Thuyết Minh Đoạn 1 Bài Phú Sông Bạch Đằng ❤️️ 21+ Bài Hay ✅ Tuyển Tập Văn Mẫu Đặc Sắc Giới Thiệu Và Phân Tích Tác Phẩm Bạch Đằng Giang Phú.
Dàn Ý Thuyết Minh Đoạn 1 Bài Phú Sông Bạch Đằng
Sau đây là dàn ý thuyết minh đoạn 1 bài Phú Sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu đầy đủ và chi tiết nhất để bạn hoàn thành bài văn của mình.
- Mở Bài:
- Giới thiệu khái quát về tác giả Trương Hán Siêu
- Giới thiệu tác phẩm và dẫn dắt vào khổ 1 bài “Bạch Đằng giang phú”
- Thân Bài:
-Giới thiệu nhân vật “khách”:
- Là phân thân của tác giả
- Là kẻ có tráng chí bốn phương
-Hành trình du ngoạn của nhân vật “khách”:
- Mục đích du ngoạn
- Các địa danh được nhắc đến
-Cảnh sắc thiên nhiên trên sông Bạch Đằng:
- Vẻ đẹp kì vĩ, thơ mộng
- Vẻ đẹp hoang vắng, đìu hiu
-Tâm trạng và cảm xúc của kẻ “khách” trước cảnh thiên nhiên sông Bạch Đằng:
- Tự hào cảnh sắc quê hương đất nước
- Buồn thương tiếc nuối
- Kết Bài: Ý nghĩa đoạn 1 bài “Bạch Đằng giang phú”
Ví dụ: Như vậy qua đoạn mở đầu của bài “Bạch Đằng giang phú”, tác giả Trương Hán Siêu đã đưa người đọc trải qua nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau, từ niềm tự hào về chiến tích lịch sử vẻ vang của dân tộc đến nỗi buồn thương tiếc nuối vì những giá trị lịch sử đã
Chia sẻ thêm cùng bạn 🍀 Thuyết Minh Phú Sông Bạch Đằng 🍀 15 Bài Văn Hay Nhất
Bài Thuyết Minh Đoạn 1 Bài Phú Sông Bạch Đằng – Mẫu 1
Làm thế nào để viết một bài thuyết minh đoạn 1 bài Phú Sông Bạch Đằng hay và giàu cảm xúc? Bài văn mẫu sau đây sẽ giúp bạn áp dụng những kỹ thuật viết đã học.
“Bạch Đằng giang phú” – một bài phú tiêu biểu xuất sắc nhất trong thể phú của văn học Việt Nam thời kì trung đại, qua bài phú, tác giả Trương Hán Siêu không chỉ ca ngợi truyền thống anh hùng kiên cường bất khuất của dân tộc mà còn thể hiện niềm tự hào về cảnh đẹp quê hương đất nước. Tiêu biểu trong đoạn mở đầu của bài phú, tác giả đã ca ngợi vẻ đẹp của con sông Bạch Đằng lịch sử, một địa danh mang ý nghĩa lịch sử to lớn đối với dân tộc.
Vẻ đẹp cảnh sắc thiên nhiên sông nước Bạch Đằng được tác giả tái hiện qua cái nhìn và cảm nhận của nhân vật “khách”, tuy nhiên có thể hiểu kẻ “khách” chính là tác giả, ngay từ những câu đầu tiên tác giả đã giới thiệu về kẻ khách là người thích du ngoạn, tự do và phóng khoáng:
“Khách có kẻ…
Lướt bể chơi trăng mải miết”
Nhân vật “khách” đã liệt kê ra những địa danh qua hiểu biết và qua thực tế du ngoạn, sớm chiều rong ruổi thưởng ngoạn, trong đó hàng loạt các địa danh nổi tiếng của Trung Quốc được nhắc đến như: sông Nguyên, sông Tương, Vũ Huyệt, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt, Đầm Vân Mộng.
“Sớm gõ thuyền chừ Nguyên, Tương…
Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều.”
Kẻ khách tự khẳng định rằng “Nơi có người đi, đâu mà chẳng biết”, như để nói lên vốn hiểu biết sâu rộng và phong phú của mình, hơn thế còn nhắc tới “tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết” như bày tỏ hoài bão lớn lao và sự khoáng đạt trong tâm hồn của mình. Ngoài các địa danh trên đất Trung Quốc, nhân vật khách đã nhắc đến những địa danh trên đất Việt như: cửa Đại Than, bến Đông Triều, sông Bạch Đằng, có thể thấy kẻ khách là một người có lòng yêu thiên nhiên say đắm, vốn hiểu biết phong phú lại thêm niềm say mê thưởng thức vẻ đẹp thiên nhiên.
Bằng lòng yêu thiên nhiên, nhân vật khách đã khắc họa cảnh sắc thiên nhiên sông Bạch Đằng một cách tinh tế, chân thực và sống động, mang nhiều vẻ đẹp khác nhau:
“Đến sông Bạch Đằng thuyền bơi một chiều…
Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô”
Sông Bạch Đằng hiện lên với vẻ đẹp hùng vĩ, hiểm trở “sóng kình muôn dặm” nhưng lại không kém phần mĩ lệ, trữ tình “Thướt tha đuôi trĩ một màu”, trên những đợt sóng dữ dội ấy là những đoàn thuyền nối đuôi nhau như đuôi chim trĩ lặng lẽ trôi trên sông vượt qua những đợt sóng kình.
Đất trời và sông nước mang một vẻ đẹp tự nhiên hòa hợp “nước trời: một sắc” bầu trời mặt nước cùng một màu xanh trong, “phong cảnh: ba thu” nghĩa là phong cảnh vào độ chín nhất trong khoảng thời gian tháng thứ ba của mùa thu. Cảnh sắc đất trời gợi nên một không gian thơ mộng, nhưng cũng có nét đượm buồn bởi hình ảnh bờ lau, bến lách, các từ láy “san sát”, “đìu hiu” đã cực tả sự hoang vắng, đìu hiu và cô quạnh của con sông, những bờ lau trắng nối tiếp nhau trên bờ sông, những bến lách đìu hiu gợi ra cảnh thê lương, tang tóc.
Mà chính nơi đây là chiến địa sinh tử, đã biết bao con người ngã xuống, máu nhuốm đỏ cả dòng sông, dưới sông còn nhiều giáo gươm, trên gò còn nhiều xương khô. Những chứng tích đó là minh chứng cho lịch sử hào hùng của dân tộc nhưng cũng khiến cho lòng người không tránh khỏi niềm tiếc thương cho những mất mát, hy sinh.
“Buồn vì cảnh thảm, đứng lặng giờ lâu…
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu”
Trước là sự tự hào vì chiến tích nơi đây thì giờ là nỗi buồn thảm thương lặng người vì sự chết chóc do chiến tranh gây ra, buồn vì giá trị lịch sử cũng theo thời gian mà bị mai một đi, các động từ “buồn, thương, tiếc” góp phần khắc họa rõ tâm trạng ảm đạm, ngậm ngùi khôn nguôi của nhân vật khách trước cảnh sông Bạch Đằng.
Như vậy qua đoạn mở đầu của bài “Bạch Đằng giang phú”, tác giả Trương Hán Siêu đã đưa người đọc trải qua nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau, từ niềm tự hào về chiến tích lịch sử vẻ vang của dân tộc đến niềm buồn thương tiếc nuối vì những giá trị lịch sử đã dần phai mờ, mai một. Người đọc cũng qua đó ý thức về vấn đề bảo vệ và gìn giữ những giá trị lịch sử, khắc ghi công ơn xương máu của thế hệ cha anh đã ngã xuống bồi đắp nên nền hòa bình độc lập của đất nước Việt Nam như ngày hôm nay.
SCR.VN tặng bạn 💧 Phân Tích Bài Thơ Phú Sông Bạch Đằng 💧 10 Bài Hay Nhất
Văn Mẫu Thuyết Minh Về Đoạn 1 Bài Phú Sông Bạch Đằng – Mẫu 2
Bạn đang tìm văn mẫu thuyết minh về đoạn 1 bài Phú Sông Bạch Đằng hay và vốn từ phong phú? Hãy đón đọc bài viết dưới đây.
Nhắc đến triều đại nhà Trần, ta không thể không nhắc đến một nhân vật lớn, nhân vật có tầm ảnh hướng sâu sắc đến nhân dân là Trương Hán Siêu. Ông là một người có trình độ học vấn vô cùng sâu rộng, uyên bác, lại trải qua những bốn đời vua nhà Trần là Anh Tông, Minh Tông, Hiến Tông và Dụ Tông và cả hai cuộc chiến chống quân Nguyên xâm lược, ông đã đóng góp rất nhiều cho nhà Trần, được các vị vua thời này tôn kính như một bậc thầy.
Những tác phẩm của Trương Hán Siêu thường là những áng văn bất hủ, thể hiện tình yêu quê hương, đất nước và lòng tự hào dân tộc. Một trong những nét điển hình cho phong cách của Trương Hán Siêu là cái nhìn về lịch sử, mang dấu ấn hoài niệm, hoài cổ nhưng vẫn đầy trữ tình. Và bài Bạch Đằng Giang Phú (Phú sông Bạch Đằng) chính là một tác phẩm minh chứng cho điều này.
Sau khi cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông kết thúc thắng lợi, cuộc sống tiếp diễn bình thường thì 50 năm sau, Trương Hán Siêu sáng tác bài Phú sông Bạch Đằng, bài thơ là nỗi niềm hoài niệm của tác giả về một thời kỳ lịch sử vàng son, chói lọi của dân tộc. Sông Bạch Đằng là chứng nhân lịch sử, cùng đồng hành với những sự kiện nổi tiếng như: Chiến thắng quân Nguyên Mông năm 938 của Ngô Quyền, Chiến thắng quân Nguyên Mông năm 1288 của Trần Hưng Đạo. Tác phẩm được viết theo thể phú, một thể văn xuất phát từ Trung Quốc.
Thể loại này thường được viết bằng văn vần hoặc văn xuôi xen lẫn văn vần. Nội dung kể về những sự việc khách quan trong cuộc sống, từ những sự vật, những phong tục, tập quán…. Về nghệ thuật của tác phẩm thì đây là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất, đỉnh cao nhất của thể loại thơ phú. Bằng tài năng tả cảnh, bút pháp trữ tình đan xen giọng kể mang tính sử thi của tác giả, con sông Bạch Đằng đã hiện lên với những chiến tích lịch sử oanh liệt, hào hùng. Qua đó mà ta thấy thêm tự hào về lịch sử của dân tộc, đồng thời cũng cảm nhận được tình yêu nước, nỗi niềm hoài cổ của tác giả.
Đoạn trích Phú sông Bạch Đằng được chia làm bốn phần. Phần 1 là những cảm xúc trước cảnh sông Bạch Đằng của người khách:
“Khách có kẻ:
Chèo quế bơi trăng
Buồm mây giong gió
Sớm ngọn Tương kia
Chiều hang Vũ nọ
Vùng vẫy Giang, Hồ
Tiêu dao Ngô, Sở
Ði cho biết đây
Ði cho biết đó
Chằm Vân, Mộng chứa ở trong kho tư tưởng, đã biết bao nhiêu:
Mà cái chí khí tứ phương, vẫn còn hăm hở
Mới học thói Tử Trường
Bốn bể ngao du
Qua cửa Ðại Thần
Sang bến Ðông Triều
Ðến sông Bạch Ðằng
Ðủng đỉnh phiếm chu
Trắng xoá sóng kình muôn dặm
Xanh rì dặng ác một màu
Nước trời lộn sắc
Phong cảnh vừa thu
Ngàn lau quạnh cõi
Bến lách đìu hiu
Giáo gãy đầy sông
Cốt khô đầy gò
Ngậm ngùi đứng lặng
Ngắm cuộc phù du
Thương kẻ anh hùng đâu vắng tá?
Mà đây dấu vết vẫn còn lưu”
Tác giả đã hóa thân vào nhân vật khách trong một tâm thế dạo chơi, thưởng thức phong cảnh của đất nước. Tác giả đã nêu ra những địa danh của Việt Nam như: cửa Đại Than, bến Đông Triều, sông Bạch Đằng… và cả những địa danh của Trung Quốc: Nguyên, Tương, Vũ Huyệt, Tam Ngô…. Cho thấy vốn hiểu biết sâu rộng cùng với lòng tự hào, tình yêu của Trương Hán Siêu đối với đất nước.
Tác phẩm Phú sông Bạch Đằng không chỉ có ý nghĩa và giá trị đối với riêng nhà Trần. Nó còn có ý nghĩa và giá trị đối với nền văn học trung đại Việt Nam và xa hơn là còn được lưu giữ đến tận hiện tại. Qua đó thấy được tài năng của tác giả và thêm hiểu biết về lịch sử của đất nước ta. Đọc tác phẩm, ta thấy trân trọng những giá trị mà người xưa để lại, từ đó mà không ngừng nỗ lực cống hiến cho đất nước để đất nước ngày càng phát triển, vươn xa ra thế giới.
Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất
Thuyết Minh Đoạn 1 Bài Phú Sông Bạch Đằng Của Trương Hán Siêu – Mẫu 3
Bạn nhận được đề tài thuyết minh đoạn 1 bài Phú Sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu và phân vân không biết triển khai như thế nào? Bài viết sau đây cung cấp cho bạn bài văn mẫu hay nhất.
