Phân Tích Luận Đề Chính Nghĩa Bình Ngô Đại Cáo ❤️️ 22+ Mẫu Hay Nhất ✅ Tham Khảo Tuyển Tập Bài Văn Mẫu Hay Và Đặc Sắc Nhất Phân Tích Tác Phẩm Chuyên Sâu.
Dàn Ý Phân Tích Luận Đề Chính Nghĩa Bình Ngô Đại Cáo
Việc lập dàn ý phân tích luận đề chính nghĩa Bình Ngô đại cáo sẽ giúp các em học sinh nắm được những luận điểm trọng tâm khi triển khai bài viết. Tham khảo mẫu phân tích luận đề chính nghĩa Bình Ngô đại cáo dàn ý chi tiết như sau:
I. Mở bài phân tích luận đề chính nghĩa Bình Ngô đại cáo:
- Giới thiệu về tác gia Nguyễn Trãi và tác phẩm Đại cáo bình Ngô.
- Dẫn dắt giới thiệu vấn đề cần phân tích – luận đề chính nghĩa trong Bình Ngô đại cáo.
II. Thân bài phân tích luận đề chính nghĩa Bình Ngô đại cáo:
*Tư tưởng nhân nghĩa:
-“Nhân nghĩa” là phạm trù tư tưởng của Nho giáo chỉ mối quan hệ giữa người với người dựa trên cơ sở tình thương và đạo lí.
-“Nhân nghĩa” trong quan niệm của Nguyễn Trãi:
- Kế thừa tư tưởng Nho giáo: “yên dân” – làm cho cuộc sống nhân dân yên ổn, hạnh phúc
- Cụ thể hóa với nội dung mới đó là trừ bạo – vì nhân dân diệt trừ bạo tàn, giặc xâm lược.
- Với nét nghĩa tiến bộ, mới mẻ Nguyễn Trãi đã bóc trần luận điệu xảo trá của giặc Minh đồng thời phân biệt rõ ràng ta chính nghĩa, địch phi nghĩa.
- Tạo cơ sở vững chắc cho cuộc khởi nghĩa Lam Sơn – là cuộc khởi nghĩa nhân nghĩa, vì cuộc sống của nhân dân mà diệt trừ bạo tàn.
*Chân lý về độc lập dân tộc:
-Nguyễn Trãi đã xác định tư cách độc lập của nước Đại Việt bằng một loạt các dẫn chứng thuyết phục:
- Nền văn hiến lâu đời
- Cương vực lãnh thổ riêng biệt
- Phong tục Bắc Nam phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc
- Lịch sử lâu đời trải qua các triều đại Triệu, Đinh, Lí, Trần, hào kiệt đời nào cũng có.
-Bằng cách liệt kê tác giả đưa ra các chứng cứ hùng hồn, thuyết phục khẳng định dân tộc Đại Việt là quốc gia độc lập, đó là chân lý không thể chối cãi. Các từ ngữ “từ trước, đã lâu, vốn xưng, đã chia” đã khẳng định sự tồn tại hiển nhiên của Đại Việt.
-Thái độ của tác giả:
- So sánh các triều đại của Đại Việt ngang hàng với các triều đại của Trung Hoa.
- Gọi các vị vua Đại Việt là “đế”: Trước nay hoàng đế phương Bắc chỉ xem vua nước Việt là Vương.
- Thể hiện ý thức về chủ quyền độc lập cao độ của tác giả.
*Lời răn đe quân xâm lược:
-Nguyễn Trãi đã sử dụng phép liệt kê, dẫn ra những kết cục của kẻ chống lại chân lí:
- Lưu Cung – vua Nam Hán thất bại với chủ ý thu phục Đại Việt.
- Triệu Tiết – tướng nhà Tống thua nặng khi cầm quân đô hộ nước ta.
- Toa Đô, Ô Mã,… là các tướng nhà Nguyên cũng phải bỏ mạng khi cầm quân xâm lược.
-Lời cảnh cáo, răn đe đanh thép những kẻ bất nhân bất nghĩa dám xâm phạm lãnh thổ, chủ quyền dân tộc ta đều phải trá giá đắt, đồng thời cũng thể hiện niềm tự hào bởi những chiến công của nhân dân Đại Việt.
*Đặc sắc nghệ thuật:
- Ngôn ngữ đanh thép
- Giọng điệu hào hùng, mạnh mẽ
- Sử dụng các biện pháp so sánh, liệt kê,…
- Sử dụng những câu văn song hành,…
III. Kết bài phân tích luận đề chính nghĩa Bình Ngô đại cáo:
- Khái quát nội dung và nghệ thuật của tác phẩm
- Nêu cảm nhận của bản thân về luận đề chính nghĩa trong Bình Ngô đại cáo
Mời bạn tham khảo ☀️ Sơ Đồ Tư Duy Bình Ngô Đại Cáo ☀️ 12 Mẫu Hay
Phân Tích Luận Đề Chính Nghĩa Bình Ngô Đại Cáo Hay Nhất – Mẫu 1
Đón đọc bài văn mẫu phân tích luận đề chính nghĩa Bình Ngô đại cáo hay nhất dưới đây để trau dồi cho mình những ý văn đặc sắc.
Sau khi cuộc khởi nghĩa chống quân xâm lược nhà Minh thắng lợi vào cuối năm 1427, Lê Lợi đã sai Nguyễn Trãi soạn Đại cáo bình Ngô nhằm tổng kết lại một chặng đường lịch sử, ôn lại những tháng năm gian khổ, những chiến công hiển hách và ban bố cho toàn dân được biết. Tác phẩm được viết bằng thể cáo vốn có nguồn gốc ở Trung Quốc từ thời cổ.
Đây là một thể loại văn chương chính luận, một văn kiện chính trị có ý nghĩa lịch sử to lớn đã được chép lại trong sách Đại Việt sử ký toàn thư (1479). Cũng như nhiều tác phẩm khác dưới thời trung đại, nhan đề bài cáo không phải Lê Lợi hay Nguyễn Trãi đặt mà do người đời sau thêm vào.
Trên thực tế, ngay trong sách Đại Việt sử ký toàn thư đã ghi rõ: Vào cuối tháng 12 năm Đinh Mùi “Vua đã bình được giặc Ngô, đại cáo thiên hạ, lời cáo viết…”. Như vậy tinh thần “Bình Ngô đại cáo” cũng đã được nhận thức từ rất sớm và đi vào tâm trí của nhiều thế hệ người đọc. Nhưng vì sao người xưa không nói “bình giặc Minh” mà lại nói “bình Ngô” ? Bản thân chữ “Ngô” không phải là cách gọi giặc phương Bắc hay mượn lối nói nôm na “Giặc bên Ngô không bằng bà cô bên chồng” mà nhằm một ý khác sâu xa hơn.
Nguyên do bởi người lập ra triều Minh vốn tên Chu Nguyên Chương, suốt sáu năm trời trước khi lên ngôi Minh Thái Tổ đã từng xưng hiệu Ngô Vương. Bởi thế cách dùng từ “Ngô” ở đây chính là nhằm gọi đích danh vương hiệu thuỷ tổ nhà Minh và thể hiện thái độ khinh khi kẻ xâm lược. Ngay cả với ông tổ nhà Minh còn bị gọi tên như thế thì có sá gì không miệt thị vua Tuyên Tông đang tại vị: “Thằng nhãi con Tuyên Đức, động binh không ngừng – Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy”,…
Tiếp cận Đại cáo bình Ngô, người đọc hiện đại ngày nay cần chú ý rằng đây là tác phẩm văn chương chính luận điển hình dưới thời trung đại. về hình thức, tác phẩm được viết bằng lối văn biền ngẫu chữ Hán, gồm 74 liên (148 vế câu), phát huy sức mạnh thể văn tứ lục biến cách, giá trị biểu cảm, biểu âm, biểu nghĩa trong từng câu, từng khổ thơ và tạo nên khúc ca hùng tráng.
Điều quan trọng hơn, tác phẩm có ý nghĩa kết tinh truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm và đặc điểm tư duy, quan niệm, nhận thức của con người trong thời trung đại về cơ sở lịch sử, văn hoá, xã hội, đất nước, dân tộc.
Rõ ràng bài cáo được viết theo lệnh nhà vua và dưới danh nghĩa lời tuyên cáo của vua với chúng dân, thế tất nội dung phải thể hiện được tiếng nói của nhà vua trong vai trò người cầm quyền. Toàn bộ nội dung tác phẩm Đại cáo bình Ngô thể hiện luận đề chính nghĩa phù hợp với thiên mệnh, đạo trời; hành động của nhà vua phù hợp với ý nguyện trăm họ, chuyển hoá thành sức mạnh đánh tan quân xâm lược.
Cần chú ý rằng ngay từ câu mở đầu bài cáo đã nhấn mạnh vai trò người cầm quyền, người có trách nhiệm, đấng bề trên coi sóc và chăm nuôi muôn dân: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”. Quan niệm “nhân nghĩa” phải hướng tới “yên dân” (làm cho dân yên) cho thấy chủ thể của “nhân nghĩa” không thể là số đông chung chung mà chỉ có thể là công việc lớn lao của bậc thức giả, vua chúa. Có thể khẳng định đây là một quan niệm tiến bộ nhưng trước sau vẫn không thể vượt qua được những quy định và giới hạn tất yếu của lịch sử.
Khi tiếp cận Đại cáo bình Ngô nói riêng cũng như mọi tác phẩm văn học thời trung đại cần đặt tác phẩm vào chính môi trường lịch sử, văn hóa đương thời mới hiểu đúng nội dung cũng như đánh giá đầy đủ những giá trị và bước tiến vượt bậc về tư tưởng so với quá khứ. Ngoài ra cũng cần đặc biệt chú ý tới đặc trưng “văn – sử – triết bất phân” thể hiện rất rõ trong bli cáo.
