Thơ Lý Bạch Về Trăng ❤️️ Ánh Trăng Sáng Trong Thơ Thi Tiên ✅ Tuyển Tập 39+ Bài Thơ Nổi Tiếng Nhất Của Lý Bạch Viết Về Trăng.
Thơ Lý Bạch Về Trăng
Thơ Lý Bạch Về Trăng là một trong những chủ đề thơ xuyên suốt và nổi tiếng của nhà thơ.
Thục đạo nan (Đường đất Thục khó đi)
Tác giả: Lý Bạch
Bản dịch của Trần Trọng San
Ôi, chao ôi!
Nguy hề, cao thay!
Đường Thục khó, khó hơn lên trời xanh
Tàm Tùng và Ngư Phù
Mở nước bao xa xôi!
Đến nay bốn vạn tám ngàn năm
Mới cùng ải Tần liền khói người
Phía tây núi Thái Bạch có đường chim
Vắt ngang đến tận đỉnh Nga Mi
Đất long, núi lở, tráng sĩ chết
Rồi sau thang trời, lối đá mới nối liền
Trên đỉnh có sáu rồng, lượn quanh vầng nhật
Dưới có dòng sâu rẽ ngược, sóng cả đua chen
Hạc vàng bay qua còn chẳng được
Vượn khỉ toan vượt, buồn với vin
Rặng Thanh Nê quanh co
Trăm bước, chín vòng núi nhấp nhô
Ngẩng trông Sâm Tỉnh, không dám thở
Lấy tay vỗ bụng ngồi thở dài
Hỏi bạn sang tây, bao giờ trở lại?
Đường hiểm núi cao, khó lắm thay
Chỉ thấy chim buồn gào cổ thụ
Trống bay theo mái lượn rừng cây
Lại nghe tiếng cuốc kêu trăng tối
Buồn tênh, núi vắng người
Đường Thục khó, khó hơn lên trời xanh
Khiến người nghe nói héo mặt son
Núi liền cách trời chẳng đầy thước
Thông khô vắt vẻo vách cao ngất
Thác đổ dồn mau tiếng rộn ràng
Vỗ bờ, tung đá, muôn khe vang
Hiểm nghèo là như vậy
Đường xa, thương cho ai
Vì sao lại đến đây?
Kiếm Các cheo leo cao ngất mây
Một người giữ cửa quan
Muôn người khôn mở ải
Chẳng phải là người thân
Biến thành ra sài lang
Sớm lánh hổ dữ
Tối tránh rắn dài
Mài nanh, hút máu
Giết người như gai
Cẩm thành tuy vui thú
Đâu bằng sớm về nhà
Đường Thục khó, khó hơn lên trời xanh
Nghiêng trông sang tây, mãi thở than.
Độ Kinh Môn tống biệt (Đi thuyền qua Kinh Môn tiễn biệt)
Tác giả: Lý Bạch
Bản dịch của Trần Trọng San
Độ viễn kinh môn ngoại
Lai tòng Sở quốc du
Sơn tuỳ bình dã tận
Giang nhập đại hoang lưu
Nguyệt hạ phi thiên kính
Vân sinh kết hải lâu
Nhưng liên cố hương thuỷ
Vạn lý tống hành chu
Dịch thơ:
Kinh Môn vượt núi ra ngoài
Đến miền nước Sở đường dài biết bao
Đồng bằng chấm dứt núi cao
Dòng sông thăm thẳm chảy vào xa khơi
Trăng tà bay tấm gương trời
Biển xanh mây dựng lâu đài xa xa
Thương thay dòng nước quê nhà
Tiễn đưa muôn dặm thuyền ra xứ người.
Mời bạn khám phá thêm về chủ đề Thơ Lý Bạch Về Trăng qua tuyển tập 💕 Thơ Đường Hay 💕 đặc sắc.
Thơ Của Lý Bạch Về Trăng
Thơ Của Lý Bạch Về Trăng luôn mang theo những hình ảnh đẹp đã trở thành hình tượng của người đời sau.
