Liên Hệ Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính ❤️ 22+ Mẫu Mở Rộng Hay ✅ Văn Mẫu Liên Hệ Mở Rộng Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính.
Cách Liên Hệ Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính Của Phạm Tiến Duật
Hướng dẫn cách để có thể liên hệ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật đơn giản nhất với các bước sau đây:
- Bước 1: Phân tích
- Giới thiệu tác giả Phạm Tiến Duật.
- Giới thiệu “bài thơ về Tiểu đội xe không kính”, hoàn cảnh sáng tác.
- Phân tích hình tượng người chiến sĩ lái xe trong “bài thơ về Tiểu đội xe không kính”.
- Bước 2: Liên hệ
- Ví dụ liên hệ với hình tượng người lính trong “Đồng chí”
- Nếu điểm giống nhau, khác nhau giữa 2 người lính ở 2 bài thơ.
- Đặc sắc nghệ thuật của từng tác giả.
- Bước 3: Đánh giá
- Đánh giá chung về “bài thơ về Tiểu đội xe không kính”.
- Có thể liên hệ với tinh thần yêu nước của thế hệ trẻ ngày nay.
Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính Liên Hệ Với Bài Nào
SCR.VN chia sẻ đến bạn một số bài thơ, bài văn khác có thể liên hệ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, xem ngay bên dưới nhé!
- Liên hệ “bài thơ về Tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật với bài “Đồng chí” của Chính Hữu.
- Liên hệ “bài thơ về Tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật với bài “Tây Tiến” của Quang Dũng.
- Liên hệ “bài thơ về Tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật với bài “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê.
Các bạn học sinh tham khảo cách 🌸 Soạn Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính 🌸 chi tiết!
Những Mẫu Liên Hệ Mở Rộng Bài Về Tiểu Đội Xe Không Kính Hay Nhất
Dưới đây là những bài văn liên hệ mở rộng “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” hay nhất, xem ngay nhé!
Liên Hệ Mở Rộng Bài Tiểu Đội Xe Không Kính Đặc Sắc
Tham khảo bài văn liên hệ mở rộng “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” đặc sắc mà SCR.VN chia sẻ bên dưới nhé!
Chiến tranh đã đi qua hơn ba mươi năm. Thế nhưng, những ký ức về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thần thánh của dân tộc, ký ức về những con người anh hùng trong một thời đại anh hùng thì vẫn tươi mới, nguyên vẹn mỗi khi ta đối diện từng trang sách trong những tác phẩm văn học của thời kỳ này.
Bằng cảm hứng lãng mạn, kết hợp với khuynh hướng sử thi, văn học Việt Nam trong giai đoạn chống Mỹ cứu nước đã xây dựng trong văn thơ tượng đài những chiến sĩ anh hùng. Họ là những “Thạch Sanh của thế kỷ XX”. Chiến công của họ đẹp và phi thường như huyền thoại.
Có hai tác phẩm được coi là tiêu biểu cho cảm hứng ngợi ca người chiến sĩ anh hùng của văn học thời kỳ này, đó là “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật và “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê. Mỗi tác phẩm là một bức tranh đẹp về hình tượng người chiến sĩ điển hình cho thế hệ trẻ Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh quang vinh.
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” được nhà thơ Phạm Tiến Duật sáng tác năm 1969, rút từ tập thơ “Vầng trăng, quầng lửa” là một bài thơ độc đáo trong chùm thơ được giải nhất cuộc thi thơ Báo Văn nghệ năm 1969 – 1970. Bài thơ khắc họa vẻ đẹp người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn ác liệt. Vẻ đẹp độc đáo được thể hiện ngay trong tên gọi của bài thơ. Đó là sự thống nhất giữa hai sự vật tưởng như tương phản gợi ấn tượng về chất thơ lãng mạn và sự trần trụi khốc liệt.
Khai thác đề tài chiến tranh, tác giả không chỉ tô đậm tính chất ác liệt, tàn khốc nhằm làm nổi bật sự phi thường của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam mà Phạm Tiến Duật đã có cách nhìn, cách cảm khá mới lạ và thú vị. Từ trong sự tàn khốc ấy, chất thơ vẫn cứ tuôn trào!
Câu thơ mở đầu như một lời tự sự xen lẫn miêu tả:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi
Nó có tác dụng vừa lý giải sự bất thường của hình ảnh chiếc xe độc đáo “không có kính” vừa tô đậm sự ác liệt của chiến trường “bom giật, bom rung…” Đây là hình ảnh vừa lạ vừa chân thực. Lạ là vì trong thơ, người ta thường chọn những sự vật hoàn thiện, hoàn mỹ để miêu tả nhằm tạo thiện cảm với người cảm nhận nó. Với những chiếc xe cũng vậy! Phải sang trọng, bóng loáng chứ sao lại trần trụi, méo mó, biến dạng thế này!
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Nhưng đấy là sự thật. Không phải một chiếc như thế mà tác giả nhìn thấy cả một tiểu đội xe như thế! Bởi vì thời điểm mà bài thơ ra đời có thể nói là ác liệt nhất trong thập niên 60 của thế kỷ XX. Đường Trường Sơn – nơi vận chuyển vũ khí lương thực vào chi viện Miền Nam – những năm tháng này là “túi bom, chảo lửa”. Và trên nền hiện thực tàn khốc ấy đã xuất hiện hình ảnh đẹp đẽ, phi thường của người chiến sĩ lái xe. Làm chủ những phương tiện ấy, người chiến sĩ không hề nản chí hay run sợ mà trái lại, lại bình tĩnh đến lạ thường:
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Vẻ đẹp kiêu hùng được toát ra từ tư thế ngồi “ung dung” đến cái nhìn “nhìn thẳng”. Các từ láy “ung dung” cùng với nhịp thơ nhanh, đều, dứt khoát 2/2/2 diễn tả vẻ đẹp khoan thai, thản nhiên, tự tin của người chiến sĩ. Điệp từ “nhìn” gợi lên sự nối tiếp liên tục của những hình ảnh chiến trường như một đoạn phim đang quay chậm:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái
Các thủ pháp nhân hóa, so sánh, ẩn dụ đã góp phần làm cho hình ảnh thơ thêm sinh động. Tưởng rằng làm chủ những chiếc xe không kính, người chiến sĩ chỉ thấy những khó khăn chồng chất khó khăn. Nhưng không! Nó đã làm tăng những cảm giác mới mẻ mà chỉ có người chiến sĩ khi ngồi trên những chiếc xe như thế mới cảm nhận được một cách rõ ràng, mãnh liệt…
Hình ảnh “gió vào xoa mắt đắng”, “con đường chạy thẳng vào tim” tạo ấn tượng độc đáo. Chiếc xe như đang trôi bồng bềnh trong thiên nhiên hoang dã của núi rừng Trường Sơn hùng vĩ. Chất thơ cùng với vẻ đẹp lãng mạn toát lên từ đó. Nhưng có thể nói đẹp nhất là thái độ, tinh thần dũng cảm bất chấp gian khổ để chiến đấu và chiến thắng:
Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Vẻ đẹp được toát lên từ lời thơ giản dị, giàu “chất lính”, hình ảnh thơ mộc mạc. Điệp ngữ “ừ thì”, “chưa cần” vang lên như một lời thách thức, chủ động chấp nhận gian khổ. Một giọng thơ tự tin, ngang tàng. Một tiếng cười “ha ha” hồn nhiên. Tất cả đã toát lên vẻ đẹp của người chiến sĩ lái xe.
Đời sống chiến trường gian khổ là thế. Sự sống và cái chết ở đây chỉ là gang tấc. Thế nhưng tình yêu thương đồng chí, đồng đội vẫn tỏa sáng lạ thường.
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Có thể nói rằng, khai thác chất liệu nghệ thuật của đời sống chiến tranh, Phạm Tiến Duật đã rất thành công trong việc khắc họa người chiến sĩ lái xe Trường Sơn bằng những hình ảnh, chi tiết vừa chân thực, gân guốc, mộc mạc vừa lãng mạn nên thơ.
“Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim”.
“Trái tim” ở đây chính là trái tim chứa chan tình yêu Tổ quốc đã giúp người chiến sĩ lái xe làm nên những kỳ tích phi thường. Vẻ đẹp hào hùng của họ tỏa sáng cả bài thơ; đủ làm sống lại trong lòng chúng ta một thời oanh liệt của anh bộ đội cụ Hồ. Chất anh hùng ca dào dạt tạo nên vẻ đẹp của người chiến sĩ cách mạng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Cùng với chủ đề ngợi ca vẻ đẹp người chiến sĩ, nhưng khác với nhà thơ Phạm Tiến Duật trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, nhà văn Lê Minh Khuê trong “Những ngôi sao xa xôi” đã đi tìm và khai thác vẻ đẹp ấy qua hình ảnh của những cô gái thanh niên xung phong.
Truyện viết về cuộc sống và chiến đấu vô cùng gian khổ của những nữ thanh niên xung phong – những cô gái “Ba sẵn sàng” trên tuyến đường Trường Sơn chống Mỹ cứu nước vĩ đại của dân tộc. Mặc dù cốt truyện đơn giản, nhưng tác giả đã rất thành công trong việc khắc họa vẻ đẹp người nữ chiến sĩ qua miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo và tinh tế.
