Phân Tích Bài Thơ Hạt Gạo Làng Ta [12+ Mẫu Cảm Nhận Hay]

Phân Tích Bài Thơ Hạt Gạo Làng Ta ❤️ 12+ Mẫu Cảm Nhận Hay ✅ Chọn Lọc Những Bài Văn Mẫu Phân Tích Bài Thơ Hạt Gạo Làng Ta Đặc Sắc Nhất.

Dàn Ý Phân Tích Bài Thơ Hạt Gạo Làng Ta Chi Tiết

Viết bài văn phân tích bài thơ Hạt gạo làng ta của nhà thơ Trần Đăng Khoa với mẫu dàn ý chi tiết sau đây:

I. Mở bài

  • Đôi nét khái quát về tác giả Trần Đăng Khoa
  • Những nét chính dẫn vào bài Hạt gạo làng ta

II. Thân bài

  • Khổ 1: Giá trị của hạt gạo
    • Hạt gạo là sản phẩm mang giá trị vật chất.
    • Hạt gạo là sản phẩm mang giá trị tinh thần vô giá.
  • Khổ 2: Những đắng cay để có được hạt gạo
    • Nỗi vất vả trong khắc phục thiên tai.
    • Sự tàn phá ghê gớm của thiên nhiên.
  • Khổ 3: Ý chí vượt khó của người dân trong chiến tranh để bảo vệ hạt gạo
    • Bom Mĩ bắn phá, người lính lên đường đi đánh giặc.
    • Hậu phương vừa chiến đấu, vừa sản xuất để có được hạt gạo thơm.
  • Khổ 4: Đóng góp của các em thiếu nhi
    • Cùng với cha mẹ giúp sức nhỏ bé để cây lúa được phát triển.
    • Tươi nước, bắt sâu, gánh phân.
  • Khổ 5: Niềm vui của con người trước mùa màng bội thu
    • Hạt gạo được gửi đi muôn nơi.
    • Trẻ em hát vang bài ca về hạt gạo.

III. Kết bài

  • Tóm gọn lại nội dung chính của bài
  • Cảm nhận của em về quá trình làm ra hạt gạo và chân quý những gì do người nông dân vất vả làm ra phục vụ đời sống con người.

Mời bạn xem thêm 🌸 Nghị Luận Về Cây ATM Gạo  🌸sáng tạo!

12+ Mẫu Phân Tích Bài Thơ Hạt Gạo Làng Ta Hay Nhất

Chia sẻ đến bạn đọc những mẫu bài văn phân tích bài thơ Hạt gạo làng ta của nhà thơ Trần Đăng Khoa hay nhất ở bên dưới:

Phân Tích Bài Thơ Hạt Gạo Làng Ta Của Trần Đăng Khoa Đặc Sắc

Bài văn phân tích bài thơ Hạt gạo làng ta của nhà thơ Trần Đăng Khoa đặc sắc đã được biên soạn ở dưới, xem ngay!

Trần Đăng Khoa là một nhà thơ với những áng ngôn từ giàu tình yêu với quê hương, đất nước và thiên nhiên. Nổi bật trong phong cách của Trần Đăng Khoa chính là ngôn từ trong trẻo, dễ gần. Tác phẩm Hạt gạo làng ta được xem là áng văn thơ nổi bật của ông. Phân tích bài thơ Hạt gạo làng ta để tỏ rõ được thông điệp về tình yêu đất nước, quê hương trong thơ văn của ông.

Trần Đăng Khoa quê gốc tại Hải Dương. Từ thuở còn nhỏ, Trần Đăng Khoa đã được nhiều người biết đến với năng khiếu làm thơ. Chỉ mới 8 tuổi, Trần Đăng Khoa đã có bài thơ đầu tiên đăng báo. 2 năm sau đó, tác phẩm đầu tiên của ông cũng đã được Nhà xuất bản Kim Đồng thông qua, có tựa là “Góc sân và khoảng trời”.  Điều này thể hiện được niềm say mê tự nhiên với văn học nghệ thuật của Trần Đăng Khoa. 

Trần Đăng Khoa đã có một khoảng thời gian nhất định làm việc trong quân ngũ. Ông cũng được xem là người rất ham học với khoảng thời gian du học tại Nga. Nhờ vào năng khiếu thiên bẩm cùng khoảng thời gian rèn luyện, học tập, Trần Đăng Khoa đã thể hiện được phong cách thơ văn tuyệt vời, thấm đượm tình yêu thương với quê hương.

Việt Nam vốn dĩ là một quốc gia nông nghiệp, với nghề chính của người dân vẫn là nghề nông. Từ những xóm làng, địa phương trên khắp đất nước đều có sự xuất hiện của ruộng đồng. Hạt gạo sau khi thu hoạch được có màu sắc trắng sữa, tựa như những hạt ngọc của trời. 

Hạt gạo làng ta

Có vị phù sa 

Của sông Kinh Thầy

Có hương sen thơm

Trong hồ nước đầy

 Có lời mẹ hát

Ngọt bùi đắng cay

Hạt gạo là nguồn lương thực quý báu cho con người, với những tâm hồn đầy chất thơ văn nghệ thuật của Trần Đăng Khoa. Hạt gạo còn mang trong mình hương vị Phù sa của sông Kinh Thầy. Phù sa là yếu tố quan trọng để trồng lúa nước, sự xuất hiện của hạt gạo có phần nhiều nhừ vào phù sa màu mỡ. Thêm vào đó, hạt gạo do Trần Đăng Khoa xây dựng nên còn được ướp trong mình hương sen thơm. Hình ảnh hạt gạo dường như gắn liền với những hình ảnh dung dị, quen thuộc nhất của làng quê Việt Nam.

Những miêu tả của Trần Đăng Khoa về hạt gạo dường như thể hiện được sự trân quý của ông. Hạt gạo trắng sữa gắn liền với những chi tiết thân thuộc nhất, dân giã nhất, nhưng cũng quý báu nhất.

Việc trồng được lúa nước là một trong những thành tựu nổi bật trong lịch sử loài ngược. Để lúa nước có thể thành hình với những hạt gạo trắng muốt, nuôi sống con người, là cả một quá trình đầy gian khổ và đắng cay. 

Hạt gạo làng ta 

Có bão tháng bảy

 Có mưa tháng ba 

Giọt mồ hôi sa 

Những trưa tháng sáu 

Nước như ai nấu 

Chết cả cá cờ 

Cua ngoi lên bờ 

Mẹ em xuống cấy..

Thông qua những câu thơ đơn giản, tác giả đã làm nổi bật lên bức tranh khó khăn của việc trồng lúa gạo. Những cơn bão vào tháng bảy, cơn mưa vào tháng ba khiến những ruộng đồng ngập trong biển nước. Những ngày tháng sáu, trời trưa nắng nóng như chảy lửa, nước như “ai nấu”, khiến cho cá cờ chết, cua phải ngoi lên bờ. Nhưng vào thời điểm này, người mẹ vẫn xuống cấy láu. Điều này thể hiện được sự gian khổ, khó khăn, hy sinh của những người nông dân đối với công việc trồng lúa.

Việc trồng lúa trong những năm tháng của cuộc chiến tranh còn thêm khó khăn bội phần. 

Những năm bom Mĩ

Trút lên mái nhà 

Những năm khẩu súng 

Theo người đi xa 

Những năm băng đạn 

Vàng như lúa đồng

Năm tháng chiến tranh đầy khó khăn khiến cho những cánh đồng trồng trọt của người nông dân chìm trong biển lửa. Những người nông dân trong thời điểm chiến tranh không chỉ phải tăng gia sản xuất, mà còn đóng vai trò hậu phương để quan đội ta tiếp tục cuộc trường kỳ kháng chiến.

Thể thơ bốn chữ ngắn gọn với nhịp thơ được xây dựng uyển chuyển. Điều này giúp câu chuyện về hạt gạo làng ta dường như trở nên nhẹ nhàng, đơn giản nhưng cũng rất sâu sắc.

Tác phẩm Hạt gạo làng ta là bài ca nhẹ nhàng về cuộc sống gắn liền với ruộng đồng và lúa gạo của người nông dân. Thông qua phân tích bài thơ hạt gạo làng ta, có thể thấy được tình yêu đất nước, non sông đến từng chi tiết nhỏ nhất của Trần Đăng Khoa.

Quê hương không phải là những điều to lớn, bao la, mà còn là những điều bình dị, nhỏ bé hiện hữu trong cuộc sống này. Biết trân quý những giá trị thiên nhiên, con người, chúng ta dường như càng yêu quý và trân trọng cuộc sống này.

Đọc thêm 🌸 Phân Tích Hơi Ấm Ổ Rơm 🌸 của Nguyễn Duy!

Phân Tích Bài Thơ Hạt Gạo Làng Ta Ngắn Gọn

Tham khảo bài văn phân tích bài thơ Hạt gạo làng ta của nhà thơ Trần Đăng Khoa ngắn gọn sau đây để biết cách làm đề bài này:

Năm 8 tuổi, Trần Đăng Khoa ra mắt tập thơ Góc sân và khoảng trời. Khi ấy, ông được xem như một hiện tượng của thi ca, thần đông của thi ca Việt Nam. Mặc dù còn nhỏ tuổi nhưng thơ của Trần Đăng Khoa để hiện rằng đây là một cậu bé chín chắn. Cách ông làm thơ, cách ông lựa chọn từ ngữ và hình ảnh, mọi thứ đều rất sắc.

