Phân Tích Bình Ngô Đại Cáo Đoạn 4 ❤️️ 32+ Bài Văn Hay Nhất ✅ Tham Khảo Tuyển Tập Bài Viết Nghị Luận Văn Học Đặc Sắc Tác Phẩm Ngữ Văn Lớp 10.
Dàn Ý Phân Tích Bình Ngô Đại Cáo Đoạn 4
Lập dàn ý phân tích Bình Ngô đại cáo đoạn 4 sẽ giúp các em học sinh định hướng cho mình bố cục và hệ thống luận điểm để triển khai bài viết. Tham khảo mẫu dàn ý phân tích đoạn 4 Bình Ngô đại cáo như sau:
I. Mở bài phân tích Bình Ngô đại cáo đoạn 4:
- Giới thiệu về tác giả Nguyễn Trãi và tác phẩm Bình Ngô đại cáo.
- Dẫn dắt giới thiệu nội dung cần phân tích – đoạn 4 Bình Ngô đại cáo.
II. Thân bài phân tích Bình Ngô đại cáo đoạn 4:
-Lời tuyên bố về nền độc lập, hòa bình của dân tộc:
- Lời tuyên ngôn được ban bố rộng rãi tới tất cả mọi người, đó là lời khẳng định về nền độc lập, hòa bình, thống nhất của dân tộc.
- Giọng điệu trang trọng, hào sảng cho thấy niềm tin và những suy tư sâu lắng của tác giả
- Sử dụng những hình ảnh về tương lai đất nước như “xã tắc từ đây vững bền, giang sơn từ đây đổi mới, thái bình vững chắc”, các hình ảnh của vũ trụ “kiền khôn, nhật nguyệt, ngàn thu sạch làu”
- Nhờ “trời đất tổ tông khôn thiêng ngầm giúp đỡ” cùng sức mạnh của nghĩa quân Lam Sơn đã đánh đuổi được giặc Minh làm cho đất nước sạch bóng kẻ thù.
- Đất nước, vũ trụ đang vận động theo hướng tươi sáng, tốt đẹp hơn.
- Đây không chỉ là lời tuyên bố kết thúc còn là niềm tin tưởng, lạc quan về sự nghiệp xây dựng đất nước.
-Nghệ thuật:
- Sử dụng sáng tạo và thành công thể cáo
- Kết hợp hài hòa giữa yếu tố chính trị và yếu tố văn chương.
- Sử dụng các biện pháp liệt kê, phóng đại, đối lập,..
III. Kết bài phân tích Bình Ngô đại cáo đoạn 4:
- Khái quát nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ.
Gửi đến bạn 🍃 Tóm Tắt Đại Cáo Bình Ngô 🍃 15 Bài Mẫu Ngắn Hay Nhất
Mở Bài Phân Tích Đoạn 4 Bài Bình Ngô Đại Cáo
Khi viết mở bài phân tích đoạn 4 bài Bình Ngô đại cáo, các em học sinh cần giới thiệu tác giả, tác phẩm và nội dung nghị luận văn học. Tham khảo gợi ý dưới đây:
Trong dòng văn học yêu nước của dân tộc, có biết bao kiệt tác văn học đáng ngưỡng mộ và tự hào. Ta thêm tự hào về truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết qua những trang sử vẻ vang viết về cuộc đấu tranh anh dũng của dân tộc. Đó là Nam Quốc sơn hà của Lí Thường Kiệt, là Tụng giá hoàn kinh sư của Trần Quang Khải, Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh,…Đặc biệt, một trong số đó phải kể đến Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, một tác phẩm bất hủ được xem là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc.
Vào năm 1427, quân Minh do Mộc Thạnh và Liễu Thăng cầm đầu bị nghĩa quân Lam Sơn đánh bại và thu phục. Tháng 12 năm 1427, Vương Thông đêm quân theo sông Nhị Hà về nước theo lời ước giao hoà, được nghĩa quân Lam Sơn cấp lương thực và vật dụng để trở về. Đến năm 1428, quân giặc dẹp yên, đất nước không còn bóng quân Mình, Lê Lợi đã giao cho Nguyễn Trãi làm bài cáo để tổng kết cuộc đấu tranh, tuyên bố thắng lợi trong cuộc chiến đấu chống quân Minh.
Tác phẩm được viết bằng chữ Hán và lấy nhan đề là “Bình Ngô đại cáo” với ý nghĩa tuyên bố đến toàn dân về việc giặc Ngô đã được dẹp yên. Trong đoạn cuối tác phẩm, Nguyễn Trãi đã hào hùng nêu lên lời khẳng định độc lập, tự do của dân tộc, qua đó bộc lộ tình yêu nước sâu sắc.
Kết Bài Phân Tích Đoạn 4 Của Bài Bình Ngô Đại Cáo
Đoạn văn mẫu kết bài phân tích đoạn 4 của bài Bình Ngô đại cáo dưới đây sẽ giúp các em học sinh tham khảo những ý văn đánh giá tổng kết nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
Bình Ngô đại cáo chiếm trọn tình cảm của nhân dân và của người đọc qua bao thế hệ không chỉ bởi nội dung sâu sắc mà còn tài năng nghệ thuật tài tình của tác giả Nguyễn Trãi. Bài cáo giàu sức thuyết phục bởi ngôn từ sắc bén, lí lẽ chính xác, lập luận đúng đắn. Các hình ảnh, hình tượng nghệ thuật giàu sức gợi, lối viết giàu cảm xúc. Các thủ pháp liệt kê, so sánh, đối lập,….được vận dụng linh hoạt, phù hợp. Trong đoạn 4, lời trình trọng tuyên bố hòa bình, dẹp yên bóng giặc của Nguyễn Trãi sẽ là lời tuyên cáo sống mãi với thời đại.
Đã sáu trăm năm trôi qua, lịch sử cũng đã lùi vào dĩ vãng, nhưng Đại cáo bình Ngô vẫn trọn vẹn sức sống như thuở ban đầu. Bản văn kiện lịch sử mang tầm tư tưởng vĩ đại, một luận văn tổng kết lịch sử yêu nước vô cùng xuất sắc, cũng là một áng văn chương tiêu biểu cho ngòi bút thần Nguyễn Trãi. Tác phẩm chính là nguồn cảm hứng bất tận cho bao thế hệ người Việt Nam về lòng yêu nước, về tinh thần đấu tranh bảo vệ và dựng xây đất nước.
Mời bạn tham khảo ☀️ Sơ Đồ Tư Duy Bình Ngô Đại Cáo ☀️ 12 Mẫu Hay
Phân Tích Bình Ngô Đại Cáo Đoạn 4 Hay Nhất – Mẫu 1
Đón đọc bài văn mẫu phân tích Bình Ngô đại cáo đoạn 4 hay nhất được chọn lọc và chia sẻ dưới đây dành cho các em học sinh.
Được coi là bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của đất nước Việt Nam, “Bình Ngô Đại Cáo” đã thực hiện sứ mệnh cao cả của mình là tuyên bố một cách hùng hồn về chủ quyền của đất nước ta thời bấy giờ, đồng thời tố cáo tội ác dã man của quân giặc phương Bắc, khẳng chiến công oanh liệt mà dân tộc Đại Việt đã đạt được. Kết thúc bài cáo, thay lời của chủ tướng Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã trịnh trọng truyền đi khắp muôn nơi tin vui về sự độc lập của đất nước và niềm tin về một tương lai tương sáng dành cho dân tộc Đại Việt.
“Xã tắc từ nay vững bền
Giang sơn từ nay đổi mới
Kiền khôn bĩ thái rồi lai
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Muôn thuở nền thái bình vững chãi”
Chỉ với sáu câu thơ ngắn gọn, Nguyễn Trãi đã làm cho lời tuyên ngôn độc lập trở nên đanh thép hơn bao giờ hết. Trong những câu thơ ấy, không chỉ toát lên cái không khí vui tươi, phấn khởi trước chiến thắng mà còn bày tỏ cả cảm hứng độc lập rất sâu sắc nữa.
Cảm hứng độc lập ấy toát lên từ trong những lời thơ khẳng định của Nguyễn Trãi, ông khẳng định rằng:
“Đất nước từ nay vững bền
Giang sơn từ nay đổi mới”
Nền độc lập được gây dựng nên từ xương máu của nhân dân thế nên nền độc lập chắc chắn sẽ là một nền độc lập lâu bền. Một đất nước mới đã được thành lập, một triều đại mới của chính dân tộc Đại Việt sau bao tháng năm nội chiến, ngoại chiến đã được mở ra. Mặc dù để có được nền độc lập ấy, chúng ta đã phải đổ máu, nước mắt, cùng với sự hi sinh, thế nhưng tất cả sau cơn “bĩ cực” – khó khăn, vất vả sẽ lại tới hồi “thái lai”, tươi sáng.