Những đặc điểm về văn học thể hiện nổi trội so với tư duy lịch sử (ghi chép các sự kiện, nhân vật, địa danh theo hình thức biên niên sử, theo tuyến tính thời gian,…) và triết học (quan niệm về nhân nghĩa, mệnh trời, thời vận, thời thế, mối quan hệ Thiên – Địa – Nhân,…). Với Đại cáo bình Ngô, từ điểm nhìn dưới ánh sáng của loại hình học văn hoá trung đại vừa mang tính chuyên sâu vừa hướng tới liên ngành, tổng quát, khái quát sẽ giúp người đọc khám phá đúng đắn những giá trị nội dung và nghệ thuật đặc sắc, đa diện và phong phú của tác phẩm.
Trong phần mở đầu, bài cáo khẳng định nền độc lập dân tộc, quyền tự chủ và truyền thống lâu đời bởi những khác biệt về văn hoá, về cương vực lãnh thổ, về phong tục tập quán và sự tự ý thức về sức mạnh dân tộc.
Nguyễn Trãi đã khái quát phẩm chất người cầm quyền phải biết lấy yên dân làm cốt lõi của nhân nghĩa, trọng tâm của sự yêu thương con người và tôn trọng lẽ phải, mọi hành động phải hướng đến thương xót, cứu giúp trăm họ và kiên quyết chống kẻ tàn bạo. Đó là nguyên cớ của cuộc khởi nghĩa và cũng là truyền thống của cả một dân tộc:
Như nước Đại Việt ta từ trước,
………….
Song hào kiệt đời nào cũng có.
Giới nghiên cứu lâu nay đã khẳng định bài cáo có ý nghĩa như một bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của dân tộc, đứng sau bản thứ nhất là bài Nam quốc sơn hà tương truyền của Lý Thường Kiệt (?)
Trên những nét cơ bản, đoạn văn trên đã bao quát được những nội dung cốt yếu trong định nghĩa về dân tộc được coi là kinh điển của I.V.Xtalin: “Dân tộc là một khối cộng đồng gồm nhiều người, khối ổn định, hình thành trong quá trình lịch sử, sinh ra trên cơ sở một ngôn ngữ chung, một lãnh thổ chung, một đời sống kinh tế chung, một cấu tạo tâm lý chung biểu hiện trong một nền văn hoá chung” (Tử điển triết học).
Nguyễn Trãi còn đặc biệt nhấn mạnh vai trò con người và sự tiếp nối của các thế hệ hào kiệt, bất chấp mọi hung vọng, thắng thua, mạnh yếu. Điều đó làm nên truyền thống yêu nước và dòng chủ lưu của nền văn học yêu nước mà không một thế lực nào có thể ngăn cản nổi.
Từ việc ôn lại quá khứ xa đến nhắc lại quá khứ gần, Nguyễn Trãi kể rõ nguyên nhân mất nước và tội ác quân Minh trên tất cả các phương diện: tàn sát dân lành, áp bức chúng sinh, nặng thuế khoá, triệt hại môi trường sinh thái tự nhiên, phá hoại ngành nghề truyền thống, cướp bóc để thoả mãn cuộc sống? xa hoa hưởng lạc… Rồi ông đi đến khái quát:
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Lẽ nào trời đất dung tha,
Ai bảo thần nhân chịu được?
Trước tội ác giặc Minh khiến cả trời và đất, thần và người đều căm giận, Nguyễn Trãi hoá thân trong vai trò chủ tướng Lê Lợi kể về những ngày đầu nung nấu ý chí đánh giặc cứu nước:
Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa,
Chốn hoang dã nương mình.
Ngẫm thù lớn há đội trời chung,
Căm giặc nước thề không còn sống…
Giọng văn hoài cảm thiết tha, đầy những trăn trở lo toan và trở nên hài hoà hơn trong khí thế bốn phương đoàn kết một lòng, nghĩa tình tướng sĩ gắn bó keo sơn và mưu lược đánh giặc:
Phần thì giận hung đồ ngang dọc,
Phần thì lo vận nước khó khăn.
….
Nhân dân bốn cối một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới;
Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào.
Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,
Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều…
Ngay trong bản dịch, những cách dùng từ lặp lại: “Phần thì giận… Phần thì lo…”, “Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần – Khi Khôi Huyện quân không một đội”,… cho thấy mức độ căng thẳng trong suy nghĩ cũng như khả năng đối phó với mọi khó khăn, biến cố đang dồn dập xảy ra.
Cách nghĩ: “Trời thử lòng trao cho mệnh lớn – Ta gắng chí khắc phục gian nan” thể hiện sâu sắc quan niệm triết thuyết Nho giáo “Thiên nhân cảm ứng”, “Thiên nhân hợp nhất”, “Đại thiên hành hoá”, “Thế thiên hành hoá” (Trời và người liên thông, cảm ứng với nhau, trời và người hợp thành một thể thống nhất; bậc thức giả có thể thay trời hành đạo, giáo hóa chúng dân).
Rõ ràng đây là cách nghĩ nằm trong truyền thống tư tưởng Nho giáo nhằm suy tôn, linh thiêng hoá, huyền thoại hoá và vũ trụ hoá uy quyền nhà vua. Trước khi chuyển sang mô tả giai đoạn tấn công, thêm một lần Nguyễn Trãi khẳng định niềm tin vào chính nghĩa, lẽ phải của quân ta nhất định sẽ chiến thắng quân giặc mang bản chất phi nghĩa và tàn bạo.
Trọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo.
Đạo quân đem “đại nghĩa” (lẽ phải, nghĩa lớn, nghĩa cao cả) và “chí nhân”, hết lòng yêu thương, vị tha, trân trọng con người tất yếu sẽ chiến thắng. Từ đây những địa danh gắn với chiến thắng (Bồ Đằng, Trà Lân, Tây Kinh, Đông Đô, Ninh Kiều, Tốt Động) và danh tính những tên tướng giặc bại trận (Trần Trí, Sơn Thọ, Lý An, Phương Chính, Trần Hiệp, Lý Lượng) nối tiếp được nêu lên phản ánh bước tiến của đạo quân không gì ngăn cản nổi:
Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cũng lực kiệt;
Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt, tâm công.
Tưởng chúng biết lẽ ăn năn, nên đã thay lòng đổi dạ,
Ngờ đâu vẫn đương mưu tính, lại còn chuốc tội gây oan…
Trong đoạn văn trên, Nguyễn Trãi đã nói lên được tư tưởng quân sự vừa mang tính chiến lược vừa là sự thể hiện nghệ thuật dụng binh bậc thầy. Riêng chữ mưu phạt có nghĩa là “đánh bằng mưu trí”, tâm công nghĩa là “đánh vào lòng người”. Binh pháp xưa khẳng định: “Trong phép dụng binh thượng sách là phạt mưu…, thượng sách là công tâm”.
Vấn đề đặt ra là sách xưa chỉ có hai từ phụt mưu và công tâm mà không sử dụng lối diễn đạt mưu phạt và tâm công. Vậy phải chăng Nguyễn Trãi đã dùng phép đảo trang để câu thơ vẫn giữ được ý người xưa mà lời thơ vẫn nhuần nhuyễn, âm điệu vẫn hài hoà “Ngã mưu phạt nhị tâm công, bất chiến tự khuất”.
Thế nhưng rất có thể Nguyễn Trãi đã không trình bày nội dung tâm công theo nghĩa truyền thống (đánh vào lòng người) mà đã sáng tạo và nâng cấp lên một trình độ nhân văn theo cách hiểu tâm công là “đánh bằng tấm lòng”, “tấn công bằng tấm lòng”, lấy tấm lòng nhân nghĩa mà giải thích, dùng lí lẽ để thuyết phục, cảm hoá, mở đường sống cho đối phương.
Điều này càng trở nên có lý khi nối giữa hai từ này là liên từ chuyển nghĩa nhi (mà) biểu cảm sắc thái đối lập nhau và cả câu có thể được dịch xuôi: Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây đánh giặc bằng mưu trí nhưng lại tấn công bằng tấm lòng.
Tầm tư tưởng lớn thể hiện ở chỗ về lý thì đánh giặc bằng mưu trí nhưng về tình, xét trên phương diện nhân văn, thì dùng tấm lòng cảm hoá, mở mắt cho giặc hiểu rõ điều nhân nghĩa, đúng sai. Chính người đề cao nhân nghĩa, chủ động đứng trên tầm cao nhân nghĩa mới thấy hết hậu quả và lấy làm tiếc cho lối nghĩ cạn hẹp của giặc thù: “Tưởng chúng biết lễ ăn năn, nên đã thay lòng đổi dạ – Ngờ đâu vẫn đương mưu tính, lại còn chuốc tội gây oan”.
Đó không phải là sự ngây thơ, ảo tưởng mà là tấm lòng nhân nghĩa cao cả của bậc thức giả, từ tầm cao nhân văn vẫn mong mở đường sống cho kẻ thù, nhưng nếu chúng vẫn còn ngoan cố thì tiếng nói của lý trí sẽ nổi lên diệt trừ không thương tiếc.
Nếu như ở đoạn trên, những tên người và địa danh đứng biệt lập trong từng câu thơ thì với toàn bộ phần sau, nhiều câu thơ lại xuất hiện đồng thời cả thời gian ngày tháng, tên người và tên đất. Ngay cả đến tên hiệu vua nhà Minh cũng bị vạch mặt gọi tên, chỉ rõ hành vi phản phúc: “Thằng nhãi con Tuyên Đức, động binh không ngừng”.
