Phân Tích Vào Phủ Chúa Trịnh ❤️️33+ Bài Văn Mẫu Hay Nhất ✅ Chọn Lọc Và Chia Sẻ Tuyển Tập Đặc Sắc Nghị Luận Tác Phẩm Văn Học Lớp 12 Tại SCR.VN.
Dàn Ý Phân Tích Vào Phủ Chúa Trịnh
Lập dàn ý phân tích Vào phủ chúa Trịnh là điều rất quan trọng và cần thiết trong quá trình làm bài. Có được một dàn ý phân tích đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh sẽ giúp các em học sinh nắm vững định hướng bố cục và luận điểm chính. Tham khảo mẫu phân tích Vào phủ chúa Trịnh dàn ý chi tiết như sau:
I. Mở bài:
- Giới thiệu những nét tiêu biểu về cuộc đời của tác giả Lê Hữu Trác: một tác giả được biết đến không chỉ là một danh y nổi tiếng mà còn là một nhà văn, nhà thơ với những đóng góp đáng ghi nhận cho nền văn học nước nhà
- Đoạn trích Vào phủ chúa trịnh ghi lại một lần được truyền tới phủ chúa chữa bệnh cho thế tử đã trở thành một đoạn trích tiêu biểu trong cuốn Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác
II. Thân bài:
1.Quang cảnh và cung cách sinh hoạt nơi phủ chúa:
a. Quang cảnh nơi phủ chúa
-Vào phủ:
- Phải qua nhiều lần cửa, với “những dãy hành lang quanh co nối nhau liên tiếp”, ở mỗi cửa đều có vệ sĩ canh gác, “ai muốn ra vào phải có thẻ”
- Vườn hoa: cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương
- Khuôn viên: có điếm “Hậu mã quân túc trực” để chúa sai phái đi truyền lệnh
-Trong phủ:
- Những nhà: “Đại đường”, “Quyền bổng”, “Gác tía” với kiệu son võng điều, đồ nghi trượng sơn son thếp vàng và những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy
- Đồ dùng tiếp khách ăn uống toàn là mâm vàng, chén bạc
-Nội cung thế tử:
- Phải qua năm sáu lần trướng gấm
- Trong phòng thắp nến, có sập thếp vàng, ghế rồng sơn son thếp vàng, trên ghế bày nệm gấm, màn là che ngang sân, xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt
- Lộng lẫy, tráng lệ, thể hiện sự thâm nghiêm và quyền uy tột đỉnh của nhà chúa
b. Cung cách sinh hoạt
- Quyền uy: Khi tác giả được cáng vào phủ: “tên đầy tớ chạy đằng trước hét đường và cáng chạy như ngựa lồng”, “người giữ cửa truyền báo rộn ràng, người có việc qua lại như mắc cửi”
- Nhắc đến chúa và thế tử một cách cung kính: “thánh thượng đang ngự ở đấy, chưa thể yết kiến”, “hầu mạch Đông cung thế tử”, “hầu trà”…
- Khuôn phép, lễ nghi: Tác giả không được thấy mặt chúa, chỉ làm theo mệnh lệnh do quan chánh đường truyền tới, trước khi vào xem bệnh cho thế tử phải lạy bốn lạy, muốn xem thân hình của thế tử phải có viên quan nội thần đến xin phép
- Lắm kẻ hầu người hạ: Chúa Trịnh luôn có phi tần hầu chầu chực xung quanh, Thế tử bị bệnh có đến 7, 8 thầy thuốc phục dịch và lúc nào cũng có “mấy người đứng hầu hai bên”
- Cao sang, quyền uy tột đỉnh cùng với cuộc sống hưởng thụ xa hoa đến cực điểm và sự lộng quyền của nhà chúa
- Tác giả không đồng tình với cuộc sống quá no đủ, tiện nghi nhưng thiếu khí trời và tự do
2.Tài năng, y đức của Lê Hữu Trác:
- Có sự mâu thuẫn, giằng co:
-Hiểu căn bệnh, biết cách chữa trị nhưng sợ chữa có hiệu quả ngay sẽ được chúa tin dùng, bị công danh trói buộc.
-Muốn chữa cầm chừng nhưng lại sợ trái với lương tâm, y đức, sợ phụ lòng cha ông. - Cuối cùng phẩm chất, lương tâm của người thầy thuốc đã thắng. Ông gạt sang một bên sở thích cá nhân để làm tròn trách nhiệm. Là một thầy thuốc có lương tâm và đức độ
- Khinh thường lợi danh, quyền quý, yêu thích tự do và nếp sống thanh đạm, giản dị nơi quê nhà
- Kể diễn biến sự việc khéo léo, lôi cuốn sự chú ý của người đọc, không bỏ sót những chi tiết nhỏ tạo nên cái thần của cảnh và sự việc
3.Nét đặc sắc trong bút pháp kí sự của tác giả:
- Quan sát tỉ mỉ (Quang cảnh phủ chúa, nơi thế tử Cán ở)
- Ghi chép chân thực
- Tả cảnh sinh động
- Tái hiện diễn biến sự việc một cách khéo léo, thu hút sự chú ý của độc giả, kể tỉ mỉ, chi tiết
III. Kết bài:
- Khái quát, nhấn mạnh nội dung và nghệ thuật đoạn trích
- Mở rộng vấn đề: Đoạn trích ghi chép một cách chân thực cho chúng ta hiểu thêm về cách sống, cách sinh hoạt của vua chúa trong quá khứ dân tộc.
Xem nhiều hơn 🌟 Tóm Tắt Vào Phủ Chúa Trịnh 🌟 15 Bài Tóm Tắt Văn Bản Ngắn
Phân Tích Tác Phẩm Vào Phủ Chúa Trịnh – Mẫu 1
Đón đọc bài phân tích tác phẩm Vào phủ chúa Trịnh sẽ giúp các em học sinh tham khảo và nắm vững phương pháp làm bài.
Lê Hữu Trác là nhà y học, nhà văn nhà thơ lớn cuối thế kỉ XVIII. Trong sự nghiệp sáng tác văn học, tác phẩm “Thượng kinh kí sự” là tác phẩm nổi bật nhất của ông. Tác phẩm đã phơi bày hiện thực đời sống xã hội cuối thế kỉ XVIII, đặc biệt là đời sống xa hoa trong phủ chúa. Tất cả những nét vẽ đó đã phác họa đầy đủ qua đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh”.
Mở đầu tác phẩm, tác giả thuật lại nguyên nhân phải vào phủ Chúa, thời gian được ghi lại hết sức chi tiết, tỉ mỉ: “Mồng 1 tháng 2. Sáng tinh mơ, tôi nghe tiếng gõ cửa rất gấp. Tôi chạy ra mở…. Có thánh chỉ triệu cụ vào….”. Và tiếp đó là khung cảnh trong phủ chúa lần lượt hiện ra dưới sự quan sát tỉ mỉ, kĩ lưỡng của tác giả.
Con đường vào phủ phải đi qua nhiều lần cửa, những hành lang quanh co nối nhau liên tiếp, ở mỗi cửa đều có người canh gác, khi ra vào phải có thẻ, khung cảnh hết sức nghiêm trang, được bảo mật kĩ càng. Không chỉ vậy dưới con mắt của Lê Hữu Trác ông còn tinh mắt nhận ra “đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm; gió đưa thoang thoảng mùi hương”.
Trước khung cảnh đó tác giả đã nhận xét: “Bước chân đến đây mới hay cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường”. Lời nhận xét hết sức bình thản của tác giả nhưng đã phần nào bộc lộ thái độ phê phán trước cuộc sống xa hoa, hưởng lạc nơi đây.
Nhưng khung cảnh càng trở nên choáng ngợp khi bước vào sâu trong phủ chúa, “những cái cây lạ lùng và những hòn đá kì lạ” mà ông chưa từng thấy lần lượt hiện ra trước mặt. Đồ vật sử dụng trong phủ chúa cũng hết sức đẹp đẽ, xa hoa: đồ nghi trượng đều được sơn son thếp vàng, trướng gấm, quyển bồng,… đây đều là những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy, khiến Lê Hữu Trác “chỉ dám ngước mắt nhìn rồi lại cúi đầu đi”.
Cảnh phủ chúa vô cùng tráng lệ, lộng lẫy, không đâu sánh bằng, đây chính là biểu hiện của cuộc sống xa hoa, cầu kì khác với cuộc sống đời thường. Song khung cảnh vàng son này lại tù hãm thiếu sinh khí và ngột ngạt.
Khung cảnh khiến ta liên tưởng đến Vũ Trung tùy bút của Phạm Đình Hổ với câu nhận xét: “Mỗi khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vượn hót ran khắp bốn bề, hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn, kẻ thức giả biết đó là triệu bất thường”. Khung cảnh đó cũng là sự báo hiệu của đời sống trụy lạc của xã hội, triều đại đã đi vào mạt vận và chẳng bao lâu nữa sẽ đến hồi diệt vong.
Cung cách sinh hoạt trong phủ chúa cũng hết sức khác thường. Khi vào phủ chúa phải có thánh chỉ, qua mỗi lần cửa cần phải có thẻ, phủ chúa được bảo vệ rất nghiêm ngặt. Kẻ hầu người hạ đông đúc, nhộn nhịp, khi tác giả lên cáng vào phủ chúa có “tên đầy tớ chạy đằng trước hét đường” và “cáng chạy như ngựa lồng”, còn trong phủ chúa “người giữ cửa truyền bá rộn ràng, người có việc quan qua lại như mắc cửi”.
Cách xưng hô hết sức kính cẩn, lễ phép “thánh thượng”, “đông cung thế tử” với một cậu bé chỉ hơn sáu tuổi, tôn ti trật tự được thiết lập hết sức rõ ràng, chặt chẽ. Bầu không khí khám bệnh hết sức trang nghiêm, khẩn trương, trước khi vào khám, Lê Hữu Trác phải quỳ lạy một đứa trẻ mặc dù tuổi đã cao. Muốn xem thân hình thế tử phải có một viên quan đến xin phép cởi áo. Thủ tục vô cùng rườm rà, rắc rối. Qua đó ta thấy được quyền uy tột đỉnh cùng với cuộc sống xa hoa đến cực điểm và sự lộng quyền của nhà chúa.
Trước cuộc sống xa hoa, nhưng yếm khí đó ngay lập tức tác giả đã chuẩn đoán được chính xác căn nguyên căn bệnh mà Thế tử mắc phải: “ở trong trốn màn che trướng phủ, ăn quá no, mặc quá ấm nên tạng phủ yếu đi”. Quả thật lời chuẩn đoán của ông vô cùng chính xác, do cuộc sống thừa thãi về vật chất mà lại thiếu đi sự vận động, sống trong không gian tăm tối, ngột ngạt, thiếu khí trời khiến cho phủ tạng ngày càng yếu, người ngày một gầy mòn.
Nhưng khi bắt bệnh xong ông rơi vào tình thế khó xử, tin vào khả năng chữa bệnh của mình nhưng sợ bị danh lợi ràng buộc, không tiếp tục cuộc sống tự do tự tại, ẩn dật mà ông yêu thích nữa; nếu không chữa sẽ không đúng với lương tâm người thầy thuốc. Và cuối cùng ông đã quyết định làm theo đúng lương y của người thầy thuốc, khám và chữa bệnh cẩn thận cho thế tử. Qua đó ta thấy người Lê Hữu Trác là một lương y có tay nghề cao và tâm sáng luôn hết lòng vì người bệnh, đồng thời ông cũng là một người coi thường danh lợi.
Đoạn trích đã cho thấy tài năng nghệ thuật đặc sắc trong ngòi bút kí sự của Lê Hữu Trác. Nghệ thuật miêu tả, ghi chép rõ nét, trung thực, tạo sự tin cậy nơi người đọc. Lựa chọn chi tiết tiêu biểu, ấn tượng qua quang cảnh phủ chúa, hình ảnh thế tử,… tất cả đều ngầm lên án, phê phán cuộc sống xa hoa nơi phủ chúa. Kết hợp hài hòa giữa tự sự, miêu tả và biểu cảm tạo nên sự cuốn hút và tăng giá trị hiện thực cho tác phẩm. Giọng điệu châm biếm, hài hước nhẹ nhàng kín đáo cũng là một yếu tố góp phần tạo nên sự thành công cho tác phẩm.
Qua đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh, Lê Hữu Trác không chỉ vẽ nên cuộc sống xa hoa nơi phủ chúa với cung cách sinh hoạt hết sức rườm rà, cuộc sống đầy yếm khí ở nơi đây. Nhưng đồng thời sau những dòng chữ ấy còn cho thấy những nỗi niềm, cảm xúc của tác giả trước lối sống giàu sang, phú quý và tấm lòng, nhân cách cao cả của một bậc lương y.
Gợi ý cho bạn 🌟 Sơ Đồ Tư Duy Vào Phủ Chúa Trịnh 🌟 10 Mẫu Tóm Tắt Hay
Phân Tích Vào Phủ Chúa Trịnh Hay Nhất – Mẫu 2
Tham khảo bài văn mẫu phân tích Vào phủ chúa Trịnh hay nhất được chọn lọc và chia sẻ trong nội dung dưới đây:
Kí là thể loại văn xuôi tự sự dùng để ghi chép những sự việc có thật và bộc lộ tình cảm, tư tưởng của người viết phản ánh hiện thực cuộc sống theo cách riêng của mình. Nhắc đến thể kí không thể không nhắc đến Lê Hữu Trác một danh y nổi tiếng với bộ Hải Thượng y tông lĩnh cuốn bách khoa toàn thư về y học, đồng thời cũng là một nhà văn với tác phẩm “Thượng kinh kí sự” được nhiều người biết đến.
Tác phẩm đánh dấu sự trưởng thành của thể kí với nội dung kể về cuộc sống xa hoa cùng với quyền uy thế lực trong phủ chúa. Tiêu biểu là đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” nằm ở phần đầu đã ghi chép trung thực về sự giàu sang, thâm nghiêm trong Trịnh phủ, qua đó cho thấy nhân cách và tâm hồn của một nhà y học, nhà văn học.
Mở đầu đoạn trích là sự kiện được ghi chép lại “Mùng 1 tháng 2” có thánh chỉ triều tác giả vào phủ chữa bệnh cho Đông Cung Thế tử Trịnh Cán. Mặc dù là con nhà quan vốn “sinh trưởng ở chỗ phồn hoa” chỗ nào trong cấm thành cũng đã từng biết nhưng đây là lần đầu tiên ông được vào phủ chúa.
