4+ Mẫu Phân Tích Dương Phụ Hành Ngắn (Hay Nhất)

SCR.VN chia sẻ cho các bạn 4+ mẫu phân tích Dương phụ hành ngắn hay nhất của tác giả Cao Ba Quát dưới đây. Bạn tham khảo ngay nhé.

Giới Thiệu Bài Thơ Dương Phụ Hành

Dương phụ hành được Cao Bá Quát sáng tác trong chuyến xuất dương hiệu lực năm 1844. Bài thơ được viết theo thể hành, một thể của thơ cổ phong.

Dương phụ hành là một bài thơ hay khi tác giả khắc họa chân dung người thiếu phụ Tây Dương, qua đó nhà thơ nghĩ về giai nhân và tài tử, về hạnh phúc trong sum họp và nỗi đau trong li biệt. Trong chuyến đi này, ông có dịp tiếp xúc với những người châu Âu, thấy nhiều điều mới lạ.

🌻Xem thêm Thơ Xuân Quỳnh Hay Nhất🌻

Nội Dung Và Ý Nghĩa Bài Thơ Dương Phụ Hành

Bài thơ nói về người thiếu phụ Tây Dương, qua đó nhà thơ nghĩ về giai nhân và tài tử, về hạnh phúc trong sum họp và nỗi đau trong li biệt.

👉 Gửi đến bạn nội dụng bài thơ Dương phụ hành dưới đây.

洋婦行
西洋少婦衣如雪,
獨憑郎肩坐清月。
卻望南船燈火明,
把袂喃喃向郎說。
一碗醍醐手懶持,
夜寒無那海風吹。
翻身更倩郎扶起,
豈識南人有別離。

Dương phụ hành
Tây Dương thiếu phụ y như tuyết,
Độc bằng lang kiên toạ thanh nguyệt.
Khước vọng Nam thuyền đăng hoả minh,
Bả duệ nam nam hướng lang thuyết.
Nhất uyển đề hồ thủ lãn trì,
Dạ hàn vô ná hải phong xuy.
Phiên thân cánh thiến lang phù khởi,
Khởi thức Nam nhân hữu biệt ly!

Dịch nghĩa
Người thiếu phụ phương Tây áo như tuyết
Tựa vai chồng dưới bóng trăng thanh
Nhìn thuyền người Nam thấy đèn lửa sáng
Kéo áo chồng thì thầm nói
Tay cầm uể oải một chén sữa
Đêm lạnh à đây gió biển thổi
Nghiêng mình đòi chồng đỡ dậy
Biết chăng có người Nam đang chịu cảnh biệt ly.

Dịch thơ:
Thiếu phụ Tây dương áo trắng phau
Tựa vai chồng dưới bóng trăng thâu
Ngó thuyền Nam thấy đèn le lói
Kéo áo rì rầm nói với nhau.

Hững hờ cốc sữa biếng cầm tay
Gió bể, đêm sương thổi lạnh thay
Uốn éo đòi chồng nâng đỡ dậy
Biết đâu nỗi khách biệt li này!

🌻Khám phá Thơ Tản Đà Hay Nhất🌻

Cách Phân Tích Bài Thơ Dương Phụ Hành

Hướng dẫn cho những bạn nào chưa biết cách phân tích bài thơ Dương phụ hành của tác giả Cao Bá Quát dưới đây nhé.

