm lắm là của… Cái tượng đá này ông Hoàng Thạch Công đánh rơi giày. Những người bằng sứ kia là bát tiên quá hải… kia là máy thu lôi. Khiếp lắm, sấm sét là thu tất cả vào trong ấy”.

            Nhưng bây giờ khi Cách mạng bùng lên, ông Hai lại say sưa khoe làng những khác hẳn: “Ông khoe những ngày khởi nghĩa rồn rập ở làng, mà ông gia nhập phong trào từ thời kì còn bóng tối. Những buổi tập quân sự. Cả giới phụ lão có cụ râu tóc bạc phơ cũng vác gậy đi tập một hai…”

            Thú vị hơn cả là sau khi thoát cái bực bội trước tính tình keo kiệt, soi bói, đỏng đảnh của mụ chủ nhà bằng cách ra ngoài cho khuây khỏa, ông Hai lại tới phòng thông tin. Dù có qua khóa bình dân học vụ xóa mù chữ nhưng ông Hai vẫn lõm bõm đọc câu được, câu chăng. Cho nên ông “cứ đứng vờ vờ xem tranh ảnh chờ người khác đọc rồi nghe lỏm”.

            Ông Hai “ghét thậm những anh cậy ta đây lắm chữ, đọc báo lại cứ đọc một mình, không đọc ra thành tiếng cho người khác nghe nhờ mấy”. Nhưng hôm ấy nỗi khát khao nghe nhờ của ông Hai được đáp ứng ngay vì “vớ được anh dân quân đọc rất to, dõng dạc, rành rọt từng tiếng một. Cỡ chừng anh ta cũng mới học, đánh vần được chữ nào anh ta đọc luôn chữ ấy…” thế là ông Hai vớ được “bao nhiêu là tin hay”.

            Tin một em nhỏ nằm trong lòng địch xung phong mạo hiểm cắm cờ Cách mạng lên tháp Rùa, tin một anh trung đội trưởng giết bảy tên giặc rồi tự sát, hay đội nữ du kích Trưng Trắc bắt sống tên quan Hai… Và còn bao nhiêu tin chiến đấu của du kích quân, chiến sĩ Cách mạng trên khắp các mặt trận khiến ông Hai vô cùng tự hào “Khiếp thật, tinh những người tài giỏi cả”, “làm gì mà rồi thằng Tây không bước sớm…”.

            Tiếp đến, cao điểm của câu chuyện là ông Hai đau buồn, tủi nhục trước tin đồn đại cái làng Chợ Dầu của ông đã đầu hàng, đi theo giặc. Bố con ông ôm nhau khóc mà ông vẫn khát khao hướng về Cách mạng “… ừ đúng rồi, ủng hộ cụ Hồ con nhỉ…” và tâm hồn vẫn mong mỏi thầm kín chân thành: “Anh em đồng chí biết cho bố con ông…”, “Cụ Hồ trên đầu, trên cổ xét soi cho bố con ông”…

            Những tình huống và sự việc cụ thể, sống động vừa được điểm qua đó đã mở ra một hiện thực giàu ý nghĩa của những năm tháng không thể nào quên: Trong những tháng năm đầu của Cách mạng tháng Tám thành công, rồi tiếp ngay là tháng năm tiến hành sự nghiệp toàn quốc kháng chiến.

            Âm vang và sức sống của cách mạng, của hình ảnh Bác Hồ đã bắt rễ ngay vào cuộc sống nơi lũy tre, bờ ruộng thôn quê. Tạo ra chuyển biến và dấy lên được cảm hứng đầy tin yêu nơi những tâm hồn mộc mạc, chân chất, vốn sẵn tấm lòng gắn bó lâu đời với làng xóm, quê hương…

            Những hình ảnh người dân rời làng khi giặc tới, tạm thời phân tán đi tạm cư nơi này, nơi khác, chỉ còn lại du kích chiến đấu. Cũng như tin tức nổi dậy khắp nơi lan truyền như đồn về trong các tình huống để rồi gợi lên bao háo hức, nôn nóng, tự hào… Rồi cả tin buồn đồn đại làng bỏ kháng chiến đi theo giặc, làm đọng lại trong lòng người đọc bao đau xót, trăn trở.

            Và cuối cùng bất ngờ cái tin làng theo Tây, theo giặc được cải chính, cái danh dự của làng được phục hồi ở phần cuối câu chuyện, cùng niềm vui của bao tâm hồn, tất cả như làm rộn rã trang văn. Làm tỏ rõ thêm hiện thực một thời khi mà sức sống của chính nghĩa cách mạng, của lí tưởng độc lập, tự do nằm sâu được trong lòng dân tộc…

            Trong ý nghĩa đó, chúng ta hiểu vì sao trên đường tản cư, chạy giặc, hình ảnh người đàn bà vừa cho con bú, vừa giận dữ văng tục trước tin có kẻ bám gót quân thù: “Cha mẹ tiên sư nhà chúng nó! Đói khổ ăn trộm bắt được người ta còn thương. Cái giống Việt gian bán nước thì cứ cho mỗi đứa một nhát!”.

            Và chúng ta càng thú vị khi hiểu vì sao nhân vật mụ chủ nhà trong truyện tưởng như thật đáng ghét, tưởng như mụ chẳng chút tình nghĩa gì với đồng bào, với cuộc kháng chiến.

            Nhưng cuối cùng mụ lại sáng rỡ khuôn mặt, hòa chung niềm vui với ông Hai “Mụ giương tròn cả hai mắt mà reo: A! Thế chứ! thế mà tớ cứ tưởng dưới nhà đi Việt gian thật, tớ ghét ghê ấy… Thôi, bây giờ thì ông bà lại cứ ở tự nhiên ai bảo sao. Ăn hết nhiều chứ ở hết bao nhiêu… Mụ cười khì khì…”. Đó phải chăng là cái mẫu số chung của từng tâm hồn cụ thể, làm nên sức mạnh yêu làng, yêu nước, nơi toàn thể nhân dân…

            Cứ thế, nghệ thuật xây dựng cốt truyện của nhà văn Kim Lân đã có một vẻ đẹp truyền lan được cảm xúc và ý nghĩa sâu đậm. Các tình huống như tự nhiên bước ra từ cuộc sống thực đời thường dân dã nhưng lại giàu sức biểu hiện cho một giai đoạn giao thời. Phối hợp các tình huống sống động trong truyện, trang văn của Kim Lân đã để lại dấu ấn sâu đậm cho chúng ta về niềm say sưa yêu làng, yêu nước của những tâm hồn chất phác khi mà cao trào cách mạng và cuộc kháng chiến đang thâm vào từng mạch sống của quê hương.

            Bức tranh của truyện trở thành một hình tượng giàu tính lãng mạn trong một thời toàn dân chiến đấu và cuộc sống mỗi người như hòa làm một nơi lí tưởng cứu nước, cứu nhà, cứu làng xóm thân yêu. Nơi những trang văn, cái sống động, đặc sắc của cốt truyện “Làng” cũng đã dẫn theo hình tượng nhân vật mà người đọc không thể nào quên. Đó là hình ảnh ông Hai. Từ các tình huống của hoàn cảnh, người đọc chúng ta như cảm nhận được tính cách mãnh liệt và say sưa của một nông dân đôn hậu, chất phác giữa một thời trọng đại của đất nước.

            Cũng, như bao người dân Việt, từ ngàn đời gắn bó với bờ ruộng, lũy tre, với họ hàng, làng nước. Ông Hai như tiếp nối cái tình cảm truyền thống không thể mờ phai, đó là cái tình làng nghĩa xóm nơi mà ông sinh trưởng và lớn lên. Và ông đã yêu cái làng chợ Dầu của ông hơn ai hết. Yêu đến độ lúc nào cũng chỉ muốn khoe làng cho người khác thán phục.

            Ông chọn một sự vật cụ thể là “cái sinh phần” lăng mộ của viên tổng đốc để khoe, ông xuýt xoa mô tả từng chi tiết và có khách đến chơi là “dắt ra xem lăng cho kì được”, rồi tán tụng đến khi khách phải kinh ngạc và ông Hai thì thấy “hả hê cả lòng” tưởng “thấy cái lăng ấy một phần như có ông”.

            Thế nhưng thời thế biến chuyển, cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám nổ ra với những tư tưởng mới thấm dần vào từng tâm hồn, từng hoạt động cách mạng ở xóm thôn khiến ông Hai cũng đổi thay nếp nghĩ. Ông gia nhập “phong trào” khi còn “bóng tối”.

            Ông tham dự “qua khóa bình dân học vụ”… dù chưa đánh giỏi bằng ai, nhưng có lẽ nhờ đó mà ông Hai biết đặt tình yêu vào đúng chỗ, đúng nơi. Và ông đã nhận ra “cái sinh phần”, cái lăng mộ kia chỉ là vết tích của một thời đế quốc Pháp và quan lại phong kiến tay sai làm khổ ông, “làm khổ bao nhiêu người làng này nữa”…

            Gia nhập kháng chiến, nhận rõ kẻ thù, nhìn thấy, nghe thấy cũng đổi thay cụ thể, khi cách mạng bùng lên… tâm hồn vốn yêu làng nước của ông Hai lại đầy cảm hứng dâng trào! Ông nói chuyện về cái làng ấy một cách say mê và náo nức lạ thường. Hai con mắt ông sáng hẳn lên, cái mặt biến chuyển hoạt động. Và “bây giờ khoe làng, ông lão lại khoe khác. Ông khoe những ngày khởi nghĩa rồn rập… làng của ông có cái phòng thông tin tuyên truyền sáng sủa rộng rãi nhất vùng… Những buổi tập quân sự… phụ lão có cụ râu tóc bạc phơ cũng vác gậy đi tập…”

            Rõ ràng cảm hứng yêu làng giờ đây như gắn liền với tâm hồn say sưa cùng cao trào khởi nghĩa rộng lan. Trong ý nghĩa dó, người đọc chúng ta càng thấy thú vị khi ông Hai bàn chuyện làng, chuyện nước bằng thứ ngôn ngữ nửa quê, nửa tỉnh một cách hồn nhiên, tếu táo “Ta chính trị nó thế này, ta chính trị nó thế khác. Rất trơn tru, rất thành thạo mà chẳng đâu vào đâu cả”.

            Từ đó, trang văn biểu hiện được tính cách tâm hồn ông Hai giờ đây lúc hân hoan, háo hức, tự hào, lúc buồn tủi xót đau, lúc sảng khoái dâng trào đều khởi đi từ nhịp sống nơi ông gắn liền với chuyện làng, chuyện nước cùng cuộc kháng chiến sôi động ngày đêm dội về.

            Tóm lại, từ những phân tích phác lược nêu trên về nghệ thuật và nội dung của truyện ngắn “Làng”, người đọc chúng ta có thể bước đầu cảm nhận được giá trị ngòi bút viết truyện của nhà văn Kim Lân. Chỉ với một truyện ngắn, tình tiết cùng nhân vật không nhiều nhưng cách phối hợp miêu tả, kể chuyện, xây dựng các tình huống, xây dựng ngôn ngữ hành động nhân vật một cách sống động, chân thật, tự nhiên mang đậm nét điển hình… giàu sức khơi gợi, truyền cảm.

            Trang truyện của nhà văn đã phản ánh được sâu sắc hiện thực một thời khi mà những người nông dân vốn yêu làng, yêu nước, bộc lộ những chuyển biến tâm hồn cùng hành động trong niềm tự hào, niềm khao khát đến với cách mạng, tham gia cách mạng, làm chủ lấy vận mệnh để chiến đấu giành lại nền độc lập cho quê hương.

            Tiếp theo đón đọc 🌟 Mở Bài Phân Tích Nhân Vật Ông Hai 🌟 20 Đoạn Văn Hay

            Cảm nhận của em về truyện ngắn Làng ngắn nhất – Mẫu 8

            Truyện ngắn Làng của nhà văn Kim Lân được viết vào những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và được in trong báo Văn nghệ năm 1948. Truyện ca ngợi tình yêu làng thắm thiết thống nhất với lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến ở nhân vật ông Hai, một nông dân phải xa làng đi tản cư. Qua đó ta cũng cảm nhận được tinh thần yêu nước của nhân dân ta trong thời kháng chiến chống Pháp.

            Truyện Làng khai thác một tình cảm bao trùm và phổ biến trong con người thời kháng chiến. Đó là tình cảm quê hương đất nước. Một tình cảm mang tính cộng đồng nhưng thành công của Kim Lân là đã diễn tả tình cảm tâm lí chung ấy trong sự thể hiện sinh động của một con người, trở thành một nét tâm lí sâu sắc ở nhân vật ông Hai. Vì thế nó là tình cảm chung mà lại mang rõ màu sắc riêng cá nhân, in rõ cá tính của nhân vật.

            Cũng như những người nông dân khác thời kháng chiến, bằng một thứ tình cảm khá đặc biệt ông Hai rất yêu làng, mảnh đất ông đã sinh ra và lớn lên, nơi cất tiếng khóc chào đời đầu tiên của ông, đó là làng Chợ Dầu. Ông say mê kể về làng, luôn khoe làng mình, tự hào ở làng về nhiều mặt. Tình cảm ấy được bộc lộ tha thiết nhiệt thành khi ông phải xa làng đi tản cư.

            Ông Hai nói chuyện về làng một cách say mê và náo nức lạ thường, hai con mắt ông sáng hẳn lên. Cái mặt biến chuyển hoạt động. Hơn thế nữa đây không phải là lần thứ nhất nói chuyện về làng. Tối nào cũng vậy, lần nào cũng như lần nào, phần nói về làng cũng là phần để kết thúc câu chuyện.

            Thái độ của ông Hai với làng thể hiện gọn gàng trong một chữ khoe. Những lời khoe của ông thật đa dạng, khi thì hãnh diện, khi thì mê man giảng giải, khi thì rành rọt, khi nói liên miên. Ông Hai khoe làng ông có cái phòng thông tin tuyên truyền sáng sủa rộng rãi nhất vùng, chòi phát thanh cao bằng ngọn tre chiều chiều loa gọi cả làng đều nghe thấy. Ông khoe làng ông nhà ngói san sát sầm uất như tỉnh. Đường trong làng toàn lát đá xanh.

