11+ Mẫu Phân Tích Lẽ Ghét Thương Ngắn Gọn, Hay Nhất. Tham Khảo Những Bài Văn Đặc Sắc Và Giàu Ý Nghĩa Được SCR.VN Tuyển Tập Dành Cho Độc Giả.
Giới thiệu bài thơ Lẽ Ghét Thương
Bài thơ “Lẽ Ghét Thương” là một đoạn trích nổi tiếng từ tác phẩm “Truyện Lục Vân Tiên” của tác giả Nguyễn Đình Chiểu, một nhà thơ lớn của văn học Trung đại Việt Nam. Bài thơ phản ánh quan điểm và tư tưởng của Nguyễn Đình Chiểu về tình yêu thương và lòng căm ghét đối với những hành động và nhân vật lịch sử.
Nội dung chính:
- Bài thơ bắt đầu bằng việc nhân vật ông Quán suy ngẫm về lịch sử và cảm thấy xót xa trước những biến cố.
- Ông Quán bày tỏ sự ghét bỏ đối với những kẻ hôn quân và bạo chúa, những người đã gây ra đau khổ cho dân chúng.
- Đồng thời, ông cũng thể hiện lòng thương cảm đối với những nhân vật lịch sử có đức độ và tài năng nhưng không được trọng dụng hoặc gặp nhiều trắc trở trong cuộc đờihttps://thohay.vn/le-ghet-thuong.html.
Đoạn thơ:
Quán rằng: “Kinh sử đã từng,
Coi rồi lại khiến lòng hằng xót xa.
Hỏi thời ta phải nói ra,
Vì chưng hay ghét cũng là hay thương.”
Tiên rằng: “Trong đục chưa tường,
Chẳng hay thương ghét, ghét thương lẽ nào?”
Quán rằng: “Ghét việc tầm phào,
Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tới tâm.
…
Thương là thương đức thánh nhân,
Khi nơi Tống, Vệ, lúc Trần, lúc Khuôn.
…
Xem qua kinh sử mấy lần,
Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương”.
Giá trị nghệ thuật:
- Bài thơ sử dụng lối thơ truyền thống với ngôn từ giản dị nhưng giàu hình ảnh và cảm xúc.
- Sự đan xen giữa “ghét” và “thương” trong bài thơ thể hiện sự phức tạp của tình cảm con người và quan điểm nhân văn sâu sắc của tác giả.
“Lẽ Ghét Thương” không chỉ là một bài thơ hay mà còn là một tác phẩm văn học phản ánh tư tưởng nhân đạo và lòng yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu. Nó cũng là một minh chứng cho tài năng và tâm hồn của ông, một nhà thơ luôn hướng về dân tộc và công lý.
Hướng Dẫn Cách Phân Tích Lẽ Ghét Thương
Cách phân tích Lẽ ghét thương là một câu hỏi khá phổ biến của các bạn học sinh khi học văn học Trung đại. Lẽ ghét thương là một đoạn trích nổi tiếng trong truyện thơ Lục Vân Tiên của tác giả Nguyễn Đình Chiểu, một nhà văn tiêu biểu của Nam Bộ. Đoạn trích kể lại cuộc đối thoại giữa ông Quán và bốn chàng Nho sinh về lẽ yêu ghét của một nhà nho khí tiết, đồng thời phản ánh tư tưởng yêu nước và nhân dân của tác giả.
Để phân tích Lẽ ghét thương, bạn có thể thực hiện các bước sau:
- Giới thiệu sơ lược về tác giả Nguyễn Đình Chiểu, hoàn cảnh sáng tác, nội dung và ý nghĩa nhan đề của truyện thơ Lục Vân Tiên.
- Trình bày nội dung của đoạn trích Lẽ ghét thương, bao gồm những điều ông Quán ghét và thương, cũng như mối quan hệ khăng khít giữa hai lẽ ghét thương.
- Phân tích giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích, bao gồm:
- Giá trị nội dung: Phản ánh tình cảm yêu ghét phân minh, tư tưởng yêu nước và nhân dân, quan điểm nghệ thuật của tác giả.
- Giá trị nghệ thuật: Sử dụng ngôn ngữ giàu hình ảnh, biểu tượng, bút pháp, âm điệu, cách sắp xếp câu thơ, bố cục bài thơ, cách thể hiện tâm trạng, quan điểm của tác giả.
- Tổng kết những điểm nổi bật, đặc sắc, giá trị nghệ thuật và nhân văn của đoạn trích.
Bạn có thể tham khảo một số ví dụ về cách phân tích Lẽ ghét thương được SCR.VN chia sẽ ở bên dưới.
Dàn Ý Phân Tích Lẽ Ghét Thương
Với dàn ý phân tích Lẽ ghét thương Nguyễn Đình Chiểu dưới đây, các em học sinh có thể định hướng cho mình bố cục và hệ thống luận điểm chính cho bài viết.
I. Mở bài phân tích Lẽ ghét thương:
- Vài nét về tác giả Nguyễn Đình Chiểu và truyện Lục Vân Tiên: Một tác giả tiêu biểu của Nam Bộ với quan niệm nghệ thuật: “Cở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm- Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”. Truyện Lục Vân Tiên là truyện thơ Nôm tiêu biểu
- Giới thiệu nội dung cần phân tích – đoạn trích Lẽ ghét thương: Đoạn thơ được trích từ câu 473 đến câu 504 kể lại cuộc đối thoại giữa ông Quán và bốn chàng Nho sinh về lẽ ghét thương
II. Thân bài phân tích Lẽ ghét thương:
1.Ông Quán bàn về lẽ ghét:
- Ông Quán xuất hiện đầu đoạn trích cho cảm nhận: thông kinh sử, bộc trực, thẳng thắn, yêu ghét phân minh rõ ràng ⇒ Là biểu trưng cho tính cách Nam bộ và tư tưởng nhà văn
- Đúc kết “Vì chưng hay ghét cũng là hay thương” : cội nguồn sự ghét là lòng thương ⇒ hai tình cảm đối lập nhưng thực chất là sự thống nhất. Đây là tuyên ngôn về lẽ yêu ghét của ông Quán
- Những điều ông Quán ghét: việc tầm phào, ghét Kiệt, Trụ mê dâm, đời U, Lệ đa đoan, ghét đời Ngũ Bá phân vân, đời thúc quý phân băng…
- Thực chất: ghét vua chúa đắm say tửu sắc, tàn bạo bất nhân, ăn chơi hưởng lạc, không chăm lo đến đời sống của dân, để triều đại suy tàn
+“Ghét đời”: ghét cả một đời, một triều đại, một chính quyền, một xã hội
+Điệp từ “ghét”: tăng sức mạnh cảm xúc
+Điệp từ dân: Cơ sở lẽ ghét chính là yêu dâm, lo cho dân
+Tác giả đã đứng về phía nhân dân, xuất phát từ quyền lợi của nhân dân để ghét. Cội nguồn của lẽ ghét chính là lẽ thương
2.Ông Quán bàn về lẽ thương:
-Khi bàn về lẽ ghét, ông Quán thường ghét cả một “đời”, khi bàn về lẽ thương,ông hướng vào những người cụ thể :
- Thương là thương đức thánh nhân.
- Thương thầy Nhan tử dở dang.
- Thương ông Gia Cát tài lành.
- Thương thầy Đổng tử cao xa.
- Thương người Nguyên Lượng ngùi.
- Thương ông Hàn Dũ chẳng may.
- Thương thầy Liêm, Lạc đã ra.
-Điệp từ “thương”: nhấn mạnh tình cảm đối với những người vì dân vì nước, cả đời bôn ba xuôi ngược, vất vả nhưng sự nghiệp không thành .
-Mối quan hệ khăng khít giữa hai lẽ ghét thương: “Nửa phần lại ghét nửa phần lại thương”: Càng yêu thương nhân dân, tiếc thương những người tài đức lại càng căm ghét những kẻ hại dân hại đời.
-Tình cảm bộc trực, chân thành mộc mạc. Thể hiện tình cảm, lẽ yêu ghét của người dân Nam Bộ nói chung.
3.Phân tích nét đặc sắc nghệ thuật trong đoạn trích “Lẽ ghét thương”:
- Điệp từ được sử dụng với tần suất lớn
- Đối từ: ghét >< thương, thương ghét >< ghét thương, lại ghét >< lại thương.
- Giàu chất chất tự thuật:
- Đặc biệt sử dụng nhiều điển tích, điển cố ⇒ nói được nhiều hơn trong sự giới hạn của ngôn từ thơ
III. Kết bài phân tích Lẽ ghét thương:
- Tổng kết lại những nét tiêu biểu về nội dung và nghệ thuật của đoạn trích
- Bài học bản thân về lẽ ghét thương rút ra từ đoạn trích
Cùng với phân tích Lẽ ghét thương, gửi đến bạn 🍃 Tóm Tắt Truyện Lục Vân Tiên 🍃 15 Bài Ngắn Gọn Hay Nhất
Phân Tích Lẽ Ghét Thương Hay Nhất – Mẫu 1
Đón được dưới đây bài văn mẫu phân tích Lẽ ghét thương hay nhất được chọn lọc và chia sẻ giúp các em học sinh hoàn thành tốt bài viết của mình.
Cuối thế kỉ XIX chế độ phong kiến nhà Nguyễn đang bước vào giai đoạn của những “cơn hấp hối”, triều chính rối ren. Đó là nguồn cảm hứng để các nhà văn, nhà thơ phản ánh hiện thực, hoàn thành sứ mệnh “người thư kí trung thành của thời đại”.
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà thơ, nhà văn tài ba sống trong giai đoạn ấy, bằng tài năng thi phú ông đã mượn chuyện bên Trung Hoa để tái hiện lại hiện thực xã hội đương thời và bộc lộ quan điểm, tư tưởng của mình qua những vần thơ. Đoạn trích “Lẽ ghét thương” trích trong truyện “Lục Vân Tiên” từ câu 473 đến câu 504 kể về cuộc nói chuyện giữa ông Quán và các nho sĩ trẻ tuổi, đồng thời thể hiện tình cảm chân thành thương ghét của tác giả.
Ông Quán trong đoạn trích là nhân vật tiêu biểu cho các nhà Nho ở ẩn. Ông bộc lộ suy nghĩ, tình cảm của mình trước việc đời mà ông chứng kiến. Đó là chuyện của bốn chàng nho sinh Bùi Kiệm, Trịnh Hâm, Tử Trực cùng bạn là Lục Vân Tiên. Họ uống rượu, thi tài làm thơ trong quán ông trước khi vào trường thi. Trịnh Hâm và Bùi Kiệm ba hoa, khoác lác bị thua còn nghi oan cho Lục Vân Tiên và Tử Trực gian lận. Nhân sự việc đó ông Quán bàn về lẽ ghét thương ở đời.
Nhân vật ông Quán tuy là nhân vật phụ nhưng đoạn trích này có thể coi ông là người phát ngôn cho tư tưởng của tác giả. Bốn câu thơ đầu là tuyên ngôn về lẽ ghét thương của ông Quán:
“Quán rằng kinh sử đã từng
Coi rồi lại khiến lòng hằng xót xa
Hỏi thời ta phải nói ra
Vì chưng hay ghét cũng là hay thương”.
Một con người học rộng tài cao như Đồ Chiểu ngoài hai mươi tuổi đã thi đậu tú tài, giữa lúc tương lai rộng mở với đầy những hứa hẹn thì mẹ mất, mắt thì bị mù sau về quê dạy học và làm nghề thuốc. Chính vì vậy mà việc tinh tường những sự việc trong sách sử khiến lòng mình đau đớn, xót xa.
Ông nêu lên mối quan hệ khăng khít giữa ghét và thương. Ông ghét không phải vì danh vì lợi của bản thân, mà ghét vì “Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”, “Vì chưng hay ghét cũng là hay thương” ông ghét là bởi vì ông thương quá nhiều, vì tấm lòng thương yêu đồng loại ghét bọn gian tà, cậy quyền cậy thế ức hiếp người khác. Như vậy ghét trong quan niệm của ông Quán cũng là một biểu hiện của thương, lòng thương ở đây đạt đến mức cực đại vì thương quá nhiều mà sinh ra ghét vô cùng.
Bốn câu tiếp là tình cảm yêu ghét rõ ràng của ông Quán được bộc lộ:
Tiên rằng: “Trong đục chưa tường
Chẳng hay thương ghét, ghét thương lẽ nào
Quán rằng ghét việc tầm phào
Ghét cay ghét đắng ghét vào tận tâm”
Khi được Vân Tiên hỏi chuyện về lẽ ghét thương ở đời là như thế nào? Ông thẳng thắn bày tỏ quan điểm, suy nghĩ của mình. Ông “ghét việc tầm phào” là những việc vớ vẩn, bậy bạ, vô nghĩa. Ông “ghét cay ghét đắng ghét vào tận tâm” chỉ với một câu thơ lục bát mà đến bốn lần từ “ghét” được lặp lại và lối diễn đạt tăng cấp thể hiện rõ mức độ căm ghét đến tột cùng, cực điểm của ông Quán.
Ông cụ thể hóa việc ghét là ghét ai, ghét những việc như thế nào và ghét là vì ai?
“Ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm
…Sớm đầu tối đánh lằng nhằng rối dân”
Mỗi một cặp câu lục bát là tác giả trích dẫn những con người những sự việc từ đời nhà Hạ, Thương bên Trung Quốc với điệp cấu trúc “Ghét đời…”. Những điển tích, điển cố được sử dụng thật tài tình và có dụng ý riêng, tác giả mượn chuyện bên Tàu mà nói chuyện bên ta làm nổi bật đặc trưng của thơ ca trung đại “Ý tại ngôn ngoại” (ý ở ngoài lời). Ông ghét ở đây là vì ai? Vì một chữ “dân” tất cả những sự việc trên của mỗi triều đại làm đều tổn hại cho dân.
Nguyễn Đình Chiểu phải là một người yêu nước thương dân đến vô cùng, ông ghét vì xuất phát từ quyền lợi của những người dân nghèo. Ghét những kẻ phá hoại của dân, làm nhũng nhiễu đời sống nhân dân, đẩy họ vào cuộc sống lầm than cơ cực. Đồ Chiểu sống dưới đời vua Tự Đức với chế độ chuyên chế tàn bạo, vua chúa ăn chơi xa xỉ, thuế má nặng nề, quan lại tham nhũng, thời đại ấy “Trời ảm đạm u sầu. Cảnh hoang tàn đói rét. Dân nghèo cùng kiệt” khiến cho lòng dân căm phẫn mà nổi dậy phản kháng.
Nguyễn Đình Chiểu một nhà nhân đạo luôn đứng trên lập trường, quyền lợi nhân dân cất lên tiếng nói của lòng dân. Thơ ca của ông đúng như câu thơ:
“Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”
Nếu tám câu thơ trên nêu rõ những việc của các triều đại mà ông Quán ghét thì mười bốn câu thơ tiếp theo chỉ ra những người và những lí do mà ông Quán thương:
“Thương là thương đức thánh nhân
… Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân”
Mỗi con người, mỗi nhân vật được tác giả nhắc đến đều là những người xưa, những người hiền tài nhưng gặp phải thời thế bất trắc, số phận long đong không thể đem hết tài năng của mình để cống hiến, phục vụ cho đất nước.
Ấy là Khổng Tử thì lận đận trong con đường truyền đạo và giáo hóa dân chúng của mình nay nơi này mai nơi nọ, là Nhan Uyển thì chết yểu, là Gia Cát Lượng tài ba lại không gặp đúng thời thế, Đổng Tử là Đổng Trọng Thư “Có thời có chí, ngôi mà không ngôi” ông ra làm quan mà không được trọng dụng tài năng của mình, thương cho Đào Tiềm không ham, không chịu được nỗi nhục chốn quan trường mà lui về ở ẩn để gìn giữ khí tiết, là thương cho Hàn Dũ vì dâng biểu khuyên vua không nên quá tin đạo Phật mà bị tội, bị đày đi xa, thương cho thầy Liêm, Lạc “bị lời xua đuổi về nhà giáo dân”.
Những con người, những sự việc ấy đều được tác giả chọn lọc với những chi tiết điển hình, lối diễn đạt sinh động và cách sử dụng điệp từ “thương ông”, “thương thầy” đã để lại được ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả.
Cũng như tám câu trên tác giả thương cho những con người tài năng lỗi lạc trước đây cũng là thương cho những người tài đức vẹn toàn thời nay mà không được trọng dụng như Cao Bá Quát có tài năng, có ý chí nhiều lần đi thi nhưng không ít lần bị đánh trượt, như Bùi Hữu Nghị cương trực nhưng vẫn phải vào ngục tù, như Nguyễn Công Trứ một lòng với nước với dân nhưng lại trở thành trò cười của thiên hạ…
Thương người cũng là thương mình, thốt nên lời căm ghét cho nhân dân cũng là nói lên nỗi lòng của chính mình. Nguyễn Đình Chiểu là một con người học rộng tài cao với bao ước mơ, hoài bão lập thân nhưng vừa bước chân vào đời ông đã gặp bao nỗi bất hạnh, gian truân.
Nguyễn Đình Chiểu ghét triều đại bên Trung Hoa, thương cho những tiền nhân dù là chỉ “Xem qua kimh sử mấy lần/ nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương” nhưng cũng là để phản ánh thực trạng trong thời đại ông đang sống một triều đại thối ruỗng, mục nát với bao điều nguy hại cho dân. Quan điểm thương ghét của ông Quán cũng như nỗi lòng của tác giả đều xuất phát từ lợi ích của nhân dân, từ tấm lòng thương dân, thương đời.
Đoạn trích với những nét nghệ thuật đặc sắc như sử dụng điệp từ, điệp cấu trúc, lối diễn đạt linh hoạt, ngôn ngữ mộc mạc, giản dị gần với lời ăn tiếng nói hằng ngày của nhân dân, sử dụng nghệ thuật tiểu đối, đối từ ngữ trong câu: Vì chưng hay ghét <> cũng là hay thương, sa hầm <> sẩy hang, sớm đầu <> tối đánh, chí thời có chí <> ngôi mà không ngôi, sớm dâng lời biểu <> tối đày đi xa,… làm cho câu thơ có vần có nhịp, bộc lộ được thái độ ghét thương rõ ràng của tác giả.
Đoạn trích “Lẽ ghét thương” tác giả mượn lời ông Quán bày tỏ nỗi lòng, suy nghĩ, tình cảm, thể hiện quan điểm thương ghét của mình trước người đời việc đời. Ẩn sau lớp vỏ ngôn từ của văn chương là cả một tấm lòng nhân đạo cao cả của nhà thơ mù. Theo đánh giá của Phạm Văn Đồng “Nguyễn đình Chiểu – ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc”.
Bên cạnh phân tích Lẽ ghét thương, gợi ý cho bạn ☔ Sơ Đồ Tư Duy Lục Vân Tiên Cứu Kiều Nguyệt Nga ☔ 9 Mẫu Ngắn Gọn
Phân Tích Lẽ Ghét Thương Ngắn Gọn – Mẫu 2
Tham khảo dưới đây bài phân tích Lẽ ghét thương ngắn gọn giúp các em học sinh tham khảo những ý văn súc tích và giàu ý nghĩa biểu đạt.
Nguyễn Đình Chiểu nhà thơ lớn, ngôi sao sáng của văn học dân tộc. Các tác phẩm của ông được người dân Nam Bộ đặc biệt yêu mến và đón nhận bởi lẽ đó chính là tâm hồn, là cốt cách trong con người họ. Tác phẩm lớn nhất trong sự nghiệp Nguyễn Đình Chiểu chính là Lục Vân Tiên với những quan điểm, tư tưởng về con người, xã hội. Đặc biệt trong đoạn trích “Lẽ ghét thương” thông quan nhân vật ông Quán, Nguyễn Đình chiểu đã thể hiện quan điểm lẽ ghét, lẽ thương đáng ngưỡng mộ.
Đoạn trích Lẽ ghét thương được trích từ câu 473 đến câu 504, kể về cuộc nói chuyện giữa ông Quán và các nho sĩ trẻ tuổi. Trong quán trọ, bốn nhân vật Lục Vân Tiên, Tử Trực, Trịnh Hâm và Bùi Kiệm gặp nhau. Tại đây Trịnh Hâm đề nghị mọi người làm thơ để phân chia thứ bậc. Trong cuộc đua tranh đó Vân Tiên tỏ ra vượt trội hơn cả, khiến cho Trịnh Hâm vô cùng tức giận và đổ cho Vân Tiên chơi gian. Trong bối cảnh đó ông Quán đã ra nói chuyện và bàn về lẽ ghét thương ở đời.
Mở lời ông Quán tự giới thiệu về chính mình:
Quán rằng: Kinh sử đã từng
Coi rồi lại khiến lòng hằng xót xa.
Hỏi thời ta phải nói ra,
Vì chưng hay ghét cũng là hay thương
Ông Quán vốn cũng là một kẻ sĩ tử, khi xưa dùi mài kinh sử với mơ ước công danh và giúp ích cho đời. Nhưng có lẽ vì những biến cố trong cuộc đời, xã hội mà ông đã lui về ở ẩn. Nhưng cái hồn cốt của một kẻ sĩ thì mãi mãi không bao giờ mất đi. Ông Quán chính là hình ảnh tiêu biểu cho những nhà Nho tài giỏi như lui về ở ẩn, sống cuộc đời an nhàn, ung dung, tự tại, hòa mình với thiên nhiên. Có thể coi ông Quán là người phát ngôn cho những tư tưởng của tác giả.
Qua câu nói: “Vì chưng hay ghét cũng là hay thương” đã cho thấy mối quan hệ gắn bó khăng khít giữa hai thứ tình cảm đối lập này: ghét – thương. Hai trạng thái cảm xúc tuy đối lập nhưng luôn tồn tại song song với nhau, người ta ghét những điều tầm thường, giả dối cho nên mới thương những điều nhân ái, tốt đẹp. Bởi vậy chúng luôn tồn tại và không tách rời nhau.
Trước những lời nói đó, Vân Tiên tỏ ra hết sức khiêm nhường, mong muốn nghe được lời truyền đạt, chỉ dạy của bậc tiền bối: “Tiên rằng: Trong đục chưa tường/ Chẳng hay thương ghét, ghét thương thế nào?”. Có lẽ một người tài giỏi, thông minh như Vân Tiên đã tỏ tường lẽ ghét thương ở đời. Nhưng vốn là một nho sinh khiêm tốn, Vân Tiên đã rất khiêm mình để được nghe những lời bày tỏ, chỉ bảo từ ông Quán.
Những câu thơ tiếp theo tác giả thể hiện những điều mình ghét: “Quán rằng: ghét việc tầm phào/ Ghét cay, ghét đắng ghét vào tận tâm./ Ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm/ Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang… Sớm đầu tối đánh lằng nhằng rối dân”. Cái mà ông Quán ghét chính là chế độ thối nát, vua chúa bạo tàn, chiến tranh xảy ra liên miên khiến cho đời sống người dân vô cùng cực khổ.
Có thể thấy mỗi cái ông ghét luôn đi kèm với hệ quả của những triều đại đó, ví như ghét đời Kiệt Trụ, vì mê dâm nên khiến nhân dân “sa hầm sẩy hang”. Những lí lẽ, dẫn chứng hết sức cụ thể và ngắn gọn như một bản tổng kết lịch sử súc tích về các triều đại thối nát của Trung Quốc. Cái ông ghét rất rõ ràng, mạch lạc, đó là những điều khiến nhân dân khổ cực, nhũng nhiễu làm hại đến người dân đều khiến ông ghét. Điều khiến ông ghét gắn bó sâu sắc với lòng thương dân, yêu dân sâu nặng.
Còn điều ông thương là gì? “Thương là thương đức thánh nhân/ Khi nơi Tống, Vệ lúc Trần, lúc Khuông/ …/ Thương thầy Liêm, Lạc đã ra/ Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân”. Nếu như ở phần trên, khi nói về lẽ ghét giọng điệu ông Quán đầy căm tức với những Trụ, Kiệt, U, Lệ,… đã hại dân thì đến đây giọng và nhịp thơ như trùng xuống, trìu mến và thiết tha hơn.
Những cái tên ông nhắc đến: Khổng Tử, Nhan Hồi, Trình Di, Đào Tiềm, Hàn Dũ,… đây đều là những nhân vật có đức, có tâm, có tài nổi tiếng trong lịch sử. Họ là người tài giỏi có tấm lòng ôm trùm thiên hạ, cả một đời cống hiến cho đời nhưng cuộc sống của họ lại vô cùng truân chuyên, vất vả. Ông thương là thương những người có đức, có tài nhưng cuộc sống gặp nhiều khó khăn. Lòng thương gắn liền với tấm lòng trân trọng và yêu quý người tài. Và cũng từ chính lẽ thương ấy, ông Quán đã rút ra chiêm nghiệm cho chính mình:
Xem qua kinh sử mấy lần,
Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương.
Tác phẩm được viết bằng thứ ngôn tư giản dị, mộc mạc nhưng giàu sức biểu cảm. Sử dụng thủ pháo đối lập: sa hầm đối với sẩy hang, sớm đầu đối với tối đánh,… làm cho nhịp thơ linh hoạt, nhịp nhàng hơn. Nghệ thuật điệp ngữ: thương ông, thương ông lặp lại nhiều lần có tác dụng trong việc diễn tả lẽ ghét thương của tác giả.
Lẽ ghét thương là đoạn trích thể hiện tập trung nhất tư tưởng, quan điểm của Nguyễn Đình Chiểu qua nhân vật ông Quán. Ông có lòng yêu dân, thương dân sâu sắc, bởi vì thương dân nên ông càng ghét hơn lũ hôn quân bạo chúa, chuyên làm điều bạo ngược với dân lành. Đằng sau những vần thơ thống thiết ta thấy được tấm lòng nhân ái, nhân đạo sâu sắc của trái tim bao la – Nguyễn Đình Chiểu.
