Phân Tích Đoạn 3 Bình Ngô Đại Cáo ❤️️ 26+ Bài Văn Hay Nhất ✅ Đón Đọc Những Bài Viết Ngắn Gọn Và Đặc Sắc Được SCR.VN Tuyển Tập Chia Sẻ Đến Bạn.
Dàn Ý Phân Tích Đoạn 3 Bình Ngô Đại Cáo Lớp 10
Lập dàn ý phân tích đoạn 3 Bình Ngô đại cáo lớp 10 sẽ giúp các em học sinh nắm được bố cục và hệ thống luận điểm trọng tâm khi viết bài. Tham khảo mẫu phân tích đoạn 3 Bình Ngô đại cáo dàn ý chi tiết như sau:
1.Mở bài phân tích đoạn 3 Bình Ngô đại cáo:
- Giới thiệu ngắn gọn tác phẩm Bình Ngô đại cáo
- Giới thiệu khái quát nội dung cần phân tích – Khổ 3 của tác phẩm
2.Thân bài phân tích đoạn 3 Bình Ngô đại cáo:
*Khẳng định nhân tố quan trọng hàng đầu trong cuộc khởi nghĩa đó là chủ soái Lê Lợi:
- Là người anh hùng yêu nước thương dân, có lòng tự tôn dân tộc, sự căm ghét giặc ngoại xâm sâu sắc “Ngẫm thù lớn… không cùng sống”
- Lòng kiên trì, bền bỉ “Nếm mật nằm gai… mười mấy năm trời” để xây dựng lực lượng
- Khả năng thu phục quân hùng, biết coi trọng nhân tài “Cỗ xe cầu hiền… phía tả”
- Lòng quyết tâm đánh đuổi giặc ngoại xâm dẫu còn nhiều gian khó “Tấm lòng… phía Đông”
*”Tường thuật” lại cuộc khởi nghĩa Lam Sơn:
-Giai đoạn đầu của cuộc khởi nghĩa:
- Sự chênh lệch về mọi mặt so với quân giặc
- Thiếu người hiền tài ra giúp nước “Tuấn kiệt như sao buổi sớm/ Nhân tài như lá mùa thu”, thiếu binh sĩ tham gia khởi nghĩa giết giặc
- Lương thực cạn kiệt, quân đội thưa thớt, giặc vẫn hoành hành ngang dọc ngày đêm
- hó khăn chồng chất khó khăn nhưng sĩ khí quân ta áp đảo kẻ thù, đồng lòng, đoàn kết, lạc quan.
-Giai đoạn quân ta phản công:
- Trận thắng đầu tiên mở ra trường kì thắng lợi thật vang dội: “Trận Bồ Đằng… chẻ tro bay”
- Các trận thắng tiếp theo ở Đông Đô, Tây Kinh: “Ninh Kiều máu chảy thành sông… nhơ để ngàn năm”
- Hình ảnh có phần ghê rợn nhưng diễn tả chân thực hình ảnh những trận đánh lịch sử
- Hình ảnh quân ta hùng dũng, càng đánh lại càng hăng, đánh cho giặc tan tác
- Quân ta tuy thắng nhưng không đuổi cùng giết tận mà đã cho giặc một con đường lui, cấp thuyền, cấp ngựa cho chúng về nước
- Tinh thần nhân nghĩa và kế sách hòa hoãn sáng suốt, tránh mối hiểm họa sau này của cha ông.
-Hình ảnh của giặc:
- Hèn nhát “nghe hơi mà mất vía”, ham sống sợ chết “nín thở cầu thoát thân”, “bó tay để đợi bại vong… lực kiệt”… khác xa với hình ảnh ngang ngược hung hăng trước đó
- Kẻ chịu”bêu đầu”, kẻ “đành bỏ mạng”, tên Vương Thông muốn gỡ thế nguy khốn nhưng “lửa cháy lại càng cháy”
- “Liễu Thăng cụt đầu; Lương Minh bại trận tử vong; Lí Khánh cùng kế tự vẫn”…
- Quân giặc đầu hàng, giẫm đạp lên nhau xin bỏ trốn…
*Nghệ thuật được sử dụng trong khổ thơ này:
- Nghệ thuật cường điệu, phóng đại
- Bút pháp tương phản, đối lập.
3.Kết bài phân tích đoạn 3 Bình Ngô đại cáo:
- Khẳng định lại giá trị nội dung và nghệ thuật khổ 3 bài Bình Ngô đại cáo.
- Nêu suy nghĩ, cảm xúc của bản thân sau khi học xong đoạn trích.
Gửi đến bạn 🍃 Tóm Tắt Đại Cáo Bình Ngô 🍃 15 Bài Mẫu Ngắn Hay Nhất
Mở Bài Phân Tích Đoạn 3 Bài Bình Ngô Đại Cáo
Tham khảo gợi ý viết mở bài phân tích đoạn 3 bài Bình Ngô đại cáo dưới đây sẽ giúp các em học sinh có cách dẫn dắt giới thiệu vấn đề nghị luận văn học hay và ấn tượng.
Nguyễn Trãi không chỉ là một nhà quân sự tài ba của dân tộc mà ông còn là nhà thơ, nhà văn chính luận kiệt xuất của nền văn học trung đại Việt Nam với nhiều tác phẩm xuất sắc được viết bằng cả chữ Nôm và chữ Hán. Đặc biệt, nhắc tới những áng văn chính luận của Nguyễn Trãi chúng ta không thể nào không nhắc tới “Bình Ngô đại cáo” – một tác phẩm được Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết sau cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược.
Tác phẩm đã để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc và được xem là “bản tuyên ngôn độc lập thứ hai” của dân tộc. Trong đoạn 3 của bài cáo, Nguyễn Trãi đã khắc hoạ chân thực và hào hùng cuộc khởi Nghĩa Lam Sơn lịch sử, đánh đuổi giặc Minh và lập lại nền độc lập, tự do cho dân tộc ta.
Kết Bài Phân Tích Đoạn 3 Của Bài Bình Ngô Đại Cáo
Phần kết bài phân tích đoạn 3 của bài Bình Ngô đại cáo dưới đây sẽ giúp các em học sinh tham khảo những đánh giá tổng kết về giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
“Bình Ngô Đại cáo” đã và đang giữ được giá trị và tầm ảnh hưởng qua các thế kỉ, khẳng định tài năng và ngòi bút vượt trội của Nguyễn Trãi. Áng văn lịch sử của cả một quốc gia, dân tộc, được đất trời, quần chúng chứng giám, là niềm tự hào của mọi thế hệ người dân Đại Việt về chiến công lừng lẫy, đánh đuổi ngoại xâm. Qua đoạn 3 Bình Ngô đại cáo, những trang sử hào hùng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn được lưu giữ mãi đến nghìn đời. Đây xứng đáng được coi là tác phẩm chính luận xuất sắc nhất của văn học thời kì Trung Đại.
Bình Ngô Đại Cáo là một áng văn chương mẫu mực trong thể loại cáo, là áng thiên cổ hùng văn, là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc với phần nội dung sâu sắc. Cùng với đó là nghệ thuật lập luận độc đáo, chặt chẽ và linh hoạt, phối hợp nhiều phương thức biểu đạt, cách sắp xếp bố cục nội dung, cách lập luận, giọng điệu, nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ, hình ảnh đã làm cho bài cáo trở nên vô cùng thuyết phục, sâu sắc đi vào lòng người bởi sự uyển chuyển của văn chương.
Mời bạn tham khảo ☀️ Sơ Đồ Tư Duy Bình Ngô Đại Cáo ☀️ 12 Mẫu Hay
Phân Tích Đoạn 3 Bình Ngô Đại Cáo Hay Nhất – Mẫu 1
Đón đọc bài văn mẫu phân tích đoạn 3 Bình Ngô đại cáo hay nhất được chọn lọc và chia sẻ dưới đây với những ý văn đặc sắc.
Nguyễn Trãi là đại thi hào của nền văn học nước nhà. Bình Ngô Đại Cáo được xem là “áng thiên cổ hùng văn” thấm đẫm nhiều cảm xúc, ghi chép về một thời hào dùng của dân tộc. Đoạn 3 của bài cáo đã khắc họa một cách chân thực nhất cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống lại quân Minh dưới sự lãnh đạo của chủ soái Lê Lợi. Phân tích Bình Ngô Đại Cáo đoạn 3 để hiểu rõ hơn về khởi nghĩa Lam Sơn.
Bình Ngô Đại Cáo, bản tuyên ngôn độc lập thứ 2 của dân tộc ta. Vai trò chủ chốt của chủ soái Lê Lợi trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Ngay từ những câu đầu tiên của đoạn 3, chúng ta đã thấy Nguyễn Trãi đã dùng ngòi bút của mình để xây dựng lại hình tượng chủ soái Lê Lợi, người có công lớn nhất đem lại chiến thắng cho khởi nghĩa Lam Sơn:
“Ta đây:
Núi Lam sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống”
Nguyễn Trãi sử dụng đại từ “Ta” như đang dẫn lại lời nói của chủ tướng Lê Lợi, khẳng định một tâm thế hào hùng, chắc chắn, cương quyết của người cầm quyền. Là vị tướng dẫn đầu một đội quân lớn, một bậc tôi tớ trung thành của nhân dân, Lê Lợi hiểu rất rõ những nỗi căm thù đối với giặc Minh xâm lược.
Lê Lợi, người chủ soái bản lĩnh, hy sinh hết mình vì độc lập dân tộc. Nỗi căm phẫn này ăn vào tận sâu trong xương tủy, thề không đội trời chung “không cùng sống” chung trên một mảnh đất. Hơn thế, chúng ta thấy được Lê Lợi đã nếm trải biết bao nhiêu đau thương, gian khổ để tìm ra sách lược đối phó, đánh đuổi quân phương Bắc xâm lược:
“Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh”
Tác giả dùng những từ ngữ giàu cảm xúc, mang tính nhấn mạnh đến nỗi đau, niềm trăn trở suy tư của người cầm quân “đau lòng nhức óc”, “nếm mật nằm gai”, “quên ăn vì giận”. Thể hiện được những lo âu về các khó khăn sẽ gặp phải trong cuộc đấu tranh giành tự do cho dân tộc sắp tới. Đồng thời đó còn là nỗi trăn trở về kế sách, chiến lược binh pháp sử dụng trong cuộc chiến.
Trong bất cứ cuộc kháng chiến nào cũng có muôn vàn những khó khăn, thiếu người tài để làm việc lớn, cũng không đủ nguồn nhân lực có thể cùng chung chí hướng, sát cánh cùng nhau đánh tan giặc ngoại xâm. Sự chênh lệch về binh lược so với đối thủ là rất lớn, nhưng đó lại là những tiền đề để người chiến sĩ quyết liệt, kiên cường hơn với cuộc kháng chiến, tìm mọi cách để giành độc lập, tự do cho nhân dân. Nhờ những sự hi sinh vất vả, vượt lên mọi gian khổ đó, mà khởi nghĩa Lam Sơn đã giành thắng lợi, quân Minh xâm lược đã bị đánh bại.
Qua Bình Ngô Đại Cáo đoạn 3 ta cảm nhận được cuộc khởi Nghĩa Lam Sơn là cuộc khởi nghĩa hào hùng, đi vào lịch sử dân tộc. Sau khi nhắc đến vai trò, những hi sinh của chủ tướng Lê Lợi, của quân dân ngày đêm rèn luyện binh lược. Tác giả tái hiện lại diễn biến đầy kịch tính của khởi nghĩa Lam Sơn:
“Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông.”
Để khắc họa chiến tích hào hùng của cuộc khởi nghĩa, Nguyễn Trãi đã mượn hình ảnh của thiên nhiên. Thiên nhiên với sông núi thì luôn hùng vĩ như những chiến tích mà nghĩa quân Lam Sơn đã làm được. Tác giả sử dụng phép nhân hóa, phóng đại, “gươm mài đá, đá núi cũng mòn,” “voi uống nước, nước sông phải cạn” để nhấn mạnh sự kiên trì, bền bỉ trong chiến đấu, hy sinh cả tính mạng để bảo vệ sự toàn vẹn của lãnh thổ.
Dù cho cuộc chiến diễn ra trường kỳ, ác liệt nhưng tất cả quân và dân đều tin tưởng vào một chiến thắng vẻ vang, chính nghĩa sẽ luôn thắng gian tà. “Đánh một trận, sạch không kình ngạc” “Đánh hai trận tan tác chim muông” cho thấy sức mạnh khủng khiến của nghĩa quân Lam Sơn. Tất cả đều mang trong mình một tin thần quật cường, sức chiến đấu mạnh mẽ không chịu lùi bước trước quân thù, dập tắt tất cả sự kiêu ngạo, hống hách của quân địch.
Tác giả nhắc đến tất cả các địa danh mà quân Lam Sơn đã giành thắng lợi, như một sự khẳng định chúng ta đã đuổi tất cả bọn xâm lược phương Bắc ra khỏi bờ cõi nước Nam:
“Bị ta chặn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật!
Nghe Thăng thua ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân.
Suối Lãnh Câu, máu chảy trôi chày, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
……………………..