            Ông Hai còn khoe cái sinh phần của viên tổng đốc làng ông. Ông có vẻ hãnh diện cho làng được cái sinh phần đó lắm. Cái dinh cơ cụ Thượng làng tôi có lăm lắm là của. Vườn hoa cây cảnh nom như động ấy còn hơn cả cái lăng cụ Thiếu Hà Đông. Sau cách mạng ở ông Hai có những nhận thức mới hơn trong việc khoe về làng mình.

            Ông không khoe cái lăng ấy nữa mà còn biết chính cái lăng ấy nó làm khổ ông, làm khổ những con người của làng ông. Bây giờ nói đến làng ông khoe những ngày khởi nghĩa, những buổi tập quân sự, những hố những ụ, những giao thông hào của làng ông. Thậm chí có đôi lúc ông Hai ngậm ngùi kể lại cả những chuyện phiêu dạt và những chuyện đẩu chuyện đâu.

            Phải nói rằng những biểu hiện và tính khoe làng của ông Hai đó là tình yêu làng tha thiết. Yêu lắm về mảnh đất làng quê nên khoe nên nói cho đỡ nhớ làng, đỡ nhớ phong trào cách mạng ở làng mà ông đã từng tham gia phụ lão cứu quốc và tham gia đào hào đắp ụ.

            Một biểu hiện khác của ông Hai cũng xuất phát từ tình yêu làng chợ Dầu, ông không muốn bỏ làng ra đi vào lúc hữu sự. Ông luôn luôn có suy nghĩ: Mình sinh sống ở cái làng này từ tấm bé đến giờ, ông cha cụ kị mình xưa kia cũng sinh sống ở cái làng này đã từ bao nhiêu đời nay rồi. Bây giờ gặp phải cái lúc hữu sự như thế này là công việc chung chứ của riêng ai. Ông Hai bị hoàn cảnh dồn ép khổ sở lắm.

            Ông không trực tiếp kháng chiến ở làng mà phải đi tản cư. Đi tản cư xa làng ông Hai không ngày nào, không lúc nào không nghĩ về làng. Nỗi nhớ làng luôn luôn túc trực trong lòng ông. Mọi nỗi nhớ ấy đều tập trung ở những hoạt động kháng chiến; hát hò, đào hào, khuân đá. Tình yêu làng quê của ông Hai đã phát triển, đã được bồi dưỡng thêm bằng tình cảm mới – tình kháng chiến. Ông Hai không chỉ là người dân làng chợ Dầu, ông còn là một chiến sĩ gắn bó với phong trào kháng chiến của làng.

            Nhà văn Kim Lân đã diễn tả một tình cảm, một nét tâm lí quen thuộc về truyền thống của người nông dân. Tình cảm gắn bó với làng quê, tự hào về quê hương mình. Cái tâm lí tự hào đó cũng được ca dao thể hiện:

            Anh đi anh nhớ quê nhà
            Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương
            Nhớ ai dãi nắng dầm sương
            Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao.

            Cách mạng và kháng chiến đã khơi dậy ở người nông dân tình cảm yêu nước rộng lớn. Ở ông Hai tình cảm yêu làng là thống nhất với lòng yêu nước. Đúng như nhà văn I-li- a Ê ren bua có nói: “… lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu làng quê trở nên lòng yêu tổ quốc”. Để mỗi người đọc chúng ta cảm nhận sâu sắc hơn tình cảm yêu làng yêu nước của ông Hai – người nông dân cách mạng.

            Tác giả đã đặt ông Hai vào một tình huống gay gắt. Tình huống ấy là cái tin làng chợ Dầu theo giặc mà chính ông nghe được từ miệng những người tản cư qua làng ông. Một người luôn luôn khoe làng, tự hào về làng như ông Hai khi nghe tin đột ngột ấy không đau đớn sao được. Ông Hai sững sờ, cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi tưởng như không thở được.

            Từ lúc ấy trong tâm trí ông Hai cái tin dữ ấy xâm chiếm, nó thành một nỗi ám ảnh day dứt trong ông. Ra đường ông cúi gằm mặt xuống mà đi, về nhà nằm vật ra đường nước mắt trào ra. Bao nhiêu câu hỏi dày vò, rồi trằn trọc không ngủ được. Không chỉ có thế mà suốt mấy ngày hôm sau, ông Hai không dám đi đâu chỉ quẩn quanh ở nhà nghe ngóng, rồi nơm nớp lo chuyện loan ra.

            Ông Hai lo người ta đuổi người làng Việt gian thật là tiệt đường sinh sống. Mà ông cũng không thể về làng vì về là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ. Với ông làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây thì phải thù. Tấm lòng của ông, tình yêu làng yêu nước của ông chỉ có một mình ông hiểu chẳng biết nói cùng ai.

            Ông đem nỗi lòng của mình trò chuyện cùng thằng con út cho vơi bớt lòng ông: Nước mắt ông lão giàn ra chảy ròng ròng trên hai má, chết thì chết có bao giờ dám đơn sai. Đó có phải chăng là tấm lòng của ông Hai. Tình cảnh của ông Hai, diễn biến tâm trạng của ông khiến ta cảm động biết bao, đồng thời cũng cảm nhận được tấm lòng thủy chung với kháng chiến, với cách mạng mà biểu tượng là Bác Hồ.

            Nhưng có thể nói điều khiến ta xúc động hơn là tâm trạng của ông Hai khi nghe làng chợ Dầu được cải chính không theo giặc. Cái mặt buồn thiu mọi ngày bỗng vui tươi hẳn lên ông gọi con ra chia quà. Ông múa tay múa chân lên mà khoe, xúc động nhất là ông Hai chẳng hề nghĩ tiếc hay buồn về ngôi nhà riêng của ông bị giặc đốt.

            Niềm vui vì làng không theo giặc, không làm Việt gian đã chiếm hết tâm trí ông, đau khổ bế tắc đã được khơi thông. Lúc này ông Hai nói chuyện về làng mình cho mọi người nghe thật rành rọt, tỉ mỉ như chính ông vừa được dự trận đánh mới về. Có thể nói rằng ông Hai là một hình ảnh đẹp của những người nông dân bình thường nhưng giàu lòng yêu nước. Một mẫu người đáng quí của dân tộc ta trong những năm trường kì kháng chiến chống thực dân Pháp.

            Bên cạnh thành công về mặt nội dung, truyện Làng của Kim Lân còn thành công về mặt nghệ thuật. Truyện xây dựng cốt truyện theo diễn biến tâm lí có sức thuyết phục và có ý nghĩa sâu sắc chính vì tình cảm quê hương của một người dân có tinh thần kháng chiến.

            Ngôn ngữ nhân vật được miêu tả nhuần nhuyễn, lời ăn tiếng nói dân dã, mộc mạc. Tác giả có tài miêu tả tâm lí nhân vật, xây dựng tình huống truyện độc đáo giúp cho người đọc khi gấp sách lại vẫn còn thấy bồi hồi xúc động về tình yêu làng của ông Hai, về nghệ thuật kể chuyện tạo tình huống hấp dẫn, hồi hộp của Kim Lân.

            Đọc tác phẩm Làng của nhà văn Kim Lân, tác giả đã để lại trong ta một ấn tượng tốt đẹp về hình ảnh ông Hai. Một nông dân hay làm hay khoe, gắn bó bền chặt với làng. Tình yêu làng gắn với tinh thần kháng chiến, lòng yêu nước, một lòng theo Cụ Hồ. Đồng thời cũng cảm nhận sự sáng tạo tình huống truyện của một cây bút có sở trường viết về nông dân, viết về làng quê của nhà văn Kim Lân.

            Giới thiệu cùng bạn 🍀 Kết Bài Phân Tích Nhân Vật Ông Hai 🍀 20 Đoạn Văn Hay

            Phân Tích Làng Học Sinh Giỏi – Mẫu 9

            Tham khảo bài văn mẫu phân tích Làng học sinh giỏi dưới đây để chắt lọc cho mình những ý văn hay và đạt kết quả cao với những đề văn nghị luận phân tích tác phẩm Làng.

            “Làng quê”, hai tiếng thật êm đềm và thân thuộc biết bao. Đã có rất nhiều nhà văn, nhà thơ hướng ngòi bút của mình về giếng nước, gốc đa, con đò… hướng về những người nông dân thật thà, chất phác. Kim Lân là một trong những nhà văn viết truyện ngắn và khai thác rất thành công về đề tài này. Truyện ngắn “Làng” là một truyện ngắn thành công của Kim Lân gợi cho người đọc nhiều suy nghĩ về những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kháng chiến chống thực dân Pháp.

            Kim Lân vốn am hiểu và gắn bó sâu sắc với cuộc sống và con người ở nông thôn Việt Nam nên các truyện gắn của ông thường gây ấn tượng độc đáo, rất giản dị, chân chất về đề tài này. Truyện ngắn Làng cũng vậy, truyện ra đời trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và đăng lần đầu trên tạp chí Văn nghệ năm 1948, tại chiến khu Việt Bắc.

            Câu chuyện xoay quanh nhân vật ông Hai và tình yêu làng Chợ Dầu. Với những chuyển biến trong nhận thức và suy nghĩ, ông Hai đã trở thành một điển hình của người nông dân Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám.

            Như bao con người Việt Nam khác, ông Hai cũng có một quê hương yêu thương, gắn bó. Làng Chợ Dầu luôn là niềm tự hào và là kiêu hãnh của ông. Ông luôn khoe về làng mình, đức tính ấy như đã trở thành bản chất. Ông cũng như mọi người nông dân Việt Nam khác, có quan niệm rằng “Ta về ta tắm ao ta/ Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”, đối với họ, không có bất cứ đâu đẹp hơn nơi chôn rau cắt rốn của mình. Trước cách mạng, mỗi khi kể về làng, ông đều khoe về cái sinh phần của viên tổng đốc sừng sững ở cuối làng.

            Sau Cách mạng, làng ông đã trở thành làng kháng chiến, ông đã có nhận thức khác. Ông Hai không còn khoe về cái sinh phần ấy nữa mà ông lấy làm hãnh diện với sự cách mạng của quê hương, về việc xây dựng làng kháng chiến của quê mình.

            Ông khoe làng có “những hố, những ụ, những giao thông hào”, “có cái phòng thông tin tuyên truyền sáng sủa, rộng rãi nhất vùng, chòi phát thanh thì cao bằng ngọn tre, chiều chiều loa gọi cả làng đều nghe thấy”… Kháng chiến bùng nổ, ông Hai bất đắc dĩ phải rời làng đi tản cư. Trong những ngày buộc phải rời xa làng tâm trí ông luôn nhớ về nơi ấy, về những anh em đồng chí của mình, ông muốn “cùng anh em đào đường, đắp ụ, xẻ hào,khuân đá…’’.

            Ở nơi tản cư, ông luôn đến phòng thông tin để theo dõi và mong ngóng tin tức về làng nhằm nguôi ngoai nỗi nhớ. Trong lúc mong tin làng, những tin vui chiến thắng ở khắp nơi khiến ông vui sướng vô cùng, “ruột gan cứ múa cả lên”. Khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc từ người đàn bà đi tản cư, ông Hai vô cùng sửng sốt, “cổ họng ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được” .

            Đến khi nghe kể rành rọt, không thể không tin vào điều xấu ấy, niềm tin và tình yêu bấy lâu nay của ông về làng như sụp đổ. Ông đã “gầm mặt xuống”, đánh trống lảng rồi bước đi như kẻ trốn nợ. Về đến nhà, nhìn thấy các con, càng nghĩ càng tủi hổ vì chúng nó “cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi”. Ông giận những người ở lại làng, nhưng điểm mặt từng người nhưng lại không tin họ theo giặc. Mấy hôm liền, ông không dám đi đâu vì xấu hổ, luôn bị ám ảnh cái tinh khủng khiếp ấy và hay hốt hoảng giật mình.

            Những ngày này mâu thuẫn nội tâm trong con người ông Hai diễn ra một cách quyết liệt và ngày càng dâng cao. Đã có lúc ông nghĩ đến việc “quay về làng” nhưng ông đã dứt khoát “về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ”, “làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây thì phải thù”. Tuy quyết định như thế nhưng ông vẫn rất đau đớn xót xa. Tất cả những cử chỉ của ông Hai khẳng định tình yêu làng của ông đã hòa quyện vào cuộc kháng chiến của dân tộc và ông sẽ gắn bó cả cuộc đời với nó bằng suy nghĩ và hành động.

            Tình cảm đối với kháng chiến, đối với cụ Hồ được bộc lộ một cách cảm động nhất khi ông trút nỗi lòng vào lời nói với đứa con út ngây thơ: “Bố con mình theo kháng chiến, theo Cụ Hồ con nhỉ?” để giãi bày tâm sự, trút bỏ, an ủi lòng mình. Đồng thời, ông cũng truyền cả tình yêu nước sang cho con mình và khẳng định tình cảm của bố con ông với kháng chiến, với Cụ Hồ là trước sau như một.

            Đau khổ là thế, lo âu là thế nhưng cái tin làng Chợ Dầu theo giặc đã được cải chính. Niềm vui trong ông Hai như vỡ òa. Ông chạy đi khoe ngay với bác Thứ rồi gặp bất cứ ai ông cũng khoe Tây đã đốt nhà mình như muốn chứng minh làng mình không theo giặc với tất cả niềm tin và tình cảm của ông. Đối với ông hai cũng như mọi người nông dân khác, con trâu, mảnh ruộng, gian nhà là vô cùng quý giá nhưng họ thà mất đi tất cả chứ không chịu mất nước và ý chí ý đã trở thành một truyền thống vô cùng tốt đẹp của dân tộc ta.

            Cách mạng và sự nghiệp kháng chiến đã tác động mạnh mẽ, đem lại những nhận thức, những tình cảm mới lạ cho những người nông dân. Từ đó khiến họ nhiệt tình tham gia kháng chiến và tin tưởng tuyệt đối vào cách mạng, vào lãnh tụ.

            Ở nhân vật ông Hai, tình cảm đẹp đẽ có tính chất truyền thống của người nông dân Việt Nam là tình yêu làng quê đã được nâng lên thành tình yêu nước. Sự hòa quyện và gắn bó của tình yêu quê hương và tình yêu đất nước là nét mới mẻ trong nhận thức của người nông dân, của quần chúng cách mạng trong giai đoạn văn học chống Pháp.

