Phân Tích Đoạn 1 Trao Duyên ❤️️34+ Bài Văn Mẫu Hay Nhất ✅ Tham Khảo Tuyển Tập Nghị Luận văn Học Đặc Sắc Được Chọn Lọc Và Chia Sẻ Tại SCR.VN.
Dàn Ý Phân Tích Đoạn 1 Trao Duyên
Lập dàn ý phân tích đoạn 1 Trao duyên sẽ giúp các em học sinh nắm được bố cục và những luận điểm chính. Tham khảo mẫu phân tích đoạn 1 Trao duyên dàn ý chi tiết như sau:
a) Mở bài phân tích đoạn 1 Trao duyên:
- Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm và đoạn trích
- Khái quát nội dung cần phân tích – 12 câu đầu Trao duyên: Lời Thúy Kiều nhờ cậy, van xin Thúy Vân thay mình kết duyên cùng Kim Trọng.
b) Thân bài phân tích đoạn 1 Trao duyên:
1.Lời nhờ cậy của Thúy Kiều (2 câu đầu)
-Lời nói:
- “Cậy”: đồng nghĩa với “nhờ”, ngoài ra còn bao hàm ý nghĩa gửi gắm, mong đợi mang được những sự tin tưởng về sự giúp đỡ đó. -> Âm điệu nặng nề, gợi sự quằn quại, đau đớn, khó nói.
- “Chịu”: đồng nghĩa với “nhận lời” nhưng mang một ý nghĩa nặng hơn đó là bắt buộc phải chấp nhận, nài ép, không thể không nhận.
- Ngôn ngữ vừa nhờ vả, vừa nài nỉ, vừa là sự ép buộc.
-Hành động, cử chỉ: “lạy”, “thưa”
- Thái độ kính cẩn, trang trọng của người bề dưới đối với người bề trên hoặc với người mình hàm ơn.
- Hành động của Kiều tạo ra sự trang nghiêm, thiêng liêng cho điều sắp nói ra.
- Thể hiện sự thông minh, khéo léo của Thúy Kiều.
2.Những lí lẽ trao duyên của Kiều (10 câu sau):
-Nhắc lại mối tình đẹp để gợi tình cảm (4 câu đầu)
- “đứt gánh tương tư”
- “Mối tơ thừa”
- “Quạt ước, chén thề”
- Thúy Kiều giãi bày tình cảnh tình duyên dang dở của mình cho em được hiểu.
-Những lí do khiến Kiều trao duyên cho em:
- Gia đình Kiều gặp biến cố lớn “sóng gió bất kì”
- Kiều rơi vào tình cảnh ngang trái, khó xử dẫn đến mối tình dang dở và đầy bất hạnh của Kim – Kiều.
- Kiều bắt buộc phải chọn giữa tình và hiếu cho nên nàng đã chọn hi sinh chữ tình.
- Thúy Vân vẫn còn trẻ, còn cả tương lai phía trước
- “Xót tình máu mủ thay lời nước non” -> Nhắc đến cả tình cảm ruột thịt của những người cùng huyết thống để thuyết phục em.
- “Thịt nát xương mòn”, “ Ngậm cười chín suối” -> Kiều viện đến cả cái chết để thể hiện sự cảm kích thật sự của mình khi Vân nhận lời.
- Lời cầu xin đầy lí lẽ và giàu sức thuyết phục khiến cho Vân không thể chối từ.
- Thông qua tất cả những lý lẽ thấu tình đạt lí mà Kiều đưa ra cho thấy Kiều là một người con gái thông minh và sắc sảo, đầy cảm xúc, có đức hi sinh, một người con hiếu thảo, trọng tình nghĩa.
3.Phân tích đặc sắc nghệ thuật đoạn 1 Trao duyên
- Sử dụng từ ngữ tinh tế, tài tình, lập luận chặt chẽ
- Sử dụng các thành ngữ dân gian và hình ảnh ẩn dụ
- Sử dụng các điển tích, điển cố
- Có sử dụng các thủ pháp nghệ thuật liệt kê, ẩn dụ
- Ngôn ngữ tinh tế, chính xác, giàu sức thuyết phục
- Giọng điệu nhẹ nhàng, da diết, giàu cảm xúc.
c) Kết bài phân tích đoạn 1 Trao duyên:
- Khái quát nội dung và giá trị của đoạn thơ.
- Nêu cảm nhận của em.
Bên cạnh phân tích đoạn 1 Trao duyên, giới thiệu cùng bạn 🍀 Dàn Ý Trao Duyên 🍀 Mẫu Lập Dàn Ý Hay
Mở Bài Phân Tích Đoạn 1 Trao Duyên
Gợi ý viết mở bài phân tích đoạn 1 Trao duyên sẽ giúp các em học sinh có cách bắt đầu bài viết thật ấn tượng.
Nguyễn Du tên chữ là Tố Như, sinh ra ở miền quê hiếu học Hà Tĩnh, tuy sinh ra trong một gia đình phong kiến quý tộc nhưng cuộc đời ông lại phải trải qua khá nhiều biến động. Chứng kiến nhiều mảnh đời bất hạnh trong xã hội nên dễ dàng đồng cảm, sự đồng cảm đó được ông đưa vào thơ ca.
Nổi bật là tác phẩm “Truyện Kiều”, Kiều tuy tài sắc vẹn toàn, mười phân vẹn mười nhưng lại phải chịu quá nhiều bất hạnh. Đầu tiên là việc phải bán mình để chuộc cha và em trai, từ bỏ mối lương duyên với chớm nở. Ở đoạn trích “Trao duyên”, 12 câu thơ đầu đã thể hiện rõ được tâm trạng của Kiều ngay thời điểm bấy giờ.
Kết Bài Phân Tích Đoạn 1 Trao Duyên
Tham khảo đoạn văn mẫu kết bài phân tích đoạn 1 Trao duyên dưới đây để nắm được những đánh giá tổng kết về đoạn thơ.
Đọc những câu thơ này ta thấy được tình yêu sâu sắc mà Kiều dành cho Kim Trọng, thêm phần yêu mến Kiều khi nàng chấp nhận hy sinh hạnh phúc của bản thân để cứu lấy cha và em trai, nàng đã làm tròn chữ “hiếu” của một người con. Đoạn trích “Trao duyên” của tác giả Nguyễn Du chính là bước mở đầu cho chuỗi ngày tháng đầy đau khổ sau này của nàng Kiều. Tuy 12 câu thơ đầu của đoạn trích ngắn ngủi nhưng cũng đủ cho ta thấy được tài năng nghệ thuật trong miêu tả cảnh và tâm trạng nhân vật của Nguyễn Du.
Có thể bạn sẽ thích 🌳 Sơ Đồ Tư Duy Trao Duyên 🌳 12 Mẫu Ngắn Hay
Phân Tích Đoạn 1 Trao Duyên Hay Nhất – Mẫu 1
Đón đọc bài văn phân tích đoạn 1 Trao duyên hay nhất được chọn lọc và chia sẻ dành cho các em học sinh.
Đại thi hào Nguyễn Du (1765-1820) tên chữ là Tố Như là một thiên tài văn học, niềm tự hào của dân tộc Việt Nam. Truyện Kiều là một tuyệt tác của Nguyễn Du, bài thơ như tiếng khóc ai oán của người phụ nữ trong xã hội phong kiến đầy rẫy những thối nát, bất công.
Đoạn trích “Trao duyên” đã nói lên nỗi lòng đau xót của Thúy Kiều khi phải trao mối tình mặn nồng giữa nàng và Kim Trọng cho Thúy Vân, cũng là phần mở đầu cho cuộc đời đầy đau khổ của Thúy Kiều. Và đặc sắc nhất có lẽ là 12 câu thơ đầu. Chỉ 12 câu nhưng sao như tiếng nấc uất nghẹn ngào.
“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”
Thúy Kiều đã dùng những lời lẽ chân tình, thuần hậu để nói chuyện với Thúy Vân. Từ “cậy” được sử dụng thật đặc sắc, là “cậy” chứ không phải “nhờ”, người được “cậy” khó lòng từ chối. Thúy Kiều đã đặt hết niềm tin tưởng của mình vào Thúy Vân và Thúy Vân không thể thoái thác được và phải “chịu lời”.
Kiều đã đặt Vân lên vị trí cao hơn, hạ mình xuống như để van nài, kêu xin. Không có người chị nào lại xưng hô với em mình bằng những từ ngữ tôn kính chỉ dùng với bề trên như “thưa, lạy”. Kiều muốn chuẩn bị tâm lí cho Vân để đón nhận một chuyện hệ trọng mà nàng chuẩn bị nhờ cậy em bởi nàng hiểu rằng việc mà nàng sắp nói ra đây là rất khó khăn với Vân và cũng là một việc rất tế nhị:
“Hở môi ra những thẹn thùng
Đề lòng thì phụ tấm lòng với ai”
Từng từ được thốt ra đều được nhân vật cân nhắc kĩ càng, chọn lọc, Nguyễn Du đã sử dụng những từ ngữ rất “đắt”. Cái hay, cái sắc của từ ngữ cũng chính là cái tinh tế trong thế giới nội tâm mà Nguyễn Du muốn diễn tả. Sự chọn lọc chính xác ấy cho ta thấy Kiều đã suy nghĩ rất nhiều, rất kĩ rồi mới quyết định trao mối nhân duyên mà nàng đã từng mong ước sẽ “đơm hoa kết trái”, mối nhân duyên mà nàng mong ước sẽ được lâu bền lại cho Thúy Vân:
“Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”
“Gánh tương tư” là của chị, tình yêu sâu nặng là của chị nhưng giờ giữa đường lại “đứt gánh” còn đâu. Tơ duyên là của chị, khi đến với em nó đã là “tơ từa”. Chị hiểu em tuổi còn trẻ có thể chưa biết đến tình yêu. Đáng lẽ em còn được hưởng bao mật ngọt của tình yêu nhưng xin em hãy xót người chị bạc mệnh này mà đáp nghĩa cùng chàng Kim.
Ôi! Lời của Kiều thật thống thiết. Cái băn khoăn của Kiều là băn khoăn cho Kim Trọng phải lỡ làng nhân duyên. Cái ray rứt của Kiều là ray rứt cho Thúy Vân phải “chắp mối tơ thừa” của mình. Từ “mặc” sử dụng ở đây không phải là mặc kệ em, mặc cho ra sao thì ra mà có nghĩa là Kiều muốn phó thác, giao phó trách nhiệm lại cho Thúy Vân, tin tưởng tuyệt đối vào sự cậy nhờ của mình nơi Vân.
“Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày hẹn ước khi đêm chén thề”
Từ “khi” được lặp lại ba lần như muốn nhấn mạnh tình cảm mà Kiều dành cho Kim Trọng nào đâu phải tình cảm một sớm một chiều. Những kỉ niệm đẹp giữa nàng và Kim Trọng như sống lại trong những câu thơ “ngày hẹn ước, đêm chén thề”. Câu thơ ẩn chứa những tình cảm ngọt ngào, những niềm vui nhưng cũng nghe như tiếng nấc nghẹn của Thúy Kiều, những kỉ niệm đẹp ấy sẽ kết thúc, chỉ còn lại chuỗi ngày bi thảm tiếp sau.
“Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”
“Sóng gió bất kì” là khi Kim Trọng về quê chịu tang chú, gia đình Kiều bị mắc oan, cha và em Kiều bị bắt, Kiều phải bán mình chuộc cha và em. Những biến cố xảy ra liên tục, đẩy Kiều vào chỗ bế tắc, là người chị cả, Kiều phải hi sinh bản thân mình để gia đình được đoàn tụ, êm ấm, bởi lẽ: “Có ba trăm lạng việc này mới xuôi”.
Chữ Hiếu là một phạm trù đạo đức trong đạo Nho, vì hiếu con người ta phải dẹp bỏ tình riêng, là một quan niệm đạo đức phổ biến của người xưa. Và Kiều cũng thế, nàng không bao giờ cho phép mình trở thành người con bất hiếu. Nàng đã chôn vùi tình cảm riêng tư để báo hiếu cho cha mẹ:
“Nỗi riêng riêng những bàng hoàng
Dầu chong trắng đĩa lệ tràn thấm khăn”
Khi đã quyết định bán thân chuộc cha và em, Kiều lại nhớ đến Kim Trọng, nàng tự thấy mình là người phản bội, không xứng đáng với chàng:
“Thề hoa chưa ráo chén vàng
Lỗi thề thôi đã phụ phàng với hoa”
Ở đời, phàm, người ta thường hi sinh tất cả mọi thứ vì tình yêu. Là người ai chẳng khát khao được gắn bó với người mình yêu. Và ở người con gái đa sầu đa cảm như Kiều thì khát vọng ấy lại càng mạnh mẽ gấp bội, vì tình yêu nàng đã từng vượt qua cả lễ giáo phong kiến khắt khe nhất để “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”. Vậy mà giờ Kiều lại đành lòng vứt bỏ, thật đau đớn xiết bao! Nhưng vì:
“Duyên hội ngộ, đức cù lao
Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn?”
Có lẽ chỉ có những người con gái mang trong mình trái tim bao dung như Thuý Kiều mới đủ sức mạnh để làm những việc tưởng chừng khó khăn nhất như thế!
Sợ chưa thuyết phục được em, Kiều đã dùng hết lý lẽ, sự tỉnh táo nhất của lí trí để trải lòng cùng em:
“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non”
Đúng vậy, Thúy Vân còn trẻ, còn nhiều thời gian vun đắp cho tình cảm riêng tư nên xin hãy nhận lời chị kết duyên cùng chàng Kim. Để thêm thuyết phục và Vân không thể chối từ, Kiều đã đem “tình máu mủ” ra để cầu xin Vân. “Máu chảy ruột mềm” còn gì thiêng liêng hơn tình chị em gắn bó, ruột thịt. Em hãy giúp chị thay “lời nước non” cùng chàng. Kiều cũng đã đặt mình vào địa vị của Vân, phải kết duyên cùng người mình không quen biết, mà còn là người yêu của chị mình, ta có thể cảm nhận ở đây Thúy Vân là người thiệt thòi nhất…
Tuổi của Kiều và Vân xấp xỉ nhau “xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê” thế nhưng đối với Kiều giờ đây, tuổi xuân của nàng đã kết thúc. Khoảng thời gian xuân xanh đẹp đẽ giữa nàng và Kim Trọng nay chỉ còn là những kỉ niệm mà không có tương lai. “Trao duyên” cho em, nghe thật kì lạ nhưng trong hoàn cảnh của Kim,Vân, Kiều thì đây là một việc không khó hiểu trong xã hội phong kiến ngày xưa. Những dòng nước mắt không thể chảy ra nhưng cứ âm ỉ, phảng phất trong từng câu, từng chữ…
Nỗi đau đớn đến xé lòng nhưng vẫn phải dằn xuống, kìm nén để nói những lời trao duyên cho em. Thật đau xót thay! Chữ· Tình đối với Kiều vô cùng quan trọng, thế nhưng nàng lại từ bỏ nó để làm tròn chữ Hiếu. Mất đi tình yêu đối với nàng là mất đi tất cả. Nói đến đây Kiều tưởng như cuộc đời mình đã kết thúc, không còn gì để luyến tiếc, níu giữ:
“Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”
Bản thân phải hi sinh, Kiều không đắn đo thiệt hơn, nhưng khi nhờ cậy đến em gái thì đó là một cái ơn lớn· đối với nàng. Cho nên lời nhờ cậy của Kiều thật thiết tha, lời cảm tạ của Kiều thật sâu sắc, cảm động. Xét về ngôn từ thì lời nói của Kiều khẩn thiết mà vẫn đúng mực, kêu nài mà vẫn chí nghĩa chí tình. Nhờ cậy thì vịn đến tình máu mủ ruột thịt. Cảm tạ thì đề cao ơn nghĩa của Thúy Vân và nói đến sự bạc mệnh của mình. Kiều quả thật là người “sắc sảo mặn mà”.
Kiều đã hi sinh tất cả, kể cả cuộc đời nàng đang độ xuân xanh vì gia đình. Thuý Vân dù có vô tư đến đâu cũng có thể hiểu nỗi đau và sự hi sinh quá lớn của chị nên chắc chắn rằng nàng không thể khước từ và chỉ ngậm ngùi đồng ý nhận duyên từ chị. Có lẽ vì thế nên ngay từ đầu chúng ta không nghe một lời đối thoại nào của Vân mà chỉ nghe những lời thuyết phục, van nài và bộc bạch nơi Kiều. Vân đã chấp thuận.