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run”
Niềm tự hào dân tộc sâu sắc trước chiến thắng vẻ vang chống quân Minh xâm lược
Khi phân tích Bình Ngô Đại Cáo đoạn 3 ở những câu văn cuối cùng, ta cảm nhận được sâu sắc niềm tự hào dân tộc trước chiến thắng vẻ vang của quân Lam Sơn. Đây là thắng lợi đã được lưu vào sử sách dân tộc, như một lời nhắc nhở thế hệ mai sau về sự hi sinh, quật cường của cha ông ta để giữ vững nền độc lập cho dân tộc. Từ đó, xây dựng lòng yêu nước, sự tự hào trong mỗi con người Việt Nam dù cho là thời bình hay thời chiến.
Nguyễn Trãi đã liệt kê đầy đủ những chiến tích của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn dưới sự lãnh đạo tài tình của chủ tướng Lê Lợi: chiến thắng Bồ Đằng, Trà Lân, Trần Trí, Sơn Thọ, Lý An, Mã An, Chi Lăng…:
“Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã An, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hai lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn”.
Quân địch đã thất bại một cách ê chề dưới tay quân và dân ta, phải tìm đến bước đường cùng là “kế tự vẫn”. Trong vòng chưa đầy một tháng, nước Nam đã sạch bóng quân thù.
Như vậy, thông qua Bình Ngô Đại cáo đoạn 3, ta thấy Nguyễn Trãi đã chia phần này thành ba nội dung tách biệt nhưng liền mạch. Qua đó khắc họa một cách chân thực nhất diễn biến của cuộc khởi nghĩa. Từ những ngày đầu chuẩn bị kháng chiến, tìm kiếm, lên kế hoạch sách lược chiến đấu cho đến thời điểm cuộc chiến tranh nổ ra, những chiến tích oanh liệt mà quân và dân ta đã làm được.
Sau cùng là niềm kiêu hãnh tự hào sâu sắc về tinh thần quật cường, vượt mọi gian khó của nghĩa quân Lam Sơn. Chúng ta đã buộc quân Minh xâm lược phải nhận sự thất bại trong ê chề, hoảng loạn chạy trốn không kịp về phương Bắc, nước Nam sạch bóng quân thù. Những dòng thơ cuối như một lời khẳng định lặp lại, một cách chắc chắn rằng giang sơn đã thu về một mối:
“Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới…
Xa gần bá cáo
Ai nấy đều hay”
Qua Bình Ngô Đại Cáo Đoạn 3 tái hiện cuộc kháng chiến chống quân Minh hào dùng của cha ông. Bằng ngòi bút đầy tự hào, lập luận sắc bén, giàu sức thuyết phục Nguyễn Trãi đã làm nên một Bình Ngô Đại Cáo “hùng văn thiên cổ”, xứng đáng với danh xưng bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc Việt. Bình Ngô Đại Cáo trở thành bản tổng kết hào hùng của lịch sử dân tộc nước nhà trong cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược thời bấy giờ.
Giới thiệu cùng bạn 🍀 Thuyết Minh Về Tác Phẩm Bình Ngô Đại Cáo 🍀 15 Bài Hay
Phân Tích Đoạn 3 Bình Ngô Đại Cáo Ngắn Gọn – Mẫu 2
Tham khảo dưới đây bài văn phân tích đoạn 3 Bình Ngô đại cáo ngắn gọn với cách hành văn súc tích và giàu ý nghĩa biểu đạt.
Sau khi đánh tan giặc Minh, Nguyễn Trãi thay mặt cho Lê Lợi viết bài cáo để thông báo cho toàn thể nhân dân về trận đánh thắng lợi. Bài cáo không chỉ khẳng định được chủ quyền nước nhà, tố cáo tội ác của giặc Minh mà còn trình bày quá trình từ đấu tranh bất khuất đến thắng lợi của nhân dân Đại Việt. Đặc biệt vai trò lãnh đạo và ý chí quyết đánh tan quân giặc của vua Lê Lợi được thể hiện rõ.
Mở đầu phần ba tác giả nêu lên những khó khăn mà bản thân vua Lê Lợi nói riêng và nhân dân Đại Việt nói chung phải đối mặt:
“Ta đây:
Núi Lam sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đang mạnh.”
Đoạn thơ thể hiện những khó khăn và ý chí quyết tâm của vua Lê Lợi. Vì không chấp nhận được cảnh nhân dân trở thành nô lệ cho bọn giặc Minh quỷ dữ kia mà người anh hùng Lê Lợi đã quyết ở chốn hoang dã, nếm mật nằm gai mà chờ ngày dấy cờ khởi nghĩa. Vua Lê căm thù giặc, đau lòng đến nhức óc, mộng mị cũng trằn trọc chỉ vì một mục tiêu đánh bại quân Minh. Giữa lúc quân Minh đang còn mạnh vậy mà muốn khởi nghĩa người tài lại khó tìm:
“Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu,”
Nghệ thuật so sánh càng cho thấy hoàn cảnh khó khăn của đất nước. Khó khăn chồng chất khó khăn, nhà vua không có ai để bàn bạc hay đỡ đần. Tuy nhiên, lòng người muốn cứu nước vẫn cứ đăm đăm hướng về phía Đông mong dẹp giặc. Trông người thì người vắng bóng nên Lê Lợi phải tự mình gắng sức, phần vì muốn dẹp giặc phần vì lo nỗi nước nhà. Cũng có những lúc lương hết, binh tan nhưng trăm dân như một, ý chí quật cường, vua Lê sử dụng kế sách lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh.
Và sự thật cho thấy bằng những cố gắng vượt qua khó khăn và ý chí cũng chiến lược thao binh tuyệt vời Lê Lợi đã lãnh đạo nhân dân giành được chiến thắng và đánh đuổi quân Minh về nước:
“Trọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo.
Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay
……..
Suối Lãnh Câu, máu chảy thành sông, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
Thành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp”
Bằng biện pháp nghệ thuật liệt kê các sự việc từng trận đánh được nhà văn thuật lại một cách chi tiết nhất. Những cái tên như Trần Trí, Sơn Thọ, Lý An, Phương Chính, Tuyên Đức, Liễu thăng…đều trở thành những cái tên làm trò cười cho thiên hạ. Vì tham công vì bạo ngược ngu dốt mà chuốc lấy.
“Ngày mười tháng tám” rồi “ngày hai mươi” tác giả sử dụng thời gian để thuật lại diễn tiến của quá trình vua Lê Lợi và những binh sĩ của mình dành chiến thắng từng bước. Chúng ta lấy nhân nghĩa để trừ bạo ngược, lấy chính nghĩa để thắng hung tàn. Các trận đánh đều sấm vang chớp giật, tan tác tro bay. Đánh cho chúng không còn được rút lui phải bò ra mà xin hàng, xác người chất thành đống, máu tanh trôi đầy sông.
Không chỉ thắng trận liên tiếp, Lê Lợi và những binh sĩ của mình thể hiện sự nhân nghĩa nhân đạo kể cả khi chúng ta dành phần thắng:
“Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.”
Mặc dù thắng trận nhưng quân ta vẫn cấp cho chúng thuyền, ngựa để về. Theo Lê Lợi, họ đã muốn hòa thực lòng thì ta nên giữ lấy toàn quân, để nhân dân nghỉ sức.
Đây quả là một quá trình chiến đấu đầy gian khổ để có chiến thắng như ngày hôm nay. Chiến tranh của quân dân Đại Việt là chiến tranh chính nghĩa, lấy nhân nghĩa để chiến đấu với bạo ngược hung tàn, và kết quả là chính nghĩa dành chiến thắng. Đồng thời ta cũng tự hào về vua Lê Lợi – một người tài trí hơn người đã lãnh đạo nhân dân đánh đuổi quân Minh ra khỏi bờ cõi. Đặc biệt không thể không kể đến tài năng và công lao của Nguyễn Trãi khi viết áng thiên cổ hùng văn này.
Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất
Phân Tích Đoạn 3 Bình Ngô Đại Cáo Ngắn Nhất – Mẫu 3
Dưới đây chia sẻ bài văn phân tích đoạn 3 Bình Ngô đại cáo ngắn nhất giúp các em học sinh nhanh chóng chuẩn bị cho bài viết trên lớp.
Nguyễn Trãi, bậc thi hào lỗi lạc của trên văn đàn văn học Việt Nam, với kiệt tác Bình Ngô Đại Cáo, nhà thơ đã để lại bản hùng ca thiên cổ cho thế hệ sau của dân tộc. Đặc biệt đoạn thơ thứ 3 chính là bản hùng ca hào hùng về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn:
“Ta đây:
Núi Lam sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh”
Đại từ ta mở đầu đoạn thơ ba như một lời khẳng định chắc chắn, hào hùng, thể hiện rõ tâm thế của người thủ lĩnh Lê Lợi. Hơn ai hết, là một vị tướng dẫn quân đánh trận, cũng là một bậc tôi trung, ông hiểu hơn ai hết cảm giác căm thù giặc đến tận xương tủy, mà như trong đoạn thơ đã khẳng định hùng hồn: căm thù giặc thề không cùng chung sống.
Nhưng nếu chỉ giữ trong lòng ngọn lửa hận, thì sẽ sớm trở nên mù quáng và hồ đồ, do đó, vị chủ tướng ấy không chỉ mang trong mình nỗi hận niềm đau, mà còn dồn nén, chất chứa biết bao nhiêu niềm suy tư, trăn trở, đến nỗi “đau lòng nhức óc”, “nếm mật nằm gai”, “quên ăn vì giận”, những trăn trở về kế sách binh lược, và cũng cả những âu lo về khó khăn thách thức trong chặng đường phía trước sắp phải trải qua.
Bước đầu kháng chiến những khó khăn là vô vàn không thể kể xiết, nhân tài như lá mùa thu, kẻ tài trí đỡ đần việc lớn thiếu thốn, chẳng có người chủ lực cùng sát cánh trường kì, cả sự gian nan muôn trùng về binh lực so với đối thủ, ấy thế nhưng nó lại trở thành đòn bẩy để những người chiến sĩ kiên cường, quyết liệt kháng chiến. Cuối cùng, ông trời không phụ lòng người, không phụ sự hi sinh nếm mật nằm gai đớn đau, vất vả của nghĩa quân Lam Sơn, đại sự đã thành công.
“Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông.”
Hình ảnh thiên nhiên được sử dụng trong 4 câu thơ như một cách nói hình ảnh, khắc tạc chiến tích vĩ đại và sự hào hùng mà nghĩa quân Lam Sơn đã tạo ra. Hình ảnh gươm mài đá, đá núi cũng mòn, và voi uống nước, nước sông phải cạn, phải chăng muốn nhấn mạnh cho ta thấy tinh thần bền bỉ chiến đấu, sự kiên trì, hy sinh nhẫn nại của những người chiến sĩ nghĩa quân Lam Sơn, đồng thời chỉ ra cho ta một chân lí trong kháng chiến.
Đó là kháng chiến trường kỳ, đồng thời cũng phần nào thấy được triết lý mà nhà thơ luôn tin tưởng, đó là những cuộc chiến đấu vì chính nghĩa luôn luôn giành chiến thắng xứng đáng. Các cụm từ miêu tả với động từ mạnh “sạch không kình ngạc, tan tác chim muông” đã cho thấy sức tiến công, chiến đấu và tinh thần quật cường, hào hùng của những binh lính tham gia chiến trận, chúng ta không chỉ giành chiến thắng mà còn giành chiến thắng vẻ vang, quét sạch nhuệ khí và sự hống hách, kiêu ngạo của kẻ thù:
“Bị ta chặn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật!
Nghe Thăng thua ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân.
Suối Lãnh Câu, máu chảy trôi chày, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
Thành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng
Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run”
Cuối cùng, tác giả đã kết thúc đoạn ba của bài cáo với một giọng văn đầy từ hào khi tái hiện lại những thắng lợi vẻ vang, liên tiếp của nghĩa quân trong cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược. Những thắng lợi góp phần lưu danh sử sách nghìn năm còn mãi, về một thời kì dân tộc, chiến sĩ của quân ta đã chiến đấu, chiến thắng, từ đó mà hun đúc nên tâm hồn yêu nước bất khuất, quật cường cho các thế hệ – cũng là nét đẹp riêng của con người Việt Nam lịch sử.
Mở đầu cho chuỗi chiến tích lịch sử hào hùng của Nghĩa quân lam Sơn là chiến thắng Bồ Đằng, Trà Lân, rồi đến cả vùng Trần Trí, Sơn Thọ, Lý An,… và cứ thế, mạch thơ trở nên sôi nổi, đậm chất tráng ca khi liệt kê hàng loạt những chiến công lẫy lừng của vị chủ tướng Lê Lợi:
“Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã An, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hai lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lí Khanh cùng kế tự vẫn”.
Tổng kết lại có thể thấy trong phần ba của bài cáo, Nguyễn Trãi chia làm ba phần lập luận chính, thứ nhất là tái hiện hình ảnh nghĩa quân Lam Sơn trong những ngày đầu kháng chiến khó khăn, gian khổ để có thể làm nên nghiệp lớn. Tiếp đó, là niềm tự hào và kiêu hãnh của tác giả khi không chỉ đánh thắng quân địch, mà còn làm chúng thua một cách tâm phục không phục bằng cách liệt kê những thất bại ê chề, nhục nhã của quân địch.