Có thể bạn sẽ thích 🌼 Phân Tích Chạy Giặc 🌼 8 Mẫu Phân Tích Bài Thơ Hay Nhất
Phân Tích Lẽ Ghét Thương Chi Tiết – Mẫu 3
Bài văn mẫu phân tích Lẽ ghét thương chi tiết dưới đây sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích dành cho các em học sinh trong quá trình làm bài.
Truyện thơ Lục Vân Tiên được sáng tác vào đầu những năm 50 của thế kỷ XIX, được viết sau khi Nguyễn Đình Chiểu bị mù, rồi quay trở về quê bốc thuốc, chữa bệnh cứu người và hành nghề dạy học ở miền Lục tỉnh. Nội dung truyện thơ xoay quanh xung đột giữa thiện và ác, qua đó đề cao tinh thần nhân nghĩa, thể hiện khát vọng lý tưởng về một xã hội tốt đẹp, con người với con người đối xử với nhau bằng tình yêu thương, nhân ái.
Thuộc thể loại truyện Nôm bác học nhưng lại mang yếu tố dân gian rất rõ. Đoạn trích Lẽ ghét thương nằm từ câu số 473 đến câu 504 của truyện thơ Lục Vân Tiên, xuất phát từ việc trên đường vào kinh ứng thí Lục Vân Tiên, Vương Tử Trực, cùng với Trịnh Hâm, Bùi Kiệm đã nghỉ trọ tại nhà ông Quán, ở đây cả bốn người đã so tài làm thơ.
Khi mà Trịnh Hâm và Bùi Kiệm tỏ ý nghi ngờ hai người Vân Tiên và Tử Trực sao chép thơ của người khác làm của mình, thì ông Quán đã mắng cho hai người này một trận. Sau đó Vương Tử Trực đã hỏi ông Quán về kinh sử, thì ông đã đáp lại lời của Tử Trực bằng chính đoạn trích Lẽ ghét thương, thể hiện quan điểm của bản thân về lẽ thương ghét trên đời.
Nhân vật ông Quán là nhân vật nằm trong lực lượng phù trợ cho nhân vật chính trên con đường thực hiện nhân nghĩa, mang dáng dấp của một nhà nho đi ở ẩn, mặt khác lại mang cả những nét tính cách đậm chất người Nam bộ. Ông chính là người phát ngôn tư tưởng của Nguyễn Đình Chiểu, mà ở trong đoạn trích này là tư tưởng yêu ghét phân minh.
Trong quan niệm của ông Quán mối quan hệ giữa ghét và thương được thể hiện ở hay câu thơ “Vì chưng hay ghét cũng là hay thương” và câu cuối đoạn trích “Nửa phần là ghét nửa phần lại thương”. Từ đó ta nhận thấy rằng ghét và thương có mối quan hệ chặt chẽ, là hai mặt đối lập của một tình cảm thống nhất, thương cái tốt đẹp thì tất yếu phải ghét cái xấu xa, đó là mối quan hệ hai chiều không thể tách rời nhau.
Mà cụ thể trong đoạn trích này, sự yêu thương thể hiện ở đối tượng thứ nhất là nhân dân lầm than khổ cực, thứ hai là những người tài cao đức trọng nhưng bị vùi dập. Chính vì yêu thương những đối tượng này nên mới ghét những kẻ hại dân hại đời, đẩy con người vào tình cnahr oan trái, éo le, nghịch cảnh. Như vậy có thể thấy rằng mối quan hệ giữa ghét và thương gắn liền với lý tưởng yêu nước thương dân ở Nguyễn Đình Chiểu.
Cụ thể lẽ ghét được ông Quán trình bày trong những câu thơ.
“Quán rằng: Ghét việc tầm phào
Ghét cay ghét đắng ghét vào tận tâm
Ghét đời Kiệt Trụ mê dâm
Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang
Ghét đời U, Lệ đa đoan
Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần
Ghét đời ngũ bá phân vân
Chuộng bề dối trá làm dân nhọc nhằn
Ghét đời thúc quý phân băng
Sớm đầu tối đánh lằng nhằng rối dân”
Trong hai câu thơ đầu tiên tác giả sử dụng điệp từ “ghét” lặp lại tận 4 lần để khắc sâu, nhấn mạnh cảm xúc ở thang bậc cao nhất, ghét như dao khắc vào đá, in sâu vào tận tâm khảm, mà đối tượng chung ở đây là “ghét việc tầm phào”, ý chỉ những việc nhỏ nhen, vô bổ, mà ở trong ngữ cảnh này thì có nghĩa là những việc xằng bậy, hoang đường có hại cho nhân dân.
Sau đó ở tám câu thơ sau tác giả đã cụ thể hóa những đối tượng mình ghét và đi vào lý giải nguyên do mình ghét, sử dụng cấu trúc chung “ghét – đối tượng ghét – đặc điểm của đối tượng ghét và hậu quả gây ra cho nhân dân”, cách liệt kê rạch ròi như thế đã góp phần thể hiện được rõ nét đức tính bộc trực thẳng thắn của người dân Nam Bộ, cũng như là của tác giả Nguyễn Đình Chiểu.
Từ lịch sử Trung Quốc, ông Quán đã dẫn ra một loạt các nhân vật nổi tiếng trong lịch sử để làm ví dụ cho cái lẽ ghét của mình, đầu tiên là ghét vua Kiệt của nhà Hạ, vua Trụ của nhà Thương, vốn là những kẻ đa dâm háo sắc, sống phóng túng, xa hoa lãng phí, bạo ngược vô đạo đẩy nhân dân vào những nỗi “sa hầm sẩy hang”. Thứ hai là ghét U Vương, Lệ Vương vốn là hai vị vua nổi tiếng hoang dâm, lại lắm trò “đa đoan” rắc rối, khiến nhân dân nhiều phen khốn đốn, lầm than vô cùng.
Thứ ba là ghét đời “ngũ bá” tức chỉ năm nước chư hầu thời Xuân Thu chiến quốc vì quyền lực, dựa vào sức mạnh quân sự mà thay nhau lên làm chủ bằng chiến tranh, gây ra nhiều nhiễu loạn, khiến đời sống nhân dân bị đảo lộn. Cuối cùng là ghét “đời thúc quý phân bằng”, ý chỉ cảnh suy tàn, diệt vong của đất nước, dẫn đến viễn cảnh loạn lạc, lằng nhằng, cuộc sống nhân dân rơi vào cảnh hoang mang, khốn khổ vô cùng.
Và sau những điều ghét ấy, ta có thể nhận ra được rằng ẩn đằng sau những nỗi ghét cay ghét đắng ấy là tấm lòng yêu nước thương dân sâu sắc, tấm lòng nhân nghĩa mong cảnh bình yên, là nỗi xót xa cho khốn cảnh của nhân dân dưới sự cai trị thối nát, bạo ngược của những kẻ cầm quyền tàn ác, hoang đường, của ông Qúy hay cũng là của chính tác giả Nguyễn Đình Chiểu.
So với những lẽ ghét, thì điều thương của ông Quán được thể hiện ở 14 câu thơ tiếp, nhiều hơn hẳn 4 câu so với lẽ ghét.
“Thương là thương đức thánh nhân
Khi nơi Tống, Vệ lúc Trần, lúc Khuông
Thương thầy Nhan Tử dở dang
Ba mươi mốt tuổi tách đàng công danh
Thương ông Gia Cát tài lành
Gặp cơn Hán mạt đã đành phôi pha
Thương thầy Đổng Tử cao xa
Chí thời có chí, ngôi mà không ngôi
Thương người Nguyên Lượng ngùi ngùi
Lỡ bề giúp nước lại lui về cày
Thương ông Hàn Dũ chẳng may
Sớm dâng lời biểu tối đày đi xa
Thương thầy Liêm Lạc đã ra
Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân”.
Ở phần này giọng điệu của ông Quán trở nên nhẹ nhàng, có phần thương cảm tiếc nuối cho những đức thánh nhân mà ông cho là đáng được thương, được yêu. Tác giả tiếp tục sử dụng loại cấu trúc tương tự như ở mười câu lẽ ghét, chỉ khác mỗi chữ “ghét” thay vào bằng chữ “thương”, thành cấu trúc “thương – đối tượng – đặc điểm – hậu quả”. Tiếp tục vận dụng vốn hiểu biết của mình về lịch sử cũng như các nhân vật nổi tiếng trong lịch sử, tiêu biểu cho lẽ thương, ông Quán đã dẫn ra những ví dụ điển hình thể hiện quan niệm thương của mình.
Ông thương là thương “đức thánh nhân” Khổng Tử là người sáng tạo ra Nho giáo, dù bản thân ông đã cố gắng đi khắp nơi truyền đạo nhưng không thành, cuối cùng đành phải quay về dạy học, chỉ mãi đến sau này người ta mới dần trân trọng và xem học thuyết Khổng Tử là một kho tàng có giá trị vô cùng to lớn. Thứ hai là thương “thầy Nhan Tử”, dù học hành giỏi giang nhưng lại yểu mệnh chết sớm.
Thương Gia Cát Lượng, vị quân sư tài ba, thế nhưng lại không gặp thời, cuối cùng đành chấp nhận chôn vùi tài năng theo sự diệt vong của nhà Hán, đến tận chết chí nguyện vẫn không thành. Thương cả “Đổng Tử”, “Nguyên Lượng” đều là những người có tài năng, mong muốn được đứng ra giúp nước thế nhưng trái nỗi không được vua trọng dụng, cuối cùng đành chịu lui về ở ẩn bên đồng ruộng ao cá, chôn vùi tài năng một đời.
Thương cả “Hàn Dũ”, “Liêm, Lạc” vốn dĩ có lòng can gián, nguyên ngăn vua làm điều thất đức, cuối cùng lại bị bạo quân bác bỏ, kẻ chịu lưu đày, kẻ may mắn hơn thì chấp nhận lui về vườn dạy học, sống kiếp bình tâm đến hết đời. Tổng kết lại, lẽ thương của ông Quán, chính là thương những con người tài năng đức độ, thế nhưng không gặp thời, hoặc bị kẻ gian hãm hại, vua bạc nhược không trọng dụng, dẫn tới tài năng bị phôi pha, thương là thương cái đức độ, tài năng ngời ngời mà phải chịu uổng phí, phôi pha.
Và sâu trong niềm thương cảm ấy, cũng ẩn chứa những nỗi ghét, ghét thời thế loạn lạc, ghét những kẻ gian thần giỏi nịnh bợ, ghét cả thứ vua hoang dâm vô đạo, bạc nhược ngu dốt, không chỉ đẩy nhân dân và bước đường khốn khổ, mà còn đẩy những con người muốn cống hiến tài năng, xây dựng đất nước và bước đường tàn lụi, để đất nước diệt vong theo.
Đoạn trích Lẽ ghét thương đã bộc lộ rõ quan điểm yêu nước, thương dân sâu sắc thông qua quan niệm ghét – thương của ông Quán, từ đó thể hiện tấm lòng nhân nghĩa, tư tưởng nhân đạo, mong muốn cho nhân dân một cuộc sống tốt đẹp, con người đối xử với nhau bằng chữ “nghĩa”, bằng tình yêu thương chan hòa, cao thượng.
Với lời thơ thẳng thắn, bộc trực, thể thơ lục bát dân tộc giản dị, kết hợp với các yếu tố lịch sử, các nhân vật nổi tiếng, nội dung và ý nghĩa của bài thơ dễ dàng xâm nhập và để lại trong lòng những ấn tượng sâu sắc về tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước thương dân của tác giả Nguyễn Đình Chiểu.
Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất
Phân Tích Lẽ Ghét Thương Học Sinh Giỏi – Mẫu 4
Tham khảo tài liệu văn phân tích Lẽ ghét thương học sinh giỏi dưới đây với những ý văn phân tích chuyên sâu và đặc sắc.
Ở Nam kì, khi nhắc tới Lục Vân Tiên thì có lẽ không ai là không biết! Đây là một tác phẩm xuất sắc của Nguyễn Đình Chiểu được sáng tác vào những năm 50 của thế kỉ XIX, khi mà ông đã bị mù, về dạy học và bốc thuốc cứu người cho nhân dân vùng Gia Định.
Tác phẩm là cuộc xung đột gay gắt giữa cái thiện và cái ác, đề cao nhân nghĩa, khát vọng của nhân dân về một xã hội tốt đẹp, công bằng, con người sống với nhau bằng lòng yêu thương nhân ái. Trong tác phẩm này có đoạn trích Lẽ ghét thương là một trong những đoạn trích xuất sắc nhất của tác phẩm Lục Vân Tiên.
Đoạn trích Lẽ ghét thương nằm từ câu 473 đến 504 của tác phẩm Truyện Lục Vân Tiên kể về cuộc đối thoại giữa ông Quán và bốn chàng Nho sinh (Vân Tiên, Tử Trực, Trịnh Hâm, Bùi Kiệm) khi họ đang cùng uống rượu, cùng so thơ tại quán của ông trước lúc vào trường thi. Tại cuộc so tài này, ông Quan đã bày tỏ quan điểm của mình về lẽ ghét thương của mình trong cuộc đời.