  1. Giới thiệu chung:
    • Tác giả: Đầu tiên, cần nêu một vài thông tin về tác giả
    • Tác phẩm: Giới thiệu ngắn gọn về bài thơ, bối cảnh, và thời gian xuất bản.
  2. Đọc kỹ bài thơ
    • Đọc toàn bộ bài thơ để nắm bắt nội dung chính và cảm nhận ban đầu về tác phẩm.
    • Đọc lại nhiều lần để hiểu rõ hơn về cấu trúc, hình ảnh, và ngôn từ.
  3. 2. Phân tích nội dung
    • Tóm tắt nội dung: Xác định các sự kiện, tình huống hoặc hình ảnh chính trong bài thơ.
    • Ý nghĩa chủ đề: Tìm hiểu thông điệp chính của bài thơ.
  4. 3. Phân tích cấu trúc
    • Thể loại thơ: Xác định bài thơ thuộc thể loại nào (lục bát, thất ngôn bát cú, ngũ ngôn, v.v.).
    • Bố cục: Chia bài thơ thành các đoạn (khổ thơ) và phân tích từng đoạn. Xác định cách tác giả sử dụng các đoạn để phát triển ý nghĩa tổng thể.
  5. 4. Phân tích ngôn ngữ và hình ảnh
    • Từ ngữ: Chú ý đến việc lựa chọn từ ngữ, các từ ngữ đắt giá và cách chúng tạo nên cảm xúc hoặc ý nghĩa.
    • Biện pháp tu từ: Tìm hiểu các biện pháp tu từ như ẩn dụ, hoán dụ, nhân hóa, so sánh, v.v.
    • Hình ảnh thơ: Phân tích các hình ảnh, biểu tượng trong thơ và ý nghĩa của chúng.
  6. 5. Phân tích âm điệu và nhịp điệu
    • Âm điệu: Xem xét âm điệu của bài thơ, xem nó nhẹ nhàng, mạnh mẽ, trầm buồn hay tươi vui.
    • Nhịp điệu: Phân tích nhịp điệu của các dòng thơ, cách ngắt nhịp và sự tương phản giữa các dòng.
  7. Tổng kết
    • Ý nghĩa toàn bài: Tổng hợp các phân tích để đưa ra một cái nhìn tổng thể về ý nghĩa của bài thơ.Đánh giá: Đưa ra nhận định cá nhân về giá trị nghệ thuật và ý nghĩa xã hội của bài thơ.

❤️️ Tuyển Tập Trọn Bộ Những Bài Thơ Hay Nhất 🌻Thơ Thế Lữ

Dàn Ý Phân Tích Bài Thơ Dương Phụ Hành

Gửi đến bạn dàn ý phân tích bài thơ Dương phụ hành của tác giả Cao Bá Quát dưới đây. Mời bạn tham khảo.

I. Mở bài

Giới thiệu sơ lược các thông tin về tác giả, tác phẩm.

II. Thân bài

1. Tác giả

– Là một trong các nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam những năm nửa đầu thế kỉ XIX.

– Nhân cách: cứng rắn, ngang tàn.

– Phong cách nghệ thuật: phong phú trong nội dung, cảm hứng sáng tác.

2. Tác phẩm

– Hoàn cảnh sáng tác: Tác phẩm Dương Phụ Hành được Cao Bá Quát sáng tác trong lần ông có dịp theo phái bộ của Đào Phú Trí đi công cán bên Indonesia.

– Nội dung: nói về người đàn bà Phương Tây đã gợi cho tác giả suy nghĩ về hạnh phúc và nỗi sầu chia li.

3. Tổng kết giá trị nghệ thuật mà tác phẩm mang tới

III. Kết bài

Nêu cảm nghĩ của bản thân.

Đón đọc ngay 8+ mẫu 💛 Phân Tích Bài Thơ Thiên Trường Vãn Vọng 💛 ngắn gọn hay nhất

4+ Mẫu Phân Tích Dương Phụ Hành Ngắn Hay Nhất

SCR.VN tổng hợp cho các bạn 4+ mẫu phân tích Dương phụ hành ngắn hay nhất dưới đây.

Phân Tích Dương Phụ Hành Ngắn Gọn

Cao Bá Quát là một nhà thơ lớn, một tên tuổi sáng chói của văn học Việt Nam giai đoạn nửa đầu thế kỉ XIX. Ông nổi tiếng bởi nhân cách cứng cỏi, ngang tàng và văn tài sắc sảo, mới mẻ. Thơ ông có thể ví là cây đàn điệu hết sức phong phú về nội dung cảm hứng.

Đó là những tình cảm thiết tha gắn bó với quê hương xứ sở, là sự đồng cảm sâu sắc với bao người khổ đau, bất hạnh, là niềm tự hào về quá khứ lịch sử của dân tộc và thái độ phê phán mạnh mẽ đối với chế độ phong kiến đương thời.