Năm 11 tuổi, Trần Đăng Khoa sáng tác bài thơ Hạt gạo làng ta. Bài thơ ra đời tiếp tục gây được ấn tượng mạnh với độc giả. Hạt gạo vốn dĩ đã quen thuộc với người dân Việt Nam nay được đem vào trong thơ. Tuy đề tài không mới nhưng cách thể hiện, cách chiêm nghiệm của tác giả lại mới mẻ và đầy sức thuyết phục.

Bài thơ bắt đầu với việc nói lên giá trị của hạt gạo. Việt Nam vốn là đất nước nông nghiệp đi lên từ cây lúa. Người dân Việt Nam đã quen với đồng ruộng, quen với cây lúa. Vì vậy mà những hạt gạo trắng tinh khôi vẫn được xem như hạt ngọc của đất trời. Hạt ngọc ấy không chỉ mang giá trị về vật chất, là nguồn lương thực chính của người dân Việt Nam mà nó còn mang một giá trị tinh thần vô cùng to lớn:

Hạt gạo làng ta

Có vị phù sa

Của sông Kinh Thầy

Có hương sen thơm

Trong hồ nước đầy

Có lời mẹ hát

Ngọt bùi đắng cay

Hạt gạo lớn lên nhờ đất phù sa màu mỡ, lớn lên nhờ nước của sông Kinh Thầy. Trong hạt gạo có hương thơm giống như hương của loài hoa sen trồng trong hồ nước đầy. Và hạt gạo đi vào trong những câu hát ngọt bùi mẹ vẫn hát mỗi ngày. Nhà thơ Trần Đăng Khoa đã miêu tả hạt gạo với tất cả những gì đẹp đẽ nhất, tinh tế nhất. Hạt gạo vì thế đã gắn liền với đời sống tinh thần của con người. Và để có được những hạt gạo trắng thơm như vậy thì con người đã phải trải qua không ít những khó khăn, gian khổ:

Hạt gạo làng ta

Có bão tháng bảy

Có mưa tháng ba

Giọt mồ hôi sa

Những trưa tháng sáu

Nước như ai nấu

Chết cả cá cờ

Cua ngoi lên bờ

Mẹ em xuống cấy

Chỉ với vài câu thơ ngắn ngủi mà nhà thơ đã diễn tả được hết sự khắc nghiệt của thiên nhiên Việt Nam. Việc cày cấy đối với người nông dân chưa khi nào là thuận lợi. Từ gieo mạ cho tới lúc gặt lúa, ngày ngày người dân đều phải ra thăm đồng, phải tìm cách chống chọi lại với thiên nhiên khắc nghiệt.

Tháng bảy thì trời nổi nhiều bão dông, tháng 3 thì trời mưa xối xả, thân cây lúa thì mềm và rỗng nên nếu không được bảo vệ chúng sẽ không qua nổi những tai ương. Chưa hết, tháng 6 trời nắng như đổ lửa. Người nông dân đã rơi biết bao nhiêu giọt mồ hôi để có được hạt lúa chín.

Cách so sánh nước như ái nấu của nhà thơ đủ khiến người đọc cảm nhận được sự bỏng rát của nước. Nó làm chết những con cá cờ. Những con cua sống ở dưới nước cũng phải ngoi lên bờ. Vậy mà trong hoàn cảnh này, mẹ em lại xuống cấy. Mẹ em hay bất cứ một người nông dân nào khác đã phải vượt qua sự khắc nghiệt của thiên nhiên để có thể mang đến một mùa màng bội thu.

Tuy vậy, sự khắc nghiệt của thiên nhiên không phải là tất cả những gì người nông dân trải qua. Có một thứ còn khủng khiếp hơn thiên nhiên đó chính bom đạn của giặc Mĩ:

Những năm bom Mĩ

Trút lên mái nhà

Những năm khẩu súng

Theo người đi xa

Những năm băng đạn

Vàng như lúa đồng

Bát cơm mùa gặt

Thơm hào giao thông

Năm 1969 là năm mà giặc Mĩ đang tàn phá đất nước ta. Chúng ném bom, gieo tội ác trên mảnh đất Việt Nam. Biết bao nhiêu chàng trai, cô gái đã cầm súng lên đường ra nơi chiến tuyến để bảo vệ đất nước, bảo vệ nền hòa bình. Còn các bà, các mẹ ở nhà trở thành hậu phương vững chắc.

Bên cạnh việc chiến đấu họ vẫn tiếp tục sản xuất và bảo vệ thành quả lao động của mình. Hình ảnh băng đạn của giặc vàng như lúa đồng cho thấy sức tàn phá khủng khiếp của chiến tranh nhưng người dân không vì thế mà run sợ. Khổ thơ đã ca ngợi ý chí của người nông dân, sẵn sàng đương đầu với thử thạch để bát cơm mùa gặt thơm hào giao thông.

Đóng góp vào sự phát triển của cây lúa còn có công lao của các bạn nhỏ. Những đứa trẻ đang tuổi ăn, tuổi chơi nhưng đã biết giúp gia đình tưới nước chống hạn cho ruộng lúa, bắt sâu vào buổi trưa cho sâu khỏi ăn lúa, gánh phân để bón cho cây lúa phát triển:

Hạt gạo làng ta

Có công các bạn

Sớm nào chống hạn

Vục mẻ miệng gàu

Trưa nào bắt sâu

Lúa cao rát mặt

Chiều nào gánh phân

Quang trành quét đất

Có thể thấy trong qua những câu thơ, các bạn nhỏ đã gặp phải nhiều khó khăn trong công việc nhưng họ vẫn làm việc với sự hăng say nhất. Đó chính là tuổi trẻ, là tương lai của đất nước. Chính họ đã góp phần làm nên những hạt gạo dẻo thơm. Để rồi khi lúa chín, mùa màng bội thu là niềm vui chung của đất nước. Hạt gạo được gửi đi đến muốn nơi, gieo nên sự sống, gieo nên niềm vui cho con người:

Hạt gạo làng ta

Gửi ra tiền tuyến

Gửi về phương xa

Em vui em hát

Hạt vàng làng ta

Đến câu kết của bài thơ, nhà thơ đã gọi hạt gạo là hạt vàng. Ở đây, hẳn tác giả muốn nói hạt gạo quý giá như hạt vàng. Đây là một sự so sánh rất đúng, thể hiện được cái nhìn tinh tế của nhà thơ.

Bài thơ rõ ràng được viết với một sự chiêm nghiệm sâu sắc. Nhà thơ hẳn đã chứng kiến, đã trải qua, đã hòa mình vào cùng đám trả tát nước, bắt sâu, gánh phân mới có thể làm nên một bài thơ tuyệt vời đến vậy.

Chủ đề 🌸 Cảm Nhận Về Bài Thơ Khi Mẹ Vắng Nhà  🌸 hay nhất!

Phân Tích Bài Thơ Hạt Gạo Làng Ta Violet

Chia sẽ bài văn phân tích bài thơ Hạt gạo làng ta của nhà thơ Trần Đăng Khoa hay.

Bài thơ Hạt gạo làng ta của Trần Đăng Khoa viết năm 1969 khi nhà thơ còn là một cậu bé 11 tuổi. Thế mà bài thơ lại có tầm suy nghĩ của người lớn: chín chắn, chững chạc làm sao. Tứ thơ của bài thơ được phát triển bắt đầu từ ý khái quát: hạt gạo được kết tinh từ những hương vị ngọt ngào của quê hương. Đó là hương đồng gió nội, là bài ca lao động, là lời ru của mẹ, là vị phù sa màu mỡ của đất đai quê nhà.

Nhưng hạt gạo cũng còn được làm ra từ trong khó khăn của thiên tai, từ trong khói lửa của chiến tranh. Hạt gạo không chỉ là sản phẩm vật chất mà còn là sản phẩm tinh thần vô giá:

“Hạt gạo làng ta  
Có vị phù sa 
Của sông Kinh Thầy 
Có hương sen thơm 
Trong hồ nước đầy 
Có lời mẹ hát 
Ngọt bùi đắng cay”

Các khổ 2 và 3 của bài thơ tập trung thể hiện những “đắng cay”mới có được hạt gạo dẻo thơm. Trong một bài ca dao ông cha đã từng nhắc nhở:

“Ai ơi bưng bát cơm đầy.
Dẻo ngon một hạt đắng cay muôn phần”.

