Cảm Nhận Bài Thơ Thương Vợ [29+ Bài Văn Mẫu Hay Nhất]

Cảm Nhận Về Bài Thơ Thương Vợ của Tú Xương ❤️ 29+ Bài Văn Mẫu Hay Nhất ✅ Tuyển Tập Những Mẫu Cảm Nhận Tác Phẩm Độc Đáo Giúp Bạn Tham Khảo.

Cảm Nhận Bài Thơ Thương Vợ Ngắn Gọn

SCR.VN gửi đến bạn tuyển tập các bài văn mẫucảm nhận về bài thơ Thương vợ của Tú Xương hay nhất dưới đây.

Trong lịch sử văn học nước ta xưa nay, thơ viết về vợ vốn không nhiều. Do đó, thơ hay nghĩa là viết chân thật, sâu sắc và xúc động về đề tài này lại càng hiếm hoi. Vì vậy có thể xem Trần Tế Xương là một trường hợp đặc biệt. Trong thơ mình, ông nói đến vợ rất nhiều lần.

Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thăn cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông
Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công
Cha mẹ thói dời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không!

Đây là một bài thơ trữ tình – trào phúng đậm sắc dân gian đầy cảm động. Để bộc lộ lòng thương quý, biết ơn và trân trọng vợ mình, nhà thơ đã cực tả nỗi nhọc nhằn lao khổ của bà, người đàn bà đã một thân một bóng tần tảo nuôi con và chồng. Qua đây, ông ca ngợi đức tính đảm đang, lòng hi sinh thầm lặng cao cả một bậc hiền phụ.

Trong hai câu thơ đầu, Tú Xương đã nói về sự vất vả và nhẫn nại của vợ mình một cách tự nhiên, thân mật, dí dỏm và hóm hỉnh. Ông vừa giới thiệu cái gánh nặng chồng con trên vai bà vừa cho thấy một cách gián tiếp tình cảm sâu nặng của mình dành cho vợ

Nhà thơ đã nâng cao vợ mình lên hàng trụ cột của gia đình. Cả một gánh nặng sinh kế đã đặt lên vai người phụ nữ. Bà quanh năm khó nhọc, vất vả, bất kế nguy hiểm, gian nan là để nuôi đủ năm con và một chồng nghĩa là sáu miệng ăn hết thảy chưa kể cả chính mình.

Nhà thơ tự thấy mình là gánh nặng của vợ. Cách nói ấy hàm ý vừa biết ơn vừa tự hào mà lại có chút gì đó hối hận, ăn năn, mỉa mai mình một cách thâm trầm hóm hỉnh.

Mượn hình ảnh cô đơn, vất vả của con cò trong ca dao xưa: con cò lặn lội bờ sông… ông trau chuốt thêm bằng bàn tay nghệ sĩ tài hoa của mình. Nếu ca dao thường dùng hình ảnh con cò để so sánh, ví von gián tiếp về người phụ nữ, nói rõ hơn là người vợ, người mẹ cặm cụi tảo tần thì ở đây Tú Xương đã đồng nhất trực tiếp thân cò với thân phận người vợ.

Chỉ với hai câu thơ bằng những từ ngữ gợi tả và cảm động, Tú Xương làm hiện lên rõ nét hình ảnh một người vợ thui thủi làm ăn, một mình toan lo lặn lội trong những khung cảnh không gian và hoàn cảnh thời gian vất vả, gian nan nhất, đáng thương và đầy ái ngại nhất.

Nếu bốn câu thơ đầu vừa phân tích hoàn toàn là lời ông Tú nói về vợ mình thì bốn câu sau lại thể hiện giọng bà Tú tự than thân, trách phận chính mình. Nói đúng hơn là đến đây nhà thơ không đứng ngoài khách quan để miêu tả nữa, ông đã nhập thân vào nhân vật thảo ra lời bà vợ để than thở giùm bà một cách chủ quan hơn

Thác lời của bà Tú, nhà thơ đã chửi rủa chính cái bạc bẽo và cái vô tích sự của người chồng nghĩa là của chính mình. Tất cả nỗi thương vợ cùng với sự bất lực giận mình, giận đời đã lắng đọng trong tiếng chửi rủa đầy day dứt, xót xa kia. Nhưng thực sự ông có bạc bẽo, hờ hững với vợ mình không? Điều này khó trả lời.

Như vậy Thương vợ đúng là một bài thơ hay cho ta hình dung được nỗi lòng thương yêu mênh mông chân thành và sâu sắc của nhà thơ đôi với người vợ chịu thương, chịu khó, hi sinh, khó nhọc, vất vả một cách lặng thầm vì gánh nặng chồng con.

Chia sẽ bạn trọn bài 🍀 Dàn Ý Phân Tích Thương Vợ 🍀 Nhiều mẫu

Cảm Nhận Của Em Về Bài Thơ Thương Vợ

Tham khảo ngay bài văn cảm nhận về thơ Thương vợ của Trần Kế Xương dưới đây để hiểu hơn về nỗi cơ cực của người phụ nữ nhé!

Tú Xương (1870-1907), tên thật là Trần Tế Xương, cuộc đời ngắn ngủi 37 năm của ông gắn liền với giai đoạn đau thương nhất của đất nước khi thực dân Pháp hoàn toàn nắm quyền thống trị trên đất nước Việt Nam, triều đình phong kiến thì sợ hãi, nhu nhược trước kẻ thù, thối nát và khốn nạn với nhân dân.

Có thể nói rằng Tú Xương là một nhà thơ hiếm trong văn học Việt Nam, với những đề tài mới lạ, với giọng thơ trào phúng sâu sắc bên cạnh cuộc đời nhiều uất hận, cay đắng.

Trong bài thơ hình ảnh bà Tú hiện lên thông qua nỗi lòng thương yêu của Tú Xương trước hết là ở hai câu đề.

“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng”

Ở câu khai đề tác giả đã tái hiện bối cảnh thời gian và không gian mưu sinh của bà Tú. Với từ “quanh năm”, gợi cảm giác triền miên, dường như người phụ nữ này chẳng có lúc nào được ngơi nghỉ, đó là một khoảng thời gian rất khắc nghiệt của cả đời bà Tú.

Thứ hai là không gian “mom sông”, là chòm đất ở bờ sông nhô ra giữa lòng sông, có thuyền đò neo đậu, rất cheo leo, nguy hiểm không hợp để làm ăn đi lại lâu dài.

Ấy thế mà bà Tú vẫn phải xông pha, chen lấn để tranh hàng, để giành khách kiếm miếng cơm manh áo cho cả gia đình.