            Với kết cấu đơn giản, xoay quanh nhân vật ông Hai với tình yêu làng sâu sắc, “Làng” đã để lại trong lòng người đọc nhiều ý vị sâu sắc. Làng Nhà văn Kim Lân đã xây dựng rất thành công nhân vật ông Hai với các phẩm chất tốt đẹp của người nông dân. Đồng thời nhà văn còn khôn khéo xây dựng tình huống thử thách làm bộc lộ chiều sâu tâm trạng của nhân vật. Tác giả đã miêu tả đặc biệt tài tình nội tâm của nhân vật với những suy nghĩ phức tạp, giằng xé.

            Tác giả đẩy các chi tiết đến cao trào rồi giải quyết một cách nhẹ nhàng, thỏa đáng và có hậu, tạo hứng thú và bất ngờ cho người đọc, người nghe. Cách sử dụng từ ngữ địa phương mộc mạc, gần gũi với nông dân trong đối thoại, giao tiếp kết hợp với sự hiểu biết sâu sắc về cuộc sống của họ khiến những trang viết của Kim Lân thật gần gũi nhưng không kém phần sâu sắc.

            Nhân vật ông Hai gây ấn tượng mạnh mẽ và để lại nhiều tình cảm tốt đẹp, sự yêu mến, trân trọng và cảm phục trong lòng người đọc. Tình yêu làng của ông Hai mang tinh chất truyền thống đã được nâng lên thành tình yêu nước nồng nàn như “ dòng suối đổ vào sông, dòng sông đổ vào dải trường giang Vônga, dòng sông Vôn Ga đi ra biển..”.

            Qua nhân vật ông Hai như là nông dân với những phẩm chất tốt đẹp bước từ đời thực vào tác phẩm, có được những biểu hiện cụ thể, sinh động về tinh thần yêu nước của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến hào hùng của dân tộc.

            “Làng” đã trở thành một truyện ngắn đặc sắc, Kim Lân đã thành công trong việc thể hiện những chuyển biến mới mẻ trong nhận thức và tình cảm của người dân Việt Nam. Nhân vật ông Hai đã trở thành một hình tượng điển hình cho những người nông dân Việt Nam cần cù, chất phác nhưng luôn cháy bỏng tình yêu quê hương, yêu đất nước.

            Họ đã góp phần làm nên thắng lợi của cách mạng và là nhân tố trong sự nghiệp xây dựng đất nước. Bản thân mỗi chúng ta cần phải học tập tấm gương của họ, ngày càng yêu thương quê hương, đất nước mình hơn.

            Tham khảo: Nhận Định Về Kim Lân

            Phân Tích Chuyện Làng Nâng Cao – Mẫu 10

            Đón đọc bài văn mẫu phân tích chuyện Làng nâng cao dưới đây để luyện tập trau dồi kỹ năng phân tích văn học và hiểu sâu sắc hơn ý nghĩa của truyện ngắn Làng.

            Kim Lân là nhà văn hiện đại Việt Nam. Ông có một vốn sống vô cùng sâu sắc về nông thôn Việt Nam. Những thú chơi dân dã mang cốt cách “phong lưu đồng ruộng” như thả diều, chọi gà, nuôi chó săn, thả chim bồ câu, chơi núi non bộ, gánh hát chèo, trẩy hội mùa xuân, v.v… được ông viết rất hay và cho ta nhiều thú vị. Ông là một trong những cây bút truyện ngắn xuất sắc mang hương đồng gió nội qua 2 tác phẩm: Con chó xấu xí và Nên vợ nên chồng.

            Viết về đề tài nông dân và kháng chiến, truyện Làng của Kim Lân thành công hơn cả. Nhân vật chính của truyện là ông Hai đã để lại trong lòng em nhiều ấn tượng sâu sắc, đẹp đẽ.

            Ông Hai là một lão nông, cần cù chất phác, giàu lòng yêu quê hương đất nước. Ông gắn bó với cách mạng, quyết tâm đi theo kháng chiến, trung thành tuyệt đối vào sự lãnh đạo sáng suốt của Cụ Hồ Chí Minh. Cũng như hàng triệu người nông dân khác, ông Hai là một con người cần cù chất phác rất đáng yêu. Ông hay lam hay làm “ở quê ông làm suốt ngày, không mấy lúc chịu ngơi chân ngơi tay”. Đi cày, đi cuốc, gánh phân, tát nước, đan rổ, đan rá,… ông đều làm khéo, làm giỏi.

            Ông Hai đã sống qua hai chế độ, trước kia ông mù chữ, sau nhờ cách mạng mà ông được học “bình dân học vụ”, biết đánh vần. Kim Lân đã kể rất hay về tình yêu làng của ông Hai. “Làng ta phong cảnh hữu tình”… không yêu làng sao được? Cái làng Chợ Dầu vốn là nơi chôn nhau cắt rốn của ông, “nhà ngói san sát, sầm uất như tỉnh”, “đường trong làng toàn lát đá xanh, trời mưa trời gió …bùn không dính đến gót chân”…

            Trước kia, ông Hai rất lấy làm tự hào về cái sinh phần quan tổng đốc làng ông. Đi đâu ông cũng khoe, gặp ai ông cũng khoe “cái dinh cơ cụ thượng làng tôi có lắm lắm là của. Vườn hoa cây cảnh nom như động ấy…”. Ông yêu làng Chợ Dầu với tất cả sự hồn nhiên, ngây thơ của người ít học. Ông đã mang thương tật trên mình khi bị bắt làm phu xây cái lăng ấy! Đáng lẽ ông không nên khoe, không nên “hả hê cả lòng”. Nỗi đau, nỗi nhục của một đời người nói làm gì nữa cho thêm phần nhục nhã? Nhắc lại chuyện xưa, cũ ấy của ông Hai, Kim Lân đã viết với một giọng văn châm biếm nhẹ nhàng.

            Từ ngày cách mạng thành công, ông Hai vẫn yêu làng, yêu với tất cả tình cảm trong sáng, chân thành. Ông đã có nhiều thay đổi về mặt nhận thức. Ông không bao giờ còn “đả động” đến “cái sinh phần” ấy nữa, ông biết “thù nó” đến tận tim gan. Ông yêu cái làng Chợ Dầu kháng chiến với tất cả niềm kiêu hãnh cao cả! Cái làng Chợ Dầu của ông “mà cái phòng thông tin tuyên truyền sáng sủa rộng rãi nhất vùng, chòi phát thanh thì cao bằng ngọn tre, chiều chiều loa gọi cả làng đều nghe thấy”.

            Ông khoe làng mình “những ngày khởi nghĩa rầm rập”, các cụ phụ lão râu tóc bạc phơ vác gậy đi tập quân sự, “nhất là những hố, những ụ, những giao thông hào của làng ông thì lắm công trình không để đâu hết!”. Có thể nói, từ ngày đi tản cư, phải xa làng thân yêu, bao nỗi buồn vui của quá khứ và hiện tại chứa chất trong lòng ông bao tâm sự.

            Dưới ngòi bút của Kim Lân, ông Hai, một người nông dân yêu làng, yêu nước, hiền lành, chất phác… hiện lên một cách chân thực, ta thấy gần gũi, bình dị và đáng yêu lắm. Tình yêu làng, tình yêu quê hương là một trong những tình cảm sâu sắc nhất của người dân cày Việt Nam.

            Quyết tâm kháng chiến, tin tưởng vào sự lãnh đạo sáng suốt của Hồ Chủ tịch cũng là một nét rất đẹp trong tư tưởng, tình cảm của ông Hai. Kháng chiến thì khắp nơi “Ruộng rẫy là chiến trường. Cuốc cày là vũ khí. Nhà nông là chiến sĩ”. Vợ con đi tản cư, nhưng ông Hai vẫn ở lại cùng với đội du kích “đi đào đường, đắp ụ” để bảo vệ cái làng Chợ Dầu thân yêu. Khi hoàn cảnh gia đình neo bấn, vợ con thúc hách, cực chẳng đã phải xa quê hương, ông tự an ủi mình: “Thôi thì chẳng ở lại làng cùng anh em được thì tản cư âu cũng là kháng chiến!”.

            Xa làng rồi nhớ làng, tính nết ông Hai có phần thay đổi. Ông ít nói ít cười, lầm lầm lì lì, thậm chí cáu gắt, chửi bới vợ con. Ồng vô cùng đau khổ: “Chúng mày làm khổ ông! Chúng mày làm khổ ông vừa vừa chứ! Ông thì giết hết, ông thì giết hết!”. Chúng ta cảm thông với “tâm sự” u uẩn của ông, thương ông lắm!

            Trong lúc ông Hai đang hồ hởi với những chiến tích kháng chiến, những gương dũng cảm anh hùng của quân và dân ta thì ông như bị sét đánh về cái án “dữ” cả làng Chợ Dầu “Việt gian theo Tây”,.., “vác cờ thần ra hoan hô” lũ giặc cướp! ông tủi nhục cúi gằm mặt mà đi, nằm vật ra giường như bị ốm nặng, nước mắt cứ tràn ra, có lúc ông chửi thề một cách chua chát! Ông sống trong bi kịch triền miên. Vợ con vừa buồn vừa sợ. “Gian nhà lặng đi, hiu hắt”.

            Ông sợ mụ chủ nhà… có lúc ông nghĩ quẩn “hay ta quay về làng”… nhưng rồi ông lại kiên quyết: “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù!. Kim Lân rất sâu sắc và tinh tế miêu tả những biến thái vui, buồn, lo, sợ… của người nông dân về cái làng quê của mình. Họ đã yêu làng trong tình yêu nước, đặt tình yêu nước lên trên tình yêu làng. Đó là một bài học vô cùng quý giá và sâu sắc của ông Hai đem đến cho mỗi chúng ta!

            Cuộc đối thoại giữa hai bố con ông Hai là một tình tiết cảm động và thú vị:

            – “À, thầy hỏi con nhé. Thế con ủng hộ ai?”

            -“Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm!”

            Nghe con ngây thơ nói mà nước mắt ông chảy ròng ròng trên hai má… Lòng trung thành của cha con ông, của hàng triệu nông dân Việt Nam đối với lãnh tụ là vô cùng sâu sắc, kiên định, vẻ đẹp tâm hồn ấy của họ rất đáng tự hào, ca ngợi.

            Vì thế, khi cái tin thất thiệt “cả cái làng Chợ Dầu Việt gian theo Tây” được cải chính thì ông Hai là người sung sướng nhất. Ông “tươi vui, rạng rỡ hẳn lên”, “mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ…”. Ông mua quà cho con. Ông chạy sang nhà bác Thứ để “khoe” cái tin làng Chợ Dầu đánh giặc, nhà ông bị Tây đốt. Tự hào lắm chứ! Người đọc như được san sẻ niềm vui sướng cùng ông.

            Gấp trang sách lại, chúng ta bồi hồi xúc động về tình yêu làng của ông Hai, về nghệ thuật kể chuyện tạo tình huống hấp dẫn, hồi hộp của nhà văn Kim Lân. Những phẩm chất tốt đẹp của ông Hai như cần cù lao động, chất phác, yêu quê hương đất nước… tiêu biểu cho bản chất cao quý, trong sáng của người dân cày Việt Nam. Chính họ đã đổ mồ hôi làm nên những bát cơm đầy dẻo thơm nuôi sống mọi người. Chính họ đã đem xương máu, đánh giặc “giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín”… (Thép Mới).

            “Quê hương là chùm khế ngọt…” là niềm vui, nỗi buồn, là ước mơ đẹp của mỗi chúng ta. Quê hương đang đổi mới “ngói hóa”, no ấm, giàu có trong thanh bình. Bài học sâu sắc nhất đối với em khi đọc truyện ngắn này của Kim Lân là tình yêu quê hương đất nước, từ lòng tự hào và biết ơn người dân cày Việt Nam.

            Tặng bạn: 14+ Thuyết Minh Về Truyện Ngắn Làng, Bài Văn Nghị Luận Hay

            Phân Tích Tác Phẩm Truyện Làng Mở Rộng – Mẫu 11

            Tham khảo bài văn mẫu phân tích tác phẩm truyện Làng mở rộng dưới đây sẽ giúp các em học sinh có thêm cho mình những liên hệ hay để vận dụng khi phân tích truyện ngắn Làng.

            Kim Lân là nhà văn am hiểu sâu sắc và gắn bó với nông thôn và người nông dân. Truyện của ông hầu như chỉ tập trung viết về sinh hoạt nông thôn và cảnh ngộ của người nông dân. Truyện ngắn Làng được viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và đăng lần đầu tiên trên tạp chí Văn nghệ năm 1948.

            Nhân vật chính của truyện là ông Hai, người làng Chợ Dầu. Dưới ngòi bút tâm lý sắc sảo về người nông dân của Kim Lân, hình ảnh ông Hai hiện lên một cách sinh động và tuyệt đẹp về tình yêu làng, yêu nước ở người nông dân. Ông Hai là hiện thân của cách suy nghĩ và hành động cao đẹp như những gì vốn có của con người Việt Nam, mà trước hết là tầng lớp bình dân.

            Ông Hai rất yêu và tự hào cái làng của mình. Tình cảm ấy được thể hiện trước hết ở cái tính hay “khoe” làng, tự hào cái làng Chợ Dầu của mình về nhiều mặt: Ông khoe làng ông giàu đẹp “Nhà ngói san sát, sầm uất như tỉnh. Đường trong làng lát đá xanh, trời mưa trời gió tha hồ đi khắp đầu làng, cuối xóm, bùn không dính đến gót chân”.

            Trước Cách mạng, mỗi bận đi đâu xa, ông thường khoe cái dinh phần của viên tổng đốc làng ông hoặc khi có khách bên ngoại dưới tỉnh nam lên chơi, thế nào ông cũng dắt ra xem làng cụ Thượng cho kì được. Ông rất hãnh diện cho làng có được cái sinh phần ấy lắm.

            Nhưng về sau, cách mạng đã giúp ông thay đổi nhận thức, ông Hai không lấy làm tự hào về cái sinh phần của viên tống đốc, ông Hai tự hào về những cái khác, đó là phong trào cách mạng của làng sôi nổi, rất có khí thế, lôi cuốn mọi tầng lớp nhân dân vào cuộc chiến toàn dân. Ông còn khoe về “cái phòng thông tin tuyên truyền sáng sủa, rộng rãi nhất vùng, cái chòi phát thanh cao bằng ngọn tre, chiều chiều loa gọi cả làng đều nghe”.

