Phân Tích 16 Câu Cuối Bài Trao Duyên ❤️️ 24+ Bài Văn Hay ✅ Đón Đọc Những Bài Viết Nghị Luận Văn Học Đặc Sắc Được SCR.VN Tuyển Chọn Và Chia Sẻ.
Dàn Ý Phân Tích 16 Câu Cuối Bài Trao Duyên
Với việc lập dàn ý phân tích 16 câu cuối bài Trao duyên, các em học sinh có thể nắm bắt được bố cục và nội dung để dễ dàng triển khai bài viết của mình.
I. Mở bài phân tích 16 câu cuối Trao duyên:
- Giới thiệu tác giả Nguyễn Du và Truyện Kiều
- Giới thiệu đoạn trích Trao duyên: Vị trí, nội dung
- Dẫn dắt giới thiệu nội dung cần phân tích – 16 câu cuối bài Trao duyên
II. Thân bài phân tích 16 câu cuối Trao duyên:
1.Kiều dặn dò Vân chuyện tương lai:
a. Kiều dự cảm về cái chết:
- Hàng loạt các từ ngữ, hình ảnh gợi về cái chết: hiu hiu gió, hồn, nát thân bồ liễu, dạ đài, người thác oan
- Dự cảm không lành về tương lai, sự tuyệt vọng tột cùng. Kiều tưởng tượng ra cảnh mình chết oan, chết hận. Hồn không sao siêu thoát được bởi trong lòng đang nặng lời thề ước với Kim Trọng
- Ta thấy được sự đau đớn, đầy tuyệt vọng của Kiều, đồng thời thể hiện tấm lòng thủy chung một lòng hướng về Kim trọng của Kiều
b. Thúy Kiều dặn dò Thúy Vân:
- “Đền nghì trúc mai”: Đền ơn đáp nghĩa.
- “Rưới xin giọt nước”: Tẩy oan cho chị.
- Nỗi bứt rứt, dằn vặt trong lòng Kiều. Lúc này, Kiều như càng nhớ, càng thương Kim Trọng hơn bao giờ hết.
*Nghệ thuật: Cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh giàu giá trị biểu cảm, độc thoại nội tâm.
2.Kiều trở về thực tại đau xót khi nhớ tới Kim Trọng:
- Hình thức: Lời thơ chuyển từ đối thoại sang độc thoại
- Tâm trạng: Nàng ý thức rõ về cái hiện hữu của mình: “trâm gãy gương tan”, “tơ duyên ngắn ngủi”, “phận bạc như vôi”, “nước chảy hoa trôi lỡ làng”
- Hình ảnh gợi tả số phận đầy đau khổ, dở dang, bạc bẽo, lênh đênh trôi nổi
- Nghệ thuật đối lập: quá khứ – hiện tại đã khắc sâu nỗi đau của Kiều.
- Các hành động: Nhận mình là “người phụ bạc”. Lạy: cái lạy tạ lỗi, vĩnh biệt khác với cái lạy nhờ cậy lúc đầu. Hai lần gọi tên Kim Trọng: tức tưởi, nghẹn ngào, đau đớn đến mê sảng.
- Kiều quên đi nỗi đau của mình mà nghĩ nhiều đến người khác, đó chính là đức hy sinh cao quý
*Nghệ thuật: Sử dụng từ ngữ biểu cảm, thành ngữ, câu cảm thán, các điệp từ.
III. Kết bài phân tích 16 câu cuối Trao duyên:
- Khái quát nội dung và nghệ thuật của đoạn trích
- Trình bày suy nghĩ, cảm nhận của bản thân
Giới thiệu cùng bạn 🍀 Dàn Ý Trao Duyên 🍀 Mẫu Lập Dàn Ý Hay
Phân Tích 16 Câu Cuối Bài Trao Duyên Hay Nhất – Mẫu 1
Tham khảo bài văn mẫu phân tích 16 câu cuối bài Trao duyên hay nhất được chọn lọc và chia sẻ dưới đây dành cho các em học sinh.
Tình yêu đầu bao giờ cũng là tình yêu trong sáng và đẹp đẽ nhất. Thế nhưng, với Thuý Kiều, tình yêu ấy lại chứa chan bao đau khổ, xót thương vô cùng. Mối tình đầu đẹp như mơ của nàng với Kim Trọng đã buộc phải chia cắt vì biến cố bất ngờ của gia đình.
Để vẹn tròn hai bên hiếu, tình nàng đã quyết định trao lại mối duyên ấy cho Thuý Vân – em gái mình để Vân thay nàng trả nghĩa cho Kim Trọng. Tất cả điều đó được thể hiện qua đoạn trích Trao duyên vô cùng đặc sắc. 16 câu cuối trong đoạn trích đã cho thấy được sự dằn vặt, đau đớn khôn nguôi của Kiều khi phải trao đi mối duyên sâu đậm của mình.
Sau đêm thề nguyền cùng chàng Kim Trọng, gia đình Kiều xảy ra gia biến, gia sản bị tịch thu còn cha và em trai thì bị bắt. Trước biến cố bất ngờ Kiều phải bán mình cho Mã Giám Sinh để lấy bốn trăm lạng vàng, đút lót quan lại để cứu cha và em. Khi đó, Kim Trọng đang ở Liễu Dương chịu tang chú nên không hề biết chuyện xảy đến với gia đình Kiều. Vào tối đêm trước ngày ra đi, Kiều đã nhờ Thuý Vân – em gái mình ở lại trả nghĩa cho chàng Kim. Bao nhiêu đau đớn và giằng xé trong tâm can Kiều được đẩy lên cao trào trong trích đoạn này.
Những dòng thơ tuôn trào là nỗi lòng Kiều trong giằng xé, bởi nàng vừa muốn trao đi mối duyên của mình lại vừa tiếc nuối nó, không đành. Càng nói, Kiều càng đau xót cho số phận mình, tự nhận mình là một kẻ “bạc mệnh”. Thế nên nàng mới dự cảm được tương lai của mình đầy mịt mù, chỉ thấy cái chết là rõ ràng nhất.
“Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin giọt nước cho người thác oan”
Trong khi Vân và chàng Kim được nên duyên vợ chồng, Kiều tưởng tượng mình chỉ còn là một mảnh hồn vất vưởng nơi trần thế, “hiu hiu” trong gió. Thế nhưng dù “nát thân bồ liễu” thì linh hồn nàng vẫn mang nặng lời thề sắt son cùng Kim Trọng, vĩnh viễn không bao giờ quên. Thật là mâu thuẫn, thật là đan xen. Bởi Kiều đã nói nếu Vân chịu nhận lời giúp nàng thì nàng “thịt nát xương mòn” cũng sẽ “ngậm cười chín suối”.
Ấy vậy mà giờ đây, khi trả được món nợ tình duyên, nàng cũng không hề thanh thản mà còn xót xa, nặng nề hơn trước nữa. Phải chăng đó là bởi trước đó, nàng lo cho người mà quên đi mình, giờ đây khi lo chu toàn chuyện của người, nàng mới nhận ra sự bạc bẽo của phận mình. Tương lai mờ mịt, oan trái, còn tinh thần nàng thì như nửa tỉnh nửa mê. Những câu nói của nàng như lời của một linh hồn phảng phất từ thế giới bên kia vọng lại.
Có thể thấy, trong lời nói của Kiều là sự giằng xé, sự tiếc nuối khôn nguôi khi phải trao đi mối duyên tình đậm sâu của mình. Và chứa chán trong đó, còn là nỗi đau xót, xót xa cho số phận bạc bẽo của mình, cho tương lai mù mịt, không lối thoát.
Trong sự cao trào của nỗi đau xót, Kiều thốt lên những lời gan ruột đau đớn cho mối duyên tình dở dang của mình, cho số phận của mình:
“Bây giờ trâm gãy gương tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!
Phận sao phận bạc như vôi!