Khi trao duyên cho em xong, Kiều đã nghĩ đến cái chết: “thịt nát xương mòn, ngậm cười chín suối”. Cuộc đời nàng sau khi báo đáp ơn nghĩa sinh thành thì coi như chấm dứt. bởi lẽ mất đi tình yêu là nàng đã mất tất cả, mất hi vọng, mất định hướng, linh hồn nàng như tê dại và đông cứng trước ngưỡng cửa của cuộc đời đầy tăm tối ở ngày mai.
Xã hội phong kiến thối nát đã chia rẽ tình yêu đôi lứa, làm tan vỡ hạnh phúc gia đình, chà đạp lên số phận của người phụ nữ, những con người xinh đẹp, tài hoa.
“Đau đớn thay phận đàn bà
Hỡi ôi thân ấy biết là mấy thân!”
kiếp số của họ:
“Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”
Qua đoạn trích “Trao duyên”, ta nhận thấy Nguyễn Du thật sự là một bậc đại tài trong việc thấu hiểu từng khía cạnh tinh tế nhất của tâm can con người. Chính sự thấu hiểu sâu sắc ấy cùng với nghệ thuật dùng từ điêu luyện, đã khiến tác phẩm của Nguyễn Du· tồn tại như một giá trị vĩnh cửu vượt qua tất cả thử thách khắt khe của thời gian, để lại ấn tượng mạnh mẽ trong lòng đối tượng tiếp nhận, đã khiến cho triệu vạn người phải rơi nước mắt khóc than cho số phận nàng Kiều:
“Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu
Ngàn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày”
(Kính gửi cụ Nguyễn Du – Tố Hữu)
Cùng với phân tích đoạn 1 Trao duyên, SCR.VN tặng bạn 💧 Nghị Luận Trao Duyên 💧 Mẫu Bài Nghị Luận Văn Học Hay
Phân Tích Đoạn 1 Trao Duyên Ngắn Gọn – Mẫu 2
Bài văn phân tích đoạn 1 Trao duyên ngắn gọn sau đây sẽ giúp các em học sinh tham khảo những ý văn cô đọng, hàm súc.
Đọc Truyện Kiều của Nguyễn Du, người đọc không khỏi xót xa trước số phận đầy đau khổ và truân chuyên của nàng. Người con gái tài hoa ấy phải trải qua bao phen đoạn trường, nỗi đau chia cắt tình thân chưa nguôi thì phải chịu nỗi xót xa khi đôi lứa chia lìa. Đoạn trích Trao duyên trong tác phẩm là minh chứng cho nỗi đau khôn nguôi của Kiều khi tình yêu tan vỡ. Mười hai câu đầu đoạn là những lời thơ chất chứa nỗi lòng Kiều.
Mở đầu đoạn trích là lời nhờ cậy tha thiết của Thúy Kiều với Thúy Vân:
“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”
Bằng tất cả sự chân thành và mong cầu, Kiều đã ngỏ lời “cậy” nhờ Vân. Từ “cậy” đặt đầu câu thơ mang sức nặng của tiếng nhờ vả, có chăng Kiều đang trông mong, nguyện cầu em chấp thuận. Bao nhiêu nỗi hy vọng, mong chờ và niềm tin trọn vẹn chị đều đặt hết nơi Vân. Tiếng “chịu” cất lên như một sự nài nỉ, mong cầu em xót thương mà chấp nhận đồng thời như một lời báo trước về việc mà mình sắp nói ra đây sẽ rất khó xử với Vân.
Phận làm chị, theo thứ bậc trong gia đình hay lễ giáo phong kiến, Kiều nào có thể lạy em, nhưng trong tình cảnh này, nàng đã chọn cách “lạy” và “thưa” với Vân. Hơn ai hết, Kiều hiểu những thiệt thòi của Vân khi chấp thuận lời nhờ vả, nàng lúc này là kẻ mang ơn, một cái lạy hay câu thưa nào có sánh sự hy sinh của em dành cho mình. Lòng đau đớn khi tình yêu không trọn, nhờ đến Thúy Vân- người em gái duy nhất bấy lâu nàng luôn yêu quý và tin tưởng thay mình nối tiếp mối duyên cùng Kim Trọng mà nàng không khỏi xót xa.
“Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”.
Thành ngữ “giữa đường đứt gánh” được vận dụng đầy khéo léo để chỉ mối lương duyên chìa lìa của Kim – Kiều. “Gánh tương tư” sâu nặng bao nhiêu thì đứt gánh càng khổ đau, cay đắng bấy nhiêu. Điển tích “keo loan” vốn dành cho những mối tình gắn kết, bền chặt nay lại dành nhờ người “chắp mối”.
Cụm danh từ “tơ thừa” kết hợp với cụm từ” mặc em” làm nổi bật tâm trạng ngậm ngùi, chua xót của Thúy Kiều. Kiều hiểu những thiệt thòi mà Vân phải chịu khi chấp nhận mối duyên này. Nếu với Thúy Kiều, đó là duyên trăm năm còn với Vân thì đó chỉ là mối “duyên thừa” mà thôi. Hai từ “mặc em” như một sự phó mặc, uỷ thác nơi em của Kiều, nàng tin rằng em sẽ hiểu cho nỗi khó xử và tình cảnh éo le của mình.
Lời vừa dứt cũng là lúc bao kỉ niệm tình đôi lứa chợt ùa về như thác lũ, đó là những kí ức đẹp đẽ:
“Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.”
Ngày gặp Kim Trọng, tình yêu chớm nở, hai người “tình trong như đã mặt ngoài còn e”, Kim- Kiều đã từng hạnh phúc biết bao với những lời hẹn ước, với chén rượu thề nguyền. Điệp từ “khi” càng nhấn mạnh nỗi nhớ da diết và cả nỗi tiếc thương nơi Kiều. Nàng tâm sự với em như để giãi bày nỗi lòng cũng là mong em sẽ phần nào hiểu được những day dứt nơi nàng.
“Sự đâu sóng gió bất kỳ
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”
“Sóng gió bất kì” là tai ương bất ngờ đến mà gia đình chị em Kiều phải gánh chịu. Cha và em bị oan sai, Kiều buộc phải bán mình cứu người thân. Chữ “hiếu” đã trọn mà chữ “tình” còn day dứt. Làm sao để vẹn cả hai bề? Đó là một câu hỏi luôn thường trực trong trái tim nàng. Để làm tròn chữ “hiếu”, Kiều đã bỏ lỡ mối keo loan trăm năm, trao duyên cho em để thay mình trả nghĩa cho chàng Kim, cho vẹn chữ “tình” sâu nặng. Nói rồi, để thuyết phục em thêm, nàng tiếp lời:
“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”
Những lý lẽ Kiều đưa ra vừa chân thành tha thiết, lại vừa thấu tình đạt lý. Thúy Vân còn tuổi trẻ, còn thời gian để tìm hiểu Kim Trọng, còn Kiều thì khác, khi nàng quyết định bán mình cứu cha cũng là khi tự do, thanh xuân khép lại, phía trước là bao tai ương, sóng gió trực chờ.
Hơn thế nữa, Vân và Kiều là máu mủ ruột rà nên dễ dàng đồng, cảm, thấu hiểu mà thay Kiều trả duyên cho Kim Trọng “thay lời nước non”. Thậm chí, nàng còn nói đến cái chết “ngậm cười chín suối” để mong Vân hiểu được tâm nguyện tha thiết của mình. Chắc có lẽ khi nghe những lời ấy, Vân cũng không thể đành lòng nhìn chị đau đớn mà chối từ lời nhờ cậy từ nàng.
Sự kết hợp giữa thể thơ lục bát quen thuộc cùng những từ ngữ đầy tinh tế đã làm cho mười hai câu đầu đoạn thơ thể hiện được nỗi đau “đứt ruột” của Thúy Kiều khi tình duyên tan vỡ. Qua đó, ta càng trân trọng hơn vẻ đẹp của một trái tim thiết tha, chung thủy, một tấm lòng hiếu thảo và giàu đức hi sinh nơi cô gái tài sắc ấy.
Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất
Phân Tích Đoạn 1 Bài Trao Duyên Ngắn Nhất – Mẫu 3
Với bài văn mẫu phân tích đoạn 1 bài Trao duyên ngắn nhất dưới đây, các em học sinh có thể ôn tập nhanh chóng cho bài viết trên lớp.
Truyện Kiều là một kiệt tác văn học của Đại thi hào Nguyễn Du để lại cho nền văn học Việt Nam. Tác phẩm mang nhiều giá trị nhân đạo khiến độc giả phải suy ngẫm. Một trong những đoạn trích nổi bật lột tả rõ nét nội tâm nhân vật Thúy Kiều chính là đoạn trích “Trao duyên.”
Khi gia đình gặp nạn, để giải cứu cho cha và em trai, Thúy Kiều buộc phải trao lại mối duyên của mình cho Thúy Vân:
“Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.”
“Cậy, lạy, thưa” là những từ mà người ở vai dưới nói chuyện với người vai trên. Những từ ngữ này thể hiện sự tôn trọng đặc biệt của Kiều dành cho người em gái mà mình nhờ vả. Dù mình ở vai trên nhưng Kiều không dùng sự ra lệnh đối với em. Tuy trong lòng cô nhiều suy nghĩ, trăn trở nhưng vẫn bình tĩnh xử lí, sắp xếp, thu vén chuyện của mình.
“Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.
Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.
Sự đâu sóng gió bất kỳ,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?”
Kiều trình bày với em về hoàn cảnh của mình, về mối tình dang dở của mình với chàng Kim và mong em hãy thấu hiểu cho nỗi khổ của mình mà chấp nhận mối tơ thừa của chị. Hai người đã có những hẹn thề gắn bó dài lâu nhưng nay Kiều không giữ lời hứa đó. Bởi lẽ, nàng không thể hoàn thành cả “chữ hiếu” lẫn “chữ tình”; nên “chữ tình” này, xin gửi lại để Vân thay chị thực hiện.
Từng lời nói của Kiều là nỗi đau khổ, day dứt mà nàng đang phải trải qua. Nào ai muốn nhìn thấy cha và em trai bị oan trong tù? Nào ai muốn rời bỏ người mình yêu thương khi tình cảm rất mặn nồng? Ta càng thêm thương xót cho nàng Kiều bạc mệnh.
“Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ, thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”
Vân còn trẻ, đang trong độ tuổi xuân thì, chàng Kim lai là tài tử hiếm có, nếu Vân thay Kiều đến với Kim Trọng thì nàng Kiều sẽ yên tâm mà ra đi vì dù sao đi chăng nữa Vân với Kiều cũng cùng chung giọt máu. Để cảm kích sự đồng ý của Vân, dù cho Kiều có ‘thịt nát xương mòn” nơi đất khách quê người nàng cũng yên tâm mà ra đi, không còn suy tư trăn trở.
Đoạn thơ gây ám ảnh người đọc bởi nó làm hiện ra trước mắt chúng ta một bức tranh như thực về nàng Kiều trọng tình, trọng nghĩa, ta phần nào hiểu thêm, đồng cảm, thương xót cho số phận một cô gái “hồng nhan bạc mệnh.” Điểm nổi bật làm nên thành công vang dội của tác phẩm đó chính là thể thơ lục bát dân gian của dân tộc. Đoạn trích sử dụng những câu cảm thán đã khắc họa thành công tâm trạng, nỗi lòng của Thúy Kiều khi trao mối duyên của mình cho Thúy Vân.
Đoạn trích nói riêng và tác phẩm nói chung đã góp một phần không nhỏ vào việc làm đa dạng nền văn hóa dân tộc. Nhiều năm tháng qua đi nhưng đoạn trích “Trao duyên” cùng tác phẩm Truyện Kiều vẫn giữ nguyên giá trị ban đầu của nó và để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc.
Tiếp theo phân tích đoạn 1 Trao duyên, đọc nhiều hơn ☀️ Phân Tích Trao Duyên ☀️ Top 10 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Phân Tích Đoạn 1 Trao Duyên Nâng Cao – Mẫu 4
Bài văn phân tích đoạn 1 Trao duyên nâng cao dưới đây sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích dành cho các em học sinh.
Truyện Kiều là kiệt tác thơ bằng chữ Nôm của thi hào Nguyễn Du. Tác phẩm kể về cuộc đời và số phận của Thúy Kiều, người con gái tài sắc nhưng lại có số phận truân chuyên, bất hạnh. Thúy Kiều từng là một tiểu thư khuê các với cuộc sống “êm đềm trướng rủ màn che”, nàng cũng có một tình yêu thật đẹp với chàng thư sinh Kim Trọng.
Tuy nhiên biến cố ập đến bất ngờ, để cứu cha và em, Kiều đã bán mình cứu cha, làm tròn chữ hiếu của một người con, bỏ lỡ mối lương duyên với Kim Trọng. Để hiếu tình vẹn tròn, Thúy Kiều đã quyết định tình duyên với Kim Trọng cho em gái mình là Thuý Vân. Bối cảnh và tâm trạng Thúy Kiều khi trao duyên được thể hiện rõ nét qua 12 câu thơ đầu đoạn trích Trao duyên.
Mười hai câu thơ đầu của đoạn trích Trao duyên chứa chan những lý lẽ, sự chân thành và cả niềm đau xót vô bờ của Thuý Kiều khi phải trao đi mối tình đầu sâu nặng của mình. Thế nên, khi mở đầu câu chuyện, mở đầu đoạn trích, khung cảnh hiện lên thật não nề làm sao:
“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”
Là một người chị trong nhà, vậy mà Thuý Kiều lại dùng những lời lẽ hết sức kính cẩn, hết sức thận trọng với em giá mình, nào là “cậy”, nào là “chịu lời”! Tại sao Kiều lại sử dụng những từ ngữ hết sức thành kình như thế? “Cậy” tức là nhờ vả, thế nhưng Kiều không nói là nhờ em mà là “cậy em”. Lời thơ mang âm điệu nặng nề, mang cả sự gửi gắm đầy trân trọng của nàng dành cho em gái, gợi lên cả sự day dứt, đau xót khôn nguôi đang âm ỉ cháy trong lòng nàng.
Chỉ một chữ “cậy” ấy mà chứa chan bao sự mong đợi, hy vọng tha thiết của Kiều. “Cậy” em như thế, không biết em có “chịu lời” hay chăng? Từ “chịu” ở đây mang nghĩa là nhận lời, thế nhưng Kiều lại sử dụng từ “chịu” để đưa Thúy Vân vào thế khó, bắt buộc phải nhận lời, không thể từ chối. Âm điệu tiếng thơ mang trong đó sự van xin, nài nỉ, thúc ép Thuý Vân phải nhận lời. Nguyễn Du đã để Kiều lên tiếng bằng những lời thơ thật day dứt, thật khẩn thiết, dồn ép Thuý Vân vào thế khó xử mà phải nhận lời.
Càng bất thường hơn khi Kiều hạ thấp vai vế của mình, để em gái ngồi lên ghế còn mình thì “lạy, thưa”. Hành động “lạy, thưa” vốn là hành động dành cho những bậc bề trên tôn kính, nhưng ở đây, Kiều lại dùng cho em mình, thật là bất thường, thật là khó hiểu! Thế nhưng điều đó chẳng hề khó hiểu khi Kiều đang nhờ vả một việc lớn, liên quan đến hạnh phúc cả đời của em gái mình. Thái độ đó còn tạo nên một sự trang nghiêm, thiêng liêng đối với sự việc mà Kiều đang muốn cậy.
Thúy Kiều là người con gái thông minh, sắc sảo, điều này được thể hiện rõ nét qua lời nói và hành động nhờ cậy của nàng với Thúy Vân. Cách nói của Kiều mang đầy sự kính cẩn đối với một người có ơn với mình khiến cho người đó không thể từ chối. Đồng thời, với cách sử dụng từ ngữ hết sức tài năng, Nguyễn Du còn khiến cho người đọc như cảm nhận được một nỗi đau xót vô bờ đằng sau mỗi lời nói và cử chỉ của Kiều.
Sau khi đưa ra lời cậy nhờ em gái, Kiều mới mở lời với Thuý Vân lý lẽ trao duyên của mình. Nàng nói:
“Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”
Kiều đưa ra lý do đã khiến nàng phải làm như vậy, đó là vì chữ hiếu. “Đứt gánh tương tư” đây là thành ngữ chỉ sự dang dở trong tình yêu, và ở đây là tình yêu giữa Kiều và Kim Trọng, Kiều đang muốn giãi bày hoàn cảnh của mình cho em gái hiểu, nàng vì cha, vì em mà phải bán mình, làm “đứt gánh” mối duyên cùng chàng Kim Trọng. Vậy nên, nàng muốn Thuý Vân “chắp mối tơ thừa” để thay nàng trả duyên cho chàng Kim.