Đặc biệt, khác với nhiều cây bút cùng thời, qua sáng tác của mình, Cao Bá Quát bộc lộ một trí tuệ sáng suốt, nhạy cảm tiếp nhận những hương vị, màu sắc xa lạ với quan niệm truyền thống và một tâm hồn phóng khoáng biết hướng tới cái đẹp đích thực không bị bó buộc, đóng khung bởi những khuôn khổ của tình cảm theo lễ giáo Khổng – Mạnh.

Ở Bài hành về người, thiếu phụ phương Tây được sáng tác trong dịp Cao Bá Quát theo phái bộ của Đào Phú Trí đi công cán ở Inđônêxia. Tiếng là được “dương trình hiệu lực” nhưng thực chất là điều đi phục dịch để “lấy công chuộc tội”. Tuy thế “có cuộc hoạn du mới biết cá lớn nghìn dặm”, trên hải trình công cán, nhà thơ mới có dịp tiếp xúc với những người châu Âu, với một nền văn minh xa lạ, từ đó mở rộng tầm mắt và tâm hồn.

Đặc biệt, chuyến đi đã giúp tác giả phát hiện ra những nét mới đáng yêu của người đàn bà Tây phương và trong mắt Cao Bá Quát, người đàn bà Tây Phương hiện lên thật sinh động, hấp dẫn:

Thiếu phụ Tây dương áo trắng phau,
Tựa vai chồng dưới bóng trăng thâu,

Cuộc đời nhiều thăng trầm và bôn ba đã rèn cho Cao Bá Quát năng lực quan sát nhạy bén, sắc sảo. Chỉ vài chi tiết cụ thể theo lối tả thực, nhà thơ đã khắc họa được một hình ảnh đầy ấn tượng. Đó là màu áo trắng – “ tuyết” của người thiếu phụ Tây dương. Người phương Đông vốn vẫn coi màu trắng là màu của tang tóc.

Ở đây, tác giả kín đáo cảm nhận màu áo đó như một vẻ đẹp. Tinh ý, ta có thể nhận thấy điều đó qua lối so sánh. Nhưng lạ hơn là hành vi của nàng “Tựa vai chồng dưới bóng trăng thâu”. Người đàn bà Phương Đông mẫu mực, hiền thục là ke lo phận sự “nàng không sửa túi” cho chồng và cũng chỉ quen với việc “cử án tề mi” đâu có dám “tựa vai chồng” để cùng ngồi ngắm trăng một cách vừa “thiếu ý tứ“ vừa “vô lè’” như vậy? ơ đây, thậm chí, còn ngồi ngay trước sự quan sát của tất cả mọi người.

Nhưng không thể phủ nhận đó là một cảnh rất đẹp. Màu trắng của áo, ánh sáng cua vầng trăng và cử chỉ tựa vai chồng thật trữ tình, lãng mạn. Chắc chắn, đăng sau những nét bút miêu tả đó là cái nhìn ngạc nhiên, thú vị. Thú vị hơn vẫn là những cử chỉ thân mật, tự nhiên của nàng:

Ngó thuyền Nam thấy đèn le lói,
Kéo áo rầm rì nói với nhau

Nhưng tất cả những điều đó chưa gây ngạc nhiên bằng những hình ảnh tiếp theo sau này:

Hững hờ cốc sữa biếng cầm tay,
Gió bể, đêm sương thổi lạnh thay!
Uốn éo đòi chồng nâng đỡ dậy.

Chỉ thấy ở người thiếu phụ ấy vẻ kiều mị, duyên dáng. Cả cái nghiêng mình nũng nịu đòi sự chăm sóc chiều chuộng của chồng vẫn thật dễ thương. Tất cả đều được quan sát bằng một đôi mắt thật tinh tế và một ngòi bút miêu tả thật khách quan. Sự đồng cảm, tán thưởng chỉ được bộc lộ một cách kín đáo. Chính vì vậy mà hình tượng người đàn bà Tây dương trong bài thơ mới mang những nét riêng đặc sắc.