Mặt khác, cách thức liệt kê thời gian theo trình tự biên niên sử tạo nên cảm giác về các sự kiện, biến cố thay đổi dồn dập. Chiến công nối tiếp chiến công với đủ các cách đánh công đồn diệt viện, chốt giữ nơi hiểm yếu, chặn đường cắt nguồn lương thực. Có được chiến thắng ấy là nhờ ở sự đoàn kết, sức mạnh của chính con người và ý chí đánh giặc:
Sĩ tốt kén người hùng hổ,
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh
Đánh một trận sạch không kình ngạc,
Đánh hai trận tan tác chim muông…
Trong trận chiến quyết liệt này, biết bao những uy danh như Bá tước, Thượng thư, Đô đốc gắn với từng tên tuổi tướng giặc đều phải chịu thất bại thảm hại. Những hình ảnh ẩn dụ: đá núi mòn, nước sông cạn, sạch không kình ngạc, tan tác chim muông, trút sạch lá khô, sụt toang đê vỡ,… thể hiện sức mạnh chính nghĩa ở tầm vóc quy mô vũ trụ của nghĩa quân.
Trong khi thất bại của kẻ thù được đo đếm bằng các từ ngữ cụ thể, biểu cảm bằng những hình ảnh, động tác, hành vi xác thực, đời thường và tầm thường: lê gối dùng tờ tạ tội, trói tay để tự xin hùng, thây chất đầy đường, máu trôi đỏ nước, nghỉ ngờ khiếp vía mà vỡ mật, xéo lên nhau chạy để thoát thân, tan tành, khốn đốn, quay gót chẳng kịp, cởi giúp ra hàng, hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng,…
Những địa danh đất nước thì gắn liền với chiến thắng của quân ta và thất bại của giặc thù, đưa đến lời cảm thương mang tầm vóc đất trời, vũ trụ:
Lụng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường;
Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước.
Ghê gớm thay sắc phong vân phải đổi,
Thảm đạm thay ánh nhật nguyệt phải mờ…
Trong toàn bộ phần trên đây, những câu ngắn dài đan xen nhau, biến hoá linh hoạt tạo nên âm điệu như hồi trống trận, khi thúc giục khi ngân vang, khi đanh thép, khi bi ai thương cảm. Dễ thấy những câu văn thể hiện sức mạnh và không khí chiến thắng của nghĩa quân Lam Sơn thường ngắn gọn, âm hưởng mạnh mẽ, dứt khoát; những câu mô tả thất bại của kẻ thù thường kéo dài, mang tính liệt kê, trình bày, dẫn giải. Đáng lưu ý là các thủ pháp nghệ thuật so sánh, tương phản, liên tưởng, cực tả giúp cho các câu văn trở nên sinh động, giàu hình ảnh, dễ đi vào lòng người.
Sau khi đánh tan quân giặc, thêm một lần nữa Nguyễn Trãi nhấn mạnh tinh thần nhân nghĩa, lấy tấm lộng mà đối xử với kẻ thù ngay cả khi chúng ở vào thế cùng lực kiệt: “Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh”. Với tầm suy nghĩ xa rộng của bậc thức giả, ông xác định rõ mục đích hoà hiếu: “Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức” (Dư dĩ toàn quân vi thượng nhi giữ dán đắc tức).
Quan điểm lấy dân làm gốc, ý thức “khoan dân”, nới sức dân đã được Nguyễn Trãi hết sức coi trọng. Điều này thể hiện tầm trí tuệ uyên bác nhưng đồng thời cũng là bài học lịch sử mà chính ông đã chứng kiến, nghiệm sinh trong thời nhà Hồ, thấy rõ cọc gỗ, lưới giăng cửa biển cũng vô ích và sức mạnh nhân dân mới là vô địch: “Lật thuyền mới rõ dân như nước” (Đóng cửa biển).
Đến phần kết, bài cáo trở lại nội dung quan phương và tuân theo những quy phạm về mặt thể loại. Câu thơ trở nên hoành tráng, chuẩn mực, giọng điệu khoa trương để nhấn mạnh thời thế lịch sử đã chuyển sang một trang mới và khẳng định sự trường tồn của dân tộc: “Xã tắc từ đây vững bền – Giang sơn từ đây đổi mới… Muôn thuở nền thái bình vững chắc – Ngàn thu vết nhục sạch làu”.
Ngay ở lời kết này, tư duy hướng về lực lượng siêu nhiên Trời – Đất – Tổ tông tiếp tục được nhấn mạnh: “Âu cũng nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng ngầm giúp đỡ mới được như vậy”.
Trên cả hai chiều thời gian và không gian, chiến thắng lần này sẽ còn vang vọng tới mai sau và đem lại cuộc sống an bình cho mọi miền non sông đất nước: “Một cỗ nhung y chiến thắng, nên công oanh liệt ngàn năm – Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn”,… Tác phẩm Đại cáo bình Ngô được coi là “bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của dân tộc”, “thiên cổ hùng văn”, “bản hùng ca lẫm liệt”, “một văn kiện chính trị có V nghĩa lịch sử lớn” và thuộc “một thể loại văn bản hành chính của nhà nước quân chủ”,. .
Do tính quy phạm của một tác phẩm thuộc thể cáo cho nên các phương diện thuộc về hình thức nghệ thuật thường ít có điều kiện được triển khai tìm hiểu. Hơn nữa, bản thân cách phiên dịch, cách hiểu, cách giải thích chiều sâu từng câu chữ văn bản cho đến nay vẫn chưa phải đã đến thấu đáo, toàn diện, chính xác. Tuy nhiên, chính nhờ giá trị tự thân mà Đại cáo bình Ngô cứ mãi toả hào quang, mãi cuốn hút mọi thế hệ người Việt Nam yêu nước và yêu văn chương.
Có thể nói rằng, với một tác phẩm không dài, lại được viết bằng lối văn biền ngẫu song Đại cáo bình Ngô đã có được sức vang hưởng vô cùng rộng lớn, tiêu biểu cho sức mạnh tinh thần, bản lĩnh văn hoá và nền văn hiến dân tộc. Vì lẽ đó mà tác phẩm được các thế hệ đón nhận, ngợi ca, luận bình và được giảng dạy rộng rãi trong nhà trường.
Đón đọc tuyển tập 💕 Phân Tích Bình Ngô Đại Cáo 💕 18 Bài Văn Ngắn Gọn Hay Nhất
Phân Tích Luận Đề Chính Nghĩa Bình Ngô Đại Cáo Ngắn Gọn – Mẫu 2
Dưới đây chia sẻ bài văn mẫu phân tích luận đề chính nghĩa Bình Ngô đại cáo ngắn gọn với những ý văn súc tích và luận điểm cơ bản nhất.
Nguyễn Trãi – một nhân vật lịch sử vĩ đại, nhà văn, nhà thơ kiệt xuất, danh nhân văn hóa dân tộc và có đóng góp quan trọng cho sự phát triển của văn hóa văn học dân tộc. Tác phẩm “Đại cáo Bình Ngô” được ông thừa lệnh vua Lê Lợi viết để tuyên cáo về chiến thắng giặc Ngô năm 1428, mang ý nghĩa như một bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc, một áng “thiên cổ hùng văn” của dân tộc. Nội dung bài cáo không chỉ tố cáo tội ác của kẻ thù xâm lược, ca ngợi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn mà còn luận đề chính nghĩa sâu sắc.
Có thể nói, luận đề chính nghĩa trong “Bình Ngô đại cáo” là tư tưởng chủ đạo, xuyên suốt toàn bộ bài cáo, đây là một tư tưởng nhân văn cao đẹp và đề cao giá trị nhân đạo của dân tộc Việt Nam ta. Theo quan niệm Nho giáo, nhân nghĩa chính là tình nghĩa con người, là mối quan hệ giữa con người với nhau dựa trên tinh thần yêu thương, đùm bọc và bảo vệ lẫn nhau. Với Nguyễn Trãi, luận đề chính nghĩa được quan niệm theo cách cụ thể và cơ bản nhất, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử dân tộc lúc bấy giờ:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Nhân nghĩa đối với Nguyễn Trãi cốt nhất hai việc là “trừ bạo” và “yên dân”, nghĩa là diệt trừ các thế lực tàn bạo đày đọa nhân dân, làm cho cuộc sống người dân được yên ổn, ấm no và hạnh phúc đó mới là nhân nghĩa. Trong tác phẩm, tác giả đã đề cập tới luận đề chính nghĩa trên những khía cạnh khác nhau, tuy nhiên ở khía cạnh nào, tư tưởng này vẫn hết sức đúng đắn và mang ý nghĩa sâu sắc.
Trước hết, nhân nghĩa được gắn với việc khẳng định chủ quyền, độc lập của dân tộc:
“Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác…”
Với những dẫn chứng đầy thuyết phục về chủ quyền dân tộc từ nền văn hiến, cương vực lãnh thổ, phong tục tập quán và các triều đại lịch sử…, tác giả đã khẳng định nền chủ quyền độc lập dân tộc là điều không thể chối cãi. Chỉ khi khẳng định chủ quyền của dân tộc thì mọi hành động của ta mới có cơ sở và đúng với nhân nghĩa. Trên luận đề chính nghĩa, Nguyễn Trãi đã lên án tố cáo tội ác man rợ của quân xâm lược:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế,
Gây binh kết oán trải hai mươi năm.”
Có thể nói, tội ác của giặc Minh là không còn tính người, vô nhân đạo, từ khủng bố, bóc lột sức lao động, tàn sát người dân vô tội đến hách dịch đủ loại thuế khóa, vừa vơ vét cạn kiệt nguồn tài nguyên lại ra tay phá hoại sản xuất, hủy hoại môi trường sống của nhân dân ta.