Vị đắng cay mà Trần Đăng Khoa muốn nói đến là nỗi vất vả trong khắc phục thiên tai để sản xuất của người nông dân. Những bão lụt, hạn hán dồn dập… Điệp từ “có” kết hợp với số từ “bảy”, “ba”, “sáu”, nhà thơ đã thể hiện được sự tàn phá ghê gớm của thiên nhiên:

“Hạt gạo làng ta
Có bão tháng bảy
Có mưa tháng ba
Giọt mồ hôi sa
Những trưa tháng sáu
Nước như ai nấu
Chết cả cá cờ
Cua ngoi lên bờ
Mẹ em xuống cấy”

Bài thơ ca ngợi ý chí vượt khó của mẹ, của bà con nông dân trước sự khắc nghiệt của thiên nhiên. Những năm 60, 70, giặc Mĩ leo thang bắn phá miền Bắc. Chúng hòng phá hoại những thành quả xây dựng ta, nhằm ngăn chặn sự chi viện của hậu phương lớn miền Bắc đối với tiền tuyến lớn miền Nam. Những trai làng phải lên đường đánh giặc:

“Những năm bom Mĩ
Trút lên mái nhà
Những năm khẩu súng
Theo người đi xa”

Ở quê nhà là các bà, các chị. Họ vừa phải sản xuất vừa phải chiến đấu để bảo vệ thành quả lao động của mình, bảo vệ quê hương bình yên với đồng lúa thẳng cánh cò bay. Ngày ấy, hình ảnh các cô gái súng quàng vai, lưng đeo băng đạn cả khi cày khi cấy trở thành một biểu tượng đẹp của con người Việt Nam. Đó là sự kết hợp đẹp giữa chiến đấu và sản xuất:

“Những năm băng đạn
Vàng như lúa đồng
Bát cơm mùa gặt
Thơm hào giao thông”

Những năm tháng gian khổ ấy, các em thiếu nhi cũng muốn đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào công cuộc xây dựng đất nước:

“Hạt gạo làng ta
Có công các bạn
Sớm nào chống hạn
Vục mẻ miệng gàu
Trưa nào bắt sâu
Lúa cao rát mặt
Chiều nào gánh phân
Quang trành quết đất”

Các em tham gia một cách tự giác, chăm chỉ. Sự chăm chỉ ấy được bài thơ thể qua các từ: sớm, trưa, chiều. Sự đối lập giữa sức vóc bé nhỏ với công việc người lớn mà các em tham gia được tác giả khắc họa một cách khá ngộ nghĩnh và xúc động.

Khổ cuối, tác giả nâng giá trị của hạt gạo thành: “Hạt vàng làng ta“. Hạt gạo quý như hạt vàng. Điệp khúc “Hạt gạo làng ta” ở mỗi khổ thơ thể hiện được sự trân trọng tự hào của nhà thơ đối với quê hương. Ta có thể nhận ra những”hạt vàng” lấp lánh trong bài thơ.

Phân Tích Nghệ Thuật Bài Thơ Hạt Gạo Làng Ta Nâng Cao

Gợi ý cho bạn bài văn phân tích nghệ thuật trong bài thơ Hạt gạo làng ta của nhà thơ Trần Đăng Khoa nâng cao cho học sinh giỏi:

Những vẫn thơ cho bạn điều gì? Đọc thơ bạn cảm nhận được gì về ý nghĩa bên trong đó? Mỗi người khi cảm nhận về một tác phẩm nghệ thuật đều có những cái nhìn và góc độ đánh giá riêng, điều đó là trách nhiệm của độc giả khi đón nhận tác phẩm.

Đã bao giờ bạn tự hỏi, những nhà văn, nhà thơ có trách nhiệm như thế nào trong tác phẩm do chính tác giả sáng tác như thế nào chưa? Tôi cũng như các bạn ở đấy để tìm hiểu về điều đó. Có lẽ chính vì tự ý thức được trách nhiệm trong tác phẩm của mình mà nhà thơ Trần Đăng Khoa – một trong những nhà văn, nhà thơ, chính trị gia đa tài của dân tộc Việt Nam đã sáng tạo ra những tác phẩm mang ý nghĩa sâu sắc.

Nổi bật trong sáng tác của ông chính là Bài thơ Hạt gạo làng ta – tác phẩm hay về vần thơ và độc đáo về ý nghĩa, để lại một ấn tượng sâu sắc trong kí ức của tuổi trẻ, những độc giả được thưởng thức tác phẩm nghệ thuật tuyệt vời này.

Bài thơ Hạt gạo làng ta hiện lên với vẻ đẹp về vần điệu và cả ở ý nghĩa, được Trần Đăng Khoa sáng tác và rút trong tập thơ Góc sân và khoảng trời, trong cuộc kháng chiến gian khổ và đầy khốc liệt của dân tộc Việt Nam khi chống Mĩ cứu nước.

Sáng tác bài thơ khi ở độ tuổi còn rất trẻ, với những suy nghĩ táo bạo và sáng tạo. Nhà thơ Trần Đăng Khoa sáng tác bài thơ Hạt gạo làng ta trong một hoàn cảnh cũng đặc biệt, trong những ngày tháng đó, những người nông dân dù trải qua ngày tháng khổ cực vẫn cố gắng tăng gia sản xuất.

Những câu đầu của bài thơ, hạt gạo làng ta hiện lên với nguồn gốc thể hiện giá trị của hạt gạo:

“Hạt gạo làng ta

Có vị phù sa

Của sông Kinh Thầy

Có hương sen thơm

Trong hồ nước đầy

Có lời mẹ hát

Ngọt bùi đắng cay.”

Các bạn đã biết, Việt Nam – đất nước xinh đẹp của chúng ta là đất nước có truyền thống nền nông nghiệp lúa nước từ rất lâu đời, nó đã trở thành truyền thống, phong tục tập quán của dân tộc ta. Những hạt gạo trắng ngần, có hương vị của phù sa sông Kinh Thầy chảy qua bồi đắp, thoang thoảng hương sen thơm ngát và đâu đó có cả những lời ru ngọt ngào của mẹ trong hương thơm của sen.

Hạt gạo là thứ quà thiên nhiên ban tặng cho con người, nuôi sống chúng ta từng ngày, nhà thơ Trần Đăng Khoa đã khéo léo sử dụng các hình ảnh thân thuộc nhất của đồng quê Việt Nam để khắc họa hình ảnh hạt gạo manh vẻ đẹp mộc mạc, tinh khiết gắn bó với hoạt động của người lao động, của khung cảnh thân thương mà đẹp đẽ.

Để làm nên hạt gạo phục vụ con người, người nông dân trải qua quá trình lao động vất vả gian khổ mới cho ra được những hạt gạo nhỏ bé mà tinh khiết đó:

“Hạt gạo làng ta

Có bão tháng bảy

Có mưa tháng ba

Giọt mồ hôi sa

Những trưa tháng sáu

Nước như ai nấu

Chết cả cá cờ

Cua ngoi lên bờ

Mẹ em xuống cấy”

Những câu thơ được Trần Đăng Khoa khắc họa mang vẻ đẹp của người lao động nhưng cũng thấy được những gian khổ của người nông dân. Khó khăn trong nông nghiệp chủ yếu là về thời tiết khắc nghiệt. Nỗi khó nhọc của người nông dân trước những hiện tượng thiên nhiên, biến đổi khí hậu có bão vào tháng bảy hàng năm, mưa như trút nước vào tháng ba và cái nắng chói chang giữa trưa của tháng sáu.

Những người nông dân vẫn miệt mài dù cho giọt mồ hôi đã rơi nhiều trên khuôn mặt rám nắng da ngăm của những người nông dân tần tảo, những khắc nghiệt, biến đổi của thời tiết đã tạo ra nhiều những thách thức cho lao động của người dân và cho cây lúa của chúng ta. Nắng chiếu vào làm cho nguồn nước nóng bỏng, có hại cho cây lúa, những khó khăn đó không làm lùi bước đi sự chăm chỉ và cần cù của những người nông dân chịu thương, chịu khó. 

Tạo ra hạt gạo bé nhỏ trải qua nhiều quá trình, những gian khổ đổ mồ hôi, công sức có khi là cả nước mắt, cho chúng ta thấy được vẻ đẹp của người nông dân lao động trong hàng triệu người nông dân trên đất nước Việt Nam, ca ngợi những người lao động miệt mài, chăm chỉ đổi lấy hạt gạo và bát cơm ngọt đầy. Đó chính là những phẩm chất quý giá của con người lao động Việt Nam chịu khó, tần tảo. Dù trong bất kì hoàn cảnh nào cũng vượt qua khó khăn, những khắc nghiệt của thiên nhiên cũng không làm nản đi ý chí và nguyện vọng có cuộc sống đầy đủ và hạnh phúc.

Hạt gạo qua những năm tháng kháng chiến cũng vô cùng cực khổ được tác giả khắc họa qua các câu thơ:

 “Những năm bom Mĩ

Trút lên mái nhà

Những năm khẩu súng

Theo người đi xa

Những năm băng đạn

Vàng như lúa đồng

Bát cơm mùa gặt

Thơm hào giao thông”

Những năm kháng chiến gian khổ, hạt gạo đã nuôi dưỡng con người, bị những tàn phá do bom đạn, khung cảnh của cuộc kháng chiến chống Mĩ gian khổ, đạn bom tàn phá mọi nẻo đường, mọi sự vật trên đất nước chúng ta, nhưng chính vì những khó khăn đó mà tạo nên con người Việt Nam kiên cường, họ sẵn sàng ra đi bảo vệ tổ quốc, là những thanh niên yêu nước đi làm nhiệm vụ.

Trong bất kì hoàn cảnh nào, họ luôn trong tâm thế chiến đấu bảo vệ tổ quốc, những người ra chiến trận là thế nhưng luôn có hậu phương vững chắc vẫn tăng gia sản xuất, làm ra những hạt gạo và nấu thành cơm để cung cấp, hỗ trợ cho chiến trường không ngại hiểm nguy những người nông dân ý chí và bản lĩnh kiên cường họ vẫn không chùn bước để sản xuất hạt gạo.

Những người nông dân đã trở thành tấm gương và hậu phương vững chắc cho chiến trường để người lính vững bước cùng nhau hợp lực chiến thắng mọi kẻ thù.

“Hạt gạo làng ta

Có công các bạn

Sớm nào chống hạn

Vục mẻ miệng gàu

Trưa nào bắt sâu

Lúa cao rát mặt

Chiều nào gánh phân

Quang trành quét đất”

Để có được hạt gạo chân quý không thể không kể đến công lao của mọi thế hệ các thanh niên Việt Nam cũng được tác giả khắc họa rõ nét, để có được thắng lợi trên mọi mặt trận cần có sự đồng lòng và giúp đỡ lẫn nhau.