Cửu nhật Long Sơn ẩm
(Ngày Tết Trùng Cửu uống rượu trên núi Long Sơn)
Tác giả: Lý Bạch
Cửu nhật long sơn ẩm
Hoàng hoa tiếu trục thần
Tuý khán phong lạc mạo
Vũ ái nguyệt lưu nhân
Dịch thơ:
Trùng Cửu rượu Long Sơn
Hoa cười giễu tội thần
Say nhìn gió bay mũ
Mê múa trăng giữ chân
Tĩnh dạ tứ
Tác giả: Lý Bạch
Sàng tiền minh nguyệt quang
Nghi thị địa thượng sương
Cử đầu vọng minh nguyệt
Đê đầu tư cố hương
Dịch thơ:
Ánh trăng sáng trước giường
Ngỡ mặt đất mờ sương
Ngẩng đầu trông trăng sáng
Cúi đầu nhớ cố hương
Nga My sơn nguyệt
Tác giả: Lý Bạch
Nga My sơn nguyệt bán luân thu,
Ảnh nhập Bình Khương giang thuỷ lưu.
Dạ phát Thanh Khê hướng Tam Giáp,
Tư quân bất kiến há Du Châu.
Dịch nghĩa
Trăng lên đầu núi Nga My nửa vầng thu
Chiếu xuống sông Bình Khương lấp lánh dòng nước trôi
Ði từ Thanh Khê ra hướng Tam Giáp
Nhớ anh, không thấy xuống Du Châu.
Cùng với Thơ Lý Bạch Về Trăng, gửi đến bạn 🍃 Thơ Lý Bạch Về Rượu 🍃 ý nghĩa.
Những Bài Thơ Về Trăng Của Lý Bạch
Mời bạn đọc cùng thưởng thức tiếp Những Bài Thơ Về Trăng Của Lý Bạch hay và đặc sắc.
Bả tửu vấn nguyệt (Rót rượu hỏi trăng)
Tác giả: Lý Bạch
Bản dịch của Lão Nông
Trăng ơi! có tự khi nào?
Ta ngưng chén hỏi: Trăng sao lỡ làng?
Ai vin nổi ánh trăng vàng?
Người đi, Trăng bước song hàng nghêu ngao
Như gương vút tận trời cao
Tan nhanh khói biếc ngàn sao êm đềm
Trăng lên từ dưới biển đêm
Sớm mai bay biến trên nền trời mây
Xuân – thu, thỏ giã thuốc đây
Hằng Nga đơn chiếc vơi đầy… thoả chưa?
Người nay đâu thấy Trăng xưa
Trăng nay soi tỏ Người xưa đã từng
Xưa, nay nước chảy không ngừng
Vầng Trăng cùng ngắm tưng bừng hân hoan
Lời ca, men rượu nồng nàn
Ánh Trăng soi đáy chén vàng long lanh
Cùng với Thơ Lý Bạch Về Trăng, gửi tặng bạn 💕 Thơ Hay Về Triết Lý Cuộc Sống 💕 hay và ý nghĩa.
Các Bài Thơ Về Trăng Của Lý Bạch
Qua Các Bài Thơ Về Trăng Của Lý Bạch người đọc như thấy hiện lên vẻ đẹp kỳ ảo của ánh trăng thời xưa cũ.
Quan san nguyệt
Tác giả: Lý Bạch
Minh nguyệt xuất Thiên San,
Thương mang vân hải gian.
Trường phong kỷ vạn lý,
Xuy độ Ngọc Môn quan.
Hán há Bạch Đăng đạo,
Hồ khuy Thanh Hải loan.
Do lai chinh chiến địa,
Bất kiến hữu nhân hoàn.
Thú khách vọng biên sắc,
Tư quy đa khổ nhan.