Tác giả không chỉ bộc lộ niềm phẫn uất và sự căm thù tận xương tủy của nhân dân trước tội ác của giặc, mà còn bộc lộ niềm thương xót, đau đớn cùng với nỗi đau của nhân dân. Chính nhân nghĩa đã gắn kết lòng dân, lòng dân chính là sức mạnh lớn nhất để đánh thắng kẻ thù, không có sức mạnh nào có thể vượt qua được sự đoàn kết đồng lòng và quyết tâm của một dân tộc:
“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo”
Mặc dù giai đoạn đầu của cuộc chiến ta gặp vô vàn khó khăn, thiếu thốn cả về lương thực lẫn quân đội nhưng chính nhờ vào lòng dân, sức dân mà ta bước đầu giành thắng lợi, sau đó nghĩa quân như được tiếp thêm sức mạnh nhờ sự khiếp vía của kẻ thù mà đánh đâu thắng đấy. Đây chính là quả ngọt của việc hành động nhân nghĩa dựa trên luận đề chính nghĩa. Sau khi đã giành được thắng lợi hoàn toàn, tinh thần nhân nghĩa của nhân dân ta còn được bộc lộ qua cách ứng xử với kẻ thù thua trận:
“Mã Kì, Phương Chính cấp cho năm trăm chiếc thuyền,
ra đến bể mà vẫn hồn bay phách lạc.
Vương Thông, Mã Anh phát cho vài nghìn cỗ ngựa,
về đến nước mà vẫn tim đập chân run.”
Cấp phát thuyền và ngựa cho tướng lĩnh cùng binh lính kẻ thù trở về chính là thể hiện lòng nhân ái, chính sách nhân nghĩa của nhân dân ta, ta không đánh đuổi đến cùng mà để lui cho họ con đường hiếu sinh, vừa để cho quân ta nghỉ ngơi lại vừa giữ được lòng nhân đạo. Đường lối ấy một lần nữa đã khẳng định tính chính nghĩa trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, tô đậm thêm truyền thống nhân đạo, yêu chuộng hòa bình của dân tộc ta.
Luận đề chính nghĩa trong tác phẩm “Bình Ngô đại cáo” nói riêng và trong mọi thời đại lịch sử nói chung đều là một truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Thế hệ ngày nay cần gìn giữ và phát huy hiệu quả, trọn vẹn ý nghĩa của truyền thống đó, luôn đặt tư tưởng nhân nghĩa, tinh thần nhân đạo lên hàng đầu trong mọi hoàn cảnh.
Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất
Phân Tích Luận Đề Chính Nghĩa Bình Ngô Đại Cáo Học Sinh Giỏi – Mẫu 3
Bài văn phân tích luận đề chính nghĩa Bình Ngô đại cáo học sinh giỏi dưới đây sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích trong quá trình làm bài.
Nguyễn Trãi là điển hình của vị hiền tài suốt đời đem tài trí phục vụ nhân dân. Luận đề chính nghĩa của Nguyễn Trãi trong “Bình ngô đại cáo” nêu ước nguyện muốn cứu dân khỏi vòng tai họa, mang đến cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho dân. Tác phẩm đã gói trọn tấm lòng của Nguyễn Trãi, thể hiện luận đề chính nghĩa của ông theo cách hiểu sâu sắc, không dừng lại cụ thể ở một người nào, một giai cấp, tầng lớp nào mà nhân rộng ra là muôn dân.
Về thể loại cáo, đây là thể loại mà vua quan xưa thường hay sử dụng để đưa ra và sắc lệnh hay tuyên bố quan trọng. Tuy nhiên, “Bình Ngô đại cáo” lại mang ý nghĩa và đặc nhấn riêng biệt, bởi Nguyễn Trãi đã đưa vào tác phẩm cả tấm lòng, niềm tự hào lẫn cả sự khát vọng của chính ông cũng như tiếng lòng của người dân đất Việt.
Bài cáo của Nguyễn Trãi có bốn phần, luận đề chính nghĩa được thể hiện rõ nhất trong đoạn 1 của tác phẩm. Chỉ qua một đoạn trong bài cáo, ta thấy rõ tấm lòng yêu nước, thương dân cũng niềm tự hào và khát vọng về một cuộc chiến vì đại nghĩa của tác giả.
Nguyễn Trãi viết mở đầu bài cáo:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Trong quan niệm đạo đức Nho gia, nhân nghĩa là tư tưởng được đề cao, theo đó con người coi trọng những cách hành xử tốt đẹp. “Nhân nghĩa” được đề cập ngay ở đầu bài cáo cho thấy, đây là tư tưởng đạo đức mà Nguyễn Trãi luôn gìn giữ trong suốt cuộc đời cống hiến cho đất nước cũng như trở thành tư tưởng sáng tác văn trương của ông.
Nguyễn Trãi nhìn nhận, cốt lõi của việc nhân nghĩa là ở yên dân, nghĩa là mang đến cho dân cuộc sống yên bình, ấm no, hạnh phúc. Vì vậy, vào lúc hoàn cảnh đất nước phải chịu sự xâm lược của ngoại bang – quân Minh, thì nhiệm vụ trước tiên ta cần phải làm là “trừ bạo”, đánh đuổi lũ giặc đang đàn áp, khiến dân ta lâm vào cảnh khốn cùng.
Như vậy, tư tưởng nhân nghĩa mà Nguyễn Trãi nói đến là “lấy dân gốc”, lấy yên dân là kim chỉ nam cho mọi đối sách, hành động. Mà cụ thể là lấy dân làm nền tảng, sức mạnh cho cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Vì ông hiểu, dựa vào sức mạnh của dân là đối sách khôn ngoan nhất, là phương kế quyết định thắng lợi của cuộc chiến chống giặc, giành lại chủ quyền dân tộc.
Lịch sử đã chứng minh và nghìn năm sau điều này vẫn còn đúng. Bởi vậy, tư tưởng nhân nghĩa mà Nguyễn Trãi quan niệm đã khác xa với Nho giáo vốn chỉ hạn hẹp trong cách hành xử giữa người với người. Nhân nghĩa với Nguyễn Trãi là một lý tưởng xã hội, lấy dân làm sức mạnh và an dân là nhiệm vụ trước nhất.
Từ lập trường nhân nghĩa lấy dân làm trung tâm, Nguyễn Trãi tiến thêm một bước, xây dựng cơ sở lý luận cho luận đề chính nghĩa.
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
Song hào kiệt thời nào cũng có.
Cho nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong,
Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét,
Chứng cớ còn ghi.
Có thể nói, đây là lời tuyên bố đanh thép, khắc sâu vào lịch sử dân tộc về nền độc lập, chủ quyền lãnh thổ bất khả xâm phạm của nước Đại Việt. Sắc bén trong cách lập luận so sánh đối xứng và đa chiều, qua đó Nguyễn Trãi khẳng định chủ quyền của mỗi quốc gia, dù đó là đất nước lớn hay bé.
Nền văn hiến, phong tục, lịch sử, núi sông bờ cõi hay những bậc hào kiệt, nước Đại Việt cũng đều có và riêng biệt; chứ không riêng gì Đại Hán. Bằng niềm tự hào về dân tộc, Nguyễn Trãi không chri khẳng định về nền độc lập dân tộc mà còn chỉ rõ nền độc lập ấy đã có từ lâu đời, trải qua nhiều triều đại.
Chỉ trong mấy câu thơ, ông tái hiện dòng chảy lịch sử hàng trăm năm của dân tộc và đã sau lần đánh bại giặc thù ngang nhiên xâm chiếm. Cái sắc bén trong cơ sở lý luận khẳng định nền độc lập của nước Đại Việt cũng như chính nghĩa trên đời là đưa ra các chứng cứ lịch sử về cuộc trường trinh oai hùng của triều đại hậu Lê.
Vì chủ quyền dân tộc là bất khả xâm phạm, nên kẻ nào xâm phạm là làm trái đạo trời. Nhưng bè lũ giả dối, từ giặc Minh đến bọn bán nước cầu vinh đều hành động tàn bạo, giẫm đạp lên chính nghĩa ở đời:
Độc ác thay trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay nước Đông Hải không rửa sạch mùi
Để chứng minh tội ác tận cùng của lũ giặc bạo tàn, Nguyễn Trãi viết một đoạn văn mang theo nỗi căm hồn sục sôi và cũng chứa đựng bao đau đớn:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,
Để trong nước lòng dân oán hận.
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa,
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh.
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế,
Gây thù kết oán trải mấy mươi năm.
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc.
Vét sản vật, bắt dò chim sả, chốn chốn lưới chăng,
Nhiễu nhân dân, bắt hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng…
Dân ta bấy giờ phải gánh chịu cảnh mất nước, lầm than, bị dồn tới đường cùng. Cũng là bởi nhà Hồ không được lòng dân, không hướng đến lợi ích của dân, chính sự lại rối ren nên chúng lợi dụng tình hình quân Minh thừa cơ gây họa. Bởi tư tưởng nhân nghĩa là lấy dân làm gốc, nên những hành vi bóc lột tàn bạo nhân là trái đạo trời, lựa bịp dân. Vì vậy, bằng những lời lẽ đanh thép nhất, bằng bút pháp phóng đại và ngôn ngữ giàu tính hình tượng, Nguyễn Trãi đã thẳng tay vạch trần bộ mặt tàn ác, giả dối của bè lũ cướp nước.