Ngày nay, những lời nói, cử chỉ hồn nhiên kia đối với con người Việt Nam hiện đại là quá đỗi bình thường, thậm chí chẳng có mấy ý nghĩa đặc biệt. Nhưng với thời bấy giờ, khi mà xã hội phong kiến Việt Nam còn bó buộc trong những quan điểm bảo thủ, thiển cận trong những lối tự tôn lố bịch, mù quáng thì việc tán thưởng, đồng tình với một vẻ dẹp xa lạ như thế là hành vi nghệ thuật thể hiện một quan niệm mới mẻ, hiện đại.

Những mạch cảm xúc trữ tình của tác giả không dừng lại ở đó. Toàn bộ bức tranh đầy gợi cảm về hình ảnh người thiếu phụ Tây dương, về cặp vợ chồng người Phương Tây dù được miêu ta rất thực, rất sinh động vẫn có vẻ như đóng vai trò của những chi tiết nhằm dồn nén cảm xúc để đến dòng thơ cuối cùng, con người ôm nỗi thống khố rối bời và đặc biệt kín đáo ấy không thể kìm giữ được nữa, phải thốt lên lời tự than:

Biết đâu nỗi khách biệt li này!

Tưởng đâu là nỗi sầu xa xứ. Không phải, nỗi biệt li được gợi lên từ cảnh hạnh phúc, trìu mến của lứa đôi. Và ta có thể đoán được dòng chảy ngầm của tâm trạng tác giả: nỗi khát khao hạnh phúc gia đình, nỗi nhớ nhung tình chồng vợ. Sự giãi bày này lại cũng là một phương diện bộc lộ vẻ đẹp nhân văn sâu sắc trong tâm hồn người trí thức ngang tàng, phóng túng.

Gửi đến bạn bài văn 👉 Phân Tích Cải Ơi Ngắn Gọn 

Phân Tích Bài Thơ Dương Phụ Hành Hay Nhất

Cao Bá Quát, một nhà thơ nổi tiếng thời kỳ triều Nguyễn, để lại dấu ấn sâu đậm trong văn học Việt Nam. Thơ của ông không chỉ phản ánh lòng yêu nước và lòng nhân ái mà còn thể hiện sự sáng tạo và độc đáo trong cách viết. Bài thơ ‘Dương Phụ Hành’ là một minh chứng rõ ràng cho điều này.

Dương phụ hành là một tác phẩm được Cao Bá Quát viết khi ông đang phục vụ ở Indonesia. Mặc dù là một hành trình đi phục vụ nhưng nó cũng là cơ hội để ông tiếp xúc với vẻ đẹp mới và tiếp thu những trải nghiệm mới. Trong bài thơ, ông miêu tả hình ảnh một người phụ nữ Tây phương duyên dáng và xinh đẹp trong áo trắng tinh khôi.

“Thiếu phụ Tây Dương, mặc áo trắng tinh khôi,
Tựa vai chồng dưới ánh trăng vắng.”

Dường như với phần lớn người dân phương Đông, màu trắng pha không được xem là một màu sắc đẹp, mà thường mang theo một cảm giác tang thương, buồn bã. Ít ai dám mặc tự tin diện trang phục trắng ra ngoài, thường chỉ sử dụng như là lớp áo lót được che giấu bên trong, được che phủ bởi những mảnh trang phục khác màu. Tuy nhiên, người phụ nữ phương Tây lại vượt ra khỏi những quan niệm đó khi mặc một bộ váy trắng pha.

Đáng ngạc nhiên hơn, trang phục ấy càng làm tôn lên vẻ đẹp dịu dàng, tinh tế của người phụ nữ. Hơn nữa, cô ấy công khai tỏ ra hạnh phúc khi tựa vào vai chồng để ngắm nhìn ‘bóng trăng thâu’, một hình ảnh mà đối với ngày nay có thể coi là lãng mạn, nhưng trong mắt của những người đã trải qua thời kỳ lễ giáo xưa thì lại có một sức hút đặc biệt.

Tuy nhiên, với tầm nhìn và suy tư rộng lớn của mình, Cao Bá Quát lại cảm thấy hình ảnh ấy thật đẹp, thật duyên dáng và thật ngọt ngào, làm ông mơ ước rằng mình cũng có thể trải qua điều đó trong cuộc đời. Nhà thơ có vẻ ngạc nhiên và hứng thú như khi phát hiện ra điều gì đó mới lạ và thú vị, ông tiếp tục nhìn những cử chỉ thân mật, âu yếm mà người phụ nữ dành cho chồng mình, một cách tự nhiên và ấm áp.