Những câu thơ dài, với khí văn hào sảng đã toát lên rất rõ điều ấy. Những dòng thơ cuối, là dòng thơ khép lại, là dòng cảm xúc đã được lắng đọng, dồn nén, là bút lực sâu xa nhất mà nhà thơ gửi gắm, đó là niềm tin tưởng và khát mong một đất nước, giang sơn thiên thu còn mãi:
“Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
…
Xa gần bá cáo
Ai nấy đều hay”
Với giọng văn hào sảng, cùng cách lập luận sắc bén, sâu sắc, thuyết phục, Nguyễn Trãi đã biến Bình Ngô Đại Cáo như trở thành bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của dân tộc, là bản tổng kết lịch sử hào hùng, là khúc tráng ca vĩ đại bất tận về quá trình chiến đấu, về chiến công, và về hình tượng người chiến sĩ lúc bấy giờ.
Gửi tặng bạn 💕 Phân Tích Bình Ngô Đại Cáo 💕 18 Bài Văn Ngắn Gọn Hay Nhất
Phân Tích Đoạn 3 Bình Ngô Đại Cáo Học Sinh Giỏi – Mẫu 4
Tham khảo bài văn mẫu phân tích đoạn 3 Bình Ngô đại cáo học sinh giỏi dưới đây với những nội dung nghị luận văn học chuyên sâu.
Bình Ngô đại cáo không chỉ là một văn kiện nhằm tuyên ngôn nền độc lập của Đại Việt, tuyên ngôn về quyền quyền sống của con người mà nó còn là khúc thiên anh hùng ca về cuộc kháng chiến của quân dân ta trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống quân Minh xâm lược. Ở đó, ta thấy hiện lên thật chân thực và hào hùng những trận đánh đi vào lịch sử, những trận đánh khiến địch máu chảy đầu rơi cả trăm năm sau vẫn còn kinh hãi, cũng thấy được cái tinh thần nhân nghĩa, nhân đạo của chủ, tướng nhà Lê.
Trong Bình Ngô đại cáo, trước hết phải nhắc đến nhân tố quan trọng hàng đầu trong cuộc khởi nghĩa đó là chủ soái Lê Lợi. Nguyễn Trãi miêu tả ông là người anh hùng có lòng yêu nước thương dân, lòng tự tôn dân tộc sâu sắc, thế nên ông căm ghét giặc Minh vô cùng “Ngẫm thù lớn há đội trời chung/Căm giặc nước thề không cùng sống”, ghét đến độ phải một mất một còn, ta và địch buộc một bên phải tiêu vong.
Đó chính là nguyên nhân, là tiền đề đầu tiên để vị lãnh tụ Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa chốn Lam Sơn, lấy nơi hoang dã làm căn cứ nương mình, chờ thời cơ diệt giặc.
Hơn thế nữa, Lê Lợi còn hội tụ rất nhiều yếu tố khác để trở thành vị lãnh tụ đáng kính bao gồm lòng kiên trì bền bỉ “Nếm mật nằm gai/chốc đà mười mấy năm trời” để xây dựng lực lượng, có khả năng thu phục quần hùng, biết coi trọng nhân tài “cỗ xe cầu hiền thường chăm chăm còn dành phía tả” và quan trọng nhất đó là lòng quyết tâm đánh đuổi giặc ngoại xâm dù có bao nhiêu gian khó “Tấm lòng cứu nước vẫn đăm đăm muốn tiến về phía đông”, tiến về mặt trời, về một tương lai tươi sáng rực rỡ cho dân tộc.
Thế nhưng dù có chủ soái giỏi, nhưng nghĩa quân ta lúc bấy giờ còn yếu kém về mọi mặt so với quân địch “Vừa lúc cờ nghĩa dấy lên/Chính là lúc quân thù đương mạnh”, về sĩ khí ta áp đảo quân thù, nhưng về mặt vật chất quân số rõ ràng ta nằm ở thế yếu, mọi khó khăn chồng chất cứ đổ dồn trong buổi đầu dựng cờ khởi nghĩa khiến Lê Lợi phải “đau đầu nhức óc”.
Thứ nhất là ta thiếu người hiền tài đứng ra giúp nước “Tuấn kiệt như sao buổi sớm/Nhân tài như lá mùa thu”, thiếu cả binh sĩ tham gia khởi nghĩa giết giặc “Trông người người lại càng vắng bóng, mịt mù như chốn bể khơi”.
Trong khi đó, quân giặc vẫn ngày đêm tàn sát nhân dân, vơ vét của cải, không chuyện ác nào không làm, nước đã mất đến nơi, đến độ khiến Lê Lợi lo lắng, mất ăn mất ngủ “vội vã như cứu người chết đuối”. Lương thực thì cạn kiệt, quân đội thì thưa thớt, giặc vẫn hoành hành ngang dọc rêu rao làm việc “hung đồ ngang dọc”, phải nói khó khăn chồng chất khó khăn.
Nhưng bằng lòng quyết tâm cứu nước, bằng lòng căm thù giặc sâu sắc nghĩa quân ta bằng mọi cách để khắc phục khó khăn ban đầu. Hội tụ nghĩa quân, nêu cao tấm lòng chính nghĩa, đoàn kết “nhân dân bốn bể một nhà”, “tướng sĩ một lòng phụ tử”. Vận dụng mưu lược trong chiến đấu “dùng quân mai phục”, tinh thần anh dũng hi sinh “lấy ít địch nhiều”, “lấy yếu chống mạnh”, khiến cho mỗi trận đánh của quân dân ta đều sĩ khí bừng bừng, thu được nhiều chiến công vang dội.
Nguyên nhân xuất phát bởi tấm lòng nhân nghĩa, chính nghĩa của nghĩa quân “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn/Lấy chí nhân thay cường bạo”, chứng minh một chân lý không thể dời đổi, chính nghĩa ắt phải thắng gian tà. Những trận đầu tiên mở ra trường kỳ thắng lợi thật vang dội “Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật/Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay”, Nguyễn Trãi sử dụng những hình ảnh thiên hùng vĩ, tạo nên sức gợi về sự mạnh mẽ, oanh tạc hùng dũng trong từng trận chiến của nghĩa quân.
Trái với hình ảnh oai hùng của nghĩa quân thì quân thù lại trông thật thảm hại, kẻ “nghe hơi mà mất vía”, kẻ thì “nín thở cầu thoát thân” thật hài hước, nực cười, cái bọn trước đây hung hăng ngang tàn là thế mà nay chẳng khác nào loài chuột lấm lem, chui lủi. Thừa thắng xông lên, vừa hành quân tiến đánh vừa tuyển binh, quân ta liên tiếp dành lại những cứ điểm quan trọng như Đông Đô, Tây Kinh.
Giặc thất bại liên tiếp khiến “Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm/ Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm”, những hình ảnh có phần ghê rợn, nhưng diễn tả một cách thật chân thực những trận đánh lịch sử, chiến tranh ắt phải đổ máu là vậy. Máu của ta và máu của địch cùng đổ xuống, nhưng ta thắng ở tấm lòng kiên cường, anh dũng hi sinh, thề sống chết với giặc. Quân giặc trước thế khí hùng dũng của nghĩa quân ta thì khí thế tan tác, kẻ chịu “bêu đầu”, kẻ “đành bỏ mạng”, tên Vương Thông muốn gỡ thế nguy khốn nhưng “lửa cháy lại càng cháy”.
Quân ta hăng lại càng hăng, giặc chỉ còn đường “Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt”, bởi con đường phản luân thường đạo lý chẳng bao giờ có thể đi xa. “Chẳng đánh mà người chịu khuất ta đây mưu phạt tâm công”, trên tinh thần nhân nghĩa vốn ta đã định cho giặc một đường lui cuối cùng, xin hàng mà rút lui về nước thế nhưng chúng lại âm mưu cầu cứu viện nhằm cứu vãn tình hình, thật ngoan cố không thôi.
Chẳng thế lũ nhãi nhép chuột bọ Liễu Thăng, Tuyên Đức, Mộc Thạnh lại vấy vá, nhăm nhe tiến sang nước ta lần nữa nhằm lật ngược thế cờ đã sắp đến hồi kết. Nhưng nào đâu có dễ thế, bởi “Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong/ Ta sau lại đưa tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực”, để xem lũ giặc Minh còn huênh hoang, vênh váo được đến bao giờ.
Cái âm mưu hèn mọn của chúng dẫn đến những hậu quả là “Liễu Thăng cụt đầu/Lương Minh bại trận tử vong/Lí Khánh cùng kế tự vẫn” thế có phải là tự rước họa chỉ vì cái lòng tham dơ bẩn của mình không.
Địch càng tổn thấy, mất mát bao nhiêu, thì sĩ khí quân ta lại càng tăng, nghĩa quân tràn đầy nhiệt huyết chiến đấu, hứng chí bừng bừng tựa như tiếng ngựa phi, tiếng chân chạy rầm rập vang động cả núi rừng, “Thuận đà ta đưa lưỡi đao tung phá”, khiến quân giặc tan tác, “bí nước quay mũi giáo đánh nhau”, đúng là chó cùng dứt giậu. Nghĩa quân ta trên đà lớn mạnh.
“Sĩ tốt kén người hùng hổ
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Tất cả là chuẩn bị cho trận chiến cuối cùng, quét sạch bóng quân thù, thế nên:
“Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông.
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.”
Quân giặc phải hốt hoảng mà xin hàng kẻo không kịp, khắp nơi đâu đâu cũng là xác giặc bỏ mạng “thây chất đầy đường, máu trôi đỏ nước”, những hình ảnh có tính phóng đại, thể hiện được sự tàn khốc của cuộc chiến, đồng thời là cái hào hùng trong lịch sử phân tranh của dân tộc. Cái chất hào hùng, bi tráng ấy Nguyễn Trãi phải lấy thiên nhiên ra mới có thể diễn tả hết được: “Ghê gớm thay sắc phong vân phải đổi/ Thảm đạm thay ánh nhật nguyệt phải mờ”.
Có thể thấy cái chết nào cũng đều đáng tiếc, trận đổ máu nào cũng buồn thảm và đau đớn, âu cũng là sinh linh cả, một chốc mấy ngàn mạng bỏ, thì trời đất cũng phải tối tăm vì đâu ai muốn cảnh “thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen”. Cảnh quân giặc rối rít xin hàng, giẫm đạp lên nhau mà bỏ trốn thật thảm hại, tan tác, xuất phát từ tấm lòng nhân nghĩa “đánh kẻ chạy đi không ai đánh người chạy lại” nên nghĩa quân ta đã cho giặc con đường về nước “mở đường hiếu sinh”, cấp thuyền, cấp ngựa, cấp lương thực cho chúng.
Vừa khiến giặc phải nể nang, kính sợ, vừa để quân ta dưỡng sức, tránh đổ máu nhiều hơn nữa, bắt tay vào xây dựng đất nước. Nếu đuổi cùng giết tận chắc chắn để lại mối thù lớn trong lòng giặc, sớm muộn cũng có ngày chúng sang trả thù thêm, lúc ấy ắt ta phải chịu thiệt thòi, nên là lui một bước cũng nên, kế sách hòa hoãn của cha ông ta muôn đời luôn sáng suốt là vậy.
Phần ba của Bình Ngô đại cáo đã tái hiện lại một cách chân thực, sinh động quá trình khởi nghĩa, đánh đuổi quân Minh xâm lược của nghĩa quân Lam Sơn. Bằng giọng văn rất đỗi hào hùng, bi tráng, tiết tấu nhanh, dồn dập, những hình ảnh thiên nhiên giàu sức gợi, mang tính biểu tượng cao như mặt trời, mặt trăng, sông, núi hùng vĩ.
Những hình ảnh đầy nhiệt huyết, sĩ khí bừng bừng của nghĩa quân được miêu tả bằng những cụm tính từ ở sắc thái cao nhất, đem so sánh với hình ảnh thiên nhiên to lớn, bao la. Luận điệu thuyết phục, dẫn chứng có thực trong lịch sử càng làm tăng sức lôi cuốn, đem đến một thiên anh hùng ca, một khúc tráng ca bất tận, vang động cả một thời, khẳng định sức mạnh và chân lý của dân tộc, đất nước.
SCR.VN chia sẻ 🌟 Mở Bài Bình Ngô Đại Cáo 🌟 20 Đoạn Văn Mẫu Hay Nhất
Phân Tích Bình Ngô Đại Cáo Đoạn 3 Nâng Cao – Mẫu 5
Bài văn phân tích Bình Ngô đại cáo đoạn 3 nâng cao dưới đây sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho các em học sinh trong quá trình làm bài.
Trong mối quan hệ giữa lịch sử và văn học, ta bắt gặp những thời điểm lịch sử đồng thời cũng là thời điểm văn học. Điều đó được minh chứng cụ thể qua Nam quốc sơn hà với chiến thắng sông Như Nguyệt, Hịch tướng sĩ với cuộc kháng chiến chống quân Nguyên mông lần hai và Bình ngô đại cáo cùng cuộc đại phá quân Minh toàn thắng.
Thế nhưng Bình ngô đại cáo là trường hợp đặc biệt mà từ trước đến nay vẫn giữ vai trò như áng “thiên cổ hùng văn” không tiền khoáng hậu. Cảm hứng về độc lập dân tộc và tương lai đất nước đã hòa quyện và kết tinh thành sức mạnh của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn trong khổ thơ thứ ba.