Từ “mặc” ở đây không phải mặc kệ mà là phó mặc, là uỷ thác. Kiều hiểu rằng chấp nhận chuyện này sẽ khiến em gái nàng thiệt thòi bởi giữa Thuý Vân và Kim Trong chưa hề có tình yêu. Những lời thơ thống thiết chứa đựng nỗi đau đớn xé lòng của Thuý Kiều, nỗi quằn quại đang dằn xé tâm can nàng. Thế nhưng, những lời nói ấy lại chính là những lời thuyết phục nhất, khéo léo nhất để khiến Vân hiểu, đồng lòng với Kiều mà nhận lấy trách nhiệm nặng nề này.
Nhắc đến tình yêu của mình, Kiều lại tưởng nhớ lại những kỉ niệm, những lời thề nguyền của người yêu. Những hình ảnh “quạt ước”, “chén thề” làm ùa về trong tâm trí nàng những cảnh sắc của đêm thề nguyền dưới trăng, của tình yêu ấm áp và hạnh phúc với Kim Trọng.
“Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề”
Thế nhưng, tai hoạ ập đến khiến nàng buộc phải lựa chọn giữa hiếu và tình. Và nàng đã chọn chữ hiếu. Tình yêu đầu càng đẹp càng khiến trái tim nàng đau đớn khôn nguôi. Chữ hiếu chữ tình không thể “hai bề vẹn hai” nên nỗi đau đó khiến nàng khổ sở, khiến nàng ngày đêm dằn vặt trong đau xót. Kiều bộc bạch hết với Thuý Vân vừa là để giải thoát cho lòng mình vừa muốn Vân hiểu được tình cảnh ngang trái của mình để giúp nàng thực hiện mối duyên đó.
“Sự đâu sóng gió bất kỳ
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”
Những lời nói gan ruột của Kiều cứ thốt lên trong sự đau xót, trong sự dằn vặt. Kiều muốn Vân nhận lời mình, muốn Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng, vì nàng biết, sự ra đi lần này của nàng không biết bao lâu mới có thể gặp lại. Nàng nhắc tới tuổi trẻ của Vân, nhắc tới tình chị em ruột thịt:
“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non”
Tương lai Vân còn ở phía trước, tuổi trẻ còn tràn trề, hơn thế, tình máu mủ ruột thịt còn đó, em hãy nhận lời trả duyên giúp chị. Mong rằng em sẽ niệm tình thân đó mà nhận lời thay chị thực hiện lời thề “nước non” đó cùng chàng. Những lời Kiều nói ra vừa đượm nỗi đau xót vừa đầy thuyết phục khiến Vân khó lòng có thể chối từ.
Kiều biết rằng, có thể sự ra đi lần này sẽ không thể trở lại, cái “chết” có thể diễn ra bất cứ lúc nào, vậy nên, nàng đã đem điều đó làm lý do để thuyết phục Vân:
“Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”
Đối với Kiều, lời hứa lời thề với Kim Trọng, việc trả nghĩa cho chàng còn quan trọng hơn cái chết của nàng. Chính vì vậy, kể cả khi chết đi, trong thâm tâm nàng vẫn mong trả được mối duyên với Kim Trọng. Và nếu điều ấy đã được thực hiện, thì nàng cũng mãn nguyện mà “ngậm cười” nơi “chín suối” mà cảm kích Thuý Vân đã giúp đỡ mình. Câu thơ nặng nề như một lời trăn trối, như tâm nguyện của một người sắp chết, điều đó khiến lời khước từ của Thuý Vân càng khó có thể nói ra.
Những lời nói của Thuý Kiều khi trao duyên thật thuyết phục, thấu tình đạt lý khiến cho người em như Thuý Vân khó lòng chối từ. Từng câu thơ là từng nỗi lòng của Kiều được bộc bạch một cách khéo léo, thông minh, chứa đựng niềm đau xót vô bờ khi phải rời xa tình yêu đầu còn đang mặn nồng hạnh phúc và còn chứa đựng đức hi sinh cao cả của Kiều vì chữ hiếu, vì gia đình nữa.
Về nghệ thuật, tài năng của Nguyễn Du được thể hiện rõ qua các sử dụng ngôn ngữ hết sức đặc sắc và tinh tế. Mỗi từ ngữ đều được ông chọn lựa kỹ càng tạo nên một lời thuyết phục hết sức khéo léo và thông minh của Kiều. Đồng thời Nguyễn Du cũng sử dụng một số thành ngữ cũng như hình ảnh ẩn dụ để gợi nên sự hoàn cảnh cũng như niềm day dứt trong lòng Kiều. Nhịp điệu thơ rất nhẹ nhàng, chứa đựng đầy cảm xúc, sư thống thiết, dằn vặt.
Mười hai câu đầu trong đoạn trích Trao duyên là những cậy nhờ, gửi gắm trả nghĩa tình cho Kim Trọng đầy chân thành của Kiều cho em gái về mối tình đầu sâu đậm của mình. Vì những lề thói, những chế độ quan quyền đã gián tiếp đẩy Kiều rời xa tình yêu của mình. Qua đó, chúng ta thấy hiện thực xã hội phong kiến chuyên quyền thối nát, đẩy con người ta vào bước đường cùng đầy đau khổ, thiệt thòi đặc biệt là người phụ nữ.
Mời bạn tham khảo 🌠 Cảm Nhận 12 Câu Đầu Bài Trao Duyên 🌠 10 Bài Hay Nhất
Phân Tích Đoạn 1 Trao Duyên Học Sinh Giỏi – Mẫu 5
Tham khảo bài văn phân tích đoạn 1 Trao duyên học sinh giỏi với những nội dung nghị luận văn học chuyên sâu.
Nguyễn Du, một đại thi hào của dân tộc Việt Nam, ông sinh năm 1766 mất năm 1820, tên chữ là Tố Như. Quê ông ở Hà Tĩnh, ông được sinh ra trong một gia đình phong kiến quý tộc. Sống trong giai đoạn đồng tiền làm băng hoài đạo đức, đầy biến động, Nguyễn Du chứng kiến được rất nhiều cảnh đời bất công, cũng như sự thối nát của xã hội bấy giờ.
Và ông có sự cảm thông sâu sắc đối với người phụ nữ bất hạnh. Nguyễn Du đã viết ra nhiều tác phẩm văn học để nói thay cho tấm lòng đầy ai oán, cho số phận bạc mệnh đáng thương của người phụ nữ. Trong đó có bài “Trao Duyên”, là một bài thơ trong tuyệt tác “Truyện Kiều”, một bài thơ bi cảm được thể hiện qua từng câu, từng chữ, nó mang đến một nỗi xúc động khôn nguôi cho người đọc.
“Trao Duyên” nói về một bi kịch dang dở trong tình yêu của Thúy Kiều và Kim Trọng. Bài thơ đã khắc họa một nỗi đau mà khó ai có thể thấu hiểu của Thúy Kiều, qua bài thơ chúng ta cũng thấy được một giá trị nhân văn sâu sắc, thể hiện một niềm khát khao có được hạnh phúc của con người. Nổi bật nhất trong bài thơ Trao Duyên chính là đoạn thơ:
“Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.
Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.
Sự đâu sóng gió bất kỳ,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?
Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ, thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”
Đọc nhan đề bài thơ là Trao Duyên nhưng tại sao mở đầu bài thơ lại khiến khó hiểu như vậy. “Cậy em, em có chịu lời”, đây giống như một lời nhờ cậy, một lời gửi duyên phận của mình cho người khác, nhờ họ thay mình tiếp tục một mối duyên dang dở. Nguyễn Du đã sử dụng từ “cậy” để cho chúng ta thấy rằng, Thúy Kiều đã nhờ bằng tất cả niềm hi vọng và tin tưởng, đồng thời dùng tự “chịu” để thể hiện cho việc phải đồng ý, phải bắt buộc nhận lời, không thể từ chối.
Qua đó có thể thấy được tình yêu sâu sắc, chân thành của Thúy Kiều dành cho Kim Trọng. Và càng thấy cái nghĩa cái tình của của Thúy Kiều và Kim Trọng nó lớn biết nhường nào. Em ơi, ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa. Câu thơ như xé tâm can người con gái. Vừa cảm thấy có lỗi với người em gái, vừa cảm thấy xót xa cho số phận của mình. Kiều đã dùng lễ nghi lạy trước thưa sau, thay đổi ngôi của hai người để ràng buộc Thúy Vân. Để cái tình của mình trao lại cho em.
Sau đó, Thúy Kiều bắt đầu giãi bày lí do cho những hành động trước đó. “Giữa đường đứt gánh tương tư/ Keo loan chắp nối tơ thừa mặc em”. Câu thơ là sự giải bày cho em biết là cuộc tình của chị bây giờ đành dang dở “đứt gánh tương tư”. Cuộc tình của Kiều vừa mới chớm nở nhưng không thể đơm hoa kết trái bởi sóng gió đang ập đến.
Kiều đau khổ, xót xa nhưng không thể làm khác được, đành trao lại mối duyên này cho em. Nàng đã mượn điển tích “keo loan” để nói lên ý định muốn Thúy Vân thay mình kết duyên với Kim Trọng. Nàng cảm thấy có lỗi, cảm thấy ray rứt vô cùng đối với em, vì cảm thấy như mình ép duyên, buộc em phải nhận, nhưng vẫn giao phó “tơ thừa” để “mặc” Thúy Vân quyết định.
Mặc dù đã trao duyên cho em, nhưng dường như mối tơ duyên vẫn đè nặng trong lòng Thúy Kiều. Những kỉ niệm ngọt ngào như ùa về trong lòng, nàng đành bày tỏ tâm sự cùng em.
“Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.”
Câu thơ đã liệt kê ra những kỉ niệm của Thúy Kiều và Kim Trọng, kỉ niệm cùng quạt ước, cùng nâng chén rượu thề nguyện, chúng ta dễ dàng nhìn thấy một cảnh tượng vô cùng sống động đang diễn ra của đôi uyên ương. Đẹp biết mấy. Từ “khi” được lập lại ba lần gợi cho ta cảm nhận một tình cảm sâu nặng, nhưng xót xa và dày xé tâm can nàng cũng như người đọc. Nguyên nhân tại đâu mà dẫn đến cơ sự này.
“Sự đâu sóng gió bất kì,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.”
Quá khứ tươi đẹp là thế, nhưng hiện tại của nàng, từ khi chàng Kim về chịu tang, bao sóng gió ập đến, đứng giữa chữ hiếu và tình nàng phải làm sao đây. Hoàn cảnh trái ngang, cha và em mắc oan bị bắt, nàng phải bán thân mình mới cứu được họ, nhưng người nàng yêu, một lòng vì nàng, lời thề nguyện mới hôm nào chưa kịp nguội.
Cả một con tim đang chảy máu, đau đớn, day dứt, quằn quại. Nhìn cảnh cha và em bị tra tấn, đòn roi, là một người con có hiếu, nàng đành hi sinh tình yêu để làm trọn phận con, để báo đáp công ơn. Nàng nói cho em hiểu nỗi đau của mình, mong em hiểu và chấp nhận lời yêu cầu ngang trái đó. Nàng sợ em mình không đồng ý, đã cố gắng bằng mọi lí lẽ để thuyết phục em.
Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.
Nàng dùng tình máu mủ, nàng dùng đến cái chết để thuyết phục. Nguyễn Du đã dùng các thành ngữ để giúp nàng Kiều thể hiện sự quyết tâm thuyết phục em chấp nhận yêu cầu. Tình nghĩa của chàng Kim rất quan trọng, dù nàng có phải thịt nát xương mòn thì nàng cũng chấp nhận, chỉ mong sao Vân giúp nàng nối duyên với Kim Trọng. Dù xuống suối vàng nàng vẫn ngậm cười, vẫn cảm thấy hạnh phúc, mãn nguyện.
Chính cách viện dẫn đến tình máu mủ và cái chết ấy đã khiến Vân không thể chối từ. Có thể nói đây là cách duy nhất để vẹn lý, vẹn tình. Đây cũng có thể là một lời trăn trối của nàng, mà ắt hẳn cả chúng ta cũng không thể nào nhẫn tâm từ chối yêu cầu đó. Nghe những lời xót xa đó, hẳn sẽ khiến nàng Vân càng thêm yêu quý chị mình.
Thể thơ lục bát đã giúp cho Nguyễn Du dễ dàng khắc họa tâm trạng dằn vặt, sự đớn đau khi phải hi sinh chữ tình để vẹn tròn chữ hiếu của Thúy Kiều. Nàng đã được ông tô vẽ lên thật đẹp đẽ trong lòng người đọc. Một cô gái quá mong manh nhưng rất mạnh mẽ.
Trao duyên đã cho chúng ta thấy được một cảnh đời đầy bi kịch, một số phận nghiệt ngã đến xé lòng của nàng Kiều. Nhờ sự trải nghiệm và cái nhìn sâu sắc cùng khả năng sử dụng từ điêu luyện của Nguyễn Du đã khiến cho nội tâm của nhân vật như được khắc họa rõ nét nhất, từ nỗi đau đến tâm hồn của Kiều như đang trải dài qua từng câu chữ. Khiến người đọc mãi không thể thôi xót thương.
Tiếp theo đón đọc 💧 Phân Tích 14 Câu Đầu Bài Trao Duyên 💧 10 Mẫu Hay Nhất
Phân Tích Khổ 1 Trao Duyên Đặc Sắc – Mẫu 6
Đón đọc bài văn mẫu phân tích khổ 1 Trao duyên đặc sắc dưới đây để trau dồi những ý văn hay.
Cuộc đời chìm nổi của những người phụ nữ phong kiến xưa đầy đau thương, họ phải trải qua bao bi kịch đau đớn. Thân phận của nàng Kiều trong “Truyện Kiều” là một ví dụ tiêu biểu cho số kiếp truân chuyên, bất hạnh của những người phụ nữ tài hoa bạc mệnh.
Trong cuộc đời “đoạn trường”, nàng Kiều đã có mối tình đẹp với chàng Kim, những tưởng sẽ đơm hoa trái ngọt ngào lại phải lỡ dở, dây tơ hồng của mỏng manh chẳng thể chắp nối mối lương duyên vẹn tròn. Đoạn trích “Trao duyên” trong tác phẩm đã cho thấy rõ những day dứt, đớn đau, tủi hờn của nàng Kiều khi buộc phải trao gửi duyên mình cho em gái. Mười hai câu đầu bài thơ được viết nên thật xúc động:
“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”
Bằng tất cả tấm lòng mình, Kiều đã nhờ “cậy” đến em, không biết rồi em có chịu lời không nhưng chị vẫn đặt hết niềm tin vào lời ấy. Từ “cậy”, cất lên nghe sao xót xa mà thương cảm quá, dường như, bao nhiêu nỗi hy vọng , mong chờ và sự tin tưởng chị đều nhờ đến Vân. Tiếng “chịu” như sự nài nỉ, van lơn lại vừa như đặt Vân vào thế không thể từ chối lời nhờ cậy ấy.
Dù mình là chị, dù theo thứ bậc Kiều là phận trên nhưng trước tình cảnh trớ trêu này, Kiều đã chọn cách “lạy” và “thưa” em mình, bởi biết nói làm sao được ân tình lớn lao, sự hy sinh mà Vân phải chấp nhận khi lời cậy nhờ của Kiều nói ra. Lúc này đây, trong trái tim Kiều biết bao đau đớn, xót xa, tình yêu dành cho Kim quá lớn mà số phận lại hết sức trớ trêu, nàng không thể thực hiện lời thề nguyền cùng chàng Kim.
Không còn cách nào khác để làm vẹn tròn tình nghĩa, Thúy Kiều đau khổ mà nhờ đến Thúy Vân- người duy nhất mà nàng Kiều tin tưởng rằng có thể thay mình nối tiếp mối lương duyên dang dở với chàng Kim. Chỉ hai câu thơ ấu thôi mà ta thấy được một con người đầy tinh tế và sâu sắc nơi Kiều.
Sau khi mở lời, Kiều tâm sự những nỗi niềm của cuộc tình mình với chàng Kim:
“Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”.