“Nhìn thuyền Nam, đèn le lói,
Kéo áo rì rầm nói cùng nhau.”

Người phụ nữ kia thấy điều thú vị trên con thuyền, vì vậy cô nhẹ nhàng giật áo chồng để trò chuyện, chia sẻ, nhìn cô thật dễ thương và gần gũi. Hành động này đã đủ khiến người ta ngạc nhiên, nhưng nó vẫn chưa bằng ba câu sau đây:

“Cốc sữa đưa tay lười biếng,
Trời đêm gió sương lạnh thay!
Uốn éo muốn chồng dỗ dành dậy,”

Vợ chồng dựa vào nhau, cùng trải qua gió đêm lạnh lẽo, họ có ý định quay về nhà. Cô vợ thể hiện sự yếu đuối của mình bằng cử chỉ ‘Uốn éo đòi chồng nâng đỡ dậy’. Cái cử chỉ đó khiến người ta cảm thấy xao xuyến và đáng yêu đến lạ thường, đồng thời thấy lòng thương cho phụ nữ phương Đông, mà đôi khi không nghĩ tới việc được chồng quan tâm.

Lời thơ của Cao Bá Quát như hơi thở dài và lòng ngưỡng mộ trước một nền văn hóa xa lạ. Tất cả những điều ông nhìn thấy từ vợ chồng người thiếu phụ chỉ là lý do, là động lực cho hàng ngàn cảm xúc dồn nén từ bấy lâu. Chỉ một câu thơ cuối mới tiết lộ tâm tư sâu kín của nhà thơ:

“Ai biết đâu nỗi xa lìa này!”

Nhà thơ nhìn thấy tình cảm ấm áp của vợ chồng và cảm thấy xót xa cho sự xa quê, xa nhà của mình. Tình cảm ấy khiến ông mường tượng về người vợ ở quê nhà, về một gia đình hạnh phúc, một mối quan hệ hòa thuận giữa chồng vợ, một tình cảm mà tốt biết mấy.

Câu thơ cuối là lời than vãn của sự thiếu vắng nơi đất khách, đồng thời thể hiện cái tính cách phóng khoáng, cái vẻ đẹp nhân văn, mới lạ trong tâm hồn của nhà thơ.

Dương phụ hành là một tác phẩm nhân văn sâu sắc, phản ánh khát khao sâu thẳm trong con người, không kể đến màu da hay tôn giáo, mà là khao khát về một gia đình hạnh phúc, ấm áp. Bài thơ cũng thể hiện quan điểm về quyền của phụ nữ trong gia đình, họ có quyền được chăm sóc, được âu yếm và được yêu thương sau tất cả những gì họ đóng góp cho gia đình.

Chia sẻ bạn những bài văn 💚 Phân Tích Khoảng Trời Hố Bom 💚 ngắn gọn

Phân Tích Bài Thơ Dương Phụ Hành Chọn Lọc

Cao Bá Quát là một nhà thơ sinh sống dưới triều Nguyễn nước ta, ông là người có tài năng, học vấn, thơ văn của ông mang nhiều màu sắc phong phú và chủ đề đa dạng, bộc lộ được lòng yêu nước thương dân, tấm lòng đồng cảm sâu sắc với những số phận khổ đau, bất hạnh, đồng thời cũng lên án mạnh mẽ chế độ phong kiến mục rỗng.

Và đặc biệt so vớ nhiều nhà thơ cùng thời, thơ của Cao Bá Quát lại mang một phong thái khác lạ, bởi ông biết du nhập và làm mới thơ văn của mình bằng những nét văn hóa, cái đẹp vượt xa ngoài lễ giáo phong kiến phương Đông. Và một minh chứng cụ thể cho quan điểm trên chính là bài Dương phụ hành.