Qua những câu thơ có thể thấy những bạn nhỏ tuy còn nhỏ tuổi nhưng đã biết giúp đỡ vào công việc trồng lúa. Những miệt mài chăm sóc cây lúa, để cây lúa có thể phát triển tốt nhất có thể nói, hạt gạo có được cũng trải qua nhiều khó khăn nhưng những đóng góp của các bạn trẻ là rất đáng quý đó là đóng góp vào sự nghiệp chung trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. 

Mọi lứa tuổi, nhất là thanh niên đã đóng góp công sức của mình vào sự nghiệp chung của đất nước, chính nhờ vào bàn tay góp sức mà hạt gạo trắng thơm được gửi đi đến khắp muôn nơi và mang đến biết bao nhiêu niềm vui cho cả người cho và nhận:

“Hạt gạo làng ta

Gửi ra tiền tuyến

Gửi về phương xa

Em vui em hát

Hạt vàng làng ta”

Trong bài thơ tác giả nhấn mạnh đến từ “hạt gạo” để thấy được sự trân trọng đối với những tinh túy ông trời ban tặng và con người vất vả tạo ra, tác giả đã gọi đó là “hạt vàng” thể hiện tầm quan trọng của hạt gạo đối với con người không chỉ giúp cho sinh hoạt cuộc sống mà khó khăn lắm mới có thể nhận được những hạt gạo tinh khiết, qua đó ca ngợi cuộc sống lao động vất vả của người nông dân tạo ra hạt gạo.

Bài thơ đã cho chúng ta thấy được vẻ đẹp và nguồn gốc của hạt gạo qua nhiều thời kì cùng với con người vượt qua những khó khăn, thăng trầm trong cuộc sống. Với thể thơ ngắn gọn, dễ hiểu 4 chữ, giọng thơ gần gũi, uyển chuyển, với nhiều hình ảnh đặc sắc về hạt gạo cũng như những người nông dân Việt Nam cần cù chịu khó.

Bài thơ Hạt gạo làng ta được Trần Đăng Khoa khắc họa thật đẹp và sinh động thể hiện tài năng nghệ thuật của ông với suy nghĩ và sáng tạo không ngừng. Với những vẫn thơ đó, tác giả muốn gửi gắm thông điệp đến con người về tâm quan trong của hạt gạo với cuộc sống con người và hãy biết trân trọng thành quả của người lao động, yêu quý những người nông dân cần cù, mộc mạc.

Từ đó, mỗi cá nhân sống trên đất nước Việt Nam hãy cố gắng lao động và góp công sức của mình vào sự nghiệp phát triển của đất nước đồng thời biết bảo vệ và trân trọng công sức lao động của con người góp phần xây dựng cuộc sống tươi đẹp và hạnh phúc.

Chọn lọc văn 🌸 Phân Tích Bài Thơ Dáng Đứng Việt Nam  🌸 đặc sắc!

Phân Tích Vẻ Đẹp Bài Thơ Hạt Gạo Làng Ta Sáng Tạo

Mời bạn tham khảo bài văn phân tích vẻ đẹp của bài thơ Hạt gạo làng ta của nhà thơ Trần Đăng Khoa sáng tạo dưới đây:

Trần Đăng Khoa được biết tới là một thi sĩ thần đồng với vô số những sáng tác rực rỡ viết về quê hương, tổ quốc, con người với giọng điệu trong trẻo, hồn nhiên. Trong số những tác phẩm của thi sĩ, có nhẽ “Hạt gạo làng ta” chính là bài thơ để lại nhiều những ấn tượng trong lòng độc giả. Bài thơ đã gợi lên tình yêu quê hương, tổ quốc, con người từ những hình ảnh rất đỗi bình dị và thân yêu của làng quê Việt Nam.

Hạt gạo làng ta
Có vị phù sa
Của sông Kinh Thầy
Có hương sen thơm
Trong hồ nước đầy
Có lời mẹ hát
Ngọt bùi đắng cay…

Việt Nam ta vốn là tổ quốc nông nghiệp với hình ảnh thân thuộc của ruộng đồng, thôn xóm, hạt gạo … Hạt gạo trắng sữa đã được xem như là hạt ngọc quý giá trời cho với vị phù sa nồng nàn của con sông Kinh Thầy thân thuộc, hương thơm thanh mát của hồ sen và xuất hiện trong cả những lời mẹ hát ru con với sự “ngọt bùi đắng cay” da diết. 

Chính những hạt lúa nhỏ nhỏ, trắng tinh khôi đó chính là thứ mang lại nguồn lương thực và cả trị giá ý thức vô cùng lớn lao dành cho mọi người. Hình như, thi sĩ Trần Đăng Khoa đã mô tả vẻ đẹp của những hạt gạo bằng những hình ảnh thân thuộc, gắn bó với nhân dân nhưng lại là những gì đẹp tươi nhất và tinh túy nhất.

Hạt gạo làng ta
Có bão tháng bảy
Có mưa tháng ba
Giọt mồ hôi sa
Những trưa tháng sáu
Nước như ai nấu
Chết cả cá cờ
Cua ngoi lên bờ
Mẹ em xuống cấy…

Qua những dòng viết của thi sĩ, ta thấy hiện lên biết bao nhiêu những trở ngại làm tác động tới việc canh tác, cấy cày. Trở ngại đó phần lớn tới từ sự khắc nghiệt của tự nhiên, khí hậu. 

Chắc hẳn ta vẫn nhớ một bài ca dao rất đỗi thân thuộc của ông cha: “Người nào ơi bưng bát cơm đầy” – “Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”. Cái “đắng cay” phải chăng chính là nỗi cực nhọc của người nông dân lúc phải đương đầu với những trở ngại của tự nhiên. Đó là bão giông lúc tháng bảy về, là mưa tuôn lúc tháng ba tới và trời nắng như cháy da bỏng thịt của những trưa tháng sáu. Những biến động đó của thời tiết là những thử thách rất lớn đối với cây lúa vốn là loại thân mềm lại rỗng ở phía bên trong. Thế nhưng những thử thách đó dù có lớn tới như thế nào thì cũng không thể làm khó được con người.

Không đổ mồ hôi rơi nước mắt, nhưng mà người mẹ trong bài thơ cũng như rất nhiều những người nông dân khác đều phải trải qua rất nhiều những nặng nhọc chỉ mong có thể lấy công sức đó đổi lấy những hạt lúa căng tròn và chén cơm mát ngọt. Điều đó làm cho ta có thể cảm thu được những phẩm chất lao động đáng quý của người nông dân Việt Nam. Dù cho bão táp, mưa dầm, nắng rọi làm cho “nước như người nào nấu”, họ vẫn ko quản nặng nhọc, vẫn chịu khó, siêng năng làm lụng chỉ để mong có một mùa thu hoạch thuận tiện, để cuộc sống được đủ đầy hơn, no đủ hơn,…

Hạt gạo làng ta
Những năm bom Mỹ
Trút trên mái nhà
Những năm cây súng
Theo người đi xa
Những năm băng đạn
Vàng như lúa đồng

Những câu thơ trên đã tái xuất hiện quang cảnh tổ quốc trong những năm cuộc kháng chiến chống Mĩ diễn ra vô cùng khốc liệt. Để tàn phá tổ quốc ta, chúng ko ngại đổ xuống đất ta vô vàn những trận mưa bom, bão đạn với sức hủy diệt gớm ghê. Trước hoàn cảnh đó, bao lớp thanh niên đã đi theo tiếng gọi của tình yêu tổ quốc để xung phong vào trận mạc làm nhiệm vụ chống lại quân thù, bảo vệ nền hòa bình cho tổ quốc. Đó là nhiệm vụ rất đỗi lớn lao. 

Lúc này, những người ở lại đảm nhiệm một vai trò cũng lớn lao ko kém, là một hậu phương vững chắc bằng cách tăng gia sản xuất để có thể làm ra lúa gạo cung ứng cho quân nhân ta. Phân tích bài thơ Hạt gạo làng ta, người đọc cũng thấy quá trình làm ra hạt gạo đã ko hề dễ dàng vì sự xuất hiện của những hiện tượng thời tiết khắc nghiệt như đã nói, nhưng những người nông dân đã vượt qua rất xuất sắc.

Đó vậy nhưng mà bao nhiêu thành tích lao động sắp được gặt hái thì lại đứng trước nguy cơ bị tàn phá ko tiếc thương của bom đạn quân thù. Hình ảnh băng đạn của giặc “vàng như lúa đồng” đã cho thấy sức tàn phá vô cùng của chiến tranh. Vậy là người nông dân phải ra sức bảo vệ lấy chúng để rồi vẫn dành cho đời, nhất là những anh quân nhân chiến sĩ những thành tích ngọt ngào:

Bát cơm mùa gặt
Thơm hào giao thông…

Hoàn cảnh của chiến tranh tuy có nghiệt ngã, khốc liệt nhưng lại là dịp để làm nổi trội lên ở người nông dân ý chí, lòng quyết tâm, sự can trường và ý thức sẵn sàng đương đầu với mọi khó khăn, thử thách. Dù có lúc sự nguy hiểm dọa nạt tới sinh mạng con người nhưng họ vẫn ko hề lùi bước để có được “bát cơm mùa gặt” – “thơm hào giao thông”. 