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”
Giờ đây, trong thực tại nỗi nhớ về Kim Trọng, Kiều chỉ thấy những đổ vỡ, những tang thương “trâm gãy, bình tàn”. Thế nhưng, còn có thể làm được gì, “phận” đã “bạc như vôi” thì đành phải chấp nhận, đành để mối tình ấy, trái tim ấy “lỡ lãng”. Kiều biết nàng đã phụ chàng, nàng đã làm chàng phải thất vọng. Vậy nhưng giờ đây, nàng chỉ còn biết tạ tội với tình lang của mình trông chua xót và bất lực. Cuối cùng, không thể chịu đựng nổi, nàng đã thốt lên trong sự nghẹn ngào và đau đớn quằn quại:
“Ôi Kim lang! Hời Kim lang
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”
Tiếng nấc nghẹn ấy của Kiều là sự bộc lộ toàn bộ tâm trạng đau đớn lúc đó của nàng, tới mức gần như mê sảng. Nỗi đau chia cắt cứ nhân lên nhân lên gấp bội, lên tới tột đỉnh. Đoạn kết khép lại trong nỗi đau thương quằn quại con người nàng. Nhưng không phải là vì bản thân nàng mà là vì người nàng yêu, vì tình lang của mình. Tâm hồn nàng chứa chan sự vị tha, nhân hậu vô bờ, nàng muốn cho người được hạnh phúc còn mình thì sẵn sàng cam chịu sự hi sinh.
16 câu cuối đoạn trích Trao duyên đã lột tả chân thực tâm trạng của Thuý Kiều khi buộc lòng phải trao đi mối duyên nồng đậm với Kim Trọng. Ngòi bút của Nguyễn Du đã sắc sảo trong việc sử dụng ngôn ngữ để lột tả hoàn toàn từng rung động trong tâm hồn Kiều, để từ đó, ta thấy được sự đau đớn, giằng xé, nghẹn ngào trong con người Kiều một cách chân thực nhất.
Có thể bạn sẽ thích 🌳 Sơ Đồ Tư Duy Trao Duyên 🌳 12 Mẫu Ngắn Hay
Phân Tích 16 Câu Cuối Bài Trao Duyên Ngắn Gọn – Mẫu 2
Tham khảo bài văn phân tích 16 câu cuối bài Trao duyên ngắn gọn dưới đây với cách viết súc tích và cô đọng ý văn.
Trao duyên là một đoạn trích trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du đã để lại nhiều cảm xúc nhất trong lòng người đọc. 16 câu thơ cuối của đoạn trích đã thể hiện tâm trạng xót xa của Kiều khi nhờ em trả duyên cho chàng Kim. Còn nỗi đau nào đau hơn khi phải trao đi tình yêu của mình và nhờ em gái của mình trả mối duyên đẹp đẽ ấy.
Sau những lời bộc bạch nhờ cậy em, khi nàng hiểu rằng em phải lấy người không yêu mình đã là một sự hi sinh rất lớn nên nàng đã nghĩ rằng nếu em làm vậy, nàng cũng mãn nguyện nơi chín suối. Kiều đã nhờ cậy trao duyên cho em, trao những kỉ vật tình yêu cho em nhưng nàng vẫn không thể nào dứt được mối tình đó. Kiều đã tưởng tượng ra sau chuyện sau này Thúy Vân và Kim Trọng sẽ thành vợ thành chồng. Nàng đã cố gắng an bài hết tất cả mọi chuyện trước khi bán mình chuộc cha.
Tám câu thơ tiếp theo gợi đến tương lai và Kiều lại nghĩ đến cái chết:
“Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy soi tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin giọt nước cho người thác oan.”
Câu thơ “Mai sau dù có bao giờ” gợi đến tương lai thê thảm, u tối của Kiều. Kiều nhớ đến đêm thề nguyền khi nàng cũng Kim Trọng đã có tình yêu rất đẹp, nàng gảy đàn cho chàng Kim nghe. Lời nói của Kiều vọng về để nghĩ về cảnh âm dương cách biệt giữa nàng với em gái và chàng Kim. Nàng chỉ mong rằng khi đó em hãy nhớ đến mình, hồn oan của Kiều trở về làm lay động cả ngọn cỏ lá cây.
Nàng mong em hãy xót thương cho nàng. Hồn của Kiều vẫn còn “mang nặng lời thề” với Kim Trọng nên nàng vẫn còn vương vấn. Ở dưới “dạ đài” tăm tối, nàng vẫn sẽ nhìn thấy hai người mong em gái hãy rưới xin giọt nước để rửa oan cho nàng.
Cuối cùng, nàng gửi đến lời với chàng Kim:
“Bây giờ trâm gãy gương tan
Kể làm sao xiết muon vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngửi có ngần ấy thôi”
Từ đầu đoạn trích giờ, ta chỉ thấy những lời của Kiều gửi đến em gái để mong em trả duyên hộ mình cho chàng Kim. Thì đến đây, Kiều chuyển lời hướng đến Kim Trọng. Nàng than đến mối tình tan vỡ ” trâm gãy gương tan”. Hai người đã có tình cảm rất đẹp và trong sáng vượt qua cả lễ nghi phong kiến để đến với nhau. Vậy mà “sự đâu sóng gió bất kì” đã khiến hai người không đến được với nhau.
Để giờ đây, chia cắt, nàng buộc phải phụ tình chàng Kim để cứu cha. Nàng tiếc nuối “muôn vàn ái ân” giữa nàng với Kim Trọng. Thúy Kiều cảm thấy mình đã có tội rất lớn với chàng nên đã ” Trăm nghìn gửi lạy tình quân”. Đầu đoạn trích ta thấy Kiều đã “Cậy em, em có chịu lời/ Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa” thì giờ đây nàng “lạy tình quân” lạy người yêu mình.
Trăm nghìn lạy tình quân để ta thấy Kiều cảm thấy có lỗi như thế nào với người yêu của mình. Nàng gửi đến lời với Kim Trọng rằng tơ duyên giữa nàng với chàng thật ngắn ngủi, bây giờ đã kết thúc. Nàng thấm thía sự bạc bẽo của số phận “Phận sao phận bạc như vôi”. Nàng thương xót cho chính bản thân mình.
Sau đó, Kiều cất lên tiếng gọi với người mình yêu:
“Ôi Kim Lang ! Hỡi Kim Lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!
Tiếng gọi của Kiều thật da diết, đầy tuyệt vọng. Tiếng vọng ấy Kim Trọng không hề nghe được, nàng đã dứt lời khẳng định “thiếp đã phụ chàng từ đây!”. Phụ tình yêu với chàng Kim là điều Kiều không hề mong muốn, Kiều tiếc nuối điều đó. Nhưng nàng đành chấp nhận vì duyên phận giữa nàng với chàng Kim đã kết thúc từ đây.
Đoạn thơ 16 câu cuối Trao duyên đã diễn tả tâm trạng ân hận, day dứt của Kiều khi phụ tình chàng Kim và trao duyên lại cho em gái. “Trao duyên” chính là bi kịch của tình yêu trong sáng nhưng lại tan vỡ. Nguyễn Du bằng ngòi bút đầy kinh nghiệm và mang giá trị nhân đạo của mình đã cho người đời một kiệt tác thật xuất sắc.
SCR.VN tặng bạn 💧 Nghị Luận Trao Duyên 💧 Mẫu Bài Nghị Luận Văn Học Hay
Phân Tích 16 Câu Cuối Đoạn Trích Trao Duyên Ngắn Nhất – Mẫu 3
Bài văn mẫu phân tích 16 câu cuối đoạn trích Trao duyên ngắn nhất dưới đây sẽ giúp các em học sinh nhanh chóng ôn tập cho bài viết trên lớp.
Thuý Kiều một người con hiếu hạnh, tài đức vẹn toàn. Vì phải cứu gia đình, nàng đành phải bán mình chuộc cha. Nhưng làm vậy thì nàng đã phản bội lời thề nguyền thuỷ chung, son sắc với tình lang Kim Trọng.
Tình thế ép buộc nàng đành nhờ cậy em ruột là Thuý Vân, xem như chị trao duyên lại cho em, nhờ em thực hiện lời thề của mình với Kim Trọng dù rằng Thuý Kiều rất đau đớn, day dứt tâm can và nhắn nhủ với em mình như thể rằng chị sắp đi xa vĩnh viễn “một đi không trở lại”.
Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Bốn câu thơ tưởng chừng như Thuý Kiều đang trăn trối nói về ngày sau khi mình chết đi. Mai sau em “đốt lò hương”, nhìn thấy trời “hiu hiu gió” thì hồn chị đã về:
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.
Dạ đài cách mặt khuất lời,
Rưới xin giọt nước cho người thác oan.
Bây giờ trâm gãy gương tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!
Phận sao phận bạc như vôi!
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!
Hồn chị đã về đây, mang nặng nỗi thống khổ của một kẻ phụ tình. Trước khi thát oan, nàng chấp nhận cho thân nát để đền cho người bạn tình chung thuỷ vì tội đã phản bội lại lời thề nguyền. Nỗi day dứt ấy chị vẫn mang theo xuống cửu tuyền. Nhìn lại thực tại, nghĩ đến tình quân nàng nhắn nhủ đôi lời tâm sự, giải bày:
Bây giờ trâm gãy gương tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!