Đại cáo bình Ngô được đặt dưới hai nguồn cảm hứng là cảm hứng chính trị và cảm hứng sáng tác. Cảm hứng chính trị đã đem đến cho dân tộc một bản tuyên ngôn độc lập hùng hồn, đanh thép. Cảm hứng sáng tác đã khơi nguồn cảm xúc đem đến một kiệt tác văn chương. Khi hai nguồn cảm hứng hòa quyện đã viết lên áng thiên cổ hùng văn mang đậm giá trị tư tưởng và giá trị thẩm mĩ. Khổ thơ thứ ba nêu bật ý chí quyết chiến quyết thắng của nhân dân Đại Việt.
Với cảm hứng dồi dào, phong phú tác giả đã dụng công khắc họa tháng ngày thắng lợi vẻ vang nhất. Bám vào sườn lịch sử để cuộc khởi nghĩa hiện lên với tất cả tính chất phong phú, lớn rộng, sinh động của nó. Bằng tài năng của mình, nguyễn Trãi đã tái hiện tất cả diễn biến trong giai đoạn đầu của cuộc khởi nghĩa và tập trung chủ yếu làm nổi bật đời sống tâm lí của người anh hùng Lê Lợi.
Khắc họa hình tượng Lê Lợi tác giả đã sử dụng điển “nếm mật nằm gai” nói về Việt Vương Câu Tiễn. Dường như chính cảm hứng anh hùng của dân tộc đã giúp tác giả xây dựng thành công chân dung người anh hùng Lê Lợi:
Ngẫm thù lớn há đội trời chung,
Căm giặc nước thề không cùng sống.
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời;
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Với hoài bão và bầu nhiệt huyết yêu nước, Lê Lợi cùng những chiến hữu đã vững tay chèo để vượt qua mọi gian nan thách thức, mọi gian khổ chông gai: thiếu nhân tài, thiếu lương thực… Nhưng hơn tất cả nhờ “tấm lòng cứu nước”, nhờ “gắng chí khắc phục gian nan” và nhờ “manh lệ chi đồ tứ lập”, “phụ tử chi binh nhất tâm” cuộc khởi nghĩa dần bước qua khó khăn để buổi đầu đi đến cuộc tổng tiến công giành thắng lợi.
Xét về khoảng thời gian lịch sử từ năm 1418 đến 1424 là sáu năm “đau khổ” được nhắc đến bằng hai sự kiện:
Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần
Khi Khôi Huyện quân không một đội
Nó không chỉ tiêu biểu cho buổi gian lao của cuộc chiến mà còn nổi bật với tinh thần lạc quan của người dân: lạc quan ngay trong hoàn cảnh đen tối, tin tưởng ngay khi tạm thời thất bại. Chúng ta vững ý chí, chúng ta chắc niềm tin vì tin tưởng nhân dân, vì biết phát huy sức mạnh của dân, đặc biệt là tầng lớp manh lệ:
Yết can vi kì, manh lệ chi đồ tứ lập
Đầu giao hưởng sĩ, phụ tử chi binh nhất tâm
Đó là tư tưởng lớn mà mãi sau này đến khi Nguyễn Đình Chiểu ta mới một lần nữa thấy nhân dân tấp nập. Trong bản tuyên ngôn như Bình ngô đại cáo những người manh lệ được nhắc đến công khai và đầy trịnh trọng “cũng là chưa thấy xưa nay”.
Hai câu thơ có ý nghĩa như bản lề chuyển tiếp:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo
Có thể nói sau bao suy tư, chiêm nghiệm, bao đớn đau, căm giận, sau bao lo lắng quyết tâm đến lúc này tâm trạng tác giả mới thả lỏng đến hả hê, sảng khoái. Bao trùm đoạn văn là những hình tượng phong phú, đa dạng được đo bằng thiên nhiên tráng lệ, kì vĩ tiếp theo là vẽ ra khung cảnh chiến thắng “sấm vang chớp giật”, “trúc trẻ cho bay”, “sạch không kình ngạc”, “tan tác chim muông”, “trút sạch lá khô” khiến “đá núi cũng mòn”, “nước sông cũng phải cạn”.
Bên cạnh chiến công lẫy lừng của quân và dân ta là thất bại ê chề của tướng giặc khi “máu chảy thành sông”, “máu trôi đỏ nước”, “thây chất đầy nội”, “thây chất đầy đường”. Chiến trường khi ấy tan tác trăm bề, thời gian, không gian như đắm chìm trong thuốc súng, khói bom “sắc phong vân phải đổi”, “ánh phật nguyệt phải mờ” với những chuyển rung dồn dập, dữ dội. Các tính từ chỉ mức độ ở điểm tối đa tạo thành hai mảng đối lập.
Bức tranh toàn cảnh về thất bại ê chề của kẻ thù thì mỗi tên một vẻ, mỗi đứa một cảnh: Trần Hiệp phải chịu bêu đầu,… và gặp nhau ở một điểm là sự ham sống sợ chết đến hèn nhát. Qua hình tượng kẻ thù hèn nhát và được tha tội chết đã nêu bật tính chất chính nghĩa, nhân đạo sáng ngời của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn:
Voi uống nước, nước sông phải cạn
Đánh một trận, sạch không kinh ngạc
Đánh hai trận, tan tác chim muông.
Sự dồn dập như xương sống của đoạn văn để hòa quyện giữa hình ảnh, âm thanh, nhịp điệu nhằm miêu tả một cách chân thật cuộc tổng phản công thắng lợi của khởi nghĩa Lam Sơn.
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.
Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,
Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.
Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường
Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước
Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi,
Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ
Bị ta chặn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật!
Nghe Thăng thua ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân.
Suối Lãnh Câu, máu chảy trôi chày, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
Thành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng
Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
Chẳng những mưu kế kì diệu
Cũng là chưa thấy xưa nay
Hình tượng kẻ thù thảm hại, bi thương, nhục nhã càng tăng thêm khí thế hào hùng của khởi nghĩa. Qua hình tượng kẻ thù hèn nhát và được tha tội chết, được ưu ái tạo mọi điều kiện tiếp tục sống, Nguyễn Trãi càng làm nổi bật tính chất chính nghĩa, tư tưởng nhân nghĩa, nhân đạo sáng người của khởi nghĩa Lam Sơn.
Quả đúng, 4000 năm lịch sử đã vẽ lên trang sử hào hùng, đã phản ánh vào trong văn học thông qua những nhà văn, nhà thơ lớn và đồng thời cũng là những anh hùng của dân tộc. Trong lời tuyên bố kết thúc, cảm hứng về độc lập dân tộc và tương lai đất nước đã hòa quyện cảm hứng về vũ trụ khi “bỉ”, khi “hối” nhưng không nằm ngoài quy luật hướng tới sự sáng tươi, xây dựng “đài xuân dân tộc” khi vận hội duy tân đã mở.
Mời bạn đón đọc 🌜 Kết Bài Bình Ngô Đại Cáo 🌜 20 Đoạn Văn Hay
Phân Tích Chi Tiết Đoạn 3 Bình Ngô Đại Cáo – Mẫu 6
Bài văn phân tích chi tiết đoạn 3 Bình Ngô đại cáo dưới đây sẽ giúp các em học sinh nắm được những nội dung trọng tâm của đoạn trích.
Nguyễn Trãi, một vị anh hùng dân tộc lẫy lừng của đất nước Việt Nam với nhiều công lao, sự cống hiến hết mình để bảo vệ Tổ quốc. Tình yêu nước giống như ngọn lửa luôn rực cháy và thổi bùng trong ông, lớn lên trong thời kì nước mất nhà tan do đó mà đã tôi luyện và hình thành nên Nguyễn Trãi với một lòng nồng nàn yêu nước. Không chỉ vậy, Nguyễn Trãi còn nổi tiếng bởi tài năng trong lĩnh vực văn học với những tác phẩm nổi tiếng.
Hầu hết, các tác phẩm của ông đều nói về tình yêu nước sâu sắc, lí tưởng cao cả. Điều đó được thể hiện đậm nét qua bài Bình Ngô đại cáo, mà điển hình ở đây là đoạn 3 của tác phẩm. Bình Ngô Đại Cáo Đoạn 3 giúp chúng ta hiểu hơn cuộc chiến chống quân xâm lược trường kỳ của lịch sử ông cha ta.
Nguyễn Trãi đã cho chúng ta thấy điều đó khi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn trong buổi đầu sơ khai. Và hình ảnh đầu tiên xuất hiện là chủ tướng Lê Lợi:
Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa,
Chốn hoang dã nương mình.
Cách tự xưng gần gũi ta, xuất thân nơi núi, chốn hoang dã cũng bước ra từ nhân dân nhưng vì mến nghĩa mà đứng lên. Vị lãnh tụ mang theo trong mình tấm lòng căm thù giặc sâu sắc, há đội trời chung, thề không cùng sống với bao nhiêu trăn trở, ưu tư đau lòng nhức óc, quên ăn vì giận, những trằn trọc, nỗi băn khoăn cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Vượt qua những ngày tháng nếm mật nằm gai, thấu hiểu lẽ hưng phế ở đời, người anh hùng ấy đã trở thành linh hồn của cuộc khởi nghĩa.
So với địch, tướng sĩ Lam Sơn khi bắt đầu hoàn toàn yếu thế. Đúng lúc khởi nghĩa là lúc quân thù đương mạnh, nhân tài, tuấn kiệt của ta lại hiếm hoi, thậm chí quân tiếp viện, lực lượng trực tiếp chiến đấu lẫn lương thảo đều ít ỏi, khó khăn. Vậy điều gì lại giúp Lê Lợi và cộng sự của mình thắng lợi? Đó chẳng phải là:
Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về đông;
Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chăm còn dành về phía tả.
Người chủ tướng nhận mệnh lớn trời trao, biết khắc phục gian nan thì cũng tìm ra được con đường chiến đấu. Vì thế, có tinh thần đoàn kết nhân dân bốn cõi một nhà, tướng sĩ một lòng phụ tử; có kế sách lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều và trên hết ta có đại nghĩa, có chí nhân để:
Trọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo.
Chính nhờ đó mà mỗi ngày, mỗi ngày lực lượng kháng chiến một lớn mạnh, lại biết tận dụng thời cơ, quân ta đã mở những chiến dịch phản công và giành thắng lợi vẻ vang.
Trong phạm vi hạn hẹp của bài cáo, nhưng với sự khéo léo tài tình của mình, Nguyễn Trãi đã tái hiện lại một cách chân thực, nhiều góc độ, giúp người đọc rất dễ hình dung ra toàn cảnh của chiến trường. Trước hết phải kể đến những trận đánh liên tiếp, nối dài, phủ rộng khắp mọi miền.
Mở màn là chiến dịch là trận Bồ Đằng, miền Trà Lân ở xứ Nghệ, tiếp tục kéo đến Tây Kinh xứ Thanh, rồi thẳng tiến về Đông Đô với hai trận Ninh Kiều và Tốt Động, bảo vệ thành công Thăng Long. “Thằng nhãi con Tuyên Đức” là vua nhà Minh lúc bấy giờ phải động bình cứu viện, nhưng nghĩa quân Lam Sơn lại chặn đứng bọn viện binh bằng những trận đánh liên tiếp, mạnh mẽ:
Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế,
Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu,
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong,
Ngày hăm tám, thượng thư Lí Khánh cùng kế tự vẫn.
Có thể nói, trong một đoạn văn dài người đọc không thể rời mắt, những trận đánh như sấm vang chớp giật, trúc chẻ tro bay, thừa thắng ruổi dài mà xông lên, cứ thuận đà mà:
Đánh một trận sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông
Quân tướng thì khí thế hừng hực, quyết chiến, quyết thắng thật oai hùng:
– Sĩ khí đã hăng
Quân thanh càng mạnh
– Sĩ tốt kén người hùng hổ
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn,
Voi uống nước, nước sông phải cạn
Ta ở trong tư thế chủ động tấn công, lấn chiếm cả chiến trường. Từ không khí đến cảnh tượng đều để lại thật nhiều ấn tượng:
Ghê gớm thay sắc phong vân phải đổi,
Thảm đạm thay ánh nhật nguyệt phải mờ.
Nhìn lại từ buổi đầu khởi nghĩa mà thấy thật là một kì tích, một sức mạnh thật phi thường. Nhưng quá trình lược thuật về cuộc khởi nghĩa, không dừng lại ở việc ca ngợi chiến thắng của ta, mà còn khắc họa một cách sống động, chân thực về sự thất bại của kẻ thù. Cứ nghĩ đến cảnh Lạng Giang, Lạng Sơn thây chất đầy đường/ Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước ta không khỏi ghê rợn. Nếu ta chủ động thì giặc lại rơi vào bị động, thất thế.
Chứng cứ liên tục gỡ thế nguy, cứu trận đánh, bó tay để đợi bại vọng, trí cùng lực kiệt… Lũ giặc cả tướng liên quân đều suy sụp về tinh thần, hao hụt về ý chí nghe hơi mà mất vía, nín thở cầu thoát thân, kẻ bêu đầu, kẻ bỏ mạng, bại trận tử vong, cùng kế tự vẫn… Thất bại nhục nhã, ê chề ấy là kết cục tất yếu của bọn chúng.
Tuy nhiên, đường nhân nghĩa mà Nguyễn Trãi – Lê Lợi vạch ra từ ban đầu vẫn luôn luôn soi tỏ. Ta chiến thắng nhưng biết điểm dừng, không dồn giặc vào thế khốn cùng mà ngược lại còn mở đường hiếu sinh cho chúng một con đường sống, cũng là để toàn dân nghỉ ngơi, lấy sức. Ta đã cấp cho chúng thuyền, ngựa để trở về.