Gánh tương tư nặng lòng đến vậy mà lỡ “đứt gánh” sao không khỏi đắng cay. Vì chữ “hiếu” Kiều đành chấp nhận bán mình, chữ “tình” Kiều cũng không muốn bội bạc, đành ngậm ngùi:
“Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”
Hơn ai hết, Kiều hiểu được rằng Vân sẽ chịu rất nhiều thiệt thòi khi đáp ứng lời nhờ cậy này của nàng . Với Kiều, chàng Kim là mối duyên tốt đẹp, là mối tình mơ ước của cả đời nàng nhưng với Vân đó chỉ là “mối tơ thừa” mà thôi, nhưng biết làm sao được, chị đành phó mặc nơi em định liệu, ủy thác nơi em, tin rằng em sẽ hiểu cho lòng xót xa nơi chị. Lời thì đã nói, duyên thì đã trao, vậy mà bao kỉ niệm thiết tha, hạnh phúc bên người yêu của ngày xưa cứ chực chờ, trào dâng trong tiềm thức nàng, rồi Kiều nghẹn ngào tâm sự:
“Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.”
Khi gặp gỡ Kim Trọng cũng là lúc tình yêu trong nàng chớm nở, “tình trong như đã mặt ngoài còn e”, Kim Trọng đã đến và mang cho Kiều bao hạnh phúc, vui vầy, đêm tâm giao nâng chén rượu thề nguyền, lời ước thề còn vẹn nguyên. Điệp từ “khi” càng thể hiện hơn nỗi da diết, nhớ thương và cả niềm tiếc nuối nơi Kiều. Vân chưa hề biết mối tình của Kiều với Kim, bởi vậy mà Kiều lựa chọn cách tâm sự cùng em cũng mong rằng Vân sẽ hiểu được những yêu thương và sự trân trọng tình yêu của nàng, để em thấu cảm cho mình lúc này.
“Sự đâu sóng gió bất kỳ
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”
Tình yêu chưa hạnh phúc được bao lâu, thì gia đình gặp sóng gió. Chữ Hiếu, chữ tình làm sao để “hai bề vẹn hai’. Đó là nỗi đau day dứt khôn nguôi. Vì gia đình Kiều đành lỡ mối keo loan, nhưng cũng không thể buông bỏ, dứt lòng với người thương được, để trọn vẹn đôi bề Kiều mong Vân thay mình trả nghĩa chàng Kim, dẫu đớn đau, dẫu biết tình yêu vốn là điều không thể miễn cưỡng nhưng Kiều nói lên lòng mình để mong Vân chấp nhận lời thỉnh cầu ngang trái ấy. Phải chăng, Vân cũng hiểu được tấm lòng, sự đau khổ giày xé nội tâm can chị mà nàng im lặng, nghe chị tiếp lời:
“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”
Kiều đưa ra những lời lẽ đầy thấu tình để thuyết phục Vân. Ít ra thì so với chị, thanh xuân của em vẫn còn nhiều, tuổi em đang trẻ. Còn chị đây, khi đã chấp nhận bán mình, thì tuổi xuân cũng sẽ chẳng còn, bao nhiêu sóng gió phía trước còn chưa biết. Thậm chí Kiều đã nói đến cái chết để Thúy Vân có thể hiểu thấu được tâm nguyện thiết tha mà đau đớn nơi nàng. Tất cả những lý do ấy khiến Vân khó lòng chối từ lời trao duyên, Vẫn sẽ hiểu càng thêm hiểu, càng quý và thương chị nhiều hơn.
Chỉ với 12 câu thơ thôi mà quá đó ta thấy được ở Kiều một trái tim thiết tha, chung thủy với tình yêu, một tấm lòng hiếu thảo với những đấng sinh thành cao quý. Sâu thẳm trong tâm hồn ấy là nỗi đau, nỗi day dứt và đắng cay khôn nguôi khi cuộc tình thanh xuân không trọn vẹn nơi Kiều. Đoạn trích “Trao duyên” chính là một nốt nhạc đau thương của bản tình ca đẹp mà buồn thương Kim- Kiều khiến ai đã từng lật những trang sách viết về cuộc đời nàng cũng phải ngậm ngùi thổn thức cho một bi kịch tình yêu đầy ngang trái.
Không chỉ có phân tích đoạn 1 Trao duyên, gợi ý cho bạn 🌼 Phân Tích Trao Duyên 18 Câu Đầu 🌼 10 Bài Cảm Nhận Hay
Phân Tích Khổ Đầu Trao Duyên Chi Tiết – Mẫu 7
Bài văn phân tích khổ đầu Trao duyên chi tiết dưới đây sẽ giúp các em học sinh củng cố lại nội dung kiến thức xoay quanh tác phẩm.
Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc, tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, quê làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh ra trong một gia đình phong kiến quý tộc và sống trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động. Nguyễn Du đã từng chứng kiến những bất công ngang trái của cuộc đời đặc biệt là người phụ nữ tài hoa bạc mệnh. Sau khi đi sứ sang Trung Quốc, Nguyễn Du đã sáng tác nên kiệt tác ”Truyện Kiều”.
“Trao duyên” là một đoạn trích thể hiện bi kịch tan vỡ, dang dở tình yêu Thúy Kiều và Kim Trọng, nỗi đau tột cùng của Kiều về số phận bi thương của đời mình. Đồng thời, đoạn trích cũng đã thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Du trước số phận bất hạnh của, khát vọng hạnh phúc của con người trong đó tiêu biểu nhất là đoạn thơ:
“Cậy em em có chịu lời
…
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”
Sau khi thu xếp xong việc bán mình để cứu cha và em ”Tờ hoa đã kí, cân vàng mới trao”. Ngày mai nàng sẽ phải theo Mã Giám Sinh ra đi. Đêm ấy, Kiều bồi hồi thương cho chàng Kim, tìm cách trả nợ tình cho chàng. “Đèn thắp sáng đêm nước mắt đầm đìa / Dầu chong trắng đĩa, lệ tràn thấm khăn”, nhân lúc Thúy Vân thức dậy hỏi han bây giờ Kiều mới nhờ em thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng.
Đoạn trích có vai trò quan trọng như một bản lề khép mở hai phần đời đối lập của Kiều là hạnh phúc và đau khổ. Không chỉ thương chị Thúy Vân còn rất hiểu lòng chị, có lẽ vì vậy mà chuyện tình duyên vốn dĩ rất khó trao, khó nhận nhưng đã được Thúy Kiều thuyết phục một cách rất thấu tình đạt lí để mở đầu cho cuộc trao duyên đầy đau đớn.
Lời mở đầu của Kiều hết sức thông minh và sắc sảo:
“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”
Trong tình thế: ”Hở môi ra cũng thẹn thùng/ Để lòng thì phụ tấm lòng với ai” nên mở đầu cuộc trao duyên Kiều phải lựa chọn một cách nói, một cách xưng hô đặc biệt. Bởi vậy Kiều không nói nhờ em mà lại nói “cậy em”. Bởi vì chữ “cậy” bao hàm cả niềm hi vọng thiết tha của một lời trông cậy có ý nghĩa, nương tựa tin tưởng mối quan hệ ruột thịt gửi gắm nỗi khẩn khoản thiết tha.
Kiều nói “em có chịu lời” chứ không nói “em có nhận lời” ngoài lí do từ “chịu lời” mang sắc thái bắt buộc, Kiều muốn em không được từ chối lời đề nghị của mình mà còn bởi vì Kiều cảm thấy đây là một sự hi sinh lớn lao của em, vì em phải kết duyên với người yêu của chị. Cách nói như thế phù hợp với tâm trạng, hoàn cảnh van nại khẩn thiết của Kiều, tư thế “lạy, thưa” là tư thế của một người chịu ơn với ân nhân của mình, bởi Thúy Vân phải thay Thúy Kiều hi sinh tình duyên của mình mà giúp chị nối duyên chàng Kim, việc làm đó mang ơn em rất lớn.
Kiều đã tạo một bầu không khí trang nghiêm, trịnh trọng vừa tình vừa lễ buộc Thúy Vân không thể không nhận lời. Với cách dùng từ khéo léo và sắc thái chỉ qua hai câu đầu, Nguyễn Du đã mở đầu cuộc trao duyên đầy hồi hộp, trang trọng đồng thời thể hiện được hoàn cảnh éo le, tâm trạng khẩn thiết bế tắc của Kiều.
Sáu câu tiếp theo Kiều kể lại vắn tắt mối tình của nàng với Kim Trọng:
Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai
Đoạn thơ ngắn gọn hướng vào những chuyện riêng tư tình yêu dở dang, tan vỡ được thông tin ngắn gọn trong một thành ngữ nặng nề, chắc nịch. Có thể nói mối tình của Kiều và Kim Trọng đang đến độ say đắm nhất, nồng nàn nhất thì cơn gia biến ập đến với Kiều, vì thế Kiều đành phải phó thác cho em, vì Kiều cũng rất thấu hiểu cảm giác thiệt thòi của em: “Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”.
Kiều phó mặc cho em dang dở hay không em cũng phải gánh vác, chắp mối cho chị. Có thể nói lời Kiều mang giọng điệu sắc thái dứt khoát, nghiêm trang và mang nhiều sức nặng nhưng cũng rất nghẹn ngào đau xót:
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai
Có thể nói sự trùng điệp của ba từ: “khi gặp – khi ngày – khi đêm” đã nói đến sự thề ước sâu nặng không thể nuốt lời, càng khẳng định tâm trạng bế tắc của Kiều. Mối tình Kim – Kiều đang mặn nồng cơn gia biến ập đến Kiều buộc phải hi sinh chữ tình vì “chữ hiếu”, thậm chí hi sinh cả tấm thân trong trắng ngọc ngà của mình để cứu cả gia đình. Kiều đã nói ra cái cái lí của mình và hi vọng em sẽ thấu hiểu tâm trạng bi kịch của mình.
Tám câu thơ đầu ngoài lời trao duyên, Kiều chủ yếu nói về nỗi bất hạnh của mình nhưng để trao duyên Kiều phải chọn những lời lẽ thuyết phục. Bốn câu tiếp theo Kiều thuyết phục em bằng cả lí lẫn tình:
Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây
Từ ” ngày xuân” mang tính ước lệ có ý chỉ tuổi trẻ của người con gái, Kiều muốn nói tuổi trẻ của em còn dài, và vì “tình máu mủ” giữa chị và em mà thay lời nước non giúp chị. Kiều kêu gọi tình chị em máu mủ ruột thịt thiêng liêng, khơi dậy ở Vân đức hi sinh và lòng vị tha vì người thân. Nếu được mãn nguyện thì dẫu Kiều chết đi dưới chín suối cũng hả dạ vì có được tiếng thơm là người có tình có nghĩa.
Có thể nói đoạn thơ sử dụng khá nhiều thành ngữ, lời lẽ, ý vị kín đáo, vẹn tình. Người nhận có ba lí do không thể khước từ, trước hết Kiều và Vân không cách nhau về tuổi tác, thứ hai lại càng thuyết phục hơn Kiều đang nhờ Vân một điều mà chẳng ai nhờ vả bao giờ. Đã khó nhờ, khó nhận thì chỉ có tình cảm chị em máu mủ mới dễ dàng đồng cảm chấp nhận cho nhau.
Lý do thứ ba nghe như một lời khẩn cầu đầy chua xót:
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây
Đó không hẳn là lí do nhưng lại hoàn toàn hợp lí, nó như một lời trăn trối và không ai có thể nhẫn tâm từ chối lí do của một người thân sắp rơi vào hoàn cảnh khôn lường, bất trắc. Người ta nói Nguyễn Du hiểu đời là ở những chỗ như vậy.
Đoạn trích đã bộc lộ nỗi đau tình yêu và số phận bi kịch của nàng Kiều, qua nghệ thuật miêu tả nội tâm tài tình của Nguyễn Du, nỗi đau và cả vẻ đẹp tâm hồn của Kiều, một người con gái tài sắc hiếu nghĩa vẹn toàn đã được thể hiện một cách tinh tế và tỏa sáng lấp lánh.
Ngoài bài phân tích đoạn 1 Trao duyên, đón đọc 🌳 Phân Tích Tâm Trạng Thúy Kiều Trong Đoạn Trích Trao Duyên 🌳 Văn Mẫu Hay
Phân Tích Đoạn Đầu Của Trao Duyên Đầy Đủ – Mẫu 8
Tham khảo bài văn phân tích đoạn đầu của Trao duyên đầy đủ dưới đây với những phân tích chi tiết nhất.
Nhắc đến đại thi hào dân tộc Nguyễn Du chúng ta không thể không nhắc đến tác phẩm “Truyện Kiều”. Đây là tác phẩm mà Nguyễn Du đã thể hiện được niềm cảm thông, thương xót với số phận “hồng nhan bạc mệnh”. Cuộc đời của Thúy Kiều gặp nhiều sóng gió, trắc trở. Mười hai câu thơ đầu của đoạn trích “Trao duyên” là sự mở đầu cho những tai ương mà nàng gặp phải.
Để có tiền chuộc cha và em, Thúy Kiều đã quyết định bán mình cho Mã Giám Sinh. Quyết định ấy khiến nàng vô cùng đau đớn khi mối tình với Kim Trọng bị dang dở. Để không phụ lòng người mình yêu, nàng đã trao duyên lại cho người em gái Thúy Vân để cô thay mình nối duyên với chàng Kim:
“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”
Ngay từ câu thơ mở đầu, người đọc đã cảm nhận được sự trang trọng trong lời nói và hành động của Thúy Kiều. Phải chăng việc trao duyên là việc hệ trọng, khó nói nên cách thức trao duyên cũng trịnh trọng và khác lạ hơn bởi thông thường người ta chỉ trao những đồ vật chứ không có ai lại trao đi một thứ khó xác định, khó nắm bắt như trao duyên.
Tuy là chị nhưng Thúy Kiều đã dùng những lời lẽ, hành động rất trang trọng đối với Thúy Vân. Nàng không sử dụng từ “nhờ” mà lại dùng từ “cậy”. “Cậy” không chỉ mang nghĩa nhờ vả mà còn mang sắc thái như nài nỉ, ép buộc đồng thời cũng thể hiện sự tin tưởng vào người được nhờ cậy. Song song với lời nói là hành động “lạy”, “thưa” của Thúy Kiều. Việc nhờ cậy phải hệ trọng, khẩn thiết lắm thì Thúy Kiều mới có hành động như vậy.
Thông thường chỉ những người có vai vế thấp hơn người cùng giao tiếp mới có những hành động “lạy”, “thưa” nhưng trong trường hợp này, Kiều đã hạ mình xuống để cầu mong em gái chấp nhận lời thỉnh cầu của nàng bởi lẽ nàng là người mang ơn. Đặt mình trong hoàn cảnh của Thúy Vân thì cô chỉ có thể “chịu lời” chứ không thể từ chối.
Nếu Thúy Vân dùng từ “nhận lời” thì Thúy Vân có thể khước từ lời nhờ cậy, cô có thể giúp hoặc không giúp nhưng Thúy Kiều muốn em đồng ý giúp mình nên nàng đã đặt Vân vào hoàn cảnh mà cô chỉ có thể “chịu lời”. Với lời nói và lễ nghi như vậy, làm sao Thúy Vân có thể từ chối giúp đỡ.
Để em gái hiểu rõ hơn nguyên nhân dẫn đến sự nhờ cậy này, Thúy Kiều đã thuật lại câu chuyện của mình với Kim Trọng:
“Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề”
Có lẽ tình yêu ấy sẽ đơm hoa kết trái nếu không bị đứt gánh giữa đường. Có lẽ tình yêu ấy sẽ có một kết thúc tốt đẹp nếu gia đình Kiều không gặp phải gia biến, Kiều không phải trải qua mười lăm năm lưu lạc. Hình ảnh ẩn dụ “gánh tương tư” chỉ mối tình của Thúy Kiều – Kim Trọng. Tình yêu vừa chớm nở chưa được bao lâu thì đã phải chịu sự lỡ dở.
Có ai không đau xót cho sự dở dang của mối tình kim cổ đó. Tình duyên của bản thân không thành, đó có thể là “mối duyên thừa” đối với Thúy Vân nhưng Thúy Kiều vẫn “mặc em” chắp nối. “Mặc em” nhưng thực chất là nài nỉ, khẩn cầu em giúp đỡ. Biết rằng em gái sẽ khó xử nhưng nàng vẫn phó thác cho em, mong muốn em dùng keo loan để nối mối tơ duyên.