Quang cảnh Trịnh phủ tráng lệ, nguy nga được tác giả quan sát và cảm nhận qua cái nhìn đầu tiên “Đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương” cảnh vật nơi đây như chốn bồng lai tiên cảnh, thơ mộng, hữu tình làm đắm say lòng người. Tiếp đó là “Dãy hành lang quanh co nối nhau liên tiếp” những người giữ cửa truyền báo rộn ràng, người có việc quan thì qua lại như cửi. Một cái nhìn bao quát từ cận cảnh đến viễn cảnh đâu đâu cũng thể hiện sự giàu sang đến ngỡ ngàng.
Tác giả như bất ngờ mà thốt lên những vần thơ ghi lại cảm xúc của mình trước cái đẹp lộng lẫy:
“Lính nghìn cửa vác đòng nghiêm ngặt
Cả trời Nam sang nhất là đây
Lầu từng gác vẽ tung mây
Rèm châu, hiên ngọc, bóng mai ánh vào
Hoa cung tháng ngạt đưa tới
Vườn ngự nghe vẹt nói đòi phen”
Vốn là một con người “lánh đục tìm trong” nhưng đứng trước cảnh đẹp nơi đây tác giả không hề miệt thị mà ngược lại còn ngợi ca, còn rung động trước non nước hữu tình tuy nhiên cái ngợi ca ấy không được trọn vẹn. Dường như còn ẩn chứa một tâm trạng u hoài
“Quê mùa cung cấm chưa quen
Khác gì ngư phủ đào nguyên thuở nào”
Điển cố Đào Uyên Minh đã được tác giả sử dụng thật tài tình. Ông tự coi mình là người quê mùa chẳng quen chốn cung cấm xa hoa, nhộn nhịp cũng giống như Đào Tiềm ngày ấy lạc vào chốn thần tiên. Cảnh đẹp thì đẹp nhưng lòng người lại không ham.
Sự nguy nga, hoành tráng nơi Trịnh phủ được tác giả miêu tả chi tiết, tỉ mỉ qua từng bước đi, từng cái nhìn ấy là “Đi mấy trăm bước, qua mấy lần cửa đi đến cái điếm hậu mã quân túc trực” rồi những cái cây, những hòn đá lạ… mọi thứ cứ dần dần hiện ra trước mắt đến choáng ngợp nhưng Lê Hữu Trác không hề tỏ ra thảng thốt, bất ngờ đến tột cùng mà vẫn giữ cho mình sự điềm tĩnh, trầm ngâm của một ẩn sĩ.
Đồ dùng vật dụng mọi thứ rất sang trọng “Đồ nghi trượng đều được sơn son thếp vàng”, rồi cả những cái “sập thếp vàng” những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy, cột cũng được sơn son thếp vàng. Cái màu vàng chủ đạo ấy cho thấy sự xa hoa, tráng lệ nơi Trịnh phủ nó đối lập hoàn toàn với cuộc sống cơ cực, bần hàn của những người dân nghèo, cũng chính công trình kiến trúc ấy được xây dựng bằng mồ hôi, công sức, tiền của của nhân dân.
Sự sang trọng nơi đây còn được thể hiện ở tên gọi nào nhà “Đại đường”, “Quyển bồng” rồi “Phòng trà”, mọi người ở trong đó đều là các quan Chánh đường người nhà vua nhà chúa. Ai muốn vào phải có thẻ lính canh nghiêm ngặt vô cùng. Bữa cơm trong ấy là “mâm vàng, chén bạc, đồ ăn toàn là của ngon vật lạ” lần đầu tiên tác giả được nhìn, được biết đến cái phong vị của nhà đại gia. Tuy nhiên chẳng phải cái giàu sang, cái của ngon vật lạ ấy làm cho con người ta khỏe mạnh, hưng cường mà ngược lại khiến cho Thế tử là con trời lại thành con bệnh.
Thế tử là “một người ngồi trên sập độ năm, sáu tuổi mặc cái áo lụa đỏ” muốn vào được đến đây ông đã phải đi qua độ năm, sáu lần. Trước khi vào bắt mạch, khám bệnh cho thế tử ông phải hành lễ lạy tạ. Gian phòng của thế tử được tác giả quan sát miêu tả thật kĩ lưỡng “một cây nến to cắm trên một cái giá bằng đồng. Bên sập đặt một cái chiếu rồng sơn son thếp vàng, trên ghế bày nệm gấm… xung quanh lấp lánh hương hoa ngào ngạt.”
Chính không khí ngào ngạt mùi hương nhưng tù đọng, bí bách là nguyên nhân dẫn đến căn bệnh của thế tử chữa trị mãi mà không khỏi với biết bao thầy y và những vị thuốc. Ở phủ chúa tác giả không quen với những khuôn phép, luật lệ thâm nghiêm như có phần e ngại, mất tự nhiên khi thì chỉ dám “ngước mắt nhìn rồi lại cúi đầu”, khi thì nín thở rồi lại khúm núm.
Lê Hữu Trác là một vị danh y nổi tiếng, bằng tài năng y thuật và con mắt tinh tường ông đã sớm nhận ra khuyết tật nơi phủ chúa đồng thời cũng bắt trúng bệnh của thế tử. Khoảnh khắc kê đơn cắt thuốc là lúc mà ông do dự, đắn đo cuộc đấu tranh nội tâm diễn ra cam go, quyết liệt. “Nếu mình làm có kết quả ngay thì sẽ bị danh lợi nó ràng buộc, không làm sao về núi được nữa. Chi bằng ta dùng chữ phương thuốc hòa hoãn, nếu không trúng thì cũng không sai bao nhiêu”.
Xưa nay ta chỉ thấy con người ta hám danh hám lợi, vì tiền bạc, danh vọng mà sẵn sàng chà đạp, chém giết lẫn nhau để mong được như ý muốn. Nhưng Lê Hữu Trác kế thừa tư tưởng của các vị tiền nhân như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm:
“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao”
một lòng giữ khí tiết trong sạch không màng danh lợi. Tuy nhiên ông không thể vì bản thân mà lại quên đi chữ “trung” “cha ông mình đời đời chịu ơn của nước, ta phải dốc hết cả lòng thành để nối tiếp cái trung của cha ông mình mới được”. Chính điều đó đã thôi thúc ông làm tròn chữ “đức” của một vị lương y cho xứng danh“lương y như từ mẫu”.
Mặc dù sống trong thời loạn lạc, vựa lúa là những kẻ chỉ biết hưởng thụ với cuộc sống xa hoa nhưng ông không đã bỏ qua tất cả để làm tròn trách nhiệm của người thầy thuốc “Cứu một mạng người hơn xây bảy tòa tháp”. Tác giả phải là một con người có tâm có tầm có nhân cách cao đẹp mới có thể làm được điều đó.
Nơi Trịnh phủ được quan sát thật tỉ mỉ, được miêu tả thật sinh động, trung thực bởi con mắt tinh tế, nhạy bén với những chi tiết đặc sắc của một cây bút kí tài năng, sắc sảo Lê Hữu Trác đã cho người nghe, người đọc thấy được cảnh vật tráng lệ , nguy nga nơi phủ chúa đồng thời cho thấy hiện thực xã hội phong kiến thối nát lúc bấy giờ.
Cách viết của ông thật hấp dẫn độc giả vừa miêu tả vừa đan xen cảm xúc, suy nghĩ tâm trạng của một cái tôi cá nhân. Nếu như đặc trưng của văn học trung đại là con người cá nhân bị lu mờ, ít thấy tác giả xuất hiện trực tiếp do người trung đại không coi mình là trung tâm mà chỉ là một bộ phận trong chỉnh thể lớn.Nhưng ở đây tác giả đã tự tin thể hiện cái tôi của mình bằng cách sử dụng ngôi kể thứ nhất xưng tôi mang đậm dấu ấn cá nhân.
Qua đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” giàu tính hiện thực một mặt phê phán lối sống vinh hoa, quyền quý nơi phủ chúa một mặt ngợi ca nhân cách y đức của tác giả. Lê Hữu Trác vừa để lại một kiến thức về y học cổ truyền cho dân tộc vừa là tấm gương sáng về đạo đức người thầy thuốc cho hậu thế muôn đời.
Giới thiệu tuyển tập 🌟 Phân Tích Vợ Chồng A Phủ 🌟 15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Phân Tích Vào Phủ Chúa Trịnh Ngắn Gọn – Mẫu 3
Bài văn mẫu phân tích Vào phủ chúa Trịnh ngắn gọn sẽ giúp các em học sinh tham khảo cách hành văn súc tích và giàu ý nghĩa biểu đạt.
Lê Hữu Trác là một trong những danh y tài đức, sống vào thời vua Lê-chúa Trịnh. Không chỉ là một danh y tận tâm, ông còn là một văn với nhiều tác phẩm nổi bật. Tiêu biểu có thể kế đến cuốn “Thượng kinh kí sự” được ra đời vào năm 1782. Qua tác phẩm, một bức tranh sinh động về cuộc sống xa hoa cùng những thế lực, quyền uy trong phủ chúa Trịnh được tái hiện đầy chân thực. “Vào phủ chúa Trịnh” là một trong những trích đoạn hay nhất tác phẩm, qua đó Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác đã thể hiện được vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của mình.
Trước hết, có thể thấy Hữu Trác là một danh y là người giản dị, thanh sạch, coi thường danh lợi. Bước vào phủ chúa với lầu son, gác tía, tác giả không bày tỏ sự thán phục mà thể hiện thái độ ngỡ ngàng trước sự giàu sang, lộng lẫy của nơi đây: “Bước chân đến nơi này mới hay cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường.”
Ngoài ra, ông cũng bộc lộ rõ thái độ phê phán lối sống xa hoa trong phủ qua cách miêu tả quang cảnh nơi phủ chúa một cách đầy tỉ mỉ, chi tiết. Ngắm cảnh xa hoa đến đâu tác giả miêu tả chi tiết đến đấy, từ trong ra ngoài, từ xa tới gần, tất cả quang cảnh rất mực “thừa thãi” ấy khiến ông phải thốt lên tiếng xuýt xoa đầy ái ngại:
“Quê mùa cung cấm chưa quen
Khác chi ngư phủ đào nguyên thuở nào!”
Trong từng câu văn, ngôn từ, hình ảnh, thậm chí là cả giọng điệu đều toát lên sự giễu cợt, mỉa mai của Lê Hữu Trác đối với “những đứa con tinh thần” đầy mùi vật chất và khoe khoang nơi phủ chúa: “Mâm vàng chén bạc, đồ ăn toàn là của ngon vật lạ, tôi bấy giờ mới biết cái phong vị của nhà đại gia”. Nhìn tất cả những vật chất ấy, tác giả “chỉ dám ngước mắt nhìn rồi lại cúi đầu đi”.
Có thể thấy, cuộc sống xa hoa, quyền quý nơi phủ Trịnh không làm Lê Hữu Trác chìm đắm trong u mê, xuýt xoa khen ngợi, thán phục mà càng khiến ông thêm phần khinh khi, buồn nản, hẳn là một người coi thường vật chất, phú quý. Hơn thế nữa, trước khi chữa bệnh cho thế tử Cán, ông cũng đã đấu tranh rất nhiều trước hai sự lựa chọn. Bởi ông sợ công danh trói buộc, không được trở về với cuộc sống ẩn dật, bình yên chốn núi rừng. Có thể thấy chốn “rèm châu, hiên ngọc, bóng mai ánh vào” không dành cho kẻ tâm hồn thanh sạch, cao quý như ông.
Ở Lê Hữu Trác ta còn thấy được sự tận tâm, tài năng của một người thầy thuốc. Khi căn bệnh của thế tử rất nhiều người thầy thuốc không tìm ra phương cách, chấp nhận bó tay thì Lê Hữu Trác lại biết rất rõ nguyên căn bệnh. Trước những trăn trở, nghĩ suy giữa vòng danh lợi trói buộc và cuộc sống thanh bình chốn an yên thì ông đã chọn lòng trung thành, trượng nghĩa.
Gác lại những suy tính của bản thân, ông làm việc bằng lương tâm với nghề, bằng trách nhiệm của một trung thần với chúa. Điều đó được thể hiện rõ qua việc Lê Hữu Trác đã đưa ra phương thuốc hữu hiệu, cách thức chữa trị chính xác nhất để chữa bệnh cho thế tử .”Tôi thấy thánh thể gầy, mạch lại tế, sác. Thế là âm dương đều bị tổn hại, nay phải dùng thuốc thật bổ để bồi dưỡng tì và thận, cốt giữ cái căn bản tiên thiên và làm nguồn gốc cho cái hậu thiên….”.
Tài năng, kinh nghiệm và đức độ của ông trong nghề thầy thuốc được mọi người thán phục, ngay cả vị Quan chánh đường cũng phải thốt lên: “Phương thuốc và lập luận của cụ khác chúng ta nhiều.”
Qua đoạn trích ta thấy được rằng Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác là một người có tâm hồn và nhân cách cao đẹp – yêu tự do, ghét ràng buộc, sống bình dị, xem thường công danh phú quý và tận tâm với nghề. Vẻ đẹp về tâm hồn và nhân cách của danh y Lê Hữu Trác mãi là tấm gương sáng cho bao thế hệ học tập, noi theo.
Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất
Phân Tích Vào Phủ Chúa Trịnh Ngắn Nhất – Mẫu 4
Dưới đây chia sẻ bài phân tích Vào phủ chúa Trịnh ngắn nhất giúp các em học sinh ôn tập và chuẩn bị tốt cho bài viết trên lớp.
Con người phấn đấu làm việc cũng chỉ mong có cuộc sống khá giả hơn, thế nhưng có những người sinh ra vốn đã có tất cả. Họ có tiền tài, địa vị và có cả quyền lực, bởi thế cuộc sống trở nên quá dễ dàng. Và cuộc sống xa xỉ, sung sướng không tưởng của vua chúa thời xưa được khắc họa rõ nét qua tác phẩm “Vào phủ chúa Trịnh” của Lê Hữu Trác.
Bước vào trong tác phẩm “Vào phủ chúa Trịnh” là người đọc được đến với một thế giới khác, được chứng kiến một cuộc sống ở trên trời mà thường dân có mơ cũng không tưởng tượng nổi. Đó là những tòa cung điện nguy nga tráng lệ, là đồ đạc được sơn son thiếp vàng. Mọi thứ đều cao sang quyền quý, đến ngay cả hương thơm trong phủ cũng đậm chất quý tộc.
