Phân Tích Bài Thơ Nhớ Rừng [37+ Bài Văn Cảm Nhận Hay Nhất]

Phân Tích Bài Thơ Nhớ Rừng của Thế Lữ ❤️️ 37+ Bài Văn Mẫu Cảm Nhận Bài Thơ Nhớ Rừng Hay Nhất ✅ Khám Phá Để Làm Rõ Tâm Trạng Nuối Tiếc, Khát Vọng Tự Do Của Con Hổ.

Phân Tích Bài Thơ Nhớ Rừng Dàn Ý Chi Tiết

Phần đầu tiên của bài viết, SCR.VN xin chia sẻ đến bạn đọc Dàn Ý Phân Tích Bài Thơ Nhớ Rừng để viết văn dễ dàng hơn nhé.

I. Mở bài:

  • Đề tài yêu nước luôn là một đề tài lớn, xuyên suốt trong văn học Việt Nam
  • Đối với các nhà thơ Mới, họ thường gửi gắm nỗi niềm thầm kín trong thơ của mình và Thế Lữ cũng vậy, ông gửi gắm nỗi lòng yêu nước thông qua “Nhớ rừng”

II. Thân bài:

1. (Đoạn 1+4): Cảnh con hổ bị nhốt trong vườn bách thú

a. Đoạn 1

  • Hoàn cảnh bị nhốt trong cũi sắt, trở thành một thứ đồ chơi
  • Tâm trạng căm hờn, phẫn uất tạo thành một khối âm thầm nhưng dữ dội như muốn nghiền nát, nghiền tan
  • “Ta nằm dài” – cách xưng hô đầy kiêu hãnh của vị chúa tể: Sự ngao ngán cảnh tượng cứ chầm chậm trôi, nằm buông xuôi bất lực
  • “Khinh lũ người kia”: Sự khinh thường, thương lại cho những kẻ (Gấu, báo) tầm thường nhỏ bé, dở hơi, vô tư trong môi trường tù túng
  • Từ ngữ, hình ảnh chọn lọc, giọng thơ u uất diễn tả tâm trạng căm hờn, uất ức, ngao ngán
  • Tâm trạng của con hổ cũng giống tâm trạng của người dân mất nước, Căm hờn và phẫn uất trong cảnh đời tối tăm.

b. Đoạn 4

  • Cảnh tượng vẫn không thay đổi, đơn điệu, nhàm chán do bàn tay con người sửa sang, tầm thường giả dối. Cảnh tù túng đáng chán, đáng ghét
  • Cảnh vườn bách thú là thực tại của xã hội đương thời, thái độ của con hổ chính là thái độ cú người dân đối với xã hội đó

2. (Đoạn 2+3): Cảnh con hổ trong chốn giang sơn hùng vĩ

a. Đoạn 2

  • Cảnh núi rừng đầy hùng vĩ với “bóng cả cây già” đầy vẻ nghiêm thâm
  • Những tiếng “gió gào ngàn”, “giọng nguồn hét núi”: Sự hoang dã của chốn thảo hoa không tên không tuổi. Những từ ngữ được chọn lọc tinh tế nhằm diễn tả cảnh đại ngàn hùng vĩ, lớn lao mạnh mẽ, bí ẩn thiếng liêng
  • Bước chân dõng dạc đường hoàng: vẻ oai phong đầy sức sống
  • Vẻ oai phong của con hổ khiến tất cả đều phải im hơi, diễn tả vẻ uy nghi, dũng mãnh vừa mềm mại vừa uyển chuyển của vị chúa sơn lâm

b. Đoạn 3

  • “Nào đâu … ánh trăng tan”: Cảnh đẹp diễm lệ khi con hổ đứng uống ánh trăng thật lãng mạn
  • “Đâu những ngày …ta đổi mới”: Cảnh mưa rung chuyển đại ngàn, hổ lãng mạn ngắm giang sơn đổi mới.
  • “Đâu những bình minh…tưng bừng”: cảnh chan hòa ánh sáng, rộn rã tiếng chim ca hát cho giấc ngủ của chúa sơn lâm.
  • Cảnh tượng cuối cùng cho thấy hổ là loài mãnh thú đợi màn đêm buông xuống nó sẽ là chúa tể muôn loài
  • Một bộ tranh tứ bình đẹp lộng lẫy, cho thấy những cảnh thiên nhiên hoang vắng đẹp rợn ngợp và con hổ với tư thế và tầm vóc uy nghi, hoành tráng

3. (Đoạn 5): Niềm khao khát tự do mãnh liệt

  • Sử dụng câu cảm thán liên tiếp: lời kêu gọi thiết tha, khát vọng tự do mãnh liệt nhưng bất lực. Nỗi bất hòa sâu sắc với thực tại và niềm khao khát tự do mãnh liệt
  • Tâm sự của con hổ chính là tâm sự của người dân Việt Nam mất nước đang sống trong cảnh nô lệ và tiếc nhớ những năm tháng tự do oanh liệt với những chiến thắng vẻ vang trong lịch sử

III. Kết bài:

  • Khái quát nội dung và nghệ thuật chủ đạo làm nên thành công của tác phẩm.
  • Liên hệ bài học yêu nước trong thời kì hiện nay.

🍃 Ngoài Phân Tích Bài Thơ Nhớ Rừng Dàn Ý, Đừng Bỏ Lỡ Bài Thơ Nhớ Rừng ❤️️ Phân Tích Bài Thơ Thế Lữ Trọn Bộ

Sơ Đồ Dàn Ý Phân Tích Bài Thơ Nhớ Rừng Lớp 8

Tham khảo mẫu dàn ý phân tích bài thơ Nhớ rừng lớp 8 dưới đây sẽ giúp các em học sinh nắm được chi tiết hệ thống luận điểm để triển khai bài viết.

ơ Đồ Dàn Ý Phân Tích Bài Thơ Nhớ Rừng Lớp 8
Sơ Đồ Dàn Ý Phân Tích Bài Thơ Nhớ Rừng Lớp 8

Đừng bỏ qua 🔥 Sơ Đồ Tư Duy Nhớ Rừng Thế Lữ 🔥 11 Mẫu Vẽ Tóm Tắt Hay

Phân Tích Bài Nhớ Rừng Của Thế Lữ – Mẫu 1

Bài văn mẫu phân tích bài Nhớ rừng của Thế Lữ dưới đây sẽ mang đến cho các em học sinh những định hướng làm bài cụ thể.

Sau khi Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu thổi một luồng gió mới vào trong thi ca, dạo những bản đàn đầu tiên cho cuộc hoà nhạc tàn kì (Hoài Thanh) thì một trào lưu thơ ca lãng mạn đã xuất hiện và phát triển mạnh mẽ. Thế Lữ là người đi tiên phong trong trào lưu ấy. Ông đã góp vào thơ ca một hồn thơ thật mới mẻ: hồn thơ rộng mở (Hoài Thanh). Tiêu biểu cho hồn thơ rộng mở của Thế Lữ là bài thơ Nhớ rừng đầy ấn tượng.

Mạch cảm hứng chủ đạo trong bài thơ Nhớ rừng là cảm hứng lãng mạn. Mạch cảm hứng ấy đã tạo nên một tâm hồn lãng mạn với vẻ đẹp kì thú, lấp lánh ánh sáng nhân văn.

Nhân vật lãng mạn ở đây tuy thân tù hãm nhưng hồn vẫn sôi sục khát vọng tự do. Cảm thấy bất hoà sâu sắc với thực tại tầm thường, tù túng, tuy không chịu làm lành với thực tại nhưng không có cách gì thoát ra được, nhân vật chỉ còn biết thoát li vào mộng tưởng, tìm đến với một thế giới rộng lớn, khoáng đạt, cao cả, phi thường.