Nàng chia sẻ câu chuyện tình yêu của mình với Thúy Vân để cô có thể hiểu hơn về hoàn cảnh khó xử mà Thúy Kiều đang gặp phải. Kể từ khi gặp Kim Trọng, hai người đã nảy sinh tình cảm. Họ đã cùng nhau thề nguyền, đính ước. Các từ ngữ chỉ thời gian như “ngày’, “đêm” cùng sự lặp lại ba lần của từ “khi”: “khi gặp”, “khi ngày”, “khi đêm” đã cho thấy đó là một mối tình gắn bó sâu đậm. Chắc hẳn bạn đọc không quên đêm thề nguyền của Thúy Kiều và Kim Trọng:
“Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai miệng một lời song song”
Tình cảm dành cho nhau phải vô cùng sâu sắc thì họ mới cùng nhau thề nguyền. Nhắc đến hình ảnh “quạt ước”, “chén thề” có lẽ Thúy Kiều đã không kìm được nỗi xót xa, tiếc nuối. Vầng trăng là chứng nhân cho lễ thề nguyền ấy vậy mà giờ đây nàng lại chính là người phụ tấm chân tình của chàng Kim. Đâu phải Thúy Kiều muốn như vậy.
Đâu phải Thúy Kiều là con người bạc tình bạc nghĩa. Tai họa, sóng gió bỗng xảy đến bất ngờ, gia đình nàng bị thằng bán tơ vu oan, cha và em trai bị bắt. Để cứu cha và em thoát khỏi những đòn tra tấn tàn nhẫn của bọn sai nha, nàng đã quyết định bán mình cho Mã Giám Sinh. Đọc đến dòng thơ này chúng ta mới có thể hiểu được nỗi khó xử của người con gái tài sắc ấy:
“Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”.
Là người con cả trong gia đình, đứng giữa chữ “hiếu” và chữ “tình”, Thúy Kiều đã lựa chọn chữ “hiếu” để làm tròn bổn phận của một người con. Cha mẹ đã có công sinh thành, dưỡng dục chẳng lẽ bây giờ khi gia đình gặp sóng gió nàng lại chạy theo tiếng gọi của tình yêu để bỏ mặc gia đình? Là một người con hiếu thảo, nàng không thể làm như vậy. Công ơn của cha mẹ phận làm con dùng cả cuộc đời để báo đáp cũng không thể trả hết. Thúy Kiều tự nhận thấy tấm thân của mình không đáng giá bằng công ơn của cha mẹ:
“Vẻ chi một tấm hồng nhan
Tóc tơ chưa chút đền ơn sinh thành”
Sau khi giãi bày, tâm sự với Thúy Vân về mối tình với chàng Kim cũng là lúc nàng đưa ra những lời lẽ thuyết phục:
“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non”
Đối với Thúy Vân, những năm tháng tuổi trẻ của nàng vẫn còn dài rộng nhưng đối với Thúy Kiều thì những ngày xuân ngắn ngủi đã chấm dứt. Vì thế mà nàng lấy thời gian, “ngày xuân” ra để em thay mình giữ trọn lời thề non hẹn biển với chàng Kim. Để tăng thêm tính thuyết phục, Thúy Kiều còn nhắc đến tình máu mủ của chị em ruột thịt khiến Vân không thể từ chối lời khẩn cầu. Chỉ cần Thúy Vân nối duyên với Kim Trọng thì dù cho Thúy Kiều ở nơi “chín suối” cũng mỉm cười vui vẻ:
“Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”
Hai thành ngữ quen thuộc của dân gian “thịt nát xương mòn”, “ngậm cười chín suối” được tác giả sử dụng linh hoạt và tài tình. Đó đều là các thành ngữ chỉ cái chết, chỉ cõi âm phủ tăm tối. Với Thúy Kiều, mạng sống của mình không quan trọng bằng việc trả nghĩa cho chàng Kim.
Chỉ cần Thúy Vân “chịu lời” thì dù có ở cõi chết nàng cũng cảm thấy mãn nguyện. Dù không còn sống trên thế gian này nữa thì ơn nghĩa của Thúy Vân nàng sẽ không bao giờ lãng quên. Không chỉ là người con gái hiếu thảo với cha mẹ, Thúy Kiều còn là một người sống có tình có nghĩa, biết hi sinh vì người khác.
Với thể thơ lục bát nhịp nhàng, uyển chuyển trong từng câu chữ cùng các thành ngữ, hình ảnh ẩn dụ, Nguyễn Du đã thể hiện thành công tâm trạng của Thúy Kiều khi phải trao lại mối duyên tình cho em gái ở mười hai câu thơ đầu tiên. Bằng giọng thơ xót xa đầy đau đớn, tác giả đã khơi gợi được lòng cảm thương, đồng cảm của bạn đọc bao thế hệ dành cho người con gái “hồng nhan bạc phận”.
Có thể nói mười hai câu thơ đầu của đoạn trích “Trao duyên” đã khắc họa những tâm trạng dằn vặt, những giằng xé trong nội tâm nhân vật Thúy Kiều. Qua đó cũng thể hiện tiếng nói nhân đạo của nhà thơ khi lên tiếng tố cáo chế độ xã hội vì đồng tiền nên đã đẩy người phụ nữ rơi vào những bi kịch.
Vì “sóng gió bất kì” mà Thúy Kiều phải “thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”. Cũng vì sóng gió bất kì” mà nàng phải trải qua mười lăm năm lưu lạc. Đoạn thơ trên đã góp một phần không nhỏ vào sự thành công của đoạn trích “Trao duyên” nói riêng và tác phẩm “Truyện Kiều” nói chung, đồng thời nó cũng tạo nên những dư âm khó phai mờ trong lòng bạn đọc.
Mời bạn xem nhiều hơn 🌟 Mở Bài Trao Duyên 🌟 20 Đoạn Văn Mẫu Ngắn Hay Nhất
Bài Văn Phân Tích Trao Duyên Đoạn 1 Chọn Lọc – Mẫu 9
Dưới đây chia sẻ bài văn phân tích Trao duyên đoạn 1 chọn lọc để các em học sinh cùng tham khảo.
Cả cuộc đời trải qua biết bao thăng trầm sóng gió, Nguyễn Du đã đúc kết kinh nghiệm quý báu làm nên tiếng vang lớn cho hậu thế qua tác phẩm “Đoạn trường tân thanh” hay còn gọi là Truyện Kiều. Dưới ngòi bút tài hoa, một xã hội thê lương tàn bạo bị chi phối bởi đồng tiền, đẩy con người đến tận cùng đau khổ được lột tả khéo léo thông qua thân phận người phụ nữ đó là nàng Thúy Kiều.
“Trao duyên”, tuy chỉ là đoạn trích ngắn nhưng đã phản ánh những bất hạnh chân thực nhất trong cuộc đời của Thúy Kiều. Đây là đoạn trích vô cùng ấn tượng và đặc sắc trong toàn bộ tác phẩm của Nguyễn Du.
Thúy Kiều với Kim Trọng, một mối tình giữa quân tử và giai nhân tưởng đẹp đẽ nhưng cũng chỉ là hoa trong gương, trăng dưới nước. Gia biến ập đến, nàng Kiều phải buộc lòng từ bỏ đoạn duyên thề hẹn chưa kịp “phỉ nguyền” với Kim Trọng để đi lấy Mã Giám Sinh.
Người đâu gặp gỡ làm chi
Trăm năm biết có duyên gì hay không?
Vì đạo hiếu, Kiều bán mình chuộc cha thế nhưng nghĩ đến người mình yêu lại không đành lòng để chàng đau đáu ngóng trông, lại đành lòng trao duyên cho Thúy Vân. Đó là nỗi đau thương cắt từng khúc ruột, nỗi đau âm ỉ chua xót trải dọc suốt 12 câu đầu của đoạn trích “Trao duyên”. Mở đầu đoạn, khung cảnh trở nên não nề và trầm lắng khi Thúy Kiều mở lời cậy nhờ Thúy Vân:
Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Thúy Kiều, trên cương vị một người chị sao có thể cậy nhờ, lạy thưa với em? Xã hội thời xưa rất coi trọng tôn ti nhưng Nguyễn Du lại để Thúy Kiều sử dụng kính ngữ với Thúy Vân, đó là dụng ý vô cùng tài hoa của tác giả. Nguyễn Du sử dụng từ “Cậy” gửi gắm trong đó là sự tin tưởng, trân trọng và cả lòng biết ơn của Thúy Kiều đối với em gái khi gửi gắm lại mối duyên dang dở với Kim Trọng.
“Cậy em em có chịu lời”, câu thơ vừa mang ý khẩn thiết cầu xin, nhờ vả trịnh trọng nhưng lại đặt Thúy Vân ở thế khó xử trước thỉnh cầu của người chị, đó như là sự gượng ép, càng khẳng định mối tình thâm của Thúy Kiều với Kim Trọng, không muốn vì chuyện của mình mà phụ lòng chàng Kim.
Thúy Kiều hạ thấp vai vế của mình, đứng trên vị trí của người đi nhờ cậy “Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”. “Lạy” là hành động tôn kính, ghi ân thường chỉ có cha mẹ, thầy giáo mới có thể nhận, nhưng Kiều lạy em gái mình, đó là cái lạy đối với ân nhân. “Lạy rồi thưa”, ngôn ngữ sử dụng vô cùng trang trọng, như cái lễ ràng buộc khiến Vân không thể chối từ.
Sau khi sử dụng hàng loạt các hành động, ngôn ngữ trang trọng như vậy, Thúy Kiều mới giãi bày câu chuyện của mình với Thúy Vân, mong rằng em có thể thay chị yêu thương, chăm sóc, chắp tiếp đoạn duyên với Kim Trọng:
Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
Duyên tình đến nửa chừng đứt đoạn, thành ngữ “đứt gánh tương tư” như một lời than cay đắng tưởng niệm mối tình không trọn. Sóng gió đã cướp đi hạnh phúc đáng lẽ thuộc về Kiều, để nàng chơ vơ giữa đoạn đường còn tình cảm, còn nhung nhớ ngập ngụa những khổ đau thống thiết khi phải xa lìa yêu thương.
Chữ “tương tư” như tiếng sóng ngầm khắc khoải, day dứt mang theo cả tuyệt vọng. Tác giả còn sử dụng điển tích “keo loan” để mong muốn duyên sau với Thúy Vân sẽ bền chặt, mong rằng Thúy Vân sẽ bằng lòng nhận lấy đoạn duyên này. Thúy Kiều biết, đó là “mối tơ thừa”, là chuyện tình dang dở của mình nên em gái sẽ có phần thiệt thòi nên mới thốt lên từ “mặc”, ý rằng để Vân được tự mình định đoạt.
Gửi duyên cho Vân thế mà nỗi nhớ mong về ngày xưa năm cũ cứ thế mà trỗi dậy trong lòng Kiều, ký ức như một bộ phim tua lại, rõ ràng tràn đầy nhung nhớ giữa bể khổ trần ai:
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề
Từ “khi” điệp lại đến ba lần, mở ra từng mốc thời gian Thúy Kiều gặp được Kim Trọng, tất cả những kỷ niệm, vui mừng, đính ước, thề hẹn đều rõ ràng đến vậy. “Ngày quạt ước”, “đêm chén thề”, ngày và đêm, không gian và thời gian cứ như tuần hoàn liên tục, đó là khi họ bầu bạn đối thơ, ngắm trăng, uống rượu, trao nhau vật đính ước…
Có bao giờ Kiều quên được điều đó, nỗi nhớ ấy như con dao khứa sâu, chỉ có thể lần cuối nhớ lại trong ký ức đẹp nhất, khi Kiều vẫn còn chưa thuộc về Mã Giám Sinh. Chắc gì về sau còn được cảm thấy hạnh phúc khi nhớ lại, có khi nó còn trở thành niềm day dứt, khổ sở và bi thương của nàng Kiều.
Tiếp đó, Nguyễn Du khéo léo để Kiều nhắc lại “cơ sự cho nên nỗi này” để mối tình đẹp như hoa mộng của Kiều phải chia xa:
Sự đâu sóng gió bất kỳ
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai
“Sóng gió” ấy là phong ba ập lên đầu gia đình Kiều, cha và em bị bắt còn Kim Trọng phải về quê chịu tang, hai ngả hai nơi, một bên là hiếu, một bên là tình, thật vô cùng khó xử. Bán mình chuộc cha, phụ tình cảm thủy chung bấy lâu nay mà người thương hết lòng dành cho nàng. Vì tình phụ hiếu, sau này sao có thể ngửa mặt nhìn đời, đối diện với cha mẹ trong nhà, với dòng họ, tổ tiên. Làm thế nào, cũng khó có thể vẹn toàn.
“Hai bề vẹn hai” đó là điều khó khăn nhất trong sự nguy ngập với tính mạng của cha và em. Đó mãi là câu hỏi đau đớn xoáy sâu vào lòng Kiều, nàng biết, không có cách nào vẹn cả đôi đường. Nỗi đau ấy đang ngày đêm làm Kiều khổ sở, Kiều như phơi bày ruột gan, bộc bạch tất cả nỗi niềm mong rằng Thúy Vân có thể hiểu lòng chị mà giúp cho tình duyên này không đến mức phải phụ lòng.
Hơn thế, Thúy Kiều còn dùng lý lẽ thích đáng để thuyết phục Vân có thể nhận lời:
Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Phải, Thúy Vân còn trẻ, năm tháng dài rộng, cho dù tình cảm với Kim Trọng khuyết thiếu có thể bù đắp còn hơn người chị đã rời xa. Từ “xót” cùng với cụm từ “tình máu mủ” như chạm vào tình cảm huyết thống mà Thúy Vân có với Thúy Kiều, của chị cũng là của em, chúng ta là máu mủ ruột thịt hãy thương lấy nhau. Mong rằng Thúy Vân niệm tình máu mủ yêu thương lo toan bao nhiêu năm mà thay chị gánh vác lời thề “nước non” với Kim Trọng. Lý do Kiều đưa ra vừa hợp lý vừa hợp tình.
Không những vậy, nỗi lo sợ về cái chết không còn có cơ hội trở lại càng trở thành lý do thuyết phục hơn với Thúy Vân:
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.
Việc trả nghĩa trả tình cho Kim Trọng quan trọng hơn cả tính mạng của Kiều. Khi chết, con người trở về với cát bụi, không còn liên quan đến thế gian này nữa nhưng tâm nguyện của họ vẫn còn vang vọng đâu đây.
Tâm nguyện của Kiều là mong mỏi em mình nối duyên với chàng Kim, chỉ có vậy nàng mới có thể “ngậm cười chín suối”. Câu thơ như là lời trăn trối của Kiều sợ rằng sau này không thể gặp lại được Kim Trọng. Cũng vì lấy cái chết, lấy tâm nguyện của một kẻ sắp chết nên lời thỉnh cầu càng thêm nặng khiến cho Thúy Vân không thể khước từ.
Tuy rằng lấy tên là “Trao duyên” nhưng đó lại là cái duyên ép uổng mà Thúy Kiều để lại cho em mình, đó là nỗi đau bất đắc dĩ vì chọn đạo hiếu cao hơn tình yêu mà Kiều phải chấp nhận. Xuyên suốt đoạn trích là sự oan ức, thống khổ, không nỡ chia lìa của Thúy Kiều. Cho dù để lại đoạn duyên chắp nối cho em, âu cũng là điều không đành lòng.
Bằng nghệ thuật độc đáo, ngôn từ bậc thầy, giọng thơ đi sâu vào lòng người, Nguyễn Du đã lột tả trọn vẹn nỗi đau và câu chuyện của Thúy Kiều khi gửi gắm mối duyên với Kim Trọng trong 12 câu thơ đầu đoạn trích “Trao duyên” (Đoạn trường tân thanh). Đó còn là tiếng kêu than về một xã hội thối nát, làm cuộc sống của người dân vô tội điêu đứng đồng thời là sự bất bình, lòng thương cảm cho thân phận của người phụ nữ đương thời mỏng manh như bèo nước, chịu nhiều oan trái khổ đau.
Giới thiệu cùng bạn 🍀 Kết Bài Trao Duyên 🍀 20 Đoạn Văn Mẫu Ngắn Hay Nhất
Phân Tích Trao Duyên Đoạn 1 Luyện Viết – Mẫu 10
Tham khảo và vận dụng gợi ý phân tích Trao duyên đoạn 1 luyện viết dưới đây sẽ giúp các em học sinh hoàn thành tốt bài viết.