Từ bối cảnh khắc nghiệt, khó khăn như vậy hình ảnh bà Tú hiện lên với công việc buôn bán vất vả và cơ cực vô cùng. Đến câu thừa đề, lại là ý giải thích cho những cái vất vả khó nhọc mà một tay bà Tú phải cáng đáng, ấy là bởi nỗi phải “Nuôi đủ năm con với một chồng”.

Cả gia đình đều trông cậy vào việc bà Tú buôn bán, bà phải gánh trên vai hai gánh nặng, một bên là 5 đứa con thơ dại, một bên là ông chồng, mà ông chồng này là gánh nặng đặc biệt.

Hình ảnh bà Tú còn được tiếp tục tái hiện thông qua hai câu thực.

“Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”.

Nghệ thuật nổi bật ở đây là nghệ thuật đảo cấu trúc, nhấn mạnh hai từ “lặn lội” và “eo sèo” khi đặt chúng ở đầu mỗi câu thực, đó cũng là hai động thái mưu sinh của bà Tú.

Trước hết từ “lặn lội” là một từ tượng hình, gợi ra dáng vẻ vất vả nhọc nhằn xông pha nơi đầu sóng ngọn gió của bà Tú, từ tượng thanh “eo sèo” lại tái hiện hình ảnh của bà Tú trong công việc mưu sinh đời thường.

Chuyển sang hai câu thơ luận hình ảnh của bà Tú tiếp tục hiện lên trong nỗi lòng yêu thương và trân trọng của chồng.

“Một duyên, hai nợ, âu đành phận,
Năm nắng, mười mưa, dám quản công”

Tú Xương đã vận dụng một cách tài tình các thành ngữ dân gian để khắc họa những nỗi vất vả cơ cực của bà Tú trong cả cuộc đời, trong cuộc hôn nhân với Trần Tế Xương.

“Một duyên hai nợ”, xuất phát từ thuật ngữ “duyên nợ” của nhà Phật, ông đã sáng tạo bằng cách chêm xen các số từ “một”, “hai”, thể hiện ý nghĩa sâu sắc rằng trong cuộc hôn nhân này, cái duyên thì chỉ có một, nhưng cái nợ thì có tới hai.

Thông qua nỗi lòng thương vợ bộc lộ dọc bài thơ thì hình ảnh ông Tú cũng hiện lên một cách thấp thoáng. Trước hết ông là một người biết yêu thương, quý trọng và biết tri ân vợ, và trong bối cảnh xã hội xưa có được một người đàn ông biết yêu thương quý trọng người bạn đời của mình như thế là không nhiều, bởi họ còn nặng tư tưởng trọng nam khinh nữ, nhất phu đa thê.

Qua bài thơ ta thấy hiện lên hình ảnh của một người phụ nữ vừa đáng thương vừa đáng trọng, đồng thời bộc lộ được rõ nét vẻ đẹp tâm hồn của bà Tú với đức hy sinh cao cả, sự đảm đang tháo vát, có lòng vị tha và lòng yêu thương chồng con tha thiết.

Bên cạnh Cảm Nhận Của Em Về Bài Thơ Thương Vợ Tặng bạn trọn bộ 👉 20+ Mẫu Phân Tích Thương Vợ Hay Nhất

Cảm Nhận Bài Thơ Thương Vợ Học Sinh Giỏi

Giới thiệu đến bạn cảm nhận bài thơ thương vợ học sinh giỏi hay nhất, cùng tham khảo ngay nhé!

“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng.”

         Chỉ từ một vài điểm tựa trong câu thơ đầu tiên về mặt ngôn ngữ, có thể thấy được hoàn cảnh ngặt nghèo và đầy nguy hiểm của bà Tú. Điều đó có thể thấy được sự hi sinh và những tần tảo sớm hôm của bà Tú cho gia đình của mình, đó không chỉ là sự hy sinh, mà còn là sự đánh đổi, một sự cao thượng và vị tha mà không phải bất cứ người vợ nào cũng có thể làm được.

“Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”.

       Các từ láy tượng thanh tượng hình được đảo ngữ, đặt lên đầu câu như bản lề khép mở bức tranh thân phận của bà Tú. Một lần nữa, hình ảnh thân cò mong manh một mình lặn lội kiếm ăn lại được xuất hiện trong ca dao.

Sự hy sinh của bà Tú để vun vén cho đường hoạn lộ công danh của chồng, vừa là sự hi sinh, vừa khiến ông Tú cảm thấy tội lỗi, hổ thẹn, thế nhưng cái bệnh nghệ sĩ, cái máu văn thơ đã ngấm vào từng thớ vỏ tâm hồn mình nên ông Tú lại chỉ âu đành phận, và cứ để bà Tú một mình bươn chải với chốn lao xao:

“Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công”.

         Cái duyên chỉ là một nửa, còn trong ông Tú cũng phần nào xót thương cho người vợ tri kỷ của mình, mà tự nguyện thấy rằng, bà Tú một mình gánh trên vai kiếp đèo bòng, là phận bạc héo hon khi phải từ bỏ thân thế cao quý của mình mà nuôi sống gia đình.

         Thế nhưng một người như ông Tú, chẳng biết làm gì hơn, là chua xót về thân phận kiếp đời mình, tiếng than mà cũng là tiếng chửi chính mình ở hai câu thơ cuối vì thế là sắc độ trào phúng sâu sắc nhất mà nhà thơ gửi đến chính mình:

“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không”.

         Thói đời ăn ở bạc, thói đời bất công đầy thối nát đã biến ông Tú từ một kẻ đầy ý thức về tài năng, thế nhưng cũng bị xã hội ấy rửa trôi đi cái tài ấy, và khiến ông trở thành kẻ ăn bám vợ, khiến ông say trong men rượu, mượn rượu ca tửu để quên đi nỗi chua chát của đời.

         Xã hội trung đại vốn là một xã hội phân biệt đẳng cấp, người phụ nữ thấp cổ bé họng chỉ như con sâu, con kiến, cái chổi cùn…ấy thế nhưng, Thương Vợ đã dường như cho thấy một bước ngoặt mới trong thơ trung đại, khi người phụ nữ được trân trọng, và lắng nghe những nỗi đắng cay tủi hờn của chính họ.