Cao lâu đương thử dạ,
Thán tức vị ưng nhàn
Dịch nghĩa:
Trăng sáng mọc trên núi Thiên San
Trong cảnh mênh mông giữa mây và biển
Gió bay mấy ngàn dặm về
Thổi đến cửa ải Ngọc Môn
Nhà Hán đồn binh ở lộ Bạch Đăng
Rợ Hồ ngấp nghé ở vũng Thanh Hải
Xưa nay vẫn là bãi chiến trường
Không thấy có ai được trở về
Người lính thú nhìn đăm đăm cảnh sắc xa xa
Lòng nhớ nhà gương mặt lộ vẻ buồn khổ
Đêm nay có ai đang ngồi trên lầu cao
Hẳn phải than thở mà không dám nhàn nhã
Cổ lãng nguyệt hành
Tác giả: Lý Bạch
Cổ lãng nguyệt hành
Tiểu thì bất thức nguyệt,
Hô tác bạch ngọc bàn.
Hựu nghi Dao Đài kính,
Phi tại bạch vân đoan.
Tiên nhân thuỳ lưỡng túc,
Quế thụ tác đoàn đoàn.
Bạch thố đảo dược thành,
Vấn ngôn dữ thuỳ xan.
Thiềm thừ thực viên ảnh,
Đại minh dạ dĩ tàn.
Nghệ tích lạc cửu ô,
Thiên nhân thanh thả an.
Âm tinh thử luân hoặc,
Khứ khứ bất túc quan.
Ưu lai kỳ như hà,
Thê sảng tồi tâm can.
Dịch nghĩa
Thuở nhỏ không biết trăng,
Gọi là mâm ngọc sáng.
Lại ngờ là gương ở Dao Đài,
Bay tít tầng mây trắng.
Người tiên buông đôi chân,
Cây quế tròn xum xuê.
Thỏ trắng giã thuốc đã xong,
Hỏi biết cùng ai mà nếm.
Con cóc gặm ảnh tròn,
Ánh sáng về đêm đã tàn lụi.
Hậu Nghệ xưa bắn rơi chín mặt trời,
Người trời trong sạch và yên ổn.
Vầng trăng của đêm chìm trong thương cảm,
Trôi trôi không nhìn thấy nữa.
Buồn lo đến thế sao,
Xót xa bời bời gan ruột.
Bên cạnh Thơ Lý Bạch Về Trăng còn có Chùm 💌 Thơ Trung Quốc Về Tình Yêu 💌 đặc biệt được chọn lọc dành cho bạn.
Nguyệt Hạ Độc Chước
Nguyệt Hạ Độc Chước là một chùm thơ gồm 4 kỳ được Lý Bạch cao hứng sáng tác trong những đêm trăng một mình uống say.
Nguyệt hạ độc chước kỳ 1
(Một mình uống rượu dưới trăng kỳ 1)
Tác giả: Lý Bạch
Hoa gian nhất hồ tửu,
Độc chước vô tương thân.
Cử bôi yêu minh nguyệt,
Đối ảnh thành tam nhân.
Nguyệt ký bất giải ẩm,
Ảnh đồ tùy ngã thân.
Tạm bạn nguyệt tương ảnh,
Hành lạc tu cập xuân.
Ngã ca nguyệt bồi hồi,
Ngã vũ ảnh linh loạn.
Tỉnh thì đồng giao hoan,
Tuý hậu các phân tán.
Vĩnh kết vô tình du,
Tương kỳ mạc Vân Hán.
Dịch nghĩa:
Trong đám hoa với một bình rượu
Uống một mình không có ai làm bạn
Nâng ly mời với trăng sáng
Cùng với bóng nữa là thành ba người
Trăng đã không biết uống rượu
Bóng chỉ biết đi theo mình
Tạm làm bạn với trăng và bóng
Hưởng niềm vui cho kịp với ngày xuân
Ta hát trăng có vẻ bồi hồi không muốn đi
Ta múa bóng có vẻ quay cuồng mê loạn
Lúc tỉnh cùng nhau vui đùa
Sau khi say thì phân tán mỗi một nơi
Vĩnh viễn kết chặt mối giao du vô tình này
Cùng nhau ước hẹn lên trên Thiên hà gặp lại
Nguyệt hạ độc chước kỳ 2
(Một mình uống rượu dưới trăng kỳ 2)
Tác giả: Lý Bạch
Thiên nhược bất ái tửu,
Tửu tinh bất tại thiên.