Vì thế thắng lợi của ta là thắng lợi của tinh thần thượng võ, của lòng nhân ái, nhân văn. Cũng bởi vậy mà kẻ thù đã thua lại còn phục, sẵn sàng cởi giáp ra hàng, trói tay tự xin hàng, lê gối dâng tờ tạ tội, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng, ra đến bể mà vẫn hồn bay phách lạc, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Giọng điệu sục sôi, khí thế, ngôn ngữ giàu chất tạo hình, bút pháp tương phản, mang tính sử thi, Đại cáo bình Ngô đã làm sống dậy những trang sử hào hùng, oanh liệt của dân tộc. Niềm tự hào, kiêu hãnh không chỉ là ở những chiến công mà ở sức mạnh của toàn dân quyết chí một lòng để làm nên chiến thắng vẻ vang.
Đã sáu trăm năm trôi qua, lịch sử cũng đã lùi vào dĩ vãng, nhưng Đại cáo bình Ngô vẫn trọn vẹn sức sống như thuở ban đầu. Bản văn kiện lịch sử mang tầm tư tưởng vĩ đại, một luận văn tổng kết lịch sử yêu nước vô cùng xuất sắc, cũng là một áng văn chương tiêu biểu cho ngòi bút thần Nguyễn Trãi. Tác phẩm chính là nguồn cảm hứng bất tận cho bao thế hệ người Việt Nam về lòng yêu nước, về tinh thần đấu tranh bảo vệ và dựng xây đất nước.
Gợi ý trọn bộ 💕 Cảm Nhận Về Bài Bình Ngô Đại Cáo 💕 12 Mẫu Cảm Nghĩ Hay
Phân Tích Tác Phẩm Bình Ngô Đại Cáo Đoạn 3 Đơn Giản – Mẫu 7
Tham khảo dưới đây bài văn phân tích tác phẩm Bình Ngô đại cáo đoạn 3 đơn giản với những ý văn ngắn gọn và luận điểm cơ bản nhất.
Hình ảnh của vị lãnh tụ nghĩa quân Lam Sơn và những khó khăn trong buổi đầu dấy nghiệp, Nguyễn Trãi đã phản ánh chân thực giai đoạn đầu của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn bằng bút pháp tự sự kết hợp với trữ tình. Tác giả đã khắc hoạ thành công hình tượng Lê Lợi trong buổi đầu dấy nghiệp đầy gian khổ:
Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa,
Chốn hoang dã nương mình.
Trong hình tượng Lê Lợi có sự thống nhất hài hoà giữa con người bình thường và thủ tĩnh nghĩa quân. Lê Lợi xứng đáng là linh hồn của cuộc khởi nghĩa bởi ông có khả năng tổ chức, tập hợp, đoàn kết mọi người, đồng thời có phẩm chất của một nhà quân sự, chính trị tài ba. Lê Lợi căm thù giặc sâu sắc và có quyết tâm cao độ để thực hiện lí tưởng đánh đuổi giặc ngoại xâm ra khỏi đất nước:
Ngẫm thù lớn há đội trời chung,
Căm giặc nước thề không cùng sống.
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời;
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh;
Ngẫm trước đến nay, lễ hưng phế đắn đo càng kỹ.
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi.
“Ngẫm thù lớn há đội trời chung, Căm giặc nước thề không cùng sống” là thái độ và chí hướng của lãnh tụ. Đau lòng nhức óc, nếm mật nằm gai, quên ăn vì giận… là sự rèn luyện, thử thách đối với bản thân, từ trái tim đến khối óc. Không phải một sớm một chiều mà là suốt mười mấy năm trời. Bởi vì trong tâm trí lúc nào cũng canh cánh mối lo toan cứu nước, cứu dân cho nên Lê Lợi luôn ở trong tâm trạng: Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi. Qua hình tượng Lê Lợi. Nguyễn Trãi đã nói lên được tính chất nhân dân của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
Lúc đầu, so sánh tương quan lực lượng giữa hai bên thì ta yếu hơn giặc rất nhiều:
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đương mạnh.
Buổi đầu của cuộc khởi nghĩa vô cùng gian nan, thiếu thốn. Lê Lợi và nghĩa quân đã phải vượt qua muôn ngàn khó khăn, gian khổ: Tuấn kiệt như sao buổi sớm, Nhân tài như lá mùa thu. Thiếu quân, thiếu lương nhưng nhờ tấm lòng cứu nước, nhờ tướng sĩ một lòng phụ tử mà cuộc khởi nghĩa đã vượt qua những khó khăn thử thách và ngày càng lớn mạnh, đủ sức tổng phản công giành thắng lợi.
Vậy sức mạnh nào đã giúp nghĩa quân Lam Sơn vượt qua những khó khăn nói trên? Trước hết, nghĩa quân có sức mạnh của tư tưởng nhân nghĩa, của ý thức dân tộc, của mục đích chiến đấu là nhằm mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân, bảo vệ nền độc lập và truyền thống văn hiến lâu đời của quốc gia Đại Việt.
Sau đó, yếu tố quan trọng quyết định thắng lợi của cuộc khởi nghĩa là tài trí mưu lược, phẩm chất anh hùng của Lê Lợi. Ông thể hiện rất rõ vai trò của một bậc minh chủ: căm thù giặc sâu sắc, tự tin, tự nguyện đặt vận mệnh của quốc gia, dân tộc lên vai mình.
Người anh hùng đã hội tụ đủ những yếu tố của một nhà lãnh tụ vĩ đại đó là: Lòng căm thù giặc sâu sắc “ngẫm thù lớn há đội trời chung, căm giặc nước thề không cùng sống”, có lý tưởng cao đẹp, có lòng quyết tâm, coi trọng nhân tài, coi trọng vai trò của nhân dân biết tập hợp sức mạnh dân tộc. Ông còn có khả năng thu phục lòng người, tạo nên khối đoàn kết vững mạnh và một yếu tố không thể thiếu đó là tài mưu lược hơn người.
Song, không dừng lại ở việc tái hiện chân dung vị chủ tướng Lê Lợi, đoạn ba của bài cáo còn tái hiện lại những khó khăn, gian khổ và cả những chiến thắng vang dội của quân và dân ta. Trước hết, trong buổi đầu khởi nghĩa, nghĩa quân của ta gặp phải muôn vàn những khó khăn, thử thách cả về nhân lực và vật lực.
Đó là những ngày quân giặc còn rất mạnh, nhân tài của ta còn nhiều hạn chế, “nhân tài như lá mùa thu”, “việc bôn tẩu lại thiếu kẻ đỡ đần”,… Thế nhưng, với tất cả ý chí, lòng quyết tâm và với một đường lối đấu tranh đúng đắn, kiên định “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn”, “lấy chí nhân để thay cường bạo”, nghĩa quân của ta đã vượt qua muôn vàn những khó khăn thử thách ấy để đạt được nhiều thắng lợi vang dội.
Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã An, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hai lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khanh cùng kế tự vẫn.
Như vậy, trong phần ba của bài cáo, tác giả Nguyễn Trãi đã tái hiện lại một cách chân thực và sâu sắc hình tướng vị chủ tướng Lê Lợi cùng những khó khăn mà nghĩa quân của ta gặp phải trong buổi đầu kháng chiến và đặc biệt hơn cả là những chiến thắng vang dội của quân và dân ta trong cuộc chiến đầy khó khăn ấy.
Đặc biệt,sau khi chiến thắng, nghĩa quân của ta còn cấp ngựa, thuyền và lương thực cho bọn giặc để chúng con đường lui. Những hành động này của quân ta thêm một lần nữa chứng minh cho tư tưởng, luận đề chính nghĩa mà nghĩa quân của ta trọn đời theo đuổi.
Tóm lại, “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi không chỉ là một văn kiện lịch sử mà nó còn là một áng văn chính luận sâu sắc với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố chính luận và yếu tố trữ tình. Trải qua chiều dài phát triển của lịch sử dân tộc nhưng giá trị, ý nghĩa to lớn của bài cáo vẫn còn vẹn nguyên cho đến ngày hôm nay.
Tiếp tục tham khảo 💧 Nghị Luận Bình Ngô Đại Cáo 💧 15 Bài Văn Ngắn Hay Nhất
Phân Tích Bình Ngô Đại Cáo Đoạn 3 Facebook – Mẫu 8
Chia sẻ dưới đây bài phân tích Bình Ngô đại cáo đoạn 3 Facebook được nhiều em học sinh quan tâm tìm kiếm với những ý văn hay.
Trong 9 tác gia văn học nổi tiếng của Việt Nam, Nguyễn Trãi là một trong số những nhà văn trung đại kiệt xuất, cuộc đời của ông gắn bó với sự biến đổi khôn lường của 3 triều đại là Trần – Hồ – Hậu Lê. Trong số đó với triều Hậu Lê Nguyễn Trãi đã trở thành bậc khai quốc công thần, là nhà quân sự, chính trị kiệt xuất đóng góp to lớn vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn của Lê Lợi đánh tan 15 vạn quân Minh xâm lược, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc, một kỷ nguyên độc lập vững bền.
Trong mảng văn chương, đặc biệt là các tác phẩm chính luận Nguyễn Trãi viết để phục vụ cho quá trình gây dựng đất nước và hoạt động đối ngoại, thì tác phẩm nào cũng được xem là áng văn chính luận mẫu mực bậc nhất. Nổi bật nhất trong số đó chính là tác phẩm Bình Ngô đại cáo, được viết sau thắng lợi của khởi nghĩa Lam Sơn, đây được xem là bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của dân tộc, là áng thiên cổ hùng văn nghìn đời khó có.
Trong tác phẩm ngoài việc nêu luận đề chính nghĩa, tố cáo tội ác của giặc Minh, ca ngợi sức mạnh đoàn kết của nghĩa quân, tường thuật lại cuộc khởi nghĩa thì Nguyễn Trãi cũng không quên dành một đoạn thơ khá dài để khắc họa hình tượng chủ tướng Lê Lợi, một con người tài năng, đức độ, lãnh đạo nghĩa quân từ những ngày khổ tận cho đến ngày cam lai.
Trong Bình Ngô đại cáo hình tượng Lê Lợi được Nguyễn Trãi dựng lên từ những ngày khởi nghĩa mới bắt đầu, khó khăn chồng chất, dưới hình thức lời tự thuật của nhân vật.
“Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa,
Chốn hoang dã nương mình.
Ngẫm thù lớn há đội trời chung,
Căm giặc nước thề không cùng sống.”
Cách xưng hô thân tình “ta” thể hiện sự khiêm nhường, gần gũi, nhưng cũng thể hiện ý thức của nhân vật về vị trí và tầm vóc của mình trong nghĩa quân, thể hiện dáng vẻ của một vị lãnh tụ có đủ đức, đủ tài. Lê Lợi là người Lam Sơn, lại ý thức được trách nhiệm bảo vệ đất nước của người nam nhi để trả mối nợ công danh thế nên ông cũng chọn “núi Lam Sơn dấy nghĩa”, làm điểm khởi đầu của nghĩa quân.
Có thể nói rằng đây là một lựa chọn chính xác, bởi hơn ai hết với vai trò là một chúa trại, Lê Lợi hiểu rất rõ địa hình quê hương, việc nuôi giấu, luyện binh trở nên dễ dàng và thuận lợi hơn rất nhiều, không những thế nơi này còn gần với gia đình ông, có thể dễ dàng tiếp tế lương thực và nhu yếu phẩm hàng ngày, nghĩa quân ổn định chuẩn bị cho chiến đấu.
Thêm vào đó ta cũng thấy được đức hạnh của Lê Lợi, một chàng trai 21 tuổi thế nhưng có tấm lòng vì nghĩa lớn ông sẵn sàng từ bỏ cuộc sống giàu sang, an nhàn của một chúa trại, từ chối lời dụ dỗ quan tước của nhà Minh để vào “chốn hoang dã nương mình”. Chấp nhận cuộc sống thiếu thốn, nguy hiểm trùng vây, ngày đêm mất ngủ lo nghĩ kế sách diệt giặc, thật là xứng đáng với mấy chữ lãnh tụ đức độ, kiệt xuất của dân tộc.
Mà tất cả những hành động, ý chí cao đẹp ấy của Lê Lợi đều xuất phát từ một lý do duy nhất là lòng yêu nước và căm thù giặc sâu sắc “Ngẫm thù lớn há đội trời chung/Căm giặc nước thề không cùng sống”. Kết hợp với lý tưởng trả món nợ công danh và lòng quyết tâm mạnh mẽ thực hiện hoài bão, Lê Lợi đã trở thành một vị lãnh tụ xuất sắc, là người anh hùng áo vải xuất thân từ tầng lớp nhân dân, xứng đáng trở thành người đứng đầu của một đất nước sau này.
Đặc biệt tấm lòng yêu nước và ý chí quyết tâm dẹp giặc của Lê Lợi còn được thể hiện một cách sâu sắc trong đoạn thơ tiếp.
“Đau lòng nhức óc, chốc đã mười mấy năm trời,
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh;
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi.”
Đoạn thơ đã bộc lộ tâm huyết và những nỗi lòng sâu kín của chủ soái Lê Lợi trong những ngày nghĩa quân mới được thành lập. Ở ông hội tụ đầy đủ những vẻ đẹp tiêu biểu của một chủ soái kiệt xuất, không chỉ là người có tấm lòng yêu nước thương dân, lòng căm thù giặc không đội trời chung, mà ông còn xuất hiện với vẻ đẹp của một con người mưu cao chí rộng, đức độ vô cùng với những tâm trạng “đau lòng, nhức óc, nếm mật nằm gai, quên ăn vì giận, những trằn trọc trong cơn mộng mị…”.