Trong văn chương trung đại, thiên nhiên được miêu tả khá nhiều. Các nhà văn, nhà thơ tìm đến thiên nhiên trong những tâm trạng khác nhau. Cao Bá Quát đến với thiên nhiên để bộc lộ tâm trạng chua xót bất đắc chí. Nguyễn Bỉnh Khiêm thì đối với thiên nhiên để bày tỏ đạo lí thanh cao trước thói đời bon chen danh lợi… Ở Bài phú sông Bạch Đằng, Trương Hán Siêu đã tìm đến thiên nhiên trong một tâm trạng khác. Mở đầu bài phú, nhà thơ đưa người đọc vào một thế giới hùng vĩ, bao la của những Cửu Giang, Ngũ Hổ, Tam Ngô, Bách Việt là những nơi khách đã từng đi qua khách, tỏ ra là một con người có tâm hồn phóng khoáng, tự do:
Giương buồm trong gió chơi vơi,
Lướt bể chơi trăng mải miết.
Sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương,
Chiều lần thăm chừ Vũ Huyệt.
Khách cũng là một con người đi nhiều, biết rộng:
Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ củng nhiều,
Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết.
Đi nhiều, biết nhiều, nhưng trong thú tiêu hao, khách chỉ học có Tử Trường, tức là Tư Mã Thiên, nhà sử học nổi tiếng Trung Quốc, từng chu du khắp đất trung hoa rộng lớn trước khi viết bộ sử kí bất hủ.
Phải chăng khách nói đến Tử Trường để bày tỏ tâm hồn đồng điệu của mình với người xưa. Đi xa, đâu phải chỉ để tiêu dao, ngắm hoa vọng nguyệt, mà quan trọng hơn là tìm đến nơi cha ông ta đã lập chiến công to lớn đã làm vẻ vang cho lịch sử để chiêm ngưỡng, ngợi ca và suy ngẫm.
Điều này, chứng tỏ vị thế vị khách thật cao đẹp, chí khí thật hào hùng. Người đọc có thể nhận thấy vẻ đẹp ấy trong chính lời kể đầy tự hào của khách. Khách nhắc tới nhiều địa danh quen thuộc trong sách vở tàu, chúng cách xa nhau hàng ngàn dặm, làm sao có thể đi được trong một sớm, một chiều (Sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương – Chiều lần thăm Vũ Huyệt – Cửu Giang, Ngũ Hồ – Tam Ngô, Bách Việt).
Đấy chỉ là cách phô diễn ý tưởng có tính chất ước lệ mà thôi. Điều quan trọng là nó đã đưa đến cho người đọc ấn tượng khá rõ về những khung cảnh thiên nhiên rộng lớn, góp phần thể hiện niềm ham thích tự do, phóng khoáng của nhân vật khách. Cảm hứng về cuộc viễn du mở đầu bài phú, thực ra chỉ là sự chuẩn bị một không khí thích hợp trước khi đi vào thế giới hùng vĩ của sông Bạch Đằng lịch sử.
Ấn tượng đầu tiên mà Trương Hán Siêu đưa đến cho người đọc là sự bề thế rộng lớn và sức sống bền bỉ muôn đời của Bạch Đằng giang. Con sông này thật hùng vĩ, bởi rộng bát ngát và dài muôn dặm. Như vậy nó không những là đại giang và còn là trường giang (Bát ngát sóng kình muôn dặm), với bao lớp sóng lớn trùng điệp. Điều đáng lưu ý là ngoài vẻ thiêng liêng hùng vĩ, dong Bạch Đằng còn có nét thật dịu dàng, duyên dáng và thơ mộng: những con thuyền nối đuôi nhau trôi dập dềnh trên sông ; đã cuối thu rồi nên nước xanh, trời xanh; hai bên bờ lau lách xào xạc, đìu hiu…
Trước cảnh sông nước hùng vĩ và thơ mộng ấy, tác giả cảm thấy vui buồn lẫn lộn. Đây là chiến trường ác liệt xưa kia, ta thắng lớn, nhưng kể sao cho hết những hi sinh mất mát với bao giáo gãy, xương khô. Trời nước, lau lách như gợi lại chuyện cũ, khiến người hôm nay không tránh khỏi động lòng tiếc nuối, xót thương cho bao anh hùng đã khuất. Ở đoạn thơ này, ta thấy một nỗi buồn cao đẹp qua những câu thơ có âm ‘hưởng trầm lắng, với điệu cảm khái:
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu
Sau này, Nguyễn Trãi khi thăm cảnh Bạch Đằng cũng có nỗi buồn tương tự.
Gợi ý cho bạn 🌠 Thuyết Minh Về Sông Bạch Đằng 🌠 15 Bài Văn Hay Nhất
Thuyết Minh Đoạn 1 Của Bài Phú Sông Bạch Đằng Hay Nhất – Mẫu 4
Bạn đang tìm đọc các bài văn mẫu thuyết minh đoạn 1 của bài Phú Sông Bạch Đằng hay nhất? Bài viết sau đây sẽ đáp ứng được yêu cầu của bạn.
Raxun Gamzatop- nhà thơ của xứ núi Đaghetxtan đã từng nói đại ý rằng: “Lịch sử của một dân tộc không chỉ được ghi lại bằng máu xương của dân tộc ấy mà còn được ghi lại bằng những trang viết”. Nhìn vào lịch sử của dân tộc ta, với hơn bốn nghìn năm văn hiến, trải qua bao triều đại với biết bao người đã ngã xuống vì độc lập – tự do cùng những trang viết hào hùng của lớp lớp thế hệ.
Rõ ràng những điều ấy đã làm nên một đất nước không chỉ có bề dày của lịch sử mà còn là bề dày của những nét đẹp trong tâm hồn người. Đặc biệt trong giai đoạn văn học trung đại Việt Nam vốn có nhiều biến cố và sóng gió thì khi ấy các thi nhân lại thổn thức biết bao nỗi lòng tâm sự chỉ có thể nói ra bằng thơ, giãi bày bằng văn bởi lẽ “thơ là tiếng lòng”.
Hiện lên như một chứng nhân lịch sử oai hùng, con sông Bạch Đằng đã đi vào thơ ca như một lẽ đương nhiên, trong số đó không thể không nhắc đến thi phẩm “Phú sông Bạch Đằng” của Trương Hán Siêu – một đỉnh cao nghệ thuật của thể phú trong văn học và được xem là một áng thiên cổ hùng văn trong lịch sử văn học Việt Nam. Đặc biệt qua khổ đầu của bài phú đã giúp ta cảm nhận rõ cảm xúc dâng trào của thi nhân khi đứng trước dòng sông huyền thoại.
Trương Hán Siêu là người có học vấn uyên thâm, tính tình cương trực được vua Trần tin cậy và nhân nhinh kính trọng. Những tác phẩm của ông tuy để lại không nhiều nhưng vô cùng sâu sắc và đậm đà chất dân tộc. Thi phẩm “Phú sông Bạch Đằng” được viết theo thể phú, đó là thể văn vần hoặc xen lẫn văn vần và văn xuôi thường dùng để tả cảnh, phong tục, kể sự việc, bàn chuyện đời,… Đến với tác phẩm “Phú sông Bạch Đằng”, Trương Hán Siêu viết bằng thể phú cổ (phú lưu thủy) không tuân theo niêm luật chặt chẽ của phú Đường luật vì vậy bài phú của ông tương đối phóng khoáng, giàu tính nhạc và dễ truyền tụng.
Bạch Đằng vốn là một nhánh sông đổ ra biển Đông nằm giữa Quảng Ninh và Hải Phòng, nơi đây đã ghi dấu biết bao chiến công hiển hách trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc bởi lẽ vậy nó đã trở thành đề tài nổi bật để các thi nhân ca tụng như Trần Minh Tông, Nguyễn Trãi, Nguyễn Mộng Tuân,… nhưng viết về dòng sông ấy xuất sắc hơn cả phải nhắc tới Trương Hán Siêu. Trong một lần dạo chơi trên sông Bạch Đằng ông đã sáng tác bài phú nhưng chưa rõ vào năm nào, có lẽ là khoảng 50 năm sau cuộc kháng chiến chống giặc Mông – Nguyên thắng lợi.
Các thi nhân từ xưa đến nay đều đến với thiên nhiên để thả bầu tâm sự của mình vào đó, nếu Cao Bá Quát tìm đến thiên nhiên để bày tỏ tâm trạng chua xót bất đắc chí, Nguyễn Bỉnh Khiêm thì là để bày tỏ đạo lí cũng như quan niệm sống sâu sắc hay sau này Bác Hồ tìm thiên nhiên để bầu bạn trong những tháng ngày gian khổ,… Nhưng đối với Trương Hán Siêu, ông tìm đến thiên nhiên để thể hiện khát vọng ngao du thiên hạ đồng thời thể hiện niềm tự hào dân tộc. Mở đầu bài thơ là sự xuất hiện của nhân vật khách khiến ta không khỏi thắc mắc, nhưng thực chất đó là sự phân thân của tác giả để tạo nhân vật đối đáp trong bài phú, giúp câu chuyện thêm hấp dẫn và chân thực hơn:
“Khách có kẻ
Giương buồm giong gió chơi vơi
Lướt bể chơi trăng mải miết
……………………..
Bèn giữa dòng chừ buông chèo
Học Tử trường chừ thú tiêu dao”
Ngay từ những dòng thơ kẻ sĩ hiện lên là một tao nhân với rượu túi thơ “chơi vơi” theo cánh buồm, làm bạn với gió trăng qua mọi miền sông biển để sống hết mình với thiên nhiên, để du ngoạn thăm thú mọi cảnh đẹp xa gần. Trương Hán Siêu đã sử dụng hàng loạt những động từ mạnh “giương”, “lướt”, “chơi” cùng với đó là tính từ “chơi vơi” và “mải miết” làm nhân vật khách hoàn toàn nổi bật với tình cách phóng khoáng, mạnh mẽ và thích được đi đây, đi đó.
Thú vui du ngoạn không chỉ dừng lại ở việc ngắm cảnh sắc thiên nhiên mà còn là để tiếp thu tri thức, bồi bổ tâm hồn. Bức tranh thiên nhiên hiện lên đã cho ta thấy vốn hiểu biết uyên thâm của nhân vật khách hay chính là Trương Hán Siêu khi ông liệt kê hàng loạt các điển cố khiến bức tranh ấy trở nên rộng lớn, bao la vô tận: “Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt”… Sáng thì đi đến sông Nguyên, sông Tương, chiều thì thăm Vũ Huyệt, dường như cả Trung Hoa bạt ngàn đều được nhân vật khách nắm trong lòng bàn tay ngay cả “Đầm Vân Mộng” rộng lớn đến thế thì khách cũng cho rằng: “chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều”.
Nhân vật khách đã đi đến nhiều nơi, biết đến nhiều chỗ nhưng những nơi ấy thực chất chỉ mang tính khái quát, ước lệ, ngụ ý nói rằng ông học Tử Trường – Tư Mã Thiên – một nhà sử học nổi tiếng của Trung Quốc từng chu du khắp Trung Hoa rộng lớn để sau này viết bộ sử kí bất hủ một thời. Dù chỉ là tưởng tượng nhưng cảnh vật hiện lên chẳng kém phần hùng vĩ, qua đó cho hậu thế thấy trong ông là cả một tâm hồn yêu thiên nhiên, một khao khát chiếm lĩnh tri thức của nhân loại: “Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết.”
Cuộc viễn du mở đầu bài phú khiến ta không khỏi choáng ngợp trước cảnh sắc thiên nhiên Trung Hoa, nhưng dường như đó chỉ là cái phông, cái nền, là những nốt nhạc dạo đầu trước khi bước vào thế giới hùng vĩ của dòng sông Bạch Đằng gợi lại cho Trương Hán Siêu biết bao xúc cảm về một thời đã qua, bởi lẽ “Niềm vui của nhà văn chân chính là người dẫn đường đến xứ sở cái đẹp”:
“Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Chiều
Đến sông Bạch Đằng thuyền bơi một chiều
…
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu.”
Cảnh sắc thiên nhiên của dòng sông Bạch Đằng được nhân vật khách miêu tả với nhiều sắc thái khác nhau từ tự hào, phấn khởi cho đến buồn thương, tiếc nuối. Dòng sông lịch sử hiện lên với những con thuyền nối đuôi nhau trôi bập bềnh trên sông: “Thướt tha đuôi trĩ một màu”, với những con sóng lớn trùng trùng điệp điệp gối lên nhau: “Bát ngát sóng kình”, với bầu trời và dòng nước cùng một sắc xanh hài hòa mát mẻ,…
Dòng sông vừa mang vẻ đẹp hùng vĩ, vừa mang vẻ đẹp dịu dàng, huyền ảo, thơ mộng. Tiết trời giờ đây đã chuyển sang tháng thứ ba của mùa thu, cảnh vật lại càng làm lòng người thêm xao xuyến, thêm phơi phới tự hào khi đứng trước một dòng sông lịch sử có nét đẹp mĩ lệ, nên thơ khác hẳn với cảnh sắc đượm buồn trong thơ của Tản Đà sau này:
“Gió thu hiu hắt
Sương thu lạnh
Trăng thu bạch
Khói thu xây thành.”
Nhưng rồi khi đứng trước dòng sông ấy nó làm con người ta không khỏi khắc khoải về những hoài niệm, về những chuỗi ngày đau thương một thời khiến cảnh sắc đẹp đến thế cũng nhuốm màu nỗi buồn, chẳng thể ngăn được nỗi thương cảm đang trào dâng trong mình, nói như Nguyễn Du:
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
Hay như Đặng Trần Côn:
“Cảnh buồn người thiết tha lòng
Cành cây sương đượm, tiếng trùng mưa phun”
Trải qua biết bao cuộc chiến đau thương, đọng lại trên dòng sông bây giờ chỉ toàn gươm giáo, xương cốt của lũ giặc phương Bắc và của cả những người anh hùng quân ta đã ngã xuống. Các từ láy “san sát”, “đìu hiu” đã khiến con sông trở nên hoang vắng, ảm đạm, thê lương đến đau lòng. Vết tích lịch sử còn đấy, thời gian có ăn mòn vạn vật tàn khốc đến đâu cũng chẳng thể xóa nhòa đi đau thương, mất mát. Ý thơ của Trương Hán Siêu làm ta nhớ đến vài câu thơ trong bài “Cửa biển Bạch Đằng” của Nguyễn Trãi:
“Ngạc chặt kim băm non lởm chởm
Giáo chìm gươm gãy bãi tầng tầng
Dòng trôi tìm bóng dạ bâng khuâng.”