Nổi bật trong truyện là ba gương mặt đẹp của tổ trinh sát mặt đường. Công việc hàng ngày của họ là đếm bom, rồi lao ra trọng điểm sau những trận bom để đo khối lượng đất đá cần phải san lấp, đánh dấu vị trí bom rơi và phá những quả bom chưa nổ. Một khối lượng công việc vừa đồ sộ vừa nguy hiểm. Cái chết rình rập họ từng phút, từng giờ.
Trong chiến đấu họ gan dạ, dũng cảm, quyết đoán là thế, nhưng trong cuộc sống họ là những cô gái trẻ trung, yêu đời, dễ rung cảm, lắm ước mơ. Là phụ nữ, họ rất thích cái đẹp và thích làm đẹp cho cuộc sống. Họ yêu quý đồng đội trong “tổ trinh sát mặt đường” và cảm phục các anh bộ đội “những người mặc quân phục có ngôi sao trên mũ”.
Với tác phẩm “Những ngôi sao xa xôi”, ngòi bút của Lê Minh Khuê đã miêu tả sinh động, chân thực tâm lí nhân vật; làm hiện lên một thế giới nội tâm rất phong phú nhưng không phức tạp, rất đời thường, giản dị nhưng vô cùng trong sáng và cao thượng của những nữ thanh niên xung phong.
Vẻ đẹp của những “cô gái mở đường” Trường Sơn cùng với vẻ đẹp của người chiến sĩ lái xe trong các tác phẩm văn học chống Mỹ nói chung và trong các tác phẩm của Phạm Tiến Duật và Lê Minh Khuê nói riêng đã giúp cho chúng ta hiểu rõ hơn về ý chí, tâm hồn và nhân cách của thế hệ trẻ Việt Nam trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Sưu tập 🌸 Sơ Đồ Tư Duy Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính 🌸 đầy đủ!
Liên Hệ Bản Thân Bài Tiểu Đội Xe Không Kính Ấn Tượng
Gợi ý cho bạn bài văn liên hệ bản thân “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” ấn tượng nhất, xem thêm bên dưới:
Việt Nam ta đã trải qua bao nhiêu khó khăn, gian khổ, bom đạn, chết chóc. Ngày nay ta được sống trong thời kỳ hòa bình là do công lao to lớn của những người lính. Đã có rất nhiều bài thơ nói về họ – nhưng con người như những vì sao sáng lóa của dân tộc.
Tiêu biểu cho thời kì chống Mĩ cứu nước là “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật. Qua hình ảnh những chiếc xe không kính, Bài thơ đã ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của con người Việt nam. Ba khổ thơ cuối lại càng khắc họa được những vẻ đẹp tiêu biểu của họ: những con người đoàn kết, lạc quan và giàu lòng yêu nước.
Bài thơ được viết năm 1969, in trong tập “Vầng trăng – Quầng lửa“. Được viết khi cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra ác liệt, khắc họa hình ảnh độc đáo của những chiếc xe không kính, qua đó để làm nổi bật hình ảnh những người lính lái xe ở Trường Sơn trong thời kì chống Mỹ với tư thế, tinh thần hiên ngang mà bất khuất.
Ở 3 khổ thơ cuối , người lính lái xe được gợi ra cũng chính từ hình ảnh những chiếc xe không có kính:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Ðã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
“Từ trong bom rơi” có nghĩa là từ trong ác liệt, từ trong cái chết trở về. Vượt qua tuyến lửa, bom rơi, những chiếc xe bỗng tụ nhau thành tiểu đội thật kỳ khôi, thú vị. Chữ “họp” gợi sự đoàn tụ, sự bảo toàn. Có lẽ vì sự yêu thương lẫn nhau nên họ đã vượt qua bao nhiêu khó khăn gian khổ để trở về bên nhau.
Và cái “bắt tay qua cửa kính vỡ rồi “ mới thật tự hào, sảng khoái biết bao! Cái bắt tay đó như là sự chia sẻ, cảm thông lẫn nhau của người lính. Cái bắt tay ấy như lời hẹn chiến thắng, như truyền sức mạnh, như truyền sự tự tin và hào khí tuổi trẻ.
Nhà thơ Chính Hữu cũng đã từng cho thấy sức mạnh của tình đồng chí trong bài thơ “Đồng chí”. Hình ảnh “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” của người lính xưa chính là sự thầm lặng sẻ chia cảnh ngộ và cùng chung lí tưởng sống.
Chân dung tâm hồn của người lính lái xe được gợi ra trên những phẩm chất tốt đẹp. Họ -những con người từ nhiều phương trời, nhiều miền quê, nhưng trong thử thách, họ gắn với nhau thành ruột thịt:
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm.
Sau mỗi trận mưa bom bão đạn cùng với những chiếc xe bị tàn phá nặng nề hơn, họ lại gặp nhau trong những phút dừng chân ngắn ngủi. Lúc đấy họ thật đẹp về tâm hồn và tình cảm. Chữ “bếp”, hình ảnh “bát đũa”,”chiếc võng”…đều là những gì thân thiết trong ngôi nhà của ông bà, cha mẹ ở hậu phương, làm cho hai chữ “gia đình” ẩm cả khổ thơ tiền tuyến. Trong tâm hồn họ, trời như xanh thêm chứa chan hi vọng lạc quan dào dạt.
Điệp từ “lại đi” được lặp lại hai lần gợi tả nhịp sống chiến đấu và hành quân của tiểu đội xe không kính mà không một sức mạnh đạn bom nào có thể ngăn cản nổi. Sự sống không chỉ tồn tại mà còn tồn tại trong một tư thế kiêu hãnh, hiên ngang – tư thế của người chiến thắng.
Ta lại nhớ đến truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê cũng kể về tình đồng đội mà thắm thiết hơn cả tình chị em của ba cô thanh niên xung phong. Có thể nói trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, Phạm Tiến Duật đã có sự phát hiện thật mới mẻ về tình cảm của người lính, của một thế hệ người Việt Nam, với đời sống tình cảm biết bao mới lạ và sâu sắc.
Cuối bài thơ, tác giả đưa ra một ý tưởng thật bất ngờ – đó là “trái tim cầm lái”
Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước,
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Điệp ngữ “không có” lặp lại ba lần như nhân lên hết những cái khó khăn, khốc liệt của chiến tranh. Không có kính, không đèn, không có cả mui. Thế nhưng, xe vẫn bon bon lăn bánh trên con đường ấy, bất chấp tất cả mọi hiểm nguy. “Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước“, câu thơ đã phần nào lột tả ý chí chiến đấu vì miền Nam, vì Tổ quốc của những người lính lái xe quả cảm.
Lí tưởng sống của thanh niên Việt Nam trong những giai đoạn cách mạng vừa qua là sống chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Còn lý tưởng sống của thanh niên hiện nay là phát triển đất nước. Người trẻ hiện nay đang được sống trong thời hòa bình, họ ý thức rất rõ trách nhiệm của mình đói với non sông. Lí tưởng sống cao đẹp là điều kiện để con người sống có ý nghĩa; giúp con người hoàn thiện vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách.
Như những học sinh sinh viên khoác trên mình bộ áo xanh tình nguyện đi giúp đỡ người nông thôn xây dựng nhà cửa. Hay những anh lính biển ngày đêm canh gác vì tương lai của đất nước. Thế hệ ngày nay có những trách nhiệm, những xứ mệnh, những vinh quang và thách thức của mình. Bước chân sang thế kỉ XXI, mỗi người trẻ tuổi chúng ta cần nâng cao tinh thần học tập, rèn luyện, luôn mang trong mình một trái tim tự hào về dân tộc ta.
Tóm lại hình ảnh những chiếc xe không kính với trái tim nồng nàn tình yêu quê hương đất nước bon bon làm nhiệm vụ sẽ luôn là một hình ảnh đẹp trong lòng độc giả nhiều thế hệ. Đọc xong bài thơ, ta càng hiểu hơn về các chiến sĩ lái xe, về lòng dũng cảm, tư thế hiên ngang bất khuất của họ. Chiến tranh đã qua đi nhưng họ sẽ sống mãi với dân tộc.
Lời 🌸 Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính 🌸 và cảm nhận!
Liên Hệ Tác Phẩm Tiểu Đội Xe Không Kính Ngắn Gọn
Nếu vẫn chưa biết cách làm bài văn liên hệ mở rộng tác phẩm “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” thì xem thêm mẫu ngắn gọn sau đây!
Không hiểu vì sao mỗi lần nghĩ đến đất nước và con người Việt Nam, mỗi chúng ta lại nghe vang vọng trong tâm chí những câu thơ của Huy Cận:
Sống vững chãi bốn ngàn năm sừng sững,
Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa
Trong và thực, sáng hai bờ suy tưởng
Sống hiên ngang mà nhân ái, chan hoà.
Sảng khoái biết bao! Tự hào biết bao! Trong tâm trí ta bỗng cuồn cuộn đổ về dòng lịch sử bốn ngàn năm của dân tộc. Bừng sáng trong tâm hồn ta bốn ngàn năm của cha ông với những chiến công dựng nước và giữ nước, với trời bể ân tình thuỷ chung, yêu thương đùm bọc nhau.
Mọi cuộc chiến tranh rồi sẽ qua đi, bụi thời gian có thể phủ dày lên hình ảnh của những anh hùng vô danh nhưng văn học với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã khắc tạc một cách vĩnh viễn vào tâm hồn người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước đã ngã xuống vì nền độc lập của Tổ quốc trong suốt trường kỳ lịch sử. Ta nhớ những người lính lái xe dũng cảm trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật.