Lê Lợi thấu hiểu đạo lý, phàm là làm việc lớn ắt không thể nóng vội, thế nên ông một lòng nuôi quân, trăn trở “đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời”, để xây dựng một lực lượng quân đội hùng hậu, tăng cao khả năng chiến đấu. Rất có lòng kiên nhẫn “Nếm mật nằm gai há phải một hai sớm tối”, một lòng suy xét nghiên cứu sách lược để chiến đấu với giặc Minh đương lúc hung hăng, thịnh thế, những nỗi lo lắng, nghĩa suy vì dân tộc khiến Lê Lợi khó lòng an ổn.
Bởi ngày ngày chứng kiến cảnh giặc Minh giày xéo đất nước, với tư thái, đạo đức và tấm lòng yêu nước thương dân sâu sắc Lê Lợi “quên ăn vì giận”. Và càng như thế ông lại càng phải thêm đắn đo, nghiên cứu kỹ càng, sao cho tiến đánh quân thù một cách thuận lợi, nhanh chóng đuổi chúng khỏi nước ta, tuy nhiên không được phép nóng vội, hồ đồ mà làm tổn thất nghĩa quân, trong khi quân thù không hề hấn.
Chính vì sứ mệnh nặng nề, trách nhiệm to lớn của mình mà Lê Lợi luôn “trằn trọc trong cơn mộng mị/chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi”, thật là muôn phần khó khăn. Trong khuôn khổ khắc họa người anh hùng áo vải Lê Lợi, Nguyễn Trãi cũng thông qua đó mà bộc lộ những khó khăn ban đầu của nghĩa quân, cũng như thể hiện được thêm những khía cạnh tài năng khác của chủ soái Lê Lợi.
“Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đang mạnh.
Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu,
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần,
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc,
Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về đông,
Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm còn dành phía tả.
Thế mà:
Trông người, người càng vắng bóng, mịt mù như nhìn chốn bể khơi.
Tự ta, ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối.
Phần vì giận quân thù ngang dọc,
Phần vì lo vận nước khó khăn,
Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
Lúc Khôi Huyện quân không một đội.
Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
Ta gắng trí khắc phục gian nan.”
Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn dù có hậu phương vững mạnh, nhưng những buổi ban đầu vẫn gặp vô vàn khó khăn chồng chất. Một lực lượng mỏng như cánh ve gồm hơn ngàn người, lại phải đối chọi với một đạo quân thù lên tới hàng chục vạn quân, không khác nào trứng chọi với đá, châu chấu đá xe.
Quan trọng hơn việc quân cơ thao lược không thể nào một mình Lê Lợi có thể kham hết, vậy là ngặt nỗi “nhân tài như lá mùa thu/tuấn kiệt như sao buổi sớm”, người tài thạo việc quân sự, chính trị gọi mãi mà chẳng ai thấu, hoặc là không biết hoặc là vì muốn tránh sự đời mà tìm chốn ẩn dật nương náu, điều đó khiến Lê Lợi không khỏi băn khoăn, buồn bã.
Tuy nhiên với phong thái của một chủ soái, ý chí cứu nước, dẹp giặc vẫn chưa khi nào nguôi ngoai mà trái lại càng thêm mạnh mẽ, ngọn lửa căm thù càng thêm rạo rực “Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về đông/Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm còn dành phía tả”.
Từ đó ta nhận thấy được một phẩm chất cao đẹp, thể hiện sự sáng suốt, tài năng của Lê Lợi ấy chính là tấm lòng yêu chuộng nhân tài, coi trọng sức mạnh đến từ nhân dân, sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, thấu hiểu rằng sức mạnh tổng hợp từ nhân dân mới là yếu tố tiên quyết quyết định thắng lợi của khởi nghĩa. Không chỉ dừng lại ở việc thiếu nhân tài mà cuộc khởi nghĩa của Lê Lợi còn thiếu thốn cả quân đội, thiếu cả lương thực, quả thực tình thế không mấy khả quan.
Thế nhưng trước tình hình khó khăn muôn bề như vậy, Lê Lợi vân không hề nao núng “Tự ta, ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối”, tự thân vận động, làm vô số việc để khắc phục tình hình, cũng như có tấm lòng lạc quan, tự tin và bản thân và tính chất của cuộc khởi nghĩa “Trời thử lòng trao cho mệnh lớn/Ta gắng trí khắc phục gian nan”, liên tục củng cố tinh thần của bản thân và các tướng sĩ.
Cuối cùng không phụ lòng mong đợi, tấm lòng của Lê Lợi cũng được nhân dân thấu hiểu “Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới/Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào”, bộc lộ khả năng hiệu triệu sức mạnh toàn dân của Lê Lợi, thu phục được nhân tâm, tạo nên sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Đồng thời cũng bộc lộ vẻ đẹp của sự tài trí, thao lược trong lĩnh vực quân sự khi “Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh/Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều”.
Với khả năng quân sự thiên bẩm, Lê Lợi đã vận dụng rất tốt điểm mạnh của nghĩa quân vào chiến đấu, chúng ta có núi rừng Lam Sơn hiểm trở, lại thông thạo địa hình, thì còn gì hơn là việc “dùng quân mai phục”, đánh úp quân thù, thực hiện chiến tranh du kích vừa hay hiệu quả lại khắc phục được nhược điểm quân lực mỏng manh của ta.
Như vậy chỉ thông qua một đoạn thơ ngắn, hình tượng người anh hùng áo vải Lê Lợi, vị lãnh tụ kiệt xuất trong lịch sử trung đại của dân tộc đã hiện lên một cách khá đầy đủ và sắc nét. Khắc họa được những vẻ đẹp hơn người từ đức độ, tài năng, tới tấm lòng yêu nước, căm thù giặc sâu sắc. Có thể nói rằng, Lê Lợi chính là nhân tố then chốt, đóng góp vai trò hạt nhân trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, đồng thời là người có vai trò quan trọng trong lịch sử dân tộc giai đoạn 1418-1433.
Đón đọc tuyển tập 🍀 Phân Tích Đoạn 1 Bình Ngô Đại Cáo 🍀 18 Bài Văn Hay Nhất
Phân Tích Đoạn 1 3 Bình Ngô Đại Cáo – Mẫu 9
Bài văn phân tích đoạn 1 3 Bình Ngô đại cáo dưới đây sẽ giúp các em học sinh có thêm cho mình tư liệu tham khảo phong phú hơn.
Bình ngô đại cáo là bản báo cáo lớn, công bố rộng khắp cho mọi người biết về việc dẹp yên giặc Ngô, khẳng định chủ quyền của dân tộc và tương lai của đất nước. Trong đoạn 1 và đoạn 3 của tác phẩm, Nguyễn Trãi đã thể hiện truyền thống nhân nghĩa của dân tộc và tái hiện lại cuộc khởi nghĩa Lam Sơn hào hùng đánh đuổi giặc Minh xâm lược ra khỏi bờ cõi.
Như chúng ta đều biết, sau một thời gian cầm cự để xây dựng lực lượng (1418- 1423), nghĩa quân Lam Sơn đã chuyển sang thời kỳ phản công. Đến mùa đông 1427, sau khi đập tan mười năm vạn quân tiếp viện của giặc minh, nước ta hoàn toàn được giải phóng.
Đầu năm 1428, Lê Lợi lên ngôi Hoàng Đế đặt tên hiệu là Thuận Thiên (hợp lòng trời) và cử Nguyễn Trãi soạn bài cáo để tuyên bố cho toàn dân biết cuộc kháng chiến chống giặc Minh đã thắng lợi rực rỡ, đất nước ta chuyển sang một giai đoạn xây dựng hoà bình. Như vậy, bài cáo trong lúc toàn quân, toàn dân đang hân hoan chào đón chiến thắng sau 10 năm chiến đấu gian khổ, anh dũng.
Trước hết, Bình ngô đại cáo là một luận văn chính trị tổng kết chặt chẽ, súc tích- về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, dựa trên tư tưởng yêu nước thiết tha và sự nhận thức sâu sắc, mới mẻ về nhân dân và dân tộc. Bao trùm bài cáo là niềm tự hào vô biên trước thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến, của khí phách của dân tộc Việt Nam.
Nhìn đại thể, Bình Ngô đại cáo có thể chia làm bốn phần:
Phần 1. Khẳng định lí tưởng nhân nghĩa của cuộc kháng chiến và truyền thống bất khuất của dân tộc (từ đầu đến chứng cứ còn ghi…)
Phần 2. Tố cáo tội ác của bọn cướp nước lợi dụng hoàn cảnh rối ren của nước ta, đưa quân sang xâm lược và gây ra bao đau khổ cho nhân dân (tiếp theo đến ai bảo thần dân chịu được…).
Phần 3. Mô tả quá trình khởi nghĩa Lam Sơn, mục đích của cuộc chiến đấu. Những khó khăn ban đầu (quá trình chiến đấu), những chiến công hiển hách của nghĩa quân chấm dứt ách nô lệ (tiếp theo đến cũng là chưa thấy xưa nay).
Phần 4. Lời tuyên bố kết thúc, chiến tranh khẳng định tư thế dân tộc và khát vọng xây dựng đất nước muôn thuở phồn vinh (tiếp theo đến hết).
Ở phần thứ nhất, trước hết Bình Ngô đại cáo khẳng định lí tưởng của cuộc kháng chiến việc nhân nghĩa cốt ở yên dân. Đánh giặc chính là nhân nghĩa. Tiếp theo, Nguyễn Trãi khẳng định Việt Nam là một quốc gia văn hiến từ bao đời đã sánh vai với cường quốc Trung Hoa về nhiều phương diện. Nội dung nói trên được tác giả biểu đạt bằng những câu văn sang trọng, đĩnh đạc gợi không khí trang nghiêm lịch sử.
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương
Ở đây, nổi bật là việc nhấn mạnh đến tư tưởng nhân nghĩa của Cuộc kháng chiến và tư thế độc lập của dân tộc. Nhân nghĩa gắn liền với việc yên dân. Nguyễn Trãi quan tâm trước hết đến đời sống nhân dân, đến hạnh phúc của mọi người. Đây chính là tư tưởng lớn và tiến bộ của Nguyễn Trải, làm nền tổng cho cả bài cáo.
Để nêu bật tư thế độc lập tự cường của dân tộc, Nguyễn Trãi đã sử dụng cách diễn đạt sóng đôi. Đại Việt và Trung Hoa đã bao đời song song tồn tại. Mỗi nước một bờ cõi, mỗi nước một phong tục với những triều đại khác nhau. Vì là nước văn hiến lâu đời nên người tài giỏi của Đại Việt thời nào cũng có, giặc đến thời nào cũng thất bại.
Nội dung ấy được diễn đạt bằng những vế rất đẳng đối. Tuy vậy nếu để ý ta thấy tư thế cân bằng, tác giả dường như ngày càng muốn đặt nặng đồng cân hơn về phía Đại Việt với những chiến công huy hoàng (Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô – Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã). Do đó, có thể nói ở phần 1 này, Nguyễn Trãi vừa thể hiện niềm tin vào cuộc kháng chiến, vừa bộc lộ niềm tự hào trước truyền thông oanh liệt của dân tộc.
Phần thứ 3 thuật lại quá trình của cuộc khởi nghĩa từ khởi đầu đến ngày chiến thắng. Bài cáo nhân danh Lê Lợi: Ta đây, Núi Lam Sơn dấy nghĩa… Những lời tự bạch như phải trải tâm can mình trước thần dân: Đau lòng nhức óc, chốc đã mười mấy năm trời – … Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh – Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.
Buổi đầu của cuộc khởi nghĩa thật là đầy khó khăn: quân giặc thì đang hùng mạnh, mà chúng ta mới có ít người, nhân tài thiếu thốn như sao buổi sớm, như lá mùa thu. Có lúc bị bao vây, lương thực cạn kiệt, quân sĩ chẳng còn mấy người (khi Linh Sơn, lương hết mấy tuần – khi Khôi Huyện quân không một đội) … Tuy vậy, nhờ bền gan vững chí khắc phục gian nan, nhờ sự chung lưng đấu cật của tướng sĩ, nhờ sự đoàn kết của toàn dân và chiến lược, chiến thuật đứng đắn…, chúng ta đã dần dần xây dựng được lực lượng vững mạnh dẫn tới chiến thắng.
Đoạn tiếp theo, Nguyễn Trãi tập trung lược thuật quá trình chiến thắng. Điều đáng lưu ý, trên thực tế, từ khi dựng cờ khởi nghĩa đến khi toàn thắng, nghĩa quân Lam Sơn đã chiến thắng nhiều trận. Nhưng ở đây, Nguyễn Trãi chỉ tập trung nói đến một số trận tiêu biểu nhất của từng giai đoạn.
Ở giai đoạn mở màn đánh lớn, tác giả nói đến hai trận chiến ác liệt xảy ra tại Bồ Đằng và Trà Lân. Quân giặc hoàn toàn bị bất ngờ, thua chạy liểng xiểng, quân ta chiến thắng nhanh chóng. Ở đây, Nguyễn Trãi có cách miêu tả rất ngắn gọn nhưng vẫn làm nổi bật lên được cái cốt lõi của hai trận đánh là sự bất ngờ trong việc dừng quân. Do đó, giặc thì hoảng sợ, hoang mang, quân ta thi càng đánh càng mạnh:
Sĩ khí đã hăng
Quân Thanh càng mạnh
Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
Lý An, Phương Chinh nín thở cầu thoát thân.