Khung cảnh đìu hìu ấy khiến nhân vật khách không khỏi tiếc thương để rồi “đứng lặng giờ lâu”, dường như đó là sự sững lại trong một động thái trữ tình đầy nhân bản. Ồng mặc niệm cho những người đã khuất, cho những anh hùng của Đại Việt ta và cho cả những người lính Trung Hoa linh hồn còn vất vưởng nơi đất khách quê người. Phải chăng đó là tâm hồn lớn lao của một con người nhân đạo có thế giới nội tâm sâu lắng, một con người không chỉ yêu thiên nhiên, thương, dân tộc mà còn đau xót cho cả những kẻ thù – những con người vô tình bị bắt ép, vô tình bị đưa đẩy vào cuộc chiến tranh phi nghĩa đầy đau thương…
Có những trang thơ đọc xong rồi gấp lại sẽ khiến ta quên ngay nhưng có những vần thơ mặc cho lớp bụi của thời gian vẫn sống mãi cùng bạn đọc và có lẽ “Phú sông Bạch Đằng” là một bài thơ như vậy. Những câu thơ vang lên tựa âm hưởng của khúc anh hùng ca đang dâng lên dào dạt như những lớp sóng của dòng sông Bạch Đằng ngàn năm còn vỗ khiến lớp lớp thế hệ sau không khỏi tự hào. Đồng thờ đoạn trích góp phần thể hiện đỉnh cao nghệ thuật của thể phú, qua đó thấy được tài năng cũng như vẻ đẹp sâu tận tâm hồn con người Trương Hán Siêu – “Một nghệ sĩ chân chính phải là một nhà nhân đạo từ trong cốt tủy” (Sê – khốp).
Đọc nhiều hơn dành cho bạn ☀️ Thuyết Minh Về Di Tích Lịch Sử ☀️ 17 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Thuyết Minh Đoạn 1 Bài Phú Sông Bạch Đằng Ngắn Gọn – Mẫu 5
Để tiết kiệm thời gian, bạn hãy tìm đọc bài văn mẫu thuyết minh đoạn 1 bài Phú Sông Bạch Đằng ngắn gọn sau đây giúp bạn ôn tập nhanh chóng, hiệu quả.
Trương Hán Siêu không chỉ là một bậc danh sĩ đời Trần mà còn người tài cao, học rộng. Hiện ông còn để lại 4 bài thơ và 3 bài văn, nổi tiếng nhất là “Bạch Đằng giang phú“ – một tác phẩm mang đỉnh cao nghệ thuật của thể phú trong văn học trung đại Việt Nam.
Trong thơ văn cổ Việt Nam có một số tác phẩm lấy đề tài sông Bạch Đằng như:“Bạch Đằng giang”-Trần Minh Tông,“Bạch Đằng giang”-Nguyễn Sưởng, “Bạch Đằng hải khẩu”-Nguyễn Trãi… nhưng”Bạch Đằng giang phú” của Trương Hán Siêu được xếp vào hạng kiệt tác và được viết vào khoảng 50 năm sau cuộc kháng chiến chống quân Mông-Nguyên thắng lợi.Bài phú này mang những đặc trưng cơ bản của thể phú,vì thế nó gồm có 4 phần: phần mở, phần giải thích,phần bình luận và phần kết.
Mở đầu bài phú, tác giả bày tỏ ước muốn được đi đây, đi đó để thưởng ngoạn và ngắm vẻ đẹp của quê hương, đất nước:
“Khách có kẻ
Giương buồm giong gió chơi vơi,
Lướt bể chơi trăng mải miết.”
Tác giả đã liệt kê 1 loạt những địa danh nổi tiếng,những nơi có vẻ đẹp được nhiều người biết đến ở Trung Quốc như:Vũ Huyệt, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt… Đây là cách nói ước lệ tượng trưng tác giả bày tỏ niềm khao khát mãnh liệt được đi du ngoạn nhiều nơi để ngắm cảnh, để cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước ta.
Ở phần tiếp theo,ta lại thấy cảnh sông Bạch Đằng qua lời miêu tả của nhân vật khách một bức tranh sinh động,giản dị:
“Bát ngát sóng kình muôn dặm,
Thướt tha đuôi trĩ một màu
Nước trời một sắc
Phong cảnh ba thu.”
Thông qua 1 loạt những từ láy gợi hình,kết hợp với việc nhắc đến những địa danh gắn liền với sông Bạch Đằng.Tg đã gợi cho người đọc vẻ đẹp hùng vĩ,bát ngát mênh mông của sông Bạch Đằng. Đồng thời tg cũng bày tỏ được cảm xúc của mình khi đứng trước 1 nhân chứng ls khi nhớ về quá khứ oanh liệt.
“Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu”
Hơn thế nữa,ta còn thấy được hào khí của quân ta trong trận chiến Bạch Đằng thông qua lời kể của các bô lão thật hào hùng và lớn mạnh qua phần bình:
“Thuyền bè muôn đội,tinh kỳ phấp phới,
Hùng hổ sáu quân,giáo gươm sáng chói.”
…
“Khác nào như khi xưa:
Trận Xích Bích quân Tào Tháo tan tác tro bay,
Trận Hợp Phì giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi.”
Qua đó,ta thấy được những chiến công vĩ đại ấy được kể bằng giọng văn gấp gáp, khẩn trương, tái hiện được khí thế hào hùng,mang âm hưởng của bản anh hùng ca tràn đầy niềm tự hào. Lời kể của các bô lão đã nhấn mạnh được chiến thắng vẻ vang của quân dân ta và sự thất bại thảm hại của kẻ thù.
Chia sẻ cơ hội 🌟 Nạp Thẻ Ngay Miễn Phí 🌟 Tặng Card Nạp Tiền Ngay Free Mới
Thuyết Minh Đoạn 1 Bài Phú Sông Bạch Đằng Đạt Điểm Cao – Mẫu 6
Bài viết này đề xuất một số bài văn thuyết minh đoạn 1 bài Phú Sông Bạch Đằng đạt điểm cao để bạn tham khảo cho bài kiểm tra sắp đến.
Lịch sử dân tộc Việt Nam chứng kiến biết bao những chiến công lừng lẫy của dân tộc, đặc biệt là những chiến công trên những dòng sông anh hùng. Và trong số đó, không thể không kể đến dòng Bạch Đằng giang lẫy lừng với bao chiến công oanh liệt, vang dội. Hơn năm mươi năm sau ngày chiến thắng quân Nguyên Mông trên dòng Bạch Đằng, Trương Hán Siêu đã đứng ở đây mà hoài niệm về những bi tráng của dòng sông lịch sử ấy qua bài Phú sông Bạch Đằng.
Và để bộc lộ rõ hơn những hoài niệm, nhớ thương và trăn trở của mình cùng cái tráng chí của mình, ông đã sử dụng hình tượng nhân vật khách – một sự sáng tạo đầy nghệ thuật để giúp bài Phú sông Bạch Đằng trở thành áng thơ xuất sắc trong văn học trung đại Việt Nam. Được sáng tác theo lối phú cổ thể, tác giả đã dựng lên hình tượng một người khách đến thăm dòng sông lịch sử Bạch Đằng đồng thời giãi bày những nỗi niềm suy tư trong lòng. Hình tượng khách vốn là một nhân vật được các nhà thơ hư cấu, sáng tạo lên thông qua hình thức đối đáp với một nhân vật khác mà ở trong bài phú này là các bô lão.
Với bài phú của Trương Hán Siêu, hình tượng khách trở thành nhân vật trung tâm của tác phẩm, tuy vẫn được viết theo cấu trúc cơ bản của một bài phú (mở, giải, bình, kết), thế nhưng, những xúc cảm trong toàn mạch thơ đều nương theo cảm xúc của nhân vật khách này. Cảm xúc đó là nỗi niềm nhớ thương về một thời oanh liệt của dân tộc ta trên dòng sông Bạch Đằng lịch sử và cái tráng chí bốn phương đau đáu khôn nguôi. Đọc bài phú, người ta nhận ra rằng, vị khách trung tâm của tác phẩm là cái tôi của nhà thơ, là sự hóa thân của người thi sĩ, người anh hùng đang tha thiết những nỗi niềm về đất nước.
Bước vào bài phú, người khách xuất hiện với tâm thế của một kẻ tao nhân, phóng khoáng, bộc lộ cái tráng chí bốn phương của mình:
“Khách có kẻ:
…
Học Tử Trường chừ thú tiêu dao”
Trương Hán Siêu đã dùng ở đây một loạt những hình ảnh ước lệ vốn rất thường thấy trong thơ cổ như “giương buồm giong gió, lướt bể chơi trăng”, để thể hiện cái tâm thế của một kẻ khoáng đạt, thích thú được ngao du muôn nơi. Người khách ấy như thể đang chơi vơi giữa biển lớn, vi vu với gió, với trăng suốt tháng ngày trong niềm vui bất tận. Hai từ láy “chơi vơi, mải miết” thể hiện một niềm vui phơi phới, niềm say mê bất tận của người khách đang trong mộng hải hồ.
Tiếp sau đó, người khách lại liệt kê một loạt những địa danh nổi tiếng của Trung Hoa như “Vũ Huyệt, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt”, đây là những cảnh đẹp ở Trung Quốc mà người khách thích thú muốn viễn du đến thăm. Những địa danh ấy nổi tiếng nhưng lại ở nơi xa xôi, người khách chưa thể đặt chân tới nhưng lại biết rõ, hiểu rõ, cho thấy một bộ óc với kiến thức uyên thâm về văn hóa, tri thức và cái thú muốn được tiêu dao khắp mọi nơi trên đất trên bể và hơn hết là cái tráng chí bốn phương đang tha thiết trong tim.
Khát vọng được đi muôn nơi của khách thể hiện trong từng câu chữ của bài thơ “nơi có người đi, đâu chẳng biết”, chỉ cần có người đi, chắc chắn có người biết đến. Đi để mở mang tầm mắt, mở mang nguồn tri thức của mình!
Đang kể đến những địa danh nổi tiếng bên Trung Quốc, Trương Hán Siêu lại chợt liệt kê vào đây tích “Tử Trường”. Tử Trường tức Tư Mã Thiên là một nhà biên sử ký nổi tiếng của Trung Quốc nhưng người khách không phải muốn học cách ghi chép sử mà là muốn học thú tiêu dao của ông.
“Học Tử Trường chừ thú tiêu dao”.
Cách nói cường điệu “Sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương/ Chiều lần thăm chừ Vũ Huyệt”, hai địa điểm ở cách xa nhau, ấy vậy mà lại chỉ đi trong vòng một ngày sớm chiều, cách nói này đã nâng tầm cao người của khách lên một vị thế mới, khi mà không gian và thời gian được rút ngắn lại.
Thế nhưng, dù có trải qua bao nhiêu cái thắng cảnh đẹp nổi tiếng của Trung Quốc thì cuối cùng, địa danh mà khiến cho khách phải dừng lại đó là dòng Bạch Đằng giang. Ta thấy được ở đây một niềm xúc cảm mãnh liệt, một tình yêu quê hương tha thiết và một niềm tự hào về một quá khứ oanh liệt của dân tộc ta. Tác giả cũng liệt kê một loạt những địa danh nổi tiếng như “Đại Than, Đông Triều, Bạch Đằng” để đối lại những địa danh phía trên của Trung Quốc. Đây là những địa danh đã làm nên những chiến thắng oanh liệt, rạng danh cho dân tộc Đại Việt xưa.
“Qua Đại Than, ngược bến Đông Triều
…
Nước trời: một sắc, phong cảnh: ba thu”
Lướt trên chiếc thuyền nhỏ, vị khách già lướt qua từng địa điểm rồi dừng lại ở dòng Bạch Đằng – con sông với bao chiến tích lừng lẫy. Hiện ra trước mắt khách là một cảnh tuyệt đẹp tới ngỡ ngàng, bầu trời, mặt nước cùng một sắc xanh, phong cảnh xung quanh là sắc trời thu đẹp tuyệt.
Tác giả đã dựng lên một bức tranh thủy mặc đặc sắc đến từng đường nét, đẹp đến từng góc cạnh. Dòng Bạch Đằng cuồn cuộn chảy, với những con sóng nhấp nhô “sóng kình”, tỏa đi khắp chốn như đuôi một chú chim trĩ đang xòe rộng. Cảnh sắc nơi con sông huyền thoại vẫn hùng vĩ như ngày nào, trong lòng khách chợt dâng lên niềm cảm khái sâu sắc. Sắc trời sắc nước hòa làm một, hòa với tình cảm dạt dào của người thi sĩ.
Bức tranh mùa thu được dựng lên giữa dòng sông mênh mông không khỏi khiến người ta liên tưởng tới phong vị mùa thu trong thơ Nguyễn Khuyến:
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc cần câu bé tẻo teo”
Hay là trong thơ của cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm:
“Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”
Đọc đến đây, hẳn chúng ta phải nhận ra rằng, vị khách kia phải yêu thiên nhiên tha thiết mới có được cái nhìn thi họa đến vậy!Ngay từ những dòng thơ đầu, người ta nhận ra cái tráng chí của vị khách thì ở đây, người ta lại nhận thấy thêm rằng, khách còn là người có tâm hồn lãng mạn, thi nhân đến chừng nào!