Cảm hứng về nền độc lập dân tộc không chỉ được Nguyễn Trãi thể hiện ở cuối Bình Ngô Đại Cáo mà ngay từ đầu khi bước vào bài cáo, ông đã thể hiện nó rất rõ ràng:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác”
Đây cũng là một lời khẳng định chủ quyền rất đanh thép của Nguyễn Trãi trước kẻ thù. Ông cho rằng, chủ quyền đất nước được định sẵn rõ ràng, “núi sông bờ cõi đã chia”, không thể mặc nhiên mà xâm phạm được. Tư tưởng độc lập chủ quyền này không chỉ Nguyễn Trãi mà ngay từ thời Lý Thường Kiệt, ông đã luôn khẳng định:
“Sông núi nước Nam vua Nam ở
Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư”
Có thể nói, cái tư tưởng, cảm hứng về nền độc lập dân tộc đã khởi nguồn từ rất lâu đời và đến Bình Ngô đại cáo, nó lại được khẳng định chắc chắn một lần nữa thông qua bản Tuyên ngôn về chủ quyền của Nguyễn Trãi.
Không chỉ viết về cảm hứng độc lập dân tộc, thông qua sáu câu cuối, Nguyễn Trãi còn bày tỏ niềm tin về tương lai tươi sáng của đất nước. Xã tắc của dân nước Nam từ nay được vững bền, đất nước, non sông của dân tộc Đại Việt từ nay có chủ mới, tươi sáng, đẹp đẽ hơn. Chỉ sáu câu thơ mà có tới hai từ “vững bền, vững chãi” được nhắc tới để chỉ về tương lai của nước Nam.
Nguyễn Trãi muốn thông qua đó khẳng định đanh thép rằng: Tương lai của người dân nước Nam từ nay sẽ được “đổi mới”, vững bền tới muôn đời. Mặc dù phải trải qua những khó khăn “kiền khôn bĩ”, “nhật nguyệt hối” nhưng rồi tất cả sẽ “thái rồi lai”, “hối rồi minh” tức là tất cả đều sẽ lại tươi đẹp. Ở đây, Nguyễn Trãi đã dùng những từ ngữ chỉ quy luật vận hành của thiên nhiên, vũ trụ để khẳng định ý nghĩa chiến thắng của quân và dân nước Nam là hợp với ý trời, đúng với quy luật của vũ trụ, đồng thời ông cũng muốn bày tỏ sự tin tưởng vào tương lai tươi sáng của dân tộc.
Sự đổi thay, đổi mới giang sơn là điều kiện cần và đủ để thiết lập một sự vững bền mới cho xã tắc, muôn dân. Sự đổi mới này là trên nền tảng phục hưng một dân tộc nên nó chắc chắn sẽ mãi mãi trường tồn muôn thuở:
“Muôn thuở nền thái bình vững chãi”
Bởi vì tương lai ấy được làm nên từ những trận đánh anh hùng, vang dội, nối tiếp những truyền thống của cha ông với ba lần đánh quân Nguyên – Mông. Và nối tiếp là hai câu thơ cuối:
“Một cỗ nhung y chiến thắng, nên công oanh liệt ngàn năm
Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn”
Như muốn bày tỏ khép lại một thời kì chiến đấu oanh liệt để mở ra một thời kì mới, kỉ nguyên mới xây dựng đất nước huy hoàng hơn, thịnh vượng hơn.
Thông qua lời tuyên bố hùng hồn của Nguyễn Trãi, chúng ta thấy cảm hứng dân tộc và tương lai của đất nước như được hòa quyện vào trong quy luật xoay chuyển của vũ trụ. Tức là vượt qua cơn hoạn nạn, khó khăn, chúng ta hướng tới một tương lai tươi sáng và tốt đẹp hơn bội phần. Nguyễn Trãi đã thể hiện niềm trân trọng với quá khứ hào hùng của dân tộc để từ đó càng tin tưởng hơn vào một mùa xuân mới của đất nước được dựng xây từ chính bàn tay những người dân Đại Việt.
“Bình Ngô Đại Cáo” đã thể hiện niềm cảm hứng độc lập dân tộc hết sức sâu sắc. Thông qua đó, chúng ta cũng thấy được niềm tin của tác giả vào một tương lai vững bền, thịnh vượng của dân tộc Đại Việt sau cơn bĩ cực, khốn khó. Nguyễn Trãi đã mang vào bài cáo của mình một cảm hứng thời đại hừng hực khí thế của chiến thắng đại phá quân Minh. Hòa cùng với niềm tin ấy của Nguyễn Trãi, mong rằng dân tộc ta sẽ luôn luôn góp sức, cùng nhau gây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp hơn, thịnh vượng hơn.
Giới thiệu cùng bạn 🍀 Thuyết Minh Về Tác Phẩm Bình Ngô Đại Cáo 🍀 15 Bài Hay
Phân Tích Bình Ngô Đại Cáo Đoạn 4 Ngắn Gọn – Mẫu 2
Tham khảo bài văn mẫu phân tích Bình Ngô đại cáo đoạn 4 ngắn gọn dưới đây với những ý văn súc tích và cô đọng nội dung.
Bình Ngô đại cáo được mệnh danh là áng thiên cổ hùng văn nghìn đời còn vang mãi, là áng văn chính luận mẫu mực và hơn tất cả nó còn là bản tuyên ngôn độc lập đầy tự hào của dân tộc. Tác phẩm được Nguyễn Trãi theo lệnh Lê Lợi viết vào năm 1428, là tác phẩm văn học có giá trị to lớn, thể hiện lòng yêu nước, lòng tự tôn dân tộc, sự kiêu hùng dũng mãnh của nhân dân ta trong cuộc chiến chống quân Minh, đồng thời cũng phản ánh sự tàn bạo của quân thù khi giày xéo lên mảnh đất quê hương.
Cả bài cáo chia làm 4 phần chính được đánh số số thứ tự, mỗi phần bao hàm một nội dung, nhưng bao quát nhất vẫn là tấm lòng yêu nước thật nồng nàn và sâu sắc, cùng ý chí tự cường của nhân dân ta. Và điều này được bộc bộ rõ nét qua đoạn cuối cùng trong tác phẩm:
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;
Than ôi!
Một cỗ nhung y chiến thắng,
Nên công oanh liệt ngàn năm
Bốn phương biển cả thanh bình,
Ban chiếu duy tân khắp chốn.
Xa gần bá cáo,
Ai nấy đều hay.
Phần bốn là phần tuyên bố chiến quả và khẳng định sức mạnh chính nghĩa. Khác với giọng văn dồn dập, tiết tấu nhanh của đoạn 3, ở đây giọng văn lại mang sắc thái trầm lắng, như qua cơn mưa trời lại sáng, yên ả thanh bình. “Xã tắc từ đây vững bền/ Giang sơn từ đây đổi mới”, tuyên bố chiến thắng, khẳng định nền độc lập dân tộc đã được giành lại, vận nước đang lên. Tựa như quẻ Càn, quẻ Khôn trong Kinh Dịch, tựa như quy luật của nhật nguyệt, đó là niềm tin của tác giả vào một tương lai tươi sáng.
Từ đây, nước ta chính thức bước vào kỷ nguyên mới, một kỷ nguyên độc lập vững bền sau hơn 20 năm sống trong cảnh nhọc nhằn. Từ đó, Nguyễn Trãi cũng rút ra những bài học lịch sử sâu sắc, từ quy luật của Càn, Khôn, quy luật của nhật nguyệt giúp ta liên tưởng đến vận mệnh của đất nước, cũng có lúc lên lúc xuống, có hưng thịnh thì cũng có lúc suy tàn.
Để vận nước được lâu bền, ta phải lấy nhân dân làm gốc, lấy tư tưởng nhân nghĩa làm đầu, phải tuân theo “thiên mệnh”, ghi nhớ công lao của cha ông đã hy sinh cho Tổ quốc, đừng vì sống trong cảnh thanh bình mà quên mất những ngày gian khó.
Bình Ngô đại cáo xứng đáng là bản thiên anh hùng ca bất tận, là áng thiên cổ hùng văn, bản tuyên ngôn độc lập xuất sắc lưu danh mãi muôn đời. Ở đó, thể hiện được những tư tưởng nhân nghĩa và tiến bộ của Nguyễn Trãi trong quan niệm về một quốc gia.
Tác phẩm vừa là tuyên ngôn khẳng định chủ quyền độc lập dân tộc, đồng thời cũng là tuyên ngôn về quyền sống của con người, mà trước đây chưa từng một văn bản nào đề cập đến. Nhân dân ta đã được đẩy lên tầm cao mới đóng vai trò quan trọng trong sự hình thành đất nước, đó là một quan điểm rất tiến bộ và xuất sắc trong nhận thức của đại thi hào dân tộc Nguyễn Trãi.
Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất
Phân Tích Bình Ngô Đại Cáo Phần 4 Ngắn Nhất – Mẫu 3
Bài văn mẫu phân tích Bình Ngô đại cáo phần 4 ngắn nhất dưới đây sẽ giúp các em học sinh nhanh chóng ôn tập và chuẩn bị cho bài viết trên lớp.
Nguyễn Trãi là một nhà văn lỗi lạc của văn học Việt Nam, ông đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị, một trong những tác phẩm đặc sắc của ông phải kể đến “Bình Ngô đại cáo” ra đời vào mùa xuân năm 1482 – một áng thiên hùng cổ hùng văn của dân tộc.
Sau khi kết thúc cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược, Nguyễn Trãi đã thay vua soạn “Bình Ngô đại cáo” để tổng kết cuộc kháng chiến chống quân Minh, tuyên bố nền độc lập của dân tộc. Nhan đề tác phẩm có ý nghĩa thông cáo đến toàn dân về việc dẹp yên, quét sạch giặc Ngô trên đất Việt.
Quân giặc vắng bóng, đất nước ta được độc lập, xã tắc nay được ổn an, nhân dân được yên tâm làm ăn, tăng gia sản xuất. Đoạn cuối Bình Ngô đại cáo là lời tuyên bố lắng đọng vang lên đầy thiêng liêng trong giây phút tự hào:
“Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc.”
Đại Việt bước sang một trang mới, tăm tối quân thù không còn nữa, thay vào đó là ánh sáng của tự do, của thái bình. Niềm tin vào tương lai thái bình, thịnh trị ngàn năm của quốc gia mà tác giả gửi gắm cũng chính là lời thôi thúc mỗi người dân phải có trách nhiệm với đất nước mình. Hãy góp sức vào công cuộc cuộc bảo vệ và xây dựng nền thịnh trị của Đại Việt ngàn năm.
Cuối bài cáo, tác giả không quên gửi đến người xưa, đất trời linh thương lòng biết ơn sâu sắc:
” Âu cũng nhờ trời đất tổ tông
Linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;
Than ôi! Một cỗ nhung y chiến thắng,
Nên công oanh liệt ngàn năm
Bốn phương biển cả thanh bình,
Ban chiếu duy tân khắp chốn.”
Với Bình Ngô đại cáo, tác giả Nguyễn Trãi không chỉ tổng kết cuộc kháng chiến chống Minh nhiều gian khổ nhưng cũng không kém phần hiển hách, vinh quang của quân dân ta mà còn khẳng định được nền độc lập, chủ quyền dân tộc trong niềm tự hào. Bình Ngô đại cáo là áng thiên cổ hùng văn vô tiền khoáng hậu của nền văn học Việt Nam, là bức tượng đài chiến thắng hào hùng, hoành tráng giữa bầu trời đất Việt.
Đón đọc tuyển tập 💕 Phân Tích Bình Ngô Đại Cáo 💕 18 Bài Văn Ngắn Gọn Hay Nhất
Phân Tích Bài Thơ Bình Ngô Đại Cáo Đoạn 4 Chi Tiết – Mẫu 4
Dưới đây chia sẻ bài văn mẫu phân tích bài thơ Bình Ngô đại cáo đoạn 4 chi tiết để các em học sinh cùng tham khảo.
Vua Lê Thánh Tông đã từng đề cao: “Ức Trai tâm thượng quang Khuê Tảo”. Trong suốt bao năm qua, Nguyễn Trãi được nhớ tới, đánh giá như một nhà văn, nhà thơ vĩ đại của non sông Việt Nam, một nhà tư tưởng, một nhà chính trị đại tài của dân tộc Việt Nam thế kỉ XV. Các tác phẩm là sự kết hợp hài hoà của tư tưởng chính nghĩa, lòng yêu nước với lập luận sắc sảo, chặt chẽ, giọng văn hùng hồn, đầy tính thuyết phục với tư tưởng lấy dân làm gốc.
Một trong số tác phẩm của ông thể hiện rõ điều này là tác phẩm Bình Ngô đại cáo.Tác phẩm ra đời khi Lê Lợi lên ngôi Hoàng Đế đặt tên hiệu là Thuận Thiên (hợp lòng trời) và cử Nguyễn Trãi soạn bài cáo để tuyên bố cho toàn dân biết cuộc kháng chiến chống giặc Minh đã thắng lợi rực rỡ, đất nước ta chuyển sang một giai đoạn xây dựng hoà bình.
Bình Ngô đại cáo là một luận văn chính trị tổng kết chặt chẽ, súc tích- về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, dựa trên tư tưởng yêu nước thiết tha và sự nhận thức sâu sắc, mới mẻ về nhân dân và dân tộc. Bao trùm bài cáo là niềm tự hào vô biên trước thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến, của khí phách của dân tộc Việt Nam. Đoạn kết thúc tác phẩm là lời tuyên bố độc lập mang tính lịch sử.
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;
Than ôi!
Một cỗ nhung y chiến thắng,
Nên công oanh liệt ngàn năm
Bốn phương biển cả thanh bình,
Ban chiếu duy tân khắp chốn.
Xa gần bá cáo,
Ai nấy đều hay.
Ở phần kết, câu văn chuyển sang nhịp khoan thai, dàn trải, trang trọng. Giọng văn hiền hoà tươi vui Xã tắc từ đây vững bền / Giang sơn từ đây đổi mới. Nhưng niềm vui không ồn ào. Tác giả hiểu hơn ai hết cái giá đắt của chiến thắng, và cái ơn rất sâu của đồng bào và của trời đất tổ tông thiêng liêng đã đồng lòng giúp đỡ. Từ đây dân tộc bước vào một thời đại mới. Độc lập, tự do và sự yên bình lại trở về trên mỗi miền quê.
Đoạn văn dựa vào những quy luật tất yếu của tự nhiên mà khái quát thành những điều tất yếu trong xã hội. Xã hội phải đối diện với “những sự đổi thay” nhưng cũng như càn khôn “bĩ rồi lại thái”, như nhật nguyệt “hối rồi lại minh”. Và dường như cũng chỉ có như vậy ta mới thấu hết được cái ý nghĩa của hình ảnh đất nước trong gian lao, và mới hiểu thế nào là “muôn thuở nền thái bình vững chắc”. Đất nước đã thanh bình, hình ảnh đất nước trong tương lai vững vàng và tươi sáng: “Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn”.
Bài cáo viết với nghệ thuật xuất sắc: lời văn biền ngẫu hùng tráng, hơi văn cuồn cuộn như bão giông, như sóng lớn, từ ngữ sắc bén như những nhát dao chém thẳng vào quân xâm lược, phép đối kết hợp với cấu trúc câu của loại phú cận thể tạo nên tiết tấu mạnh mẽ thể hiện được tất cả các cảm xúc hào sảng bừng bừng trong huyết quản của tác giả ngay trong những ngày nghĩa quân Lam Sơn thắng trận giòn giã.
Bài cáo đã ghi lại một thời kỳ đau thương mà oanh liệt của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống quân Minh với những chiến thuật hết sức đúng đắn và sáng tạo đã đem lại những trận đánh long trời lở đất làm cho quân thù phải khiếp sợ, đẩy chúng đến sự thất bại toàn diện và nhục nhã. Bình Ngô đại cáo xứng đáng là “thiên cổ hùng văn”, là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của nước nhà.
Tóm lại, tác phẩm Bình Ngô đại cáo tràn ngập nguồn cảm hứng trữ tình và mang tính chất hào hùng hiếm có. Chính vì vậy, đoạn trích có giá trị rất sâu sắc đối với nước ta, khẳng định nhân dân ta có tinh thần nhân nghĩa và nền độc lập riêng của mình. Đoạn cuối tác phẩm giúp ta hiểu rõ chủ quyền lãnh thổ, độc lập dân tộc cũng như lịch sử đấu tranh hào hùng của cha ông ta ngày trước, qua đó bồi dưỡng lòng yêu nước, tự hào tự tôn dân tộc, quyết tâm xây dựng, bảo vệ và củng cố độc lập chủ quyền nước nhà.
Mời bạn xem nhiều hơn 🌟 Mở Bài Bình Ngô Đại Cáo 🌟 20 Đoạn Văn Mẫu Hay Nhất
Phân Tích Đoạn 4 Bình Ngô Đại Cáo Lớp 10 Đầy Đủ – Mẫu 5
Bài văn phân tích đoạn 4 Bình Ngô đại cáo lớp 10 đầy đủ dưới đây sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích dành cho các em học sinh trong quá trình làm bài.
Nếu bài thơ “Nam quốc sơn hà” có giá trị như một bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc thì “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi được coi là “áng thiên cổ hùng văn”, là bản tuyên ngôn độc lập chủ quyền thứ hai của đất nước ta. Đây là tác phẩm mang những đặc điểm cơ bản của thể loại cáo nói chung, bên cạnh đó cũng mang những đặc điểm sáng tạo riêng của tác giả.