Tương tự, họ thật sự đã trở thành tấm gương, là hậu phương vững vàng và đồng thời cũng là động lực để cho những người chiến sĩ nơi chiến trường có thêm lí do để quyết tâm đấu tranh và mang về thắng lợi. Và quả thực, cuộc kháng chiến chống Mĩ của ta đã đi từ thắng lợi này tới thắng lợi khác để rồi cuối cùng cả hai miền Nam – Bắc được vui thú vui thống nhất… Phân tích bài thơ Hạt gạo làng ta sẽ nhìn thấy thành tích đó đương nhiên được tạo nên ko chỉ từ một cá thể, một tổ chức nhưng mà lại hợp sức và đồng lòng của cả tổ quốc, dân tộc.

Như đã nói, để làm nên sự thắng lợi thì cần tới sự hợp lực của đông đảo mọi người, với công việc sản xuất cấy cày ở địa phương, ko chỉ có người lớn nhưng mà trẻ em cũng có thể tham gia như một sự đóng góp cho công viêc chung của tổ quốc:

Hạt gạo làng ta
Có công các bạn
Sớm nào chống hạn
Vục mẻ miệng gàu
Trưa nào bắt sâu
Lúa cao rát mặt
Chiều nào gánh phân
Quang trành quết đất

Hình ảnh những bạn nhỏ xuất hiện tạo nên một ko khí mới cho đoạn thơ dù ở đoạn thơ trước đó tác giả trình bày sự căng thẳng, nguy hiểm của trận mạc. Phân tích bài thơ Hạt gạo làng ta, người đọc nhận thấy dù còn ở tuổi nhỏ nhưng những đứa trẻ đã biết phụ tạo điều kiện cho gia đình những công việc tuy nhỏ nhưng ko kém phần quan trọng. Điều này đã giúp những cánh đồng có thể tăng trưởng tốt nhất: nào là tưới nước để lúa ko bị khô cằn vì nắng hạn, nào là bắt sâu ban trưa để chúng ko thể phá hoại cây và cả gánh phân chăm bón để cây lúa có chất dinh dưỡng và tăng trưởng được tốt nhất. 

Những bạn nhỏ đó đã làm việc với ý thức hăng say ko khác gì người lớn. Điều đó khiến ta như cũng thấy thêm hoan hỉ, tự hào vì công cuộc xây dựng tổ quốc có cả sự góp sức của sức trẻ. Tương tự, có thể thấy thế hệ nào cũng có thể đóng góp một phần công sức của mình vào sự nghiệp chung của dân tộc, dù nhỏ thôi nhưng đã trình bày tấm lòng thật tình dành cho quê hương xứ sở. Riêng những bạn nhỏ trong bài thơ, chính nhờ vào bàn tay góp sức nhưng mà hạt gạo trắng thơm được gửi đi tới khắp muôn nơi và mang tới biết bao nhiêu thú vui cho cả người cho và nhận:

Hạt gạo làng ta
Gửi ra tiền tuyến
Gửi về phương xa
Em vui em hát
Hạt vàng làng ta…

Phân tích bài thơ Hạt gạo làng ta dễ dàng nhìn thấy tác giả nhắc nhiều tới từ “hạt gạo”, thế nhưng trong đoạn thơ này, tác giả đã gọi hạt gạo là “hạt vàng”. Thi sĩ dường như muốn trình bày sự trân trọng đối với trị giá vô cùng quý giá của hạt gạo đó. Nó ko chỉ quý vì có thể giúp con người ấm lòng no bụng nhưng mà còn quý vì chứa đựng biết bao nhiêu mồ hôi, nước mắt và sự nỗ lực của những người làm ra.

Có thể thấy bài thơ “Hạt gạo làng ta” dù được sáng tác bởi một Trần Đăng Khoa nhỏ tuổi nhưng lại trình bày những suy nghĩ của một người chín chắn, trưởng thành. Sau những vần thơ ngắn gọn đó, ta cảm thu được sự quý giá của hạt gạo nói riêng và thành tích của người lao động nói chung. Từ sự cảm nhận đó, ắt hẳn thi sĩ cũng mong muốn mỗi người hãy biết góp sức xây dựng và đồng thời phải biết trân trọng những thành tích ngọt ngào được làm ra.

Văn mẫu 🌸 Phân Tích Bài Thơ Thuật Hứng 24 🌸 tiêu biểu!

Em Hãy Phân Tích Bài Thơ Hạt Gạo Làng Ta Hay

Nếu bạn vẫn chưa biết cách làm bài văn phân tích bài thơ Hạt gạo làng ta của nhà thơ Trần Đăng Khoa thì đừng bỏ qua bài viết này:

Trần Đăng Khoa là nhà thơ thần đồng với nhiều sáng tác gắn liền với quê hương, đất nước, những điều bình dị, gần gũi với trẻ em. “Hạt gạo làng ta” là một tác phẩm như thế. Chỉ với một bài thơ nhỏ, tác tác đã gợi lên vẻ đẹp và tình yêu quê hương, đất nước cũng như phẩm chất chất phác của người nông dân cùng hình ảnh làng quê Việt Nam bình dị, thân thương.

“Hạt gạo làng ta

Có vị phù sa

Của sông Kinh Thầy

Có hương sen thơm

Trong hồ nước đầy

Có lời mẹ hát

Ngọt bùi đắng cay.”

Hình ảnh quen thuộc của đất nước nông nghiệp như nước ta là đồng ruộng, là thôn xóm, là lúa rơm, là hạt gạo. Hạt gạo được xem như hạt ngọc quý giá màu trắng sữa, là kết tinh của vị phù sa của sông Kinh Thầy – con sông quê hương của tác giả, của hương thơm của hoa sen và của lời mẹ hát với ngọt bùi lẫn đắng cay.

Bởi thế, hạt gạo thật đáng quý. Những hạt gạo bé nhỏ ấy mang lại nguồn lương thực, nuôi dưỡng đời sống thể chất và tinh thần cho “làng ta”. Hạt gạo quý giá vì hạt gạo mang vẻ đẹp của những gì thân thuộc và tinh túy nhất của làng quê và cả tấm lòng của người nông dân chân lấm tay bùn.

Hạt gạo không bỗng nhiên hay nhanh chóng có mặt với những gì bình dị mà tinh túy ấy. Mà để có được hạt gạo, con người phải trải qua nhiều khăn, gian khổ:

“Hạt gạo làng ta

Có bão tháng bảy

Có mưa tháng ba

Giọt mồ hôi sa

Những trưa tháng sáu

Nước như ai nấu

Chết cả cá cờ

Cua ngoi lên bờ

Mẹ em xuống cấy”

Đó là những cơn bão tháng bảy, những cơn mưa tháng ba, những tháng sáu khô hạn. Những điều kiện thời tiết ảnh hưởng nhiều đến đồng ruộng. Nhưng giữa những khắc nghiệt của thiên nhiên, những ngày nắng nóng đến “chết cả cá cờ”, “cua ngoi lên bờ” “mẹ em” phải xuống đồng để cày cấy.

Đến đây hẳn ta vẫn còn nhớ từng được bà, được mẹ đọc cho câu ca dao: “Ai ơi bưng bát cơm đầy” – “Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”. Cái “đắng cay” trong bài ca dao và cái “đắng cay” trong lời hát của mẹ chính là nỗi cực nhọc ngày đêm của người nông dân, lao động là vinh quang, nhưng thiên nhiên gây ra trở ngại muôn phần. Cây lúa vốn là giống thân mềm, rỗng bên trong, nên những biến động thời thiết thực sự là thử thách lớn.

Nhưng thiên nhiên khắc nghiệt là vậy, ý chí, sự kiên trì và siêng năng của người nông dân vẫn muôn lần chiến thắng và gặt được gạo dẻo thơm, để có bát cơm đầy, để ấm no, đủ đầy. Qua đây, ta thấy được phẩm chất quý giá của người nông dân Việt Nam, bão táp mưa sa, nắng nóng khô hạn họ vẫn không ngại khó khăn mà ra đồng.

Điểm nhấn tiếp theo dễ thấy khi đọc bài thơ là tầm quan trọng to lớn của hạt gạo làng ta, khi nhân dân kiên cường bảo vệ hạt gạo trong cuộc chiến chống giặc ngoại xâm.

Lúc này, ta thấy những gian khó của người nông dân phải đối mặt không chỉ là sự khắc nghiệt của thiên nhiên mà đáng sợ hơn, nguy hiểm hơn là bom đạn chiến tranh.

“Những năm bom Mĩ

Trút lên mái nhà

Những năm khẩu súng

Theo người đi xa

Những năm băng đạn

Vàng như lúa đồng”

Đoạn thơ trên đã tái hiện bối cảnh đất nước trong cuộc chiến chống đế quốc Mỹ ác liệt. Tội ác chiến tranh với nào mưa bom, bão đạn đã tàn phá đất nước ta, hủy diệt bao làng mạc, giết hại bao người. Trước bối cảnh này, lớp lớp thanh niên xung phong ra trận mạc theo tiếng gọi của lòng yêu nước, của máu sôi lửa giận quân thù.

Tiền tuyến là quan trọng nhưng giữ vai trò lớn lao không thể phủ nhận, là hậu phương, là nền sản xuất đảm bảo cho bộ đội có đủ lương thực lấy sức chống giặc. Vì vậy nắng mưa vất cũng không thể làm thoái lui ý chí chiến đấu kiên cường, lòng kiên trì, chịu khó của người nông dân.