Trương Hán Siêu đến với thiên nhiên cho thỏa cái chí lãng du khắp chốn, cho thỏa nỗi lòng mong mỏi hiểu biết sâu xa hơn về đất nước mình và cũng để giãi bày một tấm lòng yêu nước sâu nặng. Niềm cảm xúc trong thi nhân là nỗi niềm của một người trí thức đang có nỗi trăn trở với đời.
Thế nhưng, những dòng tiếp theo miêu tả về Bạch Đằng giang, khách lại làm hiện lên một Bạch Đằng khác hẳn, một Bạch Đằng lặng lẽ, đìu hiu:
“Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu
…
Tiếc thay dấu vết còn lưu”
Ở đây, Trương Hán Siêu đã sử dụng bút pháp tả thực, tả lại khung cảnh của dòng Bạch Đằng hiện tại. Nếu ngày xưa, Bạch Đằng nổi tiếng với những khung cảnh hào hùng, oanh liệt thì giờ đây, nó lại lặng lẽ đến đìu hiu, dòng sông sóng cuộn năm nào, giờ chỉ là “sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô”. Dâng tràn trong lòng khách là một cảm xúc thê lương khó tả, tâm trạng chợt trùng xuống, bùi ngùi đầy thương tiếc. Thời gian đã xóa nhòa đi tất cả, những chiến tích năm xưa giờ chỉ còn lại “cảnh thảm”. Khách thốt lên lời đau xót, luyến tiếc, hoài niệm:
“Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá
Tiếc thay dấu vết còn lưu!”
Bao cảm xúc dâng tràn trong lòng khách, vừa là niềm tự hào khi thấy dòng Bạch Đằng thơ mộng, hào hùng khi xưa, vừa là niềm hoài niệm, tiếc thương khi nay đã chẳng còn được như trước, mà hiu quạnh vô cùng. Có thể nói, khách là người vừa có tình yêu thiên nhiên mãnh liệt vừa là người có tấm lòng tự hào tự tôn dân tộc mạnh mẽ.
Hình tượng nhân vật khác trong đoạn đầu Phú sông Bạch Đằng là niềm cảm hứng của tác giả, vừa thể hiện cái tráng chí sâu trong lòng ông, vừa thể hiện một niềm yêu thiên nhiên tha thiết. Lối kể của ông vừa đậm chất ước lệ, cường điệu lại vừa pha lẫn những xúc cảm, những yêu ghét, những nỗi tự hào dân tộc, và cái tráng chí của một người anh hùng, người thi sĩ. Đứng trước dòng Bạch Đằng, khách chẳng khỏi bồi hồi suy tưởng những trăn trở, nỗi niềm với đất nước, cái chí khí của bản thân.
Bằng bút pháp đặc trưng của thể phú, Trương Hán Siêu đã khắc họa thành công hình tượng nhân vật khách trong đoạn đầu của tác phẩm Phú sông Bạch Đằng. Khách có thể nói, chính là cái tôi của tác giả đã dùng để chuyển tải những giá trị, những tư tưởng lớn lao của mình, đồng thời khẳng định niềm yêu thiên nhiên, niềm tự hào dân tộc mãnh liệt.
Mời bạn tham khảo 🌠 Thuyết Minh Về Một Danh Lam Thắng Cảnh Ở Địa Phương Em 🌠 22 Bài Mẫu Hay
Văn Mẫu Thuyết Minh Đoạn 1 Bài Phú Sông Bạch Đằng Đặc Sắc – Mẫu 7
Làm sau để thuyết minh một tác phẩm văn học hay và đủ ý? Sau đây là bài văn mẫu thuyết minh đoạn 1 bài Phú Sông Bạch Đằng đặc sắc cho bạn đọc thêm.
Lịch sử văn học nghệ thuật Việt Nam có vô số đề tài hấp dẫn lấy cảm hứng từ những địa danh của đất nước. Mỗi địa danh lại gắn liền với chiến công vĩ đại như: Chi Lăng, Hàm Tử, Đống Đa,… Nhưng địa danh gợi nhiều cảm hứng nhất cho các tác giả chính là Bạch Đằng lịch sử – nơi đây được biết đến qua những trận đánh gay cấn, quyết liệt chống quân xâm lược từ phương Bắc.
Trong lịch sử văn học thời trung đại, đã có rất nhiều tác giả chắp bút nên các tác phẩm viết về Bạch Đằng như Trần Minh Tông, Nguyễn Trãi, Trương Hán Siêu, Nguyễn Mộng Tuân,… Và thành công hơn tất thảy là tác phẩm “Phú sông Bạch Đằng” của Trương Hán Siêu. Tác phẩm này được đánh giá rất cao, được coi là bài phú nổi tiếng nhất ở thời Trần cũng như là bài phú xuất sắc nhất của văn học trung đại.
Tác phẩm này được gợi cảm hứng từ sông Bạch Đằng – nơi từng ghi bao chiến công lẫy lừng. Sáng tác vào khoảng năm mươi năm sau cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên khi nhà thơ dạo chơi trên sông Bạch Đằng. Thể loại của tác phẩm này là phú – phô bày, bày tỏ. Đây là một thể văn dùng để tả cảnh phong tục hay là kể sự việc nào đó thuộc loại phú cổ thể.
Ở Trương Hán Siêu, hành vi ứng xử nổi bật nhất, in đậm vào sử sách, là thái độ gần gũi thiên nhiên, cách ông nhìn ngắm thiên nhiên tạo vật. Về điều này, nếu nói Trương Hán Siêu gắn bó với cảnh trí của đất nước thì không có gì sai nhưng hình như vẫn chưa đủ. Nhà thơ nhà văn Việt Nam xưa nay rất ít người thờ ơ trước vẻ đẹp của giang sơn gấm vóc: “Nước biếc non xanh thuyền gối bãi/ Đêm thanh nguyệt bạc khách lên lầu” (Nguyễn Trãi).
Trương Hán Siêu cũng thế thôi. Nhưng với ông, trong tình yêu thiên nhiên hình như còn có một điều gì khác hơn, một khao khát thường trực muốn chiếm lĩnh thế giới tự nhiên, nhận biết cho hết mọi tri thức lịch sử – xã hội ẩn ngầm trong ngoại giới. Như chính ông phô bày trong vai một “người khách” ở bài Bạch Đằng giang phú, hầu như cả một đời, ông đã coi lẽ sống của mình là ngược xuôi tìm đến mọi danh lam thắng cảnh:
“Giương buồm giong gió chơi vơi
Lướt bể chơi tràng mải miết
Sớm gõ thuyết chừ Nguyên Tương”
Còn là một người ham hiểu biết, có tráng chí bốn phương, đi nhiều, biết rộng:
“Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều
Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết”
“Tráng chí bốn phương” của “khách” được thể hiện qua việc liệt kê một loạt các địa danh: Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt mở ra một không gian rộng lớn với những tên sông, tên đất nước Trung Hoa cho thấy tác giả là một người có tâm hồn rộng mở, khoan dung, khoáng đạt.
Những địa danh mang tính ước lệ lấy từ điển cố Trung Quốc là nơi tác giả đi qua bằng trí tưởng tượng. Mục đích du ngoạn của tác giả là dạo chơi ngắm cảnh và nghiên cứu về lịch sử dân tộc được thể hiện qua cụm “giương buồm giong gió” và “lướt bể chơi trăng” và câu thơ “Học Tử Trường chừ thú tiêu dao”.
Có thể thấy qua các câu thơ trên thì tác giả là một tao nhân mặc khách, thích làm bạn với gió trăng, ngao du qua miền sông bể. Ông mang khát vọng đi khắp đó đây, tự do vui thú hòa mình với thiên nhiên. Đó quả thực là một bậc chí giai đi rộng biết nhiều theo đúng quan niệm người xưa “Trí giả nhao thủy”.
Tiếp đến là tác giả tả cảnh sông nước Bạch Đằng. Con thuyền đưa khách đến sông Bạch Đằng. Con mắt của tác giả đã thu vào một bức tranh sông nước mang một vẻ đẹp sông nước vừa hùng vĩ dữ dội, cũng vừa rất đỗi nên thơ:
“Bát ngát sóng kình muôn dặm
Thướt tha đuôi trĩ một màu”
Biện pháp nghệ thuật ẩn dụ ở hình ảnh “sóng kình” đã gợi ra những lớp sóng lớn như là những đàn cá voi. Hình ảnh “đuôi trĩ” thì gợi ra cho ta thấy những cánh buồm xuôi ngược, nối nhau ở trên sông. Sắc nước màu trời như hòa vào làm một. Vẻ hùng vĩ, thơ mộng của con sông khiến tác giả vui và tự hào trước cảnh thắng. Xong, “Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu” dâng lên nỗi buồn hoài niệm.
“Buồn vì cảnh thẳm đứng làng giờ lâu” – đó là oanh liệt gắn với con sông nhưng chiến trường xưa nay trơ trọi hoang vu “Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô”.
Dòng thời gian đang làm mờ bao dấu vết, hơn một trăm năm sau Nguyễn Trãi khi qua đây cũng đã tưởng tượng ra cảnh:
“Ngạc chặt, kình băm non lởm chởm
Giương chìm giáo gãy biết bao tầng”
Đó còn là nỗi nhớ về người anh hùng đã hi sinh:
“Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu”
Đặt vào hoàn cảnh của tác giả khi sáng tác bài Phú, khi nhà Trần bắt đầu có dấu hiệu suy thoái, niềm hoài cổ ấy là nỗi buồn thương tiếc về một thời hào hùng oanh liệt của đất nước.
Có thể thấy qua phần đầu tiên của bài “Phú sông Bạch Đằng”, ta đã thấy được công lao to lớn của các vị anh hùng thời Trần đồng thời cũng cảm nhận được niềm vui, sự hân hoan, niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống, tương lai tươi mới của đất nước. Đây là một bài Phú có bố cục chặt chẽ, nhịp điệu linh hoạt, phóng khoáng, lời văn cô đọng, dồi dào cảm xúc.
Qua đây, ta thấy được những chiến công lẫy lừng, đường lối giữ nước tài tình của dân tộc ta cũng như quân dân nhà Trần lúc bấy giờ. Vậy nên chúng ta cần phải biết giữ gìn, phát huy để giúp đất nước phát triển cũng đồng thời phải biết trân trọng cuộc sống mình đang có bởi đã có rất nhiều người anh hùng hi sinh để đem lại hòa bình như bây giờ.
Có thể bạn sẽ thích 🌼 Thuyết Minh Về Thành Cổ Loa 🌼 15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Bài Văn Thuyết Minh Đoạn 1 Bài Phú Sông Bạch Đằng Chọn Lọc – Mẫu 8
Bài văn thuyết minh đoạn 1 bài Phú Sông Bạch Đằng chọn lọc sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho các em học sinh trong quá trình làm bài.
Giáo sư Nguyễn Đình Chú có viết “Giá trị của phú là ở chỗ không chỉ làm sống dậy hào khí chiến đấu của trận Bạch Đằng mà còn làm sáng chân lý muôn đời của dân tộc”. Qủa đúng, đằng sau không khí chiến thắng hùng tráng của trận thủy chiến trên sông Đằng bài phú đã nêu cao niềm tự hào dân tộc, tư tưởng nhân văn cao đẹp. Đoạn thơ đầu tiên không chỉ làm sống dậy hào khí chiến thắng đầy anh hùng mà còn là khúc tráng ca sáng ngời chân lý dân tộc.
Xét về kết cấu bài phú cổ thể mang tính hô ứng, là kết cấu đối đáp giữa hai hình tượng nhân vật chủ và khách. Khách ham đi, am hiểu nhiều và đặc biệt tâm huyết với lịch sử dân tộc. Khách tìm đến sông Bạch Đằng không chỉ vì yêu thiên nhiên mà còn vì lòng ngưỡng mộ nơi có chiến công oanh liệt và khát vọng tìm về một thời anh hùng để đào sâu vào chiều dài của lịch sử dân tộc, theo bước chân anh hùng Tử Trường xưa (sử gia nổi tiếng Trung Quốc đời Hán).
Chủ là những bô lão ở ven sông Bạch Đằng mà khách gặp đã gánh vác trọng trách to lớn được cả dân tộc giao phó.. Cũng có thể nhân vật bô lão là nhân vật có tính chất hư cấu, được xây dựng nhằm thỏa mãn nhu cầu cảm xúc để đẩy tình cảm đi đến tận cùng và trọn vẹn nhất. Bài phú bắt đầu trong dáng vẻ của người lữ khách – “giong buồm gió lênh đênh, nhặt trăng bể mê mải”, lãng mạn và đầy chất thơ. Chính nhân vật này đã ngược dòng thời gian trôi về quá khứ đi tìm những kí ức hôm nào với hàng loạt những danh thắng “đệ nhất thiên hạ”. Đó là không gian đơn sơ của buổi sơ khai còn là thiên nhiên chẳng tiếc lời ca ngợi.
Triệu dát huyền hề Nguyên Tương,
Mộ u thám hề Vũ Huyệt.
Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt.