Địa nhược bất ái tửu,
Địa ưng vô tửu tuyền.
Thiên địa ký ái tửu,
Ái tửu bất quý thiên.
Dĩ văn thanh tỷ thánh,
Phục đạo trọc như hiền.
Hiền thánh ký dĩ ẩm,
Hà tất cầu thần tiên.
Tam bôi thông đại đạo,
Nhất đấu hợp tự nhiên.
Đản đắc túy trung thú,
Vật vi tỉnh giả truyền.
Dịch nghĩa:
Nếu trời mà không thích rượu,
Thì sao rượu không có ở trên trời.
Nếu đất mà không thích rượu,
Thì suối rượu hẳn phải không có ở dưới đất.
Trời đất kia đã thích rượu,
Thì ta thích rượu là không hổ thẹn với trời.
Đã nghe nói rằng người uống rượu mà trong thì được ví với bậc thánh,
Lại nghe nói rằng người uống rượu mà đục thì giống như bậc hiền.
Các bậc thánh hiền đều đã uống rượu,
Thì ta hà tất phải cầu thần tiên?
Uống ba chén thì thông hiểu đạo lớn,
Uống một đấu thì hợp với tự nhiên.
Chỉ mong có được cái thú trong lúc say,
Chứ không muốn để lại tiếng tăm là người tỉnh.
Nguyệt hạ độc chước kỳ 3
(Một mình uống rượu dưới trăng kỳ 3)
Tác giả: Lý Bạch
Tam nguyệt Hàm Dương thành,
Thiên hoa trú như cẩm.
Thùy năng xuân độc sầu,
Đối thử kính tu ẩm.
Cùng thông dữ tu đoản,
Tạo hoá túc sở bẩm.
Nhất tôn tề tử sinh,
Vạn sự cố nan thẩm.
Túy hậu thất thiên địa,
Ngột nhiên tựu cô chẩm.
Bất tri hữu ngô thân,
Thử lạc tối vi thậm.
Dịch nghĩa:
Thành Hàm Dương, tiết tháng ba,
Ngàn hoa sớm nở như là gấm thêu.
Xuân tươi ta cớ chi sầu,
Một mình đối cảnh,dở bầu rượu ra.
Cùng thông, dài ngắn chẳng qua,
Ông Trời sắp đặt cho ta sẵn rồi.
Tử sinh trong một chén thôi,
Làm sao hiểu hết việc đời này đây.
Đất trời nào thiết, cứ say,
Rồi ôm gối chiếc ngất ngây bồng bềnh.
Cần chi biết có thân mình,
Vui này mới đúng thật tình là vui.
Nguyệt hạ độc chước kỳ 4
(Một mình uống rượu dưới trăng kỳ 4)
Tác giả: Lý Bạch
Cùng sầu thiên vạn đoan,
Mỹ tửu bách tam bôi.
Sầu đa tửu tuy thiểu,
Tửu khuynh sầu bất lai.
Sở dĩ tri tửu thánh,
Tửu hàm tâm tự khai.
Từ túc ngọa Thú Dương,
Lũ không cơ Nhan Hồi.
Đang đại bất lạc ẩm,
Hư danh an dụng tai.
Giải ngao tức kim dịch,
Tao khâu thị Bồng Lai.
Thả tu ẩm mỹ tửu,
Thừa nguyệt túy cao đài.
Dịch nghĩa:
Rượu quý vài ba trăm chén,
Xót xa nghìn vạn mối sầu.