Đứng trước cảnh vật diễm lệ, lộng lẫy kiêu sa của phủ chúa không chỉ có người chứng kiến bị choáng ngợp mà đối với người đọc chỉ cần tưởng tượng ra thôi cũng thấy đó là cả một chân trời bát ngát quyền quý mà chúng ta có mơ cũng không tưởng tượng ra nổi. Người ta nói mỗi chuyến đi là một lần mở mang tri thức quả thật không sai, với chuyến đi chữa bệnh lần này Lê Hữu Trác đã được mở mang tầm mắt.
Đẳng cấp của phủ chúa không chỉ dừng lại ở cảnh vật mà còn thể hiện ở cả cung cách sinh hoạt. Khắp nơi trong phủ luôn có kẻ hầu người hạ tấp nập, Lê Hữu Trác được người dẫn đi bằng cửa sau, nhưng đứng trước cảnh tượng tráng lệ ấy khiến ông chỉ dám ngẩng đầu lên rồi lại cúi xuống bước đi từng bước trong sự choáng ngợp.
Có lẽ chu du khắp nơi cả cuộc đời, tận mắt chứng kiến nhiều thứ và tưởng rằng không còn thứ gì mà mình không biết, thế nhưng hiểu biết của ông vẫn còn quá hạn hẹp, ông cảm thấy mình trở nên nhỏ bé trước cảnh vật, nét đẹp cao sang khiến người chứng kiến nó cảm thấy bị áp lực. Và ông đã thực sự bị sốc trước những gì mà mình đang được nhìn thấy.
Buổi ấy, Lê Hữu Trác được ăn cơm ở trong phủ, dù chỉ là được quan Chánh đường san mâm cơm cho ăn thôi thế nhưng nó cũng sang trọng quá mức tưởng tượng. Mâm vàng, chén bạc, đồ ăn toàn thứ sơn hào hải vị ở trên đời và ngon không tưởng. Buổi đấy có lẽ là bữa cơm sang trọng nhất cuộc đời và khiến ông nhớ mãi. Lê Hữu Trác được triệu vào phủ để chữa bệnh cho thế tử, người là đứa trẻ khoảng tầm 5, 6 tuổi thôi thế nhưng lại được thờ phụng và chăm sóc tuyệt đối.
Thế tử không có tuổi thơ rong chơi, lăn lộn vui vẻ như những đứa trẻ khác. Vì thế tử cũng tức là con trời vậy nên vận mệnh của đứa con ấy phải hoàn toàn khác. Nó được nuôi nấng chu đáo từ nhỏ, được bao bọc và bảo vệ như những đứa bé được nuôi trong lồng kính, và có lẽ cũng vì sống quá sung sướng mà đâm sinh bệnh. Vì ít vận động lại thêm được bảo vệ quá mức nên gầy yếu, xanh xao, khí huyết bị tổn hại nghiêm trọng.
Cuộc sống quá sung sướng như vậy lại đối lập hoàn toàn với con dân thiên hạ. Trong khi ngoài kia nhiều đứa trẻ bị chết lạnh, chết đói thì lại có người sinh bệnh vì ăn ở quá “lành mạnh”. Và đó cũng là thực trạng xã hội lúc bấy giờ, người dân nghèo khổ bị bóc lột kiệt quệ, họ không còn làm chủ được cuộc đời của mình và phải chịu kiếp làm trâu làm ngựa cho kẻ khác. Tiền của, máu xương của họ bị bóc lột để hầu hạ những kẻ may mắn vốn sinh ra chốn quyền quý.
Qua “Vào phủ chúa Trịnh”, ta không chỉ thấy được sự thối nát, mục ruỗng của chế độ lúc đó mà còn thấy được giá trị tố cáo sâu sắc khi tước đoạt sức lực, của cải của con người. Thật đáng buồn cho kẻ làm vua nhưng không nắm được trong tay quyền lực mà chỉ loay hoay làm con rối cho kẻ khác, vua Lê tuy có tất cả nhưng thiếu đi mất cái ý chí, suy nghĩ của bản thân để rồi làm vật trang trí cho kẻ nắm giữ quyền lực.
Và cũng từ tác phẩm ta nhận ra được tâm hồn của một lương y yêu thương con người, trân trọng tự do của cuộc đời mình. Chẳng vậy mà khi chuẩn bệnh cho thế tử ông đã chọn phương thuốc hòa hoãn mà không một lần chữa khỏi cho thế tử, có lẽ vì ông sợ tiền tài danh vọng sẽ tước mát tự do của mình. Sau cũng thì tự do tự tại và sống vì người khác vẫn là lẽ sống của nhân tài bấy lâu nay.
Trong cuộc sống vẫn còn nhiều mảnh đời bất hạnh, vẫn còn bất công và đau đớn. Vậy nên con người phải không ngừng phấn đấu và cải thiện để cùng nhau tạo ra một xã hội văn minh hơn, loại bỏ đi bất công và bóc lột.
Và sau nhiều day dứt đấu tranh cuối cùng nhân loại cũng đã làm được, giờ đây chúng ta đã có cuộc sống no đủ, không còn phải vật vã đấu tranh để đòi quyền sống và quyền tự do của bản thân nữa. Nhưng bình yên nào mà không có đớn đau, chúng ta phải sống cho cả những người đã hy sinh xương máu để đấu lật đổ cái thối nát của xã hội. Tất cả phải sống tốt để không còn những cảnh bất công sống lệch như trong “Vào phủ chúa Trịnh”.
Đừng bỏ qua 🔥 Phân Tích Số Phận Con Người 🔥 8 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Phân Tích Chi Tiết Bài Vào Phủ Chúa Trịnh – Mẫu 5
Bài văn mẫu phân tích chi tiết bài Vào phủ chúa Trịnh sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích dành cho các em học sinh trong quá trình làm bài.
Thượng kinh kí sự của Lãn Ông Lê Hữu Trác là một kiệt tác độc đáo trong văn học cổ Việt Nam. Quang cảnh vàng son nơi phủ chúa, hình ảnh “con Trời”, hình ảnh vị thầy thuốc đã để lại bao ấn tượng vô cùng sâu sắc trong tâm hồn mỗi chúng ta khi đọc “Vào phủ chúa Trịnh”.
Quang cảnh phủ chúa được vệ sĩ canh gác cẩn mật, nghiêm ngặt, vô cùng đẹp đẽ, tráng lệ. Vườn ngự uyển “cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương”. Những dãy hành lang thì “quanh co nối nhau liên tiếp”, người giữ cửa “truyền báo rộn ràng”; người có việc quan “qua lại như mắc cửi”; vệ sĩ canh giữ cửa cung rất nghiêm ngặt, “ai ra vào phải có thẻ”.
Cảnh phủ chúa làm cho Lê Hữu Trác ngạc nhiên, xúc động, nghĩ bụng: “Bước chân đến đây mới hay cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường”. Bài thơ thất ngôn bát cú mà tác giả ngâm lên đã làm nổi bật cảnh giàu sang của vua chúa thời Lê – Trịnh.
Trong phủ chúa có nhiều cung điện nguy nga tráng lệ. Mỗi cung điện có một cái tên riêng nghe rất lạ tai. Đó là “Hậu mã quân túc trực”, kiểu cách thật là “xinh đẹp”, cột và bao lơn “lượn vòng”, điếm làm bên một cái hồ, có những cái cây “lạ lùng”, những hòn non bộ “kì lạ”. Đó là nhà “Đại đường” gọi là “Quyển bồng”; “Gác tía” được gọi là “phòng trà” vì thế tử “dùng trà” ở đấy. Lầu cao và rộng. Có hai cái kiệu để vua chúa đi. Sập thếp vàng, võng diễu, đồ nghi trượng và các cột đều sơn son thếp vàng; bàn ghế, đồ đạc là những thứ cực kì sang trọng “nhân gian chưa từng thấy”.
Nhiều cửa, nhiều trướng gấm “tối om”. Không khí trang nghiêm bao trùm “phòng trà” nơi “Gác tía”. Đèn sáp chiếu sáng, hương hoa ngào ngạt. Sau tấm màn là nơi “phòng trà”, các cung nhân “mặt phấn và màu áo đỏ” đứng “xúm xít”. Không một tiếng nói to. Chỉ có người “hỏi nhỏ”, “nhìn nhau”. Các vị lương y của sáu cung, hai viện thì ngày đêm “chầu chực” hầu trà. Khi quan Chánh đường xuất hiện tại “phòng trà” thì những người có mặt “tất cả đều đứng dậy”, quan chánh đường “ngồi ghế trên”, còn mọi người “ngồi theo thứ tự” đúng nghi lễ nơi phủ chúa.
Một vài chi tiết khá “đắt” nêu bật giá trị hiện thực của tác phẩm. Ngoài quang cảnh cung cấm, ta tò mò tìm hiểu con bệnh. Đó là thế tử Cán, một đứa bé độ năm sáu tuổi, mặc áo lụa đỏ ngồi trên sập sơn son thếp vàng, có mấy người đứng hầu hạ hai bên. Khi được lệnh quan Chánh đường, Lãn Ông mới được lạy con bệnh – con Trời – bốn lạy. Câu nói của con bệnh thật ngộ nghĩnh mà hồn nhiên: “Ông này lạy khéo”. Nơi cung cấm có biết bao cung nhân xinh đẹp đứng xúm xít sau màn là “mặt phấn và màu áo đỏ”.
Bữa cơm mà Lãn Ông được ăn tại điếm “Hậu mã quân túc trực”, tuy chỉ được quan Chánh đường “san mâm cơm” cho ăn, nhưng vị đại danh y bao giờ có thể quên được. “Mâm vàng, chén bạc, đồ ăn toàn là của ngon vật lạ” khiến cho Lãn Ông phải thốt lên: “Tôi bây giờ mới biết cái phong vị của nhà đại gia”. Đúng là “Cơm ngự thiện bữa nghìn quan – Làm cho dân hết, dân tàn mới thôi”.
Đoạn văn “Vào phủ chúa Trịnh” có cảnh trung tâm là cảnh Lê Hữu Trác khám bệnh, kê đơn thuốc cho vị “con Trời”. Sau bốn lạy và được phép của quan Chánh đường, Lê Hữu Trác được “khúm núm đến trước sập xem mạch”. Sau khi có tiếng nói nhỏ trong màn trướng, Lãn Ông mới được “xem kĩ tất cả” lưng, chân tay một lượt. Vị đại danh y lại lạy con bệnh bốn lạy sau khi quan Chánh đường truyền mệnh. Lãn Ông được một tiểu hoàng môn đưa ra ngoài chờ ở “phòng trà”.
Chi tiết miêu tả này là khá “đắt”, góp phần làm nổi bật sự “khúm núm” của vị thầy thuốc lúc xem mạch và kê đơn. Đó là cái ghế rồng sơn son thếp vàng, trên ghế bày nệm gấm đặt bên cạnh cái sập nơi thế tử Cán ngồi. Ai thường ngồi trên cái ghế rồng đó? Đó là “da cọp” chứ chơi đâu!
Con bệnh “bệnh mắc đã lâu, tinh khí khô hết, da mặt khô, rốn lồi to, gân thời xanh, tay chán gày gò”, “nguyên khí đã hao mòn, thương tổn quá mức”. Trong lúc quan Chánh đường và các vị lương y sáu cung hai viện chỉ lo “dùng thứ thuốc công phạt”, thì Lãn Ông lại cho rằng “bệnh thế này không bổ thì không được”.
Cuộc đấu tranh giữa nhàn và danh lợi, về y đức của Lãn Ông diễn ra giằng co. Nếu làm “có kết quả ngay thì sẽ bị danh lợi nó ràng buộc, không làm sao về núi được”. “Dùng thứ phương thuốc hoà hoãn, nếu không trúng thì cũng không sai bao nhiêu”. Cuộc tự đấu tranh tư tưởng diễn ra căng thẳng.
Y đức đã nhắc nhở Lãn Ông “phải dốc hết cả lòng thành, để nối tiếp cái lòng trung của cha ông mình”, vì thế ông phải “nghĩ lại một hồi” rồi mới nói với quan Chánh đường, phải “giải thích mãi” trước khi kê đơn. Đâu phải vì con bệnh là thế tử, mà sâu xa hơn nữa là tấm lòng “lương y như từ mẫu”. Bài học về sống nhàn, coi thường danh lợi, đặt y đức lên hàng đầu là bài học giá trị nhân đạo mà Lãn Ông đã nêu ra và để lại cho đời. Ta chợt nhớ vần thơ của Nguyễn Đình Chiểu trong “Ngư Tiều y thuật vấn đáp”:
Đứa ăn mày cũng trời sinh,
Bệnh còn cứu đặng, thuốc đành cho không.
Lãn Ông đã độc lập suy nghĩ, không hề bị ràng buộc bởi ai, dù đó là quan Chánh đường. Chi tiết quan Chánh đường “cố ý ngại” sau khi xem đơn thuốc của Lãn Ông kê cho thế tử đã thể hiện tinh thần độc lập suy nghĩ, giữ vững chủ kiến và đề cao y đức của người thầy thuốc chân chính tài giỏi.
Đoạn “Vào phủ chúa Trịnh” là trang kí sự rất đặc sắc và độc đáo. Tác giả kết hợp tả và kể, lồng cảm xúc vào ý nghĩ, tạo nên một giọng văn thâm trầm có nhiều chi tiết cảm động, chân thực, giàu giá trị hiện thực. Quang cảnh tráng lệ của phủ chúa, hình ảnh con bệnh, quan Chánh đường, mấy cung nhân, các vị thầy thuốc của sáu cung hai viện, bữa cơm ăn tại điếm “Hậu mã quân túc trực”, cảnh xem bệnh và kê đơn… tất cả đều chân thực và có giá trị tư liệu lịch sử.
Lãn Ông là một tao nhân, bài thơ của ông ngâm khi ngắm cảnh vàng son tráng lệ nơi phủ chúa cho thấy vị danh y này rất tài hoa. Những bài thơ trong “Thượng kinh kí sự” đã tạo nên tính trữ tình độc đáo của áng văn chương mang tầm vóc cổ điển, càng đọc càng thú vị.
Mời bạn tiếp tục đón đọc 🌳 Phân Tích Ông Già Và Biển Cả 🌳 10 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Phân Tích Giá Trị Hiện Thực Vào Phủ Chúa Trịnh – Mẫu 6
Với bài văn mẫu phân tích giá trị hiện thực Vào phủ chúa Trịnh, các em học sinh có thể trau dồi nâng cao kỹ năng phân tích tác phẩm văn học.