Sau khi quân ta chiến thắng giặc Minh, Nguyễn Trãi đã thừa lệnh Lê Lợi viết tác phẩm “Bình Ngô đại cáo”. Bài cáo này được công bố vào tháng Chạp năm 1428 nhằm mục đích tổng kết lại quá trình chiến đấu chống giặc Minh xâm lược, bảo vệ đất nước và tuyên bố về nền độc lập của dân tộc ta.
Cáo là một thể loại thuộc văn học chức năng và là thể văn nghị luận có từ thời cổ ở Trung Quốc, thường được vua, chúa, thủ lĩnh dùng để trình bày một chủ trương, sự nghiệp, tuyên ngôn về một sự kiện nào đó để mọi người cùng biết. Đặc trưng cơ bản của thể loại này là được viết bằng văn xuôi hay văn vần nhưng phần lớn cáo được viết bằng văn biền ngẫu, có sử dụng các phép đối, các câu dài ngắn tự do. “Bình Ngô đại cáo” là bài cáo có bố cục chặt chẽ, lí luận sắc bén, giọng điệu, lời lẽ đanh thép, hùng hồn.
Bố cục của bài cáo chia thành bốn phần: Phần một tác giả nêu luận đề chính nghĩa hay nói cách khác đó chính là tư tưởng nhân nghĩa của tác giả; nội dung chính của phần hai là những tội ác không thể dung tha của giặc Minh; ở phần ba, tác giả đã kể lại công cuộc chiến đấu và sự chiến thắng của quân ta và phần bốn là lời tuyên bố chiến thắng, lời khẳng định chủ quyền, vị thế của dân tộc.
Quân xâm lược nước ta là quân Minh nhưng nhan đề bài cáo lại là “Bình Ngô đại cáo” đã thể hiện ý đồ và dụng ý nghệ thuật của tác giả. “Ngô” là từ chỉ Chu Nguyên Chương lúc đầu xưng là Ngô Quốc Công, dấy binh ở Giang Tô, đồng thời cũng chỉ nhà Ngô thời Tam Quốc, triều đại phương Bắc sang xâm lược nước ta. Nhân dân ta gọi chúng là giặc Ngô với thái độ khinh ghét, căm thù. Nhan đề “Bình Ngô đại cáo” mang ý nghĩa tuyên bố về việc dẹp yên giặc Ngô và tâm thế chiến thắng của toàn dân tộc ta trước kẻ thù tàn ác.
Phần cuối cùng của bài cáo là lời tuyên bố, khẳng định nền độc lập của dân tộc:
“Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc
u cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;
Than ôi!
Một cỗ nhung y chiến thắng, nên công oanh liệt ngàn năm
Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn.
Xa gần bá cáo,
Ai nấy đều hay”.
Dẹp yên giặc Minh, đất nước ta bắt đầu công cuộc đổi mới, bế tắc rồi lại thông suốt, nhật nguyệt tối rồi lại sáng. Đó là quy luật vận động tất yếu của lịch sử, quy luật phát triển thịnh – suy của mỗi quốc gia. Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn giành thắng lợi đã mở ra một kỉ nguyên mới để dựng xây đất nước Đại Việt ngày càng hưng thịnh dưới triều vua Lê Lợi.
Nhờ “trời đất tổ tông khôn thiêng ngầm giúp đỡ” nên mới có chiến thắng vẻ vang đến như vậy. Sức mạnh, sự phù trợ của đấng linh thiêng cùng sức mạnh của nghĩa quân Lam Sơn đã đánh đuổi được giặc Minh làm cho đất nước sạch bóng quân thù. Một đất nước sẽ phát triển bền vững nếu có các chính sách chăm lo đến đời sống dân chúng một cách phù hợp.
Với bố cục chặt chẽ, sự đăng đối hài hòa ở các câu văn và giọng điệu chính luận tài tình, “Bình Ngô đại cáo” không chỉ tố cáo tội ác của quân Minh mà còn ngợi ca sự chiến thắng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và người anh hùng Lê Lợi. Nguyễn Trãi đã đề cao tư tưởng nhân nghĩa “yên dân”, “trừ bạo” và tư tưởng lấy dân làm gốc để phát triển dân tộc ngày càng hưng thịnh.
Mời bạn đón đọc 🌜 Kết Bài Bình Ngô Đại Cáo 🌜 20 Đoạn Văn Hay
Phân Tích Bình Ngô Đại Cáo Đoạn 4 Học Sinh Giỏi – Mẫu 6
Tham khảo bài văn phân tích Bình Ngô đại cáo đoạn 4 học sinh giỏi dưới đây với những nội dung nghị luận văn học chuyên sâu.
Dân tộc Việt Nam ta từ bao đời nay luôn có một truyền thống tốt đẹp đó là lòng nồng nàn yêu nước, tinh thần tự tôn dân tộc sâu sắc. Điều ấy không chỉ thể hiện mạnh mẽ và rõ ràng thông qua các cuộc chống giặc ngoại xâm giữ nước kể từ thời các vua Hùng cho đến tận ngày hôm nay, mà tinh thần yêu nước của dân tộc ta còn được gửi gắm một cách sâu sắc và khéo léo vào nhiều các tác phẩm văn chương đặc sắc, với ngòi bút tài hoa của nhiều tác giả.
Đặc biệt với Nguyễn Trãi một nhà chính trị, nhà quân sự tài ba, kiệt xuất, một danh nhân văn hóa thế giới thì tư tưởng yêu nước của người gửi gắm trong tác phẩm lại càng có nhiều điểm đáng quý, đáng trân trọng tôn sùng hơn cả. Bình Ngô đại cáo, tác phẩm nổi tiếng nhất trong sự nghiệp văn chương của Nguyễn Trãi, được muôn đời sau ca ngợi là áng thiên cổ hùng văn, là áng văn chính luận mẫu mực nhất đồng thời là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của nước ta.
Không chỉ mang trong mình giá trị lịch sử, vai trò chính trị quan trọng trong công cuộc chống quân Minh xâm lược mà Bình Ngô đại cáo còn chứa đựng trong mình cả tinh thần của một dân tộc – tinh thần yêu nước đã trở thành truyền thống ngàn đời và ngày một sâu nặng trong máu thịt văn hóa của nhân dân ta.
Bình Ngô đại cáo là tác phẩm do Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết vào năm 1427, sau khi nghĩa quân Lam Sơn chiến thắng 15 vạn quân Minh xâm lược. Mục đích bố cáo thiên hạ về chiến thắng vẻ vang của dân tộc, khẳng định lại chủ quyền lãnh thổ, đồng thời thuật lại cuộc chiến đấu đầy khó khăn gian khổ, làm nổi bật sự bất nhân bất nghĩa của quân Minh với Đại Việt ta, củng cố tinh thần yêu nước của nhân dân. Đồng thời mở ra một kỷ nguyên mới cho đất nước, kết thúc chiến tranh, lập ra triều đại mới hứa hẹn sự thịnh trị và an bình dài lâu cho dân tộc.
Trong phần kết của bài cáo, tinh thần yêu nước được khẳng định thông qua việc Nguyễn Trãi tuyên bố nền độc lập chủ quyền của dân tộc bằng giọng văn hùng hồn, sắc sảo, niềm tự hào, kiêu hãnh:
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;
Than ôi!
Một cỗ nhung y chiến thắng,
Nên công oanh liệt ngàn năm
Bốn phương biển cả thanh bình,
Ban chiếu duy tân khắp chốn.
Xa gần bá cáo,
Ai nấy đều hay.
“Xã tắc từ đây vững bền/Giang sơn từ đây đổi mới”, mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc, khai sinh ra một triều đại thịnh trị lâu dài. Bên cạnh đó cũng không quên rút ra những bài học cho hậu thế về sau, thể hiện sự chu toàn, cũng như tấm lòng lo nghĩa cho muôn dân, khẳng định quy luật tuần hoàn của lịch sử, trời đất”Càn khôn bĩ rồi lại thái/Nhật nguyệt hối rồi lại minh”, tin tưởng vào vận mệnh và sức mạnh của dân tộc có thể xoay chuyển càn khôn.
Nhưng đồng thời cũng thể hiện lòng biết ơn sâu sắc với truyền thống ngàn đời của dân tộc ” u cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ” và sức mạnh tổng hợp của thời đại “Một cỗ nhung y chiến thắng/Nên công oanh liệt ngàn năm”.
Có thể thấy rằng Bình Ngô đại cáo không chỉ thể hiện tư tưởng nhân nghĩa, khẳng định chủ quyền dân tộc, ca ngợi chiến thắng của nghĩa quân Lam Sơn trong cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược, mở ra một kỷ nguyên mới độc lập cho đất nước như một bản tuyên ngôn độc lập. Mà sâu hơn, nó còn ẩn chứa một tinh thần yêu nước nồng nàn sâu sắc, vốn là truyền thống bao đời nay của dân tộc Đại Việt thông qua các cuộc kháng chiến vẻ vang và anh hùng.