Nhân tích sở chí, mị bất kinh duyệt
Cái tài của người cầm bút thực sự được bộc lộ khi đã dùng từ, đặt câu. Chỉ là danh xưng của các miền đất mà đọc lên nghe du dương bởi chúng được chọn lọc, sắp xếp thành nhạc điệu:
Tam – Ngô – Bách – Việt
Cửu – Giang – Ngũ – Hồ
Nào là sông Nguyên, sông Tương ở Hồ Nam, Vũ Huyệt ở Cối Kê… nào là Tam Ngô, Bách Việt… mà ai ai cũng đợi chờ, ngóng trông, cũng mang một ước mơ, một hy vọng được in dấu chân mình trên miền đất ấy. Cho dù xa xôi, dù cách trở trăm bề, dù quen dù lạ thì chắc hẳn dấu chân người đến không ai khác là lữ khách từng du ngoạn. Tưởng vậy là đã thoả “tráng chí” tung hoành bốn phương, nào ngờ: “Hung thốn Vân Mộng giả sổ đắc, nhị tứ phương chi tráng chí do khuyết như dã” (Ngực nuốt vài trăm đầm Vân Mộng mà chí lớn tung hoành bốn phương vẫn còn chưa thỏa).
Chưa thoả! Vì ngay trên chính mảnh đất quê hương, ngay trên mảnh đất anh hùng, ngay miền đất mẹ của Tổ quốc thân yêu mà chân ta còn chưa đặt tới, chiến tích sông Bạch Đằng! Đến với sông Bạch Đằng không đơn thuần là một cuộc du hí mà đến để hiểu, để nhớ và để biết ơn máu xương của thế hệ cha anh đã đổ xuống đổi lại cho yên bình hôm nay. Chiến thắng vẻ vang ấy, lý tưởng hào hùng ấy sẽ sống mãi và ghi dấu chiến công oanh liệt cho muôn đời hậu thế!
Ấn tượng đầu tiên mà Trương Hán Siêu đưa đến cho người đọc là chiều rộng và chiều sâu của dòng sông lịch sử, chiều rộng trong khoảng độ địa lí, chiều sâu trong bề dày lịch sử của Bạch Đằng giang. Điều đó đủ để thấy dòng sông địa lý vừa là đại giang vừa là trường giang (Bát ngát sóng kình muôn dặm), với bao lớp sóng lớn trùng điệp. Điều đáng lưu ý là ngoài vẻ thiêng liêng hùng vĩ, sông Bạch Đằng còn nên thơ và trữ tình, nó dịu dàng e ấp như những nàng thơ, nó thơ mộng nên duyên với sóng nối sóng, với thuyền bè nối đuôi nhau trôi dập dềnh trên sông.
Người xưa thường nói tức cảnh sinh tình, có lẽ bởi thế mà đứng trước thiên nhiên vừa nên thơ vừa trữ tình ấy khiến lòng người rạo rực, khiến nỗi buồn niềm vui như lẫn lộn. Nơi chiến trường ta từng chiến đấu và chiến thắng, nơi trận thủy chiến lừng lẫy trong lịch sử nhưng kể sao cho hết những hi sinh mất mát với bao giáo gãy, bao máu và mồ hôi đã đổ xuống xương khô. Đất trời cũng như hiểu lòng người, lau lách như thể trở về quá khứ, gợi lại những ngày chiến đấu căng thẳng để thế hệ hôm nay không tránh khỏi động lòng tiếc nuối, xót thương cho bao anh hùng đã khuất:
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu
Trước phong cảnh tàn thu, trời nước biếc màu (thủy thiên nhất sắc, phong cảnh tam thu) tác giả không khỏi động lòng mà lung lay ngòi bút. Tác giả đã khéo vận dụng ý thơ cổ để câu từ trau chuốt mà thổi vào đó hồn thiêng Bạch Đằng. Nơi thiên nhiên kì vĩ của Bạch Đằng đã khơi nguồn cảm hứng để cảm xúc được dâng trào, để hồn người thêm lãng mạn phiêu du. Cảm hứng ấy dâng cao trong niềm tự hào vô bờ bến khi hồi tưởng về quá vãng anh hùng với lí tưởng kiên gan quyết chiến quyết thắng, “hào khí Đông A” là đây!
Như vậy khổ thơ thứ nhất đã làm sống dậy hình ảnh sông Bạch Đằng từ lâu đã soi bóng lịch sử dân tộc như một huyền thoại, như một dấu son trong lịch sử 4000 năm chiến đấu giành, dựng nước và giữ nước của dân tộc anh hùng. Quả đúng, Phú sông Bạch Đằng là đỉnh cao nghệ thuật của thể phú trong nền văn học Việt Nam thời trung đại.
Tìm hiểu hướng dẫn 🔥 Kiếm Thẻ Cào Miễn Phí 🔥 Kiếm Tiền Online Kiếm Thẻ Cào
Thuyết Minh Đoạn 1 Bài Phú Sông Bạch Đằng Học Sinh Giỏi – Mẫu 9
Văn mẫu thuyết minh đoạn 1 bài Phú Sông Bạch Đằng học sinh giỏi sẽ là những gợi ý hay giúp các em học sinh hoàn thành tốt bài viết của mình.
Hầu như mỗi nhà thơ, mỗi ngòi bút đều tìm về với một địa danh lịch sử của dân tộc để tìm cảm hứng cho mình, Bạch Đằng có thể nói là địa điểm lịch sử hào hùng mà rất nhiều bước chân nghệ sĩ đã đến khai thác, kiếm tìm, trong đó, Trương Hán Siêu đã để lại dấu ấn của riêng mình qua bài phú Phú sông Bạch Đằng:
“Giương buồm trong gió chơi vơi,
Lướt bể chơi trăng mải miết.
Sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương,
Chiều lần thăm chừ Vũ Huyệt:
Khách cũng là một con người đi nhiều, biết rộng:
Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ củng nhiều,
Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết”
Học Tử Trường chừ thú tiêu dao”.
Thú vui của những bậc tao nhân mặc khách, ấy là bầu bạn với thiên nhiên, uống rượu thưởng trăng, ngâm thơ. Ở đây, nhân vật trữ tình cũng mang trong mình niềm yêu say thiên nhiên, khát khao được chu du sơn thủy non nước hữu tình.
Ngay từ câu thơ mở đầu, chất hào hoa, lãng mạn, tâm hồn thi sĩ đã được bộc lộ qua cách diễn đạt rất đỗi tài tình của nhà thơ. Chơi vơi, lướt bể, mải miết, những từ ngữ đó góp phần tạo nên cảm nhận cho người đọc về phong thái, tư thế, tâm thế của nhân vật trữ tình, hẳn là một vị lữ khách có chí hải hồ, thích ngao du sơn thủy, mà bầu bạn, bầu thơ túi rượu thân tình cùng gió trăng thiên nhiên. Các từ chỉ thời gian xuất hiện tần xuất kế tiếp đối nhau “sớm, tối”, tạo nên sự xuyên suốt, gắn kết cho hai câu thơ.
Tiếp đó, bằng cách liệt kê các địa danh nổi tiếng, nhân vật trữ tình phần nào gián tiếp cho thấy trải nghiệm sâu rộng, phong phú của bản thân mình. Đó, phần nào cũng là ý thức thị tài của kẻ sĩ thời xưa, họ luôn ý thức về địa vị, học thức và vốn sống, vốn trải nghiệm, du lãm sâu rộng của mình, từ đó làm nên nét riêng của người trí thức lúc bấy giờ.
Nhưng để ý thấy một điểm đặc biệt, đó là dù đi nhiều, biết nhiều, nhưng trong thú tiêu hao, khách chỉ học có Tử Trường, tức là Tư Mã Thiên, một nhà sử học danh tiếng lẫy lừng, người đã từng bôn ba hơn 20 năm chu du thiên hạ để viết nên cuốn sử ký toàn thư lưu danh ngàn thế hệ. Không chỉ thế, cái sâu xa của nhân vật trữ tình khi nhắc tới Tử Trường là ở chỗ, phải chăng khách nói đến Tử Trường để bày tỏ tâm hồn đồng điệu của mình với người xưa. Đi xa không phải chỉ để thỏa thú tiêu dao, xê dịch, mà còn là một dịp lắng mình vào những nét đẹp của các địa danh lịch sử dân tộc, để chiêm ngưỡng, và hồi tưởng về quá khứ hào hùng của cha ông.
Mở đầu bài phú, nhân vật khách mở ra một cảnh tượng rộng lớn, hùng vĩ về những địa điểm mình đã đặt chân, nhưng hầu hết chúng đều khó có thể hiện hưu, hiện thực hóa trong tâm hồn người đọc, bởi lối viết phóng khoáng thiên về gợi, về liệt kê để gia tăng sự hào phóng hơn là đi vào điểm nhấn chi tiết. Do đó, ta có thể hiểu thêm về dụng ý của nhà thơ ở đây, đó là mở đầu bài phú là cảm hứng tạo nên thực ra chỉ là sự chuẩn bị một không khí thích hợp trước khi đi vào thế giới hùng vĩ của sông Bạch Đằng lịch sử.
Nét vẽ đầu tiên là vẻ đẹp hùng vĩ, bát ngát vô tận của con sông lịch sử, hào hùng:
“Bát ngát sóng kình muôn dặm
Thướt tha đuôi trĩ một màu
Nước trời một sắc
Phong cảnh ba thu”
Nhưng ngay khi vừa khiến người đọc choáng ngợp bởi không gian rộng lớn, bởi vẻ đẹp hùng vĩ nơi đây, nhân vật khách lại đồng thời làm dấy lên trong lòng người đọc những cảm xúc ngậm ngùi, lắng đọng về thế hệ đã ngã xuống tại nơi đây:
“Sông chìm giáo gãy
Gò đầy xương khô
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu.”
Để từ đó, ta thấy việc chu du núi non không phải để thỏa thú xê dịch, để làm bạn với bầu thơ túi rượu, với thiên nhiên rộng lớn kì vĩ, mà nó còn là cách để ta tìm về với những di tích lịch sử, để đồng điệu, đồng cảm, trân trọng những người đã ngã xuống vì giang sơn nghìn thu còn mãi. Cảm xúc hai câu thơ cuối ở trên như một nốt trầm, nốt lặng làm trầm xuống nhịp điệu của cả mạch thơ, đó cũng đồng thời là sự hoài tưởng, nuối tiếc, xót xa cho những hi sinh không gì tả xiết của bao thế hệ đã qua.
Khổ thơ đầu bài Phú sông Bạch Đằng đã gợi lên trong người đọc những mạch cảm xúc đan quyện vào nhau, vừa như được mở rộng tầm mắt bởi non kỳ thủy tú của giang sơn, vừa tha thiết lắng sâu với sự hy sinh của người chiến sĩ hào hùng đã ngã xuống vì dân tộc.
Mời bạn xem nhiều hơn 🌹 Thuyết Minh Về Đền Cửa Ông 🌹 15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Thuyết Minh Đoạn 1 Bài Phú Sông Bạch Đằng Ngắn Hay – Mẫu 10
Bài văn thuyết minh đoạn 1 bài Phú Sông Bạch Đằng ngắn hay sẽ giúp các em học sinh nhanh chóng ôn tập và chuẩn bị tốt cho bài kiểm tra trên lớp.
Sông Bạch Đằng là một trong những địa danh lịch sử với những chiến công lẫy lừng của cha ông ta. Đây cũng là con sông được nhắc đến trong thơ ca với niềm tự hào dân tộc sâu sắc. Trong số đó, bài “Phú sông Bạch Đằng” của Trương Hán Siêu là một trong những tác phẩm nổi tiếng thời nhà Trần và cũng là một trong số ít những bài phú xuất sắc nhất của văn học trung đại Việt Nam.
“Phú sông Bạch Đằng” có tên nguyên tác là “Bạch Đằng giang phú”. Tác phẩm này được viết bằng chữ Hán, sau được rất nhiều tác giả khác nhau dịch ra. Bài viết này dựa trên văn bản dịch của giáo sư Bùi Văn Nguyên.
Mở đầu bài phú là là một khung cảnh hùng vĩ, bao la với những Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt và một tâm hồn phóng khoáng, tự do của lữ khách:
Giương buồm giong gió chơi vơi,
Lướt bể chơi trăng mải miết
Nhân vật “khách” ở đây không ai khác mà chính là Trương Hán Siêu. Với một tâm hồn phóng khoáng, nhà thơ hiện lên là một tao nhân mặc khách với bầu rượu túi thơ ngao du đây đó. Vậy mà chí tang bồng vẫn chưa thỏa thích:
Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều,
Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết
Thế nhưng, mặc khách đi nhiều, biết nhiều không chỉ đơn giản là để ngắm cảnh tiêu giao mà quan trọng hơn là đi để hiểu thêm về đời, về mình. Khi đến sông Bạch Đằng, mặc khách chính là tìm về nơi cha ông ta đã lập chiến công to lớn để chiêm ngưỡng, ngợi ca và suy ngẫm.
Sông Bạch Đằng trong bài phú trước hết là một con sông với cảnh quan hùng vĩ: Bát ngát sóng kình muôn dặm. Vì rộng “bát ngát” và dài “muôn dặm” cho nên sông Bạch Đằng không chỉ là đại giang mà còn là trường giang với bao lớp sóng cuồn cuộn triều dâng. Thế nhưng, ngoài vẻ đẹp hùng vĩ, sông Bạch Đằng còn hiện lên với vẻ đẹp duyên dáng, thơ mộng: mùa thu nước xanh trong, thuyền trôi dập dềnh trên sông tạo nên một khung cảnh rất đỗi nên thơ.