Giờ đây mọi chuyện đã tan vỡ, lỡ làng, nói làm sao hết những tình cảm tha thiết, da diết, những kỉ niệm ngọt ngào ân ái ngày xưa đã trao nhau. Thôi thì thiếp đành cam chấp nhận số phận, tơ duyên ngắn ngủi, hạnh phúc quá mong manh, kiếp này đã lỡ phu thê, thiếp xin bái biệt đi về cõi âm. Câu thơ chứa chan tình cảm, xót xa đau cho kiếp số phũ phàng, chua chát – lời thơ như hờn oán, trách móc than thân trách phận:
Phận sao phận bạc như vôi?
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
Lời thơ uất nghẹn, phận gì? mà bạc như vôi? Phận trâu ngựa, kiếp chó mèo chứ không phải là phận người, kiếp người nữa.
Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!
Việc “trao duyên” đã thành, việc bán mình cũng đã xong, thì bi kịch của Thuý Kiều cũng đến. “Ôi”, “Hỡi” Kim Lang, Thuý Kiều gọi tên tình nhân lần sau cuối trong nước mắt nhạt nhoà, nàng ôm nỗi đau giằng xé tâm can khi biết chắc chắn rằng từ đây nàng đã mất chàng Kim mãi mãi.
Sự “hi sinh” của Thuý Kiều làm cho người đời cảm phục, tình cảm của Thuý Kiều làm cho chúng ta trân quý yêu thương. Đó là điểm sáng chói ngời trong phẩm giá con người Thúy Kiều, khiến cho nàng sống mãi trong lòng người đọc.
Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất
Phân Tích 16 Câu Cuối Bài Trao Duyên Học Sinh Giỏi – Mẫu 4
Tham khảo bài phân tích 16 câu cuối bài Trao duyên học sinh giỏi dưới đây với những nội dung nghị luận văn học chuyên sâu.
Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc Việt Nam và cũng là của thế giới. Ông tên là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên.Ông sinh ra trong một gia đình phong kiến quý tộc và sống trong xã hội phong kiến – Một xã hội suy thoái, thối nát. Nguyễn Du đã từng trải qua hơn chục năm sống gian khổ ở nhiều vùng quê khác nhau, nếm đủ những thứ vị đắng cay của cuộc sống phong trần. Trong đó có mùi vị của sự chia ly, dang dở của tình yêu đôi lứa. Sau khi đi sứ sang Trung Quốc, Nguyễn Du sáng tác nên đại thi phẩm bất hủ: ”Truyện Kiều”.
16 câu cuối của “Trao Duyên”là một đoạn trích thể hiện khá rõ bi kịch tan vỡ, dang dỡ của tình yêu Thuý Kiều – Kim Trọng và nỗi đau tột cùng của Kiều về số phận bi kịch của nàng, đồng thời thể hiện tư tưởng nhân đạo chủ nghĩa xuyên suốt trong thơ Nguyễn Du trước những đau khổ, bất hạnh cũng như khát vọng hạnh phúc của con người.
Sau khi giải quyết xong thủ tục bán mình (“Tờ hoa đã ký-cân vàng mới trao”), lấy tiền lo cho vụ kiện nhà Kiều, ngày mai Kiều sẽ phải rời theo Mã Giám Sinh ra đi.Đêm ấy Kiều bồi hồi thương cho chàng Kim, tìm cách trả nghĩa nợ tình cho chàng. Đèn thắp sáng đêm, nước mắt đầm đìa.Nhân Thúy Vân thức dậy hỏi, Kiều bây giờ mới cậy em thay lời và trao duyên cho em.
Mối tình Kim-Kiều đâu phải là mối tình trăng gió thoảng qua.Đây là mối tình đầu say đắm nhất, trong sáng nhất.Thế mà giờ đây phải đem mối tình ấy trao cho người khác – còn có nỗi đau nào hơn? Khi trao kỷ vật tình yêu cho em, Kiều cảm thấy như mình đã chết, bởi khi mất đi tình yêu, cuộc sống đối với Kiều chẳng còn ý nghĩa gì nữa.Rồi như người mất hồn, vẫn ngồi đây, mà hồn thì bay xa xăm tận “mai sau”:
Mai sau dù có bao giờ
Đốt lòng hương ấy so thơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Kiều đã mất hết hiện tại.Tương lai của nàng trông chờ vào lòng thương.Mai sau khi em “đốt hương”, chơi đàn(“so tơ”) – những lúc hạnh phục thì hãy nhớ đến chị.Cái cách hình dung oan hồn bơ vơ của mình nơi mai sau thật là thê thảm:Kiều sau này chỉ là một ngọn gió vật vờ nơi lá cây ngọn cỏ! Còn gì để thương cảm hơn là gợi lên những hình ảnh hư vô?Kiều bị ám ảnh bởi oan hồn của Đạm Tiên.Kiều gặp chàng Kim tại nơi gần mộ Đạm Tiên, đi chơi xuân về cũng gặp mộ Đạm Tiên…
Trước mộ của Đạm Tiên, nghe em Vương Quan kể về số phận đau thương của nàng, Kiều không cầm nổi nước mắt:”Kiều đâu mối sẵn thương tâm-“Thoắt nghe, Kiều đã đầm đầm châu sa”. Nay số phận Kiều cũng éo le như như của Đạm Tiên.Cho nên, ”hồn” của Kiều cũng giống như hồn Đạm Tiên”ào ào đổ lộc rung cây” – có ý thức quay về cõi trần:
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai
Thì ra, ”hồn” của Kiều vẫn chưa dứt nổi chàng Kim.Hồn của Kiều là “hồn mang nặng lời thề”.”Lời thề”ở đây chính là lời thề đêm thềnguyền vằng vặc ánh trăng mà Kiều không bao giờ quên được:”Vầng trăng vằng vặc giữa trời – Đinh ninh hai miệng một lời song song”.”Lời thề” ấy của Kiều với chàng Kim đối với nàng cực kỳ quan trọng.Kiều đã ”trăm năm tạc một chữ đồng đến xương” với chàng Kim.
Bởi thế, dù có tan tành thân xác “bồ liễu, dáng vẻ”trúc mai”, Kiều cũng quyết gặp lại trực tiếp chàng Kim để “đền nghì” cho chàng Kim. Đó là một ý thức, một tấm lòng, một tư tưởng mà không phải người con gái nào cũng có được.Sự thủy chung của Kiều vẫn được thể hiện rõ nét, đậm đà và càng sâu sắc hơn trong hoàn cảnh ngặt nghèo.Còn đối với Vân, khi “hồn Kiều quay trở về dương gian:
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin giọt nước cho người thác oan
“Dạ đài” là nơi âm phủ tăm tối.Lúc ấy, một người là con người cõi trần(Thúy Vân), một kẻ là hồn ma âm phủ(Thuý Kiều).em và chị sẽ “cách mặt khuất lời”, tức là sẽ không thấy được nhau và cũng không nghe được tiếng nói của nhau.Khi đó, em hãy rảy chén nước cho “người thác oan” là chị (Theo quan niệm tôn giáo cổ truyền thì nước tinh khiết có thể tẩy rửa nỗi oan khuất, làm cho oan hồn được mát mẻ siêu thoát).
Qua đó chứng tỏ Kiều tuy tự nguyện hy sinh, bán mình chuộc cha, nhưng vẫn ý thực được mình bị oan uổng cho nên sau khi chết, hồn oan không tan.Trong tình cảnh ngặt nghèo như vậy, Kiều vẫn có ý thức nhận biết và đấu tranh đến cùng đối với sự bất công của xã hội phong kiến đương thời.
Bây giờ trâm gãy gương tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!
”Trâm gãy gương tan” là hình ảnh của tình duyên tan vỡ.Kiều đã nhận của chàng Kim “muôn vàn ái ân” đến nỗi “kể làm sao xiết” mà giờ đây Kiều lại phản bội, thất hứa, làm “tơ duyên ngắn ngủi”, ”trân gãy gương tan”.Nghẹn ngào, cay đắng, xót xa – bấy nhiêu tâm trạng đối diện với Kiều.
Tuy trao duyên cho em Vân, nhờ em “thay lời nước non” với chàng Kim, Kiều vẫn thấy mình chịu muôn vàn tội lỗi nên nàng đã gửi lại “trăm nghìn cái lạy” cho “tình quân”-người đã cùng nàng trải qua bao kỷ niệm tình yêu nồng nàn, say đắm, đã cùng nàng thề nguyền trăm năm bên nhau mà cuối cùng lại bị nàng phản bội-mà vẫn cảm thấy chưa đủ.