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật là tác phẩm xúc động, hào hùng về những người lính thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn. Tác giả đã đi sâu khám phá vẻ đẹp của những người lính trẻ, những con người ngày đêm ra tiền tuyến vì miền Nam ruột thịt.
Con người hiện lên trong trang thơ, trang văn của Phạm Tiến Duật là một tập thể anh hùng đầy hiên ngang khí phách hào hùng, đã lắng nghe họ sống để ghi lại cái nhịp sống hào hùng, ghi lại vẻ đẹp tâm hồn, bản chất anh hùng của những con người giản dị, mộc mạc mà ngang tàng bất khuất.
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật là những dòng tâm sự đầy tình cảm về những đồng đội của nhà thơ, những người đã từng sống, từng chiến đấu trên tuyến đường Trường Sơn khói lửa. Phạm Tiến Duật không chỉ tái hiện lại hình ảnh của những chiếc xe không kính mà còn khắc tạc hình ảnh của những người lính lái xe kiên cường, dũng cảm, ngang tàng với một đời sống tình cảm hết sức phong phú – tình đồng đội đồng chí.
Phạm Tiến Duật đã khắc tạc một cách sâu sắc vào tâm trí người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước, của dân tộc trên những chiếc xe đặc biệt:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Bình thường, những chiếc xe không kính không thể gọi là cái đẹp. Ấy thế mà tác giả đã lấy hình tượng đó làm cảm hứng xuyên suốt của bài thơ. Hình tượng độc đáo nhưng hợp lý này đã có tác dụng gây ấn tượng mạnh, là cơ sở để làm nổi bật phẩm chất dũng cảm, sự lạc quan và quyết tâm dành chiến thắng của anh lính lái xe thời chống Mĩ.
Xưa nay, những hình ảnh xe cộ, tàu thuyền nếu đưa được vào thơ thì thường được “mĩ lệ hóa”, “lãng mạn hóa” đi rồi và thường mang ý nghĩa tượng trưng hơn là tả thực (chiếc xe tam mã trong thơ của Puskin, con tàu trong bài Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên, đoàn thuyền đánh cá trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận). Nay chiếc xe không kính của Phạm Tiến Duật là một hình ảnh thực, thực đến trần trụi. Tác giả giải thích nguyên nhân cũng rất thực:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Hình ảnh thực này được diễn tả bằng hai câu thơ rất gần với văn xuôi, lại có giọng thản nhiên càng gây sự chú ý về vẻ khác lạ của nó. Những “bom giật, bom rung” làm vỡ kính xe. Bom đạn chiến tranh làm cho những chiếc xe ấy biến dạng. Bom đạn đã tàn phá làm những chiếc xe ban đầu vốn tốt, mới trở thành hư hỏng: không còn kính chắn gió, không mui không đèn, thùng xe bị xước.
Hình ảnh chiếc xe không kính vốn không hiếm trong chiến tranh, nhưng phải có hồn thơ nhạy cảm với nét ngang tàng và tinh nghịch, thích cái lạ như của Phạm Tiến Duật mới nhận ra được và đưa nó vào thành hình tượng thơ độc đáo của thời chiến tranh chống Mỹ.
Không tô vẽ, không cường điệu và tả thực, nhưng chính cái thực đã làm người suy nghĩ, hình dung mức độ ác liệt của chiến tranh, bom đạn giặc Mỹ. Hình tượng những chiếc “xe không kính” đã gợi lên những nguy hiểm cận kề. Sự hy sinh, cái chết đã ở đâu đó, rất gần những người lính.
Mục đích Phạm Tiến Duật miêu tả những chiếc xe không kính là nhằm ca ngợi những chiến sĩ lái xe. Đó là những con người trẻ trung, tư thế ung dung, coi thường gian khổ, hy sinh.
Hình ảnh những chiếc xe không kính đã làm nổi rõ hình ảnh những chiến sĩ lái xe ở Trường Sơn. Thiếu đi những điều kiện, phương tiện vật chất tối thiểu lại là một cơ hội để người lính lái xe bộc lộ những phẩm chất cao đẹp, sức mạnh tinh thần lớn lao của họ, đặc biệt là lòng dũng cảm, tinh thần bất chấp gian khổ khó khăn. Trong buồng lái không kính chắn gió, họ có cảm giác mạnh mẽ khi phải đối mặt trực tiếp với thiên nhiên bên ngoài. Những cảm giác ấy được nhà thơ ghi nhận tinh tế sống động:
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng
Trong bom đạn khốc liệt của chiến tranh, anh chiến sĩ vẫn giữ vững tư thế hiên ngang hướng về phía trước, thực hiện khẩu hiệu: “tất cả vì tiền tuyến, tất cả vì miền Nam ruột thịt”. Vẻ đẹp kiêu hùng được toát ra từ tư thế ngồi “ung dung” đến cái nhìn “nhìn thẳng”. Tư thế của họ ung dung, hiên ngang mới đàng hoàng làm sao. Con mắt nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng có một vẻ trang nghiêm, bất khuất như lời thề. Họ không thẹn với đất, với trời.
Hay nhất là hai chữ nhìn thẳng – nhìn thẳng vào gian khổ, nhìn thẳng vào hi sinh, không run sợ, không né tránh. Bầu không khí căng thẳng với “Bom giật, bom rung”, vậy mà họ vẫn nhìn thẳng, cái nhìn hướng về phía trước của một con người luôn coi thường hiểm nguy.
Với tư thế ấy, họ đã biến những nguy hiểm trở ngại trên đường thành niềm vui thích. Chỉ có những người lính lái xe với kinh nghiệm chiến trường dày dặn, từng trải mới có được thái độ, tư thế như vậy. Không có kính chắn gió, bảo hiểm, đoàn xe vẫn lăn bánh bình thường. Lời thơ nhẹ nhõm, trôi chảy như những chiếc xe vun vút chạy trên đường.
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật cùng các bài thơ khác là tượng đài lộng lẫy về vẻ đẹp của thế hệ thanh niên Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước đầy gian khổ thử thách mà rất đỗi anh hùng.
Các tác phẩm đi vào những khía cạnh khác nhau của đời sống thời kì chống Mỹ, nhân vật hiện lên từ những khung cảnh, hoàn cảnh khác nhau và bút pháp khắc hoạ cũng mang tính độc đáo, cá biệt nhưng đều góp phần vào tiếng nói chung của dân tộc, tiếng nói khám phá, ngợi ca vẻ đẹp của con người Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
Ra đời gần ba mươi năm, bài thơ vẫn có sức truyền cảm mạnh mẽ đối người chúng ta ngày hôm nay. Nhà thơ đã giúp chúng ta cảm nhận sâu sắc về hình ảnh người lính lái xe một thời gian khổ mà hào hùng, đã quên mình vì quê hương, đất nước. Chúng ta là thế hệ mai sau sẽ sống tiếp nối với truyền thống hào hùng của ông cha xưa kia và để hoàn thành nhiệm vụ hôm nay. Chúng ta tự hào về họ, những người chiến sĩ Trường Sơn:
“Ôi đất anh hùng dễ mấy mươi
Chìm trong khói lửa vẫn xanh tươi
Mưa bom, bão đạn lòng thanh thản
Nhạt muối, vơi cơm miệng vẫn cười”
(Tố Hữu)
Những bài văn 🌸 Thuyết Minh Về Bài Thơ Tiểu Đội Xe Không Kính 🌸 hay nhất!
Liên Hệ Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính Và Đồng Chí Sáng Tạo
Chia sẻ đến bạn đọc bài văn liên hệ mở rộng “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” với “Đồng chí” sáng tạo nhất!
Thuộc thế hệ nhà thơ trẻ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Phạm Tiến Duật luôn thể hiện sự sung sức khi của mình khi sáng tác thơ. Bài thơ về tiểu đội xe không kính là một trong những tác phẩm xuất sắc của ông khi khai thác chủ đề về người lính trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Một đề tài không mới nhưng thơ ông vẫn có cái riêng, không lẫn với bất kỳ bài thơ nào.
Liên hệ mở rộng bài thơ về tiểu đội xe không kính với các tác phẩm khác cùng đề tài như Đồng Chí để thấy được những đóng góp của ông đối với thơ ca Việt Nam giai đoạn này.
Bài thơ về tiểu đội xe không kính là tác phẩm thuộc chùm thơ của Phạm Tiến Duật được tặng giải Nhất cuộc thi thơ của báo Văn nghệ năm 1969-1970. Bài thơ gây ấn tượng với người đọc ngay từ cái nhan đề , không phải tiểu đội xe không kính mà phải đầy đủ là “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” Tức là những khúc ca đầy hào sảng của những người lính Trường Sơn trên những chiếc xe không có kính.
Chúng ta đều biết những năm 69-70 là thời kỳ Mỹ ném bom rất dữ dội trên tuyến đường giao thông huyết mạch Trường Sơn, những chiếc xe vào chiến trường đều chung số phận “không có kính”, “không có đèn”, “thùng xe thì xước”… khó khăn và thiếu thốn đủ bề, gian nguy và chết chóc cận kề nhưng người lính lái xe vẫn không hề nao núng. Chiếc xe vẫn bon bon chạy, tiến thẳng về miền Nam phía trước vì trong xe có trái tim rực cháy nhiệt huyết cách mạng.