Sầu nhiều rượu dẫu quá ít,
Nghiêng chén sầu không đến đâu!
Biết được rượu là thánh thiện,
Ngấm rồi lòng mở trước sau!
Thủ Dương nằm chẳng nhận thóc,
Bụng rỗng Nhan Hồi đói cào.
Đang sống mà không ưa rượu,
Hư danh yêu thích mãi sao?
Tôm cua châu báu món quý,
Xóm rượu tựa chốn bồng đào!
Mỹ tửu thả lòng mà uống,
Theo trăng say cõi Trời Cao!!
Ngoài Thơ Lý Bạch Về Trăng, giới thiệu với bạn tuyển tập 🌨 Thơ Trung Quốc Về Hoa 🌨
Những Bài Thơ Lý Bạch Về Trăng Hay Nhất
Những Bài Thơ Lý Bạch Về Trăng Hay Nhất mà bạn đọc yêu thơ không thể nào bỏ qua.
Thiên tân tam nguyệt thì
Tác giả: Lý Bạch
Thiên tân tam nguyệt thì,
Thiên môn đào dữ lý.
Triêu vi đoạn trường hoa,
Mộ trục đông lưu thuỷ.
Tiền thuỷ phục hậu thuỷ,
Cổ kim tương tục lưu.
Tân nhân phi cựu nhân,
Niên niên kiều thượng du.
Kê minh hải sắc động,
Yết đế la công hầu.
Nguyệt lạc tây Thượng Dương,
Dư huy bán thành lâu.
Y quan chiếu vân nhật,
Triều hạ tán hoàng châu.
Yên mã như phi long,
Hoàng kim lạc mã đầu.
Hành nhân giai tịch dị,
Chí khí hoành Tung khâu.
Nhập môn thướng cao đường,
Liệt đỉnh thác trân tu.
Hương phong dẫn triệu vũ,
Thanh quản tuỳ Tề âu.
Thất thập tử uyên ương,
Song song hí đình u.
Hành lạc tranh trú dạ,
Tự ngôn độ thiên thu.
Công thành thân bất thoái,
Tự cổ đa khiên vưu.
Hoàng khuyển không thán tức,
Lục Châu thành hấn cừu.
Hà như si di tử,
Tán phát trạo biển chu.
Cửu nguyệt thập nhật tức sự
Tác giả: Lý Bạch
Cửu nguyệt thập nhật tức sự
Tạc nhật đăng cao bãi,
Kim triêu cánh cử thương.
Cúc hoa hà thái khổ,
Tao thử lưỡng trùng dương.
Dịch nghĩa
Hôm qua lên cao uống rượu cúc xong rồi,
Sáng nay còn nâng chén uống nữa.
Sao hoa cúc phải chịu quá khổ thế này,
Như vậy là bị tới hai lần lễ trùng dương.
Bên cạnh Thơ Lý Bạch Về Trăng còn có Chùm 💌 Thơ Tiếng Trung Về Tình Yêu 💌 đặc biệt được chọn lọc dành cho bạn.
Thơ Hay Lý Bạch Về Trăng
Thơ Hay Lý Bạch Về Trăng có những hình tượng thiên nhiên được khắc hoạ qua lăng kính và góc nhìn lãng mạn của bậc thi nhân.
Kim Lăng thành tây lâu nguyệt hạ ngâm
Tác giả: Lý Bạch
Kim Lăng dạ tịch lương phong phát,
Độc thướng cao lâu vọng Ngô Việt.
Bạch vân ánh thuỷ dao không thành,
Bạch lộ thuỳ châu trích thu nguyệt.
Nguyệt hạ trầm ngâm cửu bất quy,
Cổ lai tương tiếp nhãn trung hy.
Giải đạo “trừng giang tịnh như luyện”,
Linh nhân trường ức Tạ Huyền Huy.
Dịch nghĩa
Đêm ở Kim Lăng yên tĩnh, có gió mát,
Một mình lên lầu ngắm cảnh xứ Ngô Việt.