Truớc đây ít phút, nàng đã “lạy” em Vân của mình để cầu xin em nối duyên với chàng.Khác hẳn với cái lạy “mang ơn”, cái “lạy” này là cái lạy tạ tội vô cùng thống thiết.Trong tình cảnh này, Kiều vẫn không thể làm gì hơn ngoài sự tạ tội. Và cái lạy đó đối với Kiều đã kết thức mối tình đầu ngắn ngủi, đầy tiếc nuối. Câu:”Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi” Kiều thốt lên sao mà thấm đượm vị chua chát, cay đắng của sự chia ly lứa đôi.
Đến đây, Kiều mới thấm thía nỗi cô đơn và số phận của mình giữa cõi đời bất công:
Phận sao phận bạc như vôi!
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!
Đoạn thơ “Trao Duyên” đúng là Kiều đã nói hết lời (“cạn lời”).Lời trao duyên như nói một lời trăn trối, vĩnh biệt. Trước lời trao duyên, tình yêu thật mặn nồng, say đắm, hạnh phúc, sau lời trao duyên mình đã trắng tay, đôi lứa chia ly, tình yêu tan vỡ. Trước khi trao duyên mình là người sống, sau khi trao duyên mình là hồn oan nơi chín suối.
Bằng tài năng tuyệt vời của mình, Nguyễn Du hình dung rất rõ và thể hiện rất thành công số phận bi kịch, nội tâm rối bời, tâm trạng đau khổ, dằng vặc, cay đắng, xót xa và tuyệt vọng trong cuộc trao duyên của Kiều với việc sử dụng một cách khéo léo, tinh tế, sắc sảo từ ngữ, nhiều biện pháp nghệ thuật thích hợp, kết hợp linh động lời kể với lời tự tình, lời độc thoại,……, làm cho đoạn”trao duyên” trở thành đoạn thơ lâm li nhất trong Truyện Kiều. Và đó cũng là lý do vì sao Truyện Kiều trở thành bất hủ!
Đọc nhiều hơn dành cho bạn ☀️ Phân Tích Trao Duyên ☀️ Top 10 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Phân Tích 16 Câu Cuối Bài Trao Duyên Nâng Cao – Mẫu 5
Bài văn mẫu phân tích 16 câu cuối bài Trao duyên nâng cao dưới đây sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích dành cho các em học sinh.
Nguyễn Du, một đại thi hào của dân tộc Việt Nam, ông sinh năm 1766 mất năm 1820, tên chữ là Tố Như. Quê ông ở Hà Tĩnh, ông được sinh ra trong một gia đình phong kiến quý tộc. Sống trong giai đoạn đồng tiền làm băng hoại đạo đức, đầy biến động, Nguyễn Du chứng kiến được rất nhiều cảnh đời bất công, cũng như sự thối nát của xã hội bấy giờ. Và ông có sự cảm thông sâu sắc đối với người phụ nữ bất hạnh.
Nguyễn Du đã viết ra nhiều tác phẩm văn học để nói thay cho tấm lòng đầy ai oán, cho số phận bạc mệnh đáng thương của người phụ nữ. Trong đó có bài “Trao Duyên”, là một bài thơ trong tuyệt tác “Truyện Kiều”, một tác phẩm bi cảm được thể hiện qua từng câu, từng chữ, nó mang đến một nỗi xúc động khôn nguôi cho người đọc.
Tình yêu giữa Thúy Kiều và Kim Trọng đang tươi đẹp, nồng nàn thì Kim Trọng phải về Liêu Dương hộ tang chú. Trong khi đó tai họa đổ ập xuống gia đình Thúy Kiều. Của cải bị bọn sai nha vét sạch. Cha và em trai Thúy Kiều bị bắt, bị đánh. Bọn quan lại đòi đút lót “có ba trăm lạng việc này mới xuôi”.
Trước biến cố đau lòng đó, một người giàu tình cảm, giàu đức hy sinh như Thúy Kiều không còn cách nào khác là phải bán mình lấy tiền cứu cha và em. Nhưng còn mối tình với Kim Trọng? Thúy Kiều hết sức đau khổ. Cuối cùng nàng quyết định nhờ em thay mình lấy Kim Trọng.
16 câu thơ cuối khép lại đoạn “Trao duyên” trong “Truyện Kiều” rất cảm động. Có lẽ đây là cảnh tượng đau lòng chưa từng thấy trong nền văn học nhân loại. Thúy Kiều trao duyên là coi như mình đã khuất. Nàng dặn em giữ gìn kỷ vật và còn dặn em hãy thương lấy linh hồn vật vờ đau khổ của chị trên cõi đời đen bạc này:
“Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy, so tờ phím này.
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai.”
Thúy Kiều tưởng tượng nàng chỉ còn là bóng ma. Lời lẽ huyền hồ. Bóng ma nàng sẽ hiện lên trong hương trầm và âm nhạc. Hồn ma còn mang nặng lời thề với Kim Trọng, cho nên dẫu “thịt nát xương mòn” thì hồn nàng vẫn còn quanh quẩn với “ngọn cỏ lá cây”, với “hiu hiu gió…” Tình của người bạc mệnh vẫn còn làm chấn động cả vũ trụ.
Đau đớn tột cùng trước sự đổ vỡ của tình yêu, nàng quên rằng trước mặt mình là Thúy Vân mà than khóc với Kim Trọng:
“Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi
Phận sao phận bạc như vôi!
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.”
Mỗi lời của nàng là một lời vận vào. Trước nỗi đau đớn xót xa này, nàng chỉ trách mình là “phận bạc”, là “hoa trôi”, những hình ảnh đó làm động lòng thương đến hết thảy chúng ta. Đối với Kim Trọng, nàng còn mặc cảm tội lỗi là chính nàng đã “phụ chàng”. Chính tâm lý mặc cảm tội lỗi cao thượng đó khiến nàng chết ngất trong tiếng kêu thương thấu trời:
“Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi! Thiếp đã phụ chàng từ đây!”
Đoạn “Trao duyên” trong “Truyện Kiều” là một khúc “đoạn trường” trong thiên “Đoạn trường tân thanh”. Với con mắt tinh đời, Nguyễn Du đã phát hiện thấy trong truyện của Thanh Tâm Tài Nhân là một tình tiết rất cảm động và bằng nghệ thuật tuyệt vời, ông đã dựng lại đoạn “Trao duyên” hết sức sâu sắc và độc đáo. Tác giả đã đối lập hai tính cách của hai chị em một cách tài tình: con người của đời thường và con người của phi thường.
Trong sự kiện “sóng gió bất kì” này, Thúy Vân vô tư, hồn nhiên (cũng đừng vội chê trách Thúy Vân. Nhân vật này còn là một kho bí mật trong công trình nghệ thuật kiệt tác của Nguyễn Du mà chúng ta chưa kịp bàn ở đây), còn Thúy Kiều thì lại càng đau đớn hơn. Nguyễn Du đã dụng công miêu tả tâm lý, sự vận động nội tâm nhân vật, cũng có thể nói Nguyễn Du đã đạt đến phép biện chứng của tâm hồn.
Chỉ qua đoạn “trao duyên”, chúng ta cũng cảm nhận được Thúy Kiều là một cô gái giàu tình cảm, giàu đức hi sinh, có ý thức về tình yêu và cuộc sống. Một nhân cách như vậy mà vừa chớm bước vào đời như một bông hoa mới nở đã bị sóng gió dập vùi tan tác. Nói như Mộng Liên Đường Chủ nhân là khúc đoạn trường này như có máu rỏ trên đầu ngọn bút của Nguyễn Du, như có nước mắt của thi nhân thấm qua trang giấy. Hơn hai trăm năm rồi, những giọt nước mắt nhân tình ấy vẫn chưa ráo.
Tham khảo trọn bộ 💧 Phân Tích 14 Câu Đầu Bài Trao Duyên 💧 10 Mẫu Hay Nhất
Phân Tích 16 Câu Thơ Cuối Của Bài Trao Duyên Mở Rộng – Mẫu 6
Đón đọc bài văn phân tích 16 câu thơ cuối của bài Trao duyên mở rộng dưới đây sẽ mang đến cho các em học sinh những liên hệ sinh động khi làm bài.