Giọng điệu thơ có vẻ ngang tàng, phóng khoáng khi người lính miêu tả về những chiếc xe và ngoại hình khác thường của mình: Không có kính không phải vì xe không có kính. Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi… Bụi phun tóc trắng như người già” Sự ngang tàng của người lính thể hiện cái cười lạc quan, thách thức bom đạn và những khó khăn của chiến tranh, vượt lên trên hoàn cảnh nghiệt ngã để tìm niềm vui.
Dù không có kính, dù xung quanh là bom rơi, đạn giật nhưng người lính vẫn “ung dung” với tư thế bình tĩnh đến cảm phục và tư thế “nhìn thẳng về phía trước” để đối diện với tất cả hiểm nguy, gian khó, sẵn sàng vì độc lập, vì tiền tuyến. Hình ảnh tiểu đội xe không kính là biểu tượng cho tinh thần chiến đấu tuyệt vời của những người lính bộ đội Hồ Chí Minh vượt Trường Sơn hướng tới miền Nam.
Cũng nằm trong đề tài về hình ảnh người lính trong kháng chiến nhưng Tiểu đội xe không kính: khai thác vẻ đẹp người lính trong kháng chiến chống Mỹ với vẻ đẹp ngang tàng, lạc quan chiến thắng hoàn cảnh khó khăn, tinh thần chiến đấu hết mình vì độc lập. Đồng Chí của Chính Hữu lại khai thác vẻ đẹp người lính trong kháng chiến chống Pháp những ngày đầu nhập ngũ, chung chăn, chung chiến đấu, chung lý tưởng và là cơ sở để hình thành tình đồng chí.
Người lính trong thơ “Chính Hữu” xuất thân từ những làng quê nghèo khó nước mặn đồng chua, đất cày sỏi đá, những buổi đầu nhập ngũ họ là những người xa lạ, chưa biết gì về nhau. Nhưng cũng chính nhờ điểm tương đồng ở hoàn cảnh xuất thân, những thiếu thốn của buổi đầu nhập ngũ, cho đến những đêm rét bên nhau chờ giặc tới đã khiến họ trở thành “đôi tri kỉ”. Chất hiện thực và lãng mạn đều có trong “Đồng chí”, tình đồng đội anh em cũng vô cùng bền chặt nhưng do thời điểm sáng tác khác nhau, cảm hứng khác nhau nên hai bài thơ vẫn có những điểm khác nhau.
Chúng ta thấy trong “Tiểu đội xe không kính” là giọng thơ ngang tàng, sôi nổi, trẻ trung, là hiện thực nghiệt ngã nhưng vẫn không thắng nổi chất thơ, chất lãng mạn bàng bạc trong tác phẩm. Chúng ta thấy tâm hồn những người lính trẻ trung, yêu đời, khí phách và phản ánh đúng nét đặc trưng của thế hệ thanh niên trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Còn người lính trong thơ Chính Hữu là người lính buổi đầu nhập ngũ nên vẫn còn cái e dè, ngại ngùng của những chàng trai mới xa quê, cái chất lãng mạn, hào hoa chưa đậm đặc so với “Tiểu đội xe không kính”.
Sự thay đổi của thời kỳ lịch sử đã mang đến cho các tác giả nhưng cách tiếp cận mới mẻ hơn, phong phú hơn. Đó là lý do vì sao “Tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật mang đậm hơi thở thời đại. Tác phẩm cũng khẳng định phong cách thơ Phạm Tiến Duật nhất quán trong suốt sự nghiệp: có giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, tinh nghịch mà sâu sắc. Đó là lý do nhiều năm qua “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” vẫn là một trong những bài thơ đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của Phạm Tiến Duật.
Đọc thêm 🌸 Nhận Định Về Đất Nước 🌸 sưu tập!
Liên Hệ Tiểu Đội Xe Không Kính Với Đồng Chí Xuất Sắc
Mẫu bài văn liên hệ mở rộng “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” với “Đồng chí” xuất sắc nhất đã được biên soạn ở dưới, xem ngay bạn nhé!
Chiến tranh đã đi qua nhưng dư âm về những năm tháng bom dồn lửa đạn vẫn đọng mãi trong tâm trí người dân Việt Nam yêu nước. Họ nhớ về những năm tháng chiến đấu oanh liệt, nhớ đến sự hi sinh gian khổ của người lính trẻ.
Cùng họ chiêm nghiệm lại thời kì vang dội đó, hai áng thơ “Đồng chí” của Chính Hữu và “Bài thơ về tiểu dội xe không kính” của Phạm Tiến Duật sẽ khắc họa lại hình ảnh người lính trong lực lượng quân đội nhân dân Việt Nam ở hai thế hệ khác nhau nhưng trong họ có nhiều nét đẹp chung của người lính cách mạng và của con người Việt Nam trong các cuộc kháng chiến cứu nước.
Trước hết, hình ảnh người lính trong hai bài thơ đều là những con người bình dị, mộc mạc, thấm nhuần tinh thần yêu nước, khát vọng độc lập tự do. Mặc dù, họ có sự khác biệt về hoàn cảnh chiến đấu và xuất thân nhưng họ mang trong mình nét đẹp bình di, thuần khiết, sẵn sàng hi sinh vì Tổ Quốc.
Những vần thơ của “Đồng chí” được Chính Hữu viết lên vào tháng 5/1948 của những ngày đầu giặc pháp quay trở lại xâm lược nước ta sau cách mạng tháng Tám, nên cuộc sống của những người lính vô cùng khó khăn, vất vả, thiếu thốn trăm bề ở chiến khu. Hiểu được nỗi đau của dân tộc, nghe theo tiếng gọi của tổ quốc, những anh nông dân nghèo bỏ lại sau lưng ruộng đồng, “bến nước gốc đa” sẵn sàng vì nước quên thân, tình nguyện ra nhập ngũ cầm lấy khẩu súng cách mạng:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
Khác với Chính Hữu, “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” được Phạm Tiến Duật cho ra đời vào thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tháng 5 năm 1969. Vào thời điểm lúc bấy giờ là cột mốc đánh dấu cuộc kháng chiến của quân và nhân dân ta đang trong thời kì khốc liệt nhất nhưng miềm Bắc nước ta đã hoàn toàn giải phóng, đã được sống trong thời bình.
Những người lính trong bài thơ là những chàng trai trẻ, có tri thức, được giác ngộ lí tưởng cách mạng cao cả, họ sẵn sàng gác lại những ước mơ hoài bão của tương lai để cuống hiến tuổi thanh xuân theo tiếng gọi của miền Nam ruột thịt.
Hiện lên trang thơ của Phạm Tiến Duật là những người lính thật ngang tàng, yêu đời, dũng cảm và hóm hỉnh. Từng giây, từng phút, các anh phải đối mặt với nhiều gian khổ và sự ác liệt, dữ dội của bom đạn quân thù. Những gian khổ hiện hình trong hình ảnh của những chiếc xe không kính, không đèn, không mui xe, thùng xe có xước. Gian khổ luôn rình rập xung quanh các anh, cái chết như kề bên những các anh lúc nào cũng:
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Trên cái nền của cuộc chiến tranh tàn khốc ấy, hình ảnh người lính hiện lên với tư thế “ung dung”. Tác giả đã sử dụng biện pháp liệt kê “nhìn đất”, “nhìn trời”, “nhìn thẳng” để cho thấy tư thế vững vàng, hiên ngang, bình thản của những người lính. Họ không run sợ mà dám nhìn thẳng vào bom đạn của kẻ thù, vào con đường đầy khó khăn thử thách, họ hòa nhập vào thiên nhiên hùng vĩ, đối diện với sựi tàn khốc của cuộc chiến “gió vào xoa mắt đắng”, “sao trời”, “cánh chim” như “sa”, “ùa” vào buồng lái.
Và chính bởi tinh thần lạc quan, quên đi cái chết, quên đi sự khốc liệt của chiến tranh, sự đồng cảm của của một người lính đối với cảm xúc của nhà thơ, Phạm Tiến Duật đã xây dựng lên hình ảnh người chiến sĩ cùng nhau tếu tóa, tinh nghịch “phì phèo châm điếu thuốc” cùng tiếng cười “haha” cho thấy sự sảng khoái như một lời thách thức của họ đối với quân thù. Đó là sức mạnh lớn nhất khiến chiếc xe ấy vẫn băng băng lên phía trước.
Họ tạo cho nhau những tinh thần sảng khoái nhất, họ vẽ lên một tình cảm đồng chí gắn bó thể hiện rõ qua những cái bắt tay chan chứa bao tình cảm “Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi”. Cái bắt tay là sự đồng cảm sâu sắc, là lời động viên thầm lặng, là sự sẻ chia bao nỗi buồn niềm vui, bao khó khăn trên những chặng đường ra trận của những người lính dành cho nhau.
Họ cùng nhau vượt qua mọi gian khổ nơi chiến trường với niềm tin và tinh thần lạc quan được thể hiện qua hình ảnh “Vì miền Nam phía trước” cho thấy trong những chiếc xe không kính có những trái tim yêu nước, luôn hướng về miền Nam với khát vọng cháy bỏng là giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Tác giả đã sử dụng hình ảnh hoán dụ “một trái tim” đã làm nổi bật “trái tim cầm lái” như ngọn lửa luôn hừng hực cháy đỏ trong trái tim trẻ của người lính.