Hình ảnh con hổ trong bài thơ là hình tượng hoá thân của nhân vật lãng mạn. Từ địa vị một bậc anh hùng, vị chúa tể đầy quyền uy, đang tự do vùng vẫy ở chốn nước non hùng vĩ, con hổ sa cơ rơi vào cảnh nhục nhằn tù hãm. Vì thế nó trở thành người anh hùng bại trận. Và một tâm sự u uất đè nặng trong tâm hồn nó:

Gậm một khối căm hờn trong củi sắt

Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu.

Người đọc dễ dàng cảm thông với tâm trạng uất hận của con hổ. Bởi cái thế giới nó dang sống tù túng quá, giả dối quá, tầm thường quá:

Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối
Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng
Dải nước đen giả suối, chẳng thông dòng
Len dưới nách những mô gò thấp kém;
Dăm vừng lá hiền lành, không bí hiểm,
Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu,
Của chốn ngàn năm cao cả, âm u.

Cái trật tự mà con hổ đang sống- trật tự ở vườn bách thú là do bàn tay con người sắp đặt. Đó chính là cái trật tự tù túng, tầm thường của xã hội đương thời đang đè nặng lên tâm hồn u uất của cả một thế hệ. Trong cái trật tự ấy, đã có những kẻ buông xuôi chấp nhận. Những kẻ ấy, trong con mắt của nhân vật lãng mạn, chỉ là bọn dở hơi, vô tư tư đáng ghét đáng khinh.

Chế Lan Viên cũng dã từng có cảm nhận:
Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp,
Giấc mơ con đè nát cuộc đời con.
Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp,
Một mái nhà yên rủ bóng xuống tâm hồn.

Càng nghĩ mà càng thấy ngao ngán! Con hổ cũng vậy. Một tâm hồn lãng mạn và phóng túng, ngang tàng, làm sao có thể chấp nhận! Nó không chịu làm lành với thực tại mà chỉ thấy căm, khinh, hận, ghét. Nó muốn thoát ra khỏi cái thực tại ấy mà không có cách gì thoát ra được bởi cái “cũi sắt” kia nặng nề quá, chắc chắn quá. Con hổ rơi vào một tâm trạng bi kịch. Liệu nó có chịu nằm dài trông ngày tháng dần qua?

Tuy bất lực nhưng con hổ không chịu buông xuôi. Bất hoà với thực tại, con hổ tìm cách thoát li khỏi thực tại. Và tâm hồn lãng mạn, thanh cao của con hổ đã tìm được một cách thoát li lí tưởng: thoát li vào mộng tưởng.

Đã có không ít tâm hồn lãng mạn thời đó tìm cách thoát li ra khỏi cái thực tại xã hội tù túng, tầm thường bằng mộng tưởng. Tản Đà tìm cách thoát li ngông nghênh: lên cung trăng làm bạn với Hằng Nga để vừa xa lánh được cõi trần bụi bặm, vừa thoả được cái thói phong tình; có thể ngạo mạn trông xuống thế gian cười.

Thế Lữ lại khác. Tuy khát vọng thoát li cũng rất mãnh liệt nhưng Thế Lữ không tìm cách thoát li lên cõi tiên, ông muốn làm một lữ khách trên trần thế, đi săn tìm cái đẹp nơi trần thế. Vì thế ông đã cho nhân vật trữ tình của mình thoát li bằng cách thả hồn vào mộng tưởng, tìm đến với một miền đất mới.

Trong giấc mơ của tâm hồn lãng mạn, một miền đất tự do rộng mở trước mắt:

…Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi,
Với khi thét khúc trường ca dữ dội,
… bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc.

Đó là núi rừng đại ngàn mà cái gì cũng lớn lao, phi thường, cũng mãnh liệt, dữ dội và đầy hoang vu, bí mật. Thế giới trong mộng tưởng của con hổ, đối lập hẳn với thế giới tù hãm đang giam cầm thân xác nó. Trong cái thế giới vườn bách thú, con hổ chỉ còn là thứ đồ chơi. Còn trong thế giới của rừng thiêng, nó có một vị thế khác hẳn: chúa tể của muôn loài. Và chúa sơn lâm oai phong, hùng vĩ, bước giữa giang sơn của mình:

Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng,
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,
Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc,
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc,
Là khiến cho mọi vật đều im hơi.

Giấc mơ của con hổ không dừng lại ở đó, mà còn đi xa hơn. Trong giấc mơ đẹp, con hổ đang ngự trị giang sơn hùng vĩ của mình:

Nào đâu những đèm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn,
Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới?
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng,
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt,
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?

Cuộc sống trong thê giới mộng tưởng thật lãng mạn: vừa êm đềm, thơ mộng, vừa mãnh liệt dữ dội, vừa rộn rã tưng bừng, vừa âm thầm bí mật. Trong cuộc sống ấy, cái tôi cá nhân được khẳng định và phát triển. Vì thế, trong tâm trạng nhân vật trữ tình, một niềm vui tràn ngập, một trạng thái say mê đến ngất ngây, những tiếng reo vui náo nức. Cuộc sống ấy thật có ý nghĩa!

Từ trong nỗi khát khao của con hổ, lấp lánh vẻ đẹp tâm hồn và ánh sáng nhân văn. Tâm trạng của con hổ trong vườn bách thú là tâm trạng của nhà thơ lãng mạn và cũng chính là tâm trạng của cả một thế hệ. Bút pháp độc đáo của nhà thơ đã tạo nên một vẻ đẹp khó quên cho tâm hồn lãng mạn, khắc tạc nó vào giữa lòng người đọc.

Mời bạn xem nhiều hơn 🌹 Nghị Luận Về Bài Thơ Tiểu Đội Xe Không Kính 🌹 Dàn Ý Ngắn Gọn Và Chi Tiết

Phân Tích Bài Nhớ Rừng Hay Nhất – Mẫu 2

SCR.VN chia sẻ thêm đến bạn đọc mẫu bài văn Phân Tích Bài Nhớ Rừng Hay Nhất và ý nghĩa nhất.

Nhớ rừng của Thế Lữ là một bài thơ hay, tiêu biểu của phong trào Thơ mới và của tác giả trên hai phương diện: tính điêu luyện, phóng khoáng, già dặn của Thơ mới và tình cảm yêu nước kín đáo, âm thầm.

Bài thơ có một cấu tứ độc đáo: mượn lời con hổ trong cũi sắt của vườn bách thú nhớ về nỗi nhớ cảnh rừng xanh và những ngày oanh liệt của ngày xưa để nói lên niềm khao khát những cảnh tượng hùng vĩ, tự nhiên, ghét cảnh chăm sửa giả dối, khát khao được tự do biểu hiện sức mạnh tự nhiên của mình, khao khát được giải phóng cá tính.

Bài thơ cũng gửi gắm chút tình cảm đối với thời oanh liệt nhất của đất nước. Bài thơ rõ ràng là lời của con hể rồi nhưng tác giả vẫn cứ chưa rõ thêm: Lời con hổ ở vườn bách thú, để tỏ rằng đây không phải là lời của con người. Lời chua này vừa có tác dụng che mắt, nhưng cũng có ý nhắc nhở các nhà suy diễn chớ suy diễn dễ dãi.

Hai dòng đầu giới thiệu hiện trạng và tình cảm của con hổ:

Gặm một khối căm hờn trong củi sắt,
Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua.

Gặm chứ không phải ngậm, nghĩa như mình tự gặm nhấm, nhấm nháp khối căn hờn của mình. Nhà thơ nói khối căm hờn, bởi khối là một tình cảm to lớn, nguyên vẹn, chưa tan. Người xưa khi nói tới những tình cảm chưa giải tỏa, những tình cảm u uất thường dùng chữ khối tình. Nhưng đó chỉ là bề ngoài, ơ trong tâm hồn, con hổ vẫn còn nguyên là con hổ với những kỉ niệm mãnh liệt, với những tình cảm ngang tàng.