            Mỗi lần kể chuyện về làng của mình, ông nói một cách say mê và náo nức lạ thường. Hai con mắt ông sáng hẳn lên, cái mặt ông biến chuyển, hoạt động”.

            Vì yêu làng cho nên ông tình nguyện và hăng hái ở lại làng cùng đội du kích chiến đấu. Do hoàn cảnh gia đình mà phải đi tản cư. Đó là con đường bất đắc dĩ mà ông phải lựa chọn. Trong cách lựa chọn này đã nảy ra ý nghĩ trong ông: “Thôi thì chẳng ở lại làng cùng anh em được, thì tản cư âu cũng là khổng chiến”.

            Những ngày xa làng ông rất khổ tâm, day dứt nhớ làng, nhớ các anh em đồng chí ở lại làng. Ông tiếc là không được ở lại làng để cùng góp phần vào công việc chung của người ở lại. Tình yêu làng của ông Hai là như thế. Ông khoe làng cốt là để làm vơi đi nỗi nhớ làng của mình. Tình yêu làng của ông Hai là thống nhất với tình yêu nước, với tinh thần kháng chiến.

            Dưới ngòi bút tâm lý sắc sảo của mình, Kim Lân đã lột tả được diễn biến tâm lí của ông Hai khi nghe tin đồn về làng ông theo giặc. Trước cái tin đột ngột ấy, ông Hai sừng sở: “Cổ ông nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được…”. Khi tĩnh lại được phần nào, ông hai cố không tin cái tin ấy. Nhưng không tin làm sao được bởi lời nói của những người tản cư còn khẳng định kia mà!

            Từ lúc ấy, trong tâm trí ông Hai chỉ còn cái tin dữ ấy xâm chiếm, nó thành cái ám ảnh day dứt khiến ông phải “cúi gằm mặt xuống mà đi”, về đến nhà ông “nằm vật ra giường”. Rồi tủi thân khi nhìn thấy lũ con “nước mắt ông lão cứ trào ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư?…”

            Thế là một cuộc đấu tranh nội tâm diễn ra quyết liệt trong ông – Một tiếng thét căm hờn cất lên từ trong sâu thẳm của làng ông, nhưng bỗng dưng ngừng lại, bởi có lúc ông không tin cả làng theo ông, nhưng bỗng dưng ngừng lại, bởi có lúc ông không tin cả làng theo Tây là sự thật. Ông lần lượt kiểm điểm từng người một trong óc: “Không mà, họ toàn là những con người có tinh thần cả mà. Họ đã ở lại làng, quyết tâm một sống một chết với giặc, có đời nào lại cam tâm làm điều nhục nhã ấy!…”.

            Bây giờ trong ông còn là một nỗi đau dằn xé. Trong niềm tin và nôi ngô ấy đang chiếm sâu và nỗi dằn vặt trong ông. Đến đây, ông Hai trằn trọc không ngủ được. Ông hết trở mình bên này lại trở mình bên kia, thở dài. Có lúc ông “lãng hẳn đi, chân tay nhũn ra, tướng chừng như không cất lên được”.

            Thế là suốt mấy ngày sau, ông Hai chỉ quanh quẩn ở nhà nghe ngóng binh tình bên ngoài. Khi thấy một đám đông túm lại, ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa ông cũng chột dạ, lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta đang để ý, đang bàn tán đến “cái chuyện ấy”. Cứ thoáng nghe những tiếng Tây, Việt gian, cam nhông… là ông lui ra một góc nhà, nín thít.

            Còn một điều nữa, có lẽ còn ghê rợn hơn cả những tiếng kia nhiều. Ấy là việc mụ chủ nhà muốn đuổi gia đình ông đi. Tâm trạng ông Hai bị đẩy vào tình thế bế tắc, tuyệt vọng. Đi đâu bây giờ. Câu hỏi ấy là nỗi ám ảnh dằn xé trong ông. Không ai muốn chứa chấp dân của cái làng “Việt gian”, cũng không thể quay về làng “về làng tức là bỏ kháng chiến. Bỏ Cụ Hồ”,

            Ngần ấy chi tiết, Kim Lân đã miêu tả một cách cụ thể nỗi ám ảnh nặng nề biến thành sự sợ hãi thường xuyên trong ông Hai cùng với nỗi đau xót, tủi hổ của ông khi nghe tin làng mình theo giặc. Qua đó bộc lộ tình yêu làng, yêu nước của ông.

            Trong cái tình yêu làng, yêu nước ấy của ông Hai cũng diễn ra một cuộc xung đột nội tâm gay gắt. Có lúc ông nghĩ “làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Đây là cách lựa chọn dứt khoát của ông Hai. Ông đã đặt tình yêu nước lên trên hết. Tình yêu nước bao trùm lên tình cảm với làng quê. Dù xác định như thế, ông vẫn không dứt bỏ tình cảm với làng của ông. vì thế ông cũng đau xót, tủi hổ.

            Giữa lúc tâm trạng bị dồn nén và bế tắc ấy, ông chỉ còn cách ôm con vào lòng mà than thở cùng con như để ngỏ lòng mình, như để nhìn lại mà minh oan cho mình nữa: “Anh em đồng chí có biết cho bố con ông. Cái lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai, chết thì chết có bao giờ dám đơn sai”.

            Tình yêu làng, lòng chung thủy với kháng chiến, với cách mạng mà biểu tượng là Cụ Hồ của ông Hai là như thế ấy, một tình yêu làng sâu nặng thiêng liêng. Và cũng chính thế mà ông đã rất mừng rỡ khi biết đích xác những lời đồn đại kia là láo toét.

            Ông di mua quà chia cho các con, vui vẻ chạy sang nhà bác Thứ báo tin mà lòng phấn khởi, đầy tự hào: “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ. Đốt nhẵn! Ông chủ tịch làng tôi vừa mới lên trên này cải chính, ông ấy cho biết… Cải chính cái tin làng Chợ Dầu chúng tôi Việt gian ấy mà. Láo! Láo hết! Toàn sai sự mục đích cả”.

            Cũng chỉ bằng ấy câu, ông Hai lật đật bỏ đi nơi khác để loan báo tin vui. Và cũng từ ngay tối hôm đó ông trở lại nhà bác Thứ để mà nói chuyện về cái làng của ông. Ở ông không gì hơn là tình yêu làng. Tình yêu làng gắn với tình yêu nước và tinh thần kháng chiến là nét mới mẻ của nhân vật ông Hai.

            Thành công của truyện ngắn Làng là sự dẫn dắt khéo léo, tự nhiên. Tác giả đã đặt tên nhân vật vào tình huống thử thách bên trong để bộc lộ chiều sâu tâm trạng; kích thích phát triển ngày càng cao, có thắt nút, mở nút.

            Ngôn ngữ truyện là ngôn ngữ nông thôn nhuần nhị mà đặc sắc, gợi cảm xúc, nhiều chỗ như lời ăn tiếng nói hàng ngày của người nông dân. Cách trần thuật của tác giả linh hoạt, tự nhiên có nhiều chi tiết sinh hoạt, đời sống hàng ngày xen vào mạch tâm trạng. Tất cả đã góp phần bộc lộ sâu sắc chủ đề của truyện và làm nên sức hấp dẫn của truyện ngắn đặc sắc này.

            SCR.VN tặng bạn các mẫu: Phân Tích Truyện Kiều

            Phân Tích Văn Bản Làng Ngắn Hay – Mẫu 12

            Đề văn phân tích tác phẩm Làng thường phổ biến trong những kỳ thi và kiểm tra, tham khảo bài văn mẫu phân tích văn bản Làng ngắn hay dưới đây để chuẩn bị và ôn tập tác phẩm kỹ lưỡng.

            Kim Lân là một nhà văn có sở trường viết truyện ngắn. Hầu hết các tác phẩm của ông chỉ viết về sinh hoạt của nông dân và cảnh ngộ của người nông dân. Truyện “Làng” được viết trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và đăng lần đầu tiên trên tạp chí Văn nghệ 1948.

            Truyện tập trung nói về lòng yêu nước của ông Hai, lòng yêu nước này phát xuất từ tình yêu nơii chôn nhau cắt rốn của mình và nó đã hòa hợp giữa làng và nước. Tình cảm và ý nghĩa này đã trở thành phổ biến ở mỗi người dân Việt Nam ta trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp.

            Qua hình tưởng ông Hai, ta sẽ hiểu rõ lòng yêu nước của nhân dân ta lúc bây giờ. Làng chợ Dầu có chiến sự, ông Hai phải tản cư đốt làng Thắng, vùng tự do theo chính sách của Cụ Hồ. “Tản cư là yêu nước”. Nhưng không phải ra khỏi làng chợ Dầu là ông Hai bỏ lại sau lưng tất cả mà ngược lại lúc nào ông cũng trông ngóng tin tức và theo dõi những biến chuyển của làng chợ Dầu. Đó là nơi ông sinh cơ lập nghiệp, nơi ông sinh ra và lớn lên.

            Biết bao tình cảm đã gắn bó ông với cảnh vật, với dân làng nơi mảnh đất quê hương ấy. Bỡi lẽ đó mà mỗi khi nói đến làng chợ Dầu ông nói với giọng “say mê và náo nức lạ thường. ông Hai đã yêu làng chợ Dầu bằng một tình yêu thật đặc biệt. Ông yêu tất cả nhũng gì ở làng ông : Những nhà ngói san sát, đường lát toàn đá xanh… Cái sinh phần của viên quan Tổng đốc…

            Từ sau Cách mạng tháng Tám, lòng yêu làng quê của ông Hai có những chuyển biến rõ rệt. Trước kia ông hãnh diện vì làng ông giàu có, to đẹp. Giờ đây ông lại tự hào về những cái khác : phong trào cách mạng sôi nổi, những buổi tập quân sự, những buổi đắp ụ, hô, giao thông hào… luôn cả cái phòng thông tin, cái chòi phát thanh…

            Trong con mắt ông Hai, cái gì của làng chợ Dầu đều đáng tự hào tốt. Vì vậy cho nên từ lúc phải đi tản cư, ông khổ tâm day dứt không nguôi. Quả thật cuộc đời và số phận của ông thật sự gắn bó với những buồn vui của làng. Tự hào và yêu nỗi chôn nhau cắt rốn của mình đã trở thành truyền thống, là tâm lí chung của mọi người dân lúc bấy giờ.

            Chính cách mạng và kháng chiến đã khơi dậy ở những người nông dân tình cảm yêu nước hoà nhập thống nhất với tình cảm làng quê thành một thứ tình cảm rộng lớn nhất. Đến đây tác giả đã đặt nhân vật vào một tình huống gay gắt để bộc lộ sâu sắc lòng yêu làng, yêu nước của ông Hai tình huống ấy là cái tin làng chợ Dầu theo giặc : “Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây”. Nghe tin đột ngột, ông Hai sững sờ “cổ ông lão nghẹn đắng hẳn lại, da mặt tê rân rân.

            Ông lão lặng đi tưởng như đến không thở được”. Ông cảm thấy nhục nhã vì cái làng chợ Dầu yêu quí của mình đã theo giặc, làm Việt giam Bao nhiêu điều tự hào trước kia giờ đây sụp đổ và nó trở thành nỗi xấu vô cùng. Từ lúc ấy ông Hai không dám đi đâu, lúc nào cũng im nớp lo sợ tưởng như người ta đang bàn tán đến cái chuyện ấy…

            Và từ nỗi ám ảnh trở thành sự sợ hãi thấu xuyên trong ông Hai với nỗi đan xọt, tủi hổ trong lòng: Làng và nước trở thành dõi dịch. Hai tình cảm này đã dẫn đến một cuộc xung đột nội tâm ở ông Hai. Vì thế có lúc ông nghĩ “làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thi phải thù”.

            Rõ ràng tình yêu nước rộng lắm hơn nên bao trùm lên tình yêu làng quê. Mặc dù đã xác định như vậy nhưng ông vẫn không rứt bẻ tình cảm đối với làng chợ Dầu được, nên nỗi day dút ngày càng tăng thêm. Phải thật sự ám hiện sâu sắc về con người nhất là tâm lí của ngừơi nông dân nên nhà văn Kim Lân mới diễn tả rất đúng tâm trạng nhân vật ông Hai như vậy.

            Từ đó vì nỗi khổ tâm này ông Hai chỉ còn biết trút vào đứa con nhỏ ngây thơ: “Nhà ta ở làng chợ Dầu”, “ủng hộ Cụ Hé con nhỉ !” Những lần tâm sự ấy thực chất là lần tự nhủ với chính mình, tự giãi bày nỗi lòng mình nhằm khẳng định tình yêu sâu nặng của mình với cái làng chợ Dầu đồng thời cũng khẳng định lòng thủy chung với cách mạng với kháng chiến mà biểu tượng là Cụ Hồ.

            Lòng yêu nước của ông Hai còn được biểu hiện rõ nét hơn khi nghe tin đính chính: Làng bị giặc tàn phá, không theo Tây. Những nỗi lo âu, xấu hổ tan biến đi thay vào đó là niềm vui mừng khôn xiết nên ông nói “Tây nó đốt nhà tôi rồi ông chủ ạ. Đốt nhẵn!”. Đây quả là một niềm vui kì lạ. Niềm vui mừng này thể hiện một cách đau xót và đầy cảm động về tinh thần yêu nước và cách mạng của ông Hai.

            Đây là tình cảm đặc biệt của ông Hai cũng là tình cảm chung của những người nông dân hay đúng hơn là của nhân dân ta lúc bây giờ, thời kháng chiến chống Pháp. Đối với lũ trong lúc này, trước hết và trên hết là Tổ quốc. Vì Tổ quốc họ sẵn sàng hi sinh tất cả dù đó là tính mạng hay tài sản. Tình yêu nước của nhân dân ta là như thế.

            Thành công của Kim Lân là xây dựng theo cốt truyện tâm lí, tạo tình huống có tính căng thẳng thử thách nội tâm nhân vật để từ đó bộc lộ tâm trạng, tính cách nhân vật. Nơi đặt tác phẩm vào thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp ta mới thấy giá trị thành công của nó.