Tặng bạn học sinh 🍀Sơ Đồ Tư Duy Thương Vợ🍀 Trọn Bộ

Cảm Nhận Hình Ảnh Bà Tú Trong Bài Thơ Thương Vợ

Bài văn cảm nhận hình ảnh bà tú trong bài thương vợ hay nhất:

Tú Xương có nhiều bài thơ, bài phú nói về vợ. Bà Tú vốn là “con gái nhà dòng, lấy chồng kẻ chợ”, một người con dâu giỏi làm ăn buôn bán, hiền lành được bà con xa gần mến trọng:

“Đầu sông bến bãi, đua tài buôn chín bán mười
Trong họ ngoài làng, vụng lẽ chào dơi nói thợ”.

Nhờ thế mà ông Tú mới được sống cuộc đời phong lưu: “Tiền bạc phó cho con mụ kiếm – Ngựa xe chẳng thấy lúc nào ngơi”. “Thương vợ” là bài thơ cảm động nhất trong những bài thơ trữ tình của Tú Xương. Nó là bài thơ tâm sự, đồng thời cũng là bài thơ thế sự. Bài thơ chứa chan tình thương yêu nồng hậu của ông Tú đối với người vợ hiền thảo của mình.

“Quanh năm buôn bán” là cảnh làm ăn đầu tắt mặt tối, từ ngày này qua ngày khác, từ tháng này qua tháng khác… không được một ngày nghỉ ngơi. Một gánh nặng gia đình đè nặng lên đôi vai người mẹ, người vợ. Thông thường, người ta chỉ đếm mớ rau, con cá, đếm tiền bạc,… chứ ai “đếm” con, “đếm” chồng

Bát cơm, manh áo mà bà Tú kiếm được “Nuôi đủ năm con với một chồng” phải “lặn lội” trong mưa nắng, phải giành giật “eo sèo”, phải trả giá bao mồ hôi, nước mắt giữa thời buổi khó khăn!

“Duyên” là duyên số, duyên phận, “nợ” là cái “nợ” đời mà bà Tú phải cam phận, chịu đựng. “Nắng”, “mưa” tượng trưng cho mọi vất vả, khổ cực. Các số từ trong câu thơ tăng dần lên: “một… hai… năm… mười…” làm nổi rõ đức hi sinh thầm lặng của bà Tú, một người phụ nữ chịu thương chịu khó vì sự ấm no hạnh phúc của chồng con và gia đình.

Tú Xương thể hiện bút pháp điêu luyện trong sử dụng ngôn ngữ và sáng tạo hình ảnh. Các từ láy, các số từ, phép đối, đảo ngữ, sử dụng sáng tạo thành ngữ và hình ảnh “thân cò”… đã tạo nên ấn tượng và sức hấp dẫn của văn chương.

Ta đã biết, Tú Xương có văn tài, nhưng công danh dở dang, thi cử lận đận. Sống giữa một xã hội “dở Tây dở ta” chữ nho mạt vận, lúc mà “Ông nghè, ông cống cũng nằm co” cho nên nhà thơ tự trách mình, đồng thời cũng là trách đời đen bạc. Ông không xu thời để vinh thân phì gia “tối rượu sâm banh, sáng sữa bò”.

Các chi tiết nghệ thuật chọn lọc vừa cá thể (bà Tú với “năm con, một chồng”) vừa khái quát sâu sắc (người phu nữ ngày xưa). Hình tượng thơ hàm súc, gợi cảm: thương vợ, thương mình, buồn về gia cảnh thêm nỗi đau đời.

“Thương vợ” là bài thơ trữ tình đặc sắc của Tú Xương nói về người vợ, người phụ nữ ngày xưa với bao tình cảm trân trọng tốt đẹp. Hình ảnh bà Tú được nói đến trong bài thơ rất gần gũi với người mẹ, người chị trong mỗi gia đình Việt Nam..

Ngoài Mẫu Cảm Nhận về Bài Thơ Thương Vợ Ngắn Gọn Chia sẻ đến bạn 👉 Nghị Luận bài Thương Vợ ❤️ 10+ Mẫu hay

Cảm Nhận Về Hình Ảnh Người Phụ Nữ Trong Bài Thơ Thương Vợ

Hình ảnh người phụ nữ hiện lên trong bài thơ thương vợ của Tú Xương thật độc đáo, hãy cùng cảm nhận qua bài văn dưới đây nhé!

Người phụ nữ đã đi vào văn học khá nhiều và trở thành một trong những hình tượng lớn của văn chương kim cổ. Tuy nhiên viết về người phụ nữ với tư cách là một người vợ bằng tình cảm của một người chồng thì quả thật rất hiếm.

Thương vợ của Tú Xương nằm trong số những trường hợp hiếm hoi đó. Bài thơ là chân dung bà Tú, người bạn đời của Tú Xương, được tái hiện bằng tất cả tấm lòng chân thành của một người chồng dành cho vợ.

Hình ảnh bà Tú hiện lên trước hết gắn liền với bao nỗi gian truân khó nhọc. Thân đàn bà chân yếu tay mềm nhưng bà Tú vẫn phải một mình làm lụng buôn bán, một mình xông pha, lặn lội nơi đầu sông, bến chợ để lặn lội kiếm sống.

Nói sao cho xiết những nhọc nhằn cơ cực mà bà Tú phải gánh trong suốt cuộc đời của mình. Hình ảnh bà Tú gợi cho ta nghĩ tới hình ảnh của những người đàn bà đảm đang, lam lũ, lặn lội kiếm sống nuôi chồng, nuôi con đã lặng lẽ đi qua trong cuộc sống dân tộc.

Gánh cả một gánh nặng gia đình trên vai với bao khó khăn cơ cực, lại cô đơn thui thủi một mình, không người sẻ chia giúp đỡ, ấy vậy mà vẫn cần mẫn, không một chút chểnh mảng, bỏ bê công việc.

Hình ảnh thơ không chỉ diễn tả bao nỗi vất vả mà còn làm nổi bật sự nhẫn nại, kiên trì kiếm sống chu tất cho chồng, cho con của bà Tú. Diễn tả đầy đủ nhất điều này có lẽ không câu thơ nào hơn hai câu:

Con cò, thân cò là hình ảnh quen thuộc trong văn học truyền thống, là biểu tượng cho người nông dân nói chung và người phụ nữ Việt Nam nói riêng. Dùng hình ảnh “lặn lội thận cò”, Tú Xương đã khái quát được bao phẩm chất đẹp đẽ của người phụ nữ Việt Nam truyền thống mà đức tính nổi bật chính là sự tần tảo, chịu thương chịu khó.

Bà Tú còn đẹp ở sự đảm đang tháo vát, ở sự chu đáo với chồng, với con. Cảnh làm ăn kiếm sống của bà Tú thật không dễ dàng gì, nhưng không lúc nào ta thấy bà Tú bó tay chùn bước, lúc thì một mình lặn lội nơi quãng vắng, khi lại đua chen giành giật chốn đò đông.