Lê Hữu Trác (1720-1791) hiệu là Hải Thượng Lãn Ông, một đại danh y của Đại Việt. Ngoài những trước tác về y học trong bộ “Y tông tâm lĩnh” gồm 66 quyển, ông còn để lại nhiều thơ văn, trong đó có tác phẩm độc đáo “Thượng kinh kí sự”. Thơ văn của Lãn Ông nhẹ nhàng, hóm hỉnh, giàu tính hiện thực, phản ánh một nhân cách cao đẹp: coi thường công danh phú quý, yêu thiên nhiên, yêu quý đồng loại, thích cuộc sống thanh nhàn.
“Thượng kinh kí sự” ghi lại hành trình của ông lên kinh đô Thăng Long chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Đoạn văn “Vào phủ chúa Trịnh” trích trong cuốn kí sự ấy rất giàu giá trị hiện thực và cho thấy một ngòi bút đậm đà, tài hoa.
Lần đầu, Lê Hữu Trác được vào Trịnh phủ. Ông ngẫm nghĩ và quan sát rất kĩ càng. Cửa sau vào phủ chúa phải đi qua con đường bên trái, ông ngẩng đầu lên nhìn một khung cảnh tuyệt đẹp “đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương”. Nơi cung cấm, hành lang “quanh co nối nhau liên tiếp”, người giữ cửa, vệ sĩ canh giữ nghiêm ngặt, ai muốn vào ra phải có thẻ, người có việc quan qua lại như mắc cửi, “truyền báo rộn ràng”.
Quan sát cảnh cung cấm, Lê Hữu Trác ngẫm nghĩ: “Bước chân đến đây mới hay cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường”. Rồi ông làm thơ nói lên sự ngạc ngạc nhiên, xúc động của mình tựa như “ngư phủ Đào nguyên thuở nào”:
“Cả trời Nam sang nhất là đây!
Lầu từng gác vẽ tung mây,
Rèm châu, hiên ngọc, bóng mai ánh vào.
Hoa cung thoảng ngạt ngào đưa tới,
Vườn ngự nghe vẹt nói đòi phen!”
Ông thầy thuốc trên đường đi khám bệnh, mang tâm hồn thi sĩ, tả cảnh, vịnh thơ, ta tưởng như ông đang đi thăm thú cảnh đẹp. Cách viết kí sự của Lê Hữu Trác hấp dẫn ta vì thế!
Trong Trịnh phủ, cung điện nguy nga tráng lệ. Mỗi lâu đài, cung điện có một cái tên riêng. Đó là “Điếm Hậu mã quân túc trực” làm bên một cái hồ, cột và bao lơn “lượn vòng kiểu cách thật là xinh đẹp”, phía ngoài có những cây “lạ lùng”, có những hòn đá “kì lạ”. Nhà “Đại đường” còn gọi là “Quyển bồng”. Là cái lầu cao và rộng, “cột đều sơn son thiếp vàng” gọi là “Gác tía”, nơi Thế tử dùng “chè thuốc”, nên gọi là “Phòng trà”.
Lê Hữu Trác có phần choáng ngợp sợ hãi “chỉ dám liếc mắt nhìn rồi lại cúi đầu đi”. Cảnh đẹp nơi Trịnh phủ, từ vườn hoa đến hồ, từ lầu son đến gác tía là những công trình văn hoá nghệ thuật do tài trí công sức của nhân dân làm nên, vì thế Lê Hữu Trác đã xúc động ngắm nhìn. Cảnh đẹp nơi Trịnh phủ được miêu tả còn mang ý nghĩa hiện thực phản ánh cuộc sống xa hoa của bọn vua chúa thời Lê – Trịnh, cảnh giàu sang “khác hẳn người thường”.
Phương tiện đi lại của vua chúa là hai cái kiệu; đồ nghi trượng đều sơn son thiếp vàng. Thứ để ngồi và nằm là một cái sập thiếp vàng, trên sập mắc một cái võng điều đỏ. Xung quanh cái sập bày bàn ghế vô cùng quý giá, sang trọng làm cho ông thầy thuốc phải tấm tắc và cảm thấy “những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy”.
Thế tử – con bệnh – là con Trời, mới lên 5, 6 tuổi mặc áo lụa đỏ, ngồi trên cái sập thiếp vàng. Bên cạnh sập đặt một cái ghế rồng sơn son thiếp vàng, trên ghế bày nệm gấm. Lê Hữu Trác phải đi qua năm, sáu lần trướng gấm mới đến được nơi thế tử ngồi để “lạy bốn lạy” trước và sau khi khám bệnh. Nơi nội cung, đèn sáp chiếu sáng, sau chiếc màn là cung nhân đứng xúm xít, “mặt phấn, màu áo đỏ”. Cả một không gian “lấp lánh, hương hoa ngào ngạt”. Thật đúng “Cả trời Nam sang nhất là đây!”
Vua chúa và bọn quan lại trong phủ chúa ăn uống như thế nào? Tại điếm “Hậu mã” lần đầu tiên và cũng là lần duy nhất trong cuộc đời, vị đại danh y được ăn một bữa cơm ngon nhớ mãi. Tuy chỉ được quan Chánh đường “san mâm cơm cho ăn” nhưng “mâm vàng, chén bạc, đồ ăn toàn là của ngon vật lạ”. Ông thầy thuốc mà danh tiếng “như sấm động” đã suy nghĩ và nói: “Tôi bây giờ mới biết cái phong vị của nhà đại gia”.
Chốn đế đô cung cấm là nơi “lính nghìn cửa vác đòng nghiêm ngặt”. Lê Hữu Trác chỉ mới được đặt chân tới một vài cung điện, mới tiếp xúc một vài cảnh, một số ít người, nhưng ông đã nêu bật được cuộc sống xa hoa, hưởng lạc của vua chúa thời Lê – Trịnh.
Cuộc sống đế vương được xây dựng trên mồ hôi xương máu của nhân dân, mọi thứ của ngon vật lạ do người lao động cả nước làm ra bị tước đoạt cho một số ít người hưởng thụ. “Cơm ngự thiện bữa nghìn quan” xưa nay đều thế! Tác giả “Thượng kinh kí sự” có một lối viết rất hiện thực và ấn tượng, mọi chi tiết được ông nói đến rất sống động.
Lê Hữu Trác vốn dòng dõi thế tộc thời Lê, sinh trưởng ở chốn phồn hoa, trong cấm thành chỗ nào cũng đã từng biết, nhưng Trịnh phủ thì “ông mới nghe nói thôi”, lần đầu đi vào ông choáng ngợp như bước vào cảnh thần tiên:
“Quê mùa cung cấm chưa quen,
Khác gì ngư phủ Đào nguyên thuở nào!”.
Coi thường danh lợi, ông đã vào tận Hương Sơn, Hà Tĩnh sinh sống, chuyên tâm nghề y, lấy chữa bệnh cứu người làm lẽ sống. Vì có tài, tiếng tăm như sấm động nên có thánh chỉ triệu vào cung chữa bệnh cho thế tử. Ông viết một cách hóm hỉnh về cái bả công danh: “Cáng chạy như ngựa lồng, tôi bị xóc một mẻ, khổ không nói hết”. Nửa thế kỉ sau, Cao Bá Quát chua chát viết: “ơn vua kèm theo sấm sét!”.
Tiếp xúc với cảnh và người nơi Trịnh phủ, Lê Hữu Trác có lúc mất tự nhiên, có lúc sợ sệt, hoặc “cúi đầu” hoặc “liếc mắt nhìn”. Lúc xem mạch thì “khúm núm” phải hai lần vái lạy một đứa bé độ 5,6 tuổi, mỗi lần bốn lạy!
Lúc kê đơn là một cuộc tự đấu tranh tư tưởng diễn ra vô cùng gay gắt xung quanh vấn đề danh lợi, y đức và chữ nhàn. Ông nghĩ: “Nếu mình làm có kết quả ngay thì sẽ bị danh lợi nó ràng buộc, không làm sao về núi được”, về núi để được sống tự do, thảnh thơi, chan hoà với thiên nhiên. “Lưng không uốn, lộc nên từ là thế!”
Lương tâm bậc danh y lại nhắc nhở ông “phải dốc hết cả cái lòng thành, để nối tiếp cái lòng trung của ông cha mình mới được”. Cái lòng thành mà ông nói đến là lương y như từ mẫu, là y đức coi việc chữa bệnh cứu người là lẽ sống cao đẹp. Vì thế, mặc dù quan Chánh đường có gợi ý nên dùng những vị thuốc “phát tán mới xong”, mặc dù có năm, sáu vị lương y của sáu cung, hai viện đang ngày đêm chầu chực xung quanh con bệnh, nhưng Lê Hữu Trác vẫn có chủ kiến riêng, lập luận riêng của mình:
“Tôi thấy thánh thể gầy, mạch lại tế, sác. Thế là âm dương đều bị tổn hại, nay phải dùng thuốc thật bổ để bồi dưỡng tì và thận, cốt giữ cái căn bản tiên thiên và làm nguồn gốc cho cái hậu thiên…”. Qua đó, ta thấy tài năng và đức độ của Lê Hữu Trác, một đại danh y coi thường danh lợi, sống thanh bạch, thích nhàn, lấy việc trị bệnh cứu người, đạt lên trên hết, lên trước hết. Biệt hiệu “Lãn Ông” thật giàu ý nghĩa: ông già lười, lười làm quan và biếng danh lợi.
Đoạn văn “Vào phủ chúa Trịnh” thật hay và thú vị, ta cảm thấy như được tác giả dẫn đi xem cung điện Thăng Long thời Lê – Trịnh. Đoạn văn cũng như toàn tác phẩm “Thượng kinh kí sự” vừa có giá trị văn chương vừa giàu giá trị lịch sử.
Đoạn văn rất giàu tính hiện thực, phản ánh chân thực cảnh vàng son nơi Trịnh phủ và cuộc sống xa hoa, phú quý của vua chúa, quan lại thời Lê – Trịnh. Cách viết của Lãn Ông rất đặc sắc hấp dẫn. Vừa tả, vừa kể, vừa lồng ý nghĩ cảm xúc, rất chân thực, hóm hỉnh. Ngôn ngữ văn chương, ngôn ngữ đời thường, ngôn ngữ cung đình, ngôn ngữ chuyên môn về y học được tác giả sử dụng rất sáng tạo, biến hoá.
“Vào phủ chúa Trịnh”, đoạn kí sự giàu chất thơ đã phản chiếu vào một tâm hồn đẹp, một nhân cách cao quý.
Chia sẻ thêm cùng bạn 🍀 Phân Tích Tự Tình Hồ Xuân Hương 🍀 15 Bài Văn Hay Nhất
Phân Tích Bức Tranh Hiện Thực Vào Phủ Chúa Trịnh – Mẫu 7
Tham khảo bài phân tích bức tranh hiện thực Vào phủ chúa Trịnh dưới đây sẽ giúp các em học sinh có thêm góc nhìn sâu sắc hơn về giá trị hiện thực của tác phẩm.
Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác được biết đến không chỉ với danh tiếng của một danh y lỗi lạc, nhân từ và một ẩn sĩ thanh cao, cứng cỏi mà còn là tác giả của cuốn “Thượng kinh kí sự” nổi tiếng. Đầu năm 1782, do danh tiếng y thuật vang xa, ông được lệnh triệu ra kinh đô để chữa bệnh cho Thế tử Trịnh Cán và chúa Trịnh Sâm.
Nhờ những tư liệu, ghi chép trong chuyến đi, ông đã hoàn thành tác phẩm “Thượng kinh kí sự” với giá trị hiện thực sâu sắc. “Vào phủ chúa Trịnh” là một trong những trích đoạn đặc sắc thể hiện rõ điều này bằng việc lên án, tố cáo cuộc sống xa hoa, quang cảnh lộng lẫy cùng những tầng lớp vua quan trong bộ máy xã hội phong kiến.
Trước hết, dưới con mắt tỉnh táo, tinh tế của một ẩn sĩ, tác giả Lê Hữu Trác đã ghi lại và phản ánh trong tác phẩm của mình đời sống xa hoa, giả dối và đầy thị phi của tầng lớp vua quan thông qua những chi tiết về quang cảnh xa hoa, lộng lẫy trong các dinh thự và phủ các.
Đó là vườn hoa với “cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương”, đó là những nhà “Đại đường”, “Quyển bồng”, “Gác tía” với kiệu son, võng điều, đồ nghi trượng sơn son thếp vàng và “những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy” cùng “mâm vàng, chén bạc” được dùng lúc tiếp khách ăn uống. Tất cả khung cảnh vàng son lộng lẫy xa hoa của phủ chúa đã được phóng chiếu qua đôi mắt và sự quan sát, tinh tế và tỉ mỉ của tác giả.
Không chỉ dừng lại ở đó, giá trị hiện thực của tác phẩm còn được tạo nên thông qua những chi tiết về cung cách sinh hoạt trong phủ chúa. Ngay từ lúc tác giả lên cáng vào phủ theo lệnh chúa thì điều này đã được làm nổi bật: “có tên đầy tớ chạy đằng trước hét đường” và “cáng chạy như ngựa lồng”. Khi đặt chân vào phủ chúa, tác giả quan sát thấy cảnh tượng “người giữa cửa truyền báo rộn ràng, người có việc qua lại như mắc cửi”. Quang cảnh đó đã khiến cho tác giả không khỏi ngạc nhiên:
“Lính nghìn cửa vác đòng nghiêm nhặt
Cả trời Nam sang nhất là đây”
Câu thơ của tác giả đã minh chứng rõ thêm về quyền uy nơi phủ chúa. Chính ông cũng đã bộc bạch trước cảnh xa hoa đó rằng: “Mình vốn cũng là con em nhà quan, sinh trưởng nơi phồn hoa, khắp chốn trong cấm thành, chỗ nào cũng từng quen thuộc, duy có quang cảnh phủ chúa thì chỉ được nghe nói tới mà thôi. Nay được đến đây, mới biết hết là sự giàu sang của vua chúa, quả là không ai sánh kịp”.
Những câu thơ hay lời bình luận của tác giả cũng đã làm nổi bật giá trị về mặt thời gian nghệ thuật của tác phẩm. Đó là sự xuất hiện của thời gian tâm lí. Bên cạnh thời gian vật lí là những con số về ngày giờ, năm tháng và niên hiệu, tác giả còn dành ra những khoảng không để chiêm nghiệm về các sự kiện đã diễn ra, khiến cho mỗi một sự miêu tả trong tác phẩm đều chứa đựng những suy nghĩ và cảm xúc của tác phẩm.