Nếu mười bốn câu thơ đầu của đoạn trích “Trao duyên” là lời giãi bày và thuyết phục Thúy Vân “chắp mối tơ thừa” của Thúy Kiều thì 16 câu thơ cuối trong đoạn trích diễn tả việc Thúy Kiều nhắn gửi nỗi lòng mình đến Kim Trọng. Đoạn thơ đã khắc họa những nỗi đau đớn, dằn vặt của Thúy Kiều khi mối tình với chàng Kim tan vỡ.
Những hạnh phúc Thúy Kiều có với Kim Trọng nay đã trở thành quá khứ – một quá khứ tươi đẹp nhưng cũng không khỏi xót xa. Nàng tự nhận mình là người có số phận bạc bẽo. Từ xưa đến nay, có mấy hồng nhan tránh được “cái điều bạc mệnh”:
“Rằng: hồng nhan tựa ngàn xưa
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu”
Và người con gái “sắc đành đòi một, tài đành họa hai”, người con gái có vẻ đẹp “nghiêng nước nghiêng thành” ấy không nằm ngoài sự sắp đặt của định mệnh. Sự đối lập giữa khung cảnh hạnh phúc của Thúy Vân và Kim Trọng với sự bất hạnh của bản thân đã khiến nàng đau đớn gấp bội phần. Kiều đã trông thấy một tương lai mù mịt, tăm tối của bản thân và số phận hẩm hiu của mình khiến người khác phải xót thương.
Tình yêu càng sâu đậm bao nhiêu thì lại càng khiến Thúy Kiều đau đớn bấy nhiêu. Nàng đã dự cảm được điều gì đó không lành sẽ xảy đến với mình nên cẩn thận căn dặn Thúy Vân:
“Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin giọt nước cho người thác oan”
Oan hồn của Thúy Kiều sẽ trở về mỗi khi “hiu hiu gió”.Thúy Kiều mong em gái mình sẽ nhận biết được điều ấy để “rưới xin giọt nước” cho linh hồn oan khuất của nàng. Nếu khi còn sống nàng không thể giữ được lời thề nguyền với Kim Trọng thì khi chết đi hồn nàng cũng không thôi nhớ về lời thề nguyền ấy. Nàng ví mình giống như thân liễu, thân mai tuy mỏng manh nhưng cốt cách thanh cao. Dù cho “nát thân”, “đền nghì” thì nàng vẫn khắc ghi lời thề và tình yêu sâu đậm với Kim Trọng.
Các hình ảnh “lò hương”, “hiu hiu gió”, “hồn”, “thân bồ liễu”, “đền nghì trúc mai”, “dạ đài”, “giọt nước”, “thác oan” là những hình ảnh giàu sức biểu cảm gợi ra cho bạn đọc về cuộc sống ở thế giới cõi âm đầy tối tăm, ma mị. Từ “thác oan” đã phần nào cho thấy sự oan khuất của Thúy Kiều, vì nỗi oan khuất chưa được giải nên linh hồn của nàng không thể siêu thoát.
Đồng thời, từ “thác oan” cũng thể hiện tiếng nói đòi quyền sống và quyền được hạnh phúc cho những người phụ nữ trong xã hội đương thời. Nhịp điệu các câu thơ chậm rãi diễn tả những cảm xúc nghẹn ngào mà tức tưởi của nhân vật Thúy Kiều. Dường như nàng đang cố kìm nén những đau lòng để không bật ra thành tiếng khóc.
Hành động Thúy Kiều trao lại những kỉ vật cho Thúy Vân cũng là hành động nàng từ biệt Kim Trọng. Phải xa cách người mình yêu là điều mà nàng không hề mong muốn:
“Bây giờ trâm gãy gương tan
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân.
Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi
Phận sao phận bạc như vôi
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”.
Thúy Kiều luôn có ý thức về thực tại và ý thức về thân phận mình. Các thành ngữ “trâm gãy gương tan”, “phận bạc như vôi”, “nước chảy hoa trôi” là những thành ngữ quen thuộc trong dân gian thể hiện sự tan vỡ của tình yêu và sự trôi nổi vô định của số phận con người. Trăm nghìn cái lạy tạ lỗi gửi đến người tình quân nhưng bấy nhiêu liệu có đủ thay cho lời từ biệt của Thúy Kiều?
Bấy nhiêu liệu có bù đắp được cho chàng Kim những tổn thương khi “muôn vàn ái ân” giữa hai người nay chỉ còn đọng lại trong kí ức? Mọi lỗi lầm và trách nhiệm nàng đều nhận hết về mình.Tơ duyên của nàng và Kim Trọng chỉ “ngắn ngủi có ngần ấy thôi” nên thêm một lần nữa nàng thấy số phận của mình “bạc như vôi”, “nước chảy hoa trôi lỡ làng”.
Điệp từ “Kim lang” lặp lại hai lần đã cho thấy mức độ tăng dần trong tình cảm của Thúy Kiều dành cho Kim Trọng:
“Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”.
Từ người yêu, Thúy Kiều đã coi Kim Trọng như người chồng của mình với tiếng gọi “tình quân”, “Kim lang” tha thiết. Nhưng ngay sau đó là lời từ biệt: “Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây” đầy đau xót. Kiều tự nhận mình là người phụ lòng Kim Trọng, Kiều tự cảm thấy mình không còn xứng đáng với chàng Kim nữa. Nàng hi sinh bản thân mình và mong muốn Kim Trọng được hạnh phúc. Điều ấy cũng thể hiện sự cao thượng của nhân vật Thúy Kiều.
Đoạn thơ 16 câu cuối Trao duyên đã thể hiện những diễn biến trong nội tâm của nhân vật Thúy Kiều trong cuộc trao duyên với Thúy Vân. Qua đó chúng ta cũng thấy được tài năng trong cách sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Du. Những tiếng thơ của ông là những tiếng thơ chất chứa sự trăn trở về số phận con người nhất là số phận những người phụ nữ trong xã hội đương thời.
Tham khảo văn mẫu 💕 Phân Tích Đoạn 1 Trao Duyên 💕 15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Phân Tích Trao Duyên 16 Câu Cuối Chi Tiết – Mẫu 7
Tham khảo bài văn phân tích Trao duyên 16 câu cuối chi tiết dưới đây để nắm được đầy đủ những giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ.
Nguyễn Du là nhà thơ, nhà văn hóa lớn của thế kỷ XVI, trong suốt sự nghiệp sáng tác của mình, ông đã có những đóng góp vô cùng to lớn cho nền văn học nước nhà. Truyện Kiều được xem là tác phẩm nổi tiếng và có sức ảnh hưởng sâu rộng nhất của Nguyễn Du. Tác phẩm hướng đến phản ánh sự bất công của chế độ phong kiến, bộc lộ sự đồng cảm, thấu hiểu sâu sắc đối với những số phận bất hạnh, đặc biệt là người phụ nữ, vốn dĩ bị xem thường trong chế độ cũ.
Không chỉ vậy ông còn dùng đôi mắt tài hoa, tinh tế để nhìn nhận được những vẻ đẹp tiềm ẩn của nhân vật bao gồm tài năng, mỹ mạo, nhân cách, từ đó đề cao giá trị của người phụ nữ, dù rằng trong xã hội phong kiến những giá trị ấy không thực sự được coi trọng. Mà ở trong Truyện Kiều, Trao duyên chính là đoạn trích tiêu biểu nhất bộc lộ những vẻ đẹp nhân cách, sự khéo léo trong lối ứng xử của Thúy Kiều khi phải đối mặt với tình thế trái ngang của số phận.
Thúy Kiều và Thúy Vân vốn dĩ là con gái của nhà viên ngoại, có một cuộc đời tưởng chừng như êm ấm, hạnh phúc, thì không may cha Thúy Kiều là Vương ông bị vu oan, phải chịu cảnh tù đày cùng với em trai Thúy Kiều là Vương Quan. Tất cả gia sản trong gia đình đều bị tịch thu, không còn cách nào khác, Thúy Kiều buộc phải bán mình làm vợ lẽ cho Mã Giám Sinh để chuộc cha và em, làm tròn chữ hiếu, đồng thời từ bỏ mối tình đang đẹp với Kim Trọng.
Vì đã trót lỡ phụ lòng người yêu, thế nên Thúy Kiều chỉ còn cách nhờ Thúy Vân nối duyên với Kim Trọng để trả người yêu hết phần nghĩa bấy lâu, cũng chính thức khép lại mối lương duyên tốt đẹp giữa nàng và Kim Trọng, mở ra một cuộc đời hồng nhan lắm truân chuyên đằng đẵng suốt 15 năm trời chìm trong bể khổ của Thúy Kiều.