Không chỉ có vậy, qua sự thể hiện của nhà thơ, bà Tú còn hiện lên với một đức hi sinh cao cả. Dẫu bao nhiêu khó khăn vất vả bà Tú vẫn không một lời kêu than phàn nàn, không một lời oán trách. Một mình bà âm thầm, lặng lẽ gánh trọn gánh nặng gia đình.

Được tái hiện bằng tấm lòng thương vợ chân thành, sâu sắc của Tú Xương, hình ảnh bà Tú trong bài thơ đã trở thành mội hình ảnh đẹp tiêu biểu, điển hình cho những người phụ nữ, những người vợ Việt Nam ngàn đời.

SCR.VN tặng bạn 🍁 Tóm Tắt Thương Vợ ❤️️ 10 Mẫu

Cảm Nhận Của Anh Chị Về Bài Thơ Thương Vợ Của Trần Tế Xương

Dưới đây là cảm nhận về bài thơ thương vợ của Trần Kế Xương ấn tượng nhất.

Nhắc đến những nhà thơ trào phúng trung đại thì người ta nhớ đến đầu tiên có lẽ là Trần Tế Xương. Và cũng chính vì thế mà Nguyễn Khuyến có bài tự trào thì Trần Tế Xương cũng có bài Thương vợ. Nhan đề bài thơ gợi lên cho ta tình cảm của nhà thơ dành cho người vợ mình nhưng đồng thời nội dung bài thơ còn thể hiện một tiếng cười về bản thân bất tài vô dụng của Trần Tế Xương.

Sáu câu thơ đầu nói lên hình ảnh của bà Tú trong gia đình và ngoài cuộc đời: hình ảnh chân thực về một người vợ tần tảo, một người mẹ đôn hậu, giàu đức hi sinh.

Hai câu thơ trong phần đề giới thiệu bà Tú là một người vợ rất đảm đang, chịu thương chịu khó. Nếu như bà vợ của Nguyễn Khuyến là một phụ nữ “hay lam hay làm, thắt lưng bó que, xắn váy quai cồng, chân nam đá chân chiêu, vì tớ đỡ đần trong mọi việc”

“Quanh năm buôn bán” là cảnh làm ăn đầu tắt mặt tối, từ ngày này qua ngày khác, từ tháng này qua tháng khác… không được một ngày nghỉ ngơi. Bà Tú “Buôn bán ở mom sông”, nơi cái mảnh đất nhô ra, ba bề bao bọc sông nước; nơi làm ăn là cái thế đất chênh vênh.

Câu thơ tự trào ẩn chứa nỗi niềm chua chát về một gia đình gặp nhiều khó khăn: đông con, người chồng đang phải “ăn lương vợ”. Có thể nói, hai câu đầu, Tú Xương ghi lại một cách chân thực người vợ tần tảo. đảm đang của mình.

Tiếp theo là hai câu luận, Tú Xương vận dụng rất sáng tạo hai thành ngữ: ”một duyên hai nợ” và “năm nắng mười mưa”, đối xứng nhau hài hòa, màu sắc dân gian đậm đà trong cảm nhận và ngôn ngữ biểu đạt.

Tóm lại, sáu câu thơ đầu, bằng tấm lòng biết ơn và cảm phục, Tú Xương đã phác hoạ một vài nét rất chân thực và cảm động về hình ảnh bà Tú, người vợ hiền thảo của mình với bao đức tính đáng quý: đảm đang, tần tảo, chịu thương, chịu khó, thầm lặng hi sinh cho hạnh phúc gia đình.

Hai câu kết, Tú Xương sử dụng từ ngữ thông tục, lấy tiếng chửi nơi “mom sông”, lúc “buổi đò đông” đưa vào thơ rất tự nhiên, bình dị. Ông tự trách mình

Bài thơ “Thương vợ” được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Ngôn ngữ thơ bình dị như tiếng nói đời thường nơi “mom sông” của những người buôn bán nhỏ, cách đây gần một thế kỉ.

🌼 Ngoài Cảm Nhận Bài Thơ Thương Vợ Của Trần Tế Xương, SCR.VN tặng bạn ❤️️ Bình Giảng Thương Vợ ❤️️ 15 Mẫu

Cảm Nhận Về Vẻ Đẹp Bài Thơ Thương Vợ

Gửi đến bạn bài văn cảm nhận về vẻ đẹp bài thơ thương vợ một góc nhìn độc đáo nhất.

Dưới thời phong kiến, thân phận người phụ nữ có chồng rẻ rúng, bèo bọt. Văn học là tấm gương phản ánh hiện thực, song văn học trung đại chưa bao giờ quan tâm tới người phụ nữ, riêng có Tú Xương. Ít nhà văn nhà thơ cùng thời nào dám viết về vợ của mình. Qua khổ thơ đầu bài thơ “Thương vợ”, ta thấy một Tú Xương đầy nhân đạo, nhân văn:

“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”

Thể hiện điều đó, Tú Xương bắt đầu từ cách giới thiệu công việc của bà Tú:

“Quanh năm buôn bán ở mom sông”

Công việc của bà Tú là buôn bán, một công việc chẳng hợp với người xuất thân “con nhà dòng” như bà Tú. Bà Tú buộc phải tham gia vào chốn ồn ã, xô bồ, phức tạp. Vì miếng cơm manh áo mà phải làm công việc vất vả ấy. Suốt thời gian “quanh năm”, bà Tú làm không ngơi nghỉ.

Ấy vậy, bà Tú vẫn có thể nuôi sống gia đình:

“Nuôi đủ năm con với một chồng”

Bà Tú “nuôi đủ”, chứ không thừa, không thiếu. Một mình bà Tú gánh trên vai 5 đứa con thơ dại kèm theo “một chồng”. Hơn nữa, từ “với” tạo thế cân bằng giữa “năm con” và “một chồng”. Chính điều này đã ngầm so sánh gánh nặng nuôi chồng còn nặng ngang với cả 5 đứa con. Dường như Tú Xương đang tự mỉa mai bản thân.

Tới câu thơ tiếp, Tú Xương miêu tả chân dung bà Tú thông qua hành động:

“Lặn lội thân cò khi quãng vắng”

Không phải đột nhiên Tú Xương thay đổi nội dung thơ chuyển tới than thân cò, thân vạc. Tú Xương đang mượn thân cò để điển hình cho hình ảnh bà Tú.