Bằng ngòi bút chân thực và sắc nét, trong đoạn trích này, tác giả còn gián tiếp lên án và tố cáo đời sống xa hoa, bệnh hoạn của giới quý tộc, quan lại đương thời. “Bệnh” của Trịnh Cán đã được ông nhận xét như sau: “là do sinh trưởng ở nơi màn the trướng gấm, ấm nó quá sức, tạng phủ kém yếu, lại thêm bị ốm lâu nên tinh huyết hao kiệt,…”. Chúa Cán vốn là trẻ con hồn nhiên nghiễm nhiên trở thành nạn nhân của sự sung túc, thừa thãi và dưỡng dục sai lầm.
Trước những căn bệnh như thế này, việc cứu chữa sẽ được các ngự y tiến hành như thế nào? Tác giả lại tiếp tục khéo léo lên án đám thầy thuốc Bắc Hà với căn bệnh ngu dốt, nhưng ảo tưởng, tham lam và nhỏ nhen. Đó là đám “y lại” chuyên đố kị, dèm pha lẫn nhau, không vì đạo làm thuốc mà vì danh lợi.
Bằng những nét bút miêu tả khá tự nhiên, chân thực, Hải Thượng Lãn Ông đã bắt mạch, lên đơn những căn bệnh của chế độ phong kiến lúc bấy giờ. Bên ngoài lớp vỏ bọc hoàn hảo của quang cảnh xa hoa lộng lẫy và cung cách sinh hoạt đầy quyền uy, hòa nhoáng và thịnh trị là những mầm bệnh đang phát tác, thể hiện sự mục rỗng và báo hiệu sự khủng hoảng tất yếu của chế độ xã hội phong kiến đương thời.
Giá trị hiện thực sâu sắc của tác phẩm “Vào phủ chúa Trịnh” đã làm nên tính chân thực của “Thượng kinh kí sự” qua bút pháp kí sự vô cùng đặc sắc của tác giả. Đó là sự kết hợp thành công của đôi mắt quan sát tỉ mỉ cùng ngòi bút ghi chép trung thực, tả cảnh sinh động, ngay cả những chi tiết nhỏ nhất để tạo nên cái thần của cảnh và vật thấm đẫm trong từng con chữ và xuyên suốt trang văn.
Thông qua giá trị hiện thực của tác phẩm, độc giả còn thấy được giá trị nhân đạo ẩn chứa một cách sâu sắc. Bằng sự quan sát và ghi chép về quang cảnh xa hoa lộng lẫy, tác giả đã gián tiếp thể hiện sự đồng cảm, thương xót đối với cuộc sống cơ cực, lầm than của nhân dân. Bức tranh về xã hội phong kiến đã được phác họa trong sự đối lập giữa đời sống của tầng lớp quan lại và cuộc sống của những người dân.
Gợi ý cho bạn 🌳 Phân Tích Rừng Xà Nu 🌳 15 Bài Văn Phân Tích Tác Phẩm Hay
Văn Mẫu Nêu Ý Nghĩa Phân Tích Bài Vào Phủ Chúa Trịnh – Mẫu 8
Bài văn mẫu nêu ý nghĩa phân tích bài Vào phủ chúa Trịnh sẽ giúp các em học sinh nắm vững cho mình nội dung và những ý chính trọng tâm khi viết bài.
Lê Hữu Trác là một nhà y học tài năng đã để lại cho đời sau một sự nghiệp y học đồ sộ. Người ta còn biết đến ông với tư cách là một nhà văn nhà thơ xuất sắc, ông đã đóng góp vào kho tàng văn học dân tộc những tác phẩm văn chương rất quý giá, trong đó phải kể đến đoạn trích vào phủ chúa Trịnh trong tập kí Thượng kinh kí sự của ông.
Thượng kinh kí sự là tập kí viết bằng chữ hán của Hải Thượng Lãn Ông. Tác phẩm ghi chép lại những điều ông mắt thấy tai nghe trong một chuyến đi từ Hương Sơn (Hà Tĩnh), nơi ông sống ẩn dật, đến kinh đô Thăng Long, vào phủ Chúa theo “thánh chỉ” để chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán.
Tác phẩm cho ta thấy quang cảnh ở kinh đô, quyền uy thế lực của nhà chúa và cuộc sống xa hoa trong phủ chúa Trịnh, đồng thời cũng cho thấy tâm hồn, nhân cách của một vị danh y tài cao, đức trọng. Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh là một trong những đoạn văn thể hiện tập trung tư tưởng này.
Đoạn trích đã miêu tả tỉ mỉ quá trình cũng như khung cảnh tác giả được triệu vào khám bệnh cho thế tử. Thời gian được ghi rõ là ngày “mồng một tháng hai”, “sáng tinh mơ”; và nói rõ nguyên cớ sự việc “có Thánh chỉ triệu vào cung: – đó là đặc điểm của thể kí sự.
Ở kinh đô được nhìn thấy cảnh giàu sang, xa hoa, Lê Hữu Trác đã tả lại cảnh ấy một cách chân thực bằng cái nhìn khách quan và tâm hồn giàu cảm xúc. Điều đáng lưu ý là cảnh vàng son nơi phủ chúa hiện lên như một thiên đường: “Tôi ngẩng đầu lên đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương.
Những dãy hành lang quanh co nối nhau liên tiếp. Người giữ của truyền báo rộn ràng”… Tâm hồn tác giả nhảy cảm, giàu tình yêu thiên nhiên, nhưng với cảnh giàu sang, xa hoa nơi phủ chúa, Hải Thượng Lãn Ông vẫn có một giọng trào lộng. Tất cả tâm hồn, tình yêu thiên nhiên, cùng thái độ trào lộng ấy đều được thể hiện rõ nét trong việc miêu tả và tự thuật.
Hải Thượng viết: “Tôi nghĩ: Mình vốn con quan, sinh trưởng ở chốn phồn hoa, chỗ nào trong cấm thành mình cũng từng biết. Chỉ có những việc trong phủ chúa…. mới hay cái cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường”. Đứng trước cảnh cung vua trang hoàng xa hoa lộng lẫy, tác giả đã phải thốt lên thành thơ, và miêu tả lại cảnh đẹp nơi chốn cung đình này:
“Lính nghìn cửa vác đòng nghiêm ngặt
Cả trời Nam sang nhất là đây!
Lầu từng gác vẽ tung mây,
Rèm châu, hiên ngọc, bóng mai ánh vào.
Quê mùa, cung cấm chưa quen,
Khác gì ngư phủ đào nguyên thuở nào!”
Mới đọc những lời thơ trên, người đọc dễ nhầm tưởng rằng tác giả đang cảm động trước vẻ đẹp của cảnh vật, nhưng thực chất, trong việc ca ngợi cảnh vật là sự mỉa mai châm biếm đối với vua quan nơi phủ chúa mà tác giả không thể bộc lộ thẳng thắn được.
Cảnh cung đình thật tráng lệ và đẹp mắt, hiện lên như ở cõi tiên với những “lầu son, gác tía”, “hiên ngọc, rèm châu”. Tác giả nói mình là “ngư phủ” lạc vào chốn “đào nguyên” theo tích trong Đào hoa nguyên kí của Đào Tiềm. Nói như vậy không rõ là để ngợi ca phủ Chúa hay là để mỉa mai?
Rồi tác giả còn miêu tả cặn kẽ hơn các ngôi điếm và cảnh quan cũng theo cái giọng điệu nửa khen nửa chê ấy: “Điếm làm bên cái hồ, có những cái cây lạ lùng và những hòn đá kì lạ. Trong đếm, cột và bao lơn lượn vòng, kiểu cách thật là xinh đẹp. Bằng những ngôn ngữ miêu tả hết sức chính xác và chân thực, tác giả đã khéo léo ngụ ý phê phán. Ông lên ác cuộc sống xa hoa nơi phủ chúa một cách kín đáo.
Hải Thượng Lãn Ông nhận thấy cuộc sống của muôn dân thì khổ cực, đói rách, nhưng trong phủ chúa thì sống xa hoa, sung túc. Đó là sản phẩm của sự bóc lột, trái ngược với đời sống của nhân dân. Ông diễn đạt điều này một cách khéo léo là “cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường”.
Hải Thượng Lãn Ông là một thầy thuốc tài giỏi của dân tộc, việc ông được tiến cử chữa bệnh cho thế tử là một cơ hội để tiếng tăm càng nổi hơn, và quan tước sẽ là điều chắc chắn. Song, với Hải Thượng Lãn Ông tất cả những thứ danh lợi ấy chỉ là phù phiếm. Ông không muốn vướng vào vòng danh lợi, cũng như những bậc ẩn sĩ thời xưa mà Đào Tiềm là một tấm gương.
Ông không màng danh lợi, không ham muốn cuộc sống xa hoa nơi cung điện mà tìm các tránh được việc phải ở lại làm quan. Thực ra thì sự đấu tranh tư tưởng đã diễn ra trong tâm trạng của Hải Thượng Lãn Ông. Nhưng đó không phải là sự đấu tranh của cái danh lợi với sự trong sạch của tâm hồn, mà là giữa đạo “trung” của kẻ bề tôi với lòng ham “về núi” của kẻ sĩ thời loạn.
Và cuối cùng ta thấy lòng ham “về núi” của kẻ sĩ thanh cao đã thắng: ông đã thật sự thoát được khỏi vòng danh lợi, dũng cảm và thông minh để từ chối việc chữa bệnh cho Trịnh Cán, một thế tử trẻ con, ốm yếu, bệnh hoạn…
Khi vào đến phủ chúa, tài năng của ông đã làm cho thái y và quần thần kính nể. Song ông tự nhận thấy rằng, tài năng của ông không được sử dụng để phục vụ cho chốn vua chúa xa hoa, càng không phải để phục vụ việc mưu cầu lợi ích riêng cho mình, mà là để phục vụ cho nhân dân, những người lam lũ và nghèo khổ.
Với tấm lòng vì nước vì dân và tài năng phi thường, qua ngòi bút của mình, Lê Hữu Trác đã tái hiện lại cuộc sống xa hoa nơi phủ chúa và qua đó, ta thấy hiện lên tâm hồn và nhân cách của Hải Thượng Lãn Ông: đó là một tâm hồn trong sạch, một nhân cách lớn của một nhà y thuật tài ba và giàu y đức.
Đọc nhiều hơn với 🔥 Phân Tích Hình Tượng Cây Xà Nu 🔥 14 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Phân Tích Bài Vào Phủ Chúa Trịnh Đạt Điểm Cao – Mẫu 9
Để viết phân tích bài Vào phủ chúa Trịnh đạt điểm cao, các em học sinh có thể tham khảo và vận dụng những ý văn hay dưới đây:
Mỗi xã hội đều có mặt tối của nó và ở đây luôn có kẻ thống trị và người bị trị. Thật vậy, dù xã hội có mục ruỗng thối tha đến đâu thì cũng không ảnh hưởng gì đến những kẻ cầm quyền, sau cùng cũng chỉ có những kẻ nghèo hèn, thấp cổ bé họng bị chà đạp. Cuộc sống của bọn quan quân mất dạy tham lam vẫn cứ xa hoa ngày qua ngày và nó được thể hiện rất rõ qua tác phẩm “Vào phủ chúa Trịnh”. Đây là tác phẩm mang giá trị hiện thực sâu sắc vạch trần bộ mặt xã hội thối nát lúc bấy giờ.
“Vào Phủ chúa Trịnh” là đứa con đẻ của Lê Hữu Trác, là sự nhức nhối trong lòng của một con người lương thiện yêu thương con người. Trong tác phẩm, ông đã miêu tả chi tiết về sự xa hoa cũng như những điều mà ông tai nghe mắt thấy đến kinh ngạc.
Đó là dịp ông đến kinh thành Thăng Long để chữa bệnh cho cha con chúa Trịnh Sâm, người được coi là có đời sống xa hoa nhất kinh thành lúc bấy giờ và tin đồn ác quái ấy đã đến được với tai ông. Nhưng khi tận mắt chứng kiến, khi được cảm nhận về cuộc sống ấy thì ông lại không khỏi bàng hoàng, mọi thứ còn hơn cả lời đồn khiến ông sững sờ đến không tưởng.
Mở đầu tác phẩm là khung cảnh hoành tráng, nguy nga diễm lệ của phủ chúa, đó là những hàng cây cao vút um tùm, mùi hương hoa thơm nức mũi, đâu đâu cũng có kẻ hầu người hạ túc trực. Mọi đồ vật trong phủ chúa đều sơn son thiếp vàng tráng lệ, có những thứ hình dáng mới lạ với kiểu cách xinh đẹp khiến người được chứng kiến như mở mang tầm nhìn.
Là một thầy thuốc có tiếng, lại là người tự tin đã từng đi khắp nơi, chứng kiến hết mĩ cảnh nhân gian thế nhưng Lê Hữu Trác cũng phải cúi đầu trước vẻ xa hoa, kiều diễm của phủ chúa. Trên nhân gian không có gì phủ chúa không có nhưng chưa chắc thứ ở phủ chúa có mà ở ngoài kia đã có.
Đi hết cửa này đến cửa khác, được tận mắt nhìn thấy khung cảnh trong phủ chúa khiến ông bàng hoàng không tin nổi vào mắt mình, chẳng biết đây là nhân gian hay chốn thiên đường phú quý nào đó ở một thế giới khác nữa. Thế nhưng vị danh y ấy lại phải trầm trồ một lần nữa bởi quy cách sinh hoạt ở phủ chúa. Được mời đến chữa bệnh nhưng ông cũng chỉ được đi cửa sau, người hậu kẻ hạ ở phủ chúa nhiều vô kể, chưa kể điều đáng ngạc nhiên nhất là khi được dùng cơm ở chốn cao sang quyền quý này.
Mọi thứ đều được làm bằng vàng, mâm vàng, chén bạc, đồ ăn toàn thứ của ngon vật lạ ở trên đời, những mỹ vị nhân gian mà ông chưa một lần được nếm thử. Đời sống của phủ chúa hết sức xa xỉ, thật vậy, bối cảnh xã hội lúc bấy giờ cũng rất rối ren, vua Lê nhu nhược chỉ xứng danh bù nhìn và mọi quyền lực đã rơi vào tay cha con chúa Trịnh, vậy là hắn tha hồ tác oai tác quái, hắn hưởng thụ một cuộc sống sung sướng bạc vàng mà chẳng hay dân chúng đang lầm than kêu khóc.