Cái bạo tàn khủng khiếp của giặc minh, là chúng chẳng tha bất cứ ai, dù là “dân đen”, “con đỏ”. Tác giả dùng động từ “nướng”, “vùi” là đang miêu tả trực tiếp, trần trụi để “chỉ mặt đặt tên” tội ác tàn sát dân chúng của giặc Minh. Nhưng còn chưa dừng lại ở đó, chúng còn bức dân đến đường cùng, không chừa con đường sống, ép dân “xuống biển dòng lưng mò ngọc”, “vào núi đãi cát tìm vàng”. Chính đã khiến biết bao người dân vô tội phải bỏ mạng vì rừng sâu nước độc.
Không chỉ trực tiếp thảm hại dân lành, chúng còn đặt ra thuế khóa đẩy đất nước ta vào cảnh kiệt quệ; rồi chúng còn vơ vét bao tài nguyên, khoáng sản; chúng hủy hoại, tàn phá những nghề truyền thống lâu đời như trồng lúa, dệt vải. Còn gì tàn ác hơn khi ngay cả côn trùng chúng cũng không tha. Nguyễn Trãi dùng các từ “chốn chốn”, “nơi nơi” để phơi bày tội ác kinh hoàng của chúng trải khắp mọi nơi, chúng trở thành nỗi khiếp sợ và căm hờn khi “Bại nhân nghĩa nát cả đất trời”.
Bài cáo như thốt lên nỗi đau đẫm máu và nước mắt của nhân dân, là tiếng lòng căm phẫn của nhân dân. Mỗi câu viết ra là nỗi uất nghẹn muốn đánh bay giặc thù, làm việc đại nghĩa. Và đó là việc chính nghĩa mà nhân dân ta phải đồng lòng thực hiện và nghĩa quân Lam Sơn làm người đi đầu, gánh vác sứ mệnh, vận mệnh dân tộc.
Nhưng trước kẻ thù hiểm ác rung đất trời, việc trừ bạo không phải ngày một ngày hai. Nhưng khí thế của nghĩa quân Lam Sơn, hình ảnh của anh hùng hào kiệt Lê Lợi là niềm tin, là ý chí thắng lợi:
Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa,
Chốn hoang dã nương mình.
Danh xưng “ta” cho thấy tinh thần anh hùng, trượng nghĩa cùng lòng căm thù giặc sâu sắc và há đội trời chung với giặc. Trải qua bao ngày tháng khó khăn, nếm mật nằm gai, Lê Lợi đã trở thành linh hồn của cuộc khởi nghĩa. Mặc dù lúc bắt đầu bị yếu thế so với địch, nhưng với “Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về đông/ Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chăm còn dành về phía tả.”, Lê Lợi và nghĩa quân của mình đã giành thắng lợi.
Khi ta đứng lên đấu tranh vì chính nghĩa, vì sứ mệnh của đạo trời, thì dù gian nao bao nhiêu, con đường chiến thắng cuối cùng sẽ hiện ra trước mắt. Chỉ cần có tinh thần đoàn kết của nhân dân bốn cõi, các tướng sĩ một lòng và có kế sách khôn ngoan lấy yếu chống mạnh và quan trọng, vì đại nghĩa mà làm, thắng lợi sẽ đến.
Trọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo.
Qua một đoạn văn ngắn, Nguyễn Trãi đã tái hiện cuộc chiến đấu chống giặc minh chân thực và dưới nhiều góc độ. Đó là những trận đánh liên tiếp, dường như diễn ra khắp mọi nơi:
Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế,
Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu,
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong,
Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.
Nào là trận Chi Lăng, Mã Yên, rồi liên tiếp hai năm rồi hai tám, những tên cầm đầu của quân giặc không tử vong thì tự vẫn. Đến “Thằng nhãi con Tuyên Đức”, nghĩa là vua Minh lúc bấy giờ, phải kêu binh cứu viện. Nhưng không để cho giặc có cơ hội củng cố lực lượng, nghĩa quân Lam Sơn thực hiện liên tiếp các trận đánh để áp chế và đẩy lùi quân giặc:
Đánh một trận sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông
Rồi quân ta thừa thắng xông lên, khi quân tướng hừng hực khí thế thì ta luôn ở thế chủ động tiến công, thắng không ngừng thắng:
Sĩ khí đã hăng
Quân thanh càng mạnh
Sĩ tốt kén người hùng hổ
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn,
Voi uống nước, nước sông phải cạn
Và lòng yêu nước, tinh thần chính nghĩa, hào khí Đại Việt đã tạo nên một sức mạnh phi thường, đã tạo nên kỳ tích, dù yếu mà thắng mạnh, nhỏ mà thắng lớn.
Ghê gớm thay sắc phong vân phải đổi,
Thảm đạm thay ánh nhật nguyệt phải mờ.
Có thể thấy, đoạn văn thuật lại các trận đánh của nghĩa quân Lam Sơn từng câu từng chữ đều hừng hực khí thế. Đó không chỉ là ngợi cả thắng lợi của quân ta mà còn nhấn mạnh sự thất bại thảm hại của kẻ thù, kẻ bạo ngược, thâm độc.
Nhưng quá trình lược thuật về cuộc khởi nghĩa, không dừng lại ở việc ca ngợi chiến thắng của ta, mà còn khắc họa một cách sống động, chân thực về sự thất bại của kẻ thù. Quân ta tiến đến đâu, giặc thất thế đến đó. Đọc lại không khỏi ghê rợn khi hình dung “Lạng Giang, Lạng Sơn thây chất đầy đường/ Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước”. Nhưng với những kẻ bạo tàn, độc ác, đó là kết cục tất yếu của chúng, ta chỉ nhận lệnh trừ hung ác, làm đại nghĩa.
Có điều, Nguyễn Trãi cũng như Lên Lợi đều luôn hiểu rõ con đường nhân nghĩa mà mình theo đuổi. Vì vậy khi giặc thất thế, ta biết điểm dừng, khi giặc đến đường cùng ta đã mở cho chúng một con đường sống. Ta cấp thuyền, cấp ngựa để chúng trở về lưu bang.Từ đó ta thấy rõ tinh thần nhân đạo, thường võ của Nguyễn Trãi cũng như Lê Lợi và đội quân Lam Sơn.
Sau bao nhiêu gian lao, đau đớn, cuối cùng chúng ta cũng chiến thắng giặc thù, cũng giành lại được nền độc lập, dân được hưởng thái bình, được sống ấm no:
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc
Cho đến nay, “Bình Ngô đại cáo” vẫn vẹn nguyên giá trị, sức sống như lần đầu tiên được tuyên cáo trước thiên hạ. Nó có sức sống lâu bền bởi nó là một văn kiện lịch sử khẳng định nền độc lập dân tộc và mang tư tưởng nhân đạo, chính nghĩa vĩ đại.
Trên phương diện văn chương, Nguyễn Trãi đã để lại một áng văn mẫu mực về lòng yêu nước và tinh thần chiến đấu của quân và dân ta tước giặc thù hung bạo. Mỗi một thế hệ hậu thế đều tự hào khi được lật lại và cảm nhận khí thế hào hùng của một thời đại lịch sử oanh liệt của dân tộc. Ẩn bên trong áng văn của Nguyễn Trãi, không chỉ là niềm tự hào, lòng kiêu hãnh của riêng tác giả mà còn của toàn dân về ý chí người Việt, về đạo nhân nghĩa vì nước, vì chính nghĩa mà trừ bạo tàn.
Giới thiệu cùng bạn 🍀 Phân Tích Đoạn 1 Bình Ngô Đại Cáo 🍀 18 Bài Văn Hay Nhất
Phân Tích Luận Đề Chính Nghĩa Bình Ngô Đại Cáo Facebook – Mẫu 4
Chia sẻ dưới đây bài phân tích luận đề chính nghĩa Bình Ngô đại cáo Facebook giúp các em học sinh có thêm cho mình tư liệu tham khảo phong phú hơn.
Nguyễn Trãi là một vị quan nhưng đồng thời cũng là nhà văn, là danh nhân văn hóa lớn của dân tộc. Ông đã góp vào kho tàng văn học trung đại nói riêng và kho tàng văn học Việt Nam nói chung nhiều tác phẩm văn học có giá trị và “Bình Ngô đại cáo” là một trong số những tác phẩm xuất sắc nhất của ông. Bài cáo được xem là “bản tuyên ngôn độc lập thứ hai” của dân tộc. Đặc biệt, qua đoạn thứ nhất và đoạn hai của bài cáo, người đọc sẽ thấy rõ được luận đề chính nghĩa của dân tộc ta cũng như tội ác man rợ của kẻ thù.
Trước hết, đoạn trích mở đầu tác phẩm “Bình Ngô đại cáo” đã nêu lên luận đề chính nghĩa và chân lí độc lập dân tộc, đó chính là nền tảng, là tiền cơ sở lí luận xuyên suốt cuộc kháng chiến của quân và dân ta.
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
Có thể thấy, “nhân nghĩa” từ xưa đến nay luôn là một phạm trù tư tưởng lớn của Nho giáo, nó thể hiện mối quan hệ giữa con người với con người trên cơ sở của tình thương và đạo lí. Là một nhà nho, chịu ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng Nho giáo nên nền tảng tư tưởng của Nguyễn Trãi cũng chính là tư tưởng “nhân nghĩa”.
Với Nguyễn Trãi, “nhân nghĩa” luôn gắn liền với việc “yên dân” và muốn “yên dân” thì phải trừ bạo để đem lại cho nhân dân cuộc sống ấm no, yên bình. Như vậy, có thể thấy, cốt lõi tư tưởng “nhân nghĩa” của Nguyễn Trãi chính là lấy dân làm gốc, làm nền tảng, vì cuộc sống yên ấm, hạnh phúc của nhân dân mà đánh đuổi bọn cường bạo.
Thêm vào đó, tác giả còn nêu lên chân lí độc lập của dân tộc từ ngàn đời nay.
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có.