            Bởi lẻ thông qua nhân vật ông Hai với những ngôn ngữ, cử chỉ, tâm trạng… tiêu biểu là một người nông dân có cá tính riêng : vui tính, thích trò chuyện nhưng cũng ham nói chữ đó cũng là nét tâm lí chung của quần chúng. Cách trần thuật tự nhiên, linh hoạt khiến cho truyện sinh động, hấp dẫn hơn.

            Tóm lại, “Làng” của Kim Lân là một truyện ngắn đặc sắc khai thác một tình cảm bao trùm và phổ biến trong con người thời kì kháng chiến: Tình cảm quê hương, đất nước. Đây Ịà một tình cảm mang tính cộng đồng. Nhưng thành công của Kim Lân là đã diễn tả tình cảm, tâm lí chung ấy trong sự thể hiện cụ thể, sinh động ở một con người, trở thành một nét tâm lí sâu sắc ở nhân vật ông Hai.

            Vì thế nó là tình cảm chung mà lại mang rõ màu sắc riêng, cá nhân in rõ cá tính của nhân vật. Tình yêu làng quê, yêu nước, yêu kháng chiến của nhân vật ông Hai trong truyện là tình cảm thực sự của nhân dân ta trong thời kháng chiến. Truyện giúp chúng ta hiểu, yêu mến và khâm phục biết bao những người nông dân bình dị, chất phác mà lại có lòng yêu nước thiết tha và cao cả đến thế.

            Tham khảo -> Mở Bài Truyện Kiều

            Phân Tích Đoạn Trích Truyện Ngắn Làng Đơn Giản – Mẫu 13

            Tham khảo bài văn mẫu phân tích đoạn trích truyện ngắn Làưng đơn giản dưới đây với những ý văn ngắn gọn và luận điểm phân tích tác phẩm Làng cơ bản nhất.

            Trong cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm để cứu nước, có biết bao những con người thể hiện được tình yêu của mình tới đất nước. Bằng rất nhiều cách khác nhau, họ đã thực hiện bằng những hành động và lời nói.

            Qua những tác phẩm của những nhà văn thời kì này, tình cảm của người dân dành cho kháng chiến, dành cho cách mạng được miêu tả một cách chi tiết, giúp cho chúng ta hiểu rõ hơn về tấm lòng và tình cảm của người dân lúc ấy. Và trong tác phẩm Làng của Kim Lân đã cho chúng ta thấy điều đó. Câu chuyện kể về nhân vật ông Hai cùng tình yêu làng của ông qua rất nhiều tình huống khác nhau đã được bộc lộ rõ.

            Ông Hai là một người luôn yêu làng của ông. Làng của ông là ngôi làng chợ Dầu nổi tiếng khắp cả vùng đất Kinh bắc. Những tình cảm của ông được thể hiện qua việc ông luôn khoe với mọi người về làng của mình. Làng của ông giàu có, sầm uất ra sao, có rất nhiều nhà ngói, đường đi được lát toàn đá xanh, trời mưa đi từ đầu làng về cuối làng không bị ướt…

            Trong lòng của ông, không gì có thể so sánh được với làng của ông. Làng của ông luôn đứng đầu tiên trong trái tim của ông. Do đó, ông luôn tự hào về làng chợ Dầu của mình. Ông đi khoe với tất cả mọi người về làng của mình. Đây là thời kì trước khi kháng chiến cứu nước xảy ra. Khi đó, những gì mà ông có thể làm chính là tự hào về ngôi làng của mình.

            Sau đó, tới thời kì toàn quốc kháng chiến cứu nước, ông không còn khoe làng của mình giàu có nữa mà ông tự hào về hình ảnh của làng ông với những hào giao thông chằng chịt, những cụ già râu tóc bạc phơ nhưng vẫn ngày ngày vác súng tập luyện bước đi “ một hai một hai” với khí thế vô cùng hiên ngang, mạnh mẽ.

            Là ngôi làng có chòi phát thanh cao nhất cả vùng. Những gì mà ông nhớ về làng chính là những điều mà làng của ông đã và đang phục vụ cho kháng chiến. Cũng chính bởi như vậy mà những người ở bên cạnh ai ai cũng mừng cho ông, cũng cảm thấy vui vì có những làng chợ Dầu như nhà ông.

            Thế nhưng mọi thứ thay đổi khi có tin làng chợ Dầu của ông theo địch. Tưởng chừng như đó là thông tin sét đánh ngang tai đối với ông Hai. Ông không biết phải làm như thế nào cả bởi mọi thứ đã vượt quá sức tưởng tượng của ông. Nếu như trước kia, ông tự hào vì làng theo kháng chiến bao nhiêu thì nay, ông lại nhục nhã bấy nhiêu.

            Những cảm xúc của ông Hai được tác giả Kim Lân thể hiện rất rõ qua những chi tiết miêu tả tâm trạng “ cổ ông nghẹn đắng hẳn lại, da mặt tê rân rân, ông lão lặng đi, tưởng như không thở được…”. Cảm xúc của ông thể hiện một cách mãnh liệt. Những gì mà ông nghe được tưởng như là điều không thể tưởng tượng được. Ông cảm thấy vô cùng xấu hổ và nhục nhã, không biết phải làm điều gì tiếp theo.

            Thậm chí, ông còn không dám đi ra ngoài đường vì sợ người ta bàn tán, xì xào sau lưng ông. Và cuối cùng, những gì mà ông lo lắng đã tới. Bà chủ nhà nghe tin đã không cho gia đình ông được ở lâu dài. Họ chỉ cho gia đình ông ở hết tháng này, tới tháng sau phải chuyển đi chỗ khác. Đau khổ là thế, tuyệt vọng là thế, nhưng ông Hai lại chẳng thể tâm sự cùng bất kì một người nào cả.

            Những nỗi niềm ấy chỉ có thể nuốt trọn vào trong, có những lúc, ông lại nói chuyện cùng với đứa con gái nhỏ của mình. Lo lắng cho tương lai không biết đi đâu tiếp theo, có những lúc ông vừa chớm suy nghĩ “ hay là quay trở về làng” thì ngay lập tức ông lại phủ định suy nghĩ đó “ làng thì yêu thật, nhưng làng đã theo Tây thì phải thù”.

            Chỉ với chi tiết nhỏ đã thể hiện được tình yêu nước mãnh liệt của ông Hai dành cho Tổ quốc. Cuối cùng, mọi chuyện chỉ được tháo bỏ hiểu lầm khi có tin làng chợ Dầu của ông Hai không hề theo giặc, thậm chí cả làng còn bị bọn chúng đốt sạch, không còn lại gì cả. Ông Hai cảm thấy hạnh phúc như cởi hết được những nỗi lòng của mình.

            Ông đi khoe với tất cả mọi người về cái tin làng chợ Dầu bị giặc đốt với tất cả những nhiệt huyết của mình như để cho tất cả mọi người cùng biết. Ai ai cũng mừng cho ông vì đã có được những tình cảm như vậy. Lòng nghi ngờ không còn nữa, cuộc sống của ông Hai đã trở về như cũ, mọi thứ lại tiếp tục theo đúng những guồng quay của nó.

            Đọc tác phẩm, chúng ta càng thấm thía những tình cảm của những người như ông Hai nói riêng và toàn thể nhân dân nói chung dành cho kháng chiến, dành cho đất nước. Những tình cảm ấy đã góp phần không nhỏ vào những chiến thắng của quân và dân ta giúp đất nước thoát khỏi chiến tranh.

            Giới thiệu cùng bạn các mẫu: Phân Tích Vợ Nhặt Kim Lân

            Phân Tích Tình Huống Truyện Văn Bản Làng – Mẫu 14

            Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn của nền văn học hiện đại Việt Nam. Với vốn am hiểu sâu sắc và gắn bó với nông thôn và người nông dân nên truyện của ông thường xoay quanh những nếp sinh hoạt, cảnh ngộ, phong tục truyền thống của người nông dân Bắc Bộ. Nguyên Hồng nhận xét: Kim Lân là nhà văn một lòng đi về với “đất” với “người” với “thuần hậu nguyên thủy” của cuộc sống nông thôn.

            Truyện ngắn “Làng” (1948) là một minh chứng tiêu biểu cho lời nhận xét đó của Nguyên Hồng. Bằng việc khai thác đề tài tình yêu làng, lòng yêu nước, tinh thần kháng chiến của người nông dân phải rời làng đi tản cư qua nhân vật ông Hai, Kim Lân đã xây dựng thành công tình huống truyện độc đáo, nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sinh động bằng một thứ ngôn ngữ mang đậm chất khẩu ngữ và lời ăn tiếng nói hằng ngày của người nông dân.

            Trước hết, truyện ngắn “Làng” đã được Kim Lân xây dựng trên tình huống gay cấn để bộc lộ tình yêu làng, tình yêu đất nước sâu sắc ở nhân vật ông Hai. Đó là tin làng ông theo giặc lập tề mà chính ông nghe được từ miệng của những người tản cư dưới xuôi lên. Tình huống ấy đã đẩy câu chuyện vào chỗ thắt nút khi mà ông Hai – một con người vốn yêu làng, luôn khoe và hãnh diện về làng thì nay lại hay tin là theo giặc. Vì thế ông đau đớn, xót xa và cảm thấy tủi hổ, bẽ bàng.

            Trong thế giới nội tâm nhân vật có sự đấu tranh xung đột giữa tình yêu làng và tình yêu nước mà tình cảm nào cũng mãnh liệt, song tình yêu nước, tinh thần kháng chiến rộng lớn, bao trùm lên tình yêu làng. Nhưng cuối cùng, cũng từ tình huống ấy đã mở nút cho câu chuyện khi mà ông nhận được tin cải chính về làng. Tình huống này đã khẳng định ông Hai và làng chợ Dầu luôn trung thành tuyệt đối với kháng chiến với cụ Hồ, với dân tộc.

            Cũng qua tình huống truyện, người đọc còn nhận ra tài năng khắc họa, miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo của nhà văn Kim Lân qua nhân vật ông Hai. Có thể nói, dưới tác động của tình huống, sự việc khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc, tâm lý nhân vật ông Hai đã có những diễn biến phức tạp và nhà văn đã trực tiếp nhập vai vào nhân vật để nói bằng tiếng nói nhân vật, mô tả sự giằng xé trong thế giới nội tâm với những mâu thuẫn, xung đột gay gắt, dữ dội.

            Cũng như biết bao người dân quê khác, ông Hai gắn bó sâu lặng với nơi chôn rau cắt rốn của mình – làng chợ Dầu. Tình yêu ấy của ông thật đặc biệt, biểu hiện của nét tâm lí đó là luôn tự hào và thích khoe về làng. Nhưng có một sự kiện bất ngờ đã xảy ra với ông, từ phòng thông tin bước ra đang rất phấn khởi, náo nức vì những tin vui của kháng chiến, gặp người tản cư, nghe họ nhắc tới tên làng, ông Hai quay phát lại, lắp bắp hỏi, hi vọng được nghe những tin tốt lành về làng, nào ngờ lại hay tin: cả làng chợ Dầu theo giặc.

            Trước tin dữ ấy, ông Hai sững sờ chết lặng “Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng như không thở được”. Từ niềm vui, niềm tin hi vọng, ông Hai rơi xuống vực thẳm đau buồn, xót xa, tuyệt vọng. Ông cố gắng trấn tĩnh bản thân và tìm cách lảng ra về, muốn che giấu đi tâm trạng ấy nhưng nỗi tủi hổ, bẽ bàng, lo lắng khiến ông “cúi gằm mặt mà đi”, còn văng vẳng tiếng chửi “giống Việt gian bán nước”.

            Khi về đến nhà, ông Hai nằm vật ra giường, rồi tủi thân khi nhìn đàn con nhỏ: “nước mắt ông lão cứ dàn ra”. Những dòng độc thoại nội tâm trong ông thể hiện nỗi day dứt, đau đớn: “Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư?…”. Ông căm giận lũ người theo giặc, phản bội làng nước, ông lão nắm chặt hai tay mà rít lên: “Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này”.

            Nhưng sau đó, ông lại cảm thấy “ngờ ngợ” như lời của mình không được đúng lắm. Niềm tin và nỗi thất vọng đang giằng xé trong ông. “Ông kiểm điểm từng người trong óc” thấy họ đều là những người có tinh thần kháng chiến, một sống một chết với giặc, có đời nào lại can tâm làm điều nhục nhã ấy được.

            Trong hoàn cảnh giặc giã thì tinh thần yêu nước, tinh thần kháng chiến là một thứ tình cảm thiêng liêng, cao đẹp; còn phản bội là điều xấu xa ô nhục nhất. Vì thế từ khi nghe tin làng mình theo giặc, nó đã trở thành nỗi ám ảnh, day dứt trong tâm trí của ông, khiến ông ba bốn hôm nay không dam bước chân ra đến ngoài. Suốt ngày chỉ quanh quẩn ở trong cái gian nhà chật chội ấy mà nghe ngóng binh tình.

            “Một đám đông túm lại ông cũng để ý, dăm bảy tiếng nói xa xa ông cũng chột dạ”, lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng người ta đang để ý , đang bàn tán đến “cái chuyện ấy”; cứ thoáng nghe những tiếng Tây, cam nhông , Việt gian là ông lại lủi thủi ra một góc nhà nín thít… “Thôi lại chuyện ấy rồi!”. Ông luôn thu mình lại, cảm thấy xấu hổ, đau xót và dường như cảm thấy chính mình cũng có tội vậy.

            Ông rời vào tình trạng tuyệt vọng khi mà bà chủ nhà đánh tiếng đuổi gia đình ông đi vì “nghe nói, bảo có lệnh đuổi hết những người làng chợ Dầu khỏi vùng này, không cho ở nữa”. Ông Hai không biết đi đâu, cũng không thể quay lại trở về làng vì về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ, “về làng tức là chụy quay lại làm nô lệ cho thằng Tây”. Trong ông Hai diễn ra cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt và dứt khoát lựa chọn theo cách của mình “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”.

            Tình yêu nước đã bao trùm lên tình yêu làng. Song ông không thể vứt bỏ tình yêu làng nên ông Hai càng đau xót, tủi hổ. Trong tâm trạng bị dồn nén, không biết giải tỏa như thế nào, ông Hai chỉ còn biết trút lòng mình với đứa con nhỏ.