Ông Quán là một nhân vật rất được yêu thích trong Truyện Lục Vân Tiên, bởi ông là biểu trưng cho tình cảm của nhân dân, là biểu tượng cho sự ghét thương rạch ròi của quần chúng. Ông mang dáng dấp của một nhà Nho ẩn dật, như Nguyễn Đình Chiểu, mang đậm những nét tính cách đặc trưng của người Nam bộ.
Trong những lời dạy của ông Quán, một nửa trong số đó là lẽ ghét, một nửa là lẽ thương, đúng như câu kết của ông rằng: “Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương”. Và cũng từ đó, ta nhận ra được rằng ghét thương luôn song hành với nhau, thương cái tốt cái đẹp, ghét cái xấu, cái ác. Ở đoạn trích này, ông Quán đã bày tỏ sự ghét bỏ với những kẻ hại dân, đẩy nhân dân vào cảnh lầm than, trái lại, ông thương những con người tài đức, nhưng lại vùi dập thảm hại.
Mở đầu đoạn trích, ông Quán đã bày tỏ lời bộc bạch của mình:
“Quán rằng: “Kinh sử đã từng
Coi rồi lại khiến lòng hằng xót xa
Hỏi thời ta phải nói ra
Vì chưng hay ghét cũng là hay thương”.
Đây là những lời tự bộc của ông sau khi nghe Vân Tiên nói về lẽ ghét thương ở đời của mình. Lẽ ghét thương vốn đã được kinh sử ghi lại, những người học chữ Thánh hiền chắc hẳn đã từng đọc qua mà xót xa cho những điều đau đớn. Nhờ lời của Vân Tiên, ông Quán mới cởi tấm lòng mình mà bộc bạch “Vì chưng hay ghét cũng là hay thương”.
Thấy ông Quán cởi lòng, chàng Vân Tiên cũng tiếp lời ông lão:
“Tiên rằng: ‘Trong đục cho tường
Chẳng hay thương ghét, ghét thương lẽ nào?”
Đây chính là những lời khơi gợi, khiến cho lão Quán như cởi được tấm lòng mình mà tiếp lời Tiên về lẽ ghét thương ở đời. Trước tiên, ông nói về lẽ ghét:
“Quán rằng: ‘Ghét việc tầm phào
…
Sớm đầu tối đánh lằng nhằng rối dân”.
Hai câu thơ đầu tiên về lẽ ghét, Nguyễn Đình Chiểu đã cho ông Quán dùng tới bốn từ “ghét” để nhấn mạnh, để khắc sâu cái cảm giác ghét. Lời thơ thì mang sắc thái nhẹ nhàng “ghét việc tầm phào” thế nhưng ngữ điệu của nhân vật thì đã lên tới đỉnh điểm của sự ghét.
Ông ghét “những việc tầm phào” đó là chỉ những việc nhỏ nhen, xằng bậy, ích kỉ, hoang đường làm hại đến người dân. Đó là những việc mà Quán ghét đến mức khắc sâu mà trong tận tâm can mình. Ở đây, người ta thoáng thấy bóng dáng của Nguyễn Đình Chiểu – một nhà Nho yêu nước, ghét bỏ cái thói ăn chơi sa đọa của vua chúa thời đó.
Sau khi nêu lên quan điểm của mình về lẽ ghét, ông mới liệt kê ra một loạt những dẫn chứng, cụ thể hóa những lẽ ghét của mình. Cấu trúc thơ được lặp lại “ghét đời… ” cùng với đối tượng ghét và câu sau nêu lên những hậu quả mà chúng đã gây nên cho nhân dân.
Cách nói bộc trực, thẳng thắn, không hoa mỹ như chính tính cách của những con người miền Nam. Từ sách sử Trung Quốc, ông Quán nêu ra hàng loạt những nhân vật nổi tiếng, đã gây ra tai họa cho nhân dân vì sự ích kỉ, tham lam, u mê của mình, ông lấy đó làm dẫn chứng cho lẽ ghét của mình với lời lẽ đanh thép, lên án.
Ông “ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm”, đây là hai tên hôn quân mà ông dẫn ra làm chứng đầu tiên cho lẽ ghét của mình. Hai tên vua bạo ngược, vô đạo trong lịch sử Trung Quốc đã khiến cho dân chúng “sa hầm sảy hang”, phải chịu bao đau thương, tang tóc của chiến tranh loạn lạc. Ông còn ghét hai tên vua “U, Lệ đa đoan”, không chỉ tàn bạo mà còn hoang dâm khiến cho dân chúng muôn phần khốn khổ.
Ông ghét thời “ngũ bá phân tranh”, vì lòng tham, ích kỉ mà kết bè kéo cánh gây lên cảnh chiến tranh liên miên, loạn lạc khiến dân chúng phải điêu đứng. Có thể thấy rằng mỗi điều mà ông Quán “ghét cay ghét đắng” đều được dựa trên tình yêu nước thương dân nồng nàn, có yêu nước, có thương dân chúng, ông mới ghét “vào tận tâm” những kẻ vô lương tâm, sống trên sự áp bức dân nghèo. Ông cũng xót xa cho cảnh dân chúng lầm than khi phải sống dưới sự cai trị độc ác, tàn bạo của lũ vua chúa bạo ngược, vô đạo.
Lẽ ghét mà ông Quán thì là thế, vậy còn “nửa thương” thì sao? Cũng như lẽ ghét, lẽ thương được ông Quán trình bày bằng những ví dụ cụ thế, nhưng lại là mười bốn câu thơ, hơn hẳn lẽ ghét bốn câu.
“Thương là thương đức thánh nhân
…
Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương”
Vẫn với những lời lẽ như ở phần ghét, vẫn là cấu trúc câu như thế, thế nhưng ở phần thương này, giọng điệu ông Quán trở lại hiền từ, dịu dàng chứ không còn đanh thép như lẽ ghét. Ông Quán đã vận dụng hết những kiến thức của mình để lấy dẫn chứng, ví dụ về lẽ thương ở đời cho bốn chàng sĩ tử nghe. Những nhân vật nổi tiếng trong nền văn hóa Trung Hoa được ông nêu lên làm ví dụ cho những chàng trai trẻ như thầy Nhan Tủ, như ông Gia Cát, …
Với ông, ông thương những bậc “đức thánh nhân” hiền từ như Khổng Tử, dùng hết nhân trí của mình để sáng tạo ra nền Nho giáo – nền tảng tinh thần của xã hội Trung Hoa, thứ mà sau này người ta đã dùng để tuyển chọn những người tài cho đất nước. Khổng Tử sáng tạo ra Nho giáo, còn hết lòng hành đạo để truyền bá “khi nơi Tống, Vệ, lúc Trần, lúc Khuông”, ấy vậy mà chẳng thành, đành về nhà dạy học, trở thành một thầy giáo bình thường.
Mãi đến tận sau này, khi Khổng Tử đã ra đi, người ta mới thấy được những giá trị cốt lõi, những tư tưởng triết lý ẩn sâu trong từng lời dạy của ông. Thế nên, ông Quán thương cho bậc “đức thánh nhân” ấy! Ông còn thương “thầy Nhan Tử” – một người học trò đức hạnh nhất của đức thánh nhân Khổng Tử, những tưởng sẽ xây dựng lên công danh lớn, chẳng ngờ lại yểu mệnh, chết oan. Ông thương cho “Gia Cát” – người quân sư tài ba cho Hán Cao Tổ Lưu Bang, tài giỏi là thế, ấy nhưng lại đành chôn vùi mộng lớn theo sự diệt vong của nhà Hán.
Ông thương cho “Nguyên Lượng”, cho “Đổng Tử” – những vị quan thanh liêm, tài giỏi, hết lòng phò vua, ấy vậy mà chẳng gặp thời đành bất đắc chí trở về quê nhà với ruộng vườn, ao cá, chôn vùi tài năng cả một đời. Ông thương cho “Hàn Dũ”, cho “thầy Liêm, Lạc” – những bậc anh hùng tài hoa của đất nước Trung Quốc, chỉ vì can gián vua, ngăn vua không làm điều trái đạo đức mà kẻ thì bị “đày đi xa”, kẻ thì bị phế chức vụ, đuổi về quê nhà.
Những lẽ thương của ông Quán là thương cho những bậc anh hùng tài hoa nhưng có số phận chông chênh, éo le, bất đắc chí, không gặp thời, từ đó, cái tài cái chí bị thời gian làm phôi pha, mai một đi. Nhìn sâu vào trong lẽ thương của ông, ta mới hiểu được tấm lòng của một người Nho sĩ yêu nước, thương những người tài hoa không được trọng dụng, cũng là ghét những kẻ nịnh thần, ghét những tên hôn quân hoang dâm, bạo ngược, không chỉ khiến dân chúng khốn khổ, lầm than mà còn khiến hiền tài chẳng thể cống hiến.
Lẽ thương cũng đi liên với lẽ ghét vậy nên ông Quán mới kết luận rằng:
“Xem qua kinh sử mấy lần
Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương”.
Lẽ ghét thương được xây dựng chính từ tấm lòng của người sĩ phu yêu nước Nguyễn Đình Chiểu. Ông bộc lộ sự yêu sự ghét của mình rõ ràng qua từng lời thơ, thẳng thắn, bộc trực như tính cách của những con người Nam Bộ – nơi ông sống vậy. Lời thơ giản dị, dễ hiểu, viết bằng thể thơ lục bát truyền thống khiến người đọc càng thêm thấm nhuần hơn những lẽ ghét lẽ thương mà ông thể hiện ở trên. Lẽ ghét thương cũng khiến người ta phải khâm phục về vốn kiến thức sâu rộng của người thầy đồ mù Nguyễn Đình Chiểu.
Đoạn trích Lẽ ghét thương được viết bằng bút pháp trữ tình, cho ta hiểu thêm về tấm lòng yêu ghét phân minh, mãnh liệt của Nguyễn Đình Chiểu, và hơn thế là tấm lòng thương dân như con, sâu sắc vô cùng của tác giả. Có lẽ chính vì điều này, sau này, khi thực dân Pháp xâm lược, ông đã là người đứng lên lãnh đạo người dân Nam bộ chống lại lũ cướp nước tàn ác ấy.
Cùng với Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc, truyện Lục Vân Tiên nói chung, Lẽ ghét thương nói riêng là những tác phẩm vô cùng tiêu biểu cho lòng yêu nước và tài năng của Nguyễn Đình Chiểu.
Giới thiệu tuyển tập 🌼 Phân Tích Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc 🌼 14 Bài Văn Hay Nhất
Phân Tích Thơ Lẽ Ghét Thương Ngắn Hay – Mẫu 5
Bài văn mẫu phân tích thơ Lẽ ghét thương ngắn hay sẽ giúp các em học sinh nhanh chóng chuẩn bị tốt cho bài viết trên lớp của mình.
Truyện Lục Vân Tiên Nguyễn Đình Chiểu là một Nôm mang khuynh hướng dân gian được viết vào khoảng những năm 50 của thế kỷ 20, lúc này ông đã bị mù. Truyện xoay quanh những cuộc chiến giữa thiện và ác đề cao lý tưởng về một cuộc sống tốt đẹp mà ở đó tinh thần nhân nghĩa, mối quan hệ giữa con người với nhau đều thấm đượm những tình cảm chân thành, bác ái.
Đoạn trích Lẽ ghét thương là cuộc nói chuyện của ông Quán, một nhân vật phụ nhưng lại được yêu thích bởi tinh thần yêu ghét phân minh với 4 chàng sĩ tử bao gồm Lục Vân Tiên, Tử Trực, Bùi Kiệm, Trịnh Hâm trước khi họ vào trường thi.
Mở đầu đoạn trích là lời bộc bạch của ông Quán:
“Quán rằng: “Kinh sử đã từng,
Coi rồi lại khiến lòng hằng xót xa
Hỏi thời ta phải nói ra
Vì chưng hay ghét cũng là hay thương”.
Nhân cảnh Lục Vân Tiên xin ông nói về quan điểm ghét thương, ông đã mở đầu bằng những câu thơ như vậy, chung quy lại lẽ ghét thương vốn còn nằm trong những gì kinh sử chép lại, khiến người đọc suy nghĩ rồi phải thấy xót xa, nếu như Vân Tiên vốn đã thành thực có ý hỏi vầy, thì ông Quán cũng chẳng ngại chi mà không bộc bạch bởi chung quy “Vì chưng hay ghét cũng là hay thương”.
Vân Tiên cũng chẳng ngần ngại đáp lời:
“Tiên rằng: Trong đục chưa tường,
Chẳng hay thương ghét, ghét thương lẽ nào?”
Vân Tiên đã chẳng ngần ngại mở lời nói ra nỗi vướng mắc trong lòng mình, rằng nếu chưa hiểu rõ tốt xấu, đục trong thì ông Quán lấy căn cứ vào đâu để rạch ròi phân minh cái sự ghét thương của mình. Mười câu tiếp là nói lên những những điều ông Quán căm ghét, vậy ông Quán ghét gì?