Trong cơn gia biến, để vẹn tròn chữ hiếu và chữ tình, Thúy Kiều đã nhờ Thúy Vân thay mình làm tròn nốt chữ tình còn dang dở với chàng Kim. Thúy Kiều bị buộc phải trưởng thành và chứng kiến những biến cố khi nàng còn quá trẻ, thế nhưng Kiều vẫn bộc lộ được sự thông minh và khéo léo khi dàn xếp mọi chuyện trong nhà, đặc biệt là cảnh trao duyên cho em gái. Sau khi trao duyên, Kiều cũng lại dặn dò Thúy Vân về chuyện tương lai rằng:
“Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ gió cây,
Thấy hiu hiu gió, thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.
Dạ đài cách mặt, khuất lời,
Rảy xin chén nước cho người thác oan.”
Những lời dặn dò, dường như lời trăn trối đầy ai oán, xót xa, Kiều nghĩ đến viễn cảnh tương lai khi Thúy Vân và Kim Trọng êm đềm bên nhau cùng đốt hương, đánh đàn, liệu có còn nhớ tới người bạc mệnh này không. Thế nên nàng đành dặn dò trước, cũng như chính Thúy Kiều dường như thấy trước những dự cảm chẳng lành trong tương lai, mà tủi khổ, đau đớn, thốt ra những lời như từ biệt vĩnh viễn.
Sau khi đã dặn dò sắp xếp ổn thỏa mọi sự, còn lại một mình Thúy Kiều mới càng thêm thấm thía những nỗi xót xa dày vò trong lòng, đặc biệt là sự nuối tiếc trong mối tình tan vỡ với Kim Trọng.
“Bây giờ trâm gãy bình tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.
Phân sao phận bạc như vôi?
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
Ôi Kim Lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”
Thúy Kiều dường như đang thỉnh tội với Kim Trọng, cũng kể ra những nỗi khổ sở trong lòng, chuyện nhân duyên nay đã như “trâm gãy, bình tan”, vốn thực tốt đẹp ấy mà trong phút chốc lại đổ bể không thể cứu vãn, nhưng tấm lòng của nàng với Kim Trọng vẫn chưa từng một lần thay đổi “kể làm sao xiết muôn vàn ái ân”.
Nhưng đứng trước thực cảnh trái ngang Kiều không có thể còn cách nào khác, đành “Trăm ngàn gửi lạy tình quân” để tạ lỗi, nàng đau đớn mà rằng “tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi” thể hiện nỗi tiếc nuối, xót xa cùng cực khi phải chịu cảnh chia cắt bất hạnh. Từ trong những nỗi đau đớn và biến cố cuộc đời, Thúy Kiều dường như đã trưởng thành và nhìn thấu cuộc đời và số kiếp phận đàn bà trong xã hội cũ, nàng xót xa cho thân phận mình “sao bạc như vôi”.
Đồng thời cũng bộc lộ những cảm xúc bất lực, phó mặc cho số phận trong hình ảnh “nước chảy hoa trôi lỡ làng”, cùng với đó là tiếng khóc than đau đớn, đoạn trường, là tiếng thét đầy tuyệt vọng trong câm lặng của người con gái trẻ tuổi bạc mệnh “Ôi Kim Lang! Hỡi Kim lang! Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!” khi buộc phải tự tay cắt mối duyên tơ, chấm dứt cuộc đời nhiều hi vọng, chính thức mở ra một cuộc đời đầy sóng gió, truân chuyên lưu lạc đớn đau đến tột cùng của một kiếp hồng nhan.
Có thể thấy rằng ở những câu thơ cuối đoạn trích, Nguyễn Du không chỉ bộc lộ tình yêu sâu sắc của Thúy Kiều dành cho Kim Trọng dù rằng đã lỡ hẹn, mà còn thể hiện sự tự nhận thức về số phận nghiệt ngã của Thúy Kiều, để nàng tự xót thương cho số phận mình, đẩy bi kịch nhân vật lên cao nhất, cũng như khắc họa tấm lòng sắt son, sự thông minh, nhạy bén hiếm có của nhân vật.
Đồng thời khắc họa rõ nét số phận đau thương của Thúy Kiều, thể hiện tấm lòng đồng cảm sâu sắc của tác giả đối với nhân vật này, cũng như đối với nhiều thân phận phụ nữ khác trong xã hội cũ.
16 câu cuối của Trao duyên là trích đoạn nổi bật trong Truyện Kiều thể hiện được những vẻ đẹp nhân cách của Thúy Kiều một cách toàn diện nhất, từ việc bán mình chuộc cha để làm tròn đạo con, đến việc tìm cách trọn nghĩa với chàng Kim, đồng thời cũng là tình yêu sâu sắc thủy chung mà nàng dành cho người yêu.
Cuối cùng bao trùm lên toàn bộ đoạn trích chính là vẻ đẹp của lối ứng xử, khéo léo, thấu hiểu nhân tình thế thái, cũng như sự tự ý thức được nỗi đau thân phận của Thúy Kiều, làm nổi bật lên giá trị nhân đạo chung mà Nguyễn Du muốn hướng tới: Thấu hiểu và cảm thông cho số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Có thể bạn sẽ thích 🌼 Phân Tích Trao Duyên 18 Câu Đầu 🌼 10 Bài Cảm Nhận Hay
Phân Tích 16 Câu Cuối Trao Duyên Ngắn Hay – Mẫu 8
Dưới đây chia sẻ bài văn phân tích 16 câu cuối Trao duyên ngắn hay để các em học sinh cùng tham khảo và linh hoạt vận dụng khi làm bài.
Văn học Trung đại Việt Nam đã có những trang viết đầy nhân văn về hình ảnh người phụ nữ xưa. Các tác phẩm không chỉ hướng đến khẳng định vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất đáng trân trọng mà còn tái hiện số phận đầy đau thương, bất công của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Đó là nàng Vũ Nương hiền hậu thủy chung nhưng có cuộc đời đầy oan khuất trong Chuyện người con gái Nam Xương, là người chinh phụ đầy sầu muộn với khát khao hạnh phúc cháy bỏng trong Chinh phụ ngâm.
Cũng viết về đề tài người phụ nữ trong xã hội phong kiến, đại thi hào Nguyễn Du đã mang đến những cảm nhận sâu sắc mà đầy xót xa về cuộc đời bất hạnh của người con gái tài hoa bạc mệnh Thúy Kiều. Qua đoạn trích Trao duyên, tác giả Nguyễn Du đã khắc họa rõ nét bi kịch cùng những đớn đau đến tột cùng của nàng Kiều trước cơn bão tố của cuộc đời.
Kim-Kiều tình cờ gặp nhau rồi nảy sinh tình cảm mà nên duyên đôi lứa. Tình cảm ấy những tưởng được hạnh phúc vẹn tròn nhưng ai nào ngờ biến cố bất ngờ ập đến. Gia đình Kiều bị hãm hại, lâm vào biến cố, Kiều không còn cách nào khác để vẹn chữ “hiếu” đành bán mình chuộc cha và em. Chấp nhận bán mình để cứu gia đình đồng nghĩa với việc Kiều phải bỏ lỡ mối lương duyên trời ban cùng Kim Trọng.
Để vẹn toàn bên hiếu, bên tình, Thúy Kiều đã quyết định trao duyên lại cho Thúy Vân, nhờ em thay mình nối tiếp tình duyên còn dang dở với chàng Kim. Những tưởng cậy nhờ em xong thì lòng Kiều sẽ nhẹ nhõm hơn, nhưng không phải, trái tim nàng như thêm đau, đau đến tột cùng. Trong 16 câu thơ cuối khép lại trích đoạn Trao duyên, bao lời nói tuôn ra như tiếng khóc nghẹn lòng, đầy xót xa, bi ai và cả phẫn uất. Nàng than khóc cho số phận mình, nói với Vân mà như nói với chính mình:
“Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin giọt nước cho người thác oan.”
Nàng khóc cho phận mình, không chỉ thương cho số phận hẩm hiu mà nàng còn dự cảm đến cái chết. Và dẫu có rời xa nhân thế thì lòng nàng vẫn mang nặng lời thề nguyện năm xưa, vẫn trọn tình thủy chung với chàng Kim. Tình cảm của Kiều quá sâu nặng, thương Kim nhưng đành lỡ hẹn cả cuộc đời, gửi gắm tình mình ở một cõi khác. Thật là một người con gái nặng tình, nặng nghĩa.
Những lời lẽ sau cùng Kiều dành trọn tình cảm của mình cho người yêu:
“Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi
Phận sao phận bạc như vôi?