Dương phụ hành có nghĩa là Bài hành về người thiếu phụ phương Tây, được viết khi ông bị cử theo phái bộ của Đào Phú Trí sang Inđônexia làm công cán, thực chất chuyến đi này là hành trình đi phục dịch “lấy công chuộc tội”. Nhưng cũng chính chuyến đi này đã làm cho Cao Bá Quát được mở rộng tầm mắt, tiếp thu những vẻ đẹp mới từ trời Âu xa xôi, mà có thể theo nhiều nhà nho nhà văn cho ấy là vô phép tắc. Trong đôi mắt nhà thơ người thiếu phụ Tây phương duyên dáng, xinh đẹp hiện lên thật khác lạ trong màu áo trắng tinh khôi như sau:

“Thiếu phụ Tây Dương áo trắng phau,
Tựa vai chồng dưới bóng trăng thâu,”

Có lẽ với đa phần người phương Đông, màu “trắng phau” không phải là một màu gì đẹp đẽ, mà mang nhiều không khí tang tóc, buồn bã, cũng không ai dám mặc tự tin diện chúng ra bên ngoài cả, có chăng là lớp áo lót bên trong, được che đậy bằng thứ quần áo có màu khác bên ngoài. Thế mà người phụ nữ Tây phương ấy lại vượt ra khỏi tầm suy nghĩ khi diện một bộ váy trắng phau, và càng bất ngờ hơn bộ váy áo ấy dường như càng tôn lên cái vẻ đẹp dịu dàng, e ấp của người thiếu phụ.

Hơn thế nữa, người phụ nữ ấy công khai tựa vào vai chồng thật hạnh phúc để ngắm “bóng trăng thâu”, một hình ảnh mà đối với chúng ta bây giờ thực lãng mạn biết mấy, nhưng trong đôi mắt ngập tràn lễ giáo xưa thì có cái lý nào lại như vậy. Tuy nhiên bằng tầm mắt và suy nghĩ rộng mở của mình Cao Bá Quát lại thấy hình ảnh ấy thật đẹp thật duy mỹ, thật ngọt ngào tình cảm quá, khéo mơ ước cả đời cũng chẳng có dịp vậy.

Nhà thơ có vẻ ngạc nhiên và cảm giác như bắt được một cái thứ gì đó mới lạ thú vị lắm, ông tiếp tục đưa đôi mắt tinh tế của mình để quan sát thì càng ngạc nhiên hơn trước những cử chỉ thân mật, âu yến mà người thiếu phụ dành cho chồng mình thật tự nhiên, ấm áp:

“Ngó thuyền Nam thấy đèn le lói,
Kéo áo rì rầm nói với nhau.”

Người thiếu phụ ấy thấy điều thú vị nơi chiếc thuyền, thì tay khẽ giật áo chồng ríu rít tâm sự, kể chuyện nhau nghe, trông thật dễ thương, gần gũi biết bao. Hành động này tuy đã đủ ngạc nhiên nhưng vẫn chưa bằng ba câu sau đây:

“Hững hờ cốc sữa biếng cầm tay,
Gió bể đêm sương thổi lạnh thay!
Uốn éo đòi chồng nâng đỡ dậy,”

Vợ chồng tựa vai nhau, tâm sự cũng đã đủ gió đêm đã lạnh, cả hai cùng có ý về nhà, và cô vợ đã có một cử chỉ thật yêu kiều, thể hiện sự yếu đuối cần chở che bao bọc của người phụ nữ ấy là “Uốn éo đòi chồng nâng đỡ dậy”. Ôi nghe cái cử chỉ nũng nịu ấy sao thấy xao xuyến và dễ thương đến lạ lùng, bỗng thấy phụ nữ phương Đông thật khổ hạnh, chắc chẳng bao giờ nghĩ tới việc được chồng đỡ đàn cho tí chút, chỉ chăm chăm cơm nước hầu hạ, chẳng khác con ở là mấy.