Thế nhưng, bao nhiêu công sức, bao nhiêu mồ hôi nước mắt, thành quả lao động sắp đến ngày thu hoạch thì lại bị đe dọa hủy hoại bởi bom đạn kẻ thù. Băng đạn mà “vàng như lúa đồng” thì mới thấy sức tàn phá, tội ác của chiến tranh thật khủng khiếp. Và một lần nữa, người nông dân lại ra sức bảo vệ, lại thầm lặng chiến đấu để mang cho quân dân những “hạt ngọc”, “hạt vàng”:

“Bát cơm mùa gặt

Thơm hào giao thông”

Trong hòa cảnh chiến tranh khốc liệt, người nông dân trở nên can trường và quyết tâm hơn bao giờ hết. Vì tiền tuyến, vì cuộc chiến giành độc lập phía trước, họ luôn sẵn sàng đương đầu và vượt qua mọi gian khổ. Sự hiểm nguy rình rập, nhưng họ luôn tiến lên để có bát cơm mùa gặt, “thơm hào giao thông”.

Mọi sự thắng lợi đều cần đến sự hợp lực, sự đồng lòng của mọi người. Các chiến sĩ cùng nhau chiến đấu nơi tiền tuyến, ở hậu phương, không chỉ người nông dân mà còn có các em nhỏ, những thanh thiếu thiên cùng góp sức tăng gia sản xuất.

 “Hạt gạo làng ta

Có công các bạn

Sớm nào chống hạn

Vục mẻ miệng gàu

Trưa nào bắt sâu

Lúa cao rát mặt

Chiều nào gánh phân

Quang trành quét đất”

Chính sự tham gia của những bạn nhỏ đã mang đến một “bầu không khí” khác cho bài thơ, làm dịu xuống những hiểm nguy, gian khổ trước đó. Như vậy, những em nhỏ cũng biết giúp gia đình, cha mẹ và không kém phần quan trọng. Như bác Hồ dặn dò, “tuổi nhỏ làm việc nhỏ/tùy theo sức của mình”.

Tinh thần hăng say làm việc của các nhỏ đã làm sống dậy niềm hân hoan, niềm tự hào, sự tươi trẻ cho công cuộc xây dựng đất nước. Và hơn hết, ta hiểu rõ, dù ở lứa tuổi nào chúng ta đều có cùng một tình yêu quê hương xứ sở mình. Những bạn nhỏ trong bài thơ này của Trần Đăng Khoa với những bàn tay nhỏ xinh góp sức mang đến những hạt gạo trắng thơm, gửi đi khắp mọi miền đất nước:

 “Hạt gạo làng ta

Gửi ra tiền tuyến

Gửi về phương xa

Em vui em hát

Hạt vàng làng ta”

Tong suốt bài thơ, tác giả nhắc nhiều đến “hạt gạo”, nhưng ở câu cuối cùng, hạt gạo được gọi là  “hạt vàng”. Điều này thể hiện sự trân trọng đối với hạt gạo cũng như sự khẳng định giá trị quý giáo của hạt gạo. Bởi suốt chiều dài bài thơ ta thấy, để có được hạt gạo, để người dân được ấm bụng, để có nguồn lực chiến đấu, người nông dân phải đánh đổi bằng nhiều mồ hôi, nước mắt và cả những hiểm nguy từ bom đạn.

“Hạt gạo làng ta” được sáng tác bởi một thi sĩ nhỏ tuổi, nhưng không vì thế mà bài thơ không có chiều sâu suy ngẫm. Hơn thế, bài thơ thể hiện những suy nghĩ trưởng thành, không chỉ gắn liền với một làng quê mà trải rộng ra tình yêu đất nước. Đặc biệt, bài thơ như một lời nhắc nhở chúng ta ngày nay, hãy biết trân quý những hạt gạo, bởi đó là thành quả lao động vất vả, cực nhọc của người nông dân.

Cảm Nghĩ Về Bài Thơ Hạt Gạo Làng Ta Học Sinh Giỏi

Gửi tặng bạn bài văn nêu cảm nghĩ của em về bài thơ Hạt gạo làng ta của nhà thơ Trần Đăng Khoa để bạn tham khảo:

Trần Đăng Khoa sinh năm 1958, quê ở Nam Sách, Hải Dương. Ông biết đến là thần đồng thơ ca, khi chỉ mới 8 tuổi đã có tác phẩm được đăng báo và hai năm sau, tập thơ “Góc sân và khoảng trời” của ông được xuất bản bởi Nhà xuất bản Kim Đồng.

Bài thơ ra đời trong cuộc chiến tranh chống Mĩ (1954-1975) viết bởi tác giả Trần Đăng Khoa vào năm 1971. Lúc ấy, nước ta còn nghèo, còn phải chịu đói nên hạt gạo rất quý.

“Hạt gạo làng ta” là bài thơ nổi tiếng của Trần Đăng Khoa, in trong tập Góc sân và khoảng trời vào năm 1968. Tác giả sử dụng thể thơ bốn chữ. Ngôn từ giản dị, dễ hiểu, dễ tiếp nhận phù hợp với mọi đối tượng, mọi lứa tuổi. Hình ảnh “hạt gạo” trong bài thơ được tác giả sử dụng, miêu tả gần gũi, mộc mạc với người nông dân. Hạt gạo trong bài thơ biểu trưng cho hạt ngọc quê hương, tác giả bày tỏ tấm lòng biết ơn, yêu thương, trân quý đối với người nông dân lao động vất vả, nhọc nhằn ngày đêm.

Tình yêu quê hương, đất nước được thể hiện thông qua hình ảnh: “Hạt gạo làng ta”. Hình ảnh ấy gắn liền với kí ức, tuổi thơ quê hương tươi đẹp, công sức lao động nhọc nhằn, vất vả của biết bao thế hệ đi trước chỉ để giữ gìn, bảo vệ hạt gạo khỏi chiến tranh, bom đạn đau thương, chết chốc, thảm khốc.

Hạt gạo có ý nghĩa, đóng vai trò quan trọng trong mỗi bữa ăn để duy trì sự sống của con người. Mỗi khi ăn từng bát cơm, ta hãy luôn tâm niệm lòng biết ơn vô hạn, vì đó chính là sức lao động, mồ hồi, nước mắt của người dân đã cực khổ nắng mưa dãi dầu chỉ để mang đến cho ta hạt gạo thơm ngon.

Đọc bài thơ tôi xúc động, nghẹn ngào vì tính giáo dục trong bài rất cao. Thiếu nhi khi đọc bài thơ này sẽ hình thành, suy nghĩ, nhân cách, lòng yêu, trân trọng những người nông dân. Giữa lúc chiến tranh, hạt lúa chín vàng nặng trĩu vẫn hiên ngang, dũng cảm không bao giờ chịu khuất phục. Cây lúa là biểu tượng cho sức mạnh, ý chí, kiên cường của người nông dân. Hình ảnh cây lúa mộc mạc, giản đơn nhưng đã nói lên được tâm tư, tình cảm của những người lao động.

Câu hát mẹ ru con ngủ mang đậm tình thương yêu vô bờ bến được nhà văn ca ngợi. Những vẻ đẹp giản đơn, bình dị, người nông dân chân chất, thật thà luôn hiện hữu trong cuộc sống hàng ngày mà đôi khi ta vô tình không để ý hoặc bỏ quên. Bài thơ gợi nhắc ta hãy cảm nhận, tận hưởng vẻ đẹp nông quê, ta sẽ thấy thư thái và bình yên hơn.

Phải có tình yêu thiên nhiên, quê hương, đất nước, con người lớn lao tác giả mới sáng tác nên bài thơ: “Hạt gạo làng ta”. Một bài thơ mà bất kể ai đọc cũng cảm nhận được tình yêu thương, thêm trân quý thành quả hạt gạo chứa đựng biết bao công lao, hy sinh của người nông dân trong công cuộc giữ gìn bảo vệ quê hương, đất nước. Và hạt gạo là thức ăn nuôi ta lớn lên hàng ngày, nên nhất định ta phải luôn ghi nhớ công ơn người nông dân đã không quản ngày đêm, nắng mưa chỉ để nuôi dưỡng, mang đến hạt gạo thơm ngon cho bao người.

Những miêu tả chân thực của tác giả về hạt gạo làng ta khiến bao người đọc không khỏi xúc động và thêm yêu thương người nông dân tần tảo, tay lấm chân bùn. Những câu hát ru của mẹ đậm tình quê hương chân chất, thật thà. Chính tình cảm, tình yêu thương xuất phát từ bên trong nên nhà thơ đã sáng tác nên bài thơ này thật sâu sắc, ý nghĩa, giúp ta thêm trân quý hạt gạo, thấu hiểu công sức người nông dân đã góp phần tạo nên hạt gạo.

Tác giả muốn củng cố tình yêu thương quê hương, đất nước cho bao thế hệ thiếu nhi để cùng giữ gìn, nâng niu hạt gạo mà tác giả ví là “hạt vàng làng ta”. Tác giả so sánh hạt gạo quý giá như hạt vàng. Điều đó làm nổi bật ý nghĩa, tầm quan trọng của hạt gạo đối với đời sống của người nông dân. Tác giả đã chứng kiến, trải qua cảnh tát nước, bắt sâu, gánh phân nên thấu hiểu, cảm thông, chia sẻ bao khó khăn, vất vả của người nông dân. Đây là bài thơ vô cùng xúc động nhưng không kém sâu sắc, triết lý khi tác giả miêu tả cụ thể từng chi tiết, hình ảnh, nội dung tinh tế, chân thực, gần gũi.