Sáu dòng tiếp theo nói lên tình cảnh tủi nhục của con hổ, thể hiện ý thực muôn phân biệt với con người và các con vật khác. Còn gì đau khổ hơn là một con hổ – chúa sơn lâm – mà không ai sợ, bị đem dùng làm đồ chơi, và đặt ngang hàng với gấu, báo? Trong khi đó, so với hổ, chúng chi là một lũ ngẩn ngơ, dở hơi, vô tư lự (không suy nghĩ).

22 dòng tiếp kể về tình thương, nỗi nhớ một thời oanh liệt đã mất: Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa. Hai chữ ngày xưa nghe sao mà xa vời, như không bao giờ có thể trở lại!

Đoạn cuối bài thơ thể hiện một tình cảm tha thiết nhưng bi đát, vô vọng. Đã nằm dài trông ngày tháng dần qua rồi lại Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu, và cuối cùng là không còn được thấy bao giơ, mạch tình cảm làm cho nỗi nhớ nhung của tác giả mang ý vị vĩnh biệt.

Nhớ rừng vừa là khát vọng về thiên nhiên, tự do, khoáng đạt, khát vọng làm chủ giang sơn, vừa là tiếng thở dài mang ý vị vĩnh biệt không hòa nhập với thế giới giả tạo. Dù thời oanh liệt không còn nữa, dù nó một đi không trở lại, thì con hổ vẫn mãi mãi thuộc về thời dã mất ấy chứ không cam tâm làm đồ chơi, mua vui cho con người.

Bài thơ cũng gửi gắm một tình cảm yêu nước. Nhà phê bình văn học Lê Đình Kị viết: “Trong thơ ca lãng mạn 1932 – 1945 không nói tới tình yêu, không đi sâu vào những tình tự riêng mà gây được tác động mạnh, trước hết phải nhớ đến bài Nhớ rừng nổi tiếng của Thế Lữ.

Bài thơ đầy ắp những sáng tạo về câu chữ, nhịp điệu. Những từ mới tạo: bốn phương ngàn, giấc mộng ngàn; những từ văn xuôi: bọn gấu dở hơi, len dưới nách những mô gò thấp kém, cảnh rừng ghê gớm,… bên cạnh những từ thi vị. Những câu thơ vắt dòng, dài, với liên từ vốn làm cho ý thơ mở rộng khác hẳn thơ luật truyền thống.

Giới thiệu ☔ Thuyết Minh Về Bài Thơ Tiểu Đội Xe Không Kính ☔ 15 Mẫu Đặc Sắc

Cảm Nhận Bài Thơ Nhớ Rừng Hay Đặc Sắc – Mẫu 3

Đón đọc bài văn mẫu phân tích bài thơ Nhớ rừng hay nhất đặc sắc được chọn lọc và chia sẻ dưới đây:

Nhớ rừng là một trong những bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất của Thế Lữ và của phong trào Thơ mới (1932-1941). Bài thơ ra đời giữa lúc cuộc bút chiến giữa thơ mới và thơ cũ đang diễn ra hết sức gay gắt. Và sự xuất hiện của Nhớ rừng trên thi đàn đã làm cho cả hàng ngủ thơ xưa phải tan vỡ (Hoài Thanh).

Cái gì đã làm cho bài thơ Nhớ rừng có một uy lực và sức mạnh diệu kì đến như vậy? Phải chăng một phần là do sự độc đáo trong bút pháp nghệ thuật lãng mạn của thi nhân?

Trước hết, ta hãy cùng nhau đọc lại bài thơ, để cho ngôn ngữ, nhạc điệu của bài thơ vang lên bên tai ta, để cho cảm xúc thơ tràn ngập lòng ta, để cho hình ảnh thơ hiện diện trong tâm trí ta, để cho hồn thơ lắng lại trong ta:

Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt,

Hỡi cảnh rừng ghè gớm của ta ơi!

Bài thơ được khơi nguồn từ một cảm hứng: cảm hứng lãng mạn. Cảm hứng lãng mạn trong Nhớ rừng thật mãnh Hệt và trở thành nguồn cảm hứng chủ đạo của cả bài thơ. Với cảm hứng lãng mạn, Thế Lữ đã khắc hoạ một hình tượng mang ý nghĩa biểu tượng: hình tượng con hổ. Nó có một vẻ đẹp tâm hồn lãng mạn: Tuy thân tù hãm nhưng hồn vẫn sục sôi khát vọng tự do; bất hoà sâu sắc với thực tại tầm thường tù túng, nhân vật trữ tình tìm cách thoát li vào mộng tưởng, tìm đến với cái thế giới rộng lớn, cao cả, phi thường.

Mạch cảm xúc thơ cuồn cuộn tuôn trào. Từ cảm xúc uất hận, chán ngán:

Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt,
Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua

Chuyển thành nỗi nhớ tiếc khôn nguôi thời oanh liệt oai hùng đã qua:

Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ
Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa.
Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già

Nỗi nhớ tiếc càng ngày càng trở nên đau đớn xót xa:

Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới?
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng,
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật
Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?

Bốn câu hỏi tu từ vang lên liên tiếp khiến cho cảm xúc thơ càng thêm phần mãnh liệt, tác động mạnh mẽ tới cảm xúc của người đọc.

Từ cảm xúc nhớ tiếc da diết đến đau đớn, con hổ quay trở lại với tâm trạng chán ngán, u uất đến cao độ:

Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu

Càng uất hận, con hổ càng khát khao trở lại rừng thiêng:

Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn
Để hồn ta phảng phất được gần ngươi,
Hỡi cảnh rừng ghế gớm của ta ơi!

Bài thơ đã khép lại mà mạch cảm xúc vẫn cuồn cuộn tuôn trào, chảy mãi trong lòng người đọc. Có thể nói, nguồn cảm xúc lãng mạn dồi dào, đã tạo nên sức hấp dẫn đầu tiên cho bài thơ.

Trong dòng cảm xúc lãng mạn của thi nhân, xuất hiện một hệ thống hình ảnh thơ mang một vẻ đẹp độc đáo, đầy ấn tượng. Đây là hình ảnh của cảnh sơn lâm hùng vĩ từ bóng cả cây giày đến tiếng gió gào ngàn, giọng nguồn hét núi…, cái gì cũng lớn lao, cũng phi thường. Giữa nền thiên nhiên hùng vĩ ấy, hình ảnh chúa sơn lâm hiện ra mang một vẻ đẹp kì vĩ, lẫm liệt:

Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng,
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,
Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc,
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc,
Là khiến cho mọi vật đều im hơi.

Đặc biệt đoạn ba của bài thơ với những hình ảnh thể hiện sự sáng tạo nghệ thuật độc đáo, bất ngờ:

Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn,
Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới?
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,,
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng,
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt?

Đoạn thơ là một bộ tứ bình lộng lẫy. Đầu tiên là cảnh đêm trăng vàng bên bờ suối, con hổ say mồi đứng uống ánh trăng tan. Chao ôi, cảnh tượng thật lãng mạn và thơ mộng biết bao!

Nhân vật trữ tình đang thả hồn vào chốn thần tiên, say mê tận hưởng cái đẹp thanh cao của thiên nhiên. Trong tâm hồn nó, mọi nỗi ưu phiền dường như được rũ sạch. Bức tranh cuối cùng của bộ tứ bình vẫn lộng lẫy, nhưng không còn êm đềm thơ mộng nữa, mà trở nên dữ dội, bí hiểm với những mảng màu sắc rực rỡ, tạo ra những ấn tượng mạnh. Hình ảnh thơ vừa tráng lệ, vừa giàu chất tạo hình, tạo nên nét đặc sắc trong bút pháp lãng mạn Thế Lữ.