Cảnh cuộc sống ở phủ chúa mang giá trị tố cáo sâu sắc, đó là sự đối lập hoàn toàn với người dân nghèo khổ, họ bị chi phối về cả vật chất lẫn tinh thần, bị bóc lột đến tận cùng xương máu. Nhưng con giun xéo lắm thì cũng phải quằn, chịu nhiều áp bức, bóc lột đến thế vậy nên con người lao động nghèo khổ cũng biết nương tựa vào nhau để sống, để đấu tranh tìm lối thoát cho cuộc đời mình.
Vậy là khắp nơi bắt đầu nổ ra các cuộc đấu tranh, tiếng khóc than oán hận nay trở thành vũ khí để con người đạp đổ cái chế độ thối nát ấy. Họ là những kẻ nghèo hèn bất hạnh đấu tranh để đòi lại công lý cho cuộc đời mình, họ muốn có cuộc đời của riêng họ, sống bình thường và không bị bóc lột, không phải đặt mạng sống nhỏ bé của mình lên trên miệng người khác.
Là một người sáng suốt cũng như có kiến thức sâu rộng, vậy nên Lê Hữu Trác đã nhanh chóng nhận ra được bản chất của giai cấp cũng như nhận thức được về bản chất của triều đình phong kiến để rồi ông kiên quyết không đặt chân vào chốn lầm than vinh nhục nơi quan trường.
Ông chọn cách giấu đi tài nghệ của mình và muốn nhanh chóng thoát ra khỏi chốn hương mật phù phiếm để trở về sống một cuộc sống yên bình nơi núi rừng. Vàng bạc, tiền tài chẳng có nghĩa lý gì khi tâm hồn con người ta bị trói buộc, điều quý giá nhất của con người là tự do, chỉ khi có tự do con người mới thực sự gọi là sống.
Bức tranh phù phiếm về cuộc sống xa hoa nơi phủ chúa cũng được khắc họa qua bệnh tình của thế tử. Đó là một đứa trẻ tầm năm, sáu tuổi và bị mắc bệnh do ăn ở quá sướng. Nó hưởng mọi vinh hoa phú quý trên đời, sống một cuộc sống nhàn hạ đầy hưởng thụ vậy nên không phải hoạt động, ăn no, mặc ấm khiến tạng phủ yếu, thêm nữa là bệnh tật lâu ngày không khỏi dẫn đến héo mòn khí huyết, da khô, gầy gò và nổi đầy gân xanh.
Căn bệnh đấy thật sự không khó chữa thế nhưng Lê Hữu Trác lại giấu cái tài của mình đi và chỉ đưa ra một phương thuốc hòa hoãn cho thế tử, ông sợ nếu chữa nhanh quá thì sẽ bị kìm hãm bởi danh lợi, đánh mất tự do, đánh mất lý tưởng sống của mình.
Khép lại bức tranh sinh động nhưng đầy ngang trái về cuộc sống nơi phủ chúa ta thấy thêm được về sự thối nát và bất công của xã hội lúc bấy giờ. Đó là cuộc sống của bọn cầm quyền, là cái xã hội hời hợt đem mạng sống của con người nghèo khổ làm trò đùa. Đâu đó khắp chốn là những tiếng than khóc, có máu và nước mắt đầy bất hạnh. Qua tác phẩm chúng ta cũng thấy được một danh y với tấm lòng nhân hậu và sáng suốt. Ông quyết không đánh đổi tự do của mình để đổi lấy danh lợi, vì sau cùng đó cũng chỉ là hư danh trước mắt còn tự do là cả cuộc đời.
Mời bạn đón đọc 🌜 Phân Tích Nhân Vật T Nú 🌜 14 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Phân Tích Văn Bản Vào Phủ Chúa Trịnh Đặc Sắc – Mẫu 10
Tham khảo bài phân tích văn bản Vào phủ chúa Trịnh đặc sắc sẽ giúp các em học sinh hoàn thiện tốt hơn bài viết của mình và đạt kết quả cao.
Lê Hữu Trác là một danh y nổi tiếng không chỉ chữa bệnh mà còn soạn sách. Tác phẩm ” Thượng kinh kí sự” (kí sự đến kinh đô) là một trong những tác phẩm lớn của ông-được viết bằng chữ Hán, hoàn thành 1783. Đoạn trích “vào phủ chúa trịnh” trích từ bài kí sự sẽ giúp ta thấy rõ sự cao sang quyền uy cùng cuộc sống hưởng thụ cực điểm của nhà vua, qua đó thể hiện thái độ của tác giả.
Mở đầu đoạn trích, tác giả thể hiện sự cao sang quyền uy cùng cuộc sống hưởng thụ cực điểm của nhà vua. Bắt đầu từ quang cảnh tráng lệ trang nghiêm, lộng lẫy, tôn nghiêm với bên ngoài phủ chúa. Đường vào phủ chúa phải qua nhiều lần cửa với ” những dãy hành lang quanh co nối nhau liên tiếp”. Ở mỗi cửa đều có lính canh gác ” ai muốn ra vào phải có thẻ”. Vườn hoa trong phủ chúa có ” cây cối um tùm, trăm hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương”. trong khuôn viên phủ chúa có điếm” hậu mã quân túc trực”.
Quang cảnh bên trong phủ chúa được tác giả miêu tả hết sức tỉ mĩ. Kiệu son, võng điều, đồ nghi trượng đều sơn son thếp vàng và những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy. Có những nhà ” Đại Đường”, “Quyển Bồng”, “Gác Tía”. Còn đồ dùng để ăn uống toàn “mâm vàng chén bạc”.
Đi sâu vào nội cung thế tử, phải qua năm sáu lần trướng gấm. Ở trong phủ tối như mực. trong phòng thắp nến, có sập thếp vàng. Trên ghế bày nệm gấm bàn là che sân, còn xung quanh thì lấp lánh hương hoa ngào ngạt. Vì vậy, quang cảnh trong phủ chúa cực kì tráng lệ lộng lẫy, không đâu sánh bằng.
Kế đến là cung cách sinh hoạt lễ nghi khuôn phép. Khi tác giả lên cáng vào phủ chúa theo lệnh của chúa Trịnh Sâm, “có tên đầy tớ chạy đằng trước hết đường”, “cáng chạy như ngựa lồng”.Trong phủ chúa, ” người giữ cửa truyền báo rộn ràng”, “người có việc quan qua lại như mắc cửi”.Từ đó, thấy được chúa có vị trí trọng yếu và quyền uy tối thượng trong triều. Vì vậy, tác giả đã làm bài thơ làm rõ thêm uy quyền nơi phủ chúa:
“Lính nghìn cửa vác đòng nghiêm ngặt
Khác gì ngư phủ đào nguyên thuở nào!”
Tác giả dùng lời lẽ hết sức cung kính và lễ độ khi nhắc đến chúa Trịnh và thái tử:”Thánh thượng ngự ở đấy”,”hầu mạch cho đông cung thế tử”,”chầu trà, hầu trà”. Xung quanh chúa Trịnh luôn có phi tần chầu chực, người hầu kẻ hạ đến nỗi tác giả không thấy được mặt của chúa.
Khi xem mạch cho chúa xong, ông phải viết tờ khai để quan chánh đường dâng lên chúa. Cảnh tác giả khám bệnh cho Trịnh Cán được coi là một chi tiết đắt. Nội cung thế tử trang nghiêm khiến ông phải nín thở đứng chờ ở xa. Lúc đầu, khi thế tử bệnh, có bảy, tám người thầy thuốc đứng phục dịch, lúc nào cũng có người hầu hai bên.
Thế tử chỉ mới năm sáu tuổi, nhưng khi xem mạch cho Người, tác giả là người già phải quỳ lại còn được khen:”Ông này lạy khéo”. Điều đó nói lên sự hài hước của phủ chú như mọi trò hề. Nội cung thế tử được miêu tả hết sức tỉ mĩ “bên trong tối om, màn che trướng phủ”,” ăn quá no mặc quá ấm”, đó cũng là nguồn gốc nguyên nhân dẫn đến căn bệnh của thế tử.
Với hình ảnh của chúa Trịnh” đang ngự ở trong, có mấy người cung nhân đang đứng xúm xít, đèn sáp chiếu sáng làm nổi bật màu mặt phấn và màu áo đỏ” đã tự phơi bày cuộc sống hưởng lạc của phủ chúa không cần lời bình.
Đứng trước sự cao sang quyền uy cùng cuộc sống hưởng thụ cực điểm của nhà chúa, tác giả đã bộc lộ, tâm trạng và suy nghĩ của mình. Ông dửng dưng trước những quyến rũ vật chất, không đồng tình trước cuộc sống quá no đủ tiện nghi nhưng thiếu khí trời và tự do. Đứng trước cảnh phủ chúa xa hoa lộng lẫy tác giả nhận xét:” Bước chân đến đây mới hay cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường”. Còn khi được mời ăn sáng, tác giả nhận xét:”mâm vàng chén bạc, ăn toàn của ngon vật lạ, tôi bấy giờ mới hay cái phong vị đại gia.
Trên đường vào nội cung thế tử, ông thấy ” ở trong tối om, không thấy cửa ngõ gì cả”. Khi tác giả chữa bệnh cho thế tử, tâm trạng của ông diễn biến rất phức tạp. Tác giả đã nghĩ ra căn bệnh cụ thể, nguyên nhân của nó và ngầm phê phán” vì thế tử ở trong chốn màn che trướng phủ, ăn quá no, mặc quá ấm nên tạng phủ yếu đi”.
Ông hiểu rõ căn bệnh đưa ra cách chữa hợp lí và thuyết phục người khác. Nhưng ông sợ chữa có hiệu quả ngay thì sẽ được chúa tin dùng rồi bị công danh trói buộc. ” Nhưng sợ mình không ở lâu, nếu mình làm có kết quả ngay thì sẽ bị danh lợi ràng buộc, không làm sao về núi được nữa”.
Ông từng nghỉ” chi bằng ta dùng thứ thuốc hòa hoãn, nếu không trúng thì cũng không sai bao nhiêu, nhưng như thế là làm trái với y đức”. Vì thế, ông mang tâm trạng giằng co, xung đột nhưng cuối cùng phẩm chất lương y trung thực của người thầy thuốc đã chiến thắng. Ông đã gạt bỏ sở thích riêng qua một bên để làm tròn trách nhiệm của người thầy thuốc. Qua đó ta thấy ông là người thầy thuốc giỏi, kiến thức rộng, giàu kinh nghiệm và có lương tâm đức độ, xem thường danh lợi thích cuộc sống đạm bạc.
Bằng tái quan sát tỉ mĩ, ghi chép trung thực, miêu tả cụ thể, sống động, chọn lựa những chi tiết đắc và gây nhiều ấn tượng. Kết hợp giữa lối kể chuyện hấp dẫn, chân thật, hài hước với văn xuôi và thơ làm tăng chất trữ tình cho tác phẩm, góp phần thể hiện một cách kín đáo thái độ của người viết. Bên cạnh đó, ngôn ngữ giản dị mộc mạc đằng sau bức tranh và con người ấy chứa đựng bao tâm sự dồn nén của tác giả.
Tóm lại, đoạn trích vào phủ chúa Trịnh đã phản ánh quyền lực to lớn của Chúa Trịnh Sâm với sự cao sang quyền uy cùng cuộc sống hưởng thụ cực điểm của nhà Chúa. Đồng thời bày tỏ thái độ coi thường danh lợi, quyền uy của tác giả và cũng để lại cho ta nhiều bài học về y đức mà người thầy thuốc cần có.
Chia sẻ cùng bạn 🌹 Phân Tích Những Đứa Con Trong Gia Đình 🌹 14 Bài Văn Mẫu Đặc Sắc
Bài Phân Tích Vào Phủ Chúa Trịnh Học Sinh Giỏi – Mẫu 11
Bài phân tích Vào phủ chúa Trịnh học sinh giỏi sẽ mang đến những phân tích chuyên sâu và đa chiều về tác phẩm để các em học sinh cùng tham khảo.
Hải Thượng Lãn Ông – Lê Hữu Trác ngoài việc là một thầy thuốc nổi tiếng với tác phẩm Hải Thượng y tông tâm lĩnh, thì bản thân ông cũng là một người có tài văn chương, với những đóng góp đáng ghi nhận trong nền văn học Việt Nam. Một trong những cuốn nổi tiếng nhất trong bộ sách trên của ông đó là Thượng kinh ký sự. Ở đó ta sẽ có cơ hội được nhìn lại lịch sử Việt Nam thê kỷ 18, một thời kỳ mà ở đó có sự phân tranh gay gắt giữa vua Lê và chúa Trịnh.
Người ta ví rằng một triều đình có hai hoàng cung cùng song song tồn tại, điều đó đã đẩy cuộc sống nhân dân vào cảnh khốn cùng. Ta sẽ được tìm hiểu về một trong hai hoàng cung quyền uy, xa hoa tột bậc đó, chính là phủ chúa Trịnh qua lời của Lê Hữu Trác trong đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh.
Lê Hữu Trác (1724-1791), hiệu là Hải Thượng Lãn Ông, quê cha ở Trấn Hải Dương (Hưng Yên), quê mẹ ở huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh. Ông vừa là một danh y lỗi lạc, vừa là một nhà văn tài hoa. Tác phẩm của ông chỉ có một bộ duy nhất là Hải Thượng y tông tâm lĩnh, rất đồ sộ, là tâm huyết của cả cuộc đời ông viết trong gần 40 năm trời bền bỉ. Thượng kinh ký sự là quyển vĩ của bộ Hải Thượng y tông tâm lĩnh, viết nhân sự kiện chúa Trịnh Sâm mời Lê Hữu Trác ra kinh đô chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán, cuốn sách chính là kết quả của chuyến đi này.
Bằng những quan sát rất tinh tế của mình, Lê Hữu Trác đã tái hiện một cách rất sinh động bức tranh hiện thực nơi phủ chúa Trịnh. Ông tự đặt mình vào vị trí của một vi thầy thuốc nhà quê, một người dân lao động lần đầu tiên được bước chân vào phủ Chúa, để diện kiến bề trên, để thực sự thấy được cái cuộc sống xa hoa tột độ của giai cấp thống trị thời bấy giờ là như thế nào. Đây thật sự là cái nhìn của một bậc trí thức lương tâm và trung thực.