Tinh thần yêu nước ấy trong bài cáo không phải chỉ là tư tưởng của riêng Nguyễn Trãi, Lê Lợi hay nghĩa quân Lam Sơn mà nó là của toàn thể nhân dân Đại Việt, là sức mạnh tiềm tàng luôn nung nấu trong tiềm thức của mỗi con người, mà đến khi có giặc xâm lăng nó lại trào ra trong huyết quản, trở thành nguồn sức mạnh chiến đấu vĩ đại giúp ta chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược hung tàn.
Tiếp theo đón đọc 💕 Cảm Nhận Về Bài Bình Ngô Đại Cáo 💕 12 Mẫu Cảm Nghĩ Hay
Phân Tích Khổ 4 Bình Ngô Đại Cáo Nâng Cao – Mẫu 7
Với bài phân tích khổ 4 Bình Ngô đại cáo nâng cao dưới đây, các em học sinh có thể trau dồi cho mình những ý văn hay và đặc sắc.
Sau khi cuộc khởi nghĩa chống quân xâm lược nhà Minh thắng lợi vào cuối năm 1427, Lê Lợi đã sai Nguyễn Trãi soạn Đại cáo bình Ngô nhằm tổng kết lại một chặng đường lịch sử, ôn lại những tháng năm gian khổ, những chiến công hiển hách và ban bố cho toàn dân được biết.
Tác phẩm được viết bằng thể cáo vốn có nguồn gốc ở Trung Quốc từ thời cổ. Đây là một thể loại văn chương chính luận, một văn kiện chính trị có ý nghĩa lịch sử to lớn đã được chép lại trong sách Đại Việt sử ký toàn thư (1479). Cũng như nhiều tác phẩm khác dưới thời trung đại, nhan đề bài cáo không phải Lê Lợi hay Nguyễn Trãi đặt mà do người đời sau thêm vào.
Trên thực tế, ngay trong sách Đại Việt sử ký toàn thư đã ghi rõ: Vào cuối tháng 12 năm Đinh Mùi “Vua đã bình được giặc Ngô, đại cáo thiên hạ, lời cáo viết…”. Như vậy tinh thần “Bình Ngô đại cáo” cũng đã được nhận thức từ rất sớm và đi vào tâm trí của nhiều thế hệ người đọc. Nhưng vì sao người xưa không nói “bình giặc Minh” mà lại nói “bình Ngô” ? Bản thân chữ “Ngô” không phải là cách gọi giặc phương Bắc hay mượn lối nói nôm na “Giặc bên Ngô không bằng bà cô bên chồng” mà nhằm một ý khác sâu xa hơn.
Nguyên do bởi người lập ra triều Minh vốn tên Chu Nguyên Chương, suốt sáu năm trời trước khi lên ngôi Minh Thái Tổ đã từng xưng hiệu Ngô Vương. Bởi thế cách dùng từ “Ngô” ở đây chính là nhằm gọi đích danh vương hiệu thuỷ tổ nhà Minh và thể hiện thái độ khinh khi kẻ xâm lược.
Tiếp cận Đại cáo bình Ngô, người đọc hiện đại ngày nay cần chú ý rằng đây là tác phẩm văn chương chính luận điển hình dưới thời trung đại. Về hình thức, tác phẩm được viết bằng lối văn biền ngẫu chữ Hán, gồm 74 liên (148 vế câu), phát huy sức mạnh thể văn tứ lục biến cách, giá trị biểu cảm, biểu âm, biểu nghĩa trong từng câu, từng khổ thơ và tạo nên khúc ca hùng tráng.
Điều quan trọng hơn, tác phẩm có ý nghĩa kết tinh truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm và đặc điểm tư duy, quan niệm, nhận thức của con người trong thời trung đại về cơ sở lịch sử, văn hoá, xã hội, đất nước, dân tộc.
Rõ ràng bài cáo được viết theo lệnh nhà vua và dưới danh nghĩa lời tuyên cáo của vua với chúng dân, thế tất nội dung phải thể hiện được tiếng nói của nhà vua trong vai trò người cầm quyền. Toàn bộ nội dung tác phẩm Đại cáo bình Ngô toát lên tinh thần nhân nghĩa phù hợp với thiên mệnh, đạo trời; hành động của nhà vua phù hợp với ý nguyện trăm họ, chuyển hoá thành sức mạnh đánh tan quân xâm lược.
Ở phần kết, bài cáo có nội dung quan phương và tuân theo những quy phạm về mặt thể loại. Câu thơ trở nên hoành tráng, chuẩn mực, giọng điệu khoa trương để nhấn mạnh thời thế lịch sử đã chuyển sang một trang mới và khẳng định sự trường tồn của dân tộc:
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;
Than ôi!
Một cỗ nhung y chiến thắng,
Nên công oanh liệt ngàn năm
Bốn phương biển cả thanh bình,
Ban chiếu duy tân khắp chốn.
Xa gần bá cáo,
Ai nấy đều hay.
Ngay ở lời kết này, tư duy hướng về lực lượng siêu nhiên Trời – Đất – Tổ tông tiếp tục được nhấn mạnh: “Âu cũng nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng ngầm giúp đỡ mới được như vậy”.
Trên cả hai chiều thời gian và không gian, chiến thắng lần này sẽ còn vang vọng tới mai sau và đem lại cuộc sống an bình cho mọi miền non sông đất nước: “Một cỗ nhung y chiến thắng, nên công oanh liệt ngàn năm – Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn”,… Tác phẩm Đại cáo bình Ngô được coi là “bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của dân tộc”, “thiên cổ hùng văn”, “bản hùng ca lẫm liệt”, “một văn kiện chính trị có V nghĩa lịch sử lớn” và thuộc “một thể loại văn bản hành chính của nhà nước quân chủ”,. .
Do tính quy phạm của một tác phẩm thuộc thể cáo cho nên các phương diện thuộc về hình thức nghệ thuật thường ít có điều kiện được triển khai tìm hiểu. Hơn nữa, bản thân cách phiên dịch, cách hiểu, cách giải thích chiều sâu từng câu chữ văn bản cho đến nay vẫn chưa phải đã đến thấu đáo, toàn diện, chính xác. Tuy nhiên, chính nhờ giá trị tự thân mà Đại cáo bình Ngô cứ mãi toả hào quang, mãi cuốn hút mọi thế hệ người Việt Nam yêu nước và yêu văn chương.
Có thể nói rằng, với một tác phẩm không dài, lại được viết bằng lối văn biền ngẫu song Đại cáo bình Ngô đã có được sức vang hưởng vô cùng rộng lớn, tiêu biểu cho sức mạnh tinh thần, bản lĩnh văn hoá và nền văn hiến dân tộc. Vì lẽ đó mà tác phẩm được các thế hệ đón nhận, ngợi ca, luận bình và được giảng dạy rộng rãi trong nhà trường.
SCR.VN tặng bạn 💧 Nghị Luận Bình Ngô Đại Cáo 💧 15 Bài Văn Ngắn Hay Nhất
Phân Tích Đoạn 4 Của Bình Ngô Đại Cáo Đơn Giản – Mẫu 8
Tham khảo bài văn phân tích đoạn 4 của Bình Ngô đại cáo đơn giản dưới đây với những ý văn ngắn gọn và súc tích.
Nguyễn Trãi (1380-1942), hiệu là Ức Trai, là một nhà chính trị, quân sự tài ba và lỗi lạc, ông tham gia tích cực và đóng góp nhiều nhiều công lao to lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Minh của Lê Lợi với vai trò là một quân sư. Với những công trạng vĩ đại của mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Nguyễn Trãi đã trở thành bậc khai quốc công thần đời đầu của nhà Hậu Lê.
Ngoài là một nhà chính trị, quân sự tài ba, Nguyễn Trãi còn được biết đến là một nhà văn chính luận kiệt xuất, với số lượng tác phẩm tuy ít nhưng bài nào cũng để lại tiếng vang đến muôn đời có thể kể đến hai tác phẩm tiêu biểu là Quân trung từ mệnh tập và Bình ngô đại cáo.
Bình ngô đại cáo được sáng tác vào cuối năm 1427, thời điểm nghĩa quân Lam Sơn giành được thắng lợi huy hoàng, tiêu diệt 15 vạn viện binh của giặc Minh xâm lược do Liễu Thăng và Mộc Thạnh dẫn đầu. Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết Bình Ngô đại cáo để công bố cho nhân dân về việc đã dẹp yên giặc Minh, đồng thời nó cũng đóng vai trò như là một bản tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra một triều đại mới, triều đại thịnh thế của nhà Hậu Lê, mở ra kỷ nguyên mới độc lập, tự do cho dân tộc. Bình Ngô đại cáo được đọc vào đầu năm 1428.