“Con cò lặn lội bờ ao
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non”

Tú Xương đặt động từ “lặn lội” lên đầu câu nhằm nhấn mạnh vào bức chân dung nhân vật. Nó gợi những bước chân bập bõm, lận đận mò mẫm bùn lầy nhờ đó càng cho thấy nỗi vất vả cơ cực của bà Tú.

Từ ngày về đêm và cuối cùng trở lại ngày, một vòng tuần hoàn công việc không bao giờ dứt:

“Eo sèo mặt nước buổi đò đông”

Bà Tú hiện lên trong không gian buổi đò đông. Lại tiếp tục là chân dung người phụ nữ phải bon chen, giành giật sự sống với đời. Thêm nữa, láy tượng thanh “eo sèo” bổ nghĩa “mặt nước” khiến người đọc liên tưởng tới không gian mặt nước mênh mông, sóng xô cuộn bọt trắng

Tóm lại, 4 câu thơ đầu bài “Thương vợ” đã cho thấy nhiều đặc sắc nghệ thuật trong cách dùng từ, sáng tạo ngôn ngữ, diễn đạt… của Tú Xương. Qua đoạn thơ, Tú Xương không chỉ ca ngợi vẻ đẹp phẩm chất đảm đang, chịu thương chịu khó, giàu đức hi sinh của bà Tú đồng thời còn thể hiện nỗi hổ thẹn của chính tác giả.

👉Ngoài Cảm Nhận 4 Câu Đầu Bài Thơ Thương Vợ, Chia sẻ đến bạn Các Bài Thơ Về Người Cao Tuổi Hay ❤️️ Chùm Thơ Giàu Ý Nghĩa

Cảm Nhận Bài Thơ Thương Vợ Lớp 11

Tặng bạn tham khảo bài cảm nhận thơ Thương Vợ trong chương trình lớp 11 hay.

Trần Tế Xương là một nhà thơ Nam Định, sinh ra trong khoảng thời gian đầy biến động khi triều nhà nguyễn bị mục ruỗng trầm trọng, đất nước bị khóa trong vòng lệ thuộc và nhân dân khổ cực bao điều.

Và bài thơ “Thương vợ” với thể thơ thất ngôn bát cú đừơng luật là điển hình cho các sàng tác trữ tình giàu tc của ông dược viết nên từ tất cả những xót xa thương yêu mà ông dành cho ng vợ.

Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng

Bằng những lần quan sát, nhà thơ thấy dược những khó nhọc mà bà tú phải chịu đựng. Mang danh phận là bà tú nhưng mỗi ngày lại phải buôn bán ở không gian chật hẹp “mom sông” quanh năm suốt tháng.

Hình ảnh người phụ nữ tần tảo đi buôn đi bán cũng vì chồng vì con, tấm lòng hi sinh ấy cao cả và đáng quí biết bao cũng vì tình yêu gia đình rất đỗi thiêng liêng hiện hữu trong tim bà tú.

.Xấu hổ và ray rứt là những trạng thái xuất hiện làm ông tú rối bời khi không thể đỡ đần được những lo toan vất vả cực nhọc ấy cho vợ . Thế nên không biết tự lúc nào bà Tú hóa thành thân cò trong thơ ông Tú, là một hình ảnh dân gian khá quen thuộc để tăng thêm nỗi vất vả đeo bám dai dẳng.

Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nứoc buổi đò đông

Thủ pháp nghệ thuật ẩn dụ gợi nỗi đau thân phận mà thân cò phải chịu theo thời gian cũng giống như bà Tú đang nếm trải vị đắng của nỗi khó nhọc, chôn danh phận nơi “quãng vắng” có lúc nỗi cô đơn hẩm hiu bủa vây đến tủi lòng. “lặn lội” từ láy sử dụng gói gọn trong đấy là những gì gian truân nhất, khó nhọc nhất khiến bà tú phải gồng mình bươn chải qua ngày tháng

Những hình ảnh đó của bà tú làm dấy lên trong lòng nỗi niềm xót thương vô hạn, bên cạnh đó là lòng biết ơn tri ân đến bà Tú.

Tiếp theo những câu thơ giàu hình ảnh đó nhà thơ theo dòng suy nghĩ

Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mừoi mưa dám quản công

Thành ngữ “một duyên hai nợ” được dùng để nhà thơ ví von cho cuộc hôn nhân của ông và bà Tú. Đựoc lấy nhau đó là điều hạnh phúc nhưng duyên chỉ một mà nợ đến hai, khi lấy ông Tú thì bà Tú phải chịu nhìều khó nhọc, hạnh phúc đến từ chồng thì quá ít.

Dẫu thế nhưng “đành phận” vì đó là bổn phận là trách nhiệm, cái đẹp ở tấm lòng bà tú còn là biết chịu thương chịu khó nhẫn nhịn và chịu đựng

Trứoc mắt ng đọc cũng phản ánh dc một sự bất công trong gd giữa chế độ xhpk ấy, hình ảnh bà tú là ví dụ cho hầu hết nh ngừoi mẹ ng vợ đảm đang cần mẫn làm việc, vắt kiệt sức mình ra mà gồng gánh trách nhiệm, đôi vai bé nhỏ của họ hàng ngày phải chống chọi nắng sương, gian lao mà chồng thì như ông chủ chỉ chờ dc chăm lo tươm tất rồi bước ra đường vui chơi. Thấy thế và nhìn lại những gì mình làm dc, bất giác ông tú tự trách mình.

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không

Buông lời chửi chính mình sao quá bất tài và nhu nhựơc chẳng khác gì một kẻ yếu đuối là gánh nặng trên vai ng vợ, tú xương chửi chính mình vô dụng tiếp đó là chửi thẳng vào cuộc đời mang đến cho bà tú nhìều nổi đắng cay quá,chua xót quá.

thơ thành công trong việc xây dựng dc hình tượng mới mẻ bất ngờ, đưa ng phụ nữ vào thơ ca là nét tiến bộ trong tư tửong của tú xương.Cách sử dụng tiếng việc tự nhiên , giàu sức biểu cảm vận dụng dc những cách nói dân gian.

Giọng thơ trong bài “ thương vợ dâng trào một niềm cảm thương sâu sắc tha thiết đối với vợ. Hình ảnh bà tú chiếm trọn tình cảm của bao ng đọc thơ tú xương. Với tất cả niềm thương yêu trân trọng ông khéo léo đưa ng vợ vào thơ của mình âu đó cũng là niềm vui bù dắp cho bao tháng ngày vất vả.