            Cuộc đối thoại giữa ông và đứa con trai đã bộc lộ thật cảm động tấm lòng gắn bó sâu sắc với làng quê, với đất nước và với kháng chiến của ông Hai. Ông nói với con mà như tự nói với chính mình, tự mình oan, tự chiêu tuyết cho mình. Đoạn thoại, vừa chất chứa nỗi đau đớn, xót xa, lại vừa thể hiện tấm lòng thủy chung, son sắt với kháng chiến, với cách mạng, với cụ Hồ.

            Có lẽ, nếu không nhận được tin cải chính thì cả đời ông Hai sẽ chết dần, chết mòn trong nỗi đau đớn, tủi hổ, bẽ bàng về cái làng của mình mất. Những sau đó, chính quyền làng ông đã lên cải chính cái tin làng chợ Dầu theo giặc. Nhận được tin, ông Hai như sống lại, niềm vui tràn ngập trong ông: quần áo chỉnh tề, mặt tươi vui, rạng rỡ hẳn lên, mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ, hấp háy, nói bô bô, mua quà cho các con…. Đặc biệt là hành động ông chạy đi khoe với tất cả mọi người cái tin vui ấy.

            Niềm vui sướng, hạnh phúc dâng trào khiến ông cứ múa tay lên mà khoe. Và lạ thay, câu đầu tiên ông khoe không phải là việc làng ông không theo giặc mà là “Tây nó đốt nhà tôi rồi… đốt nhẵn!”. Với người nông dân, căn nhà là cả cơ nghiệp của họ mà cả đời họ làm lụng vất vả mới có được.

            Nhưng ông Hai không hề tiếc căn nhà của mình bởi nó là minh chứng khẳng định làng ông không theo giặc và trên hết là nó như là sự “đóng góp” của gia đình ông với kháng chiến. Điều đó, một lần nữa càng khẳng định rõ ràng hơn tình yêu làng, tình yêu nước và sự trung thành với kháng chiến ở ông Hai.

            Đến đây, chúng ta thấy được sức sáng tạo độc đáo của Kim Lân trong nghệ thuật tạo tình huống, thực sự gay cấn, kịch tính với những thử thách của nội tâm nhân vật, từ đó bộc lộ chiều sâu đời sống bên trong, tình cảm, tư tưởng của nhân vật.

            Tác giả đã miêu tả tâm lí nhân vật sâu sắc, tinh tế, rất cụ thể, gợi cảm qua thế giới nội tâm với các ý nghĩ, hành vi, ngôn ngữ. Đặc biệt, nhà văn đã diễn tả rất đúng, rất ấn tượng về sự ám ảnh day dứt trong tâm trạng nhân vật. Điều đó chứng tỏ Kim Lân am hiểu sâu sắc con người và những nét tâm lí vôn có của người nông dân Việt Nam sau lũy tre làng.

            Thông qua tác phẩm, người đọc còn nhận ra ngôn ngữ của truyện rất đặc sắc, nhất là ngôn ngữ nhân vật ông Hai. Ngôn ngữ mang đậm chất khẩu ngữ và lời ăn tiếng nói hằng ngày của người nông dân. Lời trần thuật và lời nhân vật có sự thống nhất về sắc thái, giọng điệu do truyện được trần thuật chủ yếu theo điểm nhìn của ông Hai, dù vẫn dùng cách trần thuật ở ngôi thứ ba. Ngôn ngữ nhân vật ông Hai vừa có nét chung của người nông dân, lại vừa mang đậm cá tính của nhân vật, rất sinh động, chân thực, gần gũi.

            Tóm lại, “Làng” của Kim Lân là một truyện ngắn đặc sắc, khai thác một tình cảm bao trùm và phổ biến trong con người thời kháng chiến: tình yêu quê hương, đất nước; trong đó, nhân vật ông Hai là nhân vật có tính chất đại diện điển hình cho nét tâm lí, tình cảm đó của người nông dân Việt Nam trong thời kì tiến công cách. mạng.

            Qua tác phẩm chúng ta thấy được tài năng độc đáo trong nghệ thuật tạo tình huống, xây dựng hình tượng nhân vật có tính chất đại diện điển hình với thế giới nội tâm phong phú, phức tạp, sinh động; ngôn ngữ truyện mộc mạc, giản dị, gần gũi với đời sống, xen lẫn giữa độc thoại và đối thoại đan xen… tất cả đã làm nên sự thành công độc đáo, hấp dẫn cho thiên truyện ngắn.

            Chia sẽ: Nhận Định Về Vợ Nhặt

            Phân Tích Diễn Biến Cốt Truyện Ngắn Làng – Mẫu 15

            Đón đọc bài văn mẫu phân tích diễn biến cốt truyện ngắn Làng dưới đây để nắm vững phương pháp làm bài và tham khảo những luận điểm chính cần triển khai cho bài viết.

            Trong văn bản tự sự, cốt truyện đóng vai trò đặc biệt quan trọng, chính cốt truyện là hạt nhân giúp cho tư tưởng và ý đồ của nhà văn được truyền đạt tới người đọc một cách đầy đủ nhất. Cốt truyện giúp nhân vật bộc lộ tính cách qua các sự kiện, cao trào mang tính thử thách, qua đó hoàn thiện nội dung tư tưởng cho tác phẩm.

            Một văn bản hay phải có một cốt truyện độc đáo và hấp dẫn, lôi cuốn được sự tò mò của người đọc khi thưởng thức nó, bởi vậy mà nhà văn phải rất tài năng mới có thể xây dựng nên một cốt truyện có khả năng thu hút cao. Tiêu biểu trong nghệ thuật xây dựng cốt truyện phải kể đến nhà văn Kim Lân với tác phẩm tiêu biểu là truyện ngắn “Làng”.

            Truyện ngắn “Làng” xoay quanh nhân vật ông Hai với tình yêu quê hương sâu sắc. Việc xây dựng cốt truyện theo tâm lý nhân vật đặt trong hoàn cảnh điển hình tạo nên sự hấp dẫn, sinh động cho tác phẩm. Cốt truyện được thể hiện thông qua những diễn biến tâm trạng của nhân vật trước, trong và sau khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc.

            Trước khi nghe tin làng mình theo giặc, ông đã đi tản cư lên một vùng mới. Những lúc lao động hay lúc nghỉ ngơi ông luôn nghĩ về làng của mình, ông luôn nhớ và tự hào về những năm tháng được cùng anh em, dân làng mình đắp đập, xây ụ chống giặc: “A, sao độ ấy mà vui thế, ông thấy mình như trẻ ra.

            Cũng cuốc, bong phèng, cũng đào, cũng cuốc mê mẩn suốt ngày”. Ông nôn nao, náo nức khi nghĩ về những hầm đường bí mật của làng, những chòi gác những chòi gác đầu làng. Dẫu xa quê nhưng bóng hình làng ông vẫn luôn nâng niu, trân trọng và dõi theo, tình cảm với làng quê với ông nó gắn bó như tình thân ruột thịt vậy. Ông tự hào về những chiến công của người dân đất nước, từ đứa trẻ thủ đô, nữ sinh xung phong đến anh thanh niên ra trận, họ đều giỏi giang giành những chiến công về cho cách mạng.

            Ruột gan ông Hai như múa cả lên, vui đáo để bởi những người làm cách mạng giỏi: “Khiếp thật, tinh những người tài giỏi cả”. Ông căm ghét bọn Tây đến nỗi không lúc nào là không nguôi căm tức, hận thù: “Nắng này là bỏ mẹ chúng nó! …. Ngồi trong vị trí giờ bằng ngồi tù”. ” Hừ, đánh nhau cứ đánh nhau, cày cấy cứ cày cấy, tản cư cứ tản cư… Hay đáo để”.

            Có lẽ, mọi chuyện sẽ tự nhiên như thế, ông vẫn yêu ngôi làng của mình như thế nếu không có một sự éo le xảy ra. Đó cũng là đỉnh điểm tạo nên nút thắt cho câu chuyện yêu làng của ông Hai, đó là tin làng chợ Dầu theo giặc. Người đàn bà dưới xuôi lên mang theo tin dữ: “Nó rút ở Bắc Ninh về qua chợ Dầu nó khủng bố ông ạ”.

            Nghe tiếng Chợ Dầu khủng bố lão không tin vào tai mình, cố trấn an rồi lắp bắp, giọng như lạc hẳn như để cố kiểm tra lại cái tin nóng bỏng tay kia: “Nó… Nó vào chợ Dầu hở bác? Thế ta giết được bao nhiêu thằng? …Có thật không hở Bác”. Nghe người đàn bà thông báo tin làng chợ Dầu theo giặc, ông Hai như nghe tiếng sét giữa trời quang, ông đau đớn không dám tin vào tai mình, rồi trong nỗi bẽ bàng ông cố lảng tránh sang chuyện khác để mượn cớ ra về, lòng ông Hai vô cùng trĩu nặng mối bận tâm.

            Ông đã yêu làng mình như thế, tin làng mình đến như vậy nên làm sao không đau, không buồn cho được khi nghe cái tin dữ dội ấy. Từ tình huống độc đáo này mà vẻ đẹp trong sâu thẳm trái tim nhân vật mới được bộc lộ rõ. Những độc thoại nội tâm, những màn đối thoại không lời lại càng đặc tả tâm trạng đau đớn của người nông dân chất phác mảng trong mình tình yêu làng vô bờ bến ấy. Khi về đến nhà, ông Hai nằm vật ra trên giường chẳng buồn nói năng gì, nhìn lũ con ông buồn lòng, nghĩ về làng ông lại càng xót xa.

            Điểm mặt từng người trong ngôi làng ấy, ai cũng đều yêu nước, tại sao lại đổ đốn ra như vậy? Nước mắt đớn đau của lão cứ giãn ra trong nỗi tủi hổ, nhục nhã, những lắng lo cho người làng mình, lắng lo cho gia đình cứ cồn cào trong lão.

            “Chao ôi! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian! Rồi đây biết làm ăn, buôn bán ra sao? Ai người ta chứa. Ai người ta buôn bán mấy. Suốt cả cái nước Việt Nam này người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt gian bán nước… Lại còn bao nhiêu người làng, tan tác mỗi người một phương nữa không biết họ đã rõ cái cơ sự này chưa?…”.

            Ông đắng cay với những nỗi dằn vặt, nghĩ suy:” Hay là quay về làng ?… Vừa chớm nghĩ như vậy, lập tức ông lão phản đối ngay. Về làm gì cái làng ấy nữa. Chúng nó theo Tây cả rồi. Về làng tức là bỏ kháng chiến. Bỏ Cụ Hồ… Nước mắt ông giàn ra, về làng tức là chịu quay lại làm nô lệ cho thằng Tây.”.

            Dù yêu làng, yêu quê hương mình da diết đấy thôi, nhưng làm sao ông có thể trở về cái nơi đã phản cách mạng, đã phản cụ Hồ được cơ chứ, với ông “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”, tình cảm của người nông dân kia vẫn luôn như vậy, chưa bao giờ hết yêu ngôi làng thân thuộc với những con người xưa kia hồn hậu, giàu tình thần chiến đấu, nhưng nếu làng đã theo bọn giặc tàn ác kia thì không thể trở về được, trở về lúc này là sai, là nhục nhã, là chấp nhận làm kiếp trâu ngựa, nô lệ cho chúng nó.

            Trong lý tưởng yêu nước của người nông dân ấy, luôn một lòng trung thành và thủy chung với ánh sáng của cách mạng cụ Hồ. Mỗi nghĩ suy, mỗi lời nói của ông Hai đều hướng về cách mạng, về ngôi làng Chợ Dầu yêu quý, về đất nước của ông. Nút thắt trong tình huống bất ngờ ấy tạo nên một dòng tâm trạng đầy đớn đau, khổ sở của nhân vật, qua đó tình yêu làng được thể hiện sâu nặng hơn rất nhiều.

            Tưởng chừng như nút thắt trong câu chuyện ấy không thể nào tháo gỡ được khi tâm trạng của nhân vật đầy căng thẳng, vô vàn những mối bận tâm, đầy ắp những mâu thuẫn thì tác giả đã tinh tế làm cho câu chuyện thêm phần ý nghĩa dần khi cởi bỏ nút thắt bằng một tình huống bất ngờ khác. Đó là cái tin làng chợ Dầu được cải chính mà ông được nghe từ người chủ tịch xã.

            Còn gì vui sướng hơn khi còn người ta đang trong đau khổ đến vật vã bởi những điều tiếng, những nhục nhã mà bấy lâu gánh chịu lại được nhận một tin bất ngờ, hạnh phúc đến vậy. Cái hay ở đây là Kim Lân đã không chọn một niềm vui khác cho nhân vật để khiến ông thoải mái mà tác giả đã biết chọn lọc đúng trọng tâm để giải thoát nỗi sợ hãi, đau đớn bấy lâu trong ông.

            Nút thắt ở đâu, tháo gỡ ở đấy là cách mà tác giả lựa chọn để tạo nên một cốt truyện hoàn chỉnh, tạo nên sự bất ngờ khiến người đọc càng tò mò muốn khám phá câu chuyện. Niềm vui trong lão đã trở lại, “Cái mặt buồn thiu mọi ngày…..hấp háy”.

            Ông đi khắp nơi khoe cái tin nhà mình bị đốt như niềm vui của một đứa trẻ khi nhận được quà, ngôi nhà thân thương vốn là thứ tài sản quý giá, là nơi mà người ta mong ngóng gìn giữ nhưng với ông giờ đây nó không còn quan trọng nữa, điều quan tâm lớn nhất bây giờ trong ông là giặc đốt làng nghĩa là làng mình chống lại chúng, là làng mình vẫn luôn theo cách mạng, theo cụ Hồ. Niềm vui lớn khi danh dự làng mình, quê hương mình được lấy lại càng bộc lộ rõ trái tim yêu nước của ông Hai.

            Không cần phải có những tình huống quá li kì, kịch tính, đôi khi chỉ cần những chi tiết, tình huống nhẹ nhàng cũng tạo nên sự thành công trong nghệ thuật xây dựng cốt truyện, tạo nên một dấu ấn riêng cho đứa con tinh thần của mình. Qua truyện ngắn Làng, Kim Lân đã chứng minh thực tế cho điều đó.