Mây trắng in trên mặt nước lẫn bóng tường thành hoang,
Móc trắng như những hạt châu rơi từ trăng mùa thu xuống.
Ta ngồi trầm ngâm dưới trăng rất lâu chưa muốn về,
Vì ý thơ của người xưa và người nay trùng hợp hiếm có.
Như khi ta ngâm: nước sông trong sạch như giải lụa trắng”,
Khiến ta nhớ mãi tới Tạ Huyền Huy.
Nga My sơn nguyệt ca tống Thục tăng Yến nhập trung kinh
Tác giả: Lý Bạch
Ngã tại Ba Đông tam giáp thì
Tây khán minh nguyệt ức Nga My
Nguyệt xuất Nga My chiếu thương hải
Dữ nhân vạn lý trường tương tuỳ
Hoàng Hạc lâu tiền nguyệt hoa bạch
Thử trung hốt kiến Nga My khách
Nga My sơn nguyệt hoàn tống quân
Phong xuy tây đáo Trường An mạch
Trường An đại đạo hoành cửu thiên
Nga My sơn nguyệt chiếu Tần Xuyên
Hoàng kim sư tử thừa cao toạ
Bạch Ngọc, Chủ Vĩ đàm Trọng Huyền
Ngã tự phù vân trệ Ngô Việt
Quân phùng thánh chúa du đan khuyết
Nhất chấn cao danh mãn đế đô
Quy thì hoàn lộng Nga My nguyệt.
Ngoài Thơ Lý Bạch Về Trăng, xem nhiều hơn những bài thơ đặc sắc trong 🌹 Thơ Về Tình Mẫu Tử Hay 🌹
Bài Thơ Hay Nhất Của Lý Bạch Về Trăng
Bài Thơ Hay Nhất Của Lý Bạch Về Trăng với những khung cảnh thơ mộng của không gian từ ngàn năm trước xưa cũ luôn là điều bí ẩn để ta khám phá.
Vọng nguyệt hữu hoài
Tác giả: Lý Bạch
Vọng nguyệt hữu hoài
Thanh tuyền ánh sơ tùng,
Bất tri kỷ thiên cổ.
Hàn nguyệt dao thanh ba,
Lưu quang nhập song hộ.
Đối thử không trường ngâm.
Tư quân ý hà thâm.
Vô nhân kiến an đạo,
Hứng tận sầu nhân tâm.
Dịch nghĩa
Hàng thông thưa thớt soi bóng bên dòng suối trong,
Cảnh này không biết đã có từ bao nhiêu ngàn năm.
Làn sóng trong lay vỡ bóng trăng in trên mặt nước,
Ánh trăng lăn tăn lọt qua song vào nhà.
Trước cảnh đó ngâm suông một bài dài,
Nghĩ tới ông không biết ý ông sâu xa thế nào.
Không nhân tố nào thấy yên ổn,
Hứng thú hết, lòng người thấy buồn..
Dạ bạc Ngưu Chử hoài cổ
Tác giả: Lý Bạch
Ngưu Chử tây giang dạ,
Thanh thiên vô phiến vân.
Đăng chu vọng thu nguyệt,
Không ức Tạ tướng quân.
Dư diệc năng cao vịnh,
Tư nhân bất khả văn.
Minh triều quải phàm khứ,
Phong diệp lạc phân phân.
Dịch nghĩa
Đêm ở Ngưu Chử, mé tây sông Trường Giang
Thời xanh không một áng mây
Lên thuyền ngắm trăng thu
Không tưởng đến Tạ tướng quân
Tôi cũng hay cao giọng ngâm thơ
Mà (chờ) không biết có người nào nghe được không
Sáng mai buồm kéo lên lại đi
Lá phong rơi rụng lả tả
❤️️ Đọc nhiều hơn kho tàng thơ hay và ý nghĩa được chọn lọc tại SCR.VN 👉 2 Câu Thơ Về Cha Mẹ ❤️️