Chỉ với một đoạn văn ngắn nhưng tác giả Nguyễn Trãi đã gợi lên cả một chặng đường lịch sử ngàn năm văn hiến của dân tộc. Cũng như bao dân tộc, quốc gia khác, đất nước, dân tộc Đại Việt chúng ta từ ngàn đời nay có một nền văn hiến lâu đời, có bờ cõi, lãnh thổ riêng và có phong tục, tập quán riêng của hai miền Nam Bắc. Dân tộc ấy đã trải qua các triều đại khác nhau, sánh vai cùng các triều đại phong kiến của phương Bắc.
Và với việc đặt các triều đại của dân tộc ta sánh ngang hàng với các triều đại phong kiến Trung Quốc vừa là lời khẳng định nền độc lập, truyền thống của dân tộc vừa thể hiện lòng tự hào, tự tôn dân tộc của tác giả. Thêm vào đó, để khẳng định chân lí độc lập của dân tộc, tác giả Nguyễn Trãi đã khéo léo kể ra những chiến thắng vang dội, lẫy lừng của quân và dân ta trong lịch sử.
Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
Trên cơ sở tiền đề lí luận đã được nêu ra, trong phần tiếp theo của bài cáo, tác giả đã soi chiếu lí luận ấy vào thực tiễn để vạch rõ những tội ác dã man của kẻ thù. Tội ác của bọn giặc trước hơn hết chính là ở việc lợi dụng tình hình rối ren ở trong nước để từ đó chúng lấy cớ và tiến vào xâm lược nước ta.
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng minh thừa cơ gây họa
Bọn gian tà bán nước cầu vinh.
Không chỉ dừng lại ở đó, sau khi tiến vào xâm lược nước ta chúng còn thi hành hàng loạt chính sách phi nhân đạo, tàn nhẫn.
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Bọn giặc thật tàn nhẫn, chúng giết hại dân lành bằng những hành động rất man rợ, đến cả “dân đen” – những người dân vô tội và cả những đứa trẻ thơ chúng cũng không tha. Bằng việc sử dụng nghệ thuật đảo ngữ, đặt động từ “nướng” và “vùi” lên đầu các câu thơ, dường như tác giả muốn nhấn mạnh thêm sự tàn nhẫn, độc ác của bọn giặc. Cùng với đó, bọn giặc còn tàn sát nhân dân bằng cách đẩy chúng vào những nơi chứa đầy những hiểm nguy, ở những nơi mà người ta biết khi đi sẽ khó lòng có thể trở về được nữa.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc
Cùng với đó, tội ác của giặc còn ở chỗ chúng đã ra sức vơ vét của cải, thuế khóa vô lí và phá hoại môi trường, cảnh quan trên đất nước ta.
Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng,
Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Và để rồi, tác giả đã khép lại đoạn hai của tác phẩm bằng hai câu thơ giàu hình ảnh và đầy sức ám ảnh về những tội ác mà bọn giặc Minh đã gây ra trên đất nước ta.
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Tác giả Nguyễn Trãi đã dùng cái vô hạn, vô cùng của “trúc Nam Sơn” và “nước Đông Hải” để nói về tội ác của kẻ thù. Từ đó, người đọc có thể thấy được tội ác không gì có thể kể hết, có thể diễn tả được của kẻ thù. Và trước những hành động ấy của giặc Minh, nhân dân ta, dân tộc ta không có sự lựa chọn nào khác ngoài con đường đứng lên để hành động.
Lẽ nào trời đất dung tha,
Ai bảo thần nhân chịu được?
Tóm lại, với những hình ảnh thơ độc đáo cùng ngôn ngữ sắc sảo, giọng điệu linh hoạt, hai đoạn thơ mở đầu tác phẩm “Bình Ngô đại cáo” không chỉ nêu lên cho người đọc thấy được luận đề chính nghĩa, chân lí độc lập của dân tộc ta mà qua đó người đọc còn thấy được những tội ác không thể nào tha thứ được của kẻ thù.
Đọc nhiều hơn với 🔥 Phân Tích Đoạn 2 Bình Ngô Đại Cáo 🔥 12 Bài Văn Hay Nhất
Phân Tích Luận Đề Chính Nghĩa Bình Ngô Đại Cáo Đoạn 1 – Mẫu 5
Bài văn mẫu phân tích luận đề chính nghĩa Bình Ngô đại cáo đoạn 1 dưới đây sẽ giúp các em học sinh có được cho mình những định hướng làm bài cụ thể nhất.
Nguyễn Trãi (1380 – 1442) là nhà chính trị, quân sự lỗi lạc, tài ba có công lớn trong công cuộc dẹp giặc Minh đem lại nền thái bình thịnh trị cho nước nhà. Ông còn là một nhà văn nhà thơ lớn với khối lượng tác phẩm đồ sộ bao gồm cả văn học chữ Hán và chữ Nôm. Trong đó phải kể đến một số tác phẩm như: Đại cáo bình Ngô, Quân trung từ mệnh tập, Quốc Âm thi tập, Ức Trai thi tập…
Đại cáo bình Ngô được coi là áng “Thiên cổ hùng văn” muôn đời bất hủ, là bản tuyên ngôn đanh thép, hùng hồn về nền độc lập và vị thế dân tộc. Trong đó, cốt lõi là phần đầu tác phẩm với luận đề chính nghĩa được thể hiện rõ ràng:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Nhân nghĩa là tư tưởng chủ đạo của Đại cáo bình Ngô, là mục tiêu chiến đấu vô cùng cao cả và thiêng liêng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Mở đầu bài cáo tác giả nêu luận đề chính nghĩa. Việc nhân nghĩa của Nguyễn Trãi ở đây là “yên dân” và “trừ bạo”. “Yên dân” chính là giúp dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, như vậy dân có yên thì nước mới ổn định, mới phát triển được. Tác giả đưa vào “yên dân” như để khẳng định đạo lý “lấy dân làm gốc” là quy luật tất yếu trong mọi thời đại là tài sản, là sức mạnh, sinh khí của một quốc gia.
Nguyễn Trãi thật tài tình khi nhận ra và khai sáng thành công vấn đề cốt lõi ấy. Việc nhân nghĩa tiếp theo chính là “trừ bạo” ý nói đến quân Minh, bọn gian tà chuyên đi bóc lột nhân dân. Bọn chúng thẳng tay hành hạ, cướp bóc, vùi dập dân ta trong vực thẳm của sự đau khổ. “Yên dân”, “trừ bạo”, hai việc này tưởng như không liên quan đến nhau nhưng lại là hai yếu tố có tác dụng hỗ trợ, bổ sung cho nhau, vì nếu không yên dân tất trừ bạo khó yên, chúng được nhấn mạnh và tiến hành cùng lúc, thống nhất với nhau.
Quan tâm đến sự yên ổn, no ấm cho dân cũng đồng nghĩa với việc phải chiến đấu đánh đuổi kẻ thù của dân, diệt trừ những kẻ tham tàn bạo ngược, cụ thể là bọn “cuồng Minh” giày xéo lên cuộc sống nhân dân, gây ra bao tai hoạ. Có thể nói, tư tưởng nhân nghĩa ở Nguyễn Trãi không còn là phạm trù đạo đức hạn hẹp mà là một lý tưởng xã hội: phải chăm lo cho nhân dân được sống cuộc hạnh phúc, yên bình. Điều quan trọng hơn là ở đây, Nguyễn Trãi nâng lý tưởng, nỗi niềm ấy lên thành một chân lí.
Ông không nói đến nhân nghĩa một cách chung chung mà chỉ bằng một hai câu ngắn gọn tác giả đi vào khẳng định hạt nhân cơ bản, cốt lõi và có giá trị nhất. Không những thế, nhân nghĩa còn gắn liền với việc bảo vệ chủ quyền đất nước, khẳng định chủ quyền quốc gia, tinh thần độc lập dân tộc:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác”
Từ Triệu , Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập
Đến Hán, Đường, Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có.
Khi khẳng định chân lí này, Nguyễn Trãi đã đưa ra một quan niệm được đánh giá là đầy đủ nhất lúc bấy giờ về các yếu tố tạo thành một quốc gia độc lập. Nếu như 400 năm trước, trong Nam Quốc Sơn Hà, Lý Thường Kiệt chỉ xác định được hai yếu tố về lãnh thổ và chủ quyền trên ý thức quốc gia cùng độc lập dân tộc thì trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã bổ sung thêm bốn nhân tố nữa, gồm văn hiến, lịch sử, phong tục tập quán và nhân tài.
Đây chính là điểm sáng tạo cho thấy trí tuệ của Nguyễn Trãi. Ở mỗi một quốc gia, nền văn hiến ngàn năm không ai có thể nhầm lẫn được, cương thổ, núi, sông, đồng ruộng, biển cả đều được chia rõ ràng.
Phong tục tập quán cũng như văn hoá mỗi miền Bắc, Nam cũng khác. Ở đây, Nguyễn Trãi nhấn mạnh cả Trung Quốc và Đại Việt đều có những nét riêng không thể nhầm lẫn, thay đổi hay xóa bỏ được. Cùng với đó là từng triều đại riêng nhằm khẳng định chủ quyền. Qua câu thơ, Nguyễn Trãi đã đặt các triều đại “Triệu, Đinh, Lí, Trần” của ta ngang hàng với “ Hán, Đường, Tống, Nguyên” của Trung Quốc , điều đó cho ta thấy, nếu không có một lòng tự hào dân tộc mãnh liệt thì không thể nào có sự so sánh cực kì hay và tinh tế như vậy.