Nhắc đến văn học trung đại Việt Nam, người ta sẽ nhớ ngay đến “Truyện Kiều” của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. 3254 câu thơ với nhiều đoạn trích khác nhau, mỗi đoạn trích lại gửi gắm những giá trị vô cùng sâu sắc. “Trao duyên” là một trong những đoạn trích tiêu biểu của “Truyện Kiều”, tái hiện bi kịch tình yêu dang dở của Thúy Kiều và Kim Trọng. Qua đó gửi gắm giá trị nhân văn sâu sắc và khát khao hạnh phúc của con người. Điều này thể hiện rõ nhất qua 12 câu thơ đầu đoạn trích:
” Cậy em, em có chịu lời,
…
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”
Thúy Kiều và Kim Trọng gặp nhau, đem lòng cảm mến rồi quyết định thề nguyền dưới trăng. Tình yêu của họ là duyên phận tác hợp. Duyên phận vốn dĩ là thứ tốt đẹp trời cho, khó cưỡng cầu, càng không nên ép buộc. Thế nhưng, dòng đời xô đẩy, Kiều quyết định “trao” lại mối duyên này. Đoạn trích mở ra nghịch cảnh đầy trớ trêu, chua xót:
“Cậy em em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.”
Hai câu thơ ngắn gọn mà chất chứa bao đau đớn, dằn vặt. Từ “cậy” được đặt lên đầu câu thơ nhấn mạnh tình cảnh khó xử, ngặt nghèo của Thúy Kiều. “Cậy” mang ý nghĩa gần giống như “nhờ”, là hành động mong muốn được giúp đỡ. Nhưng “cậy” lại sâu sắc hơn, thể hiện niềm tin tưởng vào người được nhờ. Tương tự “chịu” giống như “nhận” là đồng ý, nhưng “chịu” mang thái độ tình cảm khẩn thiết, gần như là van nài, đặt người được nhờ vào tình thế khó lòng từ chối. Ngôn ngữ Kiều dùng trong lời nói hết sức khéo léo, chân thành.
Không những vậy, lời nói ấy còn đi cùng với hành động “lạy”, “thưa”. “lạy” “thưa” vốn là hành động kính trọng của người bề dưới với bề trên. Kiều là chị, Vân là em, nhưng thời điểm này Kiều lại làm như vậy. Những việc làm tưởng như nghịch lý khó hiểu lại mang ý nghĩa vô cùng sâu sắc.
Nàng không muốn phụ Kim Trọng, nhưng cũng hiểu được nhờ em trả nghĩa thay mình, nối tiếp mối duyên này là bất công và thiệt thòi cho em. Vì thế, Kiều cúi mình trước Vân. Vào lúc này, Kiều đứng ở vị thế của người chịu ơn với người giúp đỡ mình mà không phải vị thế người chị với em gái. Điều này thể hiện sự thấu tình đạt lý khéo léo của nàng.
Trao duyên với Kiều không phải việc gì quá dễ dàng. Nàng mở lời cậy nhờ em rồi thật lòng tâm sự, giãi bày, mong muốn Thúy Vân thấu hiểu, thông cảm và nhận lời:
“Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề.”
Trong nỗi đau xót, bao kỉ niệm tình yêu tươi đẹp ùa về. Nhưng hiện thực trêu người, thành ngữ “đứt gánh tương tư” nhấn mạnh nỗi đau tình yêu dang dở. Mối tình tốt đẹp với chàng Kim chưa kịp viên mãn đã bị sóng gió ập đến ngăn trở. Kiều đau khổ nhưng phải dằn lòng lại, trao gửi cho Vân. Nàng dùng điển tích “keo loan” thể hiện ý định muốn Thúy Vân kết duyên với Kim Trọng. Đồng thời nàng cũng bày tỏ sự áy náy, day dứt khi đem tơ duyên của mình trở thành “tơ thừa” mặc em chắp nối.
Từ “khi” được lặp lại 3 lần gợi nhắc khoảng thời gian tươi đẹp, nhấn mạnh mối duyên tình sâu đậm với chàng Kim. Từ đó khắc sâu nỗi đau khổ, xót xa trong tâm trạng của Kiều khi nói ra những lời này. Nàng đau đớn bởi tình yêu tan vỡ, đồng thời cũng xót xa cho thân phận trớ trêu của chính mình.
“Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”
Quá khứ tươi đẹp quý giá nhưng hiện tại vô vàn khắc nghiệt. Lời thề nguyền dưới trăng vẫn còn đó nhưng tai họa ập đến, Kiều buộc phải bán mình chuộc cha và em. Giữa chữ tình và chữ hiếu, Kiều buộc phải đưa ra quyết định. Tình yêu đẹp đẽ vừa chớm nở, chưa kịp thành hình đã bị tan vỡ, trái tim nàng đau đớn vô cùng. Nàng hết lòng thuyết phục Vân, mong em hiểu và chấp nhận lời thỉnh cầu ngang trái:
“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”
Thúy Kiều đã khéo léo đưa ra ba lý lẽ. Trước hết là Vân còn trẻ, tuổi xuân còn dài. Thứ hai là tình chị em máu mủ ruột thịt. Cuối cùng là cái chết của bản thân. Từng lời lẽ đều thể hiện quyết tâm thuyết phục em của Thúy Kiều. Kiều đã chọn chữ hiếu, nhưng tình nghĩa của chàng Kim rất quan trọng.
Kiều kìm nén đau thương, thua thiệt của bản thân. Nàng chấp nhận thịt nát xương mòn, chỉ mong Vân giúp mình nối duyên với Kim Trọng. Sâu trong tâm hồn đang vụn vỡ của Kiều là nỗi đau phụ bạc Kim Trọng và mong muốn bù đắp mãnh liệt cho chàng. Lời thuyết phục Vân của Kiều vô cùng chân thành, cảm động.
Chỉ với 12 câu thơ, Nguyễn Du đã thành công sử dụng thể thơ lục bát cùng những ngôn từ tinh tế. Qua đó khắc họa được bi kịch nghiệt ngã của Thúy Kiều cùng tâm trạng đau đớn, dằn vặt của nàng. Ngòi bút tài hoa cùng tấm lòng nhân đạo của tác giả đã tái hiện đầy xúc động nội tâm nhân vật. Không chỉ bộc lộ sự khéo léo thông minh mà còn ngợi ca tấm lòng thủy chung, hiếu thảo của Thúy Kiều.
12 câu thơ cùng đoạn trích “Trao duyên” từ đó đã góp phần không nhỏ làm nên giá trị đặc sắc của “Truyện Kiều”. Để rồi bao năm tháng trôi đi, “Truyện Kiều” vẫn sống mãi trong lòng người đọc, trở thành niềm tự hào văn học của cả dân tộc Việt Nam.
Tiếp tục tham khảo 🍀 Phân Tích Đoạn 2 Trao Duyên 🍀 10 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Phân Tích Bài Trao Duyên Đoạn 1 Ngắn Hay – Mẫu 11
Văn mẫu phân tích bài Trao duyên đoạn 1 ngắn hay dưới đây sẽ là nội dung tham khảo cần thiết cho các em học sinh trong quá trình làm bài.
Nhà thơ Nguyễn Du là một đại thi hào của nước ta. Ông đã để lại nhiều tác phẩm hay bất hủ vượt qua mọi sự cách trở của thời gian. Trong đó, Truyện Kiều là một tác phẩm vô cùng kiệt xuất của tác giả Nguyễn Du. Trong tác phẩm, đoạn trích Trao duyên là một đoạn trích thể hiện tấn bi kịch trong lòng của nhân vật chính Thúy Kiều khi phải đấu tranh giữa bên hiếu, bên tình. Cuối cùng Thúy Kiều lựa chọn hy sinh thân mình để bảo vệ hạnh phúc cho gia đình chuộc cha và em trai ra khỏi chốn lao tù.
Đoạn trích Trao duyên nói lên sự bi kịch của người phụ nữ khi tình duyên dang dở, nhất là 12 câu thơ đầu trong đoạn trích đã khắc họa thành công sự đau thương trong lòng của Thúy Kiều:
Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.
Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề.
Sự đâu sóng gió bất kì,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.
Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.
Trong 12 câu thơ đầu trong đoạn trích Trao duyên này thể hiện sự đau khổ của Thúy Kiều khi làm chị nhưng lại phải nhờ vả cậy nhờ em mình. Những lời tâm sự rút gan rút ruột của Thúy Kiều cho thấy sự đau khổ của người con gái phải rời xa mối tình tâm đầu ý hợp của mình. Khi tình duyên dang dở Thúy Kiều quyết định từ bỏ tình yêu, từ bỏ Kim Trọng để bán mình chuộc cha.
Thúy Kiều thương cho Kim Trọng sợ chàng sau khi mãn tang chú quay lại tìm nàng thì biết tin nàng bặt vô âm tín sẽ đau buồn lắm. Thúy Kiều là người suy nghĩ sâu sắc nên nàng đã nhờ em gái của mình là Thúy Vân thay nàng chăm sóc an ủi Kim Trọng theo cách “Tình chị duyên em”. Trong câu thơ “Cậy em em có chịu lời – Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa” thể hiện sự thành khẩn của Thúy Kiều khi gửi trao tâm nguyện của mình lại cho cô em gái Thúy Vân. Thể hiện tâm trạng vô cùng đau khổ của cô với việc lựa chọn này.
Trong mỗi câu thơ Thúy Kiều như đứt từng khúc rút để nói lại với em gái của mình. Thúy Kiều đã dùng những từ ngữ vô cùng sâu sắc như “Giữa đường đứt gánh tương tư” thể hiện sự bất lực không còn con đường nào lựa chọn, nên buộc lòng cô phải nhờ cậy tới Thúy Vân.
Dù muốn trao duyên của mình cho em gái nhưng trong lòng Thúy Kiều đè nặng những đau đớn, tương tư trong lòng. Bởi những kỉ niệm yêu thương ngọt ngào vẫn còn khắc cốt ghi tâm trong lòng Thúy Kiều. Kim Trọng là người con trai mà Thúy Kiều thật lòng yêu thương, muốn trao gửi cả cuộc đời mình vào tay người con trai đó, cùng chàng đi tiếp chặng đường tương lai nhưng giờ phải lựa chọn từ bỏ trái tim nàng đau khổ như chết đi sống lại.
Trong 12 câu thơ đầu của đoạn trích Trao duyên thể hiện sự bất lực, bất khả kháng của người con gái Thúy Kiều khi mà sóng gió gia đình bất ngờ ập tới khiến gia đình cô gặp cảnh tai biến không hiểu nguyên do từ đâu. Trước người cha tuổi cao sức yếu và người em trai tình thân như thủ túc, Thúy Kiều là chị cả nàng không thể thấy cha và em mình bị giam cầm mà dửng dưng sống hạnh phúc bên người mình yêu, bỏ mặc sự sống chết của người thân.
Sự lựa chọn của Thúy Kiều cho thấy nàng là người vô cùng sâu sắc, hiếu thuận với cha mẹ, cũng là người có tình, biết lo lắng cho người khác, luôn đặt mình vào hoàn cảnh của người khác để nghĩ cho người đó. Trong khi đó bản thân nàng tương lai như thế nào nàng cũng không rõ, con đường phía trước mù mịt, mịt mờ nhưng nàng cũng cam tâm tình nguyện ra đi vì người thân.
Trong những câu thơ tiếp theo:
“Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề”
Thúy Kiều kể lại những kỉ niệm thời còn hẹn hò giữa nàng và Kim Trọng, mỗi câu thơ đều thể hiện sự tâm đầu ý hợp giữa hai người. Một mối tình trai tài gái sắc vô cùng đẹp đôi, xứng đôi vừa lứa. Nhưng vì sóng gió, tai biến gia đình mà Thúy Kiều buộc lòng phải từ bỏ. Thúy Kiều mong Thúy Vân vì tình cảm chị em máu mủ mà nhận lời nhờ cậy của mình, chăm sóc Kim Trọng thay mình, yêu thương chàng tiếp tục cùng chàng sánh duyên thay cho mình. Điều này cho thấy sự tình nghĩa của Thúy Kiều dành cho Kim Trọng là vô cùng sâu sắc.
Chỉ với 12 câu thơ nhưng tác giả Nguyễn Du đã khắc họa thành công tâm trạng đau đớn của Thúy Kiều khi phải dứt tình ra đi, để giữ trọn chữ hiếu với gia đình, cứu những người thân của mình. Qua đó, nó cũng cho người đọc thấy được bi kịch nghiệt ngã của người con gái tài sắc vẹn toàn như Thúy Kiều nhưng phải chịu đau khổ, trong cuộc sống.
Đón đọc tuyển tập 🌟 Phân Tích 16 Câu Cuối Bài Trao Duyên 🌟 10 Bài Văn Hay
Bài Phân Tích Đoạn 1 Trao Duyên Đơn Giản – Mẫu 12
Tham khảo bài phân tích đoạn 1 Trao duyên đơn giản dưới đây với những ý văn ngắn gọn và luận điểm cơ bản nhất.
Trao duyên nằm ở đầu phần hai: Gia biến và lưu lạc, khép lại những tháng ngày “êm đềm trướng rủ màn che” mở ra mười lăm năm lưu lạc và số phận bất hạnh của nàng Kiều. Trước khi bước vào giai đoạn đầy đau thương ấy, vào đêm cuối cùng trước khi xa nhà, Thúy Kiều đã trao duyên cho em gái là Thúy Vân. Tình cảnh ấy khiến người đọc không thể cầm nước mắt và cảm thương cho số phận nàng.
Mở đầu đoạn trích là lời cậy nhờ của Kiều với Vân:
Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Ngôn ngữ của nàng Kiều sử dụng tỏ ra hết sức tinh tế và chuẩn xác. Chữ “cậy” vốn giống chữ “nhờ” là hành động yêu cầu, mong muốn ai đó làm việc gì đó giúp mình. Nhưng chữ “cậy” lại khác chữ “nhờ” ở sắc thái biểu cảm, “cậy” thể hiện một sự tin tưởng trọn vẹn đến người được nhờ.
Chữ “chịu” giống chữ “nhận” nghĩa là đồng ý, nhưng đồng thời chữ này cũng khác chữ “nhận” ở thái độ tình cảm khẩn thiết, van nài, đặt người được nhờ vào tình thế không thể từ chối. Như vậy với cách sử dụng ngôn ngữ khéo léo, Thúy Kiều đã bước đầu đặt em vào tình thế phải nhận lời.
Không chỉ ngôn ngữ mà cử chỉ, hành động cũng hết sức chân thành: lạy, thưa. Hành động “lạy” vốn chỉ hành động kính trọng, biết ơn của kẻ dưới với người bề trên. Nhưng trong hoàn cảnh này người lạy lại là Thúy Kiều – chị, người được lạy là Thúy Vân – em. Có sự đảo ngược vị thế giao tiếp kẻ chịu ơn đang lạy ân nhân của mình.
Kiều đã cúi mình trước em, vì nàng hiểu rằng việc nhờ em thay mình trả nghĩa cho Kim Trong là bất công, là thiệt thòi với em rất nhiều. Hành động “thưa” cũng là một từ chỉ hành động kính trọng của kẻ dưới với người trên. Trong hoàn cảnh này, nó được sử dụng để thể hiện sự trân trọng, biết ơn của Thúy Kiều trước sự hi sinh của Vân. Ngoài ra cũng cần kể đến giọng điệu hết sức tha thiết, chân thành Thúy Kiều dành cho em.
Trao duyên vốn là một vấn đề hết sức tế nhị và khó nói nên Thúy Kiều đã phải suy nghĩ, chọn lọc thật kĩ lưỡng ngôn ngữ, cử chỉ, giọng điệu sao cho phù hợp để mở lời trao duyên. Ngay từ cách mở lời trao duyên người đọc đã có thể cảm nhận được sự thông minh, tinh tế am hiểu tâm lí và luôn nghĩ cho người khác của nàng Kiều.