Những người lĩnh trong bài thơ “Đồng chí” cũng đều là những người con yêu quê hương đất nước, mang trong mình trọng trách cứu nước cứu dân vì thế họ quyết tâm chiến đấu hết mình vì sự đọc lập tự do. Sống giữa chiến trường với tinh thần đồng chí thiêng liêng, lòng người nông dân bỗng quặn thắt nhớ mẹ già, vợ dại, con thơ, họ xót xa khi nghĩ về ruộng đồng bỏ hoang, gian nhà trống vắng:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày,
Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay,
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.”
Phạm Tiến Duật kể về nỗi nhớ nơi mái trường của những người lính trẻ, họ nuối tiếc những trang sách vở tinh tươm, phải khép lại những ước mơ đời mình nhưng họ lại hiểu rằng trách nhiệm với quê hương đang ở đó, họ phải quyết tâm vì sự an nguy của đất nước. Họ biến con đường ra trận thành ngôi nhà chung gắn kết trái tim vì tinh thần chống giặc ngoại xâm:
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Bên cạnh đó, hình ảnh người lính trong hai bài thơ đều là những con người giày ý chí, nghị lực, chấp nhận, coi thường và vượt lên trên mọi khó khăn ấy bằng tinh thần lạc quan, bằng tinh thần đồng đội, đồng chí keo sơn, mật thiết. Tìm hiểu bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu hiện lên trong người đọc là hỉnh ảnh người chiến sĩ với hoàn cảnh khó khăn gian khổ:
” Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày”.
Là người trực tiếp tham gia vào cuộc kháng chiến chống Pháp, Chính Hữu hiểu rõ về những gian khổ và thiếu thốn nơi trận tuyến gay go ác liệt. Các anh phải chịu những cơn sốt rét rừng đó là “cơn ớn lạnh”, những cơn sốt đến run người khiến “vầng trán ướt mồ hôi” cùng cảnh “áo rách vai”, “quần có vài mản vá”, “chân không giày”,… Dường như, mọi thiếu thốn, vất vả càng được nhấn mạnh rõ nét hơn khi đặt cạnh cái khắc nhiệt của rừng núi “rừng hoang sương muối”.
Mặc dù trong hoàn cảnh khó khăn và sự khắc nghiệt của thiên nhiên, những người lính ấy vẫn luôn tràn đầy tinh thần lạc quan. Hình ảnh “miệng cười buốt giá” là hình ảnh tiêu biểu cho thái độ lạc quan, coi thường thử thách, khó khăn của người lính. Và cũng chính trong gian khổ này đã nhen nhóm ở họ mối tình cao đẹp- tình đồng chí. Đối với họ tình đồng chí ở đây là món quà thiêng liêng, quý giá nhất mà họ nhận được trong suốt quãng thời gian cầm súng:
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu,
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ,
Đồng chí!”
Không dùng lại ở đó, tình đồng chí cao đẹp của những người lính còn được thể hiện rõ ở sự yêu thương gắn bó và luôn sẵn sàng chia sẻ. Tất cả tình cảm ấy dồn nén, thể hiện qua câu thơ chan chứa bao ý nghĩa: “Thương nhau tay lắm lấy bàn tay”. Những bàn tay chứa chan tình cảm nồng thắm, đồng thời là lời động viên chân thành để những người lính có thêm động lực vượt qua khó khăn, gian khổ. Đây là sự cảm thông mang biết bao hơi ấm, bao tình thương truyền cho họ động lực, sức mạnh bước đi trên chặng đường gian truân phía trước.
Hơn nữa, họ còn cùng nhau “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Hình ảnh “chờ giặc tới” đã vẽ lên một tư thế chủ động, hiên ngang, sẵn sàng chiến đấu quân thù. Tất cả lại càng toát lên vẻ đẹp thiêng liêng của tình đồng chí, họ đoàn kết thành một khối để chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc, họ cùng nhau vững bước không để ai phải theo sau.
Đẹp làm sao giữa rừng hoang sương muối, ở nơi mà sự sống và cái chết giống nhau, những người lính chiến sĩ vẫn ôm súng đứng canh gác quan thù trong đem trăng sáng.
Ở đây người nghe bắt gặp hình ảnh “Đầu súng trăng treo”, một sự hòa quyện giữa chất hiện thực và cảm hứng lãng mạn , là một biểu tượng đẹp của hình ảnh người lính, niểu tượng tượng trưng cho mối tình đồng chí đã khắc sâu trong tâm trí con người. Điều này càng giúp ta hiểu được sự quyết tâm của người lính, cảm phục trước sự hi sinh vì nhau của anh bộ đội cụ Hồ. Tấm lòng của các anh thật đẹp và lớn lao, các anh với một trái tim yêu đất nước, yêu sự hòa bình, khát khao ấm no hạnh phúc đủ đầy cho thế hệ mai sau.
Hai bài thơ cùng khai thác chất liệu thơ từ đời sống thực với những chi tiết thật đến trần trụi của cuộc sống người lính nhưng bút pháp và giọng điệu khác nhau. Với Chính Hữu, ông mang vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội vào thơ còn Phạm Tiến Duật lại tập trung làm nổi bật chủ nghĩa anh hùng, tinh thần dũng cảm, bất chấp khó khăn và bom đạn kẻ thù.
Xuyên suốt hai bài thơ cho thấy cái tình, trách nhiệm công dân của người chiến sĩ trước vận mệnh đất nước. Họ hiện lên gần gũi, thân thương, tự nguyện dấn thân, chấp nhận mọi khó khăn gian khổ, quyết tâm chiến đấu,… với nghĩa tình đồng đội ấm áp đã và đang, sẽ mãi mãi ấp ủ trong trái tim, tất cả là những nét đẹp nổi bật về hình ảnh người lính trong thơ của Chính Hữu và Phạm Tiến Duật.
Trọn bộ bài văn 🌸 Nghị Luận Về Bài Thơ Tiểu Đội Xe Không Kính 🌸 thú vị!
Liên Hệ Đồng Chí Và Tiểu Đội Xe Không Kính Tiêu Biểu
Cuối cùng là bài văn liên hệ mở rộng “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” với “Đồng chí” của Chính Hữu hay nhất, bạn xem qua nhé!
Không sinh ra trong chiến tranh nhưng thế hệ trẻ chúng ta sau này thật may mắn khi được tiếp cận với những bài thơ hay nói về chiến tranh. Nhờ đó mà chúng ta thêm hiểu, thêm yêu về những người lính, về những năm tháng gian khổ.
Bài thơ về tiểu đội xe không kính cũng là một trong những sáng tác hay viết về người lính nhưng ở một khía cạnh khá mới mẻ. Bài thơ được nhà thơ Phạm Tiến Duật viết vào năm 1969, khi ấy, cuộc kháng chiến chống Mĩ của cả nước đang bước vào giai đoạn vô cùng ác liệt.
Những năm tháng chiến đấu, con đường Trường Sơn đã trở nên quen thuộc với nhiều người. Hình ảnh về con đường Trường Sơn cũng được lấy làm nhiều đề tài cho các bài thơ, bản nhạc. Phạm Tiến Duật cũng viết về cung đường Trường Sơn qua lăng kính của một người lính lái xe. Hàng ngày dọc đường Trường Sơn có biết bao nhiêu chuyến xe đi qua, không phải chiếc xe nào cũng lành lặn mà có những chiếc xe đã bị mất tấm kính chắn phía trước khiến chúng trở nên thật đặc biệt:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ mất rồi
Hai câu thơ mở đầu giải thích lý do vì sao mà xe không có kính, lời giải thích thật rõ ràng. Câu thơ cũng khái quát được hình ảnh bom đạn ác liệt của chiến trường. Nhưng giữa cảnh bom đạn ác liệt như vậy, người đọc không hề cái sự run sợ của lính mà chỉ thấy chất thơ ung dung, tự tại:
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng
Hai từ ung dung cho ta thấy được tâm thế tự do, tự tại của người lính. Bom đánh vỡ kính là chuyện nhỏ, bom còn có thể khiến người ta lìa xa cõi đời. Vậy mà người lái xe vẫn “ung dung” “nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”. Những câu thơ tiếp theo lại giống như một thước phim ghi lại những gì mà người chiến sĩ đã nhìn thấy trên con đường mà xe đã đi qua. Giọng điệu thơ đầy đĩnh đạc và mạnh mẽ:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng,
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái
Ở đây, gió đã được nhân hóa để thực hiện hành động “xoa”. Câu thơ đọc lên mang lại sự ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc. Người lính lái xe nhìn thấy gió, nhìn thấy con đường, nhìn thấy sao trời rồi lại nhìn thấy cánh chim. Nhìn thấy gió là bởi xe không có kính, mỗi một vòng bánh xe lăn, đôi mắt lại chạm vào gió khiến tác giả cảm thấy như mình nhìn được thấy gió.
Rồi giữa bầu trời đêm, người lái xe cũng nhìn thấy rõ sao trời. Những từ “nhìn thấy”, “sa”, “ùa” khiến ta thấy nhịp thơ trở nên gấp gáp giống như chiếc xe đang lăn bánh một cách vội vàng trên con đường. Xe đi nhanh là để tránh được bom đạn của kẻ thù.
Những câu thơ tiếp theo, tác giả nhắc đến một cản trở nữa mà người lính lái xe gặp phải trên đường làm nhiệm vụ với chiếc xe không kính đó là bụi:
Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha!
Những câu thơ giàu hình ảnh khiến người đọc như chứng kiến tận mắt một người lính lái xe đầy bụi bặm, phong trần. Những người lính tóc xanh nhưng vì bụi phủ đã khiến mái tóc trở nên bạc trắng như mái tóc người già. Thế nhưng, họ chẳng cần quan tâm. Những nụ cười hồn nhiên và sảng khoái khi nhìn nhau mặt lấm vẫn xuất hiện.