Thông điệp ý nghĩa tác giả gửi đến độc giả, hãy luôn yêu thương quê hương, đất nước, con người. Quê hương luôn là nơi mang đến sự thoải mái trong tâm trí. Nếu như hôm nay ta cảm thấy mệt mỏi, bi quan, chán nản thì hãy ngồi xuống ngắm nhìn cảnh vật thiên nhiên hữu tình, quan sát cuộc sống của người nông dân lao động, ta sẽ có thêm sức mạnh, nguồn năng lượng tích cực và ta sẽ nhận ra, hạnh phúc không ở đâu xa xôi mà hạnh phúc nằm ở ngay hiện tại, bây giờ và ở đây.

Gợi ý mẫu 🌸 Cảm Nhận Về Bài Thơ Tháng Ba 🌸 của Thần đồng Trần Đăng Khoa!

Đoạn Văn Cảm Nhận Bài Thơ Hạt Gạo Làng Ta Ngắn Nhất

SCR.VN đã sưu tập đoạn văn cảm nhận về bài thơ Hạt gạo làng ta của nhà thơ Trần Đăng Khoa ngắn gọn vào bài viết này, xem ngay:

Trong những nhà thơ gần gũi, gắn liền với quê hương, đất nước, không thể không nhắc đến nhà thơ Trần Đăng Khoa. Thơ của ông thấm đượm tính giản dị, gần gũi với nhân dân Việt Nam lúc bấy giờ. Trong những tác phẩm của ông, bài thơ “Hạt gạo làng ta” đã gửi gắm thông điệp sâu sắc cho người đọc.

Bài thơ đã cho thấy sự trân quý, giữ gìn hạt gạo của nhà thơ. Từ đó, nhà thơ bày tỏ lòng biết ơn, sự yêu quý đến những người nông dân đã làm ra hạt gạo để mỗi bữa cơm chúng ta có được những hạt cơm thơm ngon để ăn. Những người nông dân ấy vất vả, một năng hai sương mới có thể trồng lên những hạt lúa thơm ngon như vậy.

Hạt gạo làng ta không chỉ mang giá trị vật chất, phục vụ đời sống còn người mà nó còn mang cả giá trị tinh thần vô giá, thể hiện sự trân trọng và nâng niu những thành quả do con người làm ra.

Như vậy, khi đọc xong bài thơ, dư âm của nó vẫn còn âm vang và để lại nhiều ý nghĩa trong lòng độc giả.

Cảm Nhận Về Bài Thơ Hạt Gạo Làng Ta Chọn Lọc

Nếu bạn đang tìm kiếm bài văn cảm nhận về bài thơ Hạt gạo làng ta của nhà thơ Trần Đăng Khoa thì nên xem mẫu dưới đây:

Có những tác phẩm đọc xong gấp sách lại ta quên ngay , cho đến khi xem lại mới chợt nhớ là mình đã đọc rồi. Nhưng cũng có những tác phẩm như dòng sông chảy qua tâm hồn ta , để lại những ấn tượng chạm khắc khó quên. Bài thơ “Hạt gạo làng ta” của một tác giả nhỏ có rất nhiều người hâm mộ.đó chính là nhà thơ Trần Đăng Khoa , được viết năm 1968 khi nhà thơ vừa tròn 10 tuổi .Trong bài thơ có một đoạn thơ:

“Hạt gạo làng ta

Có vị phù xa

Của sông kinh thầy

có hương sen thơm

Trong hồ nước đầy

Có lời mẹ hát

ngọt bùi đắng cay”

Ở lứa tuổi ấy mà biết nghĩ như thế là sâu sắc lắmừ một thực tế có tính khoa học là cây lúa hút chất dinh dưỡng dưới bùn, đất ra hoa trổ bông, kết hạt ( như ai cũng biết) thì nhà thơ bằng sự tinh tế của tâm hồn còn nghe được, cảm nhận được ” vị phù sa”. ” hương sen thơm” trong hạt gạo. Và hơn thế nữa có cả tình người, lòng người ấp ủ.

Được viết theo lối thơ hiện đại với ngôn từ phóng khoáng , không hề gò bó , tứ thơ kiểu mới giàu cảm xúc , dễ thể hiện thình cảm. ở khổ đầu bài thơ , tâm hồn của tác giả hòa quyện với hình ảnh hạt gạo đầy sâu sắc từ những cảnh vật thân thiện trong quê nhà.       

Hạt gạo là kết quả của sự kết tinh những gì tinh túy nhất hình thành nên, là vị phù sa của sông Kinh Thầy, là hương sen thơm trong hồ nước đầy, thậm chí còn có cả tình cảm của những người mẹ trong đó, là lời mẹ hát ngọt bùi đắng cay.

Những ngày này, miền Bắc đang phải chịu thời tiết rất khắc nghiệt: trời nắng nóng và thời tiết rất khô. Ngồi trong phòng điều hòa, tôi bỗng nhớ tới những người lao động đang vất vả mưu sinh ngoài kia đặc biệt là các bác nông dân, những ngày này đang phải vất vả thu hoạch những hạt gạo.

Với một đất nước nông nghiệp như Việt Nam, hình ảnh hạt gạo là một hình ảnh rất thân thuộc trong đời sống hàng ngày. Bài thơ đã cho mọi người hiểu cảnh khổ cực của nông dân thời bao cấp, để mọi người luôn nhớ ơn người nông dân đã làm ra những hạt gạo trắng trong chắt lọc tinh hoa của đất trời nghìn năm muôn thuỡ.

“Ai ơi bưng bát cơm đầy

Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”.

Đó là cách phát biểu trực tiếp, có tính chất luân lí, hơi nghiêng về lí trí. Còn trong bài thơ này , Trần Đăng khoa để thực tế nói lên. Bão dập, nắng lửa, mưa dầm, thiên nhiên của đất nước Việt Nam đới khắc nghiệt này đã đổ vào đầu bà con nông dân bao nhiêu nhọc nhằn để làm ra hạt gạo , mà cụ thể nhất là bà mẹ của mình. Bà phải đổ mồ hôi sôi nước mắt để có hạt gạo nuôi chúng ta ăn học.

Hình ảnh những hạt gạo còn gắn liền với lịch sử xa xưa lâu đời cùng theo người ra chiến trường, là quà , tình cảm của hậu phương gửi ra tiền tuyến, hạt gạo dẻo thơm là sức sống, để tăng cường sức khỏe cho người lính tiếp tục đứng vững chiến đấu kiên cường.

Hướng dẫn lập dàn bài và viết 🌸 Cảm Nhận Về Bài Thơ Ra Vườn Nhặt Nắng 🌸 ý nghĩa!

Cảm Nhận Bài Thơ Hạt Gạo Làng Ta Xuất Sắc

Một trong những bài văn cảm nhận bài thơ Hạt gạo làng ta của nhà thơ Trần Đăng Khoa xuất sắc nhất đã được biên soạn ở bên dưới:

Nhà thơ Trần Đăng Khoa rất nổi tiếng với tài năng của mình và được khẳng định bởi nhiều tác phẩm trong kho tàng văn học Việt Nam. Và trong giai đoạn đất nước ta còn nghèo nàn và sống chủ yếu vẫn là nghề nông nghiệp truyền thống tác phẩm tuyệt vời “Hạt gạo làng ta” dưới cái nhìn đầy quen thuộc dễ hiểu chân thực về tình yêu tác giả dành cho “Sản vật” quê nhà.

Được viết theo lối thơ hiện đại với ngôn từ phóng khoáng không hề gò bó, tứ thơ kiểu mới giàu cảm xúc, dễ thể hiện tình cảm. Ở khổ đầu bài thơ, tâm hồn của tác giả hòa quyện với hình ảnh hạt gạo đậm sâu sắc từ những cảnh vật thân thuộc quê nhà. Hạt gạo ấy ngon vì được thấm đượm “vị phù sa”- Sông Kinh Thầy quê tác giả chảy qua đồng ruộng phong cảnh yên bình ấy còn có thêm “Hương sen thơm”, trong đó còn có lời ru ngọt ngào của người mẹ hiền hòa hòa quyện đậm vị

Hạt gạo làng ta

Có vị phù sa

Của sông Kinh Thầy

Có hương sen thơm

Trong hồ nước đầy

Có lời mẹ hát

Ngọt bùi đắng cay…

Độ ngon của hạt gạo còn phụ thuộc và được thử thách bởi thời tiết thiên nhiên cũng là để quyết định mỗi một vụ mùa thành công hay không sau bao cực nhọc của người nông dân. Được tác giả tả chi tiết tháng bảy từ bao đời thiên nhiên luôn khắc nghiệt với những cơn bão lớn gây thiệt hại to lớn đến hoa màu rồi đến tháng ba với những cơn mưa kéo dài, rồi mùa hè đến mang theo cái oi bức đặc biệt là tháng sáu nóng nực ảnh hưởng đến mọi cảnh vật xung quanh, đặc biệt cây lúa với vụ mùa người nông dân vẫn phải vất vả ra đồng cấy.

Hạt gạo làng ta

Có bão tháng bảy

Có mưa tháng ba

Giọt mồ hôi sa

Những trưa tháng sáu

Nước như ai nấu

Chết cả cá cờ

Cua ngoi lên bờ

Mẹ em xuống cấy…

Hình ảnh những hạt gạo còn gắn liền với lịch sử xa xưa lâu đời cùng theo người ra chiến trường, là quà, tình cảm của hậu phương gửi ra tiền tuyến, hạt gạo dẻo thơm là sức sống, để tăng cường sức khỏe cho người lính tiếp tục đứng vững chiến đấu kiên cường.