Tâm sự với những đắn đo trăn trở cho thận phận nhiều long đong trong thi cử dàn trải các câu thơ , qua đó nét hay nét đẹp dc cảm nhận thấm dần vào suy nghĩ ng đọc.

👉Ngoài Cảm Nhận Bài Thơ Thương Vợ Lớp 11, bật mí đến bạn Soạn Bài Thơ Về Tiểu Đội Xe Không Kính ❤️️ Giáo Án Chuẩn

Cảm Nhận Về Bài Thơ Thương Vợ Hay Nhất

Gửi bạn bài cảm nhận về thơ thương vợ ý nghĩa và ấn tượng nhất dưới đây.

Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.

Quanh năm là thời gian, mom sông là không gian, địa điểm, buôn bán là công việc. Hình ảnh mom sông gợi cảm giác chênh vênh, mà phải tất bật quanh năm như thế đủ thấy nỗi vất vả của bà Tú đến chừng nào.

Gánh hàng xáo trên đôi vai nhỏ bé nhưng là gánh nặng gia đình phải lo, bà miệt mài chăm chỉ, biết vun vén nên đã nuôi đủ gia đình bảy người, thật giỏi giang và cái đảm đang khó ai bì kịp. Đó là lời khen, sự cảm phục của ông Tú

Cách tính năm con với một chồng là hạ thấp mình ngang hàng với con, là kẻ ăn bám vợ, vô tích sự.

Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.

Bà Tú là người phụ nữ Việt Nam truyền thống và tiêu biểu. Nhưng khi tác giả dùng từ thân cò thì nó còn gợi đến dáng vẻ mỏng manh của bà Tú. Và biết bao tình thương của ông dồn vào hình ảnh quãng vắng. Bởi khi mọi người đã nghỉ ngơi thì bà vẫn còn lặn lội một mình nơi đồng xa..

Cảnh mua bán bon chen, lời qua tiếng lại eo sèo nơi buổi chợ bến đò đông đúc càng làm nổi rõ hơn sự vất vả của bà Tú.

Buôn bán khó khăn nên bà Tú vất vả tảo tần sớm hôm mưa nắng, đến mức quên thân. Đó là đức hi sinh thầm lặng, lòng chịu thương chịu khó bền bỉ.

Hiểu sâu sắc nỗi vất vả của vợ là tình thương, sự sẻ chia của ông dành cho bà. Hai câu thơ hàm ý ngợi ca đức hi sinh thầm lặng của bà Tú.

Một duyên hai nợ âu dành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công.

Phép đối cho thấy một bên là chồng con, một bên là công việc. Bên thương bên tiếc và bên nào cũng tròn để vừa thấy sức lực dẻo dai vừa thấy đức quên mình. Lời bình có giọng sâu lắng thể hiện chiều sâu cảm thương của nhà thơ. Còn trách nhiệm của đức ông chồng thì sao?

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc.
Có chồng hờ hững cũng như không.

Lời bà Tú nhưng ý ông Tú. Tự chửi mình là vô tâm hờ hững trước nỗi gian nan của vợ. Không chia sẻ được, không gánh vác bớt, trở thành gánh nặng của vợ.

Tiếng chửi có chút hóm hỉnh của bút pháp trào phúng nhưng đằng sau là cái tình của nhà thơ: Vừa từ chuộc lỗi, vừa hiểu sâu sắc nỗi gian nan của vợ nên thương vợ hơn.

Bài thơ đã đạt tầm khái quát cao: ca ngợi phụ nữ Việt Nam nói chung. Tâm lòng tri ân của nhà thơ dành cho vợ cũng là nét đáng quý. Bài thơ có sự tiếp thu sáng tạo chất liệu ca dao. Bút pháp trữ tình xen trào phúng.

👉Ngoài Cảm Nhận Về Bài Thơ Thương Vợ Hay Nhất, Chia sẻ đến bạn Thơ Tế Hanh ❤️ Tuyển Tập Trọn Bộ Những Bài Thơ Hay

Cảm Nhận Về Bài Thơ Thương Vợ Ngắn Nhất

Giới thiệu đến bạn mẫu văn cảm nhận về bài thơ thương vợ ngắn gọn đặc sắc được thể hiện bên dưới

Cuộc đời nhà thơ đối mặt bao lần thất bại trên đường công danh, phải ở nhà và nhìn người vợ thương yêu ngày ngày tần tảo làm lụng nuôi chồng con, tuy đau và tủi hổ lắm chứ nhưng đành bất lực và nhà thơ bây giờ chỉ biết gửi gắm tâm sự qua những vần thơ hiện hữu hình ảnh người vợ trong đấy.

“Quanh năm buôn bán ở mom sông Nuôi đủ năm con với một chồng”

Bằng những lần quan sát, nhà thơ thấy dược nhiều khó nhọc mà bà tú phải chịu đựng. Mang danh phận là bà tú nhưng mỗi ngày lại phải buôn bán ở không gian chật hẹp “mom sông” quanh năm suốt tháng, nỗi cơ cực oằn trên vai ng vợ.

Hiểu và khâm phụ tấm lòng bà tú, ông tú tự nhìn mình mà mỉa mai khi đặt chồng ngang hàng như đứa con thứ 6 của bà tú, một sự khinh thường chính bản thân vì suốt ngày là kẻ dựa dẫm. Xấu hổ và ray rứt là những trạng thái xuất hiện làm ông Tú rối bời khi không thể đỡ đần những lo toan vất vả cực nhọc ấy cho vợ .

Thế nên không biết tự lúc nào bà Tú hóa thành thân cò trong thơ ông Tú, là một hình ảnh dân an gian khá quen thuộc để tăng thêm nỗi vất vả đeo bám dai dẳng.

“Lặn lội thân cò khi quãng vắng Eo sèo mặt nứoc buổi đò đông”

Thủ pháp nghệ thuật ẩn dụ gợi nỗi đau thân phận mà thân cò phải chịu theo thời gian cũng giống như bà Tú đang nếm trải vị đắng của nỗi khó nhọc, chôn danh phận nơi “quãng vắng” có lúc nỗi cô đơn hẩm hiu bủa vây đến tủi lòng. “quãng vắng” đối lập “đò đông” gợi tả không gian xung quanh bà tú theo dòng thời gian nhanh thoan thoắt, lúc như hành hạ trong nỗi cô đơn tủi hờn

Số phận bà tú bây giờ xoáy theo vòng đời xuôi ngựơc bon chen tìm những gì có thể nuôi sống gia đình trong đó có người chồng bất tài. Câu thơ này nhà thơ khéo léo mượn hình ảnh dân gian cùng biện pháp đảo ngữ tạo giọng thơ man mác buồn hay ray rứt mãi. .