Sau những lời mở đầu hết sức khôn khéo ấy, Thúy Kiều đã tâm sự với em những điều thật lòng để thuyết phục em nhận lời trao duyên. Trước hết nàng tâm sự với em về mối tình với Kim Trọng: “Kể từ khi gặp chàng Kim/ Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề”. Những kỉ niệm tình yêu thật đẹp đẽ, sâu đậm mà nàng chỉ muốn giữ cho riêng mình, từ “khi” được lặp lại hai lần đã cho thấy rõ mong muốn đó. Nhưng tất cả chỉ còn là quá khứ xa xôi, thực tại thật đau đớn và phũ phàng với nàng:
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai
Hoàn cảnh “giữa đường đứt gánh tương tư” Kiều bị đặt vào tình thế lựa chọn chữ hiếu và chữ tình. Đau đớn và xót xa nhưng một người con có hiếu như nàng nhất định sẽ không chọn chữ Tình mà để cha mẹ phải đau khổ, nàng lựa chọn chữ Hiếu mà trái tim như vụn vỡ khi phải phụ lòng chàng Kim. Tình yêu đẹp đẽ vừa chớm nở đã bị hiện thực phũ phàng, ngang trái làm tan vỡ. Nàng dằn lòng mình, lấy lời lẽ khéo léo để khuyên em và cũng là thuyết phục em:
Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây
Thúy Kiều đã đưa ra ba lí lẽ để thuyết phục em: trước hết em vẫn còn trẻ, tuổi xuân còn dài, thứ hai nàng lấy tình chị em để lay động Thúy Vân, và thứ ba nàng lấy cả chết ra để thuyết phục, dù có chết nàng vẫn “ngậm cười” vì hành động cao đẹp Thúy Vân đã nhận lời với mình.
Với ba lí lẽ hết sức thuyết phục như vậy, đã khiến cho Thúy Vân không thể chối từ lời đề nghị của chị. Mặc dù vô cùng đau đớn khi phải trao duyên của mình cho em nhưng Thúy Kiều không hề quan tâm đến sự thua thiệt của bản thân mình, đến nỗi đau mà mình phải chịu đựng, lúc nào nàng cũng chỉ canh cánh một nỗi đau là đã phụ bạc Kim Trọng và tìm cách bù đắp cho chàng. Lời thuyết phục em của nàng vô cùng chân thành, cảm động.
Để tạo nên thành công cho lời thuyết phục trao duyên, ta cũng không thể không nhắc đến những đóng góp về mặt nghệ thuật. Ngôn ngữ sử dụng tài tình, những chữ dùng đắt giá “lạy” “thưa” “cậy”,… có ý nghĩa quan trọng trong việc thuyết phục Thúy Vân. Lập luận, lí lẽ sắc bén vừa lí trí mà cũng vô cùng tình cảm.
Bằng lớp ngôn từ tinh tế, thông minh Thúy Kiều đã khiến em gái Thúy Vân phải nhận lời trao duyên. Qua đó ta thấy sự thông minh, khéo léo của Thúy Kiều. Đồng thời cũng thấy được tấm lòng thủy chung, người con có hiếu với cha mẹ của nàng Kiều. Đồng thời cũng cho thấy số phận đầy bất hạnh của nàng.
Chia sẻ thêm 🍀 Phân Tích 8 Câu Cuối Bài Trao Duyên 🍀 Mẫu Phân Tích Tác Phẩm Đặc Sắc
Phân Tích Đoạn 1 Bài Trao Duyên Lớp 10 – Mẫu 13
Bài văn phân tích đoạn 1 bài Trao duyên lớp 10 sau đây sẽ mang đến cho các em học sinh những gợi ý hay khi làm bài.
Trao duyên là một đoạn thơ có ý nghĩa đặc biệt trong Truyện Kiều. Nó là một trong những đoạn thơ mở đầu cuộc đời mười năm lưu lạc đầy đau khổ của Thúy Kiều, thể hiện sâu sắc chủ đề bi kịch tình yêu tan vỡ của tác phẩm, đồng thời bộc lộ biệt tài tâm lí của nhân vật Nguyễn Du.
Mở đầu là lời cầu khẩn của Kiều đối với Vân:
Cậy em, em có chịu lời
Lạy lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Chỉ hai câu mà nhà thơ Nguyễn Du đã dựng lên được một không khí, một cảnh ngộ đặc biệt. Lời nói của Kiều đối với Vân không còn là ngôn ngữ thông thường của chị nói với em trong một gia đình nho giáo, nề nếp nữa. Những chữ cậy (Chứ không phải là nhờ), đặc biệt là sự khẩn khoản của em ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa đã tạo nên không khí trang trọng đặc biệt mở đầu cho một tình huống tâm lí hết sức phức tạp.
Bằng những lời lẽ vừa khẩn khoản, vừa thiết tha, Kiều đã tự hạ mình xuống tư thế của người lụy phiền, an lơn, cầu khẩn chính đứa em ruột của mình. Kiều hiểu được gánh nặng Kiều sắp trao em và càng hiểu sâu sắc hơn về tình thế khó sử của Vân.
Cái điều mà Kiều muốn thưa với Vân chính là bi kịch tình yêu tan vỡ của ninh và tha thiết cầu khẩn Vân thay mình nối duyên với Kim Trọng. Lời tâm sự của Kiều không dài dòng nhưng đã nói lên đầy đủ cả sự việc, cả lí lẽ và tình cảm của mình, nhằm cái đích chủ yếu là dọn một con đường cho trái tim liền với trái tim. Kiều đã lay động ở Vân tình cảm chị em máu mủ, ruột thịt:
Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ, thay lời nước non.
Kiều còn viện cả cái chết của mình ra để nói lên sự toại nguyện nếu Vân nhận lời thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng:
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối vẫn còn thơm lây.
Lời thỉnh cầu của Kiều vừa chân thành, vừa thuyết phục, vừa thiết tha, vừa ràng buộc, đưa Vân đến tình thế mặc nhiên phải chấp nhận. Nàng Kiều của Nguyễn Du tỏ ra sắc sảo mặn mà cả trong bi kịch đau đớn nhất của mình.
Song, nàng Kiều trong đoạn Trao duyên cũng như trong suốt truyện Kiều không giản đơn chỉ là một con người hành động vì mục đích nào đó. Nàng Kiều của Nguyễn Du còn luôn sống với những tâm tư, tình cảm thầm kín của mình. Nguyễn Du đã thâm nhập vào thâm cung của nội tâm nhân vật, miêu tả nàng Kiều với tất cả trạng thái tình cảm phong phú, phức tạp như một con người thật ở ngoài đời.
Kiều khẩn thiết nhờ em thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng nhưng cũng không hề giấu giếm nỗi đau không cùng (Giữa đường đứt gánh tương tư) của mình, không che giấu tình cảm sâu nặng của mình đối với chàng Kim (Kể từ khi gặp chàng Kim; Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề). Mượn cả cái chết để nói lên sự thanh thản của mình nếu như Vân nhận lời nối duyên với chàng Kim.
Vậy mà khi trao những kỉ vật cho Vân, Kiều lại thấy mất mát to lớn không gì bù đắp nổi. Tay Kiều thì trao nhưng lòng Kiều còn cố níu kéo giữ lại một chút gì cho mình: Chiếc thoa với bức tờ mây; Duyên này thì giữ vật này của chung. Biết bao giằng xé, đau đớn, chua chát, trong hai chữ của chung đầy phi lí ấy. Khẩn khoản, van nài em nhận lời trao duyên của mình, vậy mà Kiểu lại thấy mình như là kẻ bị mất người coi mình như là người mệnh bạc. Tất cả những tình cảm mâu thuẫn ấy càng làm cho tấm bi kịch tình yêu tan vỡ của Kiều thêm đau đớn.
Giờ những kỉ vật trao cho Vân, Kiều như sống lại với những kỉ niệm cũ. Sự hiện diện của những kỉ vật càng gợi lên sự tương phản giữa hạnh phúc rực rỡ trong quá khứ với sự chia li đau đớn trong hiện tại. Lời hẹn ước thề bồi mới hôm nào, thoắt cái đã thành chuyện của ngày xưa, của quá văng. Sự cảm nhận của thời gian có màu sắc tâm lí ấy đã tô đậm thêm nỗi đau đớn của nàng Kiều khi ý thức sâu sắc được sự cách biệt giữa quá khứ và hiện tại.
Cố níu giữ tình yêu khi trao kỉ vật trong thế giới tồn hiện tại chưa đủ, Kiều còn cố níu một lần nữa trong tương lai ở thế giới bên kia. Song cái thế giới của mai sau… của linh hồn cũng không hơn gì thế giới của hôm nay, của cuộc đời thực. Vẫn là lời của Kiều tâm sự, cầu khẩn với Vân tưởng như những lời từ thế giới bên kia vọng về, mà sao vẫn thấm đầy nước mắt:
Mai sau dù có bao giờ
Đốt là hương ấy, so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân, bồ liễu đền nghi trúc mai
Dạ đài cách mặt khuất lời,
Rảy xin chén nước cho người thác oan.
Dẫu đã sang thế giới bên kia nhưng linh hồn Kiều đã vẫn còn mang nặng lời thề, vẫn còn mong muốn, khao khát qua những làn gió nhẹ hiu hiu trở về gặp lại người yêu, vẫn khát khao nhận được sự đồng cảm của con người nơi trần thế.
Từ lúc tâm sự, giãi bày, thuyết phục Vân nhận lời trao duyên, đến lúc trao kỉ vật, rồi đến khi sống trong thế giới của hồn oan, Kiều càng ngày : Càng đau xót nhưng cũng càng ngày càng quyết liệt, cố níu giữ tình yêu của ninh bằng mọi cách. Thật quả là; Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng. Bản chất thủy chung son sắt với tình yêu đã làm cho nàng Kiều, ngay cả khi đã hóa thân vào hồn oan, cũng tỏ ra rất người, rất trần thế.
Dẫu có quay về với quá khứ, vẫn hướng tới tương lai của thế giới bên kia nhưng nàng Kiều chủ yếu vẫn là con người sống trong thực tại. Nguyễn Du, bằng cảm quan hiện thực của mình, đã không trình bày cảnh trao duyên một cách đơn giản, sự việc này nối tiếp sự việc kia, mà biết dừng lại ở cái bây giờ, cái cá biệt, không lặp lại của thời gian và không gian đã khám phá thế giới nội tâm của nhân vật.
Nàng Kiều cuối cùng lại quay về với chính lòng mình, tột cùng đau đớn khi ý thức sâu sắc bi kịch trong hiện tại của mình. Sự tan vỡ tình yêu là có thật, là không gì cứu vãn nổi. Dồn dập những hình ảnh, những từ ngữ: trâm gãy bình tan, tơ duyên ngắn ngủi, nước chảy hoa trôi, phận bạc như vôi đã nói lên thật thấm thìa, đầy xót thương về nỗi đau của nàng Kiều. Bi kịch của nàng Kiều lại càng sâu sắc khi trước hiện tại, nàng vẫn không thôi khao khát hạnh phúc tình yêu:
Bây giờ trâm gãy bình tan
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân.
Đến đoạn cuối, Kiều như quên hẳn là đang nói với Vân mà như nói với hình mình. Bi kịch tình yêu tan vỡ lên tới tột đỉnh, Kiều thốt lên những tiếng kêu xé lòng:
Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!
Tên chàng Kim vang lên hai lần trong một câu thơ, vừa tha thiết, vừa xiết ao trân trọng. Câu cuối cùng là một lời than, lời tự trách mình. Bước ngoặt im lí này thật bất ngờ nhưng lại rất hợp lí, bị quy định bởi chính logic tính cách của Kiều. Nàng Kiều sống hết mình trong nỗi đau tột cùng của mình, hưng trước sau vẫn là một con người giàu lòng vị tha.
Kiều ân cần, chu đáo với chàng Kim, nhưng vẫn tự cho mình là người đã phụ chàng. Kiều quên nỗi bất hạnh của mình để cảm thông sâu sắc với nỗi bất hạnh của người khác. Kiều thương chàng Kim hơn cả chính bản thân mình, Kiều không đổ lỗi cho hoàn anh mà tự nhận trách nhiệm về mình. Có thể nói, chỉ một chữ phụ thôi mà đã im sáng lên vẻ đẹp nhân cách cao thượng, giàu lòng vị tha của nàng Kiều.
Đoạn Trao duyên, về hình thức, được trình bày như là lời tâm sự, giãi bày của Kiều với Vân, tức là bằng ngôn ngữ đối thoại. Hình thức đối thoại ấy rõ nhất là ở mấy câu thơ đầu, nhưng càng ngày càng mờ nhạt dần. Sự thật, cả cạn thơ chỉ thấy ngôn ngữ của Kiều, không thấy lời đáp lại của Vân. Hình thức đối thoại được dần dần chuyển thành hình thức độc thoại nội tâm.
Ngòi bút bậc thầy tâm lí mà Nguyễn Du đã miêu tả tâm lí Thúy Kiều trong cảnh trao duyên như là một quá trình tự ý thức về bi kịch tình yêu tan vỡ của mình, tự bộc lộ, tự phơi bày tâm sự, tình cảm và khát vọng sâu kín của mình. Và chính vì thế, người đọc như được chứng kiến tận mắt cảnh trao duyên chứ không phải được nghệ thuật lại cảnh này.
Giới thiệu đến bạn 🌟 Phân Tích Độc Tiểu Thanh Ký 🌟 15 Bài Văn Ngắn Hay Nhất
Phân Tích Đoạn 1 Trao Duyên Facebook – Mẫu 14
Chia sẻ bài văn phân tích đoạn 1 Trao duyên Facebook dưới đây giúp các em học sinh có thêm cho mình tư liệu tham khảo phong phú hơn.
Trong cơn gia biến, một mình Kiều đứng ra cáng đáng, thu xếp mọi việc. Băn khoăn cân nhắc giữa hiếu và tình. Kiều thấy cả hai đều rất nặng, nhưng rồi nàng quyết định bán mình chuộc cha. Cha và em được tha về, việc nhà đã tạm ổn, Kiều mới nghĩ đến chuyện tình duyên. Trước hết, nàng nghĩ đến nỗi khổ của người yêu. Phận mình dù thế nào cũng đành, nhưng nàng không đành lòng với tình cảm của chàng Kim. Phải làm thế nào cho người yêu đỡ khổ. Suy nghĩ mãi, cuối cùng Kiều đành nhờ em gái là Thúy Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng.
Đoạn trích Trao duyên thể hiện bi kịch tình yêu, thân phận bất hạnh và nhân cách cao đẹp của Thúy Kiều, đồng thời cho thấy khả năng miêu tả nội tâm nhân vật tài tình của Nguyễn Du. Có thể chia đoạn trích làm hai phần: Phần 1 (từ câu 1 đến câu 12): Thúy Kiều nhờ Thúy Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng. Phần 2 (từ câu 13 đến hết): Tâm trạng đau đớn của Kiều sau khi trao duyên.
Đoạn trích thực ra là một lời thoại khá dài của nhân vật Thúy Kiều và tính chất lời thoại thay đổi theo diễn biến cảm xúc. Ở phần 1, Kiều xưng hô chị, em rõ ràng với Thúy Vân. Đến phần 2, sau khi đã trao duyên, Kiều cảm thấy hạnh phúc của mình đến đây là chấm dứt nên tự xưng mình là người mệnh bạc, người thác oan và Kiều như quên rằng đang nói với em, đột nhiên chuyển sang nói với Kim Trọng đang vắng mặt. Đó là lời đối thoại đau đớn với người yêu trong tâm tưởng.
Trước sự thực phũ phàng là ngày mai nàng sẽ thuộc về tay kẻ khác, Kiều cảm thấy như chính mình đã gây ra nỗi bất hạnh cho Kim Trọng. Nàng thương mình một nhưng thương người yêu mười nên cắn răng chấp nhận số phận đen bạc “phận dầu, dầu vậy cũng dầu” để nghĩ đến nỗi đau của Kim Trọng. Trong đêm gia biến “một mình một ngọn đèn khuya,/ áo đầm giọt lệ, tóc se mái sầu”, Thúy Kiều sống với tâm trạng đầy sóng gió.
Nàng tự trách mình khăng khít khiến người dở dang. Đúng ra là cả hai chủ động yêu nhau và tự nguyện gắn bó với nhau. Kiều có mặc cảm đó là vì nàng luôn nghĩ đến người khác, ngay cả trong lúc đau thương tột bậc. Đắn đo, suy tính trước sau, nàng thấy chỉ có một cách có thể cứu vãn phần nào cho mối lương duyên của mình, đó là trao duyên cho em gái. Nghĩ là làm, Kiều đã trao duyên cho Thúy Vân khi cô em vô tư ấy vừa chợt tỉnh giấc xuân.