Để diễn tả cảm xúc, tâm trạng của nhân vật trữ tình và khắc hoạ hình ảnh thơ, Thế Lữ rất chú ý tới chọn lựa ngôn ngữ. Những động từ gậm, gào, thét, quắc, ôm,… vừa giàu nhạc tính, vừa phù hợp với hình ảnh thơ, những tính từ: dõng dạc, đường hoàng, âm thầm, lênh láng,…vừa giàu chất tạo hình, vừa gợi cảm.

Những điệp từ, điệp ngữ: Nào đâu, đâu, kết hợp với việc sử dụng liên tiếp các câu hỏi tu từ càng làm tăng thêm nỗi nhớ tiếc da diết khôn nguôi, nỗi đau xót đến tận cùng trong tâm trạng nhân vật trữ tình… Có thể nói, ngôn ngữ trong Nhớ rừng khá dồi dào và phong phú, thể hiện rất đát ý tưởng và cảm xúc thơ.

Bên cạnh việc lựa chọn ngôn ngữ, Thế Lữ cũng rất chú ý đến tiết tấu và nhịp điệu thơ. Tiết tấu và nhịp điệu thơ được sử dụng khá linh hoạt. Để diễn tả tâm trạng căm uất dằn vặt khi mới bị nhốt trong cũi sắt, tác giả sử dụng một câu thơ nhiều vần trắc: Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt, câu thứ hai chuyển sang nhiều thanh bằng, giọng trầm xuống, diễn tả nỗi buồn bã, chán ngán.

Hoặc những câu thơ miêu tả hình ảnh con hổ đang tung hoành giữa thiên nhiên hùng vĩ, có những thanh bằng trắc xen kẽ nhau nhịp nhàng đã góp phần làm nổi bật lên hình tượng con hổ vừa uy nghi, dũng mãnh, vừa mềm mại, uyển chuyển. Những nhịp thơ dài, ngắn khác nhau rất phù hợp với sự thay đổi cảm xúc của con hổ. Tiết tấu và nhịp điệu ấy đã tạo nên những câu thơ rất giàu nhạc điệu.

Kết hợp với hình ảnh, ngôn ngữ, tiết tấu, nhạc điệu là giọng điệu của bài thơ. Giọng điệu thơ cũng khá phong phú, khi thì bực bội, dằn vặt, khi thì say sưa sảng khoái rất phù hợp với mạch cảm xúc trữ tình của bài thơ.

Tìm hiểu những nét đặc sắc nghệ thuật của bài thơ, ta thêm hiểu vì sao ngay sau khi Nhớ rừng vừa được đăng báo, nó đã được công chúng đón chào nồng nhiệt và được truyền bá rộng rãi.

🌼 Ngoài Phân Tích Bài Nhớ Rừng Hay Nhất. Chia Sẻ Thêm Thơ Lê Anh Xuân ❤️️ Tuyển Tập Những Bài Thơ Hay Nhất

Phân Tích Bài Nhớ Rừng Ngắn Nhất – Mẫu 4

Khám phá thêm bài văn Phân Tích Bài Nhớ Rừng Ngắn Nhất mà SCR.VN chia sẻ dưới đây bạn nhé.

Thế Lữ được mệnh danh là “lá cờ đầu của phong trào thơ mới” với ngòi bút xuất sắc in dấu trong các tác phẩm thơ ca. Rất nhiều tác phẩm của ông đã góp phần to lớn cho sự phát triển của Thơ Mới mà tiêu biểu nhất là tác phẩm Nhớ Rừng.

Ở trong Nhớ Rừng, Thế Lữ đã thể hiện một tâm sự u uất, chán nản và khát vọng tự do cháy bỏng tha thiết qua lời mượn của con hổ trong vườn bách thú. Đó cũng là tâm sự chung của những người Việt Nam yêu nước trong hoàn cảnh mất nước.

Cùng chung thái độ phản kháng ấy, Thế Lữ đã viết nên những dòng thơ đầy tâm trạng trong bài Nhớ Rừng. Mượn lời con hổ ở vườn bách thú để nói lên tâm trạng chính mình. Thế Lữ đã dựng lên một khung cảnh vừa rất thực vừa ẩn chứa những điều thầm kín sâu xa.

Hổ vốn là loài vật được xem là chúa tể của muôn loài, nhưng nay vì sa cơ mà phải chịu sống cảnh “nhục nhằn” trong cũi sắt. Không gian cuộc sống của vị chúa tể rừng xanh đã bị thu hẹp và từ nay bị biến thành một “trò lạ mắt”, một “thứ đồ chơi” trong con mắt mọi người. Đối với nó, cuộc sống bây giờ đã trở nên vô vị nhạt nhẽo.

Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt
Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua

Hổ đã cảm thấy bất lực bởi chẳng có cách nào thoát khỏi cuộc sống tù túng nên cũng đành ngao ngán nhìn thời gian trôi qua một cách vô ích. Nhưng cho dù phải ở trong hoàn cảnh nào thì kẻ thuộc “giống hùm thiêng” cũng luôn biết thân phận thực sự của mình là một vị chúa. 

Mệt mỏi, ngao ngán, bất lực! Trong hoàn cảnh đáng thương ấy, hổ đã nghĩ về cuộc sống quá khứ huy hoàng của mình:

Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ…
Với khi thét khúc trường ca dữ dội…

Con hổ đã tiếc nhớ về thuở “hống hách” nơi “bóng cả cây già”. Đó là nỗi nhớ đau đáu về nơi rừng thẳm. Nhớ rừng là tiếc nhớ tự do, nhớ về “thời oanh liệt”, là nhớ về cái cao cả, chân thực, tự nhiên . Ở chốn nước non hùng vĩ ấy, con hổ đang ngự trị một sức mạnh giữa cuộc đời. Bản lĩnh của một vị chúa sơn lâm luôn thể hiện xứng đáng quyền lực tối cao.

Ta bước chân lên dõng dạc đường hoàng…
Giữa chốn thảo hoa không tên không tuổi

Vẻ đẹp thật sự của hổ là đây! Từng bước chân, từng tấm thân ,từng ánh mắt đã khơi gợi lên một vẻ vừa dũng mãnh uy nghi vừa nhẹ nhàng uyển chuyển. Trong từng hành động, loài mãnh thú kia đã cho mọi vật thấy được sức mạnh tuyệt đỉnh khiến cho tất cả phải “im hơi”.

Cuộc sống tự do giữa chốn rừng thẳm mãi mãi là một điều rất cao quý. Ở đó hổ thực sự được hưởng một cuộc sống tươi đẹp mà thiên nhiên đã dành cho. Đó là những thời khắc mãnh hổ đang “say mồi”, đang ngắm sự đổi thay của “giang sơn”, đang say giấc và đang muốn chiếm lấy riêng “phần bí mật”.

Nỗi nhớ miên man tuôn trào với cảm xúc về quá khứ tươi đẹp đã khép lại giấc mơ huy hoàng trong một tiếng than thảm thiết:

Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu

Giang sơn ấy là nơi hổ đã có những ngày tháng tươi đẹp, thoả chí vùng vẫy trong không gian riêng biệt thênh thang. Cho dù bây giờ sẽ chẳng bao giờ được sống lại ở những nơi xưa ấy nhưng hổ vẫn không bao giờ thôi nghĩ về “giấc mộng ngàn to lớn”. Vị chúa mất ngôi đã khẩn cầu để được mãi sống trong những ký ức.

Để hồn ta phảng phất được gần ngươi
Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi

Nỗi lòng của hổ là tâm sự của chàng thanh niên Thế Lữ mơ về cuộc sống tươi đẹp đã qua trong quá khứ. Đó cũng là tinh thần chung của hầu hết các bài thơ của Thế Lữ cũng như trong phong trào Thơ Mới, mang theo khát khao của con người muốn được sống chính là mình.

Nhớ Rừng không thể thoát ra khỏi nỗi buồn, “tâm bệnh của thời đại” bấy giờ. Nhưng bài thơ đặc sắc chính bởi vì tạo nên điểm gặp gỡ giữa sự u uất của người dân mất nước và tâm trạng bất hoà bất lực trước thực tại của thế hệ thanh niên trí thức tiểu tư sản. Qua đó khơi lên niềm khát khao tự do chính đáng.

👉 Ngoài Phân Tích Bài Nhớ Rừng Ngắn Nhất. Chia Sẻ Thêm Mẫu Cảm Nhận Bài Thơ Ánh Trăng ❤️ 10 Bài Văn Mẫu Hay

Phân Tích Bài Thơ Nhớ Rừng Ngắn Gọn Nhất Chọn Lọc – Mẫu 5

Bài văn mẫu phân tích bài thơ Nhớ rừng ngắn gọn nhất chọn  lọc dưới đây sẽ giúp các em học sinh tham khảo cách hành văn súc tích.

Là một trong những gương mặt đầu tiên của phong trào Thơ Mới, ngay khi xuất hiện Thế Lữ đã gây tiếng vang lớn trên văn đàn với bài thơ Nhớ rừng. Một phong cách hoàn toàn mới, thoát li tính quy phạm ước lệ, đây chính là khởi nguồn của thơ mới. Bài thơ Nhớ rừng là một mốc son chói lọi trong sự nghiệp của Thế Lữ, ấn chứa nhiều giá trị sâu sắc.

Mở đầu tác phẩm là hình ảnh của chúa sơn lâm với biết bao căm hờn, phẫn uất:

Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt
Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua

Với cặp báo chuồng bên vô tư lự

Vốn là chúa tể sơn lâm, ngự trị cả rừng già, nhưng nay lại bị giam hãm, hổ vô cùng đau đớn, phẫn uất, nỗi căm hờn đó đã dồn nén biết bao lâu nay, chứa chất thành hình, thành khối. Kết hợp với động từ gậm càng nói rõ hơn sự phẫn uất của chúa tể sơn lâm. Sao có thể không căm tức cho được khi phải nằm dàitrông ngày dài tháng rộng qua đi.

Cay đắng hơn là khi ý thực được sự bất hạnh của bản thân, nhưng vẫn phải nhẫn nhục chịu đựng làm thứ đồ chơi lạ mắt cho mọi người, phải làm bạn với lũ báo chuồng bên trong vườn bách thảo. Nỗi đau này ai có thể thấu cho hết.

Trong hoàn cảnh bị giam cầm, tù hãm nỗi nhớ cảnh sơn lâm càng trở nên cồn cào, da diết và mãnh liệt hơn. Đó là cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già thâm u huyền bí mà chúa sơn lâm ngự trị. Nơi đó mọi uy quyền của nó được phát huy tối đã, chỉ cần một cái quắc mắt cũng làm cho mọi vật im hơi, sợ hãi:

Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn thét núi

Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi

Hình ảnh con hổ trong khổ thơ hiện lên thật uy nghi, lẫm liệt. Tấm thân lượn sóng nhịp nhàng, những bước chân dõng dạc, đường hoàng đã nói lên tất cả quá khứ hào hùng của con hổ. Đại từ nhân xưng ta được sử dụng xuyên suốt khổ thơ, vang lên đầy tự hào, khẳng định quyền uy tuyệt đối của hổ.

Trước sức mạnh của chúa sơn lâm mọi vật đều phải kiêng dè, sợ hãi. Khi mắt thần đã quắc tất cả mọi vật đều phải im hơi. Nỗi nhớ rừng thiêng, nơi hổ ta từng ngự trị chính là những năm tháng đẹp đẽ mà nó không bao giờ quên. Đồng thời qua nỗi nhớ đó cũng cho thấy khát vọng sống, khát vọng tự do cháy bỏng của chúa sơn lâm.

Khổ thơ tiếp theo là một bức tranh đặc sắc, một quá khứ vàng son, tráng lệ của hổ:

Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối

Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu

Khổ thơ là các câu hỏi tu từ liên tiếp nhau: đâu những đêm vàng, nào đâu những ngày mưa, đâu những bình minh,… tạo nên sắc thái da diết, khắc khoải. Đặt câu hỏi đó chính là cách gợi nhắc, nuối tiếc về quá khứ vàng son, rực rỡ thuở trước. Biết bao nhớ thương, tiếc nối, bức họa được phác lên đầy màu sắc và ánh sáng: đêm vàng, ánh trăng tan, mưa chuyển bốn phương ngàn, cây xanh nắng gội, tiếng chim ca vang núi,… Quá khứ càng đẹp đẽ, rực rỡ bao nhiêu thì hiện tại lại càng đau đớn xót xa bấy nhiêu.

Xưa tung hoành, vùng vẫy, nay bị cầm tù giam hãm. Than ôi, thời oanh liệt đã lùi vào quá vãng. Khổ thơ là bức tranh đẹp đẽ nhất trong tác phẩm, với ngôn ngữ giàu giá trị hình tượng, màu sắc và âm thanh. Nhạc điệu biến đổi linh hoạt, khi du dương khi dữ dội mạnh mẽ. Các câu hỏi tu từ và điệp ngữ được vận dụng một cách tài tình đã nói lên nỗi đau bị tước đoạt quyền tự do và khát khao tháo cũi sổ lồng mãnh liệt.

Trở lại với thực tại, con hổ càng đau đớn, căm ghét hơn khung cảnh giả dối, tầm thường:

Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu
….
Của chốn ngàn năm cao cả, âm u

Khung cảnh thực tại giả dối, hoa chăm cỏ xén, những mô gò thấp kém không bí hiểm sao có thể sánh được với đại ngàn hoang vu. Cũng chính bởi sự giả tạo của khung cảnh càng làm hổ ta đau đớn hơn, vì khung cảnh đó không xứng với một kẻ làm chúa tể sơn lâm như hổ.

Khổ thơ cuối cùng là những lời thơ đầy phẫn uất, đầy đau đớn, và ý thức rõ ràng rằng nơi đó ta sẽ chẳng thấy được bao giờ, mà chỉ có thể hòa vào nó trong giấc mộng mà thôi: “Có biết chăng trong những ngày ngao ngán/ Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn/ Để hồn ta phẳng phất được gần ngươi/ Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!”.

Bài thơ khép lại bằng lời nhắn gửi da diết, khắc khoải, lời nhắn đó xoáy sâu vào tâm trí người đọc, khiến ta ám ảnh mãi về khao khát tự do, khát khao một cuộc đời tung hoành, không chỉ của riêng con hổ mà còn là của người dân Việt Nam lúc bấy giờ.

Mượn lời con hổ ở vườn bách thú, Thế Lữ đã thể hiện tâm trạng cua những dân Việt Nam trong quãng thời gian bị mất nước. Bởi vậy tiếng lòng của con hổ cũng chính là tiếng lòng của nhân dân ta lúc bấy giờ. Cái hay và giá trị sâu sắc của văn bản Nhớ rừng chính là ở chỗ đó.

Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất

Phân Tích Bài Thơ Nhớ Rừng Ngắn Nhất Súc Tích – Mẫu 6

Chia sẻ dưới đây bài văn mẫu phân tích bài thơ Nhớ rừng ngắn nhất súc tích để các em học sinh cùng tham khảo.

Thế Lữ là một trong những gương mặt xuất hiện sớm và nổi bật trong phong trào Thơ mới. Là người mang nặng tâm sự thời thế đất nước. Thế Lữ không tránh khỏi tâm trạng u uất. Bất hoà sâu sắc với thực tại xã hội tù túng, giả dối, ngột ngạt đương thời. Thế Lữ khao khát một cái tôi được khẳng định và phát triển trong một cuộc sống tự do. Tâm sự ấy, niềm khát khao ấy được ông kí thác vào lời con hổ ở vườn bách thú qua bài thơ Nhớ rừng.