Gió bụi qua đi thì lại đến mưa rừng. Không có kính, quả khiến người lính nếm trải đủ dư vị của thiên nhiên:
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi
Không có kính chắn, lái xe mà gặp mưa thì chỉ có ướt áo. Nhưng với tinh thần cách mạng của mình, chuyện ướt áo chỉ là chuyện nhỏ, dừng xe lại mới là chuyện lớn. Vậy nên người lái xe vẫn tiếp tục di chuyển “lái trăm cây số nữa”. Nỗi gian nan của người lính không đong đếm bằng gió, bụi, mưa mà mong đếm bằng quãng đường họ đã chạy. Câu thơ diễn tả nghị lực phi thường của người lính, họ bất chấp gian khổ, bất chấp hiểm nguy để làm nhiệm vụ.
Niềm vui của những người lính là khi được gặp đồng đội của mình ở giữa rừng:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi
Câu thơ có sự ví von thật ấn tượng khi những chiếc xe cũng có cảm xúc. Chúng gặp nhau và họp thành tiểu đội. Cũng giống như những người lính, mỗi khi lái xe gặp một chiếc xe khác, họ lại đưa tay ra nắm lấy tay nhau qua ô kính vỡ như truyền thêm cho nhau sức mạnh để tiếp tục hành quân. Cuộc gặp gỡ vội vàng mà đầy cảm xúc.
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi, trời xanh thêm
Tác giả Phạm Tiến Duật đã nhắc đến bếp Hoàng Cầm, một loại bếp không khói rất được ưa chuộng trong thời chiến. Những câu thơ cho người đọc cảm giác gần gũi. Những người lính vốn là những người xa lạ nhưng gặp nhau giữa rừng, “chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”. Trên dọc đường đi, người lái xe cũng gặp cảnh võng mắc chông chênh. Đường hành quân dẫu có gian nan thì xe vẫn cứ đi.
Xe không kính, rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim
Những câu thơ cuối cùng diễn tả sự thiếu thốn của người lính lái xe. Xe không có kính, xe không có đèn, xe không có mui. Thế nhưng sự thiếu thốn ấy có là gì. Miền Nam thân yêu đang vẫy gọi, “chỉ cần trong xe có một trái tim” thì xe vẫn cứ chạy. Hình ảnh thơ thật đẹp, nó chứa đựng lý tưởng sống của người chiến sĩ cách mạng lúc nào cũng nghĩ cho người khác.
Cùng viết về những người lính kiên cường, dung cảm vượt qua mọi khó khăn nguy hiểm có thể kể đến như bài “Đồng chí” của Chính Hữu. Những người lính trong hai bài Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính là những người lính trải qua hai cuộc kháng chiến gian khổ chống Pháp, chống Mỹ có những điểm chung: lòng yêu nước, tinh thần quật cường, sẵn sàng hy sinh vì độc lập tự do của Tổ Quốc bất chấp mọi gian khổ, nguy hiểm, gian khổ.
Nếu bài thơ Đồng chí nhấn mạnh vào tinh thần đoàn kết, tương trợ lẫn nhau trong hoàn cảnh chiến đấu thiếu thốn về vật chất. Vẻ đẹp nhất ở những người lính đó là tinh thần đồng đội, đồng chí sâu sắc, thắm thiết xuất phát từ sự chia sẻ, thấu hiểu và tinh thần yêu nước, luôn sát cánh bên nhau trong chiến đấu. Thì tiểu đội xe không kính lại nhấn mạnh tới tinh thần quả cảm, hiên ngang của những người lính lái xe trẻ trung, vui tươi trước thách thức vô vàn nguy hiểm phía trước.
Bài thơ về tiểu đội xe không kính khắc họa hình ảnh độc đáo những chiếc xe không kính qua đó làm nổi bật hình ảnh những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn trong thời kì chống Mĩ với tư thế hiên ngang, tinh thần lạc quan, bất chấp hiểm nguy, ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam sục sôi, quyết liệt. Đó là thế hệ anh hùng, bất khuất, mạnh mẽ.
Con đường Trường Sơn, một con đường huyền thoại. Cảm ơn nhà thơ Phạm Tiến Duật đã cho chúng ta một cái nhìn đấy mới mẻ, đầy lạc quan và yêu đời. Qua bài thơ về tiểu đội xe không kính, chúng ta thấy thêm tự hào về những người lính năm nào.
Liên Hệ Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính Với Những Ngôi Sao Xa Xôi Nâng Cao
Bạn có thể tham khảo bài văn liên hệ mở rộng “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” với “Những ngôi sao xa xôi” dưới đây để biết cách làm!
Thơ ca Việt Nam giai đoạn kháng chiến chống Mĩ cứu nước không chỉ tập trung lên án tội ác của kẻ thù, tái hiện sức mạnh, tinh thần bất khuất, tự cường của quân và dân ta mà qua những bài văn, áng thơ ta còn thấy được chân dung đẹp đẽ, chân thực của những người chiến sĩ.
Ta có thể bắt gặp hình ảnh những người lính kiên cường, bất khuất, lạc quan và luôn giữ vững một niềm tin mãnh liệt vào tương lai độc lập của đất nước qua Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật và truyện ngắn Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê.
Bài thơ về tiểu đội xe không kính được sáng tác vào năm 1968, khắc hoạ vẻ đẹp của những lính lái xe anh dũng trên tuyến đường Trường Sơn xưa. Họ vừa hiên ngang, bản lĩnh lại vừa lạc quan, yêu đời.
” Không kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”
Trên tuyến đường Trường Sơn đầy hiểm nguy, bom đạn khiến xe không còn được nguyên vẹn. Trước tình thế ấy người lính vẫn không hề run sợ, họ đường hoàng vững tay lái trên cùng đường chiến trận:
” Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.”
Những người lính nổi bật với tư thế hiên ngang, bất khuất, chủ động đối mặt với mọi hiểm nguy, chiến đấu vì lý tưởng chính nghĩa. Mưa bom bão đạn của kẻ thù không chỉ tàn phá khiến những chiếc xe trở nên méo mó, biến dạng mà còn gây ra rất nhiều khó khăn, thách thức sức chịu đựng của những người lính lái xe trên những hành trình dài.
” Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái.”
Trước mưa bụi dặm đường, bom đạn chiến trường nếu không vững vàng, kiên định có lẽ họ sẽ nhụt chí, sợ hãi, không thể hoàn thành nhiệm vụ tiếp viện. Nhưng với tâm thế sẵn sàng, lòng quyết tâm, họ xem khó khăn như là lẽ thường:
” Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha
Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa.
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.”
Những người lính có tâm thế đầy bình thản trước sóng gió, dù vất vả thiếu thốn mà nụ cười vẫn nở trên môi “mặt lấm cười ha ha”. Ta như cảm nhận được những niềm vui bình dị nơi họ, tiếng nói vui cười vẫn rộn ràng giữa rừng hoang hiểm nguy.
“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi.”
Họ là những người trẻ cùng chung ý chí, chúng quyết tâm giải phóng dân tộc. Họ gặp gỡ, chung lòng quyết đấu, sau nhiệm vụ về tụ họp niềm nở trao cho nhau những cái bắt tay nhiệt thành, cùng khích lệ, động viên nhau vững lòng cố gắng. Họ giờ đây những người anh em trong một gia đình, tình cảm ấm cúng, dạt dào:
” Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”
Trước đạn bom chiến trường, xe bị thương, bị hỏng, xe bị tàn phá đến trơ tàn nhưng lòng người thì không như thế, ý chí thì không gì có thể bị đẩy lùi. Trái tim người lính vẫn gắn góc băng qua những nẻo đường phục vụ chiến đấu:
“Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe không có xư
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
Với lý tưởng, niềm tin hướng về dân tộc, với một trái tim nhiệt huyết, người chiến sĩ nào có ngại gì giông gió sa trường, vẫn hết lòng chiến đấu hướng về miền Nam ruột thịt, hướng về ngày đất nước giải phóng, nước nhà thống nhất.
Chất lính trong thơ Phạm Tiến Duật vừa vừa ngang tàng, ngạo nghễ, vừa dí dỏm, hóm hỉnh thì chất lính trong “Những ngôi sao xa xôi” được thể hiện qua tinh thần, trách nhiệm và bản lĩnh hơn người của những cô gái thanh niên xung phong. Họ là những cô gái trẻ kiên cường, yêu nước, giàu trách nhiệm nên đã xung phong đi lính ở độ tuổi đẹp nhất tuổi trẻ. Tuổi thanh xuân tươi đẹp của mình họ cống hiến nơi chiến trận.
Cả Nho, Định, Thao đều chiến đấu đầy dũng cảm, hiên ngang, cẩn trọng, cố gắng hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ, hỗ trợ cho cách mạng. Công việc phá bom, lấp hố thật rất hiểm nguy, họ phải đối mặt với cái chết bất kể lúc nào, vậy mà chưa một lần ba cô gái ấy than vãn, hay tỏ ra sợ hãi, luôn đi thẳng, đối mặt với bom bằng một cái đầu tỉnh và một trái tim đầy quả cảm.
Không chỉ thể hiện một tinh thần thép khi thực hiện nhiệm vụ, ba chiến sĩ trẻ làm việc trên tuyến đường Trường Sơn còn là những cô gái yêu đời, hồn nhiên, lấp lánh những yêu thương của tình đồng chí, đồng đội họ dành cho nhau.