Cảnh đẹp và thơ mộng nhưng lữ khách ở đây lại cảm thấy buồn vui lẫn lộn. Đây là nơi diễn ra bao trận đánh, chứng kiến ta thắng lợi vẻ vang nhưng cũng là nơi nhìn thấu những hy sinh, mất mát. Nhưng “giáo gãy”, “xương khô”, “trời nước”, “lau lách đìu hiu” như gợi lên nỗi đau buồn, xót thương. Chính vì thế mà người hôm nay không khỏi tiếc thương cho những anh hùng đã khuất:
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu
Có thể nói rằng, “Phú sông Bạch Đằng” là một bài ca yêu nước, tràn đầy tinh thần tự hào dân tộc. Với bố cục chặt chẽ, nhịp điệu thay đổi linh hoạt phóng khoáng, lời văn cô đọng mà dạt dào cảm xúc, bài phú đã khiến người đọc thêm phần tự hào về non sông hùng vĩ và biết ơn sâu sắc thế hệ cha ông đã gìn giữ cho đất nước thanh bình hôm nay. Đó cũng chính là giá trị cao cả nhất, giúp tác phẩm trở thành một trong những bài phú xuất sắc nhất của nền văn học trung đại Việt Nam.
Gửi đến bạn 🍃 Thuyết Minh Về Đền Nghè 🍃 15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Thuyết Minh Đoạn 1 Bài Phú Sông Bạch Đằng Luyện Viết – Mẫu 11
Tham khảo bài văn thuyết minh đoạn 1 bài Phú Sông Bạch Đằng luyện viết sẽ mang đến cho các em học sinh những góc nhìn mới lạ và độc đáo khi làm bài.
Thiên nhiên là những cảnh đẹp nên thơ hùng vĩ vì thế mà nó đã trở thành một đề tài nổi bật trong văn thơ. Đã có rất nhiều nhà thơ thành công ở đề tài này, mỗi nhà thơ lại cho ta thấy một vẻ đẹp riêng của thiên nhiên nơi mình đang sống. Để góp mình vào đề tài này Trương Hán Siêu đã thể hiện tình yêu thiên nhiên quê hương đất nước tiêu biểu là bài thơ Bạch Đằng giang phú. Bài thơ này viết về con sông lịch sử của dân tộc đó là sông Bạch Đằng.
Khi đất nước đã giành được độc lập thì vua quan thời Trần chỉ biết ăn chơi hưởng lạc mà không quan tâm đến dân. Trương Hán Siêu thấy vậy thì nhức nhối trong lòng ông bắt đầu đi ngao du. Đi đến con sông Bạch Đằng tự dưng ông nhớ về quân ta hai lần đại thắng quân Nguyên Mông. Ôi thật vẻ vang và oanh liệt và nó đã là minh chứng cho con sông lịch sử của nước ta từ đó ông có cảm hứng và viết nên bài thơ ở nơi đây:
“Khách có kẻ:
Giương buồm giăng gió chơi vơi
Lướt bể chơi trăng mải miết
Sớm gõ thuyền chừ Nguyên, Tương,
Chiều lần thăm chừ Vũ Huyệt”
Trong khi chiến đấu con sông Bạch Đằng trở thành người anh hùng, trở thành con sông lịch sử chứng kiến bao trận đánh oanh liệt với bao kẻ thù của dân tộc. Khi hòa bình được lập lại thì con sông trở lại vẻ đẹp bình dị và đầy thơ mộng. Trong khung cảnh ấy tác giả đã nhớ đến những con người từng ngao du sơn thủy hưởng ngoại những người có cuộc sống tự do tự tại:
“Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt
Nơi có người đi đâu chẳng biết
Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều
Mà tráng chí bốn phương còn tha thiết”
Tác giả còn nêu lên những con người mang trí hướng thích phiêu lưu hưởng ngoại với những địa danh cụ thể. Dù là ở những địa danh quen thuộc và gần gũi nhưng khung cảnh ấy vẫn làm cho người đến du ngoại tìm được những điều mới lạ. Ý tác giả muốn ca ngợi những con người có chí hướng tự do như vậy.
Đồng thời qua đây tác giả cũng nói nên tình yêu của mình đối với thiên nhiên quê hương đất nước:
“Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều,
Đến sông Bạch Đằng, thuyền bơi một chiều
Bát ngát sóng kình muôn dặm
Thướt tha đuôi trĩ một màu
Nước trời một sắc, phong cảnh ba thu”
Đầu tiên tác giả nêu lên quá trình bản thân đi đến với con sông Bạch Đằng: “Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều”. Khi đã đến được với Bạch Đằng thì “thuyền bơi một chiều” thể hiện sự êm ả của dòng sông, không giữ dội mà chảy nhẹ nhàng rất bình thản, chầm chậm như đang muốn giữ chân thuyền ở lại. Ở phía xa xa khi tác giả nhìn thấy những con sóng kình nối đuôi nhau, trong tác giả thì con sông này rất độc đáo và khác lạ: “Thướt tha đuôi trĩ một màu”. Cảnh sắc thật đẹp và thơ mộng khiến nhà thơ đắm chìm mãi không thôi.
“Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu
Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô
Buồn vì cảnh thảm, đứng lặng giờ lâu
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu”
Bạch Đằng bây giờ bình yên và lặng lẽ có chút hoang vắng bởi xung quanh ven bờ lau đã mọc rất nhiều. Từ đó làm cho tác giả man mác buồn và nhớ đến những trận đánh oanh liệt chống giặc của dân tộc. Con sông như phải hứng chịu bao nỗi đau “Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô”. Một con sông chứa đầy đau thương mất mát khiến tác giả buồn và thấy xót xa khi nghĩ lại những cảnh tượng này. “Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá” tác giả thương và nhớ đến những vị anh hùng đã từng chiến đấu ở nơi này. Nhưng thời gian thì cứ lặng lẽ trôi như thể vô tình khiến con sông lịch sử dần phai nhạt đi.
Phần mở đầu Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu là một đoạn thơ hay nói về cảnh đẹp quê hương đất nước đồng thời tác giả đã tái hiện lại trận đánh lịch sử của dân tộc trên con sông huyền thoại này. Tác giả muốn gửi gắm và ca ngợi tinh thần yêu nước và tình đoàn kết chiến đấu của nhân dân ta bởi truyền tốt tốt đẹp này mãi ăn sâu vào tâm hồn con người Việt Nam.
SCR.VN tặng bạn 💧 Nhận Thẻ Cào 50k Miễn Phí 💧 Kiếm Thẻ Cào Free
Thuyết Minh Đoạn Mở Đầu Bài Phú Sông Bạch Đằng – Mẫu 12
Để thuyết minh đoạn mở đầu bài Phú Sông Bạch Đằng, các em học sinh có thể tham khảo bài văn mẫu dưới đây:
Đất nước Việt Nam với hơn 4000 năm văn hiến, với truyền thống yêu nước và giữ nước vẻ vang cùng với đó là những địa danh đã ghi dấu các chiến tích lẫy lừng của quân dân nước Nam đánh đuổi giặc ngoại xâm như: sông Lô, Hàm Tử, Chi Lăng… Một trong số đó phải kể đến là Bạch Đằng giang – con sông của lịch sử đã chứng kiến Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán, nhà Trần tiêu diệt sạch bóng quân Mông – Nguyên. Như một chứng nhân lịch sử oai hùng sông Bạch Đằng đã trở thành nguồn cảm hứng cho các tác phẩm thi ca, sử sách của văn học dân tộc. Nổi bật trong đó không thể không nhắc đến bài “Bạch Đằng giang phú” của Trương Hán Siêu.
Theo sử sách ghi lại bài phú này có lẽ được Trương Hán Siêu sáng tác vào đời Trần Hiến Tông, Trần Dụ Tông, khi nhà Trần đã bắt đầu có dấu hiệu suy thoái. Đây không chỉ là một tác phẩm nổi tiếng thời Trần mà còn là một trong những bài phú viết bằng chữ Hán hay bậc nhất nước ta thời trung đại. Bài phú được viết theo lối cổ phú (phú cổ thể), sử dụng lối “chủ – khách đối đáp”, tuy có vần nhưng câu văn tương đối tự do, không bị gò bó vào niêm luật. Tác phẩm vừa chứa chan lòng tự hào dân tộc, vừa đọng lại một nỗi đau hoài cổ và có tư tưởng triết lý sâu sắc.
Bài phú này có thể chia ra làm ba phần. Phần một là giới thiệu về nhân vật “khách” và niềm vui thích được du ngoạn nhất là du ngoạn trên sông Bạch Đằng. Mở đầu bài phú ta cảm nhận được tâm trạng và cảm xúc của “khách” trước cảnh sắc sông Bạch Đằng:
“Giương buồm giong gió chơi vơi
Lướt bể chơi trăng mải miết.
Sớm gõ thuyền chừ Nguyên, Tương,
Chiều lần thăm chừ Vũ Huyệt.
Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt,
Nơi có người đi, đâu mà chẳng biết
Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều
Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết”.
Hai câu đầu là những hình ảnh thiên nhiên gợi không gian rộng lớn, thời gian liên hoàn, ngữ điệu trang trọng với cách ngắt nhịp “chừ” chậm rãi chứng tỏ khách là con người phóng khoáng, thích ngao du sơn thủy. Đặc biệt là sự liệt kê các địa danh: Vũ Huyệt, Cửu Giang,… đây đều là những danh lam thắng cảnh những di tích lịch sử quen thuộc. Từ cách nói có phần ước lệ quen thuộc của văn học trung đại, người đọc nhận ra một đặc điểm khác của nhân vật “khách” đó là tâm hồn nghệ sĩ tự do, ưa phóng khoáng, một bậc tri thức ham du ngoạn, trước là để du chiêm ngưỡng sau là để nâng cao tầm hiểu biết, tầm văn hóa.
Dẫu đi nhiều, hiểu nhiều là thế mà khát vọng bốn phương vẫn còn tha thiết, khách muốn học theo Tử Trường nghĩa là muốn mang theo tráng chí với khát vọng hoài bão lớn lao, học theo bậc sử gia nổi tiếng nghiên cứu về lịch sử, văn hóa dân tộc. Nếu như ở đoạn trên cách viết của tác giả thiên về khái quát, ước lệ thì đến đoạn tiếp theo ông đưa người đọc đến với cảnh thực, địa danh có thực cũng là điều hút hồn khách khi đến với sông nước Bạch Đằng:
“Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều
Đến sông Bạch Đằng, thuyền bơi một chiều.”
Dòng sông hiện lên với nhiều dáng vẻ, vừa hùng dũng vừa thướt tha, lại vừa có vẻ ảm đạm, hoang vắng “Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu”. Đứng trước cảnh sông nước hùng vĩ nhiều dáng vẻ, khách mang trong mình một tâm trạng với nhiều sắc thái vui, buồn, tự hào và nhớ tiếc:
“Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu”
Âm hưởng của những câu văn đến đây không còn là phơi phới hào khí, tràn đầy tráng chí nữa mà trầm lại, lắng xuống đầy bâng khuâng. Có lẽ trước sông Bạch Đằng một tâm hồn phóng khoáng như khách cũng bồi hồi về quá khứ oanh liệt của cha ông. Qua hình tượng nhân vật “khách” được tác giả thổi hồn trở thành chân dung vô cùng sinh động, ta có thể thấy được cái “tôi” của tác giả – một hồn thơ phóng khoáng, trác biệt, một kẻ sĩ nặng lòng ưu hoài về lịch sử dân tộc.
Hình ảnh người khách cuối phần một như sự gợi ý, cách đặt vấn đề để dẫn đến sự xuất hiện của các bô lão ở phần hai. Các bô lão là chủ, là nhân dân địa phương đại diện cho thế hệ đi trước hiện thân của quá khứ. Với lòng nhiệt tình, hăm hở các bô lão đã kể cho “khách” nghe câu chuyện về những chiến công đã diễn ra trên dòng sông lịch sử với các sự kiện liệt kê, các hình ảnh đối nhau người kể đã làm hiện lên không khí chiến trận và thế giằng co quyết liệt. Việc lựa chọn những hình ảnh, điển tích làm nổi bật sự thất bại của quân thù và cái vẻ vang trong chiến thắng của quân ta như “Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói”, “quét sạch Nam bang bốn cõi”.
Có thể nhận ra ở đây niềm tự hào sảng khoái của các bô lão, cái điềm tĩnh qua sự chiêm nghiệm của khách. Với nghệ thuật tương phản, các bô lão đã lấy cái vận động, trôi chảy của dòng nước con người, dòng đời đối với nỗi nhục của quân thù, bởi nỗi nhục quân thù nghìn năm không sửa cũng có nghĩa là những chiến thắng của quân ta vĩnh viễn lên ngôi. Sau lời kể, các bô lão có lời bình luận giống như sự tổng kết về nguyên nhân làm nên chiến thắng ấy là có thiên thời, địa lợi nhưng vẫn đề cao yếu tố con người. Đó là một quan điểm tiến bộ, nhân bản. Đến đây lời ca của các bô lão gặp gỡ với khách ban đầu. Đó là nỗi buồn thương vừa nhớ tiếc.
Vượt lên nỗi buồn, nỗi đau các bô lão vẫn bừng sáng niềm tin, niềm tự hào vào chân lý vĩnh hằng, hồn nhiên, vĩnh viễn như chính cái dằng dặc, bao la của Bạch Đằng giang cuộn sóng hồng đổ về biển Đông tự bao đời. Trong lời ca của khách ở phần ba bên cạnh việc ca ngợi công đức vua Trần, những câu cuối còn đề cao và khẳng định tài đức con người, xem đó là nhân tố quyết định trong công cuộc đánh giặc ngoại xâm.
Qua hoài niệm và suy ngẫm của các nhân vật “chủ – khách” bài phú đã làm sống dậy hào khí Đông A oanh liệt và hào hùng thời đại nhà Trần. Trương Hán Siêu đã khéo léo xây dựng hình tượng con sông Bạch Đằng kì vĩ tráng lệ trong không gian quá khứ và một Bạch Đằng giang lặng lẽ, hiu quạnh trầm mình sau những chiến tích ấy để ngàn đời sau thế hệ con cháu vẫn luôn tự hào, ghi nhớ về những di tích lịch sử và chiến công vĩ đại của cha ông.