Cuối cùng chính là nhân tài, con người cũng là yếu tố quan trọng để khẳng định nền độc lập của chính mình. Tuy thời thế “mạnh, yếu từng lúc khác nhau” song hào kiệt thì đời nào cũng có, câu thơ như lời răn đe đối với những ai, những kẻ nào, nước nào muốn thơn tính Đại Việt. Từ năm yếu tố trên, Nguyễn Trãi đã khái quát gần như toàn diện về nền độc lập của một quốc gia. So với “Nam Quốc Sơn Hà” của Lý Thường Kiệt, Bình Ngô đại cáo thật sự hay hơn , đầy đủ, toàn diện hơn về nội dung cũng như tư tưởng xuyên suốt.
Ngoài ra, để nhấn mạnh tư cách độc lập của nước ta, tác giả còn sử dụng cách viết sánh đôi nước ta và Trung Quốc: về bờ cõi, phong tục – hai nước ngang bằng nhau, về triều đại-bốn triều đại cường thịnh của ta so với bốn triều đại của Trung Quốc cùng nhân tài thời nào cũng có đã chứng tỏ ta không hề thua kém chúng.
Xuyên suốt đoạn thơ, Nguyễn Trãi đã sử dụng nhiều từ ngữ chỉ tính chất hiển nhiên vốn có khi nêu rõ sự tồn tại của Đại Việt: “từ trước”, “đã lâu” ,“đã chia”, “cũng khác” đã làm tăng sức thuyết phục lên gấp bội. Nghệ thuật thành công nhất của đoạn một – cũng như là bài cáo – chính là thể văn biền ngẫu được nhà thơ khai thác triệt để. Phần còn lại của đoạn đầu là chứng cớ để khẳng định nền độc lập, về các cuộc chiến trước đây với phương Bắc trong lịch sử chúng đều thất bại là chứng cớ khẳng định rõ nhất:
Vậy nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét
Chứng cứ còn ghi.
Cách liệt kê, chỉ ra dẫn chứng rõ ràng, cụ thể, xác thực đã được công nhận bằng những lời lẽ chắc chắn, hào hùng, thể hiện niềm tự hào, tự tôn dân tộc. Người đọc thấy ở đây ý thức dân tộc của Nguyễn Trãi đã vươn tới một tầm cao mới khi nêu cụ thể, rõ ràng từng chiến công oanh liệt của quân và dân ta: “cửa Hàm Tử”, “sông Bạch Đằng”,..thêm vào đó là sự xem thường, căm ghét đối với sự thất bại của những kẻ xâm lược không biết tự lượng sức : “Lưu Cung..tham công”, “Triệu Tiết… thích lớn”, Toa Đô, Ô Mã, tất cả chúng đều phải chết thảm.
Đoạn thơ đã một lần nữa khẳng định rằng: Đại Việt là một quốc gia có độc lập, tự chủ, có nhân tài, có tướng giỏi, chẳng thua kém gì bất cứ một quốc gia nào. Bất cứ kẻ nào có ý muốn thôn tính, xâm lược ta đều phải chịu kết quả thảm bại. Cuộc chiến chống lại quân giặc, bảo vệ dân tộc là một cuộc chiến vì chính nghĩa, lẽ phải, chứ không như nhiều cuộc chiến tranh phi nghĩa khác, cho nên, dù thế nào đi nữa, chính nghĩa nhất định thắng gian tà theo quy luật của tạo hóa.
Đại cáo bình Ngô tràn ngập nguồn cảm hứng trữ tình và mang tính chất hào hùng hiếm có. Trong đó, phần đầu tác phẩm, với nghệ thuật biền ngẫu, đã nêu được hai nội dung chính gần như hết bài cáo là nhân nghĩa và nền độc lập của dân tộc Đại Việt. Chính vì vậy, đoạn trích có giá trị rất sâu sắc đối với nước ta, khẳng định nhân dân ta có tinh thần nhân nghĩa và nền độc lập riêng của mình.
Đoạn thơ giúp ta hiểu rõ chủ quyền lãnh thổ, độc lập dân tộc cũng như lịch sử đấu tranh hào hùng của cha ông ta ngày trước, qua đó bồi dưỡng lòng yêu nước, tự hào tự tôn dân tộc, quyết tâm xây dựng, bảo vệ và củng cố độc lập chủ quyền nước nhà.
Chia sẻ cùng bạn 🌹 Phân Tích Đoạn 3 Bình Ngô Đại Cáo 🌹 12 Bài Văn Hay Nhất
Phân Tích Luận Đề Chính Nghĩa Đại Cáo Bình Ngô Đoạn 1 2 – Mẫu 6
Tham khảo bài văn phân tích luận đề chính nghĩa Đại cáo Bình Ngô đoạn 1 2 dưới đây sẽ giúp các em học sinh nắm vững phương pháp và trau dồi kỹ năng nghị luận văn học.
Tinh thần yêu nước đã trở thành sợi dây nối kết và xuyên suốt các thời đại lịch sử Việt Nam. Chính tình yêu nước đã tạo nên động lực làm nên những chiến công vang dội của dân tộc. Đó cũng là tinh thần chung mà Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi. Tinh thần yêu nước, luận đề chính nghĩa được Nguyễn Trãi làm rõ qua đoạn 1, 2 của tác phẩm.
“Từng nghe
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
…………
Lẽ nào trời đất dung tha
Ai bảo thần nhân chịu được”
“Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi được mệnh danh như bản tuyên ngôn độc lập bất hủ của dân tộc, áng văn chính luận mẫu mực của non sông và cũng là áng thiên cổ hùng văn còn vang mãi nghìn đời. Đại cáo Bình Ngô được Nguyễn Trãi viết vào năm 1428 bố cáo với thiên hạ về nền độc lập tự cường, về chủ quyền của đất nước ta.
Mỗi phần của tác phẩm đều chứa đựng ý nghĩa sâu sắc, đặc biệt phần đầu của bài Cáo đã cho thấy tư tưởng nhân nghĩa sáng ngời, lòng tự hào tự tôn dân tộc cùng với sự tàn bạo của quân Minh khi giày xéo lên mảnh đất dân tộc. Cảm nhận đoạn 1 2 bình ngô đại cáo sẽ thể hiện rất rõ điều đó.
Bình Ngô đại cáo được Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi soạn thảo để công bố cho mọi người biết về sự nghiệp đánh tan giặc Minh xâm lược. Từ những buổi đầu khởi nghĩa khó khăn nơi vùng rừng núi hiểm trở đến những ngày chiến công rực rỡ là cả một giai đoạn gian khổ nhưng đầy hào hùng của dân tộc.
Ngay từ nhan đề “Bình Ngô đại cáo” đã gợi ra nhiều suy nghĩ. “Bình Ngô” chính là dẹp yên giặc Minh xâm lược. Gọi giặc Minh là Ngô vì Nguyễn Trãi muốn nhắc đến nguồn gốc, quê cha đất tổ của Chu Nguyên Chương – người đứng đầu và lập nên nhà Minh. Bởi lẽ trong xuyên suốt chiều dài lịch sử dân tộc đã có nhiều lần giặc phương Bắc kéo đến xâm lược chúng ta nhưng kết quả đều là thất bại. Điều đó đã minh chứng rõ cho tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến của nhân dân Đại Việt.
“Đại cáo” nhằm chỉ quy mô rộng lớn và tính chất trọng đại của bài cáo. “Bình Ngô đại cáo” là bản cáo lớn mang tính quy mô toàn dân tộc thông báo cho nhân dân biết về chiến thắng chống quân Minh xâm lược, đồng thời để khẳng định tuyên bố độc lập của dân tộc. Phần một và phần hai là cơ sở tiền đề cho cuộc kháng chiến. Thứ nhất đó là tư tưởng nhân nghĩa. Thứ hai là bản cáo trạng tội ác của giặc.
Mở đầu bài thơ, Nguyễn Trãi đã xác lập luận đề chính nghĩa của cuộc khởi nghĩa:
“Từng nghe
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Tư tưởng nhân nghĩa là một tư tưởng được các nước phương Đông mặc nhiên thừa nhận. “Nhân nghĩa” là mối quan hệ giữa người với người được xây dựng trên cơ sở tình thương và đạo đức. Nếu tư tưởng nhân nghĩa trong quan niệm Nho giáo là cách đưa con người vào các mối quan hệ khuôn khổ phạm trù đạo đức để phục vụ cho mục đích quản lí xã hội của nhà cầm quyền.
Nhưng tư tưởng nhân nghĩa trong Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi đã trở thành mục đích của cuộc kháng chiến. Bởi đặt trong hoàn cảnh thực tiễn của đất nước, nhân nghĩa được cụ thể hóa thành yên dân. Nghĩa là làm cho nhân dân có cuộc sống ấm no hạnh phúc. Muốn nhân dân được ấm no thì phải diệt trừ bạo ngược, đặc biệt đó chính là quân Minh xâm lược.
Từ tư tưởng nhân nghĩa của Nho giáo, Nguyễn Trãi đã chuyển hóa vào thực tiễn đất nước ta. Và đây cũng chính là mục đích chiến đấu, là lý tưởng cao đẹp mà suốt cuộc đời Nguyễn Trãi theo đuổi. Nguyễn Trãi đã khẳng định chủ quyền lãnh thổ bằng những căn cứ lịch sử vô cùng xác đáng kết hợp với lời văn dõng dạc hào hùng đầy tự tin.
“Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
………….
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có”.
Các phương diện được Nguyễn Trãi nêu ra để khẳng định chủ quyền là văn hiến, địa phận, phong tục, nhà nước, nhân tài. Các phương diện ấy đều được trải dài theo suốt chiều dài lịch sử dân tộc ta và đều mang dấu ấn riêng đại diện cho dân tộc. Đó là những nét khác biệt không lẫn vào đâu của văn hóa và phong tục tập quán. Có thể so về chiều dài lịch sử ta không bằng Trung Hoa, nhưng trong suốt chiều dài hình thành và tồn tại thì dân tộc ta đã để lại dấu ấn cùng tinh thần dân tộc mạnh mẽ.