“Quán rằng: Ghét việc tầm phào
Ghét cay ghét đắng ghét vào tận tâm”
Nếu câu trước ý thơ mang sắc thái nhẹ nhàng bâng quơ, thì câu sau ngữ khí của nhân vật lại trở nên mạnh mẽ kiên quyết, như dao khắc vào đá tưởng không gì có thể thay đổi được. Điều ấy chứng minh, phàm là việc buôn chuyện, tán dóc, những chuyện vu vơ chẳng ra đâu vào đâu ông đều không tán thành. Dẫn từ lịch sử nước bạn -Trung Quốc cổ đại, ông Quán liệt kê ra một loạt 4 điều ghét: Ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm; ghét đời U, Lệ đa đoan; ghét đời Ngũ bá phân vân; ghét đời thúc quý phân băng.
Nói chung phàm là những triều đại vua tôi thối nát, hoang dâm vô đạo, khiến nhân dân phải “sa hầm sẩy hoang”, phải chịu cảnh lầm than, nhọc nhằn, loạn lạc đều là nỗi ghét sâu trong tâm khảm của ông Quán. Và nếu tinh ý ta sẽ nhận ra trong những cái ghét của ông Quán lại ẩn chứa mọt nỗi niềm thương yêu cao cả, ấy là nỗi lòng yêu nước, thương cho nhân dân vô tội phải chịu cảnh cùng cực khốn đốn, dưới sự cai trị thối nát của những triều đại mà vua tôi bạo ngược chẳng nên nết.
Còn về điều thương, ông Quán thương là “thương đức thánh nhân”, ý chỉ Khổng Tử, người khai sáng ra Nho giáo, nền tảng tinh thần phong kiến xưa, từng có chí đi hành đạo ở nhiều nước nhưng không thành. Thương Nhan Tử, Gia Cát Lượng, Đổng Tử, Nguyên Lượng (Đào Tiềm), Hàn Dũ, thầy Liêm (Chu Đôn Di), Lạc (Trình Hạo và Trình Hi), tất cả những người kể trên đều là bậc quân tử, tài chí hơn người.
Ông thương họ vì những lẽ gì? Ông thương bởi cuộc đời họ đã bị những khó khăn trắc trở ngăn cản bước chân, khiến họ không có đường phát triển, không thể tận lực cống hiến hết tài năng của mình. Chung quy lại ông Quán thương những người tài năng đức độ, nhưng lại gặp cảnh trái ngang, bị kẻ gian hãm hại, bề trên không tin tưởng trọng dụng, lòng thương xót của ông là sự thương xót những cái tài năng, đạo đức mà ở đời mấy ai có được.
Và cũng như lẽ ghét có thương thì ở đây trong lẽ thương cũng có niềm ghét, mà tất cả là dựa trên lòng yêu nước, thương dân sâu sắc của ông Quán. Ông thương những bậc thánh nhân, đức trọng, song song với đó là niềm ghét cay ghét đắng những kẻ gian thần, nịnh bợ, những hôn quân có mắt không tròng đã vùi dập người tốt để kẻ xấu được thời nhiễu loạn, làm khổ nhân dân.
Kết lại những lẽ ghét thương của mình ông Quán đã có một câu thế này:
“Xem qua kinh sử mấy lần
Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương”
Nói tóm lại cái lẽ ghét thương của ông Quán cũng là lời ghét thương của Nguyễn Đình Chiểu, ông thương nhân dân phải lầm lũi, khổ sở, thương kẻ hiền tài bó tay bất lực, lại ghét những kẻ gian dối, mồm năm miệng mười, những kẻ là vua lại chẳng khác phường bạo ngược, vô loài đã đem đến bao nhiêu bất hạnh, khổ đau cho giống nòi dân tộc.
Đoạn trích Lẽ ghét thương là lời bộc bạch của nhân vật cũng là lời chân thành của nhà thơ mù Nguyễn Đình Chiểu, qua đó thể hiện tấm lòng chính nghĩa, nhân văn sâu sắc, yêu nước thương dân sâu sắc, niềm mong ước một cuộc sống tươi đẹp, con người đối xử vứi nhau bằng tình nghĩa sắt son, cao thượng.
Lời thơ chân thật, giàu cảm xúc và giản dị nhanh chóng khắc sâu vào tâm khảm của người đọc, việc vận dụng những kiến thức lịch sử của nước bạn vùa đem lại sự mới mẻ đồng thời cũng là một cách để gây ấn tượng sâu sắc cho những quan điểm của nhà thơ.
Mời bạn xem nhiều hơn 🌹 Phân Tích Chiếu Cầu Hiền 🌹 12 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Phân Tích Nghệ Thuật Lẽ Ghét Thương – Mẫu 6
Tham khảo bài phân tích nghệ thuật Lẽ ghét thương dưới đây với những định hướng làm bài cụ thể giúp các em học sinh hoàn thành tốt bài viết.
Văn học là những sáng tác tinh tế tái hiện lại cuộc sống, đời thực của con người qua các thời đại. Nó mang những giá trị cốt lõi bài học của cuộc sống, nhân cách, đạo đức để giáo dục con người ta đến cái thiện. Đúng như vậy đoạn trích Lẽ ghét thương của Nguyễn Đình Chiểu- một ngôi sao trên nền văn học trung đại Việt Nam, đã truyền tải đến người đọc những vấn đề về đạo đức qua nhân vật ông Quán trong đoạn trích.
Ông Quán- một nhà nho ở ẩn, một người cương trực đã bộc bạch ra “lẽ ghét thương” của mình qua đó cũng thể hiện tấm lòng của tác giả Nguyễn Đình Chiểu: yêu nước, thương dân.
Đoạn trích “Lẽ ghét thương” được trích ra từ tác phẩm “Lục Vân Tiên”. Tác phẩm được ông sáng tác khi ông đã bị mù, cốt truyện xung quanh cái ác và cái thiện. Ông luôn đề cao tinh thần nghĩa hiệp, phê phán cái ác và đưa ra một quy luật bất biến: chính nghĩa luôn thắng gian tà. Đoạn trích được trích ra từ phần đầu của tác phẩm, kể về cuộc gặp mặt, trò chuyện của ông Quán và bốn chàng nho sinh đi thi.Qua đoạn trích có thể thấy rõ được lẽ ghét thương phân minh của ông Quán được bộc lộ rõ như thế nào.
Người đọc có thể thấy rõ được quan điểm của ông Quán, một người đã trau dồi mài kinh sử cũng học và thi, qua bốn câu thơ:
Quán rằng: “Kinh sử đã từng.
Coi rồi lại khiến lòng hằng xót xa
Hỏi thời ta phải nói ra
Vì chưng hay ghét cũng là hay thương.
Ông Quán đã thẳng thắn đưa ra ngay suy nghĩ của mình trước sự ngụy biện hai tên Trịnh Hâm và Bùi Kiệm khi bị thua trong cuộc so tài. Ông cảm thấy bất bình và rồi ông đã giải thích cho chính cái nguyên căn ấy “ Vì chưng hay ghét cũng là hay thương”.
Qua mười hai câu tiếp theo, ta có thể cảm nhận rõ hơn rất nhiều về tầm hiểu biết sâu rộng của ông Quán khi ông bàn về “lẽ ghét”:
Tiên rằng: “Trong đục chưa tường,
Chẳng hay thương ghét, ghét thương lẽ nào?”
Quán rằng: “Ghét việc tầm phào,
Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tới tâm.
Ghét đời Kiệt, Trụ,mê dâm
Để dân đến nỗi sa hầm sảy hang.
Ghét đời U, Lệ đa đoan,
Kiến dân luống chịu lầm than muôn phần.
Ghét đời Ngũ Bá phân vân
Chuộng bề dối trá làm dân nhọc nhằn
Ghét đời Thúc Quý phân băng
Sớm đầu, tối đánh, lằng nhằng dối dân.”
Vân Tiên muốn hiểu rõ hơn về ý tứ của ông Quán, đồng thời cũng muốn học hỏi thêm nhiều điều đã không ngần ngại hỏi lại “Trong đục chưa tường,/Chẳng hay thương ghét, ghét thương lẽ nào?”Ông Quán đã không ngần ngại câu trả lời mà còn giải thích rõ tại sao. Ông nhấn mạnh rằng ông ghét việc tầm phào, ghét đến tận tâm can của ông. Việc tầm phào ở đây nghĩa là những việc chẳng có nghĩa lí gì, chẳng đâu vào với đâu, những việc đó khiến ông căm ghét tột cùng.
Để làm rõ, ông đã đưa ra nhiều điển cổ , điển tích để chứng minh. Đời Kiệt, đời Trụ hoang dâm vô độ, không lo cho dân, để cho dân rơi vào cuộc sống cùng cực.Đến đời U, đời Lệ “đa đoan” lắm chuyện rắc rối, kiến dân chúng không khỏi lầm than.Rồi đến nhà Ngũ Bá, Thúc Quý triền miên chiến tranh làm cho nhân dân khổ cực thêm.
Qua những dẫn chứng mà ông đưa ra, ông luôn đứng về phía nhân dân, bình xét lịch sử. Nguyễn Đình Chiểu đã làm rõ được “lẽ ghét” qua nghệ thuật lặp từ “ ghét” được lặp lại tám lần và tình yêu thương dân muôn phần qua từ “dân” được lặp lại bốn lần. Có thể thấy rằng ông Quán mà cũng chính là tác giả có lòng thương dân sâu sắc như thế nào.
Mười bốn dòng tiếp theo của cuối đoạn trích, ta càng cảm nhận được ông Quán là một người có lòng nhân hậu, ông thương những bậc hiền tài của đất nước nhưng cuộc đời của họ luôn gặp những rủi ro khôn lường:
Thương là thương đức thánh nhân,
Khi nơi Tống, Vệ lúc Trần, lúc Khuông.
Thương thầy Nhan Tử dở dang
Ba mươi mốt tuổi tách đàng công danh.
Thương ông Gia Cát tài lành
Gặp cơn Hán mạt đã đành phôi pha.
Thương thầy Đồng Tử cao xa
Chí đà có chí, ngôi mà không ngôi
Thương người Nguyên lượng ngùi ngùi
Lỡ bề giúp nước lại lui về cày
Thương ông Hàn Dũ chẳng may
Sớm dâng lời biểu tối đày đi xa
Thương thầy Liêm, Lạc đã ra
Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân.
Nếu như mười hai câu thơ đầu ông thể hiện rõ lòng căm thù , ghét cay, ghét đắng bao nhiêu thì sang những câu thơ cuối ông lại bộc lộ ra niềm thương xót bấy nhiêu cho những hiền tài của đất nước. Từ thánh nhân Khổng Tử lận đận trong việc truyền đạo đến thầy Nhan Tử tài đức vậy lại kết thúc cuộc đời quá sớm. Hay Gia Cát, Đồng Tử, Hàn Dũ, thầy Liêm, Lạc đều là người tài giỏi, mưu trí, học cao hiểu rộng nhưng đều không gặp thời.
Ở đây, tác giả đã sử dụng nghệ thuật điệp từ cũng như liệt kê để thể hiện rõ tấm lòng yêu thương da diết đầy tính bác ái đối với những con người tài giỏi nhưng bạc mệnh.
Hai câu cuối của bài thơ tác giả đã đúc kết lại lẽ ghét thương của mình:
Xem qua kinh sử mấy lần
Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương.
Nửa phần ghét kết hợp với nửa phần thương, qua đó cho thấy thái độ dứt khoát rõ ràng của ông Quán cũng như tác giả. Và sự thương và ghét ấy nó luôn tồn tại song song dù nó có trái ngược nhau, nhưng song đều bắt đầu từ “thương” – cái nguồn của tình cảm.
Với những biệt pháp nghệ thuật như điệp từ, liệt kê, sử dụng điển tích, điển cố, ta có thể thấy được tài năng trong sáng tác văn chương của Nguyễn Đình Chiểu. Chính những phép nghệ thuật ấy đã giúp đoạn thơ mang tính chất triết lí cao nhưng lại dạt dào cảm xúc. Từ đó ta càng thấy được ghét, thương tưởng chừng như đối lập mà lại hoàn toàn là thống nhất.
Nguyễn Đình Chiểu không những đã làm rạch ròi ra lẽ thương và lẽ ghét mà còn thể hiện nó một cách sâu sắc khiến cho người đọc cảm thấy ấn tượng. Ta có thể thấy một tầm nhìn xa, một tầm nhìn khái quát về đất nước, một lòng yêu thương dân vô bờ bến của một con người tài giỏi nhưng cuộc đời lại gặp bất hạnh như ông.
Chia sẻ thêm cùng bạn 🍀 Phân Tích Bài Ca Ngắn Đi Trên Bãi Cát 🍀 15 Bài Văn Hay Nhất
Phân Tích Đoạn Trích Lẽ Ghét Thương Đặc Sắc – Mẫu 7
Với bài văn phân tích đoạn trích Lẽ ghét thương đặc sắc dưới đây, các em học sinh có thể trau dồi cho mình những ý văn hay và độc đáo.
Nguyễn Đình Chiểu là một trong những tác giả nổi tiếng nhất của văn học Trung đại Việt Nam. Ông để lại cho hậu thế nhiều tác phẩm nổi bật như: Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Chạy giặc,… và không thể không nhắc đến truyện thơ Lục Vân Tiên với trích đoạn Lẽ ghét thương đã in những dấu ấn đậm nét trong lòng bạn đọc suốt bao thế hệ qua.