Hình ảnh Hào giao thông được tác giả nhắc tới vì đây là hình ảnh không thể nào quên được trong cuộc chiến đấu chống Mỹ, chống Pháp gian khổ trường kỳ là nơi cư trú an toàn, để thuận tiện cho hoạt đông di chuyển của người lính. Và hình ảnh những cô gái đeo sung đạn vàng trĩu nặng lung vẫn hăng hái đi cấy là một biểu tượng cho tinh thần vừa phải gia tăng sản xuất kết hợp chiến đấu bảo vệ quê hương mình.

Hạt gạo làng ta

Những năm bom Mỹ

Trút trên mái nhà

Những năm cây súng

Theo người đi xa

Những năm băng đạn

Vàng như lúa đồng

Bát cơm mùa gặt

Thơm hào giao thông…

Khổ thơ tiếp theo, thấy được sự đóng góp công sức nhỏ bé của thế hệ trẻ như tác giả giúp đỡ bố mẹ chúng với trách nhiệm tự giác, chăm chỉ, đối lập với vóc dáng người nhỏ bé nhưng công việc hết sức nặng như người lớn mang lại nỗi xúc động, dễ thương lớn.Khá khen các em nhỏ biết Tranh thủ sắp xếp giữa việc học chữ và phụ giúp gia đình. Hình ảnh những thiếu niên cổ còn đeo khăn quàng đỏ, đỗi những chiếc mũ đan, gánh những mẻ đất mẻ phân giúp cho việc lao động trên cánh đồng dễ dàng hơn.

Hạt gạo làng ta

Có công các bạn

Sớm nào chống hạn

Vục mẻ miệng gàu

Trưa nào bắt sâu

Lúa cao rát mặt

Chiều nào gánh phân

Quang trành quết đất

Ở khổ thơ cuối, tầm quan trọng của hạt gạo được ví như hạt vàng. Đem lại nguồn sống quý giá từ lâu đời của dân tộc. Hạt vàng lấp lánh sáng ngời hình ảnh của thành quả lao động cực nhọc của người nông dân. Niềm tự hào sản vật quê nhà cũng là sự tự hào sâu sắc với quê hương của tác giả Hạt gạo làng ta Gửi ra tiền tuyến Gửi về phương xa Em vui em hát Hạt vàng làng ta…

Sự sâu lắng của bài thơ còn đọng lại trong tim mỗi người, biết trân quý hơn về ý nghĩa cúa sự lao động sớm nắng chiều mưa của người dân chân lấm tay bùn để tạo ra hạt vàng đáng quý- Hạt gạo không chỉ là sản phẩm vật chất mà còn là sản phẩm tinh thần vô giá. Và bài thơ tuyệt vời này đã được phổ nhạc dễ đi vào lòng người mọi thế hệ bởi những lời ca tiếng hát ngân nga, là lời cảm ơn sâu sắc tới nhà thơ Trần Đăng Khoa, càng yêu thêm quê hương ta.

Cảm Nhận Bài Thơ Hạt Gạo Làng Ta Lớp 5

Các bạn học sinh lớp 5 đừng bỏ qua bài viết nêu cảm nhận về bài thơ Hạt gạo làng ta của nhà thơ Trần Đăng Khoa sau đây nhé!

Hạt gạo là kết quả của sự kết tinh những gì tinh túy nhất hình thành nên, là vị phù sa của sông Kinh Thầy, là hương sen thơm trong hồ nước đầy, thậm chí còn có cả tình cảm của những người mẹ trong đó, là lời mẹ hát ngọt bùi đắng cay.

Muốn làm ra được hạt gạo thì đâu phải dễ dàng gì, người nông dân phải vất vã rất nhiều. Trong hạt gạo có bao nhiêu mồ hôi nước nước mắt, vị phù sa của con sông thuần khiết, hương sen và cả những câu hát vui khi chăm sóc cánh đồng, khoảnh ruộng của mẹ.

Người nông dân muốn cho cây lúa tốt tươi thì còn phải cực nhọc khi những cơn bão lớn đi qua, mưa to, gió lốc lớn, những trưa hè oi ả lại phải ra đồng cày cấy, nước ruộng nóng cứ như là được ai đun sôi. Đến các con vật như cá, cua cũng không chịu nổi: “cá chết-cua ngoi lên bờ”.

Trong hoàn cảnh khắc nghiệt của thiên nhiên như vậy mà người nông dân, cụ thể ở đây là người mẹ của tác giả vẫn không quản khó khăn, chịu nắng nóng khắc nghiệt để xuống đồng gieo mạ.

Bài thơ đã cho mọi người hiểu cảnh khổ cực của nông dân thời bao cấp, để mọi người luôn nhớ ơn người nông dân đã làm ra những hạt gạo trắng trong chắt lọc tinh hoa của đất trời nghìn năm muôn thuở.

Mẫu văn ngắn 🌸 Phân Tích Bài Thơ Mẹ Ốm  🌸 hay!

Cảm Nhận Bài Thơ Hạt Gạo Làng Ta Lớp 7

Cuối cùng là bài văn cảm nhận về Hạt gạo làng ta dành cho học sinh lớp 7:

Hạt gạo làng ta là một bài thơ hay và cảm xúc của tác giả Trần Đăng Khoa. Tác phẩm đã gieo vào lòng người đọc một tình yêu quê hương, đất nước sâu đậm, đồng thời là sự trân quý những hạt gạo trắng ngần được làm ra từ biết bao mồ hôi, công sức của người dân lao động. Đặc biệt đoạn thơ nói về nguồn gốc dân dã của hạt gạo là một đoạn thơ hay, để lại nhiều cảm xúc cho người đọc .

“Hạt gạo làng ta

Có vị phù sa

Của sông Kinh Thầy

Có hương sen thơm

Trong hồ nước đầy

Có lời mẹ hát

Ngọt bùi đắng cay.”

Mở đầu bài thơ, nhà thơ đã thể hiện giá trị của gạo để thể hiện giá trị của hạt gạo. Hạt gạo bắt nguồn từ nền văn hóa nông nghiệp lúa nước của người việt Nam mà nảy sinh ra .Việt Nam ta vốn là đất nước nông nghiệp với hình ảnh quen thuộc của ruộng đồng, thôn xóm, hạt gạo … Hạt gạo trắng sữa đã được xem như là hạt ngọc quý giá trời cho với vị phù sa nồng nàn của con sông Kinh Thầy thân thuộc, hương thơm thanh mát của hồ sen và xuất hiện trong cả những lời mẹ hát ru con với sự “ngọt bùi đắng cay” da diết.

Chính những hạt lúa nhỏ bé, trắng tinh khôi ấy chính là thứ mang lại nguồn lương thực và cả giá trị tinh thần vô cùng lớn lao dành cho mọi người. Dường như, nhà thơ Trần Đăng Khoa đã miêu tả vẻ đẹp của những hạt gạo bằng những hình ảnh thân thuộc, gắn bó với nhân dân nhưng lại là những gì đẹp đẽ nhất và tinh túy nhất.

Khi làm bài thơ này, Trần Đăng Khoa đang học cấp 1 nhưng bằng sự hiểu biết đời sống nông thôn và nhờ tài năng đặc biệt, bài thơ được viết ra một cách sâu sắc, rung động, giàu ý nghĩa nhưng lại rất trẻ con.

” Hạt gạo làng ta.

Có vị phù sa,

Của sông Kinh Thầy.

Có hương sen thơm,

Trong hồ nước đầy…”

Ở lứa tuổi ấy mà biết nghĩ như thế là sâu sắc lắm. Từ một thực tế có tính khoa học là cây lúa hút chất dinh dưỡng dưới bùn, đất ra hoa trổ bông, kết hạt ( như ai cũng biết) thì nhà thơ bằng sự tinh tế của tâm hồn còn nghe được, cảm nhận được ” vị phù sa”. ” hương sen thơm” trong hạt gạo. Và hơn thế nữa có cả tình người, lòng người ấp ủ:

“Có lời mẹ hát,

Ngọt ngào hôm nay. “

Làm ra hạt gạo gian khổ biết chừng nào. Ca dao cổ có câu thấm thía:

” Ai ơi bưng bát cơm đầy

Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.”

Đó là cách phát biểu trực tiếp, có tính chất luân lí, hơi nghiêng về lí trí. Còn trong bài thơ này, Trần Đăng khoa để thực tế nói lên: Để làm ra hạt gạo thơm ngon, trắng ngần, người nông dân của ta đã phải vất vả quá nhiều. Chính vì vậy, những người thưởng thức và tiêu thụ sản phẩm từ gạo cần phải biết trân quý hạt gạo quê hương. Nâng niu hạt gạo hay đó cũng là cách chúng ta thể hiện sự tôn trọng và biết ơn của mình đối với những công sức của người nông dân đã bỏ ra.

Có thể nói, bài thơ ” Hạt gạo làng ta” với đoạn thơ đầu tiên nói về nguồn gốc của hạt gạo đã cho chúng ta thấy rất rõ tình cảm nâng niu, yêu mến và trân trọng hạt hạo của tác giả. Qua đó, tác giả cũng muốn nhắc nhở mọi người hãy trân trọng hạt gạo tinh khôi và bồi đắp thêm tình yêu quê hương, đất nước từ những hạt gạo trắng ngần.

Cuối cùng là những bài 🌸 Phân Tích Bài Thơ Mẹ Và Quả  🌸 thú vị!

Viết một bình luận