            Chính cốt truyện hấp dẫn và độc đáo ấy là một xương sống tạo nên giá trị nội dung và nghệ thuật, ý nghĩa mà truyện ngắn mang lại. Tình yêu làng quê, yêu đất nước không chỉ thể hiện qua những trận đánh quyết liệt, những hy sinh xương máu mà còn được thấy quá những nỗi đau, những dằn vặt tâm can và những giọt nước mắt hạnh phúc trong cuộc đời.

            Bằng tài năng trong cách xây dựng tình huống truyện, cách bộc lộ những tâm tư sâu kín nhất của nhân vật thông qua độc thoại, độc thoại nội tâm, hành động và nét mặt, điệu bộ…tất cả đã góp phần xây dựng nên một cốt truyện theo dòng tâm lý của nhân vật đầy độc đáo, tạo nên một “Làng” riêng biệt mà khi nhắc đến người ta nghĩ ngay đến nhà văn của những người nông dân – Kim Lân.

            Tham khảo: Phân Tích Tình Huống Truyện Vợ Nhặt

            Làng Phân Tích Nhân Vật Ông Hai – Mẫu 16

             Phân tích Làng ông Hai là một đề tài nghị luận văn học quan trọng xoay quanh tác phẩm. Dưới đây chia sẻ tài liệu văn tác phẩm Làng phân tích nhân vật ông Hai để các em học sinh cùng tham khảo:

            Khắc họa hình ảnh những người nông dân trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, nhà văn Kim Lân đã thể hiện thật rõ nét hình tượng đó qua nhân vật ông Hai qua tác phẩm Làng. Truyện ngắn để lại ấn tượng sâu sắc cho người đọc về một nông dân chất phát, yêu mến và gắn bó với quê hương bằng một tình yêu tha thiết.

            Tác phẩm ra đời từ năm 1948, bối cảnh là cuộc tản cư kháng chiến chống thực dân Pháp. Ông Hai trong tác phẩm là một người nông dân người làng chợ Dầu, cùng gia đình đi tản cư để phục vụ kháng chiến như thế. Mặc dù phải rời xa quê hương nhưng ông luôn trăn trở, nhớ nhung về cái làng của mình với bao sự lưu luyến.

            Tình yêu của ông đối với cái làng Chợ Dầu được thể hiện bằng việc ông hay say mê kể về cái Làng của mình. Trước cuộc kháng chiến ông khoe về cái dinh phần của viên quản đốc làng ông: “Chết! Chết!, tôi chưa thấy cái dinh cơ nào mà lại được như cái dinh cơ của cụ thượng làng tôi”. Mặc dù, ông chẳng có họ hàng thân thích gì với nhà viên quản đốc nhưng ông vẫn gọi là “cụ” một cách rất hả hê. Nhưng khi kháng chiến chống Pháp bùng nổ, làng ông được giải phóng, người ta không thấy ông nhắc tới cái lăng đó nữa.

            Bởi trong ông đã sự thay đổi về nhận thức, ông nhận thức được “cái lăng” đó làm cho cả làng ông khổ, chẳng thế mà “Xây cái lăng ấy cả làng phục dịch, cả làng gánh gạch, đập đá, làm phu hồ cho nó…”, cũng vì nó mà chân ông bị tật. Từ niềm tự hào, niềm hãnh diện, bây giờ ông thù nó, bởi nó là kẻ thù của cả làng, nó làm cho biết bao người phải bỏ mạng…… Bây giờ, ông khoe làng ông được giải phóng, ông được tham gia vào kháng chiến “từ thơi còn trong bóng tối”, những nhà ngói san sát, đường lát toàn đá xanh………..

            Ở nơi tản cư, điều khiến ông sung sướng nhất là được khoe về cái làng của mình, dường như đối với ông trong cuộc sống chẳng còn điều gì thú vị nữa, ông chằng bận tâm tới bất kỳ điều gì khác ngoài những tin tức về cái làng của mình “ở nơi tản cư, ông nhớ cái làng của ông, nhớ những ngày được làm việc cùng với anh em, sao mà độ ấy vui thế. Ông thấy mình như trẻ ra..”.

            Trong lòng ông lão lại náo nức cả lên. Lúc này, niềm vui nhất của ông là được nghe những tin tức về cái Làng của mình. Hình ảnh ông Hai hiện lên thật đáng yêu, ông ghét những người biết chữ, ra vẻ ta đây, đọc báo mà chỉ đọc có một mình, không đọc to lên cho tất cả mọi người cùng nghe.

            Tác giả tạo ra tình huống tản cư, hình ảnh ông Hai hiện lên mang đầy đủ với những phẩm chất quý báu của những người nông dân Việt Nam hiền lành, chịu thương chịu khó. Đối với ông, đi tản cứ âu cũng là kháng chiến, ở nơi tản cư ông làm tất cả mọi việc, từ cuộc đất trồng rau, chăm sóc bọn trẻ con…….

            Hình ảnh ông vừa là hình ảnh đậm chất nông dân với “Ruộng rẫy là chiến trường, cuốc cày là vũ khí, nhà nông là chiến sỹ”. Nỗi nhớ về quê hương của ông cứ chống chất, ông nhớ, ông đem làng ra kể cho cái nhớ ấy vơi bớt… ông nghe ngóng nó qua báo đài, qua những người tản cư.

            Ông Hai đau đớn nghe tin làng mình theo giặc. Cái tin “làng Chợ Dầu theo giặc” mà ông nghe được của một người đàn bà tản cư làm ông lão cảm thấy choáng vàng, như tiếng sét giữa trời quang. “Cổ ông lão nghẹn đắng lại, giọng ông lạc hẳn đi, da mặt tê rân rân. Một lúc lâu ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ…”.

            Ông cúi gằm mặt xuống mà đi, Ông nghĩ đến sự khinh ghét của bà chủ nà, của bà con lối xóm “rồi đây ai người ta chứa, ai người ta buôn bán mấy”. Tâm trạng ông lão như vừa mất đi thứ gì thiêng liêng lắm. Ông luôn tự hào về quê hương mình, luôn khoe làng mình như một ví dụ điển hình cho đấu tranh giải phóng, chống giặc.

            Vậy mà giờ đây, ông lại phải nghe tin làng mình theo giặc, không giấu nổi sự nhục nhã ông vờ đứng rồi lảng ra chỗ khác, cúi gằm mặt xuống mà đi. Về tới nhà, ông nằm vật ra giường, dường sự bao niềm tin, bao tự hào của ông đều sụp đổ, nước mắt ông giàn ra. Nhà văn Kim Lân diễn ta tâm trạng của ông Hai thật xúc động. “Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lão cứ tràn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi đấy ư? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu?. …”.

            Đau đơn, tủi hổ, nếu như ông không yêu làng đến thế, không tự hào như thế, thì giờ đây khi nghe tin dữ ông đã không cảm thấy ê chề như vậy. Khổ thân ông lão vốn xởi lởi, vui tính, ban đầu ông nghi ngại, ông tự hỏi lòng mình, trong đầu ông điểm lại những nhân vật trong làng “Mà thằng chánh Bệu đích thực là người làng rồi.

            Dường như, ông không thể chấp nhận nổi cái tin đó, ông đâu tranh nội tâm một cách giữ dội nhưng rồi cuối cùng phải chấp nhận nó với những minh chứng rõ ràng. Sự đau đớn đến tột cùng, có lẽ nếu như phải nghe tin làng bị cháy rụi hạy bị giặc đốt phá có lẽ ông lão không cảm thấy xót xa như bây giờ. Có lẽ, đối với ông đây là điều tủi hổ nhất “Chao ôi! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian”.

            Những lời đó như được xuất phát từ trái tim ông, cả đời ông có lẽ chưa bao giờ phải chịu cảnh tủi nhục như thế, nó được cất lên từ một niềm tin hoàn toàn bị sụt đổ, từ một tình yêu tha thiết. Ông không những chỉ đau cho mình, cho gia đình mình, mà còn đau cho tất cả những người cùng quê hương cũng đang lưu lạc trên khắp mọi miền đất nước “lại còn biết bao người làng, đang tan tác mỗi người một phương nữa, không biết họ đã biết cái cơ sự ngày chưa…’.

            Đến khi, cái tin làng Chợ Dầu theo giặc được cải chính, tất cả những nỗi đau, tủi nhục được thay thế bằng niềm sung sướng, hân hoan “Tất cả đều là sai sự mục đích cả… tất cả đều là sai sự mục đích cả”. Ông Hai báo cái tin làng bị giặc phá với niềm sung sướng tốt độ, mặc dù nhà ông bị gặc đốt nhưng dường như ông chẳng có chút đau buồn nào “Tây nó đốt nhà tôi rồi ông chủ ạ, đốt nhẵn….”. Ông hạnh phúc bởi, cái sự mất mát của ông, của quê hương ông cũng chính là minh chứng rõ ràng nhất cho lòng trung thành dành cho cách mạng.

            Nhà văn Kim Lân đã khắc họa thật rõ nét nhân vật ông Hai, hình ảnh ông cũng là đại diện cho tầng lớp nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

            Chia sẽ: Giá Trị Hiện Thực Của Vợ Nhặt

            Phân Tích Bài Làng Ngữ Văn 9 – Mẫu 17

            Văn mẫu phân tích bài Làng Ngữ văn 9 dưới đây sẽ là nội dung tham khảo cần thiết giúp các em học sinh học tốt tác phẩm và có những phân tích sâu sắc hơn.

            Kim Lân (1920-2007), quê ở tỉnh Bắc Ninh, nhà nghèo nên chỉ học đến hết cập một rồi nghỉ, ông viết truyện ngắn từ năm 21 tuổi, với giọng văn chân chất, hiền hậu, thấm đượm tình quê hương của một người con lớn lên từ đồng ruộng. Các tác phẩm của ông không nhiều thế nhưng rất sâu sắc, đặc biệt là các tác phẩm viết về nông thôn Việt Nam và người nông dân trước cách mạng tháng Tám.

            Dù rằng mảnh đất về đề tài người nông dân đã được nhiều tác giả như Ngô Tất Tố, Nam Cao, Nguyễn Công Hoan khai thác gần như triệt để thế nhưng vào tay Kim Lân nó vẫn mang những nét riêng, mới lạ và hấp dẫn. Có được điều đó là bởi Kim Lân viết văn bằng một ngòi bút tỉ mẩn, cẩn trọng và sâu lắng, ông chú tâm đến những nét đẹp, những thay đổi trong đời sống tâm hồn của nhân vật.

            Đặc biệt trong tác phẩm của mình, dẫu rằng ông có viết về cái nghèo khó, cái hiện thực tàn khốc của xã hội thế nhưng nó lại không phải là nội dung chính Kim Lân muốn tố cáo hay phản ánh, mà cái ông mong muốn đó là làm nổi bật được những giá trị nhân đạo thông qua tác phẩm của mình bao gồm tình cảm giữa con người với nhau, tấm lòng yêu quê hương, đất nước sâu sắc, cùng những nét đẹp tiềm ẩn trong tâm hồn người dân Việt Nam lúc bấy giờ.

            Làng là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của Kim Lân làm nên tên tuổi của ông trên văn đàn Việt Nam, ở đó ta thấy được hầu hết những nét đặc biệt trong phong cách sáng tác của Kim Lân.

            Làng viết năm 1948, là truyện ngắn viết về đề tài người nông dân trong giai đoạn những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Nhan đề Làng một một nhan đề có tính khái quát, chỉ chung cho nông thôn Việt Nam, gợi ra hình ảnh làng quê dân dã, với những người nông dân cần cù chân chất, khơi gợi tình yêu thương, gắn bó trong tâm hồn mỗi con người.

            Như nhiều truyện ngắn khác Làng cũng có cốt truyện, câu chuyện xoay quanh hai tình huống truyện độc đáo: Bắt đầu bằng việc ông Hai người làng chợ Dầu, có lòng yêu làng, yêu nước tha thiết, thế nhưng khi chạy giặc lại nghe tin làng mình theo giặc, khiến ông đau đớn và buồn bã, tình huống truyện thứ hai là khi ông Hai nghe tin cải chính, cùng với những thay đổi trong diễn biến tâm trạng.

            Truyện được kể với giọng văn nhẹ nhàng, bình dị, chân chất, ngôi kể thứ ba giúp người đọc nhìn nhận được vấn đề cốt truyện từ nhiều phía, khiến câu chuyện được khai thác một cách tinh tế và chặt chẽ.

            Nhân vật chính của câu chuyện là ông Hai, một người nông dân chăm chỉ, cần mẫn vì chiến tranh nên phải rời khỏi ngôi làng thân yêu, nơi mà ông đã từng sinh sống suốt mấy chục năm trời. Ông yêu và gắn bó với làng tha thiết, điều ấy thể hiện qua nhiều chi tiết của truyện, ví như cảnh ông luôn nhớ về ngôi làng của mình dù lúc mệt mỏi hay khỏe mạnh, và cứ nghĩa về nó là ông lại “thấy mình như trẻ ra”.

            Ông tự hào về những con đường “lát đá xanh, trời mưa trời gió tha hồ đi khắp đầu làng cuối xóm, bùn không dính đến gót chân” của làng, ông tự hào cả về sinh phần của một vị quan lớn trong làng, nói chung đối với ông Hai tất cả những gì thuộc về là đều đáng quý, đáng trân trọng.

            Kể cả sau khi đã đi tản cư ông Hai vẫn một lòng hướng về làng, ông đi khoe khắp nơi về làng của mình để vơi bớt nỗi nhớ thương, ông hào hứng kể về làng Chợ Dầu, tự hào về một ngôi làng với “những ngày khởi nghĩa dồn dập ở làng, mà ông gia nhập phong trào từ thời kỳ còn bóng tối.

            Những buổi tập quân sự”, tự hào về cả cái phòng thông tin to sáng nhất vùng. Bấy nhiêu đó thôi cũng đủ để thấy trong lòng ông Hai là cả một tình yêu làng vô bờ bến, cùng với tấm lòng tin tưởng vào cách mạng sâu sắc, thậm chí cái lòng tin lòng yêu ấy đã từng giữ ông ở lại để kề vai sát cánh chiến đấu cùng làng, nhưng cuối cùng ông vẫn phải dứt áo ra đi vì gia đình.