Về ý nghĩa nhan đề “Bình Ngô đại cáo”, ở đây có thể lý giải rằng vua Minh là người đất Ngô, nên khi nói “Bình Ngô” ta sẽ hiểu rằng là bình định quân Minh xâm lược. Hoặc một cách hiểu khác, thì trước đây vào thời tam quốc, nước Ngô là nước đã cai trị nước ta một cách tàn ác và vô nhân đạo, cái tên “giặc Ngô” hay nước hay “nước Ngô” đã trở thành một loại từ khóa ám ảnh với nhân dân ta bao đời, thế nên khi nói đến giặc Ngô tức là nói đến thứ giặc xâm lược tàn bạo và độc ác.
“Đại cáo” tức là bản cáo lớn, ở đây Nguyễn Trãi muốn khẳng định đại đạo của dân tộc “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn/Lấy chí nhân để thay cường bạo” vốn là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong tác phẩm. Thứ hai nữa “đại cáo” này còn gắn liền với thể loại văn bản đương đại của nhà Minh, có ý nghĩa pháp luật, tác giả muốn khẳng định rằng đây cũng là một văn kiện pháp luật của Đại Việt, có giá trị, ý nghĩa tương đương với văn kiện pháp luật của nhà Minh. Lời khẳng định nền độc lập của dân tộc được nêu lên hào hùng trong đoạn cuối tác phẩm:
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;
Than ôi!
Một cỗ nhung y chiến thắng,
Nên công oanh liệt ngàn năm
Bốn phương biển cả thanh bình,
Ban chiếu duy tân khắp chốn.
Xa gần bá cáo,
Ai nấy đều hay.
Ở đoạn cuối tác phẩm, Nguyễn Trãi chuyển sang tuyên bố chiến quả, khẳng định sự nghiệp chính nghĩa của nghĩa quân Lam Sơn. “Xã tắc từ đây vững bền/Giang sơn từ đây đổi mới”, tuyên bố chiến thắng, mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập cho dân tộc, xây dựng nhà nước Đại Việt tự chủ và thịnh vượng dưới triều vua mới.
Sau là rút ra những bài học lịch sử sâu sắc, từ quy luật của trời đất và tự nhiên, “Càn khôn bĩ rồi lại thái/Nhật nguyệt hối rồi lại minh” thể hiện sự tin tưởng vào vận mệnh mới của dân tộc, sau khi đã trải qua cơn bĩ cực của lịch sử. Thứ hai là chiến thắng của chúng ta được tạo nên nhờ sự kết hợp của sức mạnh thời đại “Một cỗ nhung y chiến thắng/Nên công oanh liệt ngàn năm”, và yếu tố thứ hai chính là sức mạnh của truyền thống “Âu cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ”.
Bình Ngô đại cáo đã tố cáo tội ác của kẻ thù xâm lược, ca ngợi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, tác phẩm được coi là bản tuyên ngôn độc lập, tuyên bố về nên độc lập của dân tộc là áng thiên cổ hùng văn còn mãi giá trị nghìn đời sau của đất nước ta. Về nghệ thuật, đó là sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố chính luận, thể hiện ở kết cấu lý luận chặt chẽ, lập luận sắc bén, lời văn đanh thép, hùng hồn, và chất văn chương nghệ thuật thể hiện ở lời văn rất giàu cảm xúc, câu văn giàu hình tượng.
Giới thiệu cùng bạn 🍀 Phân Tích Đoạn 1 Bình Ngô Đại Cáo 🍀 18 Bài Văn Hay Nhất
Phân Tích Đoạn 4 Bài Thơ Bình Ngô Đại Cáo Lớp 10 – Mẫu 9
Tài liệu văn phân tích đoạn 4 bài thơ Bình Ngô đại cáo lớp 10 dưới đây sẽ là nội dung tham khảo hữu ích dành cho các em học sinh trong quá trình làm bài.
Nguyễn Trãi danh nhân văn hóa thế giới, ông để lại sự nghiệp sáng tác đồ sộ. Bên cạnh những tác phẩm giàu giá trị nghệ thuật, còn có những tác phẩm giàu tính chiến đấu, và một trong những tác phẩm đó không thể không nhắc đến Bình Ngô đại cáo. Tác phẩm là bản tổng kết cuộc kháng chiến chống quân Minh đầy gian lao mà cũng vô cùng hào hùng của dân tộc.
Năm 1427, nghĩa quân Lam Sơn giành thắng lợi huy hoàng, đã tiêu diệt viện binh của giặc. Lúc này, Vương Thông đang cố thủ trong thành Đông Quan để chờ hai đạo viện binh do hai tướng giỏi của nhà Minh chỉ huy là Liễu Thăng và Vạn Thạnh, nhưng hai đạo quân này đã bị quân ta chặn đánh, Vương Thông viết thư xin hàng và rút quân về nước. Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết “Bình Ngô đại cáo” để tuyên bố với toàn dân về việc dẹp yên giặc Ngô. Đây được coi là bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của dân tộc, được ban bố vào đầu năm 1428.
Ở đoạn cuối Bình Ngô đại cáo là lời tuyên bố chiến thắng, mở ra kỉ nguyên độc lập của dân tộc thật dõng dạc, tràn đầy niềm tự hào:
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;
Than ôi!
Một cỗ nhung y chiến thắng,
Nên công oanh liệt ngàn năm
Bốn phương biển cả thanh bình,
Ban chiếu duy tân khắp chốn.
Xa gần bá cáo,
Ai nấy đều hay.
Xã tắc từ đây vững bền/ Giang sơn từ đây đổi mới, đất nước ta bước vào thời kỳ tự chủ, thịnh vượng dưới triều đại mới. Đồng thời ông cũng rút ra những bài học lịch sử: Kiền khôn bĩ rồi lại thái/ Nhật nguyệt hối rồi lại minh, để khẳng định niềm tin vào vận mệnh mới của dân tộc sau khi đã trải qua những cơn bĩ cực. Đồng thời ông cũng khẳng định, chiến thắng chúng ta có được là nhờ sự kết hợp sức mạnh của thời đại và sức mạnh truyền thống dân tộc: Âu cũng nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng ngầm giúp đỡ mới được như vậy.
Văn bản là sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố chính luận và chất văn chương. Kết cấu văn bản chặt chẽ, lập luận vô cùng sắc bén, lời văn đanh thép tố cáo tội ác giặc, hùng hồn, hào sảng khi nói về chiến công của nhân dân ta. Nhưng bên cạnh đó cũng đậm chất văn chương nghệ thuật với những câu văn giàu cảm xúc, giàu hình tượng, giàu giá trị tạo hình, gây ám ảnh sâu sắc với người đọc.
Tác phẩm là bài ca ngợi ca cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thần kỳ đã chấm dứt sự xâm lược của giặc Minh. Đồng thời cũng là bản tố cáo đanh thép, dõng dạc những tội ác mà giặc Minh phạm với nhân dân ta. Bên cạnh đó Đại cáo Bình Ngô còn là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc, xứng đáng là áng thiên cổ hùng văn bất hủ của muôn đời.
Gợi ý cho bạn 🍀 Cảm Nhận Đoạn 1 2 Bình Ngô Đại Cáo 🍀 10 Bài Văn Hay
Phân Tích Bình Ngô Đại Cáo Đoạn 4 Facebook – Mẫu 10
Chia sẻ bài văn phân tích Bình Ngô đại cáo đoạn 4 Facebook dưới đây sẽ giúp các em học sinh có thêm cho mình tư liệu tham khảo phong phú hơn.
Nhà phê bình văn học Hoài Thanh từng nhận định “Mỗi trang văn đều soi bóng thời đại mà nó ra đời”. Những kiệt tác văn học ra đời không chỉ mang trong mình ý nghĩa văn chương mà còn mang cả tầm vóc lịch sử. “Đại cáo Bình Ngô” chính là một kiệt tác như thế. Không những là áng “thiên cổ hùng văn” của Nguyễn Trãi, “Đại cáo Bình Ngô” còn có ý nghĩa như một bản tuyên ngôn độc lập lịch sử.
Đại cáo Bình Ngô ra đời gắn với mốc lịch sử vô cùng trọng đại của dân tộc. Mùa xuân năm 1428, sau chiến thắng giặc Minh, thừa lệnh Lê Lợi, Nguyễn Trãi viết bài cáo để thông báo tới toàn thể nhân dân về chiến thắng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Ròng rã hai mươi năm chiến tranh thảm khốc và ách đô hộ của quân giặc, chúng ta đã chiến thắng và giành lại nền độc lập dân tộc, lập lại nền hòa bình.