Mời bạn đón đọc 🌜 Thuyết Minh Về Đền Ngọc Sơn 🌜 15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Thuyết Minh Đoạn Đầu Bài Phú Sông Bạch Đằng Văn Mẫu Hay – Mẫu 13
Thuyết minh đoạn đầu bài Phú Sông Bạch Đằng văn mẫu hay sẽ là một trong những tư liệu đặc sắc hỗ trợ các em học sinh thực hiện bài viết của mình.
Trương Hán Siêu là một người có học vấn uyên bác, từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều đình và có nhiều đóng góp lớn cho hai cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông. Trong thơ văn cổ Việt Nam có một số tác phẩm lấy đề tài sông Bạch Đằng, nhưng Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu được xếp vào hàng kiệt tác. “Phú sông Bạch Đằng” là một tác phẩm bộc lộ tình yêu quê hương, niềm tự hào dân tộc.
Bài thơ được viết theo thể thơ phú. Phú là một thể văn cổ dùng để tả cảnh vật, phong tục hoặc tính tình. Phú thường đạm chất trữ tình. Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu viết bằng chữ Hán, theo lời phú có thể, có vần và đăng đối theo cặp câu thơ tạo nên tính quy phạm rất rõ trong thể phú. Hiện nay, chưa rõ Trương Hán Siêu viết Bạch Đằng giang phú vào năm nào, nhưng qua giọng văn cảm hoài: Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá – Tiếc thay dấu vết luống còn lưu, ta có thể đoán được, bài phú này chỉ có thể ra đời sau khi Trần Quốc Tuấn đã mất tức là vào khoảng 1301 – 1354.
Nội dung bài Phú sông Bạch Đằng thể hiện lòng yêu nước và niềm tự hào dân tộc của tác giả trước những chiến thắng lẫy lừng của quân dân nhà Trần trên sông Bạch Đằng, đồng thời ca ngợi truyền thống anh hùng bất khuất của dân tộc Việt Nam. Thông qua việc đề cao vai trò và vị trí của con người trong lịch sử, đề cao đạo lí chính nghĩa, tác phẩm chứa đựng tư tưởng nhân văn sâu sắc.
Mở đầu bài phú là cảm xúc của nhân vật khách trước khung cảnh hùng vĩ của sông Bạch Đằng. Đó là cảm xúc dạt dào cảm hứng lịch sử của một con người có tâm hồn phóng khoáng, tự do. Nhân vật khách chính là tác giả đã được khách thể hoá trong vai một nghệ sĩ thích ngao du, yêu mến cảnh sắc thiên nhiên, đồng thời cũng say mê tìm hiểu lịch sử oai hùng của dân tộc.
Bằng bút pháp khoa trương, cường điệu, tác giả đã nêu bật sở thích ngao du sơn thuỷ và trình độ hiểu biết, trải nghiệm sâu rộng của nhân vật trữ tình :
Khách có kẻ :
Giương buồm giong gió chơi vơi,
Lướt bể chơi trăng mải miết.
Sớm gõ thuyền chừ Nguyên, Tương,
Chiều lần thăm chừ Vũ Huyệt.
Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt,
Nơi có người đi, đâu mà chẳng biết.
Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều,
Mà tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết.
Mở đầu bài phú là ba chữ “Khách có kẻ”, nhân vật khách xuất hiện nơi nhánh sông này, chính là Trương Hán Siêu, đây là nhân vật trữ tình. Mặc dù ông là người cương trực, học vấn uyên thâm nhưng con người ông phóng khoáng và cũng luôn hết mình vì thiên nhiên. Từ khách mang cái thú vui thưởng ngoạn, ngao du trên thuyền ngắm nhìn, thăm thú những cảnh đẹp hòa cùng đất trời. Biết bao vùng miền lữ khách đã đặt chân đến.
Sự phóng khoáng ấy còn được thể hiện rõ hơn trong câu thơ “Giương buồm giong gió chơi vơi”, khách là một tao nhân khoáng đạt chơi với cánh buồm, làm bạn với gió trăng qua mọi miền sông nước, sống hết mình với thiên nhiên. Vị khách này là người đã đi nhiều nơi, đến nhiều chỗ, nhưng những hình ảnh ở đây chỉ mang tính tượng trưng để làm nổi bật lên cá tính, làm nổi bật lên con người yêu thiên nhiên, yêu đất nước lấy việc du ngoạn làm thú vui ở đời, tự hào về thói giang hồ của mình. Đêm thì mải miết chơi với ánh trăng kia, ngày sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương; chiều thăm chừ Vũ Huyệt.
“Nơi có người ở- Đâu mà chẳng biết” chứng tỏ một điều rằng ông là người đi nhiều nơi, biết nhiều chỗ, nhưng ở đây chỉ là hình ảnh tượng trưng nói lên tâm hồn người thi sĩ, một cá tính, yêu thiên nhiên thiết tha, lấy việc đi du ngoạn bốn phương là niềm vui thú. Các địa danh: Nguyên Tuơng, Ngũ Hồ… mà tác giả nhắc tới đều mang tính chất ước lệ, tượng trưng lấy trong sử sách Trung Quốc. Tác giả đi thăm các danh lam thắng cảnh này chủ yếu bằng sách vở và trí tưởng tượng của mình. Điều đó càng khẳng định vẻ đẹp thiên nhiên có thể lọt vào mắt xanh của tác giả vốn rất khó tìm.
Thế nhưng tác giả lại đặt chân đến những địa danh quen thuộc của đất nước như : cửa Đại Than,… bến Đông Triều,…và dừng lại ở sông Bạch Đằng… Khung cảnh thiên nhiên vùng sông nước Bạch Đằng hiện lên trước mắt tác giả mỗi lúc một rõ nét :
Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều,
Đến sông Bạch Đằng, thuyền bơi một chiều.
Bát ngát sóng kình muôn dặm,
Thướt tha đuôi trĩ một màu.
Nước trời một sắc, phong cảnh ba thu.
Bạch Đằng giang, con sông oai hùng của Tổ Quốc Đại Việt. Sông rộng và dài, cuồn cuộn nhấp nhô sóng biếc. Cuối thu ( ba thu ) nước trời một màu xanh bao la “Bát ngát sóng kình muôn dặm – Thướt tha đuôi trĩ một màu- Nước trời: một sắc- Phong cảnh ba thu”. Câu văn tả thực mượn một hình ảnh của Vương Bột trong bài “ Đằng Vương các” “ Thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc” ( Sông thu cùng với trời xa một màu ).
Tả con sóng Bạch Đằng, vua Trần Minh Tông (1288-1356) viết : “Thuồng luồng nuốt thuỷ triều, cuộn làn sóng bạc… Trông thấy nước dòng sông rọi bóng mặt trời buổi chiều đỏ ối – Lầm tưởng rằng máu người chết vẫn chưa khô”( Bạch Đằng giang -Dịch nghĩa ). Con sông Bạch Đằng hiện lên với vẻ đẹp duyên dáng, thơ mộng: mùa thu nước xanh trong, thuyền trôi dập dềnh trên sông tạo nên một khung cảnh rất đỗi nên thơ.
Trở lại chiến trường xưa, nơi ghi dấu bao chiến công hiển hách vào thời điểm cuối mùa thu, tác giả thấy khung cảnh thiên nhiên tuy không có gì thay đổi nhưng đã đượm vẻ lạnh lẽo, hoang vu, vì vậy mà động lòng hoài cổ:
Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu.
Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô.
Buồn vì cảnh thảm, đứng lặng giờ lâu.
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu !
Thời gian vô tình, nghiệt ngã đã và đang làm phai mờ những dấu tích lịch sử khiến lòng người trầm lắng, suy tư. Đây là nơi diễn ra bao trận đánh, chứng kiến ta thắng lợi vẻ vang nhưng cũng là nơi nhìn thấu những hy sinh, mất mát. Những “giáo gãy”, “xương khô”, “trời nước”, “lau lách đìu hiu” như gợi lên nỗi đau buồn, xót thương. Trương Hán Siêu bày tỏ nỗi tiếc thương những anh hùng đã hi sinh vì đất nước. Tâm trạng buồn, thương tiếc, cảm xúc đứng lặng giờ lâu của khách biểu lộ niềm xúc động, lòng tiếc thương và biết ơn vô hạn đối với anh hùng liệt sĩ đã hi sinh xương máu bảo vệ dòng sông cùng sự tồn vong của dân tộc
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu
Phú sông Bạch Đằng là đỉnh cao nghệ thuật thể phú trong văn học Việt Nam thời trung đại: với ngôn từ đẹp, dễ đọc, bố cục chặt chẽ, câu từ linh hoạt mang đậm tính triết lý. Chất trữ tình sâu lắng cùng với giọng điệu hùng ca, không khí trang trọng, tài hoa trong miêu tả, hùng hồn trong tự sự, rung động cùng cảm xúc, sáng suốt khi bình luận là những thành công của Trương Hán Siêu. Từ đó, tác giả bày tỏ niềm tự hào dân tộc, đây cũng là lời nhắc nhở những thế hệ mai sau tiếp nối truyền thống cha anh để lại.
Giới thiệu tuyển tập 💧 Thuyết Minh Về Núi Voi 💧 10 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Thuyết Minh Đoạn 1 2 Bài Phú Sông Bạch Đằng – Mẫu 14
Bài văn thuyết minh đoạn 1 2 bài Phú Sông Bạch Đằng dưới đây sẽ giúp các em học sinh làm sáng tỏ những đặc sắc về nội dung, nghệ thuật và ý nghĩa của tác phẩm này.
Trương Hán Siêu (?-1354), quê gốc ở Ninh Bình, từng có thời gian làm môn khách trong phủ Trần Hưng Đạo, sau ở thời vua Trần Anh Tông thì làm đến chức Tham tri chính sự, khi mất được phong Thái Bảo, Thái Phó và cho thờ trong Văn Miếu.
Đương thời Trương Hán Siêu là người có tính tình cương trực, học vấn uyên thâm, rất được các vua Trần tin dùng và nhân dân yêu mến kính trọng. Tuy nhiên đáng tiếc rằng hầu hết các tác phẩm văn chương của ông đều bị thất lạc, nay chỉ còn lại một ít trong đó có Phú sông Bạch Đằng là một trong những tác phẩm hay và nổi tiếng nhất. Nổi bật trong chủ đề của tác phẩm đó chính là cảm hứng yêu nước nồng nàn, tha thiết của tác giả thể hiện nổi bật trong đoạn 1 và đoạn 2 của bài phú, với nhiều khía cạnh khác nhau.
Đầu tiên, với vai trò là nhân vật “khách” cảm hứng của tác giả được bộc lộ thông qua cuộc du ngoạn thực tế của tác giả qua các địa danh nổi tiếng của Việt Nam từ cửa Đại Thanh, đến bến Đông Triều, rồi cuối cùng là dừng lại trước con sông Bạch Đằng thơ mộng, trữ tình, hùng vĩ gắn liền với biết bao chiến công lịch sử của dân tộc.
“Qua cửa Đại Than, ngược bến Đông Triều,
Đến sông Bạch Đằng,thuyền bơi một chiều.
Bát ngát sóng kình muôn dặm, thướt tha đuôi trĩ một màu.
Nước trời một sắc, phong cảnh ba thu.”
Chỉ thông qua vài câu thơ tả cảnh ngắn gọn, thế nhưng độc giả cũng đã có thể hình dung ra cảnh tượng hùng vĩ, rộng lớn, vẻ đẹp bao la khoáng đạt của một con sông qua câu “bát ngát sóng kình muôn dặm”, rồi người ta lại dễ dàng liên tưởng đến cái vẻ thơ mộng, dịu dàng của dòng sông trải dài với những con thuyền nối tiếp nhau thật duyên dáng và yểu điệu, đó là cảnh thanh bình, thuyền bè ngược xuôi buôn bán, nhân dân được an cư lạc nghiệp mà có được cảnh ấy.
Thêm câu “Nước trời một sắc, phong cảnh ba thu”, lại cắt nghĩa ra được một vẻ đẹp rất yên ả, màu trời màu nước cùng hòa với nhau tạo thành một bức phông nền tuyệt đẹp cho bức tranh phong cảnh đã trải qua ba mùa thu tươi đẹp của đất nước. Như vậy ở đây ta có thể tiểu kết lại rằng, trước hết cảm hứng yêu nước của tác giả nằm ở cái nhìn, cách cảm nhận về vẻ đẹp của sông Bạch Đằng, tác giả tự hào vì Đại Việt ta có một dòng sông, thơ mộng và hùng vĩ đến thế, từ đó lại càng yêu thêm mảnh đất nghìn năm văn hiến không đổi dời này.
Thế nhưng bên cạnh những vẻ đẹp trữ tình thơ mộng, nhân vật khách còn cảm nhận được ở con sông này vẻ lạnh lẽo, đìu hiu bởi trải qua bao nhiêu năm tháng, sông Bạch Đằng đã trở thành chứng nhân cho những cuộc chiến chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta. Nơi đây xương máu của ta và địch đã mãi chìm xuống lòng sâu, chỉ để lại trong sử sách và trong ký ức của con sông sự oanh liệt và khí thế hào hùng của thời khắc năm xưa.
“Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu
Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô
Buồn vì cảnh thảm đứng lặng giờ lâu
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu”
Những hoài niệm về một thời quá vãng, cùng với cảnh vật tiêu điều hiu hắt, đã gợi lên trong lòng nhân vật “khách” những xúc cảm ưu tư, buồn bã vì dấu vết của thời gian dường như đã làm phai mờ đi những chiến công vang dội năm xưa, cho đến hôm nay khi đứng tại nơi này cũng chỉ là cảnh còn người mất, chỉ còn một vẻ hoang vắng, lạnh lẽo, nghĩ mà không khỏi xót xa, ngậm ngùi và thương tiếc không thôi. Như vậy, thông qua cách mà tác giả nhìn nhận về con sông không chỉ mang vẻ đẹp sơn thủy hữu tình, mà còn nằm ở cả dáng vẻ buồn bã, hiu quạnh, đã phần nào gợi nhắc độc giả về những chiến công lừng lẫy của ông cha ta ngày xưa ngay trên chính con sông Bạch Đằng.
Đó là trận chiến chống quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 938, trận chiến chống quân Tống trên sông Bạch Đằng năm 981 do Lê Đại Hành chỉ huy, và trận chiến trên sông năm 1288 chống quân Mông Nguyên do Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn chỉ huy. Từ đó khơi gợi niềm tự hào dân tộc vì những chiến công lừng lẫy của cha ông, tấm lòng yêu nước sâu sắc, cùng với tinh thần chống giặc ngoại xâm bất khuất trong trái tim của mỗi người dân Đại Việt.
Chung mạch cảm xúc ấy, Trương Hán Siêu đã thoát khỏi nhân vật “khách” và chuyển qua hình tượng nhân vật “các bô lão” để tái hiện lại một cách sinh động cái không khí hào hùng vẻ vang của dân tộc trong những trận chiến lịch sử. Bằng giọng văn cường điệu, chất văn trung đại đậm tính ước lệ, tác giả đã khắc họa rõ những khoảnh khắc oai hùng, cùng truyền thống yêu nước bất khuất, kiên cường thông qua lời thuật lại của các bô lão.
“Đây là chiến địa buổi trùng hưng nhị thánh bắt Ô Mã,
Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao.”
Đương khi ấy:
Thuyền tàu muôn đội, tinh kì phấp phới.
Hùng hổ sáu quân,giáo gươm sáng chói.
Trận đánh được thua chửa phân,
Chiến luỹ bắc nam chống đối.
Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,
Bầu trời đất chừ sắp đổi.
Kìa:
Tất Liệt thế cường, Lưu Cung chước dối.
Những tưởng gieo roi một lần,
Quét sạch Nam bang bốn cõi.
Thế nhưng:Trời cũng chiều người,
Hung đồ hết lối
Trận Xích Bích, quân Tào Tháo tan tác tro bay,
Trận Hợp Phì, giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi.
Đến nay sông nước tuy chảy hoài,
Mà nhục quân thù khôn rửa nổi.”
Lũ giặc ngang tàn “Thuyền tàu muôn đội, tinh kỳ phấp phới”, nào “Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói”, đem so sánh với quân ta thế đơn lực bạc, “Những tưởng gieo roi một lần/Quét sạch Nam bang bốn cõi”. Thế nhưng “Trời cũng chiều lòng người”, những kẻ gieo tai vạ, hung hăng bạo ngược thì ắt phải chịu kết cục tiêu vong, dù có là “Tất Liệt thế cường” hay “Lưu Cung chước đối” thì cái mối nhục tựa như trận Xích Bích hay trận Hợp Phì này cũng sẵn ngàn năm chẳng rửa nổi, có chăng nước sông chảy hoài và còn ghi mãi sự oanh liệt, hùng dũng của quân dân Đại Việt ta mà thôi.
Cách mà Trương Hán Siêu lấy những trận đánh chấn động lịch sử của Trung Quốc cổ đại đem ví như trận đánh của Đạị Việt ta trên sông Bạch Đằng, lại là một dụng ý rất khéo léo của tác giả để thể hiện lòng tự hào và tinh thần tự tôn dân tộc sâu sắc. Chẳng phải cường quốc phương Bắc vẫn tự xưng là bậc đế vương, đời đời khinh nhờn coi Đại Việt nhỏ bé là phường chư hầu, bắt tiến cống sản vật, rồi lại tùy thời xâm chiếm hay sao.
Thế nhưng lịch sử đã chứng minh rằng cả ngàn năm nay đã có lúc nào dân tộc Đại Việt chịu nhục nhã, từ thời Bà Trưng, Bà Triệu, đến thời Ngô Quyền, thời Đinh, thời Lý, có biết bao lần quân giặc cũng mang hàng vạn đại quân sang ý định giày xéo nước ta, rồi cũng lại phải bỏ chạy về nước trong nhục nhã, đến mảnh giáp cũng không còn?
Nhắc lại lịch sử hào hùng một thời của dân tộc, nhắc đến những “trùng hưng nhị thánh”, nhắc đến “Ngô chúa” chính là để khơi dậy lòng tự hào dân tộc, ngợi ca các bậc anh hùng kỳ tài, những bậc đế vương với biệt tài quy tụ lòng dân, tập hợp tinh thần yêu nước của cả một dân tộc làm thành sức mạnh vĩ đại sẵn sàng đương đầu với mọi sự tiến công mạnh mẽ của giặc ngoại xâm.
Bộc lộ niềm tự hào, ngưỡng mộ, ngợi ca tráng chí ngút ngàn, sự dũng mãnh của quân dân Đại Việt ta xứng danh với cái tên gọi hào khí Đông A mà Phạm Ngũ Lão trong Thuật hoài đã từng nhắc đến. Từ đó thể hiện sự trân trọng, mến yêu và biết ơn sâu sắc đến những vị anh hùng đi trước, đến những con người đã ra đi đổ máu xương vì một đất nước hòa bình yên ấm như ngày hôm nay.
Có lẽ rằng lịch sử của dân tộc đã từng oanh liệt, ngút ngàn tựa như một bài trường ca dựng nước và giữ nước dài lâu mà đến ngày hôm nay, khi đứng trước sông Bạch Đằng cả “khách” và bô lão chỉ thấy những dấu tích bi thương của lịch sử, lạnh lẽo, đìu hiu, thì không khỏi thương tiếc và xúc động. Nỗi xúc động ấy không phải là nỗi đau bi lụy, mà nó lại là cái buồn thương, tiếc nuối của tấm lòng trân trọng, ngợi ca mà người đời sau dành cho người đời trước, thế mới có câu “Đứng bên sông chừ hổ mặt/Nhớ người xưa chừ lệ chan”.
Sở dĩ cả “khách” và “các bô lão” có tâm trạng ấy, cũng bởi trong lòng đã có những dự báo không tốt về vận khí của nhà Trần, khi sau 50 năm chiến thắng quân Mông Nguyên lần 3 thì nhà Trần bắt đầu có dấu hiệu suy thoái, các vị tướng kiệt xuất cũng đã mất, đất nước không người chống đỡ. Mà như Nguyễn Trãi đã viết rằng “Càn khôn bĩ rồi lại thái/Nhật nguyệt hối rồi lại minh”, nếu ngày đó đến thật thì cũng coi như khí số nhà Trần đã đến hồi tận.
Những nỗi ưu tư, phiền muộn vì vận nước nay đã không bằng được như xưa, đã đem đến cho tác giả một niềm mong ước mãnh liệt, thể hiện tấm lòng trung quân ái quốc, một lòng vì mong cho nhân dân được ấm no, đất nước được vững bền ấy rằng mai đây sẽ có “vị thánh nhân ” nào đó nối bước người xưa, lần nữa vực dậy non sông Đại Việt, đưa nước ta trở về những ngày huy hàng rạng rỡ, chứ chẳng phải cảnh đìu hiu, lạnh lẽo bên bến sông, khiến người đời nhìn mà cảm khái không thôi.
Phú sông Bạch Đằng không hổ danh là tác phẩm được đánh giá là đỉnh cao của thể loại phú trung cũng như là áng thiên cổ hùng văn trong lịch sử văn học dân tộc. Một phần vừa ca ngợi cảnh sắc non sông, nhưng phần lớn chính là gợi nhắc lại lịch sử vẻ vang của dân tộc thể hiện tấm lòng yêu nước sâu sắc và lòng ngợi ca, tự hào trước những chiến công oanh liệt của dân tộc trong công cuộc chống giặc ngoại xâm ngàn năm nay. Đồng thời thức tỉnh người đọc về những giá trị quý báu trong dòng chảy lịch sử dân tộc, và vai trò quan trọng, thiết yếu của con người góp phần viết nên những trang sử hào hùng, dựng xây nên một non sông Đại Việt tươi đẹp như ngày hôm nay.
Đừng bỏ lỡ cơ hội 🍀 Nhận Thẻ Cào 100k Miễn Phí 🍀 Card Viettel Mobifone
Thuyết Minh Đoạn Cuối Bài Phú Sông Bạch Đằng – Mẫu 15
Đón đọc bài văn mẫu thuyết minh đoạn cuối bài Phú Sông Bạch Đằng và khám phá những ý nghĩa cũng như giá trị mà tác phẩm này để lại cho hậu thế.
Trương Hán Siêu là một danh sĩ đời Trần, sau lúc qua đời được vua Trần truy phong là Thiếu Bảo. Ông còn để lại bốn bài thơ và ba bài văn “Dục Thuý sơn khắc thạch”, “Linh Tế Tháp ký”, “Khai Nghiêm tự bi”, “Bạch Đằng giang phú”,… Trong thơ văn cổ Việt Nam có một số tác phẩm lấy đề tài sông Bạch Đằng nhưng “Bạch Đằng giang phú” của Trương Hán Siêu được xếp vào hạng kiệt tác.
Chưa rõ Trương Hán Siêu viết “Bạch Đằng giang phú” vào năm nào, nhưng qua giọng văn cảm hoài “Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá – Tiếc thay dấu vết luống còn lưu”, ta có thể đoán định được, bài phú này chỉ có thể ra đời sau khi Trần Quốc Tuấn đã mất, tức là vào khoảng 1301 – 1354.
“Bạch Đằng giang phú” được viết bằng chữ Hán. Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Đổng Chi, Bùi Văn Nguyên… đã dịch khá thành công áng văn này. Bài cảm nhận về “Bạch Đằng giang phú” dựa trên văn bản dịch của giáo sư Bùi Văn Nguyên.
Phú là một thể văn cổ dùng để tả cảnh vật, phong tục hoặc tính tình. Chất trữ tình và yếu tố khoa trương đậm đặc trong phú. Có phú cổ thể và phú Đường luật. Phú cổ thể như một bài văn xuôi dài, có vần mà không nhất thiết có đối, còn gọi là phú lưu thuỷ. Phú Đường luật được đặt ra từ đời Đường, có vần, có đối, có luật bằng trắc chặt chữ, có những kiểu câu được quy phạm rõ ràng. “Bạch Đằng giang phú” của Trương Hán Siêu viết theo lối phú cổ thể, có vần sử dụng phép đối rất sáng tạo.
Qua bài phú này, Trương Hán Siêu ca ngợi sông Bạch Đằng hùng vĩ, dòng sông lịch sử đã gắn liền với tên tuổi bao anh hùng, với bao chiến công oanh liệt của nhân dân ta trong sự nghiệp chống xâm lăng, thông điệp này được thể hiện nổi bật trong đoạn cuối của bài phú:
Sông Đằng một dải dài ghê,
Luồng to sóng lớn dồn về biển Đông.
Những người bất nghĩa tiêu vong,
Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh.
Anh minh hai vị thánh quân,
Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh.
Giặc tan muôn thuở thăng bình.
Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao.
Phần cuối bài phú là bài ca của lão về dòng sông, về đất nước và con người Việt Nam. Sông Bạch Đằng hùng vĩ “một dải dài ghê” là mồ chôn lũ xâm lăng. “Sóng hồng cuồn cuộn trôi về biển Đông”. Máu giặc như mãi mãi nhuộm đỏ dòng sông. Một cách nói hào hùng. Giặc bất nghĩa nhất định bị tiêu vong. Các anh hùng để lại tiếng thơm muôn đời, lưu danh sử sách. Nhà thơ dành cho hai vua Trần những lời đẹp đẽ nhất:
“Anh minh hai vị thánh quân
Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh”
“Thánh quân” là Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông, đã lãnh đạo cuộc kháng chiến lần thứ 2 và lần thứ 3 đánh thắng giặc Nguyên – Mông. Nhờ những nhân tài mà đất nước được “điện an”; nhờ những ông vua tài giỏi, sáng suốt, anh minh mà Đại Việt được “thanh bình muôn thuở”. Một lần nữa tác giả lại khẳng định bài học lịch sử giữ nước: “bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao”.
Đức cao là lòng yêu nước thương dân, là tinh thần đại đoàn kết dân tộc, là tinh thần cảnh giác trước hiểm họa ngoại xâm. Một nét đặc sắc trong thơ văn đời Trần là ngoài “hào khí Đông A” còn nêu cao bài học xây dựng bảo vệ đất nước: “Thái bình nên gắng sức – Non nước ấy ngàn thu” (Trần Quang Khải). “Đức cao” là nguyên nhân thắng lợi, như Trần Quốc Tuấn đã nói: “Vua tôi đồng long, anh em hòa thuận, cả nước góp sức” – đó là nguồn sức mạnh Việt Nam.
Tóm lại, “Bạch Đằng giang phú” là một bài ca yêu nước tự hào dân tộc. Tên tuổi Ngô Quyền, Trần Quốc Tuấn trường tồn với dòng sông lịch sử. Lời văn hoa lệ, tư tưởng tình cảm sâu sắc, tiến bộ. Chất trữ tình sâu lắng. Âm điệu anh hùng ca, không khí trang trọng cổ kính. Tài hoa trong miêu tả, hùng hồn trong tự sự, u hoài trong cảm xúc, sáng suốt lúc bình luận… là những thành công của Trương Hán Siêu.
Giới thiệu cùng bạn 🍀 Thuyết Minh Về Đền Hùng 🍀 15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất