Phân Tích Thuật Hứng 24 (8+ Bài Văn Mẫu Hay Nhất)

Phân Tích Bài Thơ Thuật Hứng 24 ❤️ 8+ Văn Mẫu Hay Nhất ✅ Chia Sẻ Những Bài Văn Mẫu Phân Tích Tác Phẩm Thuật Hứng 24 Đặc Sắc.

Cách Phân Tích Bài Thơ Thuật Hứng 24

Bài thơ Thuật Hứng 24 là một bài thơ tự sự của Nguyễn Trãi, thể hiện sự hài lòng và thoải mái với cuộc sống đơn giản và yên bình ở quê nhà.

Bài thơ cũng nhấn mạnh đến lòng yêu nước, nhân cách thanh cao và kiên trì với lý tưởng của nhà thơ. Để phân tích bài thơ này, bạn có thể tham khảo các bước sau:

  • Xác định thể thơ, cấu trúc, ngôn ngữ và nghệ thuật của bài thơ: Bài thơ Thuật Hứng 24 có thể thơ thất ngôn xen lục ngôn, bát cú, viết bằng chữ Nôm. Bài thơ có ngôn ngữ giản dị, chân thực, sử dụng nhiều hình ảnh thiên nhiên và cuộc sống quê hương. Bài thơ có nhiều biện pháp tu từ như liệt kê, đối, phóng đại, ẩn dụ, so sánh, nói quá, nói giảm…
  • Phân tích nội dung, ý nghĩa và tâm tư tình cảm của tác giả trong bài thơ: Bài thơ có nội dung gồm hai phần: phần đầu (hai câu thơ đầu) nói về quan niệm của tác giả về công danh, phần sau (sáu câu thơ còn lại) nói về cuộc sống nhàn hạ, yên bình và tình yêu quê hương, đất nước của tác giả. Bài thơ có ý nghĩa ca ngợi lối sống thanh bạch, giản dị, gần gũi với thiên nhiên và con người, bày tỏ sự hối tiếc và lo lắng cho vận mệnh đất nước, khẳng định tấm lòng trung hiếu, yêu nước, thương dân của tác giả. Bài thơ thể hiện tâm tư tình cảm của tác giả là một người yêu nước thương dân, có tâm hồn văn thơ độc đáo, biết tận hưởng cuộc sống và tự tạo niềm vui cho mình.
  • Đánh giá giá trị nghệ thuật và nhân cách của bài thơ: Bài thơ Thuật Hứng 24 là một bài thơ có giá trị nghệ thuật cao, là một kiệt tác trong nền thơ Nôm của Việt Nam. Bài thơ có ngôn ngữ đẹp, giàu hình ảnh, sáng tạo, có tính cá nhân. Bài thơ có cách xây dựng cấu trúc hợp lý, có sự đối chiếu, đối lập giữa công danh và nhàn hạ, giữa quê hương và đất nước, giữa tâm hồn và thân xác. Bài thơ cũng là một bài thơ có giá trị nhân cách, phản ánh tinh thần yêu nước, thương dân, thanh cao, kiên trì của tác giả, là một bài thơ có tầm nhìn sâu sắc về cuộc sống và con người.

Bạn có thể tham khảo thêm các bài văn mẫu phân tích bài thơ Thuật Hứng 24 được SCR.VN chia sẽ chi tiết dưới đây.

Quà VIP 👉 Thẻ Cào Viettel Miễn Phí [Tặng Card 50k 100k 200k 500k Free]

Thơ Chế Em Ăn Cơm Chưa

Dàn Ý Phân Tích Bài Thơ Thuật Hứng 24

SCR.VN mách bạn các bước đơn giản nhất để lập dàn ý phân tích bài thơ Thuật Hứng 24 của tác giả Nguyễn Trãi, xem ngay bạn nhé!

1. Mở bài

  • Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
    • Nhắc đến một nhà chính trị tài ba, kiệt xuất lại mang trong mình tâm hồn văn thơ độc đáo. không thể không nhắc đến Nguyễn Trãi
    • Bài thơ “Thuật hứng” thể hiện cuộc sống yên bình, nhẹ nhàng của vùng quê nơi ông sống.

2. Thân bài

  • Hai câu thơ đầu: Bỏ lại công danh trở về với cuộc sống thanh nhàn.
    • Công danh: Ai cũng theo đuổi, đạt được và thấy được sự đối nghịch trong đó lại muốn rời bỏ.
    • Đối với Nguyễn Trãi: Bỏ công danh ở phía sau, trở về quê nhà, lấy thiên nhiên làm bạn, hòa mình vào thiên nhiên với những thú vui.
  • Hai câu thơ tiếp theo: Những thú vui chốn quê nhà.
    • Cuộc sống giản dị, khác so với những gì mà Nguyễn Trãi đã có, đã cống hiến, làm những công việc của những người nông dân như vớt bèo, phát cỏ.
    • Ăn những món ăn giản dị, không có sơn hào hải vị: Rau muống, ương sen.
  • Bốn câu thơ cuối: Lối sống thanh bạch, nỗi lo cho đất nước.
    • Lối sống yên bình, làm bạn với gió, trăng.
    • Nỗi lo cho đất nước: Lo cho vận mệnh đất nước khi tồn tại bè lũ quan tham, lo cho dân, hướng về đất nước.
    • Sự hối tiếc nhẹ khi không cống hiến toàn bộ tài năng của mình cho đất nước.
  • Nghệ thuật:
    • Thể thơ thất ngôn xen lục ngôn bát cú đặc sắc.
    • Giọng điệu tâm tình.
    • Hình ảnh thơ quen thuộc gắn bó với cuộc sống của con người

3. Kết bài

  • Bài thơ “Thuật hứng” với giọng thơ nhẹ nhàng, khoan thai, giọng điệu tâm tình cởi mở.
  • Bài thơ thể hiện tâm tư tình cảm của Nguyễn Trãi dành dân, cho nước, yêu thiên nhiên cuộc sống.

Đọc thêm 🌸 Thuyết Minh Về Tác Giả Nguyễn Trãi 🌸 lớp 10 hay!

8+ Mẫu Phân Tích Bài Thơ Thuật Hứng 24 Hay Nhất

SCR.VN đã tuyển tập và biên soạn những bài văn phân tích bài thơ Thuật Hứng 24 của tác giả Nguyễn Trãi hay nhất gửi tặng quý vị đọc giả:

Phân Tích Bài Thơ Thuật Hứng 24 Của Nguyễn Trãi Đặc Sắc

Xem ngay mẫu văn bài văn phân tích bài thơ Thuật Hứng 24 của tác giả Nguyễn Trãi đặc sắc dưới đây để hiểu hơn về tác phẩm:

Nguyễn Trãi (1380-1442) là ngôi sao Khuê lấp lánh trên bầu trời Đại việt trong thế kỷ 15. “Quốc âm thi tập” và “Ức trai thi tập” là hai kiệt tác trong nền thơ ca Việt Nam. Riêng “Quốc âm thi tập” – là một tập thơ viết bằng chữ Nôm ra đời sớm nhất mà ta còn giữ được gồm 254 bài – nó như ánh hào quang của ngôi sao Khuê lấp lánh xuyên suốt hành trình thiên niên kỷ của dân tộc.

“Quốc âm thi tập” nhìn chung không có tên àải riêng cho mỗi bài thơ. Nguyễn Trãi nhóm thành nhiều chùm thơ: Ngôn chí, Mạn thuật, Trần tình, Thuật hứng, Tự thán, Tức sự, Bảo kính cảnh giớ.v.v… Đây là bài thơ số 24 trong chùm thơ “Thuật hứng” 25 bài:

Công danh đã được hợp về nhàn,

……

Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen”.

“Hợp” nghĩa là “nên”, là “đáng”; “âu chi” nghĩa là “lo chi” Nguyễn Trãi là cháu ngoại tướng công Trần Nguyên Đán, đã từng đỗ Thái học sinh (Tiến sĩ). Ông là mưu sĩ của Lê Lợi trong 10 năm kháng chiến chống giặc Minh “viết thư thảo hịch tài giỏi hơn hết mọi thời”, từng làm chánh chủ khảo khoa thi Tiến sĩ đầu tiên của triều Lê.

Ông là người anh hùng dân tộc văn võ song toàn, đúng là “công danh đã được”. Về sau, ông bị bọn nịnh thần chèn ép. “Lưng khôn uốn, lộc nên từ”, ông đã vứt bỏ mọi công danh, tự dăn lòng mình: “hợp về nhàn”, nên về Côn Sơn ở ẩn, sống cuộc đời thanh nhàn chan hoà với tạo vật.

Câu thơ thứ hai nói lên thái độ, cách ứng xử của Nguyễn Trãi: chẳng quan lâm gì trước mọi chuyện thị phi “lành dữ”, khen chê nữa. Mọi sự đánh giá sẽ do lịch sử, cần chi phải mệt lòng trăn trở. Đó là thái độ đúng, là khí tiết của kẻ sĩ khi đã thoát vòng danh lợi, lui về suối rừng ở ẩn. Trong bài thơ “Cuối xuân tức sự”, ông có viết: “Suốt ngày nhàn nhã khép phòng văn,

Khách tục không ai bên mảng gần”.

Một giọng thơ đủng đỉnh, khoan thai phản ánh một cuộc đời ung dung, tự tại. Hai câu trong phần “thực” nói lên nhịp điệu cuộc sống của Ức Trai khi đã “về nhàn”: “Ao cạn vớt bèo cấy muống.

Đìa thanh phát cỏ ương sen.” Mỗi câu thơ chỉ có 6 từ (lục ngôn). Cấu trúc câu thơ cân xứng cho thấy phép đối được vận dụng thần tình. “Ao cạn” với “đìa thanh”, “vớt bèo cấy muống” với “phát cỏ ương sen” đối nhau chặt chẽ làm hiện len một cuộc đời cần mẫn, thanh bạch đáng tự hào. Cuộc sống chẳng có sơn hào hải vị, chỉ có “muống”, có “sen” rất bình dị mà thanh cao. Lúc ở triều đình, chức trọng quyền cao, trước sau Nguyễn Trãi vẫn chỉ là một ông quan thanh liêm: “Một tấm lòng son ngời cửa luyện

Mười năm thanh chức ngọc hồ băng”.

(Mạn hứng – 2)

Nhiều bài thơ Nguyễn Trãi nói về cuộc sống đạm bạc, giản dị của minh: “Đọc sách mười năm mà kiết xác – Ăn tràu rau muống chẳng chiên ngồi” (Gửi bạn). Cuộc đời một ông quan, một kẻ sĩ mà chẳng khác nào cuộc đời người dân quê: “Cơm ăn chẳng quản dưa muối – áo mặc nài chi gấm thêu …” (Thuật hứng – 22). Hai câu tiếp theo trong phần “luận”, ý thơ được mở rộng làm rõ thêm vẻ đẹp tâm hồn của Ức Trai. Thi liệu mang đậm màu sắc ước lệ cổ điển đầy thi vị:

“Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc,

Thuyền chở yên hà nặng vạy then”.

Lấy “phong, nguyệt” làm bầu bạn, lấy “yên, hà” làm nguồn vui mấy ai trong thiên hạ có đời sống tinh thần phong phú và thanh cao như Ức Trai? Phép đối và biện pháp tu từ thậm xưng diễn tả chiều sâu một tâm hồn, cái cao sang của một nếp sống đẹp.

Cả ba tháng mùa thu với Ức Trai là một cái kho chứa đầy gió trăng đến tận nóc. Con thuyền của thi nhân suốt đêm ngày chỉ chở khó ráng thế mà cũng làm oằn đi những chiếc thang thuyền. Phong nguyệt, yên hà là những thứ chỉ có thể nhìn thấy, cảm thấy nhưng qua các hình ảnh: “kho thu”, “thuyền chở” và các từ ngữ: “đầy”, “nặng” – tác giả đã “khối lượng hóa” các hiện tượng thiên nhiên ấy một cách tài tình.

Chữ dùng chính xác, chọn lọc và hình tượng. Chỉ một chữ “đầy” trong thơ Ức trai mà ta liên tưởng đến bao câu thơ đẹp khác: “Gió, trăng chứa một thuyền đầy – của kho vô hạn biết ngày nào vơi “Nguyễn Công Trứ; “Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền” (Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền) – Hồ Chí Minh, v.v…

Có thể nói, hai câu trong phân luận là hai câu thơ hay nhất, nó cho thấy một hồn thơ thanh cao, một cuộc sống tinh thần giàu đẹp, ung dung, hồn nhiên, tự tại của ức Trai chan hòa với thiên nhiên, tạo vật. Hai câu kết là lời tự bạch: Nguyễn Trãi bộc lộ tấc lòng mình, tấm lòng mình:

“Bui có một lòng trung lẫn hiếu,

Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen”.

“Bui” là tiếng cổ, nghĩa là “chỉ”; “bui có” là chỉ có. Một cách nói khiêm tốn mà khẳng định, biểu lộ niềm tự hào về lòng trung hiếu của mình đối với nước, với vua và với cha mẹ. Trung hiếu là đạo làm tôi, đạo làm con. Tấm lòng trung hiếu của Nguyễn Trãi vô cùng bền vững, son sắt, thuỷ chung, dù có mài đi cũng chẳng khuyết, có nhuộm đi cũng chẳng đen. Câu thơ lục ngôn khép lại bài thơ vang lên đĩnh đạc như một lời thề được khắc sâu bằng hai vế tiểu đối:

“Mài chăng khuyết nhuộm chăng đen”

Cuộc đời của Nguyễn Trãi đẹp đẽ, thuỷ chung, sáng ngời trung hiếu. Trong thơ văn của Nguyễn Trãi, hai tiếng “trung hiếu” và “ưu ái” (ưu quốc, ái dân: lo nước, yêu dân) như một lời nguyền vang vọng cùng sông núi, trường tồn cùng năm tháng. Các thế hệ con cháu, mỗi lần đọc lên biết bao xúc động tự hào: “Bui có một niềm trung hiếu cũ,

Chẳng nằm thức dậy nẻo ba canh”.

(Bảo kính cảnh giới – 1)

“Bui một tấc lòng ưu ái cũ,

Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông”.

(Thuật hứng – 5)

Niềm trung hiếu, lòng ưu ái của Ức Trai vô cùng mãnh liệt như nước thuỷ triều cuồn cuộn chảy suốt đêm ngày ngoài biển đông.

“Thuật hứng” có nghĩa là bày tỏ sự hứng thú riêng của mình. Học giả Đào Duy Anh trong cuốn “Nguyễn Trãi toàn tập” cho biết chùm thơ “Thuật hứng” được viết ra trong thời kỳ Ức Trai về sống ở Côn Sơn.

Bài thơ “Thuật hứng – 24” này được viết theo thể thơ thất ngôn xen lục ngôn bát cú; các câu 3, 4, 8 chỉ có 6 từ. Giọng thơ nhẹ nhàng, khoan thai. Giọng điệu tâm tình, cởi mở. Các thi liệu: ao, bèo, muống, đĩa, cỏ, sen, kho, thu, phong, nguyệt, thuyền, yên, hà – tạo nên cốt cách bài thơ vừa dân dã, mộc mạc vừa cổ điển thanh cao.

“Thuật hứng” đã thể hiện một cách đẹp đẽ sâu sắc những tư tưởng tình cảm cao đẹp của Ức Trai như coi thường danh lợi, thích sống nhàn trong cuộc đời thanh bạch, lúc nào cũng giữ trọng lòng trung hiếu son sắt, thuỷ chung.

Đọc bài thơ, ta vô cùng kính yêu và cảm phục Nguyễn Trãi – một nhân cách kẻ sĩ cao đẹp như vua Lê Thánh Tông đã ngợi ca: “Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo”.

Tìm hiểu 🌸 Thuyết Minh Về Tác Giả Nguyễn Trãi 🌸 cuộc đời và sự nghiệp!

Phân Tích Bài Thơ Thuật Hứng 24 Của Nguyễn Trãi Chi Tiết

Dưới đây là bài văn phân tích bài thơ Thuật Hứng 24 của tác giả Nguyễn Trãi chi tiết, xem ngay nhé!

“Thơ ca làm cho tất cả những gì tốt đẹp nhất trên đời trở thành bất tử (Shelly). Có những giá trị vững bền của cuộc sống được lưu giữ lại nhờ những vẫn thơ, có những nhịp ngân của tâm hồn được in dấu lại qua mỗi trang thơ.

Có lẽ thơ ca ra đời để đồng cảm, sẻ chia với con người mọi nỗi niềm của cuộc sống. Chính bởi vậy, nhà thơ Nguyễn Trãi đã cất lên những vẫn thơ đầy xúc cảm để bày tỏ lòng mình trong bài thơ Thuật hứng 24. Thi phẩm không chỉ là tác phẩm xuất sắc của Nguyễn Trãi mà còn là một trong những sáng tác tiêu biểu của văn học Việt Nam thời trung đại.

Nguyễn Trãi là anh hùng dân tộc và là nhà văn hóa lớn, một nhân vật toàn có. Ông là tác giả của tập thơ Nôm nổi tiếng Quốc âm thi tập. Tập thơ hầu như không có tên bài riêng cho mỗi bài thơ. Nguyễn Trãi nhóm thành nhiều chùm thơ Ngôn chi Mạn thuật. Trần tinh Thuật hứng. Tự thân Tức sự Bảo kinh cảnh giớ…v… Đây là bài thơ số 24 trong chùm thơ “Thuật hùng” gồm 25 bài.

Mở đầu bài thơ là tâm trạng lúc ra về hay nói khác là Nguyễn Trãi trình bày rõ quan niệm về hai chữ công danh của mình:

Công danh đã được hợp về nhân

Lãnh dữ âu chi thể nghị khen

Công danh là cái đích cũng là niềm mơ ước mà bao nhiêu nhà Nho xưa hướng đến coi đó là bổn phận của một đấng nam nhi với đất nước. Nói về vấn đề công danh, nhà thơ Nguyễn Công Trứ cũng đã từng khẳng định:

“Đã mang tiếng ở trong trời đất.

Phải có danh gì với núi sông”

Còn Phạm Ngũ Lão thì cho rằng: Công danh nam tử còn vương nợ

Thế nhưng khác với hai nhà thơ trên Nguyễn Trãi lại thể hiện được sự nhẹ nhõm thanh nhãn khi trút bỏ được gánh nặng của công danh. Nhà thơ muốn lí giải về lựa chọn của mình đã có công danh tức là có quan tước và danh vọng rồi thì lui về sống nhàn ẩn dật là thỏa đáng. Lúc này đầu cần gì đến dư luận khen chê nữa hoặc sự đời có lành dữ ra sao cũng không làm bận lòng.

Vi khi đã cởi áo mũ cân đai về với cuộc sống quê nhà thơ cũng chuẩn bị cho mình một thế giới ấn dật:

Áo cạn vớt bèo cây muống

Địa thanh phát có trong sen

Cũng như bao nhiêu người ở ẩn khác, giờ đây quan đại thần Nguyễn Trãi là một lão nông sớm chiều vác cuốc ra vườn “cấy muỗng, ương sen. Ở đây sản vật nhánh rau muống, cọng cảnh sen” là những rau có thường ngày của quê hương đất nước kết hợp với hình ảnh đĩa, ao càng gợi tả phong vị quê hương dân dã mang tính dân tộc đậm nét.

Từng là quan đại thần vậy mà khi về sống ở ấn Nguyễn Trãi vẫn bình đi mộc mạc không khác gì những người nông dân thuần túy. Ông đã hòa nhập với đời thường sống an nhân thanh thân vui thủ với cảnh quê vườn không vướng bận việc đời. Hai câu thơ của Nguyễn Trãi gợi cho ta nghĩ đến hình ảnh lão nông tri điền Nguyễn Bình Khiêm trong những ngày ẩn đật:

Một mai một cuốc, một cần câu.

Hai nhà thơ sống cách nhau mấy thế kỉ nhưng khi về ở ẩn giã từ công danh đều hòa hợp với cuộc sống thôn đã thật nhanh chóng. Đó là tinh thần nhập thể rất tích cực của các bậc đại ẩn.

Nếu cuộc sống vật chất đơn sơ đạm bạc thì cuộc sống tâm hồn của Nguyễn Trãi còn tuyệt vời hơn:

Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc

Thuyền chở yên hà nặng vay then

Phong nguyệt, yên hà là những thứ chỉ có thể nhìn thấy cảm thấy nhưng qua các hình ảnh: “kho thu” “thuyền chở và các từ ngữ đầy”, “nặng” tác giả đã “khối lượng hoa các hiện tượng thiên nhiên ấy một cách tài tình . Trăng gió. máy được chứa đầy kho, chở đầy thuyền. Tài sản của Nguyễn Trãi khi về ở ẩn thật giàu có thứ gì cũng đầy cũng tràn cũng trĩu nặng.

Đối với ông thiên nhiên quả là báu vật là nguồn của kho vô tận mà ông có được. Ông đã ôm trọn cả không gian cảnh vật vào hồn. Ông đã tận hưởng thưởng thức cái đẹp, cái nên thơ của thiên nhiên một cách say đắm, cuồng nhiệt. Ông hạnh phúc tự hào khoe tài sản vô giá của mình một cách đầy hãnh diện Không cần phải vòng lọng, cân đai vàng bạc, châu báu vị quan đại thần Nguyễn Trãi giờ đây vẫn sống vui tươi hạnh phúc và tràn đầy lạc quan giữa thôn dã Tâm hồn giao hòa với thiên nhiên của Nguyễn Trãi gợi cho ta nhớ đến câu thơ của Hồ Chí Minh:

Khuya về bất ngặt trăng ngân đầy thuyền

(Rằm tháng giêng)

Không biết có phải thiên nhiên vì yêu hai nhà thơ mà tìm đến, mà đong đầy hay nhà thơ vì yêu thiên nhiên quá sâu đậm mà cảm nhận được thiên nhiên bên minh chan hòa đến vậy. Dù là lí do gì ta có thể thấy thiên nhiên cảnh vật ở nơi đây đã giúp cho nhà thơ tìm được những giây phút thư thả cho tâm hồn trong những ngày ẩn dật, giữa một cảnh đời đầy chông gai sóng gió, hiểm nguy mà ông đã từng nếm trải.

Qua 6 không cảm nhận nhiên sự thôn dã của nhà thơ mà ta con thấy được tình yêu cuộn nắng ấn đặt giản dị nơi gũi của Nguyễn Trãi với miền sơn cước. Tinh cảm ấy nói lên tâm hồn thanh cao, trong sạch, không màng danh lợi của nhà thơ.

Khác với 6 câu đầu, hai câu kết nhà thơ trực tiếp bày tỏ nỗi niềm của mình:

Bui có một lòng trung lẫn hiếu

Mãi chăng khuyết, nhuộm chăng đen.

Hai câu kết khép lại những suy tư cảm xúc tự đáy lòng nhà thơ. Nguyễn Trãi hầu như suốt đời bị giằng xe giữa một bên là niềm ưu ái sâu nặng với nghĩa quân thần canh cánh một bên là núi mây vẫy gọi, để rồi cuối cùng vẫn còn lại nguyên sơ và thánh thiện một tấm lòng “mai chàng khuyết, nhuộm chàng đen”. Tấm lòng trung hiểu của Nguyễn Trãi vô cùng bền vững, son sắt, thuỷ chung. dù có mài đi cũng chẳng khuyết, có nhuộm đi cũng chẳng đe.

Câu thơ lục ngôn khép lại bài thơ vang lên đĩnh đạc như một lời thề nguyện một lòng một dạ với dân với nước, không bao giờ sơn món phôi phai. Trong thơ văn của Nguyễn Trãi, hai tiếng “trung hiếu” đã biết bao lần vang lên như một lời nguyễn vang vọng cùng sông núi, trường tồn cùng năm tháng.

Bui có một niềm trung hiếu cũ

Chẳng nằm thức dậy nèo ba cạnh”

(Bảo kinh cảnh giới – 1)

Bui một tấc lòng ưu ái cũ,

Đêm ngày cuốn cuộn nước triều đông.

(Thuật hứng – 5)

Niềm trung hiểu lông ưu ái của Úc Trai vô cùng mãnh liệt như nước thuỷ triều cuồn cuộn chảy suốt đêm ngày ngoài biển đông. Niềm trung hiếu này thể hiện một quan niệm sống của một con người có nhân cách vĩ đại tiết thảo cao cả. Tâm hồn của Nguyễn Trãi thật trong sáng và đáng trân trọng ngàn đời.

Mở đầu bài thơ Nguyễn Trãi giới thiệu cảnh sống của mình đó là công danh đã đạt nên về ở ẩn sống thanh nhãn. Vậy nhưng đến với những câu thơ cuối ta có thể thay nhà thơ chỉ có được chút nhân thân chữ tâm không nhân. Bởi dẫu từ giã chốn quan trường nhưng trong lòng ông trách nhiệm với dân với nước vẫn luôn đau đáu. Niềm yêu dân yêu nước vẫn canh cánh trong tâm hồn nhà thơ Nỗi niềm ấy đã cho thấy việc ở ấn không phải là sự lựa chọn mà là sự đắc dĩ của Nguyễn Trãi. Tình cảnh ấy càng khiến chúng ta trăn trở và tiếc nuối biết nhường nào.

Bài thơ Thuật hứng 24 thể hiện sự sáng tạo tài tình của Nguyễn Trãi. Bài thất ngôn bát cú lại có ba câu lục ngôn – phá cách thơ Đường làm lời thơ gần gũi với thơ dân tộc, hình ảnh thơ giản dị trong sáng; những sản vật của đồng quê được đưa vào thơ ca một cách rất tự nhiên.

Qua các yếu tố nghệ thuật ấy tác phẩm đã thể hiện một cách đẹp để sâu sắc những tư tưởng tình cảm cao đẹp của Ức Trai như coi thường danh lợi thích sống nhàn trong cuộc đời thanh bạch, lúc nào cũng giữ trọng lòng trung hiếu son sắt, thuỷ chung. Đọc bài thơ ta vô cùng kính yêu và cảm phục Nguyễn Trãi – một nhân cách kẻ sĩ cao đẹp như vua Lê Thánh Tông đã ngợi ca. “Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo.

Nguyễn Đình Thị từng nói rằng: “Nghệ thuật không đứng ngoài trỏ về cho ta đường đi nghệ thuật vào đốt lửa trong lòng chúng ta khiến chúng ta tự phải bước lên đường ấy”. Quả thực, một tác phẩm đích thực luôn đốt lửa trong lòng người đọc bởi giá trị tư tưởng của chúng.

“Thuật hứng” bài 24 đã khắc họa một ẩn sĩ giã từ chốn quan trường thị phi về nơi quê nhà sống cuộc sống dân dã thanh bạch. Tuy lui về ở ẩn nhưng Nguyễn Trãi không lúc nào không lo tới vận mệnh đất nước, cuộc sống của người dân Thật khó để tìm thấy một vị quan cô suy nghĩ nhân nghĩa như vậy!

Gợi ý thêm 🌸 Sơ Đồ Tư Duy Bình Ngô Đại Cáo Nguyễn Trãi 🌸 hay nhất!

Phân Tích Bài Thơ Thuật Hứng 24 Ngắn

Gợi ý cho bạn bài văn phân tích bài thơ Thuật Hứng 24 của tác giả Nguyễn Trãi, xem thêm bên dưới:

Nguyễn Trãi là một nhà chính trị lỗi lạc, ông còn là nhà văn, nhà thơ kiệt xuất. Ông đóng góp cho kho tàng văn học Việt Nam rất nhiều tác phẩm nổi tiếng. Các tác phẩm của ông thể hiện tư tưởng nhân nghĩa nỗi niềm bâng khuâng, trăn trở về thế thái nhân tình. Không thể không kể đến bài thơ “Thuật hứng” trích “Quốc âm thi tập”.

Nguyễn Trãi quả thật là bậc anh hùng tái thế, văn võ song toàn. Có lẽ bởi vậy mà ngay từ câu thơ đầu, ông đã ngầm khẳng định điều đó “công danh đã được”.

Công danh đã được hợp về nhàn,

Lành dữ ân chi thế nghị khen

Nhưng trớ trêu thay người hiền tài luôn bị những kẻ tiểu nhân dòm ngó, hãm hại. Ông bị bọn gian thần bày mưu tính kế chèn ép mà người liêm khiết như ông thà chết chứ không chịu khuất phục. Vậy nên ông gạt bỏ công danh để “hợp về nhàn”. Đó phải chăng là quyết định đúng đắn! Câu nói của ông thể hiện rõ thái độ dửng dưng, không quan tâm chuyện thị phi “lành dữ” hay lời khen chê, ông đã sống thật tâm, hết lòng thì đến nay chút lời ra tiếng vào với ông đã chẳng còn quan trọng. Đến đây ta có thể khẳng định chắc chắn đó là quyết định đúng đắn, là khí chất của kẻ sĩ khi đã buông bỏ vòng xoay danh lợi.

Rời xa trốn hư vinh, ông khoan thai, ung dung trước cuộc sống tự do, tự tại:

Ao cạn vớt bèo cấy muống.

Đìa thanh phát cỏ ương sen.

Hai câu thơ trên với giọng thơ đủng đỉnh và thể thơ lục ngôn, ta thấy được nhịp sống của ông khi “về nhàn” thật thanh bình, êm dịu. Phép đói “Ao cạn” với “đìa thanh”, “vớt bèo cấy muống” với “phát cỏ ương sen” được vận dụng khéo léo khắc họa được cuộc sống thanh tao, cần mẫn quá đỗi tự hào. Tuy trước làm quan nhưng khi về già không có sơn hào hải vị mà chỉ có “muống”, có “sen”. Ông vẫn giữ mãi cái thanh liêm thuở nào.

Hai câu thơ tiếp theo càng lột tả rõ nét vẻ đẹp con người của Nguyễn Trãi với ngôn từ cổ điển, đậm đà thi vị:

Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc,

Thuyền chở yên hà nặng vạy then.

Trở về chốn quê yên bình, ông lấy “phong”, lấy “nguyệt” làm bạn, lấy “yên”, lấy “hà” làm thú vui. Hỏi thử trên thế gian, mấy ai biết tận hưởng cuộc sống một cách thanh cao, đẹp đẽ như Nguyễn Trãi? Ông không chỉ cảm nhận cuộc sống bằng mắt thường, ông hòa mình vào chúng để tận hưởng, để thấy mùa thu như một nhà kho chứa đầy ắp gió trăng. Con thuyền của bậc thi nhân vốn chỉ trở khói ráng nay cũng phải lằn mình lại những chiếc thang thuyền. Có thể thấy tâm hồn thanh tao vẫn còn đó nhưng nay nó còn được hấp thụ thêm nét phóng khoáng, tự do của Ức Trai chan hòa với thiên nhiên, cây cỏ.

Tuy đã về với đồng, với cỏ thế nhưng tấm lòng trung với nước, hiếu với dân của ông vẫn luôn hiện hữu và được thổ lộ ở hai câu kết:

Bui có một lòng trung lẫn hiếu,

Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen.

Theo tiếng cổ, “bui” có nghĩa là “chỉ”. Nguyễn Trãi bộc lộ lòng trung hiếu, một lòng của mình đối với giang sơn và với bậc cha mẹ của mình. Tấm lòng son đó mãi trường tồn, thủy chung để dù có mài đi cũng không khuyết, có nhuộm màu cũng chẳng đen, chẳng hề vẩn đục. Câu thơ cuối sử dụng hai vế đối như một lời thề chắc nịc của chính ông với đất nước, với vua và đấng sinh thành.

Bài thơ “Thuật hứng” với giọng thơ nhẹ nhàng, sâu lắng, nhưng không kém phần thanh cao. Nó là lời bày tỏ tình cảm cao đẹp của ông với cuộc đời nhàn hạ, thanh bạc mà không một lần quên nghĩ về nghĩa tử với nước với dân, nghĩ về tấm lòng trung hiếu. Quả thật, Nguyễn Trãi hoàn toàn xứng đáng với lời ngợi ca của vua Lê Thánh Tông đã dành cho ông: “Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo”.

Phân Tích Bài Thơ Thuật Hứng 24 Hay Nhất

Nếu vẫn gặp khó khăn trong việc viết bài văn phân tích bài thơ Thuật Hứng 24 của tác giả Nguyễn Trãi, mời các bạn xem thêm video sau đây:

Như chúng ta đã biết, Nguyễn Trãi là một nhà văn nhà thơ lớn, song ông cũng là một nhà chính trị tài ba, kiệt xuất. Trong cuộc khởi nghĩa của nghĩa quân Lam Sơn, nhờ những mưu tài kế lược của ông mà nghĩa quân dưới chướng của vua Lê Lợi đã giành những chiến thắng hiển hách trước quân Minh.

Sau khi đất nước giành độc lập, ông lại trở thành một vị quan liêm khiết, có lối sống thanh bạch. Nhưng cũng vì sự liêm khiết, thẳng thắn đó mà Nguyễn Trãi thường xuyên bị bọn nịnh thần ghen ghét, đố kị và tìm cách hãm hại, sau khi trải qua bao biến cố của cuộc đời.

Nguyễn Trãi đã quyết định từ bỏ chốn quan trường mà lui về ở ẩn. Và khi ở ẩn ở núi Côn Sơn, Chí Linh ông đã có những sáng tác hay, có giá trị, một trong số đó có thể kể đến là bài thơ “Thuật hứng”.

Ta có thể thấy, từ khi về ở ẩn, Nguyễn Trãi đã có cuộc sống vô cùng bình dị, gần gũi với thiên nhiên, vạn vật. Cũng ở đây ông cảm nhận được nhịp sống bình lặng, cảnh sắc tươi đẹp của cảnh vật dân dã, ông được trải nghiệm cuộc sống giản dị mà thanh khiết, không vướng bụi trần như bao nhà nho sĩ ở ẩn khác. Ngay phần mở đầu của bài thơ, Nguyễn Trãi đã thể hiện được tâm hồn thanh thản khi đã bỏ lại được sau lưng cái bụi hồng trần, cái cuộc sống xô bồ chốn quan trường và cái hư danh của chức tước.

“Công danh đã được hợp về nhàn

Lành dữ âu chi thế nghị khen”

Công danh là cái đích cũng là niềm mơ ước mà bao nhiêu nhà Nho xưa hướng đến, học tu luyện phẩm chất, chăm chỉ học hành cũng chỉ mong ngày nào đó có được một chút công danh, được cống hiến sức lực, tài năng của mình cho đất nước. Nói về vấn đề công danh, nhà thơ Nguyễn Công Trứ cũng đã từng khẳng định:

“Đã mang tiếng ở trong trời đất

Phải có danh gì với núi sông”.

Ở đây, Nguyễn Trãi lại thể hiện được sự nhẹ nhõm, thanh nhàn khi trút bỏ được gánh nặng của công danh. “Hợp” ở đây là nên, tức công danh nên gác lại ở đó mà lui về ở nhàn, tức là sống cuộc sống của dân dã, lấy thiên thiên là thú vui của cuộc sống.

Trong cuộc sống thanh nhàn, không có cái ồn ào, bát nháo lại đầy ghen tị của lũ tiểu nhân chốn quan trường nữa, Nguyễn Trãi cũng không cần phải quan tâm đến những lời khen chê, nịnh nọt hay dùng những lời độc địa để hãm hại nữa “Lành dữ âu chi thế nghị khen”.

Bao giờ cũng vậy, làm chức quan trong triều đình cũng gặp rất nhiều cám dỗ, nếu xuôi theo bọn nịnh thần thì sẽ có cuộc sống phú quý, nhưng lại vô tình đánh mất đi phẩm chất của mình. Còn nếu sống đúng với con người mình, lối sống trong sạch, liêm khiết thì lại chống đối lại với cả một tập đoàn gian thần, và khi đã không cùng phe với chúng thì chúng sẽ tìm đủ mọi cách để vu oan, hãm hại.

Và Nguyễn Trãi lại là một vị quan liêm chính, có lối sống trong sạch quyết không chịu cúi đầu trước cái xấu xa, cũng vì vậy mà ông là đối tượng mà bọn gian thần này muốn hãm hại, diệt trừ.

Nay, ông đã trút bỏ được hết thứ hư danh ấy để về với cuộc sống bình dị, ông sống cuộc sống như của một ẩn sĩ thực sự, vui với những thú vui giản dị:

“Ao cạn vớt bèo cấy muống

Đìa thanh phát cỏ ương sen”

Là một vị quan tài giỏi nhưng khi đã về ở ẩn thì cuộc sống của Nguyễn Trãi cũng giản dị, mộc mạc như bao người Nho sĩ khác, sống bầu bạn với thiên nhiên, làm những công việc dung dị, “vớt bèo” để cấy muống, đó là những loài thực vật trong tự nhiên nhưng trong cuộc sống ở ẩn đấy thì nó lại là những nguồn thức ăn, nguồn thực phẩm mà nhà thơ sử dụng nó hàng ngày.

Cuộc sống nơi hoang dã không có những sơn hào hải vị mà chỉ có “muống”, “ương sen”, nhưng cũng chỉ cần như vậy thôi, cuộc sống cũng đã vô cùng ý nghĩa, mãn nguyện. Bởi cái nhà thơ có được là sự thanh thản trong tâm hồn, được sống ở một môi trường trong sạch, không vướng bụi trần.

“Kho thu phong nguyệt chở đầy qua nóc

Thuyền chở yên hà nặng vậy then”

Những câu thơ này thể hiện được lối sống thanh bạch của nhà thơ Nguyễn Trãi khi lấy “phong”, “nguyệt” tức gió trăng là người bầu bạn, cảm nhận nhịp sống nơi dân dã, tâm hồn thanh bạch của con người vĩ đại này dường như đã được tỏa rạng.

Tuy đã lui về ở ẩn nhưng với tấm lòng của Nho sĩ yêu nước, luôn hướng về dân về nước thì ông vẫn mang nặng nỗi lòng về vận sự của đất nướ “Bụi có một lòng trung lẫn hiếu” lòng trung hiếu của ông không bao giờ vơi cạn, và ông cũng cảm thấy có chút hối tiếc khi không thể đem sức tài mọn của mình ra để cống hiến “Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen”.

Như vậy, bài thơ “Thuật hứng” đã cho ta thấy hình ảnh thật đẹp của một ẩn sĩ khi quyết định từ bỏ chốn quan trường mà về bầu bạn với thiên nhiên nơi dân dã, đó là một ẩn sĩ có lối sống thanh bạch, liêm khiết. Tuy đã lui về ở ẩn nhưng lòng ông vẫn không thôi trăn trở về dân, về nước. Đây chính lầ biểu hiện nhân nghĩa của một bậc nhân tài.

Tham khảo 🌸 Sơ Đồ Tư Duy Cảnh Ngày Hè Nguyễn Trãi 🌸 thú vị!

Phân Tích Về Bài Thơ Thuật Hứng 24 Nâng Cao

Bạn có thể tham khảo bài văn phân tích bài thơ Thuật Hứng 24 của tác giả Nguyễn Trãi nâng cao bên dưới để đạt điểm cao hơn:

Cuộc đời tác giả dường như tải ta, tâm trạng của người viết cũng được phơi bày một cách trung thực nhất không giấu giếm, không lừa dối. Bởi lẽ thơ ca có thể tác động đến trái tim người đọc khi nó đi xa từ chính trái tim của người viết. Phải tin mới có thể đi đến trái tim. Nếu như những gì anh biết không phải là tình cảm nồng hậu chân thành thì làm sao có thể cung tên ở người đọc vô vàn xúc cảm.

Như đọc những vần thơ của Nguyễn Trãi, ta cảm nhận được rất rõ nét trái tim đang tung lên bởi cái đẹp trước thiên nhiên, từ đó bộc lộ được tấm lòng trung dân ái quốc của chính tác giả. Trước hết, nhà thơ đã bày tỏ suy nghĩ của mình về cái lợi công danh mà mọi người hằng ao ước có được nó:

“Công danh đã được hợp về nhàn

Lành dữ âu chi thế nghị khen”​

Công danh là cái đích cũng là niềm mơ ước mà bao nhiêu nhà Nho xưa hướng đến, tu luyện phẩm chất, chăm chỉ học hành để cống hiến tài năng và sức lực cho đất nước, nhân dân, và cũng là để nhận được sự đánh giá và công nhận của bề trên.

Thời nào cũng vậy, việc nam nhi tử hán đặt công danh lên làm gánh nặng là lẽ thường tình, kẻ không có công danh sự nghiệp, không làm trọn bổn phận của một đấng nam nhi với đất nước, cũng chẳng đáng nhắc đến làm gì. Nói về vấn đề công danh, nhà thơ Nguyễn Công Trứ cũng đã từng khẳng định:

“Đã mang tiếng ở trong trời đất

Phải có danh gì với núi sông”.

Thế nhưng, Nguyễn Trãi lại thể hiện được sự nhẹ nhõm, thanh nhàn khi trút bỏ được gánh nặng của công danh. Bỏ qua tất cả cái ồn ào, đầy ghen tị của lũ tiểu nhân trong chốn quan trường, Nguyễn Trãi tìm về một cuộc sống thanh nhàn, yên bình trong chính cái tâm của mình, rút khỏi những cuộc đấu đá quyền lực, tranh giành vinh hoa hèn mọn, đáng khinh bỉ bằng những hành động ghê tởm “Lành dữ âu chi thế nghị khen”.

Bao giờ cũng vậy, làm chức quan trong triều đình cũng gặp rất nhiều cám dỗ, nếu xuôi theo bọn nịnh thần thì sẽ có vinh hoa phú quý, nhưng lại vô tình đánh mất đi chính mình.

Còn nếu sống đúng với chính mình, trong sạch, liêm khiết như áo trắng chẳng vết nhơ thì lại được cho rằng chống đối với cả một tập đoàn gian thần phía sau vỏ bọc tưởng chừng đẹp đẽ, thánh thần của áo quan. Chúng luôn sống trong sự tung hô của những kẻ hầu mọn thân cận, cậy quyền cậy thế làm càn, nhấn cuộc sống nhân dân xuống bùn lầy nhơ nhớn, ngông cuồng tạo nên những nỗi đau bất hạnh cho chúng sinh.

Nguyễn Trãi là một vị quan liêm chính, có lối sống trong sạch quyết không chịu đầu hàng cái xấu xa, luôn hết mình cống hiến và phò tá vua trị vì đất nước, vì vậy ông là đối tượng mà bọn gian thần này muốn hãm hại, diệt trừ.

Giờ đây, ông đã trút bỏ được hết thứ hư danh ấy để về với cuộc sống bình dị, ông sống cuộc sống như của một ẩn sĩ thực sự, vui với những thú vui giản dị:

“Ao cạn vớt bèo cấy muống

Đìa thanh phát cỏ ương sen”​

Là một vị quan tài giỏi nhưng khi đã về ở ẩn thì cuộc sống của Nguyễn Trãi cũng giản dị, mộc mạc như bao người Nho sĩ khác, sống bầu bạn với thiên nhiên, làm những công việc dung dị, “vớt bèo” để cấy muống, đó là những loài thực vật trong tự nhiên nhưng trong cuộc sống ở ẩn đấy thì nó lại là những nguồn thức ăn, nguồn thực phẩm mà nhà thơ sử dụng nó hàng ngày.

Cuộc sống nơi hoang dã không có những sơn hào hải vị mà chỉ có “muống”, “ương sen”, nhưng cũng chỉ cần như vậy thôi, cuộc sống cũng đã vô cùng ý nghĩa, mãn nguyện. Bởi cái nhà thơ có được là sự thanh thản trong tâm hồn, được sống ở một môi trường trong sạch, không vướng bụi trần. Đó chính là tinh thần nhập thế rất tích cực của các bậc đại ẩn. Thật khó có thể tìm thấy dấu vết của lối sống quan trường cao sang trong những câu thơ như vậy.

Tuy nhiên, liệu ông trở về quê trồng rau muống, ương sen như một lão nông tri điền đã đúng với tinh thần của bài thơ này? Phải đặt hai câu thơ đó vào trong toàn bài thơ. Nguyễn Trãi chỉ nói “hợp về nhàn”, chứ tuyệt nhiên không nói đến việc ông về quê hay về đâu. Cái sự công danh đã được rồi, nên về nhàn là cái nhàn tư tưởng, cái nhàn đầu óc.

Hai câu này như là một tuyên bố cách ứng xử của nhà Nho, nhằm mục tiêu “chỉ có lòng trung hiếu mài chẳng khuyết, nhuộm chẳng đen”. Đó là phương châm ứng xử, trong mọi trường hợp cũng mềm dẻo, linh hoạt để giữ lại cái căn cốt, ở đây là trung và hiếu. Ao cạn thì không thất vọng mà bỏ, vẫn có thể thành ruộng trồng rau muống. Đầm trong, không còn nuôi tôm cá được nữa thì trồng sen. Đó là hai câu như là tục ngữ kinh nghiệm sống, dù hoàn cảnh nào thì người nông dân vẫn tìm ra cách để làm cho ao đầm có ích, “giữ mầm sống” trường tồn.

Cái mầm sống muống và sen ấy, với Nguyễn Trãi muốn nói đến, chính là lòng trung hiếu. Hai câu thơ này đặt trong toàn bài, truyền thông điệp tư tưởng, chứ không phải dụng công tả cái hình tướng một cách thô mộc.

Về ở ẩn nơi quê nhà, tâm hồn yêu thiên nhiên của nhà thơ càng được thể hiện rõ nét, mang đậm màu sắc ước lệ cổ điển đầy thi vị:

“Kho thu phong nguyệt chở đầy qua nóc

Thuyền chở yên hà nặng vậy then”​

Những câu thơ này thể hiện được lối sống thanh bạch của nhà thơ Nguyễn Trãi khi lấy “phong”, “nguyệt” tức gió trăng là người bầu bạn, cảm nhận nhịp sống nơi dân dã, tâm hồn thanh bạch của con người vĩ đại này dường như đã được tỏa rạng.

Đối với ông thiên nhiên quả là báu vật, là nguồn của kho vô tận mà chỉ có ở những người như ông – yêu thiên nhiên hết mực mới cảm nhận được cái tuyệt mĩ. hoàn hảo của nó. “Một câu thơ đẹp, rất ảo, tràn đầy mỹ cảm, hình như chưa thấy ở đâu, chưa thấy ai sáng tạo được như thế. Ức Trai quả thật là vị tiên trong thơ, từ trong thơ mà lừng lững đi ra, rồi cùng với thơ đi vào bất tử”. Hình ảnh ở đây rất ảo diệu.

“Kho” là hữu hạn, thu vào gió trăng vô hạn. “Thuyền” là hữu hạn, chở khói sông là vô hạn. Gió trăng dĩ nhiên đầy vượt qua nóc. Còn khói sông tưởng nhẹ mà nặng vạy cả then thuyền. Điều tất nhiên đối với điều huyền ảo.

Đây là 2 câu thơ thần tình trong bài thơ này. Con người nhàn vượt lên thực tại, đó là cái chất trong tâm trí, cái kỳ diệu, mầu nhiệm của phẩm chất trung hiếu. Dù cho hoàn cảnh thực tại phải ứng xử như cấy muống, trồng sen, thì tâm hồn và trí tuệ vẫn là cái kho phong nguyệt và thuyền yên hà kia. Tâm hồn trăng gió vẫn phóng khoáng vượt ra ngoài mái kho sống. Trí tuệ khói sông thế mà còn nặng lẽ thuyền đời. Hai câu này bổ sung và nâng đỡ, hiệp cùng hai câu trên, để nói về lòng trung hiếu. Thế mới là “mài chăng khuyết, nhuộm chăng phai”.

Tuy đã lui về ở ẩn nhưng với tấm lòng của Nho sĩ yêu nước, luôn hướng về dân về nước thì ông vẫn mang nặng nỗi lòng về vận sự của đất nước:

Bui có một lòng trung lẫn hiếu,

Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen.​

Nguyễn Trãi được biết đến là người luôn đau đáu trong lòng về vận sự đất nước, về đời sống của nhân dân. Nếu như nhân dân còn khổ cực thì Nguyễn Trãi cũng chẳng thể ngồi yên mà hưởng “nhàn” nơi vùng quê thanh vắng, bầu bạn cùng thiên nhiên.

Con người Nguyễn Trãi là thế, luôn mang trong mình trách nhiệm lo cho dân cho nước, răn mình phải tìm mọi cách khiến cho thái bình thịnh trị, vận nước an yên, nhân dân no đủ. Một người “Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu/ Hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc” thì làm sao có thể thản nhiên hưởng “nhàn” trong khi đất nước đang loạn lạc, công thần sa đọa như thế.

Hai câu kết khép lại những suy tư cảm xúc về lạc thú thanh nhàn và nhìn lại định hưởng cho cả một đời người, ở đây, tự đáy lòng nhà thơ, vượt lên trên cái thú “phong nguyệt, yên hủ” vẫn tâm niệm “một lòng trung lẫn hiếu”. Niềm trung hiếu này thể hiện một quan niệm sống của một con người có nhân cách vĩ đại, tiết tháo cao cả: trung hiếu với vua, với nước, với dân. Đó là khao khát sâu kín và cháy bỏng suốt một đời của Nguyễn Trãi.

Tấm lòng Nguyễn Trãi lúc nào cũng đau đáu hướng về đất nước, nhân đân. Ông gọi đó là lòng ưu ái, lòng trung hiếu không lúc nào phôi phai được. Quả là một nhà ái quốc vĩ đại.

Xem ngay văn 🌸 Cảm Nhận Cảnh Ngày Hè Nguyễn Trãi 🌸 ý nghĩa!

Phân Tích Về Bài Thơ Thuật Hứng 24 Ấn Tượng

Tham khảo bài văn phân tích bài thơ Thuật Hứng 24 của tác giả Nguyễn Trãi dưới đây để biết cách làm dạng đề này nhé!

Tác gia Nguyễn Trãi là một nhà văn hóa lớn, là anh dân tộc đã cống hiến hết mình cho đất nước ta. Ông đã để lại cho chúng ta nhiều di sản có giá trị đặc biệt là trong nền văn học. Tác gia Nguyễn Trãi cũng góp phần làm phong phú nền văn học nước nhà qua nhiều tác phẩm nổi bật trong đó có bài thơ Thuật hứng đã thể hiện lối sống thanh nhàn của chính mình.

Chúng ta thường mong muốn bản thân mình có một cuộc sống thanh nhàn nhưng liệu chúng ta đã hiểu rõ ý nghĩa của lối sống này chưa? Lối sống thanh nhàn ở đây có nghĩa là lối sống giản dị mà thanh cao, coi thường mọi thị phi ngoài thiên hạ, hướng con người ta hòa hợp vào thiên nhiên. Tác gia Nguyễn Trãi cũng là một trong những người có lối sống ấy. Cũng nhờ đó mà ông đã sáng tác ra bài thơ Thuật hứng để thể hiện cho người thấy lối sống thanh nhà của ông như thế nào.

Công danh đã được hợp về nhàn

Lành dữ âu chi thế nghị khen

Đối với mọi người thì chuyện công danh sự nghiệp luôn được ưu tiên hàng đầu. Ở thời ấy những nhà Nho mang trong mình tình yêu quê hương đất nước đều chăm chỉ học hành để cống hiến cho đất nước để đạt được công danh nhất định.

Nhưng với Nguyễn Trãi lại khác, khi công danh của ông đang ở trên đỉnh cao thì ông lại muốn trút bỏ gánh nặng công danh để có một cuộc sống thanh nhàn. Việc tranh giành vinh hoa phú quý chỉ khiến ông cảm thấy mệt mỏi và nặng nề hơn.

Nhiều người vì hai chữ “công danh” mà đã phải bán mạng để đổi lấy sự vinh hoa phú quý cũng như những lời xu nịnh của bọn nịnh thần. Cũng bởi những lời nịnh hót ấy mà cuộc sống của nhân dân lúc bấy giờ như chìm trong vũng bùn lầy, khổ không sao tả được. Để bản thân không xa đọa như bọn tiểu nhân chốn quan trường thì Nguyễn Trãi đã trở về quê nhà sau khi đã cống hiến tài năng của mình cho đất nước.

Ở nơi quê nhà thanh bình yên tĩnh ông đã có một cuộc sống như mơ ước, một cuộc sống thanh bình giản dị.

Ao cạn vớt bèo cấy muống

Đìa thanh phát cỏ ương sen

Về quê thì ông đã làm những công việc bình dị như “vớt bèo”, “cấy muống”, “ương sen”. Khi nhìn vào những công việc này chắc hẳn chúng ta sẽ nghĩ ngay đến việc không có vị quan nào mà lại làm những việc này cả. Nhưng lại có một Nguyễn Trãi mong muốn được hòa mình vào thiên nhiên và trở thành một não nông dân chính hiệu. Chỉ cần làm những công việc đơn giản như vậy thôi cũng đủ khiến nhà thơ thanh thản và mãn nguyện với cuộc sống không dính chút bụi trần.

Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc,
Thuyền chở yên hà nặng vạy then.

Ở nơi không có người bầu bạn thì Nguyễn Trãi đã thả hồn vào thiên nhiên để bầu bạn cùng “phong” và “nguyệt”. Thiên nhiên như một người bạn tri kỉ đối với ông mà chỉ có những người yêu thiên nhiên mới cảm nhận được sự hoàn hảo của tình bạn này.

Bui có một lòng trung lẫn hiếu,
Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen.

Mặc dù đã trở về quê hương để ở ẩn nhưng Nguyễn Trãi vẫn luôn hướng về dân về nước. Khi nhân dân vẫn còn lầm than thì ông không thể nào ngồi yên mà hưởng sự thanh nhàn ấy được. Chúng ta đều biết rằng Nguyễn Trãi là một người vô cùng có trách nhiệm, luôn cố gắng tìm mọi cách để đất nước luôn được thái bình. Từ đáy lòng ông luôn đau đáu “một lòng trung lẫn hiếu”, thủy chung son sắt với dân với nước. Sự tiếc nuối lớn nhất của ông là khi chưa cống hiến được hết tài năng mà đã về hưởng thụ cuộc sống nhàn nhã.

Từ những lời thơ nhẹ nhàng mà sâu lắng của tác giả Nguyễn Trãi đã giúp chúng ta thấy được vẻ đẹp thực sự của cuộc sống thanh nhàn là như thế nào. Sống thanh nhàn nhưng ông vẫn không quên được tình yêu quê hương đất nước. Qua bài thơ Thuật Hứng 24 này mà chúng ta cần học hỏi nhiều hơn về vị quan Nguyễn Trãi liêm khiết, chính trực. Chúng ta cần phải ý được được bản thân trong việc bảo vệ và xây dựng quê hương đất nước để nước ta luôn được hòa bình và nhân dân có một cuộc sống tốt hơn.

Cho nhiều bạn cần 👉 Tặng Acc Game Miễn Phí VIP

Thơ Chế Em Ăn Cơm Chưa

Bài văn Phân Tích Bài Thơ Thuật Hứng 24 Xuất Sắc

Tuyển tập bài văn phân tích bài thơ Thuật Hứng 24 của tác giả Nguyễn Trãi xuất sắc, các bạn xem ngay bên dưới nhé!

Nguyễn Trãi không chỉ là nhà văn hóa mà còn là nhà thơ lớn của dân tộc. Ông đã để lại cho thơ ca Việt Nam rất nhiều tác phẩm hay và có giá trị, tiêu biểu phải kể đến “Thuật hứng 24”. Bài thơ đã giúp người đọc cảm nhận được tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước tha thiết của thi nhân. Từ đó, thấy rõ hơn quan niệm sống tốt đẹp mà ông hướng tới.

“Thuật hứng” là chùm thơ gồm 25 bài trong “Quốc âm thi tập” của Nguyễn Trãi. Bài thơ số 24 được viết trong những ngày tác giả về ở ẩn Côn Sơn hòa mình vào với thiên nhiên. Qua đó, người đọc có thể cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi.

Mở đầu bài thơ, nhà thơ đã cho người đọc cảm nhận được lựa chọn của mình:

“Công danh đã hợp về nhàn

Lành dữ âu chi thế nghị khen”

Ở thời đại Nguyễn Trãi đang sống thì công danh là điều mà bất cứ ai cũng muốn đạt được. Có những người dành cả cuộc đời mình để chạy theo những cái xa hoa, phù phiếm bên ngoài. Nhưng xã hội bấy giờ mục nát, thật – giả lẫn lộn. Vậy nên thi nhân lựa chọn gạt bỏ công danh để “hợp về nhàn”. Ông quyết định từ bỏ chốn quan trường đầy thị phi để hòa mình vào thiên nhiên.

Quan niệm sống “nhàn” này cũng được bắt gặp trong bài thơ “Ngôn chí” (bài 3) của chính Nguyễn Trãi. Ông không quan tâm “lành dữ” những lời dèm pha của nhân gian mà chọn cho mình cuộc sống an yên, tự tại. Qua đây, người đọc có thể cảm nhận được Ức Trai là người không màng công danh, phú quý, luôn giữ một tâm hồn thanh sạch.

Ở hai câu thơ tiếp theo, độc giả cảm nhận được cuộc sống giản dị, dân dã của Nguyễn Trãi nơi quê nhà:

“Ao cạn vớt bèo cấy rau muống

Đìa thanh phát cỏ ương sen”

Hình ảnh Nguyễn Trãi hiện lên trong hai câu thơ vô cùng chân thực, giản dị và gần gũi. Hàng ngày, thi nhân vớt bèo và cấy rau muống rồi phát cỏ trồng sen. Dù cho bữa ăn chỉ có rau muống thì thi nhân vẫn cảm thấy hạnh phúc, mãn nguyện. Trong “Ngôn chí” (bài 3), Nguyễn Trãi cũng thể hiện quan niệm của mình về cuộc sống dân dã nơi thôn quê “Cơm ăn dầu có dưa muối/Áo mặc nài chi gấm là”. Từ đó, người đọc lại càng cảm nhận rõ hơn tâm hồn thanh cao, không màng công danh phú quý của người quân tử.

Không chỉ có lối sống giản dị, Nguyễn Trãi còn mang tâm hồn nhạy cảm, luôn yêu và gắn bó tha thiết với thiên nhiên:

“Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc

Thuyền chở yên hà nặng vậy then”

Ở chốn quê hương, Ức Trai lấy “phong”, “nguyệt” làm bạn. Trăng như người bạn tri âm tri kỉ, đồng hành cùng người nghệ sĩ. Và đó cũng là nguồn cảm hứng sáng tác cho rất nhiều tác gia trung đại khác. Sự xuất hiện của hình ảnh trăng khiến độc giả cảm nhận rõ hơn bức tranh cuộc sống nên thơ, diễm lệ. Hai từ “yên hà” đã gợi lên tưởng tượng về sự thanh bình chốn làng quê. Dường như ở nơi đây hoàn toàn tách biệt với những bộn bề ngoài kia, chỉ có thiên nhiên bầu bạn với thi nhân. Vậy nên, lúc này nhà thơ như đang mở rộng tâm hồn mình để cảm nhận những vẻ đẹp bình dị của cuộc đời.

Mặc dù “lánh đục tìm trong”, từ bỏ chốn quan trường để lui về ở ẩn nhưng Nguyễn Trãi vẫn luôn dành trọn vẹn tấm lòng lo cho dân, cho nước:

“Bui có một lòng trung lẫn hiếu

Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen”

Hai câu thơ cuối khép lại như một lời khẳng định chắc nịch cho tấm lòng trung quân, ái quốc của tác giả. Về ở ẩn, nhưng Nguyễn Trãi vẫn luôn trăn trở, âu lo cho cuộc sống của nhân dân. Tấm lòng thủy chung của nhà thơ không gì có thể thay đổi được, có nhuộm màu cũng chẳng thể đen, chẳng thể vẩn đục.

Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn xen lục ngôn bát cú đặc sắc kết hợp với giọng điệu tâm tình, tha thiết và những hình ảnh thơ quen thuộc đã làm nổi bật những chiêm nghiệm về cuộc đời mà Ức Trai muốn truyền tải.

Qua bài thơ “Thuật hứng 24”, độc giả cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Trãi. Ông không chỉ yêu thiên nhiên mà còn một lòng lo cho dân cho nước, dành cả cuộc đời để mong mỏi “Dân giàu đủ khắp đòi phương”.

15 Bài văn 🌸 Phân Tích Cảnh Ngày Hè Nguyễn Trãi 🌸 đặc sắc!

Cảm Nhận Về Bài Thơ Thuật Hứng 24 Học Sinh Giỏi

Nếu bạn đang gặp khó khăn về đề tài viết bài văn cảm nhận về bài thơ Thuật Hứng 24 của tác giả Nguyễn Trãi thì hãy dành thời gian tham khảo mẫu dưới đây:

Nguyễn Trãi- nhà thơ xuất sắc của nền thơ ca Việt Nam. Tập thơ “Quốc âm thi tập” của ông được coi là đỉnh cao của thơ Nôm Tiếng Việt. Tiêu biểu trong tập thơ là chùm thơ “Thuật hứng”. Bài thơ ‘Thuật hứng số 24 “đã khắc họa rõ nét vẻ đẹp tâm hồn của thi nhân Nguyễn Trãi:

” Công danh đã được hợp về nhàn,

Lành dữ âu chi thế ngợi khen.

Ao cạn vớt bèo cấy muống,

Trì thanh phát cỏ ương sen.

Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc,

Thuyền chở yên hà nặng vạy then.

Bui có một lòng trung liễn hiếu,

Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen. “​

Cuộc đời Nguyễn Trãi có khi hào hùng đắc chí có khi lại bị dèm pha khi thấy sự rối ren, ông đã lựa chọn lui về ở ẩn. Theo học giả Đào Duy Anh tập thơ được sáng tác khi ông lui về ở ẩn ở Côn Sơn.” Quốc âm Thi tập “gồm nhiều phần và mỗi bài thơ được đánh nhau số thứ tự. Đây là bài thơ” Thuật hứng số 24 “. Thuật hứng là bày tỏ hứng thú riêng trong lòng mình. Qua bài thơ ta không chỉ thấy được một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp một tình yêu thiên nhiên tha thiết mà còn là một tấc lòng” ưu thời mẫn thế “của Ức Trai.

Ở đầu bài thơ, trước hết ta bắt gặp vẻ đẹp của một tâm hồn thanh cao không vướng bận lợi danh:

” Công danh đã được hợp về nhàn

Lành dữ âu chi thế ngợi khen. “​

Bài thơ mở đầu là câu thơ thất ngôn với cách ngắt nhịp 4/3, thể hiện giọng thơ nhẹ nhàng, khoan thai mà đĩnh đạc. Cặp thơ đã thể hiện sự lựa chọn lối sống” nhàn “của tác giả. Khi công đã thành, danh đã thoại thì chuyện tốt xấu gì cũng không phải lo âu. Lời thơ như một lời khẳng định một chân lý đúng đắn của tác giả.

Cảnh vật thiên nhiên đi vào thơ Nguyễn Trãi vừa tự nhiên vừa mỹ lệ qua đó ta thấy được một tâm hồn yêu thiên nhiên tha thiết, sự giao hòa trọn vẹn với thiên nhiên, cuộc sống nơi thôn dã:

” Ao cạn bớt bèo cấy muống

Trì thanh phát cỏ ương sen

Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc

Thuyền chở yên hà lặng vậy then. “​

Tác giả đã liệt kê một loạt những thú vui tao nhã khi về nhàn” ao cạn “,” vớt bèo “,” cấy muống “cũng như” trì thanh “,” phát cỏ “,” ương sen “.

Cặp câu lục ngôn với cách ngắt nhịp 2/2/2; cấu trúc câu thơ cân xứng bởi phép đối được vận dụng một cách tài tình. Công việc lao động của nhà nông được Nguyễn Trãi làm một cách thuần thục, khoa học tựa như một lão nông tư điền thực thụ đang sắp xếp cuộc sống. Những động từ mạnh được đặt liền nhau tạo nên nhịp thơ khỏe khoắn, tạo nên tính chất cuốn hút của công việc, khiến con người quên đi mọi lo âu khó nhọc.

Thi nhân Nguyễn Trãi không chỉ thấu hiểu hòa nhập mà còn tìm thấy niềm vui, sự thú vị trong công việc lao động hàng ngày. Điều đó cho thấy sự hòa hợp giữa người và cuộc sống thiên nhiên nơi thôn dã. Thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi cũng thật gần gũi mà nên thơ.

Bằng cách sử dụng từ Hán Việt” phong nguyệt “làm bầu bạn,” yên hà “làm nguồn vui cho thấy đời sống tinh thần phong phú tình yêu thiên nhiên thiết tha của thi nhân. Đặc biệt là nghệ thuật đối phong đại thâm xưng đã diễn tả chiều sâu của tâm hồn và cái cao sang của một nếp sống đẹp đẽ.

Bởi lẽ” Phong Nguyệt Yên Hà “chỉ có thể nhìn thấy và cảm nhận nhưng nhà thơ đã khối lượng hóa hình ảnh thiên nhiên ấy một cách tài tình qua cách sử dụng các từ ngữ” đầy “,” nặng “. Hai câu thơ là bức tranh khoáng đạt đầy chất thơ, từ ngữ được sử dụng chính xác, chọn lọc, giàu hình tượng. Hồn thơ thanh cao, cuộc sống tinh thần giàu đẹp, ung dung, chan hòa với thiên nhiên, tạo vật.

Cảnh vật thiên nhiên như được ông thu lại làm tài sản của riêng mình. Hình ảnh thiên nhiên cảnh vật trở nên sinh động bởi sự giao hòa lắng đọng trong tâm hồn thi nhân. Bằng sự quan sát tỉ mỉ, tinh tế thiên nhiên đi vào thơ Nguyễn Trãi vừa có hồn vừa mỹ lệ:

” Non xanh nước biếc thuyền gối bãi

Đêm thanh nguyệt bạc khách lên lầu “​

(Bảo kính cảnh giới 26)

Lắng đọng trong thơ Nguyễn Trãi là tâm hồn của một nỗi niềm” ưu thời mẫn thế “, đau đớn vì dân vì nước:

” Bui có một lòng trung liễn hiếu

Mài chăng khuyết nhuộm chăng đen “​

Bài thơ khép lại là tấm lòng yêu nước thương dân trước sau không thay đổi bất kể hoàn cảnh và thời gian.” Bui “là tiếng cổ nghĩa là” chỉ có “. Đó là cách nói khiêm tốn mà khẳng định về tấm lòng trung hiếu, sắc son bền vững, vì dân vì nước. Tấm lòng ấy vẫn tròn đầy như những ngày cùng Lê Lợi khởi nghĩa, còn tồn tại quan để bảo vệ nhân dân, tấm lòng ấy không thay đổi khi ông nhập thế, xuất thế.

Câu thơ lục ngôn khép lại bài thơ với giọng điệu đĩnh đạc, trang nghiêm như một lời thề bằng hai câu tiểu đối. Đó là lời thề vang vọng trường tồn cùng đất nước để ta mãi tự hào, trân trọng một nhân cách cao đẹp như vua Lê Thánh Tông đã ca ngợi” Ức Trai tâm thượng quang Khuê tào. “

Kết hợp câu thơ lục ngôn xen thất ngôn bát cú. Giọng thơ khoan thai, nhẹ nhàng. Thi liệu dân dã, mộc mạc cùng với từ ngữ cổ điển thể hiện tư tưởng cao đẹp coi thường danh lợi, yêu thích lối sống nhàn, thanh bạch, tấm lòng sắc son vì nước vì dân. Qua đó thấy được bức chân dung tinh thần, vẻ đẹp tâm hồn của thi nhân Nguyễn Trãi.

Hồn thơ và nhịp thơ của Nguyễn Trãi còn sống mãi với những suy tư về thế sự, tình yêu thiên nhiên tha thiết của ông. Giá trị tư tưởng là điều khiến bài thơ trường tồn mãi theo thời gian. Dù cách hàng thế kỷ nhưng bài thơ” Thuật Hứng 24″vẫn gợi lên trong thế hệ trẻ khát vọng cống hiến, khát vọng sống vì đất nước.

Chọn lọc văn mẫu 🌸 Cảm Nhận Về Bài Thơ Tháng Ba🌸 của Trần Đăng Khoa!

Viết một bình luận