Trong bài thơ, Thế Lữ xây dựng một nhân vật trữ tình lãng mạn: con hổ. Toàn bộ cảm hứng lãng mạn của Thế Lữ dồn vào việc miêu tả tâm trạng của con hổ.

Ban đầu là tâm trạng căm uất, ngao ngán:

Gặm một khối căm hờn trong cũi sắt
Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua

Đó là nỗi uất hận của kẻ chiến bại nay sa cơ, bị rơi và cảnh sống giam cầm tù túng, phải chịu nỗi nhục nhằn vì bị tù hãm. Càng nghĩ chứa sơn lâm càng ngao ngán, nó đành buông xuôi bất lực nằm dài trông ngày tháng dần qua.

Trong tâm trạng uất hận và chán ngán đó, cảnh vườn bách thú hiện ra mới tù túng, tầm thường và giả dối làm sao!

Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng
Dải nước đen giả suối, chẳng thông dòng,
Len dưới nách những mô gò thấp kém;
Dăm vừng lá hiền lành không bí hiểm,
Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu
Của chốn ngàn năm cao cả, âm u.

Cảnh sống ấy, đối với con hổ, sao mà đáng chán, đáng khinh và đáng ghét đến vậy!

Cảnh vườn bách thú tầm thường, giả dối và tù túng dưới mắt con hổ, phải chăng là cái thực tại xã hội đương thời được cảm nhận bằng những tâm hồn lãng mạn. Và thái độ của con hổ, phải chăng chính là thối độ của họ đối với xã hội đương thời.

Tư trong cảnh giam cầm tù hãm, con hổ nhớ tiếc da diết đến đau đớn cả một thời oanh liệt đã qua.

Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ
Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa

Một cảnh tượng huy hoàng sống lại trong tâm trí con hổ. Nó sống tự do giữa giang sơn của mình chốn đại ngàn với những gì lớn lao, phi thường, mãnh liệt và dữ dội, hoang vu và bí mật: gió gào ngàn, nguồn hét núi, “bóng âm thầm lá gai cỏ sắc”.

Trên cái nền thiên nhiên hùng vĩ đó, hình ảnh con hổ hiện ra oai phong, lẫm liệt:

Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng.
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,
Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc,
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc,
Là khiến cho mọi vật đều im hơi

Than ôi, cái mà nó tự do vùng vẫy, được tận hưởng cảnh sống khi thì thơ mộng đến diệu kì những đêm vàng bèn bờ suối… đứng uống ánh trăng tan, khi thì rộn rã tưng bừng bình minh cây xanh nắng gội, tiếng chim ca… tưng bừng khi thì mãnh liệt và dữ dội mưa chuyển bốn phương ngàn, lênh láng máu sau rừng, tất cả đã qua rồi, nay còn đâu? Giấc mơ huy hoàng của con hổ đã khép lại trong một tiếng than đầy u uất:

Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu!

Nỗi đau và tâm trạng hoài vọng trong lòng con hổ, phải chống cũng chính là nỗi đau và tâm trạng hoài vọng của những người dân Việt Nam khi đó? Nhớ rừng đã chạm tới dây thần kinh nhạy cảm nhất của người dân Việt Nam mất nước, đang sống nô lệ! Càng nhớ tiếc da diết khôn nguôi quá khứ đẹp đầy kiêu hùng, con hổ càng khát khao trở lại rừng thiêng. Khát vọng đó mãnh liệt và cháy bỏng trong lòng nó:

Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ!
Là nơi giống hùm thiêng ta ngự trị
Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa,
Nơi ta không còn được thấy bao giờ!
Có biết chăng trong những ngày ngao ngán,
Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn,
Để hồn ta phảng phất được gần ngươi,
Hỡi cánh rừng ghế gớm của ta ơi!

Bài thơ khép lại bằng một lời nhắn gửi tha thiết. Lời nhắn gửi đó cứ xoáy sâu vào tâm hồn người đọc, ám ảnh họ mãi. Khát vọng trở lại rừng xưa của con hể cũng chính là khát vọng về cuộc sống tự do của cả một lớp người, của cả một dân tộc.

Lời con hổ trong vườn bách thú thể hiện tâm trạng bi kịch của con hổ hay cũng chính là nỗi niềm của người dân Việt Nam mất nước khi đó. Họ thấy con hổ nhớ rừng chính là tiếng lòng của mình. Bài thơ đã nói hộ họ nỗi đau khổ vì thân phận nô lệ, thái độ chán ghét cái xã hội đương thời, nỗi nhớ tiếc quá khứ oai hùng, oanh liệt đầy tự hào của dân tộc, và cuối cùng là niềm khát khao tự do đến cháy bỏng. Vì thế, có thể coi Nhớ rừng là một áng thơ yêu nước.

Khát vọng tự do và tâm sự yêu nước hoà quyện với vẻ đẹp của tâm hồn lãng mạn, được hiểu hiện bằng một bút pháp nghệ thuật đặc sắc, đã tạo nên vẻ đẹp độc đáo cho áng thơ bất tử này.

Gửi đến bạn 🍃 Phân Tích Bài Thơ Ánh Trăng Của Nguyễn Duy 🍃 Những Bài Văn Mẫu Hay Nhất

Cảm Nhận Bài Thơ Nhớ Rừng Chi Tiết – Mẫu 7

Bài văn phân tích, cảm nhận về bài thơ Nhớ rừng chi tiết dưới đây sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích dành cho các em học sinh.

Thế Lữ là một trong các cây bút tiên phong, mở đường cho thơ ca hiện đại Việt Nam phát triển. Có thể nói ông là người cắm ngọn cờ chiến thắng cho thơ mới, dựng lên nền thơ mới cho thi ca dân tộc ở ngay chặng đầu (1930-1935). Thơ ông mang nặng tâm sự thời thế, đất nước nhưng không bế tắc, u buồn mà là tiếng thơ tha thiết, bi tráng.

“Nhớ rừng” là một trong những bài thơ được sáng tác theo bút pháp lãng mạn, có vị trí quan trọng trong sự nghiệp sáng tác Thế Lữ và cũng là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của phong trào thơ mới.

Thi phẩm được sáng tác năm 1934, in trong tập “Mấy vần thơ” (1935), tác giả đã mượn lời con hổ bị nhốt ở vườn bách thú để diễn tả sâu sắc nỗi chán ghét thực tại tầm thường, tù túng và niềm khát vọng tự do mãnh liệt của chàng thanh niên mất nước. Bộc lộ niềm khát vọng được khẳng định cái tôi của chính mình và được phát triển trong một cuộc sống rộng lớn, đất nước tự do. Đó cũng là lời tâm sự chung của những chàng thanh niên trí thức sống trong hoàn cảnh mất nước thời kì đó.

Trước hết, với bài thơ “Nhớ rừng”, Thế Lữ đã xây dựng thành công hình tượng con hổ bị sa cơ lỡ vận, mang vẻ đẹp của người anh hùng chiến bại. Đoạn thơ mở đầu là nỗi đau bi kịch của con hổ ngay trong thì hiện tại:

Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt
Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua
Khinh lũ người kia ngạo mạn ngẩn ngơ
Giương mắt bé giễu oai linh rừng thẳm
Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm
Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi
Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi
Với cặp báo chuồng bên vô tư lự.

Nỗi căm hờn là nỗi đau đớn, uất ức, căm phẫn vốn vô hình nhưng qua động từ “gậm” đã trở nên có hình có khối, như có thể nhìn thấy cụ thể. Nỗi căm hờn ấy không chỉ tồn tại trong một khoảnh khắc mà nó luôn âm ỉ, kế đọng từ rất lâu rồi. Đó là nỗi căm hờn của sự cầm tù “trong cũi sắt” đến mất quyền tự do, chỉ biết “nằm dài” ngao ngán, tuyệt vọng nhìn ngày tháng trôi qua dần dần mà bất lực.