Đoạn trích Lẽ ghét thương được trích từ câu 473 đến câu 504, kể về sự kiện bốn chàng nho sinh lên kinh dự thi tình cờ gặp nhau trong quán rượu của ông Quán. Trịnh Hâm đã đưa lời thách đố làm thơ để so tài cao thấp, Vân Tiên tỏ ra vượt trội hơn hẳn khiến cho Trịnh Hâm và Bùi Kiệm tỏ ý nghi ngờ tài năng của chàng. Trước tình huống đó, ông Quán đã ra và trò chuyện về lẽ ghét thương ở đời.
Với bốn câu tự giới thiệu hết sức ngắn gọn của ông Quán, người đọc đã có đôi nét thông tin và hiểu về nhân cách đáng kính của ông:
Quán rằng: Kinh sử đã từng
Coi rồi lại khiến lòng hằng xót xa.
Hỏi thời ta phải nói ra,
Vì chưng hay ghét cũng là hay thương.
Ông Quán cũng như ông Tiều, ông Ngư sống cuộc đời mai danh, ẩn tích, tránh phường danh lợi, hướng đến cuộc sống an nhàn, thư thái trong tâm hồn. Hình ảnh của họ cũng phảng phất hình ảnh của Đồ Chiểu sau khi bị mù trở về quê hương làm nghề dạy học và sáng tác. Bởi vậy, các nhân vật này cũng chính là những người thể hiện và phát ngôn những tư tưởng, quan điểm của tác giả.
Trong câu nói của ông Quán còn thể hiện mối quan hệ gắn bó khăng khít giữa ghét và thương. Thương và ghét là hai mặt tình cảm trong mỗi con người. Cái người ta thương là những điều tốt đẹp, lay động trái tim, ngược lại họ thường ghét cái xấu xa, độc ác, làm ảnh hưởng xấu đến con người. Như vậy, ghét cũng chính là xuất phát từ lòng thương, bởi vì thương người dân nên mới ghét những điều xấu xa, bạo ngược. Tình cảm này của ông Quán được thể hiện một cách tha thiết chân thành:
“Quán rằng: ghét việc tầm phào
Ghét cay ghét đắng, ghét vào tận tâm”
“Tầm phào” là những việc vu vơ, hão huyền, không có ý nghĩa. Đó chính là những điều ông Quán ghét. Cái ghét ấy càng được khắc đậm hơn qua việc lặp lại từ “ghét” ba lần theo chiều tăng tiến. Và tám câu thơ tiếp đó là những dẫn chứng cụ thể, trực tiếp để làm rõ những điều mà ông Quán ghét. Ông ghét đời Kiệt Trụ mê dâm, đời U, Lê đa đoạn, Thời Ngũ bá phân vân,… khiến cho người dân phải chịu nhiều cay đắng, khổ cực, chiến tranh khiến biết bao gia đình phải li tán.
Dường như trong từng câu thơ người đọc cảm nhận được nỗi phẫn uất cuộn trào trong lòng ông Quán. Qua những lời bộc bạch hết sức chân thành của ông Quán, ta có thể thấy rằng, ông hay chính Nguyễn Đình Chiểu đứng trên lập trường nhân dân, vì dân mà nêu lên quan điểm về lẽ ghét thương. Đồng thời lẽ ghét ấy cũng là cơ sở để tác giả thể hiện lẽ thương của mình.
Ông thương những nhà hiền triết, bậc chí nhân, quân tử như: Khổng Tử, Đào Tiềm, Nguyên Lượng, Hàn Dũ,… Họ đều là những con người tài giỏi, mang trong mình tâm niệm đem tài năng ra giúp ích cho đời song lại không đạt được sở nguyện. Thấp thoáng ở những nhân vật đó ta thấy hình ảnh của Nguyễn Đình Chiểu, ông cũng mang trong mình những suy nghĩ, khát vọng lớn lao nhưng đều đi vào bế tắc.
Bởi vậy khi nhắc đến những nhân vật này ta cảm nhận được niềm cảm thông và đồng cảm sâu sắc của tác giả đối với họ. Tác giả kết thúc tác phẩm bằng hai câu thơ: “Xem qua kinh sử mấy lần/ Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương” như là một lời tóm lại lẽ ghét thương ở đời.
Lẽ ghét thương của ông Quán là những tình cảm đạo đức của một con người vốn là học trò của nơi của Khổng sân Trình, đã thấm những đạo lí nho gia tốt đẹp. Tuy nhiên, ta cũng cần thấy rằng lẽ ghét thương đó được xuất phát từ một con người sống gần gũi với nhân dân và có tình yêu thương tha thiết với họ. Lời lẽ trong bài vô cùng đanh thép, mạch lạc, dõng dạc cho thấy tính cách bộc trực, đầy hào khí rất đúng với cốt cách, tinh thần của con người Nam Bộ.
Như đã khái quát từ đầu, ông Quán cũng là một trong rất nhiều nhân vật được dùng để thể hiện tư tưởng quan điểm của tác giả. Bởi vậy, khi khẳng định những phẩm chất tư tưởng này ta cũng không nên đồng nhất chúng chỉ là của riêng nhân vật trong tác phẩm. Đây cũng chính là quan niệm, lẽ sống của tác giả Nguyễn Đình Chiểu “một nhà nho nghĩa khí, đầy lòng yêu nước, thương dân và nhuần thấm rất sâu “chất Nam Bộ” trong cách sống, cách nhìn, cách nghĩ và cách nói”.
Để tạo nên sự thành công của đoạn trích, những đặc sắc nghệ thuật ta cũng không thể không nhắc đến. Văn bản được viết bằng thứ ngôn ngữ dung dị, đậm chất Nam Bộ nhưng cũng hết sức truyền cảm, giàu cảm xúc. Sử dụng hình thức liệt kê, phép điệp cho thấy rõ lẽ ghét thương ở đời của tác giả. Giọng thơ linh hoạt, đa dạng lúc cuồn cuộn sục sôi khi nói về lẽ ghét, lúc lại da diết, trầm buồn khi nói về lẽ thương.
Tác phẩm để lại ấn tượng sâu đậm nơi người đọc bởi sự kết tinh hài hòa giữa nội dung và hình thức nghệ thuật. Lẽ ghét thương đã nói lên những tình cảm yêu ghét chân thành, thẳng thắn mà cũng hết sức tha thiết của một tấm lòng vĩ đại, suốt một đời yêu nước, thương dân.
Gợi ý cho bạn 🌳 Phân Tích Bài Thơ Khóc Dương Khuê 🌳 11 Bài Văn Hay Nhất
Phân Tích Văn Bản Lẽ Ghét Thương Nâng Cao – Mẫu 8
Bài văn phân tích văn bản Lẽ ghét thương nâng cao sẽ giúp các em học sinh củng cố lại nội dung, kiến thức của tác phẩm cũng như luyện tập nâng cao kỹ năng viết.
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà thơ lớn, là một ngôi sao sáng trên bầu trời văn học trung đại Việt Nam. Tuy ông là một nhà thơ mù nhưng Nguyễn Đình Chiểu luôn chủ trương sáng tác văn học để “chở đạo, đâm gian”, vì thế mà các tác phẩm của ông luôn chứa đựng tinh thần nhân văn sâu sắc. Và “Lục Vân Tiên” là một tác phẩm tiêu biểu về vấn đề đạo đức của con người được nhà thơ quan tâm và thể hiện ở nhiều góc độ.
Đoạn trích “Lẽ ghét thương” nằm ở phần hai của tác phẩm đã chinh phục người đọc bởi tính nhân dân, bởi tình cảm yêu ghét phân minh và tấm lòng nhiệt thành với chính nghĩa, là nét đặc trưng tính cách của con người Nam Bộ qua nhân vật ông Quán. Và đó cũng chính là bản thân nhà thơ tự bộc bạch tình cảm của mình trước sự đời.
“Lục Vân Tiên” không phải là tác phẩm đề cao trung, hiếu, tiết, hạnh mà là đề cao nhân nghĩa và phê phán tất cả những gì là bất nhân, bất nghĩa. Bao trùm tác phẩm là những tình cảm rất đẹp đẽ, hồn nhiên của những con người biết cứu giúp nhau trong hoạn nạn, yêu thương nhau lúc khó khăn, những người sống có chí tình chí nghĩa.
Đoạn trích “Lẽ ghét thương” trong “Lục Vân Tiên” gồm hai sáu câu thơ lục bát, là lời của ông Quán. Trong đó mười câu nói về “ghét”, mười sáu câu nói về “thương”. Hoàn cảnh để ông lão bày tỏ lẽ ghét thương của mình là khi bắt gặp Lục Vân Tiên cùng với Tử Trực, Trịnh Hâm, Bùi Kiệm thi thố với nhau. Đến khi Trịnh Hâm và Bùi Kiệm thua thì lại đổi cho bên Lục Vân Tiên gian lận. Chính vì thế ông Quán thấy bất bình và lên tiếng thể hiện sự ghét thương của bản thân mình.
Có thể nói ở đây, ta thấy tác giả đã nhờ ông Quán nói lên sự ghét thương. Trong lời của ông, ta thấy rõ tư tưởng trung quân của Nguyễn Đình Chiểu trước hết không phải xuất phát từ vua mà từ dân, từ lợi ích của dân. Nhà thơ thấy chỉ có thể trung với những ông vua tốt, biết chăm lo cho dân, chứ đối với những ông vua xấu ác làm hại dân, gây đau khổ cho dân thì ông lại lên án sâu sắc. Bởi vậy, cái ghét, tình thương của ông xuất phát từ một tấm lòng yêu thương dân sâu xa nồng thắm:
“Bởi chưng hay ghét cũng là hay thương”
Suy nghĩ kĩ câu thơ này, ta nhận ra rằng gốc rễ, nguyên nhân sâu xa của nỗi ghét chính là tình thương dân sâu sắc. Tình thương chính là điểm tựa, là động lực tinh thần để nhà thơ lên tiếng phê phán những bọn xấu xa, những kẻ độc ác. Mười dòng thơ, từ “ghét” được lặp đi lặp lại tám lần, diễn tả tư tưởng, tình cảm của tác giả:
“Quán rằng mình: Ghét việc tầm phào
Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm”
Lời lẽ thô mộc, âm hưởng đay nghiến như xiết vào lòng người. Ta tưởng như nhà thơ đã dồn nén, cô đúc vào đây tất cả sức mạnh của tình cảm để bộc lộ sự khinh ghét, căm giận đến tột độ những ngang trái, bất công trong cuộc đời.
Tám câu thơ tiếp theo, hai câu diễn tả cụ thể một nỗi ghét của nhà thơ. Ta thấy căn nguyên, gốc rễ của cái ghét: “Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm”, những cái “tầm phào”, những cái “đa đoan”, những cái “dối trá”, những cái “mê dâm” là vì chúng làm “dối dân”, làm dân nhọc nhằn, dân luống chịu lầm than muôn phần, làm dân đến nỗi “sa hầm sẩy hang”.
Như vậy, căn nguyên của cái ghét là bởi vì tình thương sâu sắc đối với nhân dân. Những kẻ có quyền, có ô lọng đã lợi dụng chỗ dựa để lừa gạt, làm hại dân… Thực ra là những ông vua bạo ngược, những kẻ kéo bè phái gây chiến tranh hại dân… đời Kiệt, Trụ; đời U, Lệ, đời Ngũ Bá, Thúc, Quý:
“Ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm
Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang
Ghét đời U, Lệ đa đoan
Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần…”
Trong số câu thơ nói về lẽ ghét thì có bốn câu có từ “dân”, nói về nỗi khổ của dân:
“Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang
Khiến dân lấm chịu lầm than muôn phần
Chuộng bề dối trá làm dân nhọc nhằn
Sớm đầu tối đánh lằng nhằng dối dân”
Nỗi ghét được giãi bày sâu đậm, cao độ. Để giãi bày những lời tâm huyết về nỗi ghét này được sâu đậm, Nguyễn Đình Chiểu đã sử dụng nghệ thuật điệp từ “ghét” trong câu thơ tám tiếng:
“Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm”
Nhà thơ đã vận dụng quy luật chuyển đổi cảm giác: Từ vị giác “cay đắng” kết hợp với từ “ghét” tạo nên một thứ cảm xúc đặc biệt. Với cách diễn đạt tăng cấp, Nguyễn Đình Chiểu cho thấy cái ghét của ông Quán chính là lòng căm cao độ, sâu cay. Ông căm thù tất cả những kẻ làm tổn hại đến cuộc sống, hạnh phúc của nhân dân.