Tác giả quan sát sự vật theo trình tự không gian và thời gian, đi từ ngoài vào trong. Trước hết ấn tượng đầu tiên của Lê Hữu Trác là cảnh vật tươi đẹp nơi phủ Chúa: “cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đưa thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương”, rồi thì quang cảnh rộng lớn, đẹp mắt, “những dãy hành lang quanh co nối tiếp”, cảnh người qua lại nhộn nhịp “như mắc cửi”.
Chỉ mới bấy nhiêu thôi đã khiến cho Lê Hữu Trác, vốn lớn lên trong nhung gấm, giàu sang cũng phải mở rộng tầm mắt mà âm thầm cảm thán “cảnh giàu sang của vua chúa thực khác người thường!”. Trong đôi mắt của một thầy thuốc quê mùa, phủ Chúa thực chẳng khác nào chốn bồng lai tiên cảnh, “ngư phủ đào nguyên” cả, thực tươi đẹp không kể xiết.
Thế rồi khi bước vào nội cung, Lê Hữu Trác mới biết được cái cung cấm giàu sang nghiêm ngặt đến như thế nào. Khắp nơi nơi là đình đài, lầu các cao rộng, cảnh cung cấm được sơn son thếp vàng tỉ mỉ, rực rỡ, chưa kể những đồ vật bày biện bên trong toàn là những thứ “nhân gian chưa từng thấy”.
Rồi thì không khí ngào ngạt các mùi hương thơm của nến, của hoa nhưng lại mang đến cảm giác tù đọng, ngột ngạt vô cùng, thứ nhất là vì cái không khí thâm nghiêm, thứ hai là vì cái vẻ tráng lệ xa hoa phi thực quá mức, khiến cho mọi thứ không còn giữ được vẻ đẹp tự tại ban đầu.
Như vậy, qua đôi mắt quan sát tinh tường của Lê Hữu Trác ta đã thấy quang cảnh phủ Chúa hiện lên một cách chân thực và sinh động. Đó là một nơi xa hoa, tráng lệ, rực rỡ, không một nơi nào có thể sánh bằng, tuy nhiên cái đẹp vượt quá mức thường khiến cho cuộc sống vương giả trở nên ngột ngạt, tù hãm, dường như mất đi cái phần sinh khí tự nhiên của sự sống.
Đó là về cảnh sắc, về cung cách sinh hoạt nơi phủ chúa ta lại càng thấy được cái mức độ xa xỉ tột cùng của đấng bề trên lúc bấy giờ. Một mâm cơm để mời các ngự y mà cái chén cái bát nào cũng bằng vàng, bằng bạc, đồ ăn thì toàn của ngon vật lạ, Lê Hữu Trác thầm nghĩ “bấy giờ mới biết cái phong vị của nhà đại gia”. Rồi thì đường vào phòng bệnh của thế tử tuyệt nhiên chẳng có một cái cửa nào, mà được phủ bởi năm sáu lần trướng gấm, cách biệt với bên ngoài.
Trong phòng chỉ có một thế tử cùng với chúa vậy mà một đám người hầu, rồi lại một đám cung nhân chầu trực dù chẳng mấy khi có việc cần. Cũng chính cái lối sống, sung sướng xa hoa tột độ, nhưng ngột ngạt tù túng ấy đã khiến một đứa trẻ mới năm sáu tuổi mắc bệnh nặng. Lúc này đây màn che trướng phủ, sơn hào hải vị, lụa là gấm vóc lại cũng đang khiến con người ta trở nên bệnh tật, thế mới có câu cái gì quá cũng không tốt, là vậy.
Rồi thì căn nguyên bênh tật của thế tử cũng là lời sâu xa của Lê Hữu Trác về tình hình đất nước lúc bấy giờ, “nguyên khí đã hao mòn, thương tổn quá mức”, khó có thể chữa chạy. Ông đắn đo rất nhiều trong lúc chữa bệnh cho thế tử, không phải là không chữa được mà cốt là ông sợ mình bị giữ chân, bị cuốn vào cái vòng danh lợi luẩn quẩn không thể thoát thân được.
Cuối cùng, ông kê một phương thuốc hòa hoãn cho thế tử, bệnh sẽ khỏi nhưng lại không hết ngay và ông có thể an tâm rút về núi tiếp tục hành nghề mà không phải hổ thẹn với ơn nghĩa quốc gia bao đời.
Đoạn trích có giá trị hiện thực sâu sắc, phản ánh cái lối sống xa xỉ, hoang dâm vô đạo của phủ Chúa, chèn ép nhân dân bởi sưu cao thuế nặng, chỉ vì phục vụ cho cuộc sống xa hao tột bậc của chúng, để nhân dân phải sống trong cảnh lầm than, kêu trời không thấu, kêu đất chẳng hay. Lúc này đây cảnh cung cấm tráng lệ nơi phủ Chúa chính là nỗi đau của của nhân dân, là cái xiềng xích đang ngày đêm đang áp lên đôi vai gầy của những người dân cùng khổ.
Đồng thời đoạn trích cũng là tấm lòng coi thường danh vọng của Lê Hữu Trác, vị danh y ấy chỉ yêu tha thiết cái cảnh thanh bình, tự do nơi quê nhà, được hành y cứu người. Còn cái cuộc sống tuy xa hoa, sung sướng kia tuy hào nhoáng như rốt cục cũng phải chịu luồn cúi, khuôn phép thì có hay ho gì đâu.
Gửi đến bạn 🍃 Phân Tích Nhân Vật Chiến 🍃 10 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Bài Văn Phân Tích Vào Phủ Chúa Trịnh Chọn Lọc – Mẫu 12
Đón đọc bài văn phân tích Vào phủ chúa Trịnh chọn lọc dưới đây giúp các em học sinh có thêm cho mình tư liệu tham khảo phong phú.
Bên cạnh tài năng y thuật khiến người đời phải nể phục thì Lê Hữu Trác còn có một nhân cách thanh cao, trong sạch. Gia sản ông để lại cho hậu thế không chỉ là những kinh nghiệm y thuật quý báu mà còn có những thước phim chân thực về xã hội phong kiến lúc bấy giờ. “Thượng kinh ký sự” chính là tác phẩm mà Lê Hữu Trác kể lại những gì ông tai nghe mắt thấy vào thời ấy. Qua đó, ông giúp chúng ta hiểu hơn phần nào về cuộc sống xa hoa nơi phủ chúa, đồng thời khẳng định tấm lòng đức độ và nhân cách đáng trọng của vị danh y kỳ tài.
“Vào phủ chúa Trịnh” là đoạn trích được rút ra từ tác phẩm “Thượng kinh ký sự” của Hải Thượng Lãn Ông. Đoạn trích ghi lại hiện thực cuộc sống xa hoa, quyền thế trong phủ chúa Trịnh khi tác giả được triệu vào cung để chữa bệnh cho thái tử Trịnh Cán.
Những lời miêu tả chi tiết, chân thực giúp người đọc theo chân tác giả để chiêm ngưỡng khung cảnh của “nơi xa hoa, giàu có bậc nhất nước Nam”. Quang cảnh trong phủ chúa đúng là khiến người khác phải trầm trồ thán phục. Để vào được bên trong phải đi qua mấy lần cửa, có “những dãy hành lang quanh co nối nhau liên tiếp”, mỗi cửa đều có vệ sĩ canh gác, “ai muốn ra vào phải có thẻ”.
Sự xa hoa, lộng lẫy còn được thể hiện ở những vật dụng chỉ chuyên dành cho người quyền quý, từ “đại đường”, “quyền bổng”, “gác tía” với kiệu son, võng nghi lộng lẫy đến những chiếc cột hay mâm bát chén cũng đều được dát vàng. Nội cung nơi phủ chúa được trang hoàng bởi “những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy”. Để vào được cung của thái tử, tác giả phải bước qua mấy lần trướng gấm.
Bên cạnh đó là sự tấp nập của bọn kẻ hầu người hạ: “đầy tớ chạy trước hết đường”,“người giữ cửa truyền báo rộn ràng, người có việc quan qua lại như mắc cửi”. Cung cách xem bệnh cho bậc quyền quý là phải “nín thở đứng chờ ở xa”, “khúm núm đến trước sập xem mạch”. Có lẽ một đôi câu thì khó lòng lột tả hết quang cảnh xa hoa cùng nếp sống hưởng thụ của gia đình chúa Trịnh Sâm.
Ẩn sau những lời miêu tả sinh động, chân thực ấy có lẽ còn là tiếng nói tố cáo gay gắt bởi sự ăn chơi, hưởng thụ của chúa hoàn toàn đối lập với cuộc sống nghèo khổ, lầm than của nhân dân.
Nếu như ở phía trên, Lê Hữu Trác tỏ ra là một người kể chuyện tài ba thì đến đây, ông lại cho ta thấy cái tài và đức của một bậc danh y đáng trọng. Khác với những người khác, ông thẳng thắn chỉ ra căn bệnh của thế tử: “ở trong chốn màn che trướng rủ, ăn quá no, mặc quá ấm nên tạng phủ yếu đi”.
Chốn cung gấm xa hoa nơi cung đình lại là tác nhân gây ra sự mệt mỏi, thiếu sinh khí. Đó là căn bệnh của kẻ giàu, là sản phẩm của một cuộc sống hưởng thụ, thiếu quan tâm đến “dân đen con đỏ”. Vì vậy, tác phẩm không chỉ phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội đương thời mà còn cho thấy tấm lòng vì dân, vì nước của bậc danh y.
Nếu như những người khác mải mê theo đuổi những thứ phù phiếm, xa hoa của tiền tài, danh lợi thì Lê Hữu Trác lại chọn cho mình lối sống thanh cao của bậc ẩn sĩ thời xưa. Giữa những rối ren của bối cảnh xã hội, thời đại, đó cũng chính là lựa chọn của nhiều nhà nho chân chính:
“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chỗ lao xao”.
Đón đọc tuyển tập 🍀 Phân Tích Chiếc Thuyền Ngoài Xa 🍀 23 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Phân Tích Vào Phủ Chúa Trịnh Ngắn Hay – Mẫu 13
Bài văn phân tích Vào phủ chúa Trịnh ngắn hay sẽ giúp các em học sinh có thêm cho mình những ý tưởng làm bài đặc sắc và học tốt tác phẩm.
Lê Hữu Trác là một danh y lỗi lạc, một nhà văn tài hoa, dù đã có một thời gian ông theo nghề võ nhưng cuối cùng ông nhận thấy “ngoài việc luyện câu văn cho hay, mài lưỡi gươm cho sắc, còn phải đem hết tâm lực chữa bệnh cho người”. Cũng bởi vậy, từ đó, ông chuyên sâu nghiên cứu y học và để lại cho thế hệ sau nhiều tác phẩm có giá trị, tiêu biểu trong số đó là tác phẩm “Thượng kinh kí sự” – một cuốn sách y học, một tác phẩm văn học đặc sắc.
Với Thượng kinh kí sự, tác giả đã ghi lại một cách chân thực, sâu sắc cảm nhận của bản thân trước những gì tai nghe mắt thấy ở phủ Chúa. Và có thể nói, đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” đã góp phần sâu sắc trong việc thể hiện giá trị của tác phẩm. Đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” đã thuật lại một cách chân thực, sinh động việc Lê Hữu Trác vào phủ chúa Trịnh để khám bệnh cho thế tử Cán.
Trước hết, tác giả đã miêu tả một cách chân thực, tỉ mỉ quang cảnh tráng lệ, xa hoa nơi phủ Chúa. Có thể nói, quang cảnh nơi phủ Chúa đã được miêu tả lại theo bước chân của người dẫn đường, đi từ ngoài vào trong, từ xa đến gần, từ đó gợi lên trong người đọc một cách nhìn toàn diện về không gian, quang cảnh nơi phủ chúa.
Hãy đọc lại những câu văn tác giả miêu tả quang cảnh bên ngoài lối vào phủ chúa để thấy hết cái vẻ tráng lệ của nơi đây “Chúng tôi đi cửa sau vào phủ. Người truyền mệnh dẫn tôi qua mấy lần của nữa, theo đường bên trái mà đi. Tôi ngẩng đầu lên: đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương. Những dãy hành lang quanh co nối nhau liên tiếp. Người giữ cửa truyền báo rộn ràng, người có việc quan lại như mắc cửi. Vệ sĩ canh giữ cửa cung, ai muốn ra vào phải có thẻ”.
Vâng, chỉ với bấy nhiêu chi tiết thôi, cũng đủ để chúng ta thấy hết các vẻ nguy nga, tấp nập nhưng cũng không kém phần nghiêm trang, quy củ nơi phủ chúa. Nhưng không dừng lại ở đó, quang cảnh nơi phủ chúa còn được tác giả miêu tả cụ thể hơn khi theo bước chân đi sâu vào trong, đó là khung cảnh tráng lệ, lộng lẫy, không nơi nào sánh bằng, đó là nhà “Đại đường”, “Quyền bồng”, “gác tía” với kiệu son, võng điều, đồ nghi trượng sơn son thếp vàng và ” những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy”.
Đồ dùng tiếp khách ăn uống toàn là ” mâm vàng, chén bạc”. Đặc biệt, để đến được nội cung của thế tử phải qua năm, sáu lần trướng gấm, trong phòng thắp nến, có sập thếp vàng, ghế rồng sơn son thếp vàng, trên ghế bày nệm gấm, màn là che ngang sân, “xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt”…
Đồng thời, đoạn trích còn miêu tả khung cảnh sinh hoạt nơi phủ chúa với những lễ nghi, khuôn phép. Những lễ nghi, khuôn phép trong cung cách sinh hoạt nơi phủ chúa trước hết thể hiện qua cách nói năng, từ ngữ xưng hô khi nhắc tới chúa và thế tử phải luôn luôn là những từ ngữ cung kính, lễ độ: Thánh thượng đang ngự ở đấy, chưa thể yết kiến, hầu mạch Đông cung thế tử (xem mạch cho thế tử) , hầu trà (cho thế tử uống thuốc), phòng trà (nơi thế tử uống thuốc).
Đồng thời, sự uy nghiêm trong cách sinh hoạt còn được thể hiện gián tiếp qua thái độ của tác giả khi ở chốn nội cung, phải “nín thở đứng chờ ở xa”, “khúm núm đến trước sập xem mạch” và đặc biệt qua cách tác giả miêu tả khung cảnh khám bệnh cho thế tử “Một viên quan nội thần đứng chầu đến bên xin phép thế tử. Thế tử đứng dậy, cởi áo, đứng bên giường cho tôi xem. Tôi xem kĩ tất cả lưng, bụng và chân tay một lượt. Quan cháng đường bảo lại truyền mệnh bảo tôi lạy tạ rồi đi ra. Tôi đứng dậy lạy bốn lạy”.