Tất cả cũng chỉ tại cái lễ giáo cứng nhắc, bảo thủ một cách hài hước đã vùi dập làm cho cái đẹp đẽ trong tình cảm vợ chồng, cái yếu đuối, mong ước được chiều chuộng của người phụ nữ không có cơ hội ngóc đầu. Lời thơ của Cao Bá Quát cũng như tiếng thở dài và lòng ngưỡng mộ trước một thứ văn hóa xa lạ, nhưng tất cả những điều ông hằng quan sát từ vợ chồng người thiếu phụ nọ chỉ là cái cớ, cái bệ phóng cho hàng vạn những cảm xúc dồn nén từ đáy lòng bấy lâu. Chỉ một câu thơ cuối ta mới vỡ lẽ ra nhưng tâm tư kín đáo ấy của nhà thơ:

“Biết đâu nỗi khách biệt ly này!”

Hóa ra, nhà thơ đang nhìn cảnh vợ chồng họ tình cảm mà tự thấy xót xa cho thân phận xa quê, xa gia đình của mình đấy ư, qủa thật đắng cay trăm ngàn. Chính tình cảm lứa đôi ấm nồng, khiến người ta phải thổn thức ghen tị đến đỏ mắt đã khiến ông mường tượng về người vợ nơi quê nhà, nỗi khát khao về một gia đình hạnh phúc, chồng vợ thuận hòa, hai bên đỡ đần mà lại tình cảm như thế kia thì tốt biết mấy. Câu thơ cuối là lời than của sự thiếu vắng nơi đất khách, đồng thời cũng thể hiện cái bản tính phóng khoáng , vẻ đẹp thật nhân văn, mới mẻ nơi tâm hồn người thi sĩ.

Dương phụ hành là một tác phẩm có tính nhân văn sâu sắc, phản ánh khát khao sâu thẳm bên trong con người, không phân biệt màu da, tôn giáo ấy là nỗi niềm khát khao về một gia đình hạnh phúc, ấm áp, mong ước có được tình cảm gần gũi giữa vợ chồng. Đồng thời bài thơ cũng thể hiện một góc nhìn mới, một cái nhìn thật nhân văn, ấy là người phụ nữ có quyền được chở che, được nũng nịu và được thương yêu sau tất cả những gì họ hi sinh cho gia đình.

Gợi ý bạn cách 👉 Viết Bài Văn Phân Tích Một Tác Phẩm Văn Học

Phân Tích Bài Thơ Dương Phụ Hành Chi Tiết

Thông qua bài thơ ta thấy Cao Bá Quát có cái nhìn sắc sảo, tinh tế, nhạy cảm bắt nguồn từ tình cảm tha thiết gắn bó với quê hương, nhớ thương người thân, không chịu được những nghịch cảnh, trớ trêu đầu trên quê hương hay những nơi khác lạ. Sau khi được định tội, triều đình tạm tha cho Cao Bá Quát và cho đi xuất dương hiệu lực trong phái đoàn do Đào Phú Trí là trưởng đoàn, Trần Tú Dĩnh là phó đoàn.

Ở triều Nguyễn, đối với một người có thể sử dụng mà không may mắc tội thì nhà vua thường tạm tha và phân phối đi đến một đồn quân nào đó phục dịch để chuộc tội. Đó là hình thức “quân tiền hiệu lực”. Hoặc khi có một phái bộ nào xuất dương đi giao thiệp với nước ngoài thì những phạm nhân ấy cũng được đi theo phục dịch để lấy công chuộc tội gọi là “dương trình hiệu lực”, Cao Bá Quát cũng được xử trí theo những “đặc ân” đó.

Ngồi trên thuyền, giữa trùng dương rộng lớn, ông lại cảm thấy trong lòng đầy hào hứng, hùng khí lại ngùn ngụt như xưa:

“Gió Bắc đưa thuyền qua muôn trùng biển cả,

Ta ngâm câu thơ dưới cánh buồm mát dịu,

Có ai thử đem câu thơ kinh người của chàng Tiểu Tạ.

Mà đề lên khắp cái núi ở chân trời kia!”

Khi cánh buồm lộng gió đi vào trời nước bao la, ông tự hỏi: “Có ai học được nét vẽ của Tôn Vị ngày xưa để thử vẽ cái cảnh hùng vĩ này của một chàng ngâm thơ trên đầu ngọn sóng!”.