Ở mười câu thơ trên, nhà thơ đã để lại cho ông Quán nói lòng căm thù bọn hại dân, để nói lòng thương dân thì ở mười sáu câu thơ này, nhà thơ lại để cho nhân vật bộc lộ lòng yêu thương dân trực tiếp với những bậc hiền nhân quân tử đời xưa, những con người tài cao đức lớn mà không gặp thời gặp vận, không nên sự nghiệp. Mở đầu là ông nói tình thương của mình đối với Khổng Tử vất vả, gian lao trong công việc truyền đạo Nho:
“Thương là thương đức thánh nhân
Khi nơi Tống, Vệ, lúc Trầm lúc Khuông”
Ông Quán thương cả “Nhan Tử dở dang” chưa đạt công danh mà chết yểu. Thương Gia Cát Lượng “đã đành phôi pha, tài lành” nhưng không xoay chuyển nổi thời vận nhà Hán. Ông Quán còn bộc lộ tình thương đến số phận cay đắng của con người trước quy luật của tạo hóa, xã hội. Đổng Tử Chí lớn mà “không nguôi”, Nguyên Lượng “lại lui về cày”, Hàn Dũ bị “đày đi xa”, Liêm, Lạc bị xua đuổi….
Nếu như ở mười câu đầu, Nguyễn Đình Chiểu để cho nhân vật nói lên lòng căm thù bọn người hại dân để nói lên lòng thương dân, thì ở đoạn sau tác giả lại cho nhân vật bộc lộ trực tiếp lòng thương đối với những người có tài cao chí lớn, muốn phò vua giúp đời mà gặp phải bất hạnh nên nguyện vọng cứu dân không thực hiện được.
Và để thể hiện tình cảm đó, nhà thơ đã sử dụng điệp từ “thương” tới chín lần. Nó không chỉ thể hiện tình yêu tha thiết ông dành cho từng đối tượng cụ thể mà còn bộc lộ một tình cảm bao la rộng lớn dành cho số phận cay đắng của con người trước những quy luật khắc nghiệt của tạo hóa. Đó cũng chính là những con người có ít nhiều nét đồng cảnh với Đồ Chiểu, một người từng nuôi chí hành đạo giúp đời. Nhưng cuộc đời nhà thơ gặp nhiều bất hạnh. Bởi thế, tình thương ở đây chính là niềm thương cảm sâu sắc của Đồ Chiểu.
Thông qua lời ông Quán, Nguyễn Đình Chiểu đã giãi bày tâm huyết của mình về lẽ ghét thương với con người. Hai trạng thái tình cảm đối nghịch nhưng lại thống nhất trong một con người. Thương và ghét đan xen, đó chính là một trái tim hòa cùng nhịp đập với cuộc đời, với nhân dân. “Lẽ ghét thương” nói riêng và “Lục Vân Tiên” nói chung xứng đáng là một bài ca đạo đức, là một bản trường ca ca ngợi chính nghĩa, gây ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc trong lòng người đọc.
Ngoài phân tích Lẽ ghét thương, tham khảo trọn bộ ☀️ Phân Tích Thu Điếu Nguyễn Khuyến ☀️ 15 Bài Văn Hay Nhất
Bài Phân Tích Bài Lẽ Ghét Thương Chọn Lọc – Mẫu 9
Đón đọc bài phân tích bài Lẽ ghét thương chọn lọc dưới đây sẽ giúp các em học sinh có thêm cho mình những gợi ý làm bài hay và ấn tượng.
“Một nghệ sĩ chân chính phải là nhà nhân đạo từ trong cốt tủy” (Sê-khốp). Nguyễn Đình Chiểu không chỉ nổi tiếng với những vần thơ chân thực, giản dị mà ông còn được biết đến là một nhà thơ có tư tưởng nhân đạo lớn. Các sáng tác của ông đều thể hiện lòng thương dân sâu sắc, tiêu biểu là đoạn trích “Lẽ ghét thương”.
Đây là đoạn thơ có vị trí từ câu 473 đến câu 504 trích trong “Truyện Lục Vân Tiên” kể về cuộc đối thoại giữa ông Quán và Vân Tiên, Tử Trực, Trịnh Hâm, Bùi Kiệm đồng thời cũng thể hiện tình cảm yêu ghét rõ ràng của tác giả. Ông Quán không phải nhân vật chính của tác phẩm nhưng lại chiếm được nhiều cảm tình của bạn đọc bởi đó là nhân vật đại diện cho tiếng nói, tư tưởng của Nguyễn Đình Chiểu. Ông là người có học thức, trí tuệ, hiểu biết nhưng lại mang dáng dấp của một nhà nho ở ẩn:
“Quán rằng: Kinh sử đã từng,
Coi rồi lại khiến lòng hằng xót xa.
Hỏi thời ta phải nói ra,
Vì chưng hay ghét cũng là hay thương”.
Có lẽ trước đây, ông cũng từng đi thi, cũng từng có ước muốn làm quan giúp dân giúp nước. Tính cách của ông tiêu biểu cho tính cách bộc trực, thẳng thắn của những người dân Nam Bộ. Họ yêu ghét rõ ràng, thẳng thắn. Ông Quán cũng vậy nhưng suy cho cùng thì đối với ông, mọi nỗi ghét đều bắt nguồn từ niềm thương. Tuy thương và ghét là hai phạm trù đối lập nhau nhưng chúng lại bổ sung, hỗ trợ cho nhau về phương diện ý nghĩa.
Vì thương dân nên ông Quán mới “ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm”:
“Quán rằng: Ghét việc tầm phào
Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm.
Ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm,
Để dân đến nỗi sa hầm, sẩy hang.
Ghét đời U, Lệ đa đoan,
Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần.
Ghét đời Ngũ bá phân phân,
Chuộng bề dối trá làm dân nhọc nhằn.
Ghét đời thúc quý phân băng,
Sớm đầu, tối đánh lằng nhằng rối dân”.
Ông Quán ghét những chuyện vu vơ, hão huyền, những chuyện vô bổ, không có ý nghĩa. Ông ghét đời vua Kiệt, vua Trụ bạo ngược, vô nhân đạo trong lịch sử Trung Quốc. Hai đời vua đó hoang dâm vô độ, để thỏa mãn những trò dâm loạn của mình, vua còn cho đào hầm, đào ao rượu, núi thịt bóc lột biết bao sức lao động của nhân dân.
Không chỉ vậy, đời vua U Vương và Lệ Vương vô cùng tàn bạo, gây ra nhiều chuyện rắc rối. Họ sai quân đốt lửa hiệu trên núi Li Sơn để quân chư hầu tưởng Kinh Đô xảy ra chuyện nên kéo quân đến ứng cứu chỉ để làm cho người đẹp Bao Tự cười và còn cho người xé vải lụa cả ngày để Bao Tự nghe. Đến đời Ngũ bá, thúc quý thì chia lìa, tan tác, chiến tranh xảy ra liên miên khiến nhân dân lâm vào cảnh khốn đốn, nhọc nhằn.
Thời Ngũ bá là thời năm vua chư hầu kế tiếp nổi lên làm bá chủ. Họ dựa trên uy lực, kéo bè cánh đánh lẫn nhau, gây nên tình cảnh rối rắm, loạn lạc. Đó là các việc làm thể hiện bản chất xa hoa, dối trá, tàn bạo của các vị vua Trung Quốc. Đó là các vị vua sống trên mồ hôi, máu và nước mắt của những người dân vô tội.
Vì quyền lực mà họ tranh giành nhau dẫn đến cuộc sống lầm than của nhân dân. Thay vì chăm lo đến đời sống nhân dân thì họ lại ăn chơi sa đọa, đẩy nhân dân vào sự cực khổ, điêu linh. “Đắng”, “cay” là những từ chỉ mùi vị nhưng trong trường hợp này, “đắng”, “cay” chỉ mức độ ghét của nhà thơ đối với những kẻ không chăm lo đến đời sống nhân dân.
Tuy ghét cay, ghét đắng nhưng Nguyễn Đình Chiểu cũng thương hết lòng:
“Thương là thương đức thánh nhân,
Khi nơi Tống, Vệ lúc Trần, lúc Khuông.
Thương thầy Nhan Tử dở dang,
Ba mươi mốt tuổi tách đàng công danh.
Thương ông Gia Cát tài lành,
Gặp cơn Hán mạt đã đành phui pha.
Thương thầy Đổng Tử cao xa
Chí thời có chí, ngôi mà không ngôi.
Thương người Nguyên Lượng ngùi ngùi,
Lỡ bề giúp nước lại lui về cày.
Thương ông Hàn Dũ chẳng may,
Sớm dâng lời iểu, tối đày đi xa.
Thương thầy Liêm, Lạc đã ra,
Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân”.
Nguyễn Đình Chiểu đã mượn lời ông Quán để bày tỏ lòng thương. Khổng Tử là ông tổ của nền Nho giáo, ông tổ nền tinh thần của xã hội phong kiến xưa. Khổng Tử nổi tiếng là người tài giỏi và có rất nhiều học trò theo học. Ông được coi là bậc thánh nhân khi tìm tới các nước chư hầu như Tống, Vệ, Trần, Khuông để tìm cách hành đạo. Vượt qua bao gian nan,vất vả mà Khổng Tử cũng không tìm được người đồng đạo với mình. Nhan Hồi là học trò đức hạnh nhất của Khổng Tử nhưng không may mất sớm.
Tác giả thương tiếc cho số phận bạc mệnh của thầy Nhan Tử vì nhân loại đã mất đi một người tài năng. Ông thương cho Gia Cát Lượng tài ba có lí tưởng khôi phục nhà Hán nhưng đến lúc chết vẫn chưa hoàn thành ý nguyện do không gặp đúng thời. Đến lúc Gia Cát Lượng qua đời thì ba nước Ngụy, Thục, Ngô vẫn phân tranh. Tác giả còn thương cả những bậc học rộng, tài cao, có chí nhưng lại không được trọng dụng như Đổng Tử, Nguyên Lượng, Hàn Dũ hay thầy Liêm, thầy Lạc.
Nhà thơ đã liệt kê ra những minh chứng điển hình và sử dụng điệp từ “ghét” , “thương” nhằm mục đích nhấn mạnh đến nỗi ghét, niềm thương của bản thân. Ghét bắt nguồn từ thương. Ông thương nhân dân cực khổ, điêu đứng. Ông thương những người tài không được trọng dụng để giúp dân, giúp nước. Lời thơ giản dị, mộc mạc đã giúp bạn đọc có thể hiểu sâu hơn về quan niệm ghét – thương của Nguyễn Đình Chiểu.
Đón đọc tuyển tập 🌳 Phân Tích Vào Phủ Chúa Trịnh 🌳 15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Bài Văn Phân Tích Lẽ Ghét Thương Đạt Điểm Cao – Mẫu 10
Để viết bài văn phân tích Lẽ ghét thương đạt điểm cao, các em học sinh có thể tham khảo và vận dụng linh hoạt những gợi ý phân tích tác phẩm dưới đây:
Truyện Lục Vân Tiên là tác phẩm lớn của văn học Việt Nam thời trung đại, được nhân dân, đặc biệt là nhân dân Nam Bộ yêu chuộng. Nguyễn Đình Chiểu sáng tác truyện thơ này vào khoảng sau năm 1850, khi ông đã bị mù, về mở trường dạy học và chữa bệnh cho dân ở Gia Định. Nội dung dựa trên cơ sở các mô típ của văn học dân gian và truyện trung đại kết hợp với một số tình tiết có thật trong cuộc đời tác giả.
Truyện kể về Lục Vân Tiên, một chàng trai văn võ song toàn, trên đường đi thi đã đánh tan bọn cướp, cứu Kiều Nguyệt Nga, một tiểu thư con quan. Nguyệt Nga tự nguyện xin gắn bó với chàng để đáp đển ân nghĩa. Trước khi thi, được tin mẹ đã qua đời, Lục Vân Tiên phải về chịu tang. Chàng thương khóc mẹ đến mù hai mắt.
Trịnh Hâm, một kẻ xấu bụng vì ghen tài nên đã lừa đẩy Lục Vân Tiên xuống sông. Chàng được vợ chồng ông Ngư cứu sống, về đến quê nhà, chàng bị cha con Võ Thể Loan (vợ chưa cưới) trở mặt bội ước, đem bỏ chàng trong hang núi nhưng chàng được Thần, Phật giúp đỡ. Cuối cùng, mắt chàng sáng ra, thi đỗ Trạng nguyên và được nhà vua cử đi đánh giặc ô Qua.
Nguyệt Nga một lòng chung thủy với Vân Tiên. Bị Thái sư bắt đi cống cho giặc, nàng đã nhảy xuống sông tự tử, nhưng được cứu sống. Sau đó, nàng bị cha con Bùi Kiệm ép duyên, phải bỏ trốn. Cuối cùng, Vân Tiên thắng trận trở về, tình cờ gặp lại Nguyệt Nga và cùng nàng kết duyên chồng vợ.
Xuân Diệu đã nhận xét rất đúng: “Nguyễn Đình Chiểu đã viết đoạn thơ thương ghét trứ danh. Thật ra từ ngàn đời trước, đó là tình cảm phổ biến của nhân dân, và nhiều thi sĩ trước kia đã có những vần thơ về tà, chính; nhưng viết ra tập trung thành mấy chục câu thơ giản dị, phân minh, rõ ràng, sắc nét, có nhạc điệu, có tâm tình, khiến ai cũng phải thuộc, thì ai đã viết một cách điển hình như vậy ngoài Nguyễn Đình Chiểu”.