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”
Chấp nhận hy sinh tình yêu của mình, Kiều luôn tự thấy mình là kẻ bội tình với chàng Kim, nàng nhận mình là người có lỗi. Phận duyên ngắn ngủi ngần ấy, gửi Kim Trọng tiếng xin lỗi bằng tiếng chân thành, rồi nàng trách móc sao phận bạc cho duyên tình lỡ làng.
“Ôi Kim Lang ! Hỡi Kim Lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”
Hai tiếng “Kim Lang” gọi lên trong tuyệt vọng như chính lòng Kiều cũng tuyệt vọng từ đây. Tiếng kêu cất lên đắng cay đến xé lòng. Nỗi đớn đau về bi kịch tình yêu ấy thật quá đỗi tàn nhẫn với Kiều.
Đoạn thơ 16 câu cuối “Trao duyên” tuy ngắn mà thật hay, thật cảm xúc. Cả đoạn thơ là tiếng lòng của một người con gái khát khao yêu thương, khát khao được sống trong tình yêu nhưng lại lâm vào bi kịch tình yêu tan vỡ. Bằng tài năng của mình, Nguyễn Du đã tận dụng tối đa sức biểu đạt của ngôn ngữ để dựng nên một bức tranh tâm trạng Kiều đầy đau đớn, xót xa, đầy tuyệt vọng, bi phẫn trong cảnh trao duyên cho em.
Ngoài ra, tác giả còn vận dụng hài hòa nghệ thuật độc thoại, dùng điển tích, điển cố, các thành ngữ dân gian được vận dụng linh hoạt, bộc lộ tâm trạng nhân vật qua cử chỉ, điệu bộ. Tiếng lòng Kiều cất lên trong trái tim của một người con gái nhân hậu, thủy chung, hiếu thảo mà giàu đức hy sinh ấy trở thành bản nhạc không tên lay động trái tim bao thế hệ.
Tiếp tục tham khảo 🍀 Phân Tích Đoạn 2 Trao Duyên 🍀 10 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Phân Tích 16 Câu Cuối Của Bài Trao Duyên Đơn Giản – Mẫu 9
Tham khảo bài văn phân tích 16 câu cuối của bài Trao duyên đơn giản dưới đây với những ý văn ngắn gọn và súc tích.
Một trong những thành công tiêu biểu của Nguyễn Du trong Truyện Kiều là nghệ thuật miêu nội tâm nhân vật. Điều đó được thể hiện rõ trong đoạn trích Trao duyên. Chỉ bằng tầng ngôn từ biểu đạt, Nguyễn Du đã khắc họa thành công dòng tâm trạng của Thúy Kiều trong nỗi đau xót dở dang duyên phận của mình. Những chuyển biến tâm lý của Kiều trong từng lời nói, hành động được Nguyễn Du thể hiện đầy tinh tế, gợi những đồng cảm với nhân vật trong lòng người đọc.
Đành rằng là cậy nhờ em, nhưng là lời cậy nhờ trong tiếc nuối, trong nỗi đớn đau khôn cùng khi phải buông bỏ mối tình không trọn vẹn, trao cho người khác cái hạnh phúc mà mình vốn chắt chiu, gìn giữ bấy lâu. Vừa dứt lời cậy nhờ, Kiều trao lại những kỉ vật tình yêu của mình cho em và dặn dò những chuyện tương lai:
“Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai”
Lời Kiều thốt ra như đẫm giọt lệ thương tâm, vừa xót xa, bi ai lại vừa day dứt, tiếc nuối. Phải yêu Kim Trọng đến nhường nào, chung thủy với Kim Trọng đến ra sao thì Kiều mới đau đớn đến như vậy. Trong nỗi đau đớn tột cùng, Kiều ngậm ngùi nghĩ đến cái chết. Nhưng dẫu có ở chốn suối vàng lạnh lẽo, lòng Kiều vẫn sẽ không quên lời thề son sắt, thủy chung.
Dạ đài cách mặt khuất lời,
Rưới xin giọt nước cho người thác oan.
Bây giờ trâm gãy gương tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!
Nỗi đau lên đến tận cùng, nàng nói với em mà như nói với chính lòng mình, với người thương nơi xa xôi. Lời Kiều thiết tha, mang nỗi xót xa, tuyệt vọng, mang nỗi phẫn uất, đớn đau, mang cả những luyến tiếc, nhớ thương và cả trăm ngàn những ngổn ngang:
“Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi
Phận sao phận bạc như vôi!
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng
Ôi Kim Lang! hỡi Kim Lang!
Thôi thôi! Thiếp đã phụ chàng từ đây.”
Yêu Kim Trọng bao nhiêu thì Kiều lại càng trách cứ bản thân mình phụ bạc chàng Kim bấy nhiêu. Một người trân trọng và thủy chung như Kiều luôn mang trong mình mặc cảm tội lỗi. Hành động “trăm nghìn gửi lạy” như lời tạ lỗi mà Kiều gửi đến Kim vì đã phụ chàng, vì đã khiến cho mối tơ duyên trở nên ” ngắn ngủi”, lỡ làng, không trọn vẹn. Trong nỗi xót xa, Kiều trách móc phận mình bạc bẽo, trái ngang. Tiếng gọi Kim Lang trong nghẹn ngào:
“Ôi Kim Lang! hỡi Kim Lang!
Thôi thôi! Thiếp đã phụ chàng từ đây.”
Trong tiếng gọi “Kim Lang” là cả nỗi nhớ thương chất chứa, nỗi đau giằng xé tâm can và những yêu thương tha thiết. Dẫu cho thế nào đi nữa, Kiều vẫn trân trọng chàng Kim, gọi Kim Trọng bằng hai tiếng ” Kim Lang” thầy chân thành.
“Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”
Cho đến cuối cùng, Kiều vẫn nghĩ đến hạnh phúc của người mình thương. Đến cuối cùng, Kiều vẫn tự nhận lỗi về mình, trách chính mình đã phụ bạc.
16 câu cuối của đoạn trích Trao duyên tuy chỉ là một phần nhỏ trong tác phẩm dài 3254 câu thơ lục bát của Truyện Kiều nhưng góp phần không nhỏ trong việc tạo nên thành công cho tác phẩm. Nỗi đau giằng xé của Thúy Kiều khi lâm vào bi kịch tình yêu được lột tả thật chân thực. Ở đó, ta thấy được sự mạnh mẽ, dứt khóa cửa một người con gái hết mực lý trí và cũng thấy được sự yếu đuối nhưng rất mực chân thành của một người phụ nữ thủy chung, giàu tình cảm.
SCR.VN chia sẻ 🍀 Phân Tích 8 Câu Cuối Bài Trao Duyên 🍀 Mẫu Phân Tích Tác Phẩm Đặc Sắc
Phân Tích Bài Trao Duyên 16 Câu Cuối Lớp 10 – Mẫu 10
Bài văn phân tích bài Trao duyên 16 câu cuối lớp 10 dưới đây sẽ giúp các em học sinh có thêm cho mình tư liệu tham khảo phong phú hơn.
Truyện Kiều của Nguyễn Du là một trong những tác phẩm được xem là kiệt tác của nền văn học Việt Nam nói chung và của nền văn học trung đại nói riêng. Tác phẩm có sự ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống văn hóa dân tộc, với các giá trị nhân văn nhân đạo sâu sắc khi phản ánh được hiện thực xã hội bất công, đồng thời thấu hiểu và cảm thông cho số phận con người đặc biệt là người phụ nữ.
Không chỉ đặc biệt xuất sắc ở nội dung, làm nên giá trị của tác phẩm còn là các biện pháp nghệ thuật được Nguyễn Du sử dụng một cách nhuần nhuyễn khéo léo. Bên cạnh bút pháp tả cảnh ngụ tình, miêu tả tâm lý nhân vật một cách ước lệ mà sâu sắc, thì Nguyễn Du còn bộc lộ tâm trạng và tính cách nhân vật thông qua ngôn ngữ độc thoại nội tâm và các cuộc đối thoại, từ đó là sáng rõ diễn biến tâm lý cũng như hoàn cảnh nhân vật.
Trao duyên là một trong những đoạn trích tiêu biểu thể hiện được tài năng nghệ thuật của Nguyễn Du khi làm nổi bật tâm trạng Thúy Kiều trước những biến cố cuộc đời, cũng như làm sáng rõ những nét đẹp trong tính cách của nàng.