Chắc hẳn, chỉ qua một vài chi tiết ấy thôi cũng đủ để chúng ta cảm nhận hết cái sự uy quyền của chúa Trịnh và thế tử cùng thái độ tôn nghiêm, lễ nghi trong cung cách sinh hoạt của những người sống, làm việc nơi phủ Chúa.
Như vậy, đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” đã miêu tả một cách chân thực, chi tiết, tỉ mỉ quang cảnh và cung cách sinh hoạt nơi phủ chúa, để rồi ẩn sau đó giúp chúng ta nhận thấy vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách cao cả của Lê Hữu Trác. Đó là một con người con thường danh lợi, vinh hoa, phú quý – ông không đồng tình với cuộc sống xa hoa, hưởng lạc nơi chốn phủ chúa. Đồng thời, ông còn hiện lên với tư cách là một người thầy thuốc có tấm lòng lương y, có kiến thức sâu rộng và dày dặn kinh nghiệm.
Tóm lại, với lối miêu tả tỉ mỉ, chân thực, sự đan xen giữa kể và tả, giữa tự sự và trữ tình, đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh đã vẽ lại bức tranh sinh động về cuộc sống xa hoa, quyền quý nơi phủ chúa Trịnh, đồng thời, qua đó cũng giúp chúng ta thấy được tài năng, vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách cao đẹp của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác.
Tham khảo trọn bộ 💧 Phân Tích Tình Huống Truyện Chiếc Thuyền Ngoài Xa 💧 12 Mẫu Đặc Sắc
Phân Tích Vào Phủ Chúa Trịnh Đơn Giản – Mẫu 14
Tham khảo bài văn mẫu phân tích Vào phủ chúa Trịnh đơn giản dưới đây với những ý văn ngắn gọn và súc tích.
Cuộc sống luôn có nhiều áp bức khổ đau. Thật vậy, luôn có những kẻ sống sung sướng mà chẳng hay đang chà đạp lên cuộc đời của người khác hay thậm chí nếu có biết thì chúng cũng chỉ coi người khác như những kẻ nghèo khổ đáng khinh và không chút thương hại. Sự đáng hận tột cùng của xã hội được phản ánh qua bức tranh xa hoa nơi phủ chúa được lột tả qua tác phẩm “Vào phủ chúa Trịnh”.
Không ai sinh ra trên đời này mà mong muốn mình có một cuộc sống khổ đau, không ai có thể chọn được bố mẹ, người đã mang nặng đẻ đau để sinh ra mình. Vì vậy, con vua thì vẫn làm vua còn kẻ nghèo khó thì vẫn muôn đời chịu kiếp đau thương. Và đó cũng là bi kịch của xã hội cũ.
Khung cảnh nơi phủ chúa càng nguy nga, tráng lệ thì cuộc sống của con người càng đau khổ, lầm than. Chẳng biết để làm lên những tòa lâu đài nguy nga, kiều diễm ấy đã hy sinh bao nhiêu tính mạng con người, đã có bao nhiêu kẻ kém may mắn bị bóc lột cùng cực, họ chịu kiếp trâu ngựa bị bóc lột tột cùng mà không được trả công. Họ trở thành những linh hồn khổ đau bị số phận ngược đãi.
Tác giả mở đầu tác phẩm bằng việc vẽ vào tâm trí người đọc bằng những nét chấm phá bởi cỏ cây, những tòa cung điện đồ sộ hoành tráng, đi đâu đâu cũng là kẻ hầu người hạ, màu sắc lộng lẫy chói lóa bởi những thứ được làm bằng vàng ở khắp nơi, rồi lại những tảng đá hình thù kì lạ mà ông chưa nhìn thấy bao giờ.
Không chỉ cảm nhận bằng mắt mà ông cũng sử dụng cả khứu giác của mình để cảm nhận mùi hương trong phủ chúa, đó là một thế giới hoàn toàn trái ngược với thế giới ngoài kia. Đó là cuộc sống của những kẻ vua chúa đang sống bằng xương máu người khác, một cuộc sống hoang phí đến tột độ.
Và đâu chỉ có khung cảnh khiến con người ta thần hồn phách tán mà ngay cả cung cách sinh hoạt nơi phủ chúa cũng khác người. May mắn được một bữa cơm ở phủ chúa thế nhưng nó lại khiến ông nhớ cả đời. Bữa ấy ông được ăn sơn hào hải vị, được dùng mâm vàng chén bạc mà cả đời người hành nghề y chưa bao giờ được chạm tới. Đọc đến đây chúng ta lại không khỏi xót xa cho những con người bất hạnh chết vì đói khát, nhiều người phải bỏ mạng trong đêm đông lạnh giá, tất cả đều bị bóc lột đến kiệt cùng.
Trong khi nhiều người chỉ mong được ăn lo, mặc ấm thì lại có những kẻ hưởng thụ không biết chán. Cuộc sống vẫn cứ luôn tàn nhẫn như thế và số phận đôi khi luôn chà đạp lên con người. Vì vậy đã có không ít người đứng lên đấu tranh, khởi nghĩa nổ ra khắp nơi để đòi lại quyền tự do của con người. Vậy là để được hưởng thành quả lao động của mình chẳng lẽ con người phải đánh đổi bằng mạng sống ?
Chẳng phải tự nhiên mà cuộc sống con người rơi vào bế tắc, và một trong những điều đáng hận đó là do bộ máy cai trị quá thối nát. Vị vua anh minh mà người dân tin tưởng nay chẳng có nổi một chút quyền lực trong tay để bảo vệ con dân của mình mà ngược lại hắn trở thành con rối, trở thành công cụ cho người khác sai khiến. Mọi quyền lực đều rơi vào tay cha con chúa Trịnh Sâm, cả một quốc gia nay nằm gọn trong tay kẻ vua chúa ăn chơi sa đọa. Thử hỏi trong tình cảnh như thế có đáng hận?
Nhưng không phải cả xã hội kẻ nào cũng lầm đường lạc lối, vẫn có những người sáng suốt biết lấy đại cục làm trọng. Có những người từ bỏ chốn vinh hoa phú quý, quyết tâm tránh xa quyền lực để không bị cuốn vào vòng luẩn quẩn. Và một trong số đó là Lê Hữu Trác, ông không những là một lương y nhân từ, thương yêu con người mà còn là người yêu tự do, không ham mê vinh hoa phú quý. Đó là một hạt bụi vàng trong cồn cát phong kiến hỗn độn.
Ở đâu có áp bức bóc lột ở đó ắt sẽ có khởi nghĩa đấu tranh. Thật vậy, chiến tranh khiến bao người bỏ mạng, nhiều người mất đi người thân đau xót tột cùng. Và tội nhân trực tiếp gây ra bao đau đớn đớn không ai khác lại chính là những kẻ cầm quyền. Đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” đã vạch trần bộ mặt vô nhân đạo của xã hội cũ đồng thời thể hiện cái nhìn đúng đắn của lương y có tài đức. Đó là sống tự do, sống cuộc sống tự tại của mình chứ không phải sống sung sướng nhưng khom lưng quỳ gối trước kẻ cầm quyền.
Có thể bạn sẽ thích 💕 Phân Tích Người Đàn Bà Hàng Chài 💕 20 Mẫu Phân Tích Nhân Vật
Phân Tích Vào Phủ Chúa Trịnh Luyện Viết – Mẫu 15
Bài văn gợi ý phân tích Vào phủ chúa Trịnh luyện viết sẽ mang đến cho các em học sinh những nội dung hữu ích để ôn tập tác phẩm.
Thời xưa những người tài giỏi thì thường chúa ghét vòng danh lợi họ chỉ giúp vua một thời gian rồi về ở ẩn với nhân dân giúp đỡ nhân dân trong cuộc sống hàng ngày. Nguyễn Bỉnh Khiêm có câu:
“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao”
Có thể nói rằng sự lánh đục tìm trong ấy là cách xuất xử của biết bao nhiêu bậc nho sĩ, người tài. Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác cũng vậy, chúng ta được biết đến ông là một người lười làm quan, biếng danh lợi. Về ở ẩn ông không những là một người thầy thuốc giỏi mà còn là một nhà văn. Tác phẩm tiêu biểu của ông được nhiều người biết đến là tác phẩm vào phủ chúa Trịnh. Trong tác phẩm này Lê Hữu Trác đã phê phán những thói ăn chơi sa đọa của bậc vua chúa. Nơi đây không khác gì cho những bậc thánh ở.
Đoạn trích được rút trong tập thượng kinh kí sự, là một quyển cuối cùng trong bộ Hải thượng y tông tâm lĩnh, đánh dấu sự phát triển của văn học ( Văn xuôi tiếng Việt, thể ký). Tác phẩm ghi nhận những điều mắt thấy tai nghe khi tác giả được mời vào kinh chữa bệnh cho Thế tử Cán cho tới khi ông về lại Hương Sơn.
Vào phủ chúa trịnh ghi lại thời điểm: Sau khi ông vào kinh, đang tá túc tại nhà Quận Huy Hoàng Đình Bảo thì ông được mời vào phủ chúa Trịnh để xem bệnh cho Thế tử Cán. Đây là lần đầu tiên ông bước chân vào chốn thâm nghiêm này. Nhà văn đi vào chữa bệnh cho thái tử Trịnh Cán và thu vào mắt mình cái quang cảnh và cung cách trong phủ chúa Trịnh.
Trước hết là quang cảnh trong phủ chúa Trịnh, thu vào mắt tác giả là những quang cảnh của cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm. quả thật đây là một nơi sang trọng bậc nhất thiên hạ. Vào phủ chúa phải trải qua biết bao nhiêu là cửa sự trang nghiêm nơi đây thật sự khiến cho người ta rụt rè chân bước ” Hậu mã quân thúc trực” để cho chúa sai việc.
Bên trong cửa phủ thì có những “đại đường”, “quyền bổng”, “gác tía” với kiệu son, võng nghi lộng lẫy. tất cả mọi thứ đều được mạ vàng. Từ những chiếc cột cho đến những mâm bát chén cũng đều như được dát vàng. Ở đây ta thấy được những cuộc sống xa hoa trong phủ chúa. Không hiểu tại sao sống trong cảnh giàu sang vinh hoa ấy mà Trịnh Cán lại có thể bị bệnh cơ chứ.
Cái sự sang trọng ấy được nhà văn miêu tả và nhận xét là “những đồ đạc nhân gian chưa từng thấy”. Đến nội cung của Thế tử thì phải qua biết mấy lần trướng gấm. Trong căn phòng của thế tử cũng có nhiều thứ rất sang trọng mà người đời mấy ai được xem qua. Nào là trướng là gấm rồi lại đến những sập cũng sơn son thiếp vàng, ghế rồng hương hoa bay ngào ngạt.
Có thể nói đây chính là thiên đường trên mặt đất không đâu sánh bằng cái vẻ nguy nga lộng lẫy ấy. Thật sự là khiến cho người ta đau lòng vì khi nhân dân thì đang khổ sở với cuộc sống thì chúa cái người mà đứng ra cai quản lại có thể ăn chơi xa đọa trước những vất vả của nhân dân như vậy. Thử hỏi rằng triều đại ấy cái trị được bao nhiêu lâu, ngồi mát ăn bát vàng không lo cho dân chúng thì liệu có bền được không?.
Không chỉ quang cảnh mà đến cung cách trong cung cũng được nhà văn chú ý miêu tả. nào là “đầy tớ chạy trước hết đường”, rồi lại đến “người giữ cửa truyền báo rộn ràng, người có việc quan qua lại như mắc cửi”. Quả thật đây đúng là một chốn lao xao mà Nguyễn Bỉnh Khiêm nói. Lời nói của mọi người khi nhắc đến thế chúa và thế tử đều rất cung kính, lễ độ.
Riêng chúa Trịnh lúc nào cũng có những cung tần mĩ nữ xung quanh để hầu hạ. Chúa giống như những bậc thánh khiến cho nhà văn cũng không được gặp mặt chúa mà chỉ làm theo chỉ dẫn để vào cung thăm bệnh cho thế tử Trịnh Cán mà thôi. Khi xem bệnh xong thì không được trao đổi với chúa mà phải viết giấy khai đưa lên.
Còn riêng phần thế tử thì khi bị bệnh lại có rất nhiều tầm bảy, tám ngự y thúc tục vây quanh. Không những thế nếu muốn khám bệnh cho thế tử thì những ngự y kể cả đã già lắm rồi cũng phải quỳ lạy dưới một đứa trẻ con. Không chỉ vậy mà người gọi chúa Trịnh là thánh thượng, các chữ “thánh” ấy phải chăng chúa Trịnh đang quá lạm dụng quyền hành của mình.
Trước những quang cảnh và cung cách trong phủ chúa ấy khiến cho tác giả thể hiện quan điểm của mình. Tác giả dửng dưng trước những quyến rũ của giàu sang phú quý bởi vì nó được xây đắp bởi xương máu của nhân dân làm ra. Và tác giả dùng những câu văn thể hiện sự không đồng tình của cảnh sống xa hoa nơi đây.
Qua cách nói mỉa mai châm biếm của tác giả, ta thấy : Sự lộng quyền của nhà chúa với quyền uy tối thượng và nếp sống hưởng thụ cực kỳ xa hoa của chúa Trịnh cùng gia đình; sự thật bù nhìn của vua Lê khi ấy. Thế tử Trịnh Cán bị bệnh là do nơi đây quá đầy đủ khiến cho con người không thể khỏe mạnh bình thường được. Khi các ngự y không đồng tình với đơn thuốc mà tác giả kê thì ông đã nhất quyết bảo vệ đơn thuốc ấy. Chính vì thế mà các ngự y khác phải khâm phục trước kiến thức và tài năng của nhà văn.
Bài kí sự của Lê Hữu Trác có giá trị phản ánh hiện thực sâu sắc, nó không chỉ tầm thường là “nhật kí” của riêng ông mà nhờ có kí sự của ông, mọi người mới tường tận lối sống xa hoa của vua chúa, nó giống như một bản tố cáo tội ác của vua chúa khi mua vui hưởng lạc trên sự nghèo đói đau khổ của nhân dân.
SCR.VN chia sẻ 🍀 Phân Tích Nhân Vật Phùng 🍀 15 Bài Văn Mẫu Hay Nhất