Ba người con gái Hà Nội với những cá tính riêng nhưng ở họ đều lấp lánh những phẩm chất đáng tự hào của những người lính trẻ: bất khuất, kiên trung, chẳng ngại gian khổ, xem khó khăn chỉ là thách thức với khát khao chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược.
Phạm Tiến Duật và Lê Minh Khuê đều chọn đề tài người lính làm chất liệu sáng tác, tuy cách thức biểu hiện khác nhau song đều ca ngợi những phẩm chất đầy tốt đẹp của họ. Những tác phẩm văn học ấy luôn mãi là bài ca sáng chói vinh danh những người hùng thầm lặng, cống hiến mùa xuân cuộc đời cho đất nước, Tổ quốc mình.
Sưu tập mẫu 🌸 Cảm Nhận Bài Thơ Tiểu Đội Xe Không Kính 🌸 xuất sắc!
Liên Hệ Tiểu Đội Xe Không Kính Với Những Ngôi Sao Xa Xôi Học Sinh Giỏi
Nếu bạn đang gặp khó khăn khi viết bài văn bài văn liên hệ mở rộng “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” với truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi” thì hãy dành thời gian tham khảo mẫu dưới đây:
Trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đã có biết bao chàng trai, cô gái trẻ đã rời ghế nhà trường, xung phong vào những nơi chiến trường ác liệt nhất. Họ đã cống hiến cả tuổi xuân, cả xương và máu của mình cho Tổ quốc.
Vẻ đẹp của thế hệ trẻ ấy đã được các nhà văn, nhà thơ cách mạng ghi lại bằng những tác phẩm đặc sắc của mình. Trong đó phải kể tới hai tác phẩm rất hay đã thể hiện vô cùng chân thực và sống động hình tượng của những người thanh niên trẻ trong chiến tranh, đó là truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi” của nhà văn Lê Minh Khuê và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”của nhà thơ Phạm Tiến Duật.
Tác phẩm Bài thơ về tiểu đội xe không kính được nhà thơ Phạm Tiến Duật viết năm 1969, trong thời gian mà cuộc kháng chiến chống Mỹ đang vào hồi ác liệt nhất. Nếu như nhà văn Lê Minh Khuê viết về những người nữ thành niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn thì Phạm Tiến Duật lại đi sâu tìm hiểu cuộc sống và chiến đấu của những người lính lái xe cũng ở trên tuyến đường này.
Những người lính lái xe ấy đã cho chúng ta thấy được vẻ đẹp của những người lính bộ đội cụ Hồ trong kháng chiến chống Mỹ. Họ không chỉ trẻ trung với tinh thần ung dung, lạc quan, ngang tàng trước mọi khó khăn mà còn có một tình đồng đội thắm thiết, một lý tưởng mãnh liệt – chiến đấu để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Vẻ đẹp đầu tiên của những người lính lái xe đó là sự trẻ trung, sự lạc quan, ung dung trước mọi hoàn cảnh. Đọc những dòng thơ của Phạm Tiến Duật, ta thấy được những khó khăn, gian khổ, những thiếu thốn vật chất thiết yếu vô cùng mà người chiến sĩ phải trải qua:
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”
Những chiếc xe tải chở quân lương, vũ khí hướng về miền Nam nhưng trên đường đi của họ, những trận bom đạn của kẻ thù dội xuống không ngớt khiến những chiếc xe ấy cứ dần mất đi những bộ phận trên xe. Đầu tiên là những chiếc kính bị “bom giật bom rung” đến vỡ tan rồi đến đèn xe, mui xe, thùng xe, … đều bị biến dạng, méo mó. Vậy nhưng những người lính ấy chẳng một lời than vãn.
Xe không kính thì sao, họ vẫn “ung dung” ngồi trên buồng lái, thẳng tiến vào miền Nam thân yêu. Rồi đến những khắc nghiệt của thiên nhiên, thời tiết, những bụi đất mù mịt, những trận mưa rừng xối xả, … Sự khắc nghiệt ấy với họ chỉ là chuyện “nhỏ”, thậm chí họ còn biến nó thành tiếng cười vui, hân hoan:
“Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc bạc như người già
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha…”
Điệp từ “ừ thi” vang lên như một lời thách thức ngang tàng của người lính trẻ. Trong khó khăn, gian khổ vô cùng họ vẫn cùng nhau cất lên tiếng cười đầy lạc quan. Họ ung dung tiến về miền Nam phía trước, với một mục tiêu duy nhất – giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Vẻ đẹp thứ hai mà ta có thể thấy ở họ là tình đồng chí, đồng đội gắn bó thiết tha. Nếu như tình đồng chí trong bài thơ Đồng chí của nhà thơ Chính Hữu được gây dựng lên từ những điểm chung về xuất thân, từ những ngày họ cùng nhau trải qua gian khó, thì tình bạn, tình đồng chí của những người lính lái xe trong thơ Phạm Tiến Duật lại được dựng xây lên bằng những chiếc “bắt tay” vội vã “qua ô cửa kính vỡ rồi”, bằng những bữa cơm vội quây quần trên đường hành quân:
“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”.
Với những người lính lái xe, những người đồng đội không chỉ là những người đồng chí, chung lý tưởng, với tình đồng đội mà họ đã coi nhau như gia đình của mình. Tình đồng chí đã gắn kết họ, biến họ trở thành những người thân của nhau, tình cảm ấy thật cao đẹp, thật sâu nặng biết mấy. Ở họ – những người chiến sĩ lái xe Trường Sơn, ta còn thấy được một lý tưởng vô cùng cao đẹp, đó là lý tưởng giải phóng miền Nam để thống nhất non sông Việt Nam. Điều đó thể hiện trong lời thơ mà nhà thơ Phạm Tiến Duật viết:
“Lại đi lại đi trời xanh thêm”
Và:
“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
Những người lính – họ chỉ là những người thanh niên mười tám đôi mươi, họ trẻ trung là thế, có biết bao hoài bão, mơ ước còn chưa thực hiện được. Vậy mà họ đã xung phong vào nơi chiến trường ác liệt này, chỉ vì trong tim họ có một lý tưởng, đó là giải phóng dân tộc Việt Nam ra khỏi ách nô lệ, đất nước Việt Nam được hòa bình. Câu thơ của Phạm Tiến Duật đã chứng minh cho lý tưởng cao đẹp ấy của họ. Họ “đi” “lại đi” bởi vì mơ ước được nhìn thấy màu xanh của hoà bình, được nhìn thấy miền Nam được hoàn toàn độc lập.
Câu thơ cuối của bài thơ đã thâu tóm tất cả vẻ đẹp của lý tưởng những người chiến sĩ. Dù trong khó khăn, gian khổ, thiếu thốn, nhưng trái tim nhiệt huyết với lý tưởng được cống hiến sẽ luôn là thứ giúp họ vượt qua tất cả mọi thử thách trên chặng đường đi lên.
Đến với truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi” được nhà văn Lê Minh Khuê viết vào năm 1971, khi chiến tranh chống Mỹ đang vào giai đoạn khốc liệt nhất. Bà viết về những người nữ thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn máu lửa. Những cô gái mới chỉ vừa tròn mười bảy mười tám, vậy mà đã trở thành những người trinh sát mặt đường gan dạ, dũng cảm.
Những cô gái trẻ ấy đã cho ta thấy được vẻ đẹp rạng ngời của thế hệ trẻ những năm tháng chống Mỹ cứu nước. Qua hình ảnh của Nho, của Thao, đặc biệt là Phương Định, ta có thể thấy rõ vẻ đẹp rạng ngời của thế trẻ Việt Nam.
Thao, Nho, Phương Định là ba cô gái thuộc “tổ trinh sát mặt đường” trên tuyến đường Trường Sơn. Nhiệm vụ của họ là “đo khối lượng đất lấp hố bom, đếm bom chưa nổ và nếu cần thì phá bom”. Hoàn cảnh sống và chiến đấu của ba cô gái cũng rất khắc nghiệt và khó khăn. Biết là khó khăn, biết là nguy hiểm nhưng họ hiểu công việc của mình quan trọng như thế nào. Bởi có họ thì những chiếc xe chở đạn dược, vũ khí mới có thể tiến vào miền Nam.
Vẻ đẹp thứ hai ta có thể thấy được ở những người nữ thanh niên xung phong đó là sự dũng cảm, gan dạ, bất chấp tất cả những khó khăn, nguy hiểm. Nhiệm vụ của ba cô gái là đo khối lượng đất, đếm bom, phá bom, chính vì vậy mà họ phải “chạy trên cao điểm cả ban ngày”. Họ biết sự nguy hiểm luôn rình rập bên cạnh mình, khi mà “thần chết” luôn “lẩn trong ruột những quả bom”, chỉ một phút sơ sẩy, ba cô gái có thể hy sinh. Thế nhưng họ đã vượt lên trên tất cả mọi thử thách, nguy hiểm đó để thực hiện nhiệm vụ của mình.
Điều thứ ba ta thấy ở họ là một tinh thần đồng đội gắn bó, cao đẹp. Ba cô gái, ba tính cách khác biệt nhưng lại vô cùng quan tâm, yêu mến và thấu hiểu nhau. Ba con người, ba cô gái đến từ ba quê hương trên Tổ quốc Việt Nam nhưng họ đã gắn bó với nhau bằng tinh thần đồng đội sâu nặng, nghĩa tình.