Thúy Kiều vốn dĩ là một người con gái có tất cả trong tay, gia đình sang quý, cuộc sống cẩm y ngọc thực, lại được trời phú nhan sắc hiếm có, thông minh vượt bậc, lại có được tình yêu đẹp với chàng Kim Trọng tài hoa hơn người. Những tưởng cứ như thế Kiều sẽ trở thành người con gái hạnh phúc nhất thế gian có trong tay tất cả, nhưng chỉ một cơn sóng gió, một lời vu oan nàng đã không còn gì trong tay, nhà tan cửa nát, trở thành kẻ “yếu” trong xã hội, không thể tự quyết định vận mệnh của bản thân.
Trước tình thế cha và em bị bắt giam, gia sản bị tịch thu, Kiều chỉ đành bán mình làm lẽ cho người ta để lấy tiền chuộc cha và em. Cứ như thế một cô gái tài sắc vẹn toàn, trong hàng vạn người chưa chắc có một, vậy mà nghiễm nhiên trở thành một món hàng mặc người ta ngã giá, định đoạt, giá trị bản thân chỉ còn là mấy trăm lượng vàng, nghe mà thấy xót xa cho một kiếp hồng nhan bạc phận.
Nỗi đau của Thúy Kiều không chỉ dừng lại ở chuyện nhà tan của nát, hay nỗi tủi nhục phải làm thiếp thất, mà còn đến từ bi kịch tình yêu tan vỡ, mà Kiều lại trong vai kẻ bội bạc, phụ lòng Kim Trọng. Dù chuyện gia sự đã giải quyết vẹn toàn, nhưng món nợ tình cảm với Kim Trọng vẫn luôn đè nặng trong lòng nàng, khiến nàng day dứt mãi, dù Kiều đã định sẽ trao duyên cho Thúy Vân nhờ em gái giúp mình nối tiếp tình duyên với Kim Trọng, xem như một phần tạ lỗi và trả lại những ân tình giữa hai người.
Thế nhưng chuyện tình cảm có phải nói trao, nói trả là hết được, duyên Thúy Vân đã nhận, nhưng lòng Kiều chưa lúc nào thôi đau xót, dằn vặt, không chỉ thương cảm cho mối tình yểu mệnh mà còn là đau đớn cho số phận nổi trôi của chính bản thân.
“Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ gió cây,
Thấy hiu hiu gió, thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.
Dạ đài cách mặt, khuất lời,
Rảy xin chén nước cho người thác oan”
Từng lời nói của Kiều dường như lại càng nặng nề tâm trạng, sự u uất, buồn thảm và tuyệt vọng len lỏi trong từng câu chữ. Dường như ta thấy Thúy Kiều không phải là đang tâm sự với Thúy Vân và là đang dặn dò những chuyện hậu sự của một đời người, của một kẻ đang đi vào cõi chết.
Mà nếu xét theo như tâm lý của một người con gái tài sắc, thanh cao như Thúy Kiều, chuyện làm lẽ, bán mình, thêm cảnh tình yêu lâm vào tuyệt vọng thì có lẽ rằng đời nàng dường như đã chết. Sự tuyệt vọng, bế tắc và đau khổ tột cùng đã khiến Kiều có những cái nhìn bi quan về tương lai, chính lẽ đó nàng dặn dò em gái những lời nghe thật thiểu não và ảm đạm.
Nhắc nhở Vân rằng nếu có cùng Kim Trọng gẩy đàn, đốt hương mà thấy tiếng gió hiu hiu quẩn quanh ngọn cỏ, cái cây thì tức là tiếng mình về cùng chung hưởng cảnh yên ấm hạnh phúc. Như vậy lời Kiều ý nhắc đến cái chết oan ức, khó siêu thoát và lòng nàng vẫn còn nặng vương vấn với trần gian, với những người nàng yêu mến.
Không chỉ vậy việc phụ bạc Kim Trọng, Thúy Kiều vẫn không thể hoàn toàn buông bỏ “hồn còn mang nặng lời thề”, thế nên dù trải qua bao nhiêu khổ ải “nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai” thì hồn Kiều vẫn có thể quay về bên cạnh vợ chồng Thúy Vân, chứng kiến cảnh hay người ấm êm mà yên lòng, lúc ấy cũng chỉ mong Vân có thể “Rảy xin chén nước cho người thác oan”, vẫn còn nhớ thương mà giải nỗi oan khuất cho chị.
“Bây giờ trâm gãy bình tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.
Phân sao phận bạc như vôi?
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
Ôi Kim Lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”
Những câu thơ cuối đoạn trích là lời độc thoại nội tâm của Thúy Kiều, ở đây người ta càng thấy rõ hơn được những đau đớn tột cùng mà nàng phải gánh chịu, cùng với tình yêu sâu sắc mà Thúy Kiều dành cho Kim Trọng. Nàng thổn thức “Bây giờ trâm gãy bình tan/Kể làm sao xiết muôn vàng ái ân”, như nói với Kim Trọng cũng là tự nhắc nhở mình về mối duyên tan vỡ đầy tiếc nuối.
Kiều và Kim Trọng từ đây xem như đã hết duyên, vốn dĩ đẹp như trâm vàng, bình ngọc ấy vậy mà lại tan tác, chia lìa, không thể nào hàn gắn. Chính lẽ đó càng làm cho Kiều thêm đau đớn, phần vì mất đi người mình yêu thương, phần vì mặc cảm tội lỗi bội ước lại những lời hẹn thề ái ân bấy lâu với Kim Trọng.
Trước tình cảnh day dứt, tủi khổ Thúy Kiều chẳng còn cách nào khác để tạ tội với Kim Trọng, thế nên nàng chỉ còn cách “Trăm nghìn gửi lạy tình quân”, xem như lời tạ lỗi thiêng liêng và chân thành duy nhất mà Thúy Kiều có thể làm lúc này. Đồng thời Kiều cũng tự nhủ với bản thân “Tơ duyên ngắn ngủi có từng ấy thôi” để lòng đỡ phần đau đớn, cũng là lời gửi gắm đến Kim Trọng tránh cho chàng buồn thương. Cũng qua lời thở than ấy của Kiều, ta còn thấy được sự xót xa, đắng cay và nhiều tiếc nuối, hụt hẫng của nàng trước nghịch cảnh số phận.
Thông qua bi kịch tình yêu, bi kịch gia đình, Kiều có cái nhìn thấu đáo về cuộc đời và thân phận của bản thân, điều ấy bộc lộ rõ trong mấy câu “Phận sao phận bạc như vôi/Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”.
Câu thơ trực tiếp thể hiện nỗi tuyệt vọng, bế tắc, sự hoang mang, bế tắc của Thúy Kiều, một người con gái thông minh, mạnh mẽ nhưng đứng trước những biến cố khủng khiếp nàng cũng không tránh khỏi gục ngã, sụp đổ. Kiều tự xót thương cho số phận mình, ví mệnh nàng bạc như vôi, nhạt nhẽo, không một chút sắc hồng may mắn, rồi lại đem so với cảnh hoa rơi trên nước, để mặc cuộc đời đẩy đưa, chẳng biết sẽ dạt về đâu và héo tàn như thế nào.
Những liên tưởng ấy khiến người ta không khỏi xót xa, tội nghiệp cho người con gái bạc mệnh. Cuối cùng khi chìm trong những đớn đau tuyệt vọng cùng cực Kiều đã cất lên tiếng than khóc đoạn trường “Ôi Kim lang, hỡi Kim lang/Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”. Kết thúc một mối tình tuyệt đẹp, kết thúc một cuộc đời xuân sắc tươi vui, khởi đầu cho những bi kịch chồng chất trong suốt 15 năm trời đằng đẵng.
Trao duyên là đoạn trích đặc sắc bộc lộ rõ nhiều sắc thái tâm trạng cũng như những nét tính cách, phẩm chất tốt đẹp của Thúy Kiều. Bằng nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ đối thoại cùng với độc thoại nội tâm, mà diễn biến tâm lý nhân vật được lột tả một cách chân thực, rõ nét, những bi kịch trong cuộc đời Kiều càng được khắc sâu ấn tượng.
Bên cạnh đó cũng thể hiện được tấm lòng nhân đạo tiến bộ của Nguyễn Du trong việc xây dựng hình tượng nhân vật Thúy Kiều không chỉ là một tấm gương đạo đức, thấu hiểu lý lẽ mà còn là một con người trần thế, có đủ hỉ nộ ái ố, dù lý trí nhưng cũng không giấu nổi những đau thương, mềm yếu trong lòng.
Khám phá thêm 🔥 Sơ Đồ Tư Duy Truyện Kiều Nguyễn Du 🔥 14 Mẫu Vẽ Tóm Tắt Hay