Ngỏ chuyện riêng tư với người khác, cho dù là em gái mình thì cũng không phải là điều dễ dàng. Hơn nữa, đây không phải là tình yêu thoáng qua mà đã thề nguyền vàng đá, kết giải đồng tâm. Nó trở thành thiêng liêng, khó có thể đổi thay. Nay nhờ Vân thay thế mình Kiều sợ chưa chắc Vân đã nhận lời.
Kiều lâm vào tình thế khó xử: không nói không được mà nói ra thì e ngại. Bởi thế nên nàng đắn đo trước sau, băn khoăn, ngập ngừng mãi rồi mới thốt ra được một câu khiến người ngoài cuộc nghe cũng phải mủi lòng:
Cậy em, em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Lời gì vậy? Đó là lời nhờ em thay chị nối duyên với chàng Kim. Đề nghị ấy thật bất ngờ, bất ngờ ngay cả đối với Thúy Kiều bởi trước đó nàng chưa hề nghĩ đến. Suốt, một đêm thức trắng, nàng đâu có nghĩ ra điều này mà chỉ đau khổ, dày vò. Nhưng từ lúc Thúy Vân thức giấc và an ủi chị thì Kiều như vụt thấy một làn chớp sáng: “Đây rồi! Cô em gái này có thể giúp mình trả món nợ tình”.
Đề nghị ấy cũng bất ngờ đối với Thúy Vân bởi nó vô cùng quan trọng, ảnh hướng đến cả cuộc đời, nhận lời lấy một người làm chồng đâu có dễ dàng, đơn giản như nhận một món quà? Vậy dựa vào đâu mà Thúy Kiều dám đưa ra ý kiến đột ngột ấy và hầu như một mực ép Thúy Vân phải nhận lời? Chỉ có cơ sở duy nhất là tình thương.
Chị thương em, tin rằng em sẽ nghe lời. Chị cũng biết là em thương chị, không nỡ trái ý chị. Còn em, tuy chẳng hiểu đầu đuôi câu chuyện ra sao nhưng lại thật tình thương chị riêng gánh chịu nỗi oan khổ của cả gia đình, giờ lại đang đau xót vì mối tơ duyên đứt đoạn nên dù chưa kịp nghe hết giãi bày, chắc cũng đã thấu hiểu hết lòng chị.
Nhiều người thắc mắc tại sao Thúy Kiều không dùng từ nhờ mà lại dùng từ cậy? Không dùng từ nhận mà lại dùng từ chịu? Chính vì giữa các từ ấy có một sự khác biệt khá tinh vi. Đặt nhờ vào chỗ cậy, không những âm điệu câu thơ nhẹ đi, không đọng ở chữ thứ nhất của câu thơ nữa mà còn làm giảm đi cái quằn quại khó nói của Kiều, giảm đi cái ý nghĩa nương tựa, gửi gắm của một tấm lòng đang trong cơn tuyệt vọng, ý nghĩa tin tưởng vào tình cảm ruột thịt.
Giữa chịu và nhận thì dường như còn có vấn đề tự nguyện hay không tự nguyện nữa. Nhận lời có nội dung tự nguyện, còn chịu lời thì hình như chỉ có một sự nài ép phải nhận và không nhận không được. Trong tình thế của Thúy Vân lúc bấy giờ thì chỉ có chịu lời chứ làm sao nhận lời được?
Câu thơ sáu chữ giản dị mà chứa đựng tất cả chiều sâu của một tình thế phức tạp, một tâm trạng phức tạp. Điều đó càng làm cho nó có dáng dấp như một lời cầu nguyện. Thúy Kiều năn nỉ Thúy Vân “ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”, vì nàng coi sự chịu lời của Thúy Vân là một hành động hi sinh. Đối với cử chỉ hi sinh ấy thì phải có thái độ kính phục và biết ơn. Thúy Kiều lạy em là lạy sự hi sinh cao cả ấy.
Trong những giây phút đau đớn tột cùng, Thúy Kiều vẫn quên mình để nghĩ đến người yêu. Nỗi buồn của nàng cần phải được san sẻ cho vơi bớt. Sau cái phút ban đầu khó nói, giờ đây nàng bộc bạch với em gái về mối tình đẹp đẽ mà dang dở của mình.
Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.
Tâm sự về nỗi khó nghĩ, khó lựa chọn giữa tình và hiếu:
Sự đâu sóng gió bất kì,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.
Là người con có hiếu, Kiều đã tự nguyện bán mình để lấy ba trăm lạng cứu cha và em khỏi vòng tội tù oan nghiệt. Chữ hiếu nàng đã đáp đền, còn chữ tình vẫn canh cánh bên lòng như một món nợ nặng nề khó tả:
Nợ tình chưa trả cho ai,
Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan.
Ý nghĩa này cho thấy Thúy Kiều đau khổ biết chừng nào và cũng cao cả biết chừng nào? Nàng van lơn em gái hãy “xót tình máu mủ thay lời nước non” mà bằng lòng kết duyên với chàng Kim. Nhắc tới chàng, Thúy Kiều càng sầu, càng tủi cho thân phận mình, tưởng chừng như nỗi đau theo nước mắt tuôn rơi:
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.
Tưởng tượng ra cái chết thê thảm cũng là biểu hiện của sự thương thân cao độ, nhưng Kiều tự an ủi rằng vong hồn mình nơi chín suối hãy còn thơm lây với nghĩa cử của Thúy Vân. Kiều bày tỏ những lời gan ruột như thế, hỏi Thúy Vân sao nỡ chối từ? Ngôn ngữ của Kiều lúc đầu là ngôn ngữ của lí trí. Tuy Kiều rất đa cảm nhưng với chuyện trọng đại của cả một đời người thì nàng không thể dùng tình cảm đơn thuần mà thuyết phục được em. Phải bình tĩnh dùng lí lẽ phân tích thiệt hơn, phải trái để em hiểu mà bằng lòng giúp.
Trước lời nói có lí, có tình tha thiết của Kiều, Thúy Vân chỉ còn biết im lặng lắng nghe và như thế có nghĩa là chấp nhận. Đến đây, Thúy Kiều mới nhẹ lòng. Nàng lấy kỉ vật tình yêu giữa mình và Kim Trọng ra trao cho em gái.
Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này của chung
Nếu như ở đoạn trên, Kiều kể mối tình của mình cho em nghe bằng giọng điệu cố lấy vẻ bình tĩnh thì đến lúc trao lại kỉ vật cho em, nàng cảm thấy mình đã mất hết nên không thể kìm nén được tình cảm thật nữa. Trái tim bắt đầu lên tiếng. Nàng nói “Chiếc vành với bức tờ mây” vẫn bằng giọng điệu cố giữ vẻ bình thản, nhưng đến câu “Duyên này thì giữ, vật này của chung” thì nghe như đã có tiếng nấc nghẹn ngào.
Duyên này là duyên giữa Thúy Vân với Kim Trọng, chứ phần nàng kể như hết. Duyên chị là đã trao lại cho em, nhưng kỉ vật này xin em hãy coi có một phần của chị, nó là của chung. Rõ ràng lí trí buộc nàng phải dứt tình với chàng Kim nhưng tình cảm của nàng thì không thể.
Có điều đặc biệt nằm ở mấy chữ “giữ” và “của chung”. Chữ “giữ” không có nghĩa là trao hẳn mà chỉ đưa cho em giữ hộ; còn chữ của chung thì quá rõ, nó thể hiện tâm lí có tính bản năng là Kiều không đành lòng trao cả lại cho em. Những chữ đó thể hiện tình yêu của Kiều với Kim Trọng là rất nồng nàn, sâu sắc. Tuy nhiên, Kiều vẫn trao duyên cho em, chứng tỏ trong tình yêu và vì tình yêu, Kiều đã đặt hạnh phúc của người mình yêu lên trên hết.
Mối tình đầu trong sáng, ngọt ngào nhường ấy, bỗng chốc bảo quên, quên làm sao được? Xin gửi gắm lại chút tình trong kỉ vật này vậy! Giữa tột đỉnh đau thương, Kiều vẫn cố an ủi. Sau đó, Kiều để mặc cho tình cảm tuôn tràn.
Khám phá thêm 🔥 Sơ Đồ Tư Duy Truyện Kiều Nguyễn Du 🔥 14 Mẫu Vẽ Tóm Tắt
Phân Tích Đoạn 1 2 Trao Duyên – Mẫu 15
Tham khảo bài văn mẫu phân tích đoạn 1 2 Trao duyên dưới đây với những ý văn sinh động và góc nhìn đa chiều về đoạn thơ.
Bằng sự xót thương, đồng cảm cùng tấm lòng nhân đạo sâu sắc, đại thi hào Nguyễn Du đã xây dựng thành công nhân vật Thúy Kiều – hình tượng đại diện cho vẻ đẹp, số phận đau khổ, bi đát của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa. Phần 1 và 2 trong trích đoạn “Trao duyên” của tác phẩm đã thể hiện rõ điều này. Đây là những câu thơ có vị trí “bản lề”, đánh dấu sự mở đầu, bước ngoặt định mệnh của 15 năm lưu lạc trong cuộc đời của Thúy Kiều.
Trước hết, Thúy Kiều đã thuyết phục Thúy Vân bằng những hành động, lời nói, cử chỉ sâu sắc, tinh tế cùng lí do trao duyên hợp tình, hợp lí. Là người con gái thông minh, nhạy bén, khi trao duyên cho em, Thúy Kiều đã có những lời lẽ, hành động đặc biệt khác thường:
“Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.”
Tác giả đã sử dụng hàng loạt từ ngữ miêu tả hành động để tái hiện không gian của sự kiện “trao duyên”: “cậy” thể hiện sự nhờ vả, tin cậy, “chịu lời” mang sắc thái bị nài ép mà chấp nhận, “mặc” mang ý nghĩa phó thác, phó mặc. Qua hệ thống ngôn từ tinh tế, khéo léo, sắc sảo đó, chúng ta có thể thấy được Kiều là một người hết sức khôn khéo.
Hành động của nàng cũng thể hiện sự trang trọng: em – “ngồi lên”, chị – “lạy”, “thưa”. Những từ ngữ trên đã tái hiện thành công không khí trang trọng của sự kiện “trao duyên”, đồng thời Kiều cũng thấu hiểu rằng nàng là người chịu ơn, mang ơn đối với Thúy Vân. Để thuyết phục em, Kiều đã gợi lại tình yêu tươi đẹp của mình:
Kể từ khi gặp chàng Kim ,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.
Tác giả đã điểm xuyết những kỉ niệm của mối tình Kim – Kiều khắc cốt ghi tâm qua những hình ảnh ước lệ: “quạt ước”, “chén thề”. Nhưng đứng trước bi kịch tình yêu tan vỡ “đứt gánh tương tư”, nàng đã thuyết phục em bằng những lí lẽ: “Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?”. Vì bán mình chuộc cha, nàng đã phần nào làm tròn chữ hiếu với cha mẹ, nhưng lại đánh mất mối tình cùng Kim Trọng.
Không chỉ dùng câu chuyện tình yêu để lay động em gái, nàng vin vào tuổi xuân của em và tình chị em máu mủ để trao lại mối tình còn dang dở: “Ngày xuân em hãy còn dài/ Xót tình máu mủ, thay lời nước non”. Như vậy, qua những câu thơ đầu tiên, chúng ta có thể thấy được Kiều đã đưa ra những lí lẽ thuyết phục, thấu tình đạt lí, thể hiện nàng là người con gái tinh tế, sắc sảo.
Sau khi lay động Thúy Vân bằng cả lí trí và trái tim, Thúy Kiều trao kỉ vật cho em: Chiếc Hoa, Bức Tờ Mây, Phím Đàn, Mảnh Hương Nguyền. Tác giả đã sử dụng những hình ảnh tượng trưng, ước lệ về kỉ niệm tình yêu sâu nặng, thề ước thiêng liêng giữa Kim Trọng và Thúy Kiều. Chúng ta có thể cảm nhận được, những kỉ vật ấy đã trở thành sinh mệnh của tình yêu, sinh mệnh của sự sống trong trái tim Thúy Kiều: “Duyên này thì giữ, vật này của chung”.
“Của tin” là tín vật minh chứng cho tình yêu giữa Kim và Kiều, “của chung” là của Kim Trọng – Thúy Vân – Thúy Kiều. Nói về điều này, Hoài Thanh đã viết “Của chung là của ai. Bao nhiêu đau đớn trong hai tiếng đơn sơ thế!”, “Đó là của chung, của chàng, của chị, hay còn là của em… Đó là của tin để lại cho nhau. Hồn chị gửi cả trong ấy”. Với tâm trạng đầy tiếc nuối, xót xa, cách Thúy Kiều trao kỉ vật cho em đầy sự nâng niu, trân trọng. Nàng chợt nhận ra trao đi kỉ vật là vĩnh biệt tình yêu.
Biết bao nhiêu đau đớn, biết bao nhiêu xót xa thể hiện qua hai từ “của tin”, “của chung”. Kiều như muốn níu giữ lại hương vị tình yêu trong niềm tiếc nuối vô hạn. Cấu trúc câu thơ thể hiện sự mâu thuẫn giằng xé giữa lí trí và tình cảm: vừa níu giữ, vừa dứt khoát gửi trao mối tình dang dở: gửi trao những kỉ vật thiêng liêng và trao tình duyên cho em. Biết bao tiếc nuối, xót xa được thể hiện qua tâm trạng của Thúy Kiều: kỉ vật gợi kí ức, kí ức gợi kỉ niệm, trao đi kỉ vật nhưng vẫn không quên được mối tình sâu sắc đó.
Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai.
Dạ đài cách mặt khuất lời,
Rưới xin giọt nước cho người thác oan.
Sau khi trao đi kỉ vật tình yêu và hồi tưởng lại những kí ức tươi đẹp trong quá khứ, Kiều đau đớn, xót xa quay trở về thực tại. Lời thơ chuyển từ đối thoại sang độc thoại nội tâm. Tác giả Nguyễn Du đã sử dụng một loạt từ ngữ, hình ảnh, điển tích với tần suất dày đặc: “đốt hương”, “ngọn cỏ”, “lá cây”, “hiu hiu gió”, “hồn nặng lời thề”, “nát thân bồ liễu”, “dạ đài”, “cách mặt khuất lời”, “người thác oan” để thể hiện sự tự ý thức của Thúy Kiều về bi kịch tình yêu dang dở, tan vỡ và bi kịch thân phận trái ngang, lênh đênh trôi nổi.
Kiều nói với Vân như nói với chính mình. Hàng loạt từ ngữ gợi tả về cái chết được sử dụng để thể hiện dường như với nàng lúc này, viễn cảnh tương lai thật mịt mờ, xa xăm. “Mai sau dù có bao giờ” – câu thơ như một tiếng than, lại như một câu hỏi xoáy vào tâm can, vừa thể hiện sắc thái lo lắng, vừa hi vọng, nhưng hi vọng vừa lóe lên chợt hóa thành ảo vọng: “Đốt lò hương ấy, so tơ phím này”.
Những kỉ vật tình yêu hạnh phúc trong quá khứ trở thành nỗi đau khắc sâu vào tâm trạng thực tại của mình. Kiều nhận ra tương lai thật mịt mù, mơ hồ, nàng tưởng tượng ra cái chết trong tương lai, linh hồn cũng không siêu thoát được vì vẫn mang nặng lời thề với Kim Trọng: “Rưới xin giọt nước cho người thác oan”. Kiều nghĩ đến viễn cảnh tang thương khi mất đi tình yêu, bởi với nàng, mất đi sự tự do là mất đi lí tưởng, mất đi tình yêu chính là mất đi tri kỉ.
Say đắm trong tình yêu, Kiều đã cột chặt sinh mệnh của mình cùng mối tình tươi đẹp đó. Trong khoảnh khắc ấy, chúng ta có thể cảm nhận được tận sâu nỗi đau trong trái tim của nàng. Tuy nhận ra bi kịch, tuyệt vọng và đau đớn, nhưng Kiều vẫn khao khát được trọn vẹn trong tình yêu ấy.
Như vậy, qua đoạn trích “Trao duyên”, chúng ta có thể thấy được tình yêu sâu nặng cùng bi kịch của Thúy Kiều. Đối với nàng, tình và hiếu luôn thống nhất chặt chẽ. Tất cả đã được thể hiện thông qua nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sâu sắc, tinh tế của đại thi hào Nguyễn Du.
SCR.VN chia sẻ 💕 Sơ Đồ Tư Duy Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ 💕 7 Mẫu Chọn Lọc