Ông ví mình như con hạc bị ốm, con chim hồng bị đau, đã bao lâu không con hi vọng, nên lại chắp cánh bay trên đường bay rộng lớn của chim bằng. Giận cho mình bao lâu chỉ làm một tài tử khốn cùng trong bút mực, anh trượng phu tầm thường giữa núi mây!

Ra nước ngoài, tầm con mắt ngài thêm mở rộng. “Cuộc ngoạn du, mới biết cá lớn nghìn dặm. Kiến thức hẹp hòi, khác nào nhìn con báo qua một chiếc ống chỉ thấy nó có một vằn”.

Ông nghĩ tới lối học từ chương, thái độ đóng cửa không chịu tìm hiểu nước ngoài thật là nguy hiểm. Ý nghĩ này cọn được nêu lên trong bài ông đề cập Yên Đài Anh Ngữ của Bùi Ngọc Quỹ. Ông này đã đi sứ nước ngoài học được nhiều điều mới lạ. Cao tự trách mình: “Đáng phàn nàn cho ta chỉ đóng cửa mà gọt giũa câu văn, lải nhải nhai từng câu từng chữ. Có khác gì con sâu đo, muốn đo cả trời đất”.

Phái đoàn của ông đi Indonesia và Campuchia mục đích chủ yếu là đem đường bán cho nước ngoài để mua sắm những hàng xa xỉ cho triều đình. Ra nước ngoài, ông đã thấy đời sống của người Tây phương, lại thấy cảnh người da đen kéo xe cho người da trắng, ông cũng phần nào nhận thức được sự phát triển của các Tây phương và nguy cơ bị xâm lược của các nước Á Đông. Lòng yêu nước được kích thích, ông càng nhìn rõ hơn sự nhu nhược và bất lực của triều đình, tin tưởng vào sức mạnh phản kháng của nhân dân trước nạn ngoại xâm”.

Trở lại bài thơ Dương phụ hành, Cao Bá Quát như cầm bút viết ngay một cảnh tượng về cuộc sống của người phụ nữ Tây phương lướt qua con mắt quan sát của nhà thơ. Đây là một cuộc sống đối lập với người phụ nữ Việt Nam: Giữa cái thùy mị, kín đáo với cái nũng nịu phô trương từ cách ăn mặc đến cử chỉ:

“Thiếu phụ Tây dương áo trắng phau

Tựa vai chồng dưới bóng trăng thâu”

Và, nhiều khi họ có cái nhìn tò mò đối với người lạ rồi bình phẩm, bàn tán – một thói xấu, một cử chỉ đến khó chịu:

“Ngó thuyền Nam thấy đèn le lói

Kéo áo rầm rì nói với nhau…”

Ta hiểu người đàn bà Tây dương “níu áo chồng” rồi nói những gì đó với nhau, ẩn sau câu thơ là sự căm ghét của nhà thơ đối với lối sống đó.

Tiếp đó, Cao Bá Quát miêu tả bằng những lời thơ mộc mạc nhưng nói lên đầy đủ lối sống khác lạ, phè phỡn, no đầy của họ:

“Hững hờ cốc sữa biếng cầm tay

Gió bể, đêm sương thổi lạnh thay…”

Tay cầm cốc sữa mà “hững hờ” không muốn uống, cảnh tượng này đối lập với con người trong bài thơ “Giữa đường gặp người đói” – lời thơ như tiếng kêu xé lòng:

“Một con người thất thểu

Áo rách nón tả tơi…

Ngày hai cố chiếc tráp

Ngày ba nhịn đói dài…

Cảnh tiếp theo đối lập ngay với chính tâm trạng của nhà thơ:

Uốn éo đòi chồng nâng đỡ dậy

Biết đâu nỗi khách biệt li này…”

Nghĩa là ở đây thì “bà đầm” uốn éo với chồng, nằm xuống được nhưng khi ngồi dậy phải có chồng nâng! Trong khi đó thì chính nhà thơ đang ở trong cảnh biệt li! Như vậy ở bài thơ này, nhà thơ vừa nhìn thấy cái khác lạ trong đời thường, lại vừa thấm thía với bản thân mình.

Chia sẻ bạn bài văn ❤️️ Phân Tích Bài Thơ Năm Mới Chúc Nhau ❤️️ ngắn hay

Viết một bình luận