Đại cáo Bình Ngô khi ấy chính là khúc khải hoàn ca, mở ra kỉ nguyên mới của dân tộc, kỉ nguyên hoàn toàn độc lập và tự do, trở thành khúc tráng ca của lịch sử. Bài cáo là lời khẳng định đanh thép về độc lập chủ quyền, về chiến thắng Lam Sơn hào hùng và nền hòa bình dân tộc. Bài cáo được viết theo thể văn biền ngẫu, lập luận chặt chẽ, đanh thép đầy thuyết phục. Đi từ cơ sở lí luận của tư tưởng nhân nghĩa và chân lí về độc lập chủ quyền, đến sự phơi bày tội ác của giặc và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn rồi tuyên bố nền hòa bình.
Trước sự xâm lược tàn bạo của giặc Minh, dù giai đoạn đầu cuộc có nhiều khó khăn song cuối cùng thắng lợi vẫn thuộc về dân tộc ta. Tuyên bố về thắng lợi, bài cáo đã thể hiện niềm tự hào, tự tôn dân tộc vô cùng sâu sắc. Đồng thời cũng nêu cao tính chính nghĩa của cuộc chiến này. Chiến thắng giặc Minh năm ấy chính là sự trừng phạt thấu tình đạt lí những kẻ bạo ngược, vi phạm chủ quyền dân tộc ta.
Khép lại bản “tuyên ngôn”, Đại cáo Bình Ngô đi đến sự tuyên bố về nền hòa bình dân tộc:
“Xã tắc từ đây vững bền,
Giang sơn từ đây đổi mới.
Kiền khôn bĩ rồi lại thái,
Nhật nguyệt hối rồi lại minh.
Muôn thuở nền thái bình vững chắc,
Ngàn thu vết nhục nhã sạch lầu”
Đó là “trái ngọt hoa thơm” của cuộc đấu tranh đầy khó khăn, gian khổ. Từng câu từng chữ vút cao, vang dội, tuyên bố nền hòa bình “vững bền, đổi mới, vững chắc”. Hình ảnh “xã tắc, giang sơn, kiền khôn, nhật nguyệt” giống như tái hiện khung cảnh thái bình tuyệt đẹp. Đặc biệt trong đó còn chứa đựng sự biết ơn “trời đất tổ tiên khôn thiêng ngầm giúp” và đạo lý uống nước nhớ nguồn.
Lí lẽ sắc bén, dẫn chứng thuyết phục kết hợp với giọng điệu hào hùng, đanh thép, hùng tráng. Các biện pháp nghệ thuật khéo léo cùng những câu văn dài ngắn, biến hóa linh hoạt, bài cáo đã khẳng định độc lập chủ quyền, chiến thắng của khởi nghĩa Lam Sơn và nền hòa bình dân tộc. Đồng thời cũng nêu cao tinh thần yêu nước cùng tầm vóc tư tưởng và tài năng của Nguyễn Trãi.
Với những thành công đó, Đại cáo Bình Ngô chính là bản tuyên ngôn mang nhiều giá trị sâu sắc của dân tộc. Trải qua nhiều năm, nó vẫn sừng sững chỗ đứng trong nền văn học nói riêng, trong lịch sử Việt Nam nói chung. Để mỗi lần bài cáo vang lên, nhân dân Việt Nam lại nghe trong trái tim mình tiếng nói của Tổ quốc.
Đọc nhiều hơn với 🔥 Phân Tích Đoạn 2 Bình Ngô Đại Cáo 🔥 12 Bài Văn Hay Nhất
Phân Tích Bình Ngô Đại Cáo Đoạn 3 4 – Mẫu 11
Bài văn mẫu phân tích Bình Ngô đại cáo đoạn 3 4 dưới đây sẽ giúp các em học sinh hoàn thành tốt và đạt kết quả cao cho bài viết của mình.
Nguyễn Trãi là nhà quân sự, nhà văn hóa lớn, nhà thơ kiệt xuất của dân tộc Việt Nam. Ông đã đóng góp cho kho tàng văn học trung đại Việt Nam nói riêng và kho tàng văn học Việt Nam nói chung nhiều tác phẩm văn học độc đáo, có sức sống lâu bền trong lòng bạn đọc mọi thế hệ và “Bình Ngô đại cáo” là một trong số những tác phẩm như thế.
“Bình Ngô đại cáo” ra đời sau thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống quân minh xâm lược. Tác phẩm không chỉ là một văn kiện lịch sử tuyên bố nền độc lập của dân tộc mà nó còn là áng văn yêu nước, áng văn chính luận xuất sắc của nền văn học nước ta.
Được viết theo thể cáo – một thể loại văn học cổ có nguồn gốc từ Trung Hoa, “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi cũng có một bố cục rất chặt chẽ. Trên cơ sở tiền đề chính nghĩa và chân lí độc lập ở đoạn một, đoạn hai của bài cao đi sâu chỉ rõ những tội ác man rợn của giặc Minh. Tiếp đó, trong đoạn ba của bài cáo, tác giả Nguyễn Trãi đã tái hiện lại quá trình chiến đấu và giành chiến thắng của quân và dân ta trong cuộc chiến đấu chống quân Minh xâm lược. Và trước hơn hết đó chính là hình ảnh của chủ tướng Lê Lợi.
Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Với đại từ “ta” tự xưng gần gũi cùng cách sử dụng từ “nơi”, “chốn” đã cho thấy nguồn gốc xuất thân của chủ tướng Lê Lợi. Người anh hùng ấy cũng xuất thân từ nhân dân, cũng bước ra từ lòng nhân dân và thấu hiểu bao nỗi nhọc nhằn của nhân dân.
Người anh hùng ấy mang trọn trong mình lòng căm thù giặc sâu sắc – “ngẫm thù lớn hạ độ trời chung”, “căm thù giặc thề không cùng chung sống’ cùng bao nỗi niềm nghĩ suy, trăn trở đến nỗi “đau lòng nhức óc”, “quên ăn vì giận” và cả “những trằn trọc trong đêm mộng mị” để đứng lên dấy binh khởi nghĩa.
Dẫu cuộc khởi nghĩa ấy diễn ra giữa lúc “quân thù đương mạnh” và gặp phải muôn vàn khó khăn nhưng điều đó không thể ngăn được bước chân và ý chí của Lê Lợi, ông vẫn không nguôi nỗi lòng thương dân và niềm khát khao đánh thắng kẻ thù xâm lược và để rồi, dẫu trong hoàn cảnh khó khăn ấy, ông vẫn tìm ra con đường để tranh đấu, để đưa cuộc chiến của ta đi đến thắng lợi.
Trọn hay:
Đen đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo
Chính nhờ chân lí, con đường ấy mà cuộc khởi nghĩa của ta đã từng ngày, từng ngày vượt qua khó khăn và đi đến thắng lợi. Tuy nhiên, khi tái hiện quá trình chiến đấu và chiến thắng của quân ta, Nguyễn Trãi không chỉ tái hiện hình ảnh của anh hùng Lê Lợi mà ông còn tái hiện rõ nét từng chặng đường trong cuộc kháng chiến ấy.
Trong buổi đầu của cuộc kháng chiến, nghĩa quân của ta gặp phải rất nhiều khó khăn, thiếu thốn về nhân lực – “việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần”, thiếu thốn lương thực,… nhưng với lòng quyết tâm và ý chí, cả nghĩa quân vẫn sát cánh bên nhau và cùng cố gắng. Để rồi, trong giai đoạn sau của cuộc chiến, quân ta đã giành nhiều thắng lợi vẻ vang. Mở đầu là các chiến thắng ở trận Bồ Đằng, trận Trà Lân rồi tiếp đó là chiến thắng Tây Kinh, Đông Đô, Ninh Kiều,… và tiếp đó là hàng loạt các chiến công liên tiếp:
Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã An, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hai lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lí Khanh cùng kế tự vẫn.
Có thể nói, bằng tất cả lòng quyết tâm, ý chí và lòng căm thù giặc sâu sắc, quân ta đã đánh thắng kẻ thù xâm lược, khiến chúng thất bại thảm hại và khiếp sợ. Đồng thời, trong trận chiến ấy, quân ta vẫn thể hiện rõ tư tưởng chính nghĩa đã đặt ra, bởi vậy nên khi quân giặc thua trận, nghĩa quân của ta vẫn cho chúng đường lui, không những tha chết cho bọn chúng mà còn cấp ngựa, cấp lương thực và cấp thuyền cho chúng trở về nước. Và có lẽ bởi vậy, chiến thắng của ta chính là sự chiến thắng của nhân nghĩa, của lòng nhân ái và tinh thần thượng võ.
Cuối cùng, trên cơ sở luận đề chính nghĩa và thực tiễn của cuộc chiến đấu đoạn cuối của bài cáo đã lên tiếng tuyên bố nền hòa bình, độc lập của dân tộc.
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
(…)
Xa gần bá cáo
Ai nấy đều hay.