Nỗi đau bi kịch đó của chúa sơn lâm càng được đẩy lên cao trào hơn khi phải sống chung với “bọn gấu dở hơi” và trở thành một món đồ chơi lạ mắt cho “lũ người ngạo mạn”. Hiện tại là thế: sa cơ, tù hãm, bất lực nhưng hổ chẳng bao giờ quên được những năm tháng của thuở trời đất dọc ngang, ngang dọc tung hoành bốn bể năm nào:

Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ
Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa
Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già,
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi,
Với khi thét khúc trường ca dữ dội,
Ta bước chân lên dõng dạc, đường hoàng,
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,
Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc,
Là khiến cho mọi vật đều im hơi
Ta biết ta chúa tể cả muôn loài
Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi.

Nỗi nhớ đã khơi nguồn cho những cảnh núi rừng bí ẩn lần lượt hiện ra thật tráng lệ, hùng vĩ nhưng cũng thật trữ tình, nên thơ. Đó là cảnh “bóng cả cây ngà”, “tiếng gió gào ngàn”, “giọng nguồn hét núi”. Chúa sơn lâm cứ say sưa nhớ lại những kỉ niệm rực lửa, huy hoàng, tự hào và kiêu hãnh khi ấy.

Những động từ miêu tả động tác như “bước, vờn, lượn, quắc” kết hợp với hệ thống những từ láy giàu tính chất tạo hình “nhịp nhàng, dõng dạc, âm thầm” đã tạo nên một vị chúa tể rừng xanh vừa mềm mại, uyển chuyển, vừa tự tin, đàng hoàng, lại vừa oai phong lẫm liệt, dũng mãnh phi thường. Và thời gian đó là những ngày tháng đẹp nhất:

Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới?
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?
-Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?

Nỗi nhớ cồn cào da diết cứ dẫn dắt mãnh hổ trở về với quá khứ xa xăm của một thời vang bóng, đó là những đêm trăng vàng bên bờ suối tận hưởng, thả hồn uống ánh trăng đêm; những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn, lặng lẽ ngắm mưa rừng dữ dội; những ngày yên bình, thanh thản trong ánh nắng bình minh ngập tràn sắc nắng hay là lúc hả hê, vui thích trong những chiến lợi phẩm và đợi mặt trời lặn xuống để làm chủ đêm đen.

Nghệ thuật điệp cấu trúc (điệp ngữ) kết hợp với câu hỏi tu từ đã xem vừa diễn tả dòng hồi tưởng miên man không dứt; lại vừa thể hiện nỗi nhớ nhung da diết, xen lẫn niềm tiếc nuối xót xa về những ngày tháng được tung hoành, tự do. Vì thế, câu thơ cuối đoạn cất lên như một tiếng thở dài ngao ngán, tuyệt vọng:

“-Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?”

Trở về với thực tại tầm thường, giả dối, nỗi chán ngắn, sự khinh bỉ của “chúa tể muôn loài” đã tăng lên đến cao độ. Đó toàn là những khung cảnh giả dối, tầm thường:

Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng;
Dải nước đen giả suối, chẳng thông dòng
Len dưới nách những mô gò thấp kém;
Dăm vừng lá hiền lành, không bí hiểm,
Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu
Của chốn ngàn năm cao cả, âm u.

Vì thế, đoạn thơ cuối là lời nhắn gửi bi tráng của con hổ với chốn nước non hùng vĩ. Một mặt thể hiện niềm xót xa về quá khứ; một mặt khẳng định tâm thế cường tráng, mạnh mẽ của mãnh hổ không gì có thể khuất phục được, ngay cả khi đã bị giam cầm trong cũi sắt:

Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ!
Là nơi giống hầm thiêng ta ngự trị
Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa
Nơi ta không còn được thấy bao giờ!
Có biết chăng trong những ngày ngao ngán,
Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn.
Để hồn ta phảng phất được gần ngươi,
-Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!

Xét về hình thức nghệ thuật của bài thơ “Nhớ rừng”, cái “mới” của thi phẩm trước hết được thể hiện qua thể thơ tám chữ, gieo vần liền (hai câu liền nhau có vần với nhau), vần bằng, vần trắc hoán vị liên tiếp, đều đặn. Kế thừa thể hát nói truyền thống nhưng “Nhớ rừng” với thể tám chữ đã được dùng linh hoạt, tự do hơn về cách ngắt nhịp, phá bỏ hoàn toàn những qui định niêm luật vận đối cứng nhắc (khi ngắn, khi dài, khi anh, khi chậm…).

Ngoài ra ngôn ngữ hình ảnh thơ không còn mang tính ước lệ nữa, thay vào đó rất sinh động, sáng tạo, giàu tính chất trữ tình, biểu cảm. Bên cạnh đó, bài thơ còn sử dụng nhiều các biện pháp tu từ nghệ thuật: ẩn dụ, so sánh, liệt kê, câu hỏi tu từ… Tất cả điều đó đã tạo nên tính nhạc điệu và chất họa cho bài thơ.

Xét về nội dung, bài thơ “Nhớ rừng” đã mượn lời con hổ ở vườn bách thảo để thể hiện kín đáo tâm sự con người thời kì đó. Bài thơ có lời đề từ là “Lời con hổ ở vườn bách thú”những đó thực chất là lời tâm sự, khát vọng tự do mạnh mẽ của thế hệ thanh niên sống trong hoàn cảnh mất nước. Đó là “niềm uất hận ngàn thâu” đối với hiện thực xã hội tù túng, ngột ngạt – một hiện thức khiến con người thấy chán ghét, muốn từ bỏ, thoát ly.

Đi liền với sự chối bỏ là niềm khát khao mạnh mẽ được đổi thay, được khẳng định giá trị bản thân mình trong một xã hội bình yên, phẳng lặng. Vì thế, bài thơ không chỉ dừng lại ở việc xây dựng hình tượng con hổ bị giam cầm, nhớ về thời vàng son của mình mà còn gửi gắm trong đó sự lên tiếng của cá nhân, đòi giải phóng cái tôi người nghệ sĩ và mong ước đất nước được hòa bình, tự do, thoát khỏi cảnh nô lệ, ngục tù. Cho nên, có thể nói, bài thơ đã bộc lộ kín đáo, thấm thía tình yêu quê hương, đất nước của nhà thơ Thế Lữ.

Tóm lại, qua bài thơ “Nhớ rừng”, chúng ta thấy được sức sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Thế Lữ, góp phần khẳng định chỗ đứng vững chắc và sự toàn thắng của thơ mới trên văn đàn, đánh dấu một bước ngoặt lớn của thi ca Việt Nam đương đại. Bài thơ đã dựng lên thành công hình tượng chúa sơn lâm thật đẹp, thật bi tráng mang nỗi niềm tâm sự của con người. Vượt thoát khuôn khổ câu chữ trong thơ, bài thơ đã thể hiện sâu sắc thấm thía tình yêu quê hương đất nước của lớp thanh niên đương thời.

Đón đọc tuyển tập 🌹 Nghị Luận Về Bài Thơ Mùa Xuân Nho Nhỏ 🌹 5 Mẫu Hay Nhất

Phân Tích Bài Thơ Nhớ Rừng Học Sinh Giỏi – Mẫu 8

Các bạn thi kỳ thi học sinh giỏi có thể tham khảo bài văn Phân Tích Bài Thơ Nhớ Rừng Học Sinh Giỏi sau đây nhé.

Nhớ rừng là bài thơ kiệt tác của Thế Lữ, nhà thơ tiên phong của phong trào Thơ mới (1932 – 1941). Với nhạc điệu du dương, với cảnh sắc thiên nhiên tráng lệ, đặc biệt với hình tượng con hổ, bài thơ Nhớ rừng đã chinh phục mỗi chúng ta, đã chiếm lĩnh nơi sâu kín nhất cõi tâm hồn bao người trong hơn nửa thế kỷ qua.