Việc liệt kê các triều đại của nước Đại Việt song song với các triều đại Trung Hoa đã thể hiện rõ điều đó. Ta không hề kém cạnh Trung Hoa. Ta cũng có những nhà nước tự trị ngay từ buổi bình minh lịch sử dân tộc. Ta có chủ quyền lãnh thổ riêng, có phong tục tập quán, có tổ chức nhà nước với người đứng đầu là vua.
Việc xưng đế đã thể hiện ý chí tự tôn dân tộc. Bởi lẽ trong quan niệm ngày xưa, chỉ có Trung Hoa được xưng đế còn vua của nước nhỏ chỉ được xưng chư hầu không được xưng đế. Việc xưng đế đã khẳng định chắc nịch một điều ta và Trung Hoa là những nước độc lập bình đẳng với nhau. Chính vì vậy không có lí do gì để Trung Hoa kéo quân xâm lược nước ta.
Điều quan trọng làm nên sự thịnh vượng của một vương triều không thể không kể đến yếu tố nhân tài. Nhân tài chính là vận mệnh đất nước. Trong cả một quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước đã có biết bao nhiêu vị anh hùng làm rạng danh non sông cũng như có biết bao nhiêu thế hệ với ngàn ngàn lớp lớp người vô danh đã ngã xuống để bảo vệ độc lập đất nước. Giọng thơ hào hùng, lập luận mạnh mẽ chặt chẽ thuyết phục từ những chứng cứ lịch sử xác đáng không thể chối cãi. Qua đó ta thấy được ý thức dân tộc sâu sắc của Nguyễn Trãi.
Sau khi khẳng định tiền đề chính nghĩa của cuộc kháng chiến cũng như khẳng định chủ quyền dân tộc, Nguyễn Trãi đã nêu ra những chứng cứ lịch về sự thất bại nhục nhã của giặc khi sang xâm lược nước ta.
“Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
Việc xưa xem xét,
Chứng cớ còn ghi”.
Nguyễn Trãi đã lần lượt nêu ra những tên tướng giặc bại trận trong những trận chiến phi nghĩa xâm lược Đại Việt. Đó là Lưu Cung, Triệu Tiết, Toa Đô, Ô Mã. Chúng thất bại bởi lẽ đây là một cuộc chiến phi nghĩa không nhằm bảo vệ cuộc sống nhân dân mà chỉ vì “tham công”, “thích lớn”, chỉ để thỏa mãn khát vọng bành trướng quyền lực của kẻ cầm đầu mà gieo tai vạ cho biết bao người dân vô tội.
Ngay từ mục đích xâm lược đã phi nghĩa nên chắc chắn cuộc xâm lược này sẽ “thất bại”, “tiêu vong”. Những địa danh lịch sử gắn với những cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc ta cũng được Nguyễn Trãi nêu ra. Đó là cửa sông bạch Đằng đã giết chết hàng vạn quân Nam Hán xóa bỏ đi một ngàn năm đô hộ của ngoại xâm phương Bắc mở ra thời kì độc lập cho đất nước. Còn nhắc đến cửa Hàm Tử không thể không nhắc đến chiến công của quân dân nhà Trần đã từng được Trần Quang Khải nhắc đến.
“Chương Dương cướp giáo giặc.
Hàm Tử bắt quân thù”
Tuy không trực tiếp nhắc đến chiến thắng của quân ta nhưng trong cách nói đó ta vẫn thấy hiện lên vẻ đẹp sự oai hùng của những chiến công lịch sử vang dội. Đây chính là minh chứng lịch sử rõ nét nhất cho tư tưởng nhân nghĩa. Cuộc kháng chiến của chúng ta chính là cuộc kháng chiến vì chính nghĩa. Lẽ phải thuộc về nghĩa quân, thuộc về dân tộc Đại Việt nên chắc chắn chiến thắng sẽ thuộc về ta.
Sau khi nêu ra tiền đề chính nghĩa của cuộc kháng chiến, Nguyễn Trãi đã vạch trần bộ mặt xâm lược của giặc Minh:
“Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,
Để trong nước lòng dân oán hận.
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa,
Bọn gian tà bán nước cầu vinh”.
Trong tình cảnh đất nước rối ren, nhân dân không đồng lòng dưới chế độ nhà Hồ của Hồ Quý Ly. Lợi dụng điều đó, núp dưới chiêu bài “phù Trần diệt Hồ”, giặc Minh đã xâm lược nước ta. Nhưng thực chất giặc Minh không hề có ý tốt mà đó chỉ là cái cớ để có cơ hội đặt chân xâm lược dân tộc. Điều đó đã được thể hiện rõ qua các từ “nhân”, “thừa cơ gây họa” cho thấy rõ thái độ của Nguyễn Trãi đối với những kẻ ngoại xâm này.
Chúng đến đây tấn công nước ta chỉ vì mục đích thỏa mãn nhu cầu bành trướng quyền lực, khát vọng bá chủ thiên hạ của chúng mà thôi. Không chỉ vạch trần bóc mẽ bộ mặt xâm lược của kẻ thù mà Nguyễn Trãi còn thể hiện thái độ đối với những kẻ gian thần lộng quyền vì tham vinh hoa phú quý mà đẩy đất nước vào tình cảnh rối ren, ngàn cân treo sợi tóc này.
Không chỉ vạch trần bộ mặt thật của giặc, tác giả còn nêu ra những tội ác trời không dung đất không tha của kẻ thù:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế,
Gây binh kết oán trải hai mươi năm.
……
Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng,
Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Nặng nề những nỗi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi”.
Những tội ác giặc gây ra không thể kể hết. Biết bao nhiêu oán thương, uất hận chất chồng. Giặc đã tàn sát dã man những người dân vô tội, cướp đi mạng sống cướp đi hạnh phúc của biết bao gia đình êm ấm. Hình ảnh “con đỏ”, “dân đen” ý chỉ nhân dân Đại Việt. Họ chỉ là những con người thấp cổ bé họng chỉ ước mong một cuộc sống giản dị đời thường nhưng kể cả cái ước mơ nhỏ bé ấy cũng bị vùi dập.
Quân Minh đã phá đi cuộc sống của họ, phá tan biết bao cơ nghiệp, làm chảy máu và nước mắt của biết bao gia đình. Không những thế chúng còn đặt ra nhiều thứ thuế vô lí bóp nghẹt con đường sống của những người dân lương thiện này.
Lòng tham vô đáy của quân Minh còn được thể hiện ở việc chúng khai thác cạn kiệt tài nguyên khoáng sản. Để đổi lấy vàng ngọc châu báu chúng nhẫn tâm xem nhẹ sinh mạng con người. Hành động ấy còn tàn phá cả môi trường sống, môi trường tự nhiên bằng cách vơ vét sản vật chim trả, hươu đen đến “cả giống côn trùng cây cỏ”.
Quân Minh còn phá hoại cả sản xuất “nghề canh cửi”. Chúng đề ra những việc ép dân nhân trở thành nô lệ, bóc lột tận cùng sức lao động của nhân dân.Tội ác của quân Minh được nhìn nhận ở góc độ tác động đến cuộc sống của nhân dân. Từ đấy cũng cho thấy tấm lòng của Nguyễn Trãi dành cho dân cho nước. Bên cạnh tình cảnh đáng thương của nhân dân, Nguyễn Trãi còn khắc họa hình ảnh của quân thù hiện lên một cách man rợ “thằng há miệng đứa nhe răng máu mỡ bấy no nê chưa chán”. Tội ác ấy khiến cho đất trời phẫn nộ”.
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Lẽ nào trời đất dung tha,
Ai bảo thần nhân chịu được?…”
Những tội ác ấy chồng chất, những lời ai oán không thể giãi bày. Nhân dân rơi vào tình cảnh kêu trời không thấu kêu đất không nghe. Đây là hình ảnh phong đại mang tính biểu tượng cao. Tội ác ấy không sao có thể ghi chép lại được không thể rửa sạch được. Bởi lẽ không ai có thể bù đắp những tổn thương về vật chất tinh thần và sinh mạng cho người dân Đại Việt. Đất trời cũng ngùn ngụt tức giận trước tội ác của quân giặc.
Bằng những lí lẽ sắc bén, cách lập luận chặt chẽ tài tình, Nguyễn Trãi đã nêu ra tiền đề nhân nghĩa của cuộc kháng chiến. Ta chiến đấu là để bảo vệ đất nước, chiến đấu vì mục đích nhân nghĩa – bảo vệ cuộc sống ấm no của nhân dân, chiến đấu vì độc lập dân tộc – bảo vệ cơ đồ nghìn năm của dân tộc ta, và cuối cùng chiến đấu vì không thể ngoảnh mặt làm ngơ trước tình cảnh của đất nước, của nhân dân. Những hình ảnh mạnh mẽ, kết hợp với các biện pháp nghệ thuật đã tạo ra giọng điệu mạnh mẽ, đanh thép oai hùng cho bài thơ.
Với hai đoạn thơ súc tích ngắn gọn cùng với tài năng trong ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Trãi đã giúp làm nổi bật lên tư tưởng chính nghĩa của tác phẩm. Bên cạnh đó tác phẩm đã tố cáo mạnh mẽ tội ác cùng những hành động dã man của kẻ thù. Sâu xa trong ý nghĩa của bài cáo chính là tinh thần yêu nước, niềm tự hào tự tôn dân tộc mãnh liệt của tác giả.
Có thể bạn sẽ thích 🍃 Phân Tích Bình Ngô Đại Cáo Đoạn 4 🍃 12 Bài Văn Hay Nhất