Những hình ảnh đó của bà tú làm dấy lên trong lòng nỗi niềm xót thương vô hạn, bên cạnh đó là lòng biết ơn tri ân đến bà Tú. Được lấy nhau đó là điều hạnh phúc nhưng duyên chỉ một mà nợ đến hai, khi lấy ông Tú thì bà Tú phải chịu nhìều khó nhọc, hạnh phúc đến từ chồng thì quá ít.

Dẫu thế nhưng “đành phận” vì đó là bổn phận là trách nhiệm, cái đẹp ở tấm lòng bà tú còn là biết chịu thương chịu khó nhẫn nhịn và chịu đựng.

Mệt nhọc đủ điều vậy mà ng chồng đáng lẽ là nơi nương tựa lại trở thành cái bóng âm thầm dõi theo những khó khăn của vợ mà thôi, ông tú như vô tình gửi nhờ gánh nặng lên vai người vợ còn mình thì suốt ngày hưởng lạc và mãi vui chơi.

“Biết thuốc lá, biết chè tàu Cao lâu biết vị hồng lâu biết mùi”

Trước mắt người đọc cũng phản ánh được một sự bất công trong gia đình giữa chế độ xã hội phong kiến ấy, hình ảnh bà tú là ví dụ cho hầu hết những người mẹ người vợ đảm đang cần mẫn làm việc.

Thấy thế và nhìn lại những gì mình làm được, bất giác ông Tú tự trách mình.

“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc Có chồng hờ hững cũng như không”

Mắt nhìn thấy những gì oằn trên vai vợ nhưng ko làm được gì để gánh hộ, nỗi hối hận và nhục nhã chan chứa trong hai câu thơ. Không chỉ thế thái độ phản ứng mạnh lẽ đó của tú xương cũng chĩa vào cái Xã hội phong kiến đang đè nén hạnh phúc, bóc lột sức lao động, trói chặt những người phụ nữ trong những qui định lễ giáo khắt khe lỗi thời.

Cách sử dụng tiếng việc tự nhiên , giàu sức biểu cảm vận dụng được những cách nói dân gian.Giọng thơ trong bài “ Thương vợ” dâng trào một niềm cảm thương sâu sắc tha thiết đối với vợ. Hình ảnh bà tú chiếm trọn tình cảm của bao người đọc thơ Tú Xương.

Với tất cả niềm thương yêu trân trọng ông khéo léo đưa người vợ vào thơ của mình âu đó cũng là niềm vui bù đắp cho bao tháng ngày vất vả. Tâm sự với những đắn đo trăn trở cho thận phận nhiều long đong trong thi cử dàn trải các câu thơ, qua đó nét hay nét đẹp được cảm nhận thấm dần vào suy nghĩ người đọc.

👉Bên cạnh Cảm Nhận Về Bài Thơ Thương Vợ Ngắn Nhất, khám phá ngay Bài Thơ Bàn Tay Nhỏ ❤️️ Tranh Thơ & Giáo Án Trọn Bộ

Cảm Nhận Về Bài Thơ Thương Vợ Facebook

Tham khảo ngay bài cảm nhận về thơ Thương vợ độc đáo dưới đây của Tú Xương nhé!

Thế kỉ XIX, có hai nhà thơ cùng người thành Nam, Nguyễn Khuyến và Tú Xương, đã không ngần ngại nói lên tình thương yêu của người chồng đối với vợ ngay khi các bà còn đang sống. Nhưng về chủ đề này, Thương vợ cua Tú Xương là bài thơ nổi tiếng hơn cả:

      Nổi bật trong bài thơ là hình ảnh hai con người: một người vợ tần tảo giàu đức hi sinh và một người chồng biết cảm thông chia sẻ, thương yêu và quý trọng vợ rất mực.

      Hai câu thơ đầu giới thiệu về nghề nghiệp của bà Tú cũng như trách nhiệm nặng nề của bà:

                                           Quanh năm buôn bán ở mom sông,

                                           Nuôi đủ năm con với một chồng.

     Chẳng có cửa hàng, cửa hiệu, quán xá gì, mà chỗ bà “kinh doanh” là ở “mom sông”. Hai chữ “mom sông” đã gợi lên hình ảnh một khoảnh đất nhô ra ở bờ sông, có thể nước xuống thì còn, nước lên thì mất, có thuyền qua thì thành chợ không thì thôi, cũng có thể chợ họp một lát vào buổi sáng hoặc buổi chiều.

Thế mà công việc khó nhọc ấy, bà Tú không chỉ chịu đựng một hai buổi mà phải theo đuổi “quanh năm”. Chữ “quanh năm” gợi một thời gian đằng đẵng, là 12 tháng, từ tháng giêng đến tháng chạp, cũng có nghĩa là hết năm này đến năm khác.

       Được cái tiếng thơm ấy, thật không dễ dàng gì, bà Tú phải đổi bằng biết bao công sức:

                                           Lặn lội thân cò khi quãng vắng

                                           Eo sèo mặt nước buổi đò đông.

      Hình ảnh về một loài chim hiền lành, chăm chỉ âm thầm nhặt nhạnh, kiếm ăn nơi ruộng lúa, bãi sông đã trở thành biểu tượng về những người phụ nữ lam lũ suốt đời vì chồng, vì con, chẳng mấy khi nghĩ đến bản thân mình.

      Nhưng đó là bà Tú trong con mắt của ông Tú, còn với bà không hề có một lời kêu ca phàn nàn mà là một thái độ chịu đựng vốn thường có của người phụ nữ phương Đông.

                                           Một duyên hai nợ âu đành phận,

                                           Năm nắng mười mưa dám quản công.

      Những số từ được dùng rất khéo, vừa theo thứ tự tăng dần vừa đối nhau: một, hai, năm, mười, gợi được những khó khăn chồng chất ngày một tăng dần, và sức lực phi thường của người vợ, gánh vác tất cả.

Người phụ nữ Việt Nam là vậy, bà Tú Xương là vậy, họ coi “giang sơn nhà chồng” là việc của mình, họ tự nguyện gánh vác không so đo oán than.

      Bà chỉ âm thầm chịu đựng, cho nên ông Tú đã trách hộ bà:

                                           Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,

                                           Có chồng hờ hững cũng như không.

      Lời thơ như là tiếng chửi. Mà là chửi thật: “Cha mẹ thói đời…”. Không phải là người vợ chịu nhiều vất vả thiệt thòi chửi mà người chồng tự chửi mình đấy thôi. Chữ “hờ hững” nghe sao mà chua chát.