Con hổ được thi sĩ nói đến với bao cảm thông và ngưỡng mộ. Nó đang nằm trong cũi sắt vườn Bách thú. Chúa sơn lâm trong cảnh tù hãm vô cùng cay đắng uất ức căm hờn đã tích tụ, đã chứa chất thành một khối. Không căm hờn sao được khi phải nằm dài, trông ngày tháng dần qua trong cũi sắt?

Thế Lữ đã thể hiện tâm trạng cay đắng, căm hờn của con hổ mất tựu do đầy ám ảnh:

Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt
Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua…
(…), Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm…

Qua đó, ta càng thấy rõ: Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn (Truyện Kiều – Nguyễn Du); ta càng thấm thía: trên đời nghìn vạn điều cay đắng- Cay đắng chi bằng mất tự do (Nhật ký trong tù – Hồ Chí Minh).

Năm tháng dần trôi qua, chúa sơn lâm có bao giờ nguôi được nỗi nhớ rừng. Nhớ thuở tung hoành hống hách những ngày xưa.

Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi…

Như tư thế cao sang, oai hùng của ta. Một cái bước chân, một tấm thân lượn sóng, một cái vờn bóng… Tất cả đều dõng dạc, đường hoàng. Một chữ ta vang lên đầy tự hào của chúa sơn lâm:

Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng
Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc.

Quyền uy của ta là tuyệt đối. Mọi vật đều phải khiếp sợ, phải im hơi khi mắt thần của ta đã quắc, ta biết giữa chốn thảo hoa, ta là chúa tể cả muôn loài:

Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc,…
Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi

Nỗi nhớ rừng thiêng, nhớ quyền uy… của chúa sơn lâm chính là nhớ những năm tháng không thể nào quên. Nỗi nhớ ấy chính là khát vọng sống, khát vọng tự do cháy bỏng.

Hổ nhớ rừng là nhớ đến những kỉ niệm chói lọi một thời vàng son, một thời oanh liệt. Cảnh vật tráng lệ. Nhạc của thơ cũng là nhạc của rừng.

Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
…Than ôi! Thời oanh liệt này còn đâu?

Các luyến láy, điệp ngữ: đâu những đêm vàng…, đâu những ngày mưa.. đâu những bình minh…, đâu những chiều…, nay còn đâu? Xuất hiện nối tiếp trong năm câu hỏi tu từ tạo nên nhạc điệu du dương, triền miên, da diết, thể hiện sâu sắc tình thương nỗi nhớ của hùm thiêng sa cơ, nhớ rừng, tiếc nuối một thời oanh liệt nay đã trở thành hoài niệm.

Bị sa cơ, bị tù hãm trong cũi sắt. Phải xa rừng nên nhớ rừng. Đau đớn và uất hận biết bao giờ nguôi? Như một tiếng thở dài ngao ngán:

Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu.

Vị chúa sơn lâm, nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già rồi uất hận căm ghét những cảnh không đời nào thay đổi tẻ nhạt, vô vị, vô nghĩa tầm thường giả dối nhỏ bé:

Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng;
Dải nước đen giả suối, chẳng thông dòng
Len dưới nách những mô gò thấp kém.

Uất hận cảnh tù hãm, chán ghét những cảnh vật tầm thường nhỏ bé do lũ người kia ngạo mạn bày ra, hổ lại nhớ day dứt, nhớ khôn nguôi cảnh nước non hùng vĩ. Nhớ rừng là nhớ vương quốc tự do ngày nào:

Là nơi giống hầm thiêng ta ngự trị
Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa.

Trước thực tại đau đớn, hổ chỉ còn biết thả hồn mình theo giấc mộng ngàn. Chúa sơn lâm cất tiếng gọi rừng thiêng với bao nhớ thương bồi hồi, da diết:

Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!

Nhớ rừng là một trong mười bài thơ hay nhất của phong trào Thơ mới (1932 – 1941). Thể thơ tự do, lời thơ đẹp, hình tượng kỳ vĩ, tráng lệ. Nhạc điệu du dương, cảm xúc dào dạt. Hình tượng con hổ sa cơ, đau đớn uất hận, da diết nhớ rừng được khắc họa sâu sắc, đầy ám ảnh.

👉 Ngoài Phân Tích Bài Thơ Nhớ Rừng Học Sinh Giỏi. Chia Sẻ Thêm Dàn Ý Phân Tích Chiều Tối ❤️ Mẫu Lập Dàn Ý Cảm Nhận

Phân Tích Nhớ Rừng Nâng Cao – Mẫu 9

Tham khảo  bài văn phân tích Nhớ rừng nâng cao dưới đây sẽ giúp các em học sinh tham khảo cho mình những ý văn hay và đặc sắc.

Chúng ta sống luôn mang trong mình những suy nghĩ có người chỉ mang suy nghĩ tiêu cực không giúp họ phát triển, luôn sống an nhàn trong một vòng tròn luẩn quẩn của những thứ tiện nghi tầm thường, nhưng lại có những con người luôn thúc đẩy bản thân bằng những ý nghĩ khác con người tầm thường muốn phong thân đến sự to lớn, không gò bó hạn hẹp, đầy khát vọng làm cho cuộc sống của họ trở nên tuyệt vời hơn. Ta có thể tìm được sự khích lệ của tự do trong suy nghĩ của vị chúa sơn lâm trong tác phẩm tuyệt vời của nhà thơ Thế Lữ.

Bài thơ này trở nên hay tuyệt vời, khi con hổ ấy mang được ý thức chung về sự tự do muôn đời giống như con người của biết bao nhiêu thế hệ. Nó truyền cảm hứng cho con người mạnh mẽ hơn bao giờ. Hơi thất vọng một chút khi bắt đầu bài thơ là sự ngậm ngùi khi chìm trong sự bế tắc của bản thân trong hoàn cảnh khó khăn. Tác giả thương cảm với “Con hổ ở vườn bách thú” đọc được những suy nghĩ của nó hiểu nó hơn đưa được lời nói như gần với con người hơn.

Bài thơ được chia thành 5 đoạn rõ rệt. Đoạn mở đầu chính là cảnh ngộ bi kịch-m bị tù hãm,tâm trạng uất hận, ngao ngán đành buông xuôi bất lực của con hổ. Đoạn 2 và đoạn 3 là sự tiếp nối về dòng suy nghĩ chuỗi liên tưởng quá khứ niềm khao khát, nhớ nhung tự do ở những cánh rừng hùng vĩ khi chưa có sự xâm nhập của loài người, cả nỗi thất vọng, nuối tiếc với tiếng thở dài chua xót của chúa tể rừng xanh.

Đoạn 4 tái hiện sự so sánh của hai hoàn cảnh nơi sống giữa quá khứ và thực tại. Tiếp nối, đoạn cuối cùng để thoát khỏi sự kìm kẹp của thực tại Hổ chỉ có thể gợi về sống với quá khứ oanh liệt, thả hồn trong “giấc mộng ngàn to lớn- giấc mộng về rừng thẳm, giấc mộng tự do chất chứa trong lòng”.

Sự ngậm ngùi ấy bắt nguồn từ nỗi căm hờn, bi phẫn mà người đọc vẫn muốn tìm hiểu kĩ càng về cuộc sống. Có thể nói sự tác động của con người đến với thiên nhiên, đến với những muông thú mà tự nhiên đã ban tặng đã vừa giúp họ phát triển theo sự phát triển của xã hội, nhưng để lại là nỗi đau của sự tàn phá thể xác, tâm hồn cho các loài động vật và thiên nhiên

Gặm một khối căm hờn trong cũi sắt,
Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua,
Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ,
Giương mắt bé giễu oai linh rừng thẳm
Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm,
Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi,
Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi,
Với cặp báo chuồng bên