Ở giai đoạn hai, quân ta mở chiến dịch Thanh Nghệ để tiến quân ra Bắc. Nguyễn Trãi nói đến hai trận có ý nghĩa chiến lược và đã diễn ra vô cùng ác liệt là trận Ninh Kiều và trận Tốt Động. Giặc thì huy động tổng lực sống chết cố thủ, ta thì quyết chiến quyết thắng, do đó, trận chiến trở nên cực kì dữ dội. Bằng cách nói cường điệu, Nguyễn Trãi đã khiến người đọc có ấn tượng sâu sắc về sự ác liệt của trận chiến, sự thất bại nhục nhã của giặc Minh:
Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm
Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Phúc âm quân giặc: Trần Hiệp đã phải bêu đầu.
Mọt gian kẻ thù: Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.
Ở giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến, Nguyễn Trãi tập trung bút lực kể về chiến dịch Chi Lăng – Xương Giang. Đây là bản hùng ca vang dội nhất của cuộc kháng chiến trường kỳ. Như vậy mọi người đã biết, lẽ ra sau một loạt chiến bại, giặc Minh phải rút quân, nhưng trái lại, với bản chất ngoan cố, chúng lại cử viện binh hừng hậu chia làm nhiều ngả tiến xuống Đại Việt. Hai tên tướng giỏi chỉ huy hai đạo quân mạnh tạo nên thế gọng kim hòng đè bẹp quân ta:
Đinh Mùi tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại,
Năm ấy tháng mười, Mộc Thạch chia đường từ Vân Nam tiến sang.
Nhưng ta đã có sự bố phòng chu đáo. Hai gọng kìm của giặc liên tiếp bị bẻ gãy:
Ta trước điều bỉnh thủ hiểm, chặt mũi tên phong.
Sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực.
Sau đó là những chiến thắng dồn dập. Hơi văn hăm hở như có nhịp thở của người viết, mạch văn dồn đuổi như cố theo kịp bước hành quân thần tốc và những đòn đánh cấp tập của nghĩa quân:
Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế,
Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu.
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong.
Ngày hai tám, Thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.
Tiếp đó, bài cáo chuyển sang tiếp cận cụ thể cảnh trận mạc. Câu vãn đúc lại, ngắn gọn, đầy hình ảnh thâm xưng phóng đại nhằm cực tả sức mạnh vĩ đại, khí thế áp đảo của quân ta:
Sĩ tốt kén tay hùng hổ,
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh,
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn,
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận, tan tác chim muông
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.
Hình ảnh quân ta càng hừng tráng bao nhiêu, thì hình ảnh quân giặc càng thảm hại bấy nhiêu và từ giọng văn sảng khoái và đầy tự hào tác giả chuyển sang giọng mỉa mai châm biếm đầy khinh bỉ:
Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng,
Thần vũ chẳng giết hại thể lòng trời ta mở đường hiến sinh,
Mã Kì, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền ra đến bể
Vẫn hồn bay phách lạc.
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa về đến nước
Mà vẫn tim đập chân run.
Bình ngô đại cáo là quả là một tác phẩm chứa đựng một nội dung lớn, một tư tư tưởng cao, được diễn đạt bằng một áng văn đầy nghệ thuật, đáng được coi là bản Tuyên ngôn độc lập thứ hai sau bài Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt.
Ra đời trong thời đại Văn, Sử bất phân nên văn bá cáo mà đầy chất văn chương, hình ảnh từng từng lớp lớp, hành văn biến hóa, giọng điệu linh hoạt, diễn đạt tài tình những tình huống khác nhau của cuộc khởi nghĩa, và những cung bậc tình cảm khác nhau của người viết, thật xứng danh một áng thiên cổ hùng văn.
Tham khảo văn mẫu 🍀 Cảm Nhận Đoạn 1 2 Bình Ngô Đại Cáo 🍀 10 Bài Văn Hay
Phân Tích Đoạn 2 3 Bình Ngô Đại Cáo – Mẫu 10
Đón đọc bài văn phân tích đoạn 2 3 Bình Ngô đại cáo dưới đây để trau dồi cho mình những ý văn hay và đặc sắc.
Nguyễn Trãi là nhà quân sự, nhà văn hóa lớn, nhà thơ kiệt xuất của dân tộc Việt Nam. Ông đã đóng góp cho kho tàng văn học trung đại Việt Nam nói riêng và kho tàng văn học Việt Nam nói chung nhiều tác phẩm văn học độc đáo, có sức sống lâu bền trong lòng bạn đọc mọi thế hệ và “Bình Ngô đại cáo” là một trong số những tác phẩm như thế.
“Bình Ngô đại cáo” ra đời sau thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống quân minh xâm lược. Tác phẩm không chỉ là một văn kiện lịch sử tuyên bố nền độc lập của dân tộc mà nó còn là áng văn yêu nước, áng văn chính luận xuất sắc của nền văn học nước ta.
Được viết theo thể cáo – một thể loại văn học cổ có nguồn gốc từ Trung Hoa, “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi cũng có một bố cục rất chặt chẽ. Trên cơ sở tiền đề chính nghĩa và chân lí độc lập ở đoạn một, đoạn hai của bài cao đi sâu chỉ rõ những tội ác man rợn của giặc Minh. Trước hết, tác giả đã vạch rõ âm mưu xâm lược của giặc Minh.
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa
Bọn gian tà bán nước cầu vinh
Lợi dụng tình hình rối ren trong nước của nhà Hồ, giặc Minh với luận điệu xảo trá “phù Trần diệt Hồ” để lừa bịp nhân dân, chúng đã tiến vào xâm lược nước ta. Để rồi, sau đó, chúng đã thi hành hàng loạt chính sách dã man và dưới ngòi bút của mình, Nguyễn Trãi đã lật mặt, vạch rõ hàng loạt tội ác không thể tha thứ của giặc Minh. Chúng đã tàn sát những người dân vô tội một cách tàn độc và dã man.
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Bọn giặc Minh thật tàn ác biết bao, ngay đến cả “dân đen”, “con đỏ” chúng cũng không chịu tha. Hai động từ “nướng”, “vùi” được đặt lên đầu câu dường như đã lột tả đến tột cùng sự tàn sát man rợ, giết người không ghê tay của bọn chúng. Thêm vào đó, chúng còn tàn sát nhân dân bằng cách đẩy họ vào những noi đầy rẫy những hiểm nguy, nơi mà khi đã đi rồi thì rất khó để có thể sống sót để trở về.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc
Đồng thời, tội ác của giặc Minh còn ở đặt lên đầu nhân dân những chính sách thuế khóa nặng nề, và vô lí và không dừng lại ở đó, chúng còn hủy hoại cả môi trường sống, môi trường tự nhiên.
Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng
Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt
Tàn sát cả giống côn trùng, cây cỏ,
Như vậy, bằng hàng loạt các hình ảnh chân thực, rõ nét cùng việc sử dụng phép đối lập giữa tội ác của kẻ thù với nỗi đau thống khổ của nhân dân và giọng văn đanh thép, hùng hồn, tác giả Nguyễn Trãi đã viết nên một bản cáo trạng về những tội ác man rợ của kẻ giặc và bản cáo trạng ấy khép lại bằng một hình ảnh so sánh giàu sức khái quát và đầy ám ảnh về tội ác của chúng.
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Tiếp đó, trong đoạn ba của bài cáo, tác giả Nguyễn Trãi đã tái hiện lại quá trình chiến đấu và giành chiến thắng của quân và dân ta trong cuộc chiến đấu chống quân Minh xâm lược. Và trước hơn hết đó chính là hình ảnh của chủ tướng Lê Lợi.
Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Với đại từ “ta” tự xưng gần gũi cùng cách sử dụng từ “nơi”, “chốn” đã cho thấy nguồn gốc xuất thân của chủ tướng Lê Lợi. Người anh hùng ấy cũng xuất thân từ nhân dân, cũng bước ra từ lòng nhân dân và thấu hiểu bao nỗi nhọc nhằn của nhân dân.
Người anh hùng ấy mang trọn trong mình lòng căm thù giặc sâu sắc – “ngẫm thù lớn hạ độ trời chung”, “căm thù giặc thề không cùng chung sống’ cùng bao nỗi niềm nghĩ suy, trăn trở đến nỗi “đau lòng nhức óc”, “quên ăn vì giận” và cả “những trằn trọc trong đêm mộng mị” để đứng lên dấy binh khởi nghĩa.
Dẫu cuộc khởi nghĩa ấy diễn ra giữa lúc “quân thù đương mạnh” và gặp phải muôn vàn khó khăn nhưng điều đó không thể ngăn được bước chân và ý chí của Lê Lợi, ông vẫn không nguôi nỗi lòng thương dân và niềm khát khao đánh thắng kẻ thù xâm lược và để rồi, dẫu trong hoàn cảnh khó khăn ấy, ông vẫn tìm ra con đường để tranh đấu, để đưa cuộc chiến của ta đi đến thắng lợi.
Trọn hay:
Đen đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo
Chính nhờ chân lí, con đường ấy mà cuộc khởi nghĩa của ta đã từng ngày, từng ngày vượt qua khó khăn và đi đến thắng lợi. Tuy nhiên, khi tái hiện quá trình chiến đấu và chiến thắng của quân ta, Nguyễn Trãi không chỉ tái hiện hình ảnh của anh hùng Lê Lợi mà ông còn tái hiện rõ nét từng chặng đường trong cuộc kháng chiến ấy.
Trong buổi đầu của cuộc kháng chiến, nghĩa quân của ta gặp phải rất nhiều khó khăn, thiếu thốn về nhân lực – “việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần”, thiếu thốn lương thực,… nhưng với lòng quyết tâm và ý chí, cả nghĩa quân vẫn sát cánh bên nhau và cùng cố gắng. Để rồi, trong giai đoạn sau của cuộc chiến, quân ta đã giành nhiều thắng lợi vẻ vang. Mở đầu là các chiến thắng ở trận Bồ Đằng, trận Trà Lân rồi tiếp đó là chiến thắng Tây Kinh, Đông Đô, Ninh Kiều,… và tiếp đó là hàng loạt các chiến công liên tiếp:
Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã An, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hai lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lí Khanh cùng kế tự vẫn.
Có thể nói, bằng tất cả lòng quyết tâm, ý chí và lòng căm thù giặc sâu sắc, quân ta đã đánh thắng kẻ thù xâm lược, khiến chúng thất bại thảm hại và khiếp sợ. Đồng thời, trong trận chiến ấy, quân ta vẫn thể hiện rõ tư tưởng chính nghĩa đã đặt ra, bởi vậy nên khi quân giặc thua trận, nghĩa quân của ta vẫn cho chúng đường lui, không những tha chết cho bọn chúng mà còn cấp ngựa, cấp lương thực và cấp thuyền cho chúng trở về nước. Và có lẽ bởi vậy, chiến thắng của ta chính là sự chiến thắng của nhân nghĩa, của lòng nhân ái và tinh thần thượng võ.
Tóm lại, với sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố trữ tình và yếu tố chính luận cùng việc sử dụng nhiều hình ảnh độc đáo và giọng văn biến đổi linh hoạt, “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi xứng đáng là “áng thiên cổ hùng văn” trong nền văn học Việt Nam.
Đọc nhiều hơn với 🔥 Phân Tích Đoạn 2 Bình Ngô Đại Cáo 🔥 12 Bài Văn Hay Nhất
Phân Tích Đoạn 1 2 3 Bình Ngô Đại Cáo – Mẫu 11
Tham khảo bài văn mẫu phân tích đoạn 1 2 3 Bình Ngô đại cáo dưới đây sẽ mang đến cho các em học sinh những ý tưởng hay khi làm bài.
Nguyễn Trãi là một nhà văn lỗi lạc của văn học Việt Nam, ông đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị, một trong những tác phẩm đặc sắc của ông phải kể đến “Bình Ngô đại cáo” ra đời vào mùa xuân năm 1482 – một áng thiên hùng cổ hùng văn của dân tộc.
Sau khi kết thúc cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược, Nguyễn Trãi đã thay vua soạn “Bình Ngô đại cáo” để tổng kết cuộc kháng chiến chống quân Minh, tuyên bố nền độc lập của dân tộc. Nhan đề tác phẩm có ý nghĩa thông cáo đến toàn dân về việc dẹp yên, quét sạch giặc Ngô trên đất Việt.
Để mở đầu cho bài cáo của mình, Nguyễn Trãi đã khẳng định tư tưởng nhân nghĩa. Theo tác giả, tư tưởng nhân nghĩa ở đây là lấy nhân dân làm gốc, việc nhân nghĩa chính là việc làm thế nào để dân được yên, được hưởng thái bình.
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Muốn “yên dân” thì điều tiên quyết là phải “trừ bạo”, diệt những kẻ hung tàn gây đến khổ sở, đớn đau cho muôn dân. Việc đề cao tư tưởng nhân nghĩa không chỉ thể hiện chiến lược, tầm nhìn đúng đắn, sâu sắc của Nguyễn Trãi mà còn đặt ra trách nhiệm trừ bạo, yên dân của quân điếu phạt.