Đây là đoạn trích lời phát biểu của ông Quán khi chứng kiến cảnh Vân Tiên, Tử Trực, Bùi Kiệm, Trịnh Hâm thi tài xướng họa tại quán của ông. Kiệm, Hâm bất tài, làm thơ không ra, lại nghi hoặc đổ thừa cho Tiên và Trực làm thơ nhanh là do chép thơ cổ nhân, ông Quán bật cười, khuyên Tiên nên biết chọn bạn. Tiên xin ông nói cho lẽ ghét thương ở đời, nhân đó mà ông Quán có đoạn phát biểu như trong đoạn trích “Lẽ ghét thương”.
Trong đoạn văn trên ông Quán đã trình bày 10 dòng về ghét, 14 dòng về thương và kết lại hai câu “nửa phần ghét, nửa phần thương” ở đời.
Ông Quán đã ghét những gì? Qua bốn điều ghét: ghét đời Kiệt, Trụ, ghét đời u, Lẽ, ghét đời Ngũ Bá, ghét đời Thúc Quý, ta thấy ông Quán ghét các chế độ xã hội thối nát, đạo đức suy đồi, dối trá, hèn hạ, dâm dục… đã làm cho nhân dân điêu đứng “sa hầm sẩy hang”. Qua bốn điều ghét ta cũng thấy Nguyễn Đình Chiếu đã có một tiêu chuẩn về cái đáng ghét rất rõ ràng: Cái gì làm khổ dân, nhũng nhiễu dân, gây hại cho dân đều đáng ghét cả.
Mức độ căm ghét của ông cũng hết sức sâu sắc. Mấy chữ sau đây nghe như dao khắc vào đá, sâu đậm, không phai mờ:
Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm.
Ông Quán đã thương những gì? Qua bảy điều thương ta thấy ông thương toàn nhà nho nổi tiếng, từ Khổng Tử, Nhan Hồi, Đổng Trọng Thư, Gia Cát Lượng, cho đến Đào Tiềm, Hàn Dũ, Chu Hi, Trình Di, Trình Hiệu đời Đường-Tống.
Vì sao lại thương họ? Ông thương đời họ dở dang, gặp bước gian truân, không có điều kiện phát huy đầy đủ tài năng và đức độ của họ. Nhìn chung lại ông Quán thương người có tài, có đức gặp khó khăn bị dang dở, bị hãm hại. Qua mấy điều thương này ta thấy ông Quán hết sức thương xót những bậc có tài cao, đức trọng ở đời.
Điều đáng chú ý nhất trong đoạn văn này là trong ghét có thương, trong thương có ghét. Khi nói tới ghét các đời đa đoan lời văn đã để lộ một niềm thương yêu lớn: thương dân. Khi nói tới niềm thương, lời văn toát ra niềm ghét, ghét kẻ tiểu nhân xua đuổi kẻ hiền tài.
Tổng hợp lại ông Quán thương nhân dân, thương hiền tài, ghét xã hội thối nát, ghét kẻ tiểu nhân đê tiện, cội nguồn của mọi bất hạnh trong đời. Lẽ ghét thương của ông Quán cũng chính là lẽ ghét thương của Nguyễn Đình Chiểu, chứng tỏ nhà thơ hoàn toàn đứng về phía nhân dân, chính nghĩa. Sự lặp lại những từ “ghét đời”, “thương là”, “thương người”… có ý nghĩa như một dấu hiệu liệt kê.
Sau mỗi tiếng ấy người đọc đợi chờ thêm một hiện tượng đáng ghét, điều thương ở đời. Sự lặp lại gây tác dụng biểu cảm, biểu hiện một nguồn tình cảm dào dạt, lai láng tuôn chảy không thôi trong trái tim ông Quán và trái tim nhà thơ mù Nguyễn Đình Chiểu.
Mấy câu thơ:
Quán rằng: ghét việc tầm phào
Ghét cay, ghét đáng, ghét vào tận tâm
Là những câu rất hay. Hai câu thơ mà bốn chữ ghét, nói lên cường độ sâu đậm của tình cảm. Hơn nữa mấy chữ ghét lại được sắp xếp theo nhịp điệu tự nhiên, nhịp nhàng có tác dụng khắc sâu. Cách dùng từ diễn đạt lại là cách dùng khẩu ngữ: “ghét cay ghét đắng”, “ghét chuyện tầm phào”, hồn nhiên, bộc trực, không một chút quanh co. Vẻ đẹp của câu thơ Nguyễn Đình Chiểu là vẻ đẹp bộc trực, thẳng thắn, dứt khoát, và do đó mà mạnh mẽ.
Không chỉ có phân tích Lẽ ghét thương, chia sẻ thêm cùng bạn 🍀 Phân Tích Tự Tình Hồ Xuân Hương 🍀 15 Bài Văn Hay Nhất
Phân Tích Lẽ Ghét Thương Lớp 11 – Mẫu 11
Để giúp các em học sinh hoàn thành tốt và đạt kết quả cao cho bài viết phân tích Lẽ ghét thương lớp 11, tham khảo những ý văn hay trong bài văn mẫu sau đây:
Nguyễn Đình Chiểu là một trong số những tác giả tiêu biểu của nền văn học trung đại Việt Nam với nhiều tác phẩm xuất sắc, thể hiện rõ tư tưởng nhân nghĩa và lòng yêu nước, thương dân. Tác phẩm “Truyện Lục Vân Tiên” là một trong số những tác phẩm xuất sắc, nổi tiếng bậc nhất của ông. Đọc toàn bộ tác phẩm nói chung và đoạn trích “Lẽ ghét thương” nói riêng, người đọc sẽ thấy được tấm lòng thương dân sâu sắc và lẽ thương ghét rạch ròi của nhà thơ mù xứ Nam Bộ.
Mười sáu câu thơ đầu đoạn trích đã tái hiện lại cuộc đối thoại giữa ông Quán và Lục Vân Tiên, để từ đó thể hiện quan niệm về lẽ ghét của ông Quán. Trước hết, những câu thơ mở đầu đoạn trích chính là lời tự giới thiệu của ông Quán về mình:
Quán rằng: kinh sử đã từng
Coi rồi lại khiến lòng hằng xót xa.
Hỏi thời ta lại nói ra
Vì chưng hay ghét cũng là hay thương.
Ông Quán không phải là một cái tên hay một nhân vật cụ thể, ông chỉ xuất hiện thoáng qua trong tác phẩm song lại để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc. Có thể dễ dàng nhận thấy, ông Quán có dáng dấp của một kẻ sĩ, một nhà Nho ở ẩn thông hiểu kinh sử, tính cách bộc trực, thẳng thắn và yêu ghét rõ ràng.
Đặc biệt, câu khép lại lời giới thiệu của ông Quán “Vì chưng hay ghét cũng là hay thương” đã gợi lên mối quan hệ giữa ghét và thương. Hai phạm trù tư tưởng “ghét”, ‘thương” tưởng như đối lập song chúng lại có mối quan hệ gắn bó, mật thiết với nhau.
Trước lời giới thiệu của ông Quán, Vân Tiên đã đáp lại một cách khiêm nhường, từ đó, thể hiện ước muốn được nghe ông Quán giải thích, nói rõ hơn, tường tận hơn về lẽ ghét thương.
Tiên rằng: Trong đục chưa tường
Chẳng hay thương ghét, ghét thương thế nào?
Sau lời đối đáp giữa ông Quán và Vân Tiên, ông Quán đã đi sâu giải thích, làm rõ quan điểm của mình về lẽ ghét:
Quán rằng: Ghét việc tầm phào
Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm.
Có thể thấy, cái đầu tiên ông Quán ghét đó chính là “việc tầm phào”. Như chúng ta đã biết, “việc tầm phào” là những việc vu vơ, hão huyền, những việc vô nghĩa. Đặc biệt, cái ghét ấy như được nhấn mạnh, tăng lên bội phần khi từ “ghét” được tác giả nhắc đi nhắc lại ba lần cùng với đó là cấp độ ngày cảng một tăng lên. Để rồi, từ đó, tác giả đã liệt kê, làm rõ những “việc tầm phào” mà ông ghét trong những câu thơ tiếp theo:
Ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm,
Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang.
Ghét đời U, Lệ đa đoan,
Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần.
Ghét đời Ngũ, Bá phân vân,
Chuộng bề dối trá, làm dân nhọc nhằn.
Ghét đời Thúc quý phân băng,
Sớm đầu tối đánh, lằng nhằng hại dân.
Bằng thủ pháp liệt kê, ông Quán đã liệt kê ra hàng loạt những đối tượng mà mình ghét. Đó là “đời Kiệt, Trụ mê dâm”, “đời U, Lệ đa đoan”, “đời Ngũ, Bá đa đoan”, “đời Thúc Quý phân băng”. Ông Quán đã bày tỏ thái độ ghét của mình với hàng loạt các đời vua khác nhau nhưng có thể nhận thấy giữa các đời vua ấy có những điểm tương đồng như ăn chơi hoang dân vô độ, kết bè kết cánh gây chiến tranh loạn lạc, chia li, làm nhiều việc nhũng nhiễu trong nhân dân.
Đặc biệt, những việc làm, hành động của các đời vua bạo chúa ấy đã khiến cho đời sống của nhân dân “lầm than muôn phần”, phải chịu cảnh “sa hầm sẩy hang”. Như vậy, có thể thấy, ông Quán đã đứng trên lập trường, vị trí của nhân dân để bày tỏ thái độ ghét của mình, đồng thời qua đó có thể thấy ông đã gián tiếp nói lên nỗi thống khổ của nhân dân dưới các thời vua chúa bạo ngược, không chăm lo, quan tâm đời sống của nhân dân.
Không chỉ dừng lại ở việc làm rõ quan điểm về thái độ, tình cảm “ghét” của mình, ông Quán còn đưa đến cho người đọc những suy ngẫm về điều “thương”.
Thương là thương Đức thánh nhân
Khi nơi Tống, Vệ, lúc Trần, lúc Khuôn.
Thương thầy Nhan tử dở dang
Ba mươi mốt tuổi, tách đàng công danh.
Thương ông Gia Cát tài lành,
Gặp cơn Hán mạt, đã đành phôi pha.
Thương thầy Đồng tử cao xa,
Chí thời có chí, ngôi mà không ngôi.
Thương người Nguyên Lượng bùi ngùi,
Lỡ bề giúp nước lại lui về cày,
Thương ông Hàn Dũ chẳng may,
Sớm dâng sớ biểu tối đày đi xa.
Thương thầy Liêm Lạc đã ra
Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân.
Nếu như khi nói về lẽ ghét, khi nhắc đến những đối tượng mà mình ghét, ông Quán thể hiện thái độ tức giận, căm phẫn thì giờ đây, khi nhắc đến những đối tượng của lẽ thương giọng thơ như chùng xuống, mang trong mình sự trìu mến và thiết tha. Ông Quán thương cho Khổng Tử – một con người đã đi qua nhiều nước để hành đạo nhưng đáng tiếc thay không thành.
Ông thương cho thầy Nhan tử, có tài, có đức nhưng lại chết sớm khi mọi thứ còn dở dang, thương cho Gia Cát Lượng có tài nhưng không gặp thời nên cũng đành “phôi pha”, thương cho thầy Đổng tử có chí lớn, học rộng nhưng không được trọng dụng nên không được thi tài năng. Ông còn thương cho Nguyên Lượng, Hàn Dũ, Liêm, Lạc – những con người có tài, muốn giúp nước giúp dân nhưng không được.
Có thể thấy, điểm chung của những đối tượng mà ông Quán thương chính là sự tài đức, có chí, nhưng vì thời vận nên họ không đạt được mong ước, sở nguyện của bản thân mình. Bày tỏ quan điểm về lẽ thương nhưng ẩn sau đó ông Quán cũng bày tỏ niềm cảm thương sâu sắc của mình với những con người đó.
Đưa ra quan điểm của mình về lẽ ghét và lẽ thương, ông Quán đã thể hiện rõ quan điểm yêu, ghét rạch ròi của mình. Thêm vào đó, trong hai câu cuối của đoạn trích, ông cũng đã làm rõ mối quan hệ giữa ghét và thương.
Xem qua kinh sử mấy lần,
Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương.
Với nghệ thuật đối cùng cắt ngắt nhịp 4/4, hai câu thơ khép lại bài thơ như một lời chiêm nghiệm của ông Quán về lẽ ghét, thương. Đồng thời, thêm vào đó, với cách nói “nửa phần” được lặp lại hai lần cho thấy với tác giả, thương và ghét luôn lồng vào nhau, trong thương có ghét, trong ghét lại vẫn có thương.
Tóm lại, với việc sử dụng thể thơ lục bát cùng ngôn ngữ giản dị, chân chất, đậm sắc thái của người Nam Bộ, đoạn trích “Lẽ ghét thương” đã thể hiện một cách rõ nét và sâu sắc quan điểm yêu ghét rạch ròi, phân minh của tác giả. Đồng thời, qua đó cũng giúp người đọc cảm nhận được tình cảm yêu thương nhân dân của nhà thơ.
Đừng bỏ qua 🔥 Phân Tích Tự Tình 2 🔥 15 Mẫu Phân Tích Bài Thơ Hay Nhất