            Thế nhưng éo le sao, khi ông Hai một người yêu làng, tin làng tha thiết, trung thành với cách mạng lại phải nghe một cái tin không khác gì sét đánh ngang tai rằng làng Chợ Dầu của ông theo giặc, điều đó thật tàn nhẫn khiến ông Hai vừa đau đớn, xót xa vừa xấu hổ vô cùng.

            Ngày nào ông cũng mong ngóng tin tức từ làng, nên khi vừa nghe tin giặc tràn vào làng, suy nghĩ đầu tiên nảy ra trong ông là chắc hẳn trận đánh này vang dội lắm, làng ông vốn có truyền thống chống giặc cơ mà, ông đã không thể kìm được mà hỏi ngay: “Thế ta giết được bao nhiêu thằng?”.

            Thế nhưng thật đớn đau, người đàn bà tản dường như cũng tỏ vẻ khinh khi, đỏng đảnh mà nói câu “Có giết được thằng nào đâu. Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây còn giết gì nữa.”, thì ông lão dường như chết đứng, ông không thể tin nổi là làng Chợ Dầu của ông lại có ngày đi theo giặc, lại có ngày phản bội cách mạng và phản bội cả cái lòng tin chắc nịch của ông bấy lâu nay.

            Thật không còn gì đau đớn hơn lúc này, có lấy dao xẻ thịt cũng không xót xa đến thế. Với cái biệt tài miêu tả nội tâm nhân vật xuất sắc Kim Lân đã thể hiện tâm trạng của ông Hai bằng những chi tiết rất độc đáo mà dường như người đọc cũng thấy thấm thía cái tâm trạng sửng sốt, đau đớn của ông Hai lúc bấy giờ. “Cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân”, “Ông lão lặng đi, tưởng như đến không thở được”, quả thực tin tức này là cú sốc vô cùng to lớn với ông lão, ông không thể tin nổi đó là sự thật.

            Vì thế ông vẫn giữ chút hy vọng mong manh, cố đấm ăn xôi mà hỏi lại với chất giọng “è è” như kiểu bao nhiêu hơi sức đều dồn lại nơi cổ họng “Liệu có thật không hả bác. Hay chỉ lại…”. Có lẽ ông Hai đã tin đến 80-90% rồi nên giọng ông mới yếu ớt, ngập ngừng và lạc cả đi như thế, ông cũng sợ người đàn bà kia nói một câu nữa thôi thì tất cả những gì ông vẫn nắm chắc bấy lâu nay về làng lập tức thành bọt biển hết.

            Và câu khẳng định của người đàn bà dường như đã rút hết tất cả sức lực, hy vọng và tình yêu nồng nàn của ông với làng, ông xấu hổ, ông đau khổ và cảm thấy chưa lúc nào lại đắng cay đến độ này. Người đàn ông kiên cường bao năm nay đã đi hết gần nửa đời người ấy đã khóc “Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông cứ dàn ra”, nghĩ đến cảnh gia đình bị hắt hủi ông càng thấy đau đớn và tủi nhục hơn gấp trăm ngàn lần.

            Bởi vì quá yêu nên ông mới bị tổn thương sâu sắc, ông không thể chịu đựng nổi mà “nắm chặt hai tay rít lên: Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để giờ nhục nhã thế này”, câu chửi là tất cả những nỗi niềm tức giận, oán hận và đau khổ của ông Hai.

            Nỗi đau này của ông, nỗi nhục nhã này của ông chắc chỉ có mình ông hiểu được, nó giày vò làm ông khổ sở, ông không dám bước ra gặp ai, trở nên cáu bẳn, gắt gỏng với cả vợ con, ông trằn trọc không thể nào ngủ yên giấc, rồi trở nên nhạy cảm với tất cả lời bàn tán, sợ hãi việc bị đuổi đi trong nhục nhã,… Tất cả những nỗi lo, những khổ sở cứ giày vò ông lão tội nghiệp, không thể ở lại làng này nữa, hay là về làng Chợ Dầu?

            Ông Hai đã nghĩ vậy thế nhưng lòng yêu cách mạng, kính trọng cụ Hồ không cho phép ông làm vậy, dù có từng yêu làng đến tận xương tủy ông cũng quyết không quay về cái chốn nhục nhã ấy, bởi “về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ”. Ông kiên quyết “làng thì yêu thật. Nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”, đến đây vẻ đẹp trong nhân cách của ông Hai được bộc lộ một cách rõ ràng, ông là người rạch ròi biết phân biệt phải trái, tấm lòng trung trinh với cách mạng không đổi dời khiến người ta phải kính nể.

            Cuối cùng sau bao nhiêu khổ sở, nhục nhã vì tưởng làng theo Tây thật thì cuối cùng làng cũng được minh oan, hóa ra làng ông không theo giặc, làng ông vẫn trung thành với cách mạng với cụ Hồ, làng Chợ Dầu vẫn là ngôi làng mà ông hằng yêu thương gắn bó tha thiết.

            Điều ấy khiến cho ông Hai phấn khởi và vui mừng khôn xiết, ông như được hồi sinh “Cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui. Mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung đỏ, hấp háy,…”, ông hớn hở chia quà cho các con, lại vội đi báo tin cho bác Thứ, cho ông chủ nhà. Mà ông khoe cái gì, ông khoe “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ. Đốt nhẵn!”, chưa từng có ai bị đốt hết nhà cửa mà lại vui và phấn chấn như ông Hai.

            Bởi đó là minh chứng cho việc làng ông không theo giặc, rằng nhà ông đã hy sinh cho cách mạng và ông cũng không phải là người làng Việt gian, điều đó còn gì sung sướng hơn, hạnh phúc hơn đối với ông Hai vào lúc này nữa?

            Ông lại tiếp tục tự hào, giọng điệu hùng hồn tuyên bố cho tất cả mọi người cùng biết: “Láo! Láo hết, chẳng có gì sất. Toàn là sai sự mục đích cả!”, để lấy lại lòng tự trọng, rửa đi nỗi nhục nhã mà ông đã phải chịu đựng suốt những ngày qua. Ông hạnh phúc vì có thể tiếp tục tự hào về ngôi làng yêu dấu, ngôi làng có truyền thống cách mạng, ông tiếp tục đi khoe về ngôi làng của mình, về những chiến tích chống giặc,…

            Truyện ngắn Làng của Kim Lân đã khắc họa rõ nét hình ảnh người nông dân Việt Nam những năm tháng kháng chiến chống Pháp, với vẻ đẹp chân chất, giản dị, tấm lòng yêu làng, yêu quê hương, đất nước tha thiết, sâu nặng, chuyển biến tình cảm trong kháng chiến, cùng với sự đóng góp, hy sinh thầm lặng cho cách mạng của họ, mà như nhà thơ Trần Ninh Hồ đã viết:

            “Tất cả, tất cả dường như đã được ghi lại bằng những thân phận, những tâm trạng sắc sảo đến cốt, đến lõi. Nếu như cho rằng văn chương là lịch sử tâm trạng con người thì Kim Lân quả là nhà văn đích thực trên cái ý nghĩa ấy”. Bên cạnh nội dung giàu tính nhân văn thì nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật xuất sắc, văn phong sâu lắng, tỉ mẩn đã góp phần lớn làm nên thành công của tác phẩm.

            Khám phá thêm 💕 Phân Tích Bài Thơ Đồng Chí 💕 Hay Nhất

            Phân Tích Làng Facebook – Mẫu 18

            Chia sẻ dưới đây bài văn mẫu phân tích Làng facebook giúp các em học sinh có thêm cho mình tư liệu tham khảo phong phú và hữu ích.

            Nhà văn Kim Lân được biết đến là nhà văn của nông dân và nông thôn Việt Nam. Những trang viết của ông luôn mang sự gần gũi, giản dị, gắn liền với hình ảnh con người, làng quê Việt Nam. Đến với truyện ngắn “Làng”, ta lại bắt gặp chân dung người nông dân Việt Nam chất phác, mang lòng yêu quê hương, yêu nước sâu sắc qua hình ảnh nhân vật ông Hai.

            Ông Hai – nhân vật chính của toàn bộ câu chuyện- đã được tác giả Kim Lân khắc họa chân thực, mang trong mình tình yêu làng chân chất, tình yêu quê hương, đất nước mãnh liệt. Tình huống truyện éo le được đặt ra khi gia đình ông Hai phải đi tản cư do quân Pháp đến đánh chiếm làng. Dù không ở lại, nhưng trong lòng ông Hai vẫn luôn đau đáu nhớ làng, luôn nghe ngóng mọi tin tức về làng Chợ Dầu của mình. Trớ trêu thay, ông Hai lại nghe được tin Làng Chợ Dầu của mình đi theo giặc.

            Đau đớn, tủi hổ, ông Hai không còn tin vào tai mình khi bắt đầu nghe tin làng quê mình theo Tây. Lòng yêu làng từ trước đến nay không bao giờ thay đổi, tình yêu đó là nỗi nhớ mong khi phải xa, là niềm đau đáu mỗi khi nhớ về những kỉ niệm cùng anh em ở làng đào hào, đắp ụ…Mà giờ đây, ông Hai lại phải đứng giữa lựa chọn giữa tình yêu làng và tình yêu nước. Và ông đã khẳng định chắc nịch “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”.

            Vậy là, niềm tin tưởng vào ánh sáng của Cách mạng, của Cụ Hồ của ông Hai dù trong hoàn cảnh nào cũng luôn bền chắc nhất, cho dù nó là sự đánh đổi một tình yêu thiêng liêng với mảnh đất quê hương chôn rau cắt rốn. Sự lựa chọn ấy đã thể hiện rõ nhất tình yêu cũng như niềm tin tưởng vào ánh sáng của Đảng của người dân Việt Nam. Cuối cùng, ông Hai lại như vỡ òa trong niềm sung sướng khi nghe tin cải chính, nghe tin làng mình không những không theo Tây mà còn đứng lên đấu tranh rất kiên cường.

            Truyện ngắn “Làng” của nhà văn Kim Lân đã thể hiện nổi bật và rõ nét phẩm chất, niềm tin của người nông dân Việt Nam trong thời kì kháng chiến chống Pháp, được thể hiện rõ qua hành động, suy nghĩ của nhân vật ông Hai. Tình huống truyện đã đặt nhân vật vào một sự lựa chọn không hề dễ dàng. Tình yêu nào cũng là thiêng liêng và đáng trân trọng, và nhất là tình yêu quê hương, yêu đất nước. Nhưng thật trớ trêu khi hai tình cảm thiêng liêng nhất ấy lại đặt ra cho người nông dân chất phác, hiền lành phải có sự lựa chọn.

            Và cuối cùng, tình yêu nước đã chiến thắng tất cả. Ông Hai quả thực là một người nông dân chân chất, điển hình cho hình ảnh những người nông dân Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp. Khi xa quê, ông cũng luôn tự hào mà nhớ về những ngày tháng cùng anh em trong làng lao động, đào hào, đắp ụ…Và dù xa quê, ông vẫn luôn mong ngóng ngày trở về. Nhưng khi nghe tin làng theo giặc, thì một sự sụp đổ về niềm tin đã làm ông Hai đau lòng và tủi hổ biết bao nhiêu.

            Sự xấu hổ đến tột cùng khi nghe tin làng theo Tây làm “Cổ họng ông nghẹn ắng. Da mặt tê rân rân”. Ông xấu hổ, vì ông thấy mình xuất thân từ làng mang mác theo giặc, xấu hổ vì lòng tự trọng của một con người yêu quê biết bao mà quê mình lại phản Cách mạng. Qua cuộc trò chuyện với đứa con nhỏ, ông Hai càng thêm khẳng định một niềm tin chắc nịch về niềm tin với Đảng và với Bác Hồ. Khi nghe tin cải chính, ông Hai đã như vỡ òa trong niềm sung sướng.

            Có thể theo lẽ bình thường, khi nghe tin nhà mình bị đốt, người ta sẽ phải ngậm ngùi mà tiếc của, xót xa mà kêu than. Nhưng, ông Hai lại khác, ông cứ đi khoe hết cho người nọ người kia về việc nhà mình đã bị đốt. Đó tưởng chừng như sự vô lý, nhưng đặt vào hoàn cảnh của nhân vật lại vô cùng hợp lý. Ông Hai muốn khoe về việc nhà mình bị đốt, như là một minh chứng rõ ràng cho việc làng Chợ Dầu quê ông không theo giặc. Vậy là, sự mất mát của cá nhân đã bị quên đi để thay vào đó là niềm tự hào cho quê hương chợ Dầu.

            Qua tác phẩm, nhà văn Kim Lân đã khắc họa chân thực và nổi bật nhân vật ông Hai tiêu biểu cho hình ảnh những người nông dân Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp. Họ là những con người hết sức bình dị, chân chất, nhưng ẩn sâu đằng sau đó là một tình yêu quê hương đất nước mãnh liệt.

            Cách mạng và kháng chiến đã đem lại nhận thức, tình cảm mới mẻ, mang đến niềm tin vững bền cho người nông dân. Tình cảm truyền thống yêu quê hương bao đời nay của người nông dân đã được nâng lên thành tình yêu nước sâu sắc. Đó cũng chính là tiền đề để tạo nên sức mạnh nhân dân, để có thể đánh thắng, đánh tan mọi kẻ thù xâm lược.

            Tác giả Kim Lân đã vận dụng sáng tạo và thành công cách xây dựng tình huống truyện độc đáo, cách miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật chân thực mà điêu luyện. Tác giả đã để cho nhân vật của mình trải qua những đấu tranh về mặt tâm lý, để nhân vật đưa ra những suy nghĩ, lựa chọn mang tính bước ngoặt cho câu chuyện.

            Truyện ngắn “Làng” cũng đã rất thành công khi xây dựng được hình ảnh nhân vật ông Hai tiêu biểu cho phẩm chất của người nông dân Việt Nam thời bấy giờ. Dù là ngày ấy hay bây giờ, thì tình yêu quê hương, yêu đất nước luôn cần được giữ gìn và phát huy.

            SCR.VN tặng bạn 💧 Cảm Nhận Bài Thơ Tiểu Đội Xe Không Kính 💧Hay Nhất

            Viết một bình luận