Sau khi nêu lên luận đề chính nghĩa không ai có thể phủ định được, tác giả tiếp tục khẳng định về quốc gia và chủ quyền của nhân dân Đại Việt:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có”.
Tác giả khẳng định chủ quyền dân tộc mình theo một lý lẽ riêng, lý lẽ ấy thật không thể chối cãi được bởi nó được minh chứng bằng nền văn hiến lâu đời, bằng lãnh thổ quốc gia, bằng phong tục, tập quán phong phú lâu đời và lịch sử kéo dài bao triều đại,…Nguyễn Trãi cũng đã khéo léo đặt các triều đại của nước ta ngang hàng với các triều đại của Trung Quốc như Hán, Đường, Tống, Nguyên. Song hành với đó, các từ “từ trước”, “đã lâu”, “vốn xưng”, “đã chia” góp phần củng cố thêm sự tồn tại độc lập, lâu dài của Đại Việt trong lịch sử.
Trong khi vua phương Bắc trước nay chỉ gọi vua ta là “Vương” thì Nguyễn Trãi khẳng khái, hùng hồn gọi là “Đế”. Chỉ một chữ thôi cũng đủ để thể hiện lòng kiêu hãnh của một nước tuy nhỏ về lãnh thổ nhưng không bao giờ là kẻ thua cuộc về lòng tự tôn, tự hào dân tộc. Không chỉ vậy, đất Việt còn là nơi sinh ra bao nhân tài, hào kiệt làm nên những chiến công lịch sử vẻ vang:
“Tuy mạnh, yếu nhiều lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có”.
Để minh chứng cho sức mạnh dân tộc, tác giả tiếp tục dẫn chứng những thất bại của phe phi nghĩa khi xâm chiếm nước ta:
” Thế nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại
…
Việc xưa xem xét, chứng cớ còn ghi”.
Đó cũng là lời cảnh cáo về kết cục thảm hại của kẻ ác chống lại chân lí: Lưu Cung thất bại, Triệu Tiết tiêu vong, Toa Đô bị bắt sống. Nỗi ô nhục của quân giặc năm xưa vẫn còn đó, vậy mà chúng vẫn ngang tàng đến xâm phạm nước ta lần nữa:
” Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây loạn…”
Sự tàn nhẫn, ác độc của chúng đã gây nên bao đau khổ, lầm than cho nhân dân mình. Những lời thơ vừa xót xa, vừa căm phẫn vang lên:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế
Gây thù kết oán trải mấy mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời
…
Chân tay nào phục dịch cho vừa”
Quân giặc tàn độc, áp bức nhân dân ta khắp chốn, thì hành những thứ thuế hà khắc, bóc lột dân ta đến cùng cực. Đến cả thiên nhiên, ngọn cỏ, lá cây, côn trùng, …cũng bị chúng hủy hoại, tàn phá. Chúng còn buộc nhân dân Đại Việt phải phục dịch chúng, còn tội ác nào bất nhân hơn thế nữa?
Bao nhiêu cay đắng, nhọc nhằn muôn dân phải chịu đựng, nếm trải, người goá bụa, con không cha, mẹ già mất con,….những con quỷ khát máu người ấy khiến đời sống nhân dân nào được một ngày ăn ổn, nào được một ngày ấm no. Bọn giặc ngạo mạn kia chính là những kẻ tội đồ “trời không dung, đất không tha”:
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!”.
Sau khi vạch trần tội ác của quân thù và nỗi khổ đau của nhân dân, Nguyễn Trãi thấy lời Lê Lợi nói lên nỗi băn khoăn, trăn trở của một vị vua hết lòng vì dân:
“Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
…
Chính lúc quân thù đang mạnh.”
Cuộc chiến với quân thù buổi đầu còn bao khó khăn, người tài thì hiếm, lực lượng ta còn yếu, quân lương hạn chế. Trong khi đó, kẻ địch thì đương lúc mạnh, khó khăn lại càng khó khăn. Song, sức mạnh đoàn kết, tinh thần chiến đấu của nghĩa sĩ, binh lính cùng chiến lược khôn khéo, biết người, biết ta của lĩnh tướng và sự đồng lòng của nhân dân đã giúp nghĩa quân vượt lên tất cả. Cuộc chiến chính nghĩa ngày càng quyết liệt, hăng say:
“Sĩ khí đã hăng quân thanh càng mạnh.
Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.
….
Để cười cho tất cả thế gian.”
Trước sức mạnh của quân dân ta, quân giặc hoang mang, rệu rã, quân tướng nhà Minh đớn hèn mà tìm cách thoát thân. Cuối cùng, quân phi nghĩa thành kẻ thua cuộc, cường quyền của phi nghĩa không thắng được sức mạnh to lớn của chính nghĩa.
Ở đoạn này, nghệ thuật miêu tả giàu chất anh hùng ca, sử dụng những hình tượng đo bằng sự hùng vĩ, rộng lớn của thiên nhiên. Dùng nhiều động từ liên tiếp, tính từ ở mức độ tối đa để tạo thế tương phản của ta và địch, câu văn dài ngắn linh hoạt khiến cho nhịp điệu bài cáo nhanh chậm rõ ràng, tựa như tiếng ngựa phi, tiếng bước chân chạy hào hùng. Đọc mà tưởng như nhìn thấu cả cuộc chiến phong vân đổi dời.
Với 3 đoạn mở đầu Bình Ngô đại cáo, tác giả Nguyễn Trãi không chỉ tổng kết cuộc kháng chiến chống Minh nhiều gian khổ nhưng cũng không kém phần hiển hách, vinh quang của quân dân ta mà còn khẳng định được nền độc lập, chủ quyền dân tộc trong niềm tự hào. Bình Ngô đại cáo là áng thiên cổ hùng văn vô tiền khoáng hậu của nền văn học Việt Nam, là bức tượng đài chiến thắng hào hùng, hoành tráng giữa bầu trời đất Việt.
Gửi đến bạn 🍃 Phân Tích Bình Ngô Đại Cáo Đoạn 4 🍃 12 Bài Văn Hay Nhất
Phân Tích Đoạn 3 4 Bình Ngô Đại Cáo – Mẫu 12
Chia sẻ dưới đây bài văn mẫu phân tích đoạn 3 4 Bình Ngô đại cáo để các em học sinh tham khảo và linh hoạt vận dụng cho bài viết của mình.
Nguyễn Trãi là một vị anh hùng lớn của dân tộc, là một nhà văn hoá lớn của thời đại. Ông sinh ra ở Hải Dương trong một gia đình nghèo. Hai bên nội,ngoại thân sinh Nguyễn Trãi đều có truyền thống yêu nước và về văn hoá, văn học. Cuộc đời ông chịu nhiều mất mát và đau thương khi sớm mồ côi mẹ từ nhỏ. Khi đất nước lâm nguy, vâng lời cha dặn, ông tham gia khởi nghĩa Lam Sơn, góp phần rất lớn trong chiến thắng vẻ vang của dân tộc.
Bình Ngô đại cáo là một tác phẩm thành công, một áng văn bất hủ của dân tộc Việt Nam. Tác phẩm được viết vào năm 1928 khi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn giành chiến thắng,Nguyễn Trãi đã thừa lệnh của vua Lê Lợi viết Đại cáo bình Ngô. Đây là tác phẩm được xem là bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc về chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, bản án đanh thép về tội ác của quân xâm lược, là bản hùng ca chiến trận của khởi nghĩa Lam Sơn và khẳng định vẻ đẹp của sự nghiệp chính nghĩa, thành quả của dân tộc.
Trong 2 đoạn cuối tác phẩm, Nguyễn Trãi đã tái hiện bản hùng ca về cuộc khỏi nghĩa Lam Sơn và khẳng định nền độc lập của đất nước. Trước kẻ thù hiểm ác rung đất trời, việc trừ bạo không phải ngày một ngày hai. Nhưng khí thế của nghĩa quân Lam Sơn, hình ảnh của anh hùng hào kiệt Lê Lợi là niềm tin, là ý chí thắng lợi:
Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa,
Chốn hoang dã nương mình.
Danh xưng “ta” cho thấy tinh thần anh hùng, trượng nghĩa cùng lòng căm thù giặc sâu sắc và há đội trời chung với giặc. Trải qua bao ngày tháng khó khăn, nếm mật nằm gai, Lê Lợi đã trở thành linh hồn của cuộc khởi nghĩa. Mặc dù lúc bắt đầu bị yếu thế so với địch, nhưng với “Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về đông/ Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chăm còn dành về phía tả.”, Lê Lợi và nghĩa quân của mình đã giành thắng lợi.
Khi ta đứng lên đấu tranh vì chính nghĩa, vì sứ mệnh của đạo trời, thì dù gian nao bao nhiêu, con đường chiến thắng cuối cùng sẽ hiện ra trước mắt. Chỉ cần có tinh thần đoàn kết của nhân dân bốn cõi, các tướng sĩ một lòng và có kế sách khôn ngoan lấy yếu chống mạnh và quan trọng, vì đại nghĩa mà làm, thắng lợi sẽ đến.
Trọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo.
Qua một đoạn văn ngắn, Nguyễn Trãi đã tái hiện cuộc chiến đấu chống giặc minh chân thực và dưới nhiều góc độ. Đó là những trận đánh liên tiếp, dường như diễn ra khắp mọi nơi:
Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế,
Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu,
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong,
Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.
Nào là trận Chi Lăng, Mã Yên, rồi liên tiếp hai năm rồi hai tám, những tên cầm đầu của quân giặc không tử vong thì tự vẫn. Đến “Thằng nhãi con Tuyên Đức”, nghĩa là vua Minh lúc bấy giờ, phải kêu binh cứu viện. Nhưng không để cho giặc có cơ hội củng cố lực lượng, nghĩa quân Lam Sơn thực hiện liên tiếp các trận đánh để áp chế và đẩy lùi quân giặc:
Đánh một trận sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông
Rồi quân ta thừa thắng xông lên, khi quân tướng hừng hực khí thế thì ta luôn ở thế chủ động tiến công, thắng không ngừng thắng:
Sĩ khí đã hăng
Quân thanh càng mạnh
Sĩ tốt kén người hùng hổ
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn,
Voi uống nước, nước sông phải cạn
Và lòng yêu nước, tinh thần chính nghĩa, hào khí Đại Việt đã tạo nên một sức mạnh phi thường, đã tạo nên kỳ tích, dù yếu mà thắng mạnh, nhỏ mà thắng lớn.
Ghê gớm thay sắc phong vân phải đổi,
Thảm đạm thay ánh nhật nguyệt phải mờ.
Đoạn văn thuật lại các trận đánh của nghĩa quân Lam Sơn từng câu từng chữ đều hừng hực khí thế. Đó không chỉ là ngợi cả thắng lợi của quân ta mà còn nhấn mạnh sự thất bại thảm hại của kẻ thù, kẻ bạo ngược, thâm độc.
Nhưng quá trình lược thuật về cuộc khởi nghĩa, không dừng lại ở việc ca ngợi chiến thắng của ta, mà còn khắc họa một cách sống động, chân thực về sự thất bại của kẻ thù. Quân ta tiến đến đâu, giặc thất thế đến đó. Đọc lại không khỏi ghê rợn khi hình dung “Lạng Giang, Lạng Sơn thây chất đầy đường/ Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước”. Nhưng với những kẻ bạo tàn, độc ác, đó là kết cục tất yếu của chúng, ta chỉ nhận lệnh trừ hung ác, làm đại nghĩa.
Có điều, Nguyễn Trãi cũng như Lên Lợi đều luôn hiểu rõ con đường nhân nghĩa mà mình theo đuổi. Vì vậy khi giặc thất thế, ta biết điểm dừng, khi giặc đến đường cùng ta đã mở cho chúng một con đường sống. Ta cấp thuyền, cấp ngựa để chúng trở về lưu bang. Từ đó ta thấy rõ tinh thần nhân đạo, thường võ của Nguyễn Trãi cũng như Lê Lợi và đội quân Lam Sơn.
Sau bao nhiêu gian lao, đau đớn, cuối cùng chúng ta cũng chiến thắng giặc thù, cũng giành lại được nền độc lập, dân được hưởng thái bình, được sống ấm no:
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc
Cho đến nay, “Bình Ngô đại cáo” vẫn vẹn nguyên giá trị, sức sống như lần đầu tiên được tuyên cáo trước thiên hạ. Nó có sức sống lâu bền bởi nó là một văn kiện lịch sử khẳng định nền độc lập dân tộc và mang tư tưởng nhân đạo, chính nghĩa vĩ đại.
Trên phương diện văn chương, Nguyễn Trãi đã để lại một áng văn mẫu mực về lòng yêu nước và tinh thần chiến đấu của quân và dân ta tước giặc thù hung bạo. Mỗi một thế hệ hậu thế đều tự hào khi được lật lại và cảm nhận khí thế hào hùng của một thời đại lịch sử oanh liệt của dân tộc. Ẩn bên trong áng văn của Nguyễn Trãi, không chỉ là niềm tự hào, lòng kiêu hãnh của riêng tác giả mà còn của toàn dân về ý chí người Việt, về đạo nhân nghĩa vì nước, vì chính nghĩa mà trừ bạo tàn.
Có thể bạn sẽ thích 🌹 Phân Tích Luận Đề Chính Nghĩa Bình Ngô Đại Cáo 🌹 6 Mẫu Hay Và Đặc Sắc Nhất