Với giọng văn hào hùng, trịnh trọng xen lẫn niềm vui và tự hào dân tộc, lời tuyên bố độc lập được tuyên bố rộng rãi đến toàn thể mọi người. Lời tuyên bố ấy không chỉ thể hiện lòng tự hào dân tộc mà còn cho thấy niềm tin vào một tương lai đất nước thái bình và thịnh vượng.
Tóm lại, với sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố trữ tình và yếu tố chính luận cùng việc sử dụng nhiều hình ảnh độc đáo và giọng văn biến đổi linh hoạt, “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi xứng đáng là “áng thiên cổ hùng văn” trong nền văn học Việt Nam.
Chia sẻ cùng bạn 🌹 Phân Tích Đoạn 3 Bình Ngô Đại Cáo 🌹 12 Bài Văn Hay Nhất
Bài Văn Phân Tích Đoạn 3 4 Bình Ngô Đại Cáo Chọn Lọc – Mẫu 12
Đón đọc bài văn phân tích đoạn 3 4 Bình Ngô đại cáo chọn lọc dưới đây để nắm được cho mình những định hướng viết bài cụ thể nhất.
Nguyễn Trãi là một vị anh hùng lớn của dân tộc, là một nhà văn hoá lớn của thời đại. Ông sinh ra ở Hải Dương trong một gia đình nghèo. Hai bên nội,ngoại thân sinh Nguyễn Trãi đều có truyền thống yêu nước và về văn hoá, văn học. Cuộc đời ông chịu nhiều mất mát và đau thương khi sớm mồ côi mẹ từ nhỏ. Khi đất nước lâm nguy, vâng lời cha dặn, ông tham gia khởi nghĩa Lam Sơn, góp phần rất lớn trong chiến thắng vẻ vang của dân tộc.
Bình Ngô đại cáo là một tác phẩm thành công, một áng văn bất hủ của dân tộc Việt Nam. Tác phẩm được viết vào năm 1928 khi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn giành chiến thắng,Nguyễn Trãi đã thừa lệnh của vua Lê Lợi viết Đại cáo bình Ngô. Đây là tác phẩm được xem là bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc về chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, bản án đanh thép về tội ác của quân xâm lược, là bản hùng ca chiến trận của khởi nghĩa Lam Sơn và khẳng định vẻ đẹp của sự nghiệp chính nghĩa, thành quả của dân tộc.
Trong 2 đoạn cuối tác phẩm, Nguyễn Trãi đã tái hiện bản hùng ca về cuộc khỏi nghĩa Lam Sơn và khẳng định nền độc lập của đất nước. Trước kẻ thù hiểm ác rung đất trời, việc trừ bạo không phải ngày một ngày hai. Nhưng khí thế của nghĩa quân Lam Sơn, hình ảnh của anh hùng hào kiệt Lê Lợi là niềm tin, là ý chí thắng lợi:
Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa,
Chốn hoang dã nương mình.
Danh xưng “ta” cho thấy tinh thần anh hùng, trượng nghĩa cùng lòng căm thù giặc sâu sắc và há đội trời chung với giặc. Trải qua bao ngày tháng khó khăn, nếm mật nằm gai, Lê Lợi đã trở thành linh hồn của cuộc khởi nghĩa. Mặc dù lúc bắt đầu bị yếu thế so với địch, nhưng với “Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về đông/ Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chăm còn dành về phía tả.”, Lê Lợi và nghĩa quân của mình đã giành thắng lợi.
Khi ta đứng lên đấu tranh vì chính nghĩa, vì sứ mệnh của đạo trời, thì dù gian nao bao nhiêu, con đường chiến thắng cuối cùng sẽ hiện ra trước mắt. Chỉ cần có tinh thần đoàn kết của nhân dân bốn cõi, các tướng sĩ một lòng và có kế sách khôn ngoan lấy yếu chống mạnh và quan trọng, vì đại nghĩa mà làm, thắng lợi sẽ đến.
Trọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo.
Qua một đoạn văn ngắn, Nguyễn Trãi đã tái hiện cuộc chiến đấu chống giặc minh chân thực và dưới nhiều góc độ. Đó là những trận đánh liên tiếp, dường như diễn ra khắp mọi nơi:
Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế,
Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu,
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong,
Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.
Nào là trận Chi Lăng, Mã Yên, rồi liên tiếp hai năm rồi hai tám, những tên cầm đầu của quân giặc không tử vong thì tự vẫn. Đến “Thằng nhãi con Tuyên Đức”, nghĩa là vua Minh lúc bấy giờ, phải kêu binh cứu viện. Nhưng không để cho giặc có cơ hội củng cố lực lượng, nghĩa quân Lam Sơn thực hiện liên tiếp các trận đánh để áp chế và đẩy lùi quân giặc:
Đánh một trận sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông
Rồi quân ta thừa thắng xông lên, khi quân tướng hừng hực khí thế thì ta luôn ở thế chủ động tiến công, thắng không ngừng thắng:
Sĩ khí đã hăng
Quân thanh càng mạnh
Sĩ tốt kén người hùng hổ
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn,
Voi uống nước, nước sông phải cạn
Và lòng yêu nước, tinh thần chính nghĩa, hào khí Đại Việt đã tạo nên một sức mạnh phi thường, đã tạo nên kỳ tích, dù yếu mà thắng mạnh, nhỏ mà thắng lớn.
Ghê gớm thay sắc phong vân phải đổi,
Thảm đạm thay ánh nhật nguyệt phải mờ.
Đoạn văn thuật lại các trận đánh của nghĩa quân Lam Sơn từng câu từng chữ đều hừng hực khí thế. Đó không chỉ là ngợi cả thắng lợi của quân ta mà còn nhấn mạnh sự thất bại thảm hại của kẻ thù, kẻ bạo ngược, thâm độc.
Nhưng quá trình lược thuật về cuộc khởi nghĩa, không dừng lại ở việc ca ngợi chiến thắng của ta, mà còn khắc họa một cách sống động, chân thực về sự thất bại của kẻ thù. Quân ta tiến đến đâu, giặc thất thế đến đó. Đọc lại không khỏi ghê rợn khi hình dung “Lạng Giang, Lạng Sơn thây chất đầy đường/ Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước”. Nhưng với những kẻ bạo tàn, độc ác, đó là kết cục tất yếu của chúng, ta chỉ nhận lệnh trừ hung ác, làm đại nghĩa.
Có điều, Nguyễn Trãi cũng như Lên Lợi đều luôn hiểu rõ con đường nhân nghĩa mà mình theo đuổi. Vì vậy khi giặc thất thế, ta biết điểm dừng, khi giặc đến đường cùng ta đã mở cho chúng một con đường sống. Ta cấp thuyền, cấp ngựa để chúng trở về lưu bang. Từ đó ta thấy rõ tinh thần nhân đạo, thường võ của Nguyễn Trãi cũng như Lê Lợi và đội quân Lam Sơn.
Sau bao nhiêu gian lao, đau đớn, cuối cùng chúng ta cũng chiến thắng giặc thù, cũng giành lại được nền độc lập, dân được hưởng thái bình, được sống ấm no:
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc
Vậy là từ nay đã chấm dứt cảnh bạo tàn, khốc liệt, sẽ không còn những tháng ngày tăm tối, đau thương dưới ách quân thù. Lời tuyên bố độc lập như vang lên đầy hào sảng, mang tới niềm vui sướng, tự hào cho muôn triệu con dân. Bao khao khát bấy lâu nay, giờ cả non sông rạng rỡ, đến nhật nguyệt, càn khôn cũng sáng ngời. Dân tộc từ nay có thể ngẩng đầu kiêu hãnh và hướng tới một ngày mai tươi sáng, một kỷ nguyên xây dựng đất nước độc lập, hòa bình.
Cho đến nay, “Bình Ngô đại cáo” vẫn vẹn nguyên giá trị, sức sống như lần đầu tiên được tuyên cáo trước thiên hạ. Nó có sức sống lâu bền bởi nó là một văn kiện lịch sử khẳng định nền độc lập dân tộc và mang tư tưởng nhân đạo, chính nghĩa vĩ đại.
Trên phương diện văn chương, Nguyễn Trãi đã để lại một áng văn mẫu mực về lòng yêu nước và tinh thần chiến đấu của quân và dân ta tước giặc thù hung bạo. Mỗi một thế hệ hậu thế đều tự hào khi được lật lại và cảm nhận khí thế hào hùng của một thời đại lịch sử oanh liệt của dân tộc. Ẩn bên trong áng văn của Nguyễn Trãi, không chỉ là niềm tự hào, lòng kiêu hãnh của riêng tác giả mà còn của toàn dân về ý chí người Việt, về đạo nhân nghĩa vì nước, vì chính nghĩa mà trừ bạo tàn.
Có thể bạn sẽ thích 🌹 Phân Tích Luận Đề Chính Nghĩa Bình Ngô Đại Cáo 🌹 6 Mẫu Hay Và Đặc Sắc Nhất