      Bài thơ nổi bật là hình ảnh bà Tú – hiện thân của cuộc đời vất vả lận đận, là hội tụ của bao đức tính tốt đẹp: tần tảo, đảm đang, nhẫn nại… quên mình lo toan cho cuộc sống của chồng con.

Bài thơ Thương vợ là một bản tự kiểm điểm, tự khiển trách hết sức chân thành và nghiêm khắc của Tú Xương. Mỗi lời thơ như một tiếng thở dài đau xót của một con người rất có ý thức trách nhiệm, nhưng bất lực. Đó là tấm lòng thương yêu cảm phục và biết ơn rất chân thành của người chồng đối với người vợ vì mình mà chịu nhiều đắng cay vất vả.

👉Bên cạnh Cảm Nhận Về Bài Thơ Thương Vợ Facebook Tặng bạn trọn bộ Phân Tích Bài Thơ Thương Vợ Trần Tế Xương ❤️ 10 Mẫu

Cảm Nhận Về Bài Thơ Thương Vợ Và Tự Tình

Cảm nhận về hai bài thơ Thương vợ và Tự Tình để nhận ra những điểm chung đặc sắc ngay nhé!

Cuộc sống và thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa và nay là chủ đề hấp dẫn thu hút sự quan tâm và khám phá của nhiều cây bút tài năng. Cùng viết về chủ đề người phụ nữ, bài thơ “Tự tình” của Hồ Xuân Hương và “Thương vợ” của Trần Tế Xương đã mang đến cho độc giả nhiều cảm nhận sâu sắc về thân phận người phụ nữ dưới chế độ phong kiến xưa.

Tự tình của nhà thơ Hồ Xuân Hương đã mượn tâm sự của một người phụ nữ để khắc họa về số phận bất hạnh, khát khao hạnh phúc nhưng thực tại tàn nhẫn lại đẩy con người vào nỗi tuyệt vọng, cô đơn đến cùng cực:

“ Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”

Nhà thơ Hồ Xuân Hương đã sử dụng bút pháp tả thực để miêu tả sự cô đơn, buồn bã của người phụ nữ trong đêm khuya tịch mịch, trống trải. “Hồng nhan” chỉ một người con gái đẹp, thế nhưng động từ “trơ” được đảo lên đầu câu lại gợi ra hiện thực chua sót, bẽ bàng với những nỗi cô đơn và tâm sự chất chồng trong đêm khuya.

Từ câu chuyện, tâm sự riêng của bản thân mình nhưng nữ sĩ gợi cho người đọc liên tưởng về số phận chung của rất nhiều người phụ nữ khác trong xã hội phong kiến thối nát. Có rất nhiều những người phụ nữ xinh đẹp, khát khao hạnh phúc như Hồ Xuân Hương nhưng phải chịu số phận bất hạnh vì quan niệm trọng nam khinh nữ.

Để quên đi thực tại đau lòng, Hồ Xuân Hương đã mượn đến rượu giải sầu nhưng hơi men không làm nữ sĩ quên đi tất cả mà càng khắc sâu hơn về sự tủi hờn, cô đơn của mình.

“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tàn

Hình ảnh vầng trăng bóng xế không chỉ gợi ra thời gian đêm khuya, không gian vắng lặng mà còn là hình ảnh ẩn dụ cho một mối nhân duyên không trọn vẹn mà tuổi xuân cứ lạnh lùng trôi qua:

“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đã mấy hòn”

Câu thơ đã thể hiện sự bất bình của nhà thơ đối với số phận hẩm hiu, bất hạnh của mình đồng thời thể hiện khát vọng vượt thoát mạnh mẽ khỏi hoàn cảnh trêu ngươi, thách thức sức chịu đựng của con người ấy.

Thương vợ của nhà văn Trần Tế Xương lại xây dựng hình ảnh người vợ tần tảo, chịu thương chịu khó hi sinh cả cuộc đời vì chồng, vì con:

“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng”

Cuộc sống của bà Tú là một chuỗi những ngày vất vả lặp đi lặp lại từ tháng này qua năm khác. Để nuôi sống gia đình, bà Tú đã phải làm việc cực nhọc để nuôi “năm con với một chồng”.

Nhà thơ Tế Xương đã mượn hình ảnh thân cò lặn lội để làm nổi bật lên vẻ đẹp chịu thương chịu khó của bà Tú đồng thời cũng thể hiện sự xót xa khi một người đàn bà yếu đuối phải vận lộn trong công việc buôn bán xô bồ, nơi ẩn lấp bao hiểm nguy.

Những công việc nặng nhọc ấy lẽ ra dành cho người đàn ông, người chồng người trụ cột trong gia đình nhưng vì thương chồng, thương con mà bà Tú phải gánh lấy nhưng lại không có một lời oan trách.

“Một duyên hai nợ âu đàn phận
Năm nắng mười mưa dám quản công”

Cuộc sống dù gian truân, khổ cực đến đâu nhưng bà Tú vẫn chấp nhận mà không than thở, oán trách vì mối duyên nợ sâu nặng, vì tình thương chồng, con không điều kiện.

Câu thơ không chỉ thể hiện được phẩm chất đẹp đẽ của bà Tú và những người phụ nữ Việt mà còn thể hiện sự trân trọng, yêu thương của nhà thơ đối với người vợ, những người phụ nữ trong xã hội xưa.

Càng thương vợ bao nhiêu, Tú Xương càng day dứt vì sự bất lực, vô dụng của bản thân khi không thể chia sẻ những gánh nặng cuộc sống với vợ, đồng thời càng lên án xã hội phong kiến đen tối đã đẩy con người vào những hoàn cảnh chẳng thể lựa chọn:

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng nư không”

Như vậy, qua hai bài thơ “Tự tình” và “Thương vợ” chúng ta có cái nhìn chân thực, rõ nét hơn về thân phận của những người phụ nữ trong xã hội xưa, đồng thời cũng thấy được những vẻ đẹp phẩm chất và khát khao hạnh phúc chính đáng của họ.

👉Ngoài Cảm Nhận Về Bài Thơ Thương Vợ Và Tự Tình, Chia sẻ đến bạn Thơ Vũ Hoàng Chương ❤️ Tuyển Tập Những Bài Thơ Hay

Trên đây là tuyển tập một số bài văn mẫu cảm nhận về tác phẩm Thương vợ cực hay và ý nghĩa nhất! Cảm ơn bạn đã tham khảo tại scr.vn.

Viết một bình luận