Sống trong gian khổ, trong hiểm nguy rình rập thế nhưng những người nữ thanh niên xung phong ấy lúc nào cũng mang trong mình một tâm hồn tràn đầy thơ ngây, trong sáng và mơ mộng. Vẻ đẹp của Nho, của Thao hay của Phương Định trong Những ngôi sao xa xôi của nhà văn Lê Minh Khuê đại diện cho vẻ đẹp của thế hệ trẻ Việt Nam giai đoạn kháng chiến chống Mỹ từ 1955 đến 1975.
Tuy được viết bằng hai thể loại khác nhau nhưng hai tác phẩm Những ngôi sao xa xôi của nhà văn Lê Minh Khuê và Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật đều có chung một điểm là đều được viết vào giai đoạn kháng chiến chống Mỹ đang vào hồi ác liệt nhất.
Hơn thế, chúng đều viết về những người thanh niên trẻ trên tuyến đường Trường Sơn trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Dù họ là những người nữ thanh niên xung phong hay là những người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn thì họ đều mang những vẻ đẹp đại diện cho thế hệ trẻ trong những năm tháng chống Mỹ để giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của bọn đế quốc.
Thế nhưng, Những ngôi sao xa xôi và Bài thơ về tiểu đội xe không kính cũng có những khác biệt rất rõ rệt. Thứ nhất là về thể loại, trong khi Bài thơ về tiểu đội xe không kính được viết bằng thể thơ bảy chữ súc tích, với ngôn từ và giọng điệu gần gũi, tự nhiên, pha chút ngang tàng thì Những ngôi sao xa xôi của nhà văn Lê Minh Khuê lại viết bằng thể loại truyện ngắn với vai kể là nhân vật chính với cách kể chuyện tự nhiên, sinh động.
Thứ hai, Những ngôi sao xa xôi kể về những người nữ thanh niên xung phong làm nhiệm vụ đo đất lấp đường, phá bom thì Phạm Tiến Duật lại viết về người lính lái xe làm nhiệm vụ chở đạn dược, vũ khí cho miền Nam ruột thịt.
Hai tác phẩm, hai đề tài, hai thể loại nhưng tựu chung lại, Bài thơ về tiểu đội xe không kính và Những ngôi sao xa xôi đã dựng lên trọn vẹn vẻ đẹp của những người thanh niên trẻ trung, lạc quan đang sống và chiến đấu trong sự ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Họ là biểu tượng cho sức trẻ, cho ý chí, cho tinh thần của thế hệ trẻ Việt Nam trong những năm tháng gian lao mà hào hùng của dân tộc ta.
Tham khảo ngay mẫu 🌸 Phân Tích Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính 🌸 đặc sắc!
Liên Hệ Tây Tiến Với Tiểu Đội Xe Không Kính Hấp Dẫn
Các bạn học sinh đang tìm kiếm bài văn liên hệ mở rộng “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” với “Tây Tiến” thì đừng bỏ qua bài viết này nhé!
Nhắc đến Phạm Tiến Duật là nhắc đến một trong những nhà thơ tiêu biểu của những năm tháng kháng chiến chống Mỹ vĩ đại. Là một người từng trải, lại trực tiếp nắm tay lái trên tuyến đường Trường Sơn nhà thơ đã tạo nên những vần thơ vô cùng mới mẻ. Vừa có nét gì đó tinh nghịch, hóm hỉnh lại không kém phần suy tư. Với bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, Phạm Tiến Duật đã làm sống dậy cả những năm tháng hào hùng của dân tộc.
“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai”
Bài thơ có nhan đề vô cùng độc đáo nó góp phần thể hiện tâm hồn vô cùng lạc quan yêu đời của những chiến sĩ lái xe tiếp viện cho tiền tuyến. Những con người đầy ngang tàng, nhưng cũng không kém phần giản dị chuẩn mực. Hình ảnh của những người chiến sĩ lái xe gắn liền với những chiếc xe không kính, một hình ảnh miêu tả vô cùng chân thực. Bom đạn của giặc đã khiến cho những chiếc xe trở nên thiếu hụt đủ thứ: không đèn, không kính , không mui thậm chí còn xước xác….
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”
Thế nhưng chính vì không có kính nên hình ảnh những người chiến sĩ lái xe mới hiện lên một cách chân thực và tài tình đến vậy. Những con người bất chấp sự thiếu thốn, khó khăn vẫn băng băng lao về phía trước một lòng vì tiền tuyến:
Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái
Đến đây ta thấy nhịp thơ trở nên dồn dập và nhanh đến lạ nó như là những nhịp xe chạy trên đường vậy. Chính vì xe không có kính nên các anh mới có thể cảm nhận rõ nhất những thứ đang ở ngoài đến vậy: thấy gió, thấy con đường, cánh chim, sao trời…. Chỉ có những con người đã trải qua thực tế mới có thể có những cảm nghĩ chân thực đến vậy.
Gió ùa vào làm xoa dịu đi mắt đắng. Mắt đắng ở đây không phải do bụi mà là do thiếu ngủ, chính cơn gió ùa vào nơi cửa đã giúp các anh trở nên tỉnh táo và minh mẫn hơn khi cầm lái. Tất cả những cảnh vật bên ngoài “như sa, như ùa” vào bên trong để các anh có thể nhìn thấy cả con đường chạy thẳng vào tim. Thế nhưng dù thiếu thốn đến vậy khó khăn đến vậy tâm hồn người lính vẫn hết sức lạc quan và ngang tàng:
Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già.
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc.
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Không có kính, ừ thì ướt áo.
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa.
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi!
Có lần bình luận về khổ thơ này nhà thơ Xuân Diệu tỏ ra không hài lòng với cụm từ cười “ha ha”. Thế nhưng biết làm sao được. Có thế mới tạo nên khí phách của các anh có thế mới cảm nhận hết sự sảng khoái hồn nhiên của một tinh thần đầy lạc quan trong những năm tháng kháng chiến gian khổ.
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi, trời xanh thêm.
Dẫu cho phải trải qua ngàn khó khăn ngàn gian khổ thì chỉ cần con người còn có niềm tin còn có say mê thì xe vẫn chạy thẳng về phía trước. Bầu trời kia như xanh thêm khi có các anh có nụ cười của các anh.
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Khổ thơ cuối cùng mang đến cho người đọc nhiều suy ngẫm đặc biệt. Trong khói lửa hoang tàn của chiến tranh mọi thứ đều bị phá hủy. Chiếc xe thảm hại vì không có kính, chẳng có đèn, không có mui mà lại còn xước thế nhưng bom đạn của kẻ thù dường như chẳng thể thắng nổi ý chí con người. Chỉ cần trong buồng lái vẫn còn một trái tim còn đập còn một tinh thần bất diệt thì xe vẫn còn chạy. Đó chính là điều mà nhà thơ muốn gửi gắm, tinh thần yêu nước sẽ trở thành một ngọn lửa bất diệt chiến thắng mọi kẻ thù, nó vượt lên trên hết cả những mũi tên hòn đạn, đạp lên mọi kẻ thù tàn bạo.
Hình ảnh người chiến sĩ lái xe là hình ảnh đại diện cho vô số lớp người chiến sĩ trong khói lửa chiến tranh. Nhà thơ Quang Dũng không khai thác hình tượng người lính lái xe mà khai thác hình ảnh các chiến sĩ đoàn binh Tây Tiến thông qua bài thơ “Tây Tiến”.
Vẻ đẹp của người lính Tây Tiến được khắc họa qua những câu thơ hào hùng và lãng mạn bằng bút pháp đa dạng, ngôn ngữ quen thuộc, độc đáo, kết hợp với các hình ảnh ẩn dụ đầy ý nghĩa:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.”
Người lính giữ cho mình một tư thế oai phong, hùng dũng là “dữ oai hùm” mặc dù đang phải gánh chịu cơn sốt rét. Đằng sau ngoại hình là một sức mạnh tâm hồn lãng mơ về Hà Nội với người thương, giấc mộng ấy đã biến thành động lực giúp người chiến sĩ vượt qua bao gian khổ và thúc họ tiến về phía trước, vượt qua mọi kẻ thù.
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.”
Tuổi trẻ khát vọng của những người lính trẻ tuổi vẫn còn đang ở phía trước nhưng không có tình yêu cao hơn Tổ quốc. Vì vậy khát vọng của họ là được ra đi, được dâng hiến, xả thân. Những người ra đi không ngoảnh lại với tình cảm tươi đẹp đã được thể hiện và trở thành lí tưởng của người chiến sĩ.
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”
Người lính ngã xuống trên chiến trường chỉ có duy nhất manh chiếu sơ sài thậm chí còn chẳng có chiếu. Sự hy sinh của người lính còn được thể hiện với giai điệu của bản anh hùng ca: “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Chữ gầm là tiếng khóc của thiên nhiên, thể hiện cái chết oai hùng của người lính và nâng cái chết lên tầm sử thi.
Chiến tranh tuy đã lùi xa hơn ba mươi năm thế nhưng hình tượng người chiến sĩ lái xe hay người lính Tây Tiến vẫn sống mãi trong lòng độc giả. Nó trở thành những bức tượng đài bất diệt về tinh thần yêu nước và sự quả cảm trong những năm tháng đau thương mà anh hùng của dân tộc.
Xem thêm đề tài 🌸 Liên Hệ Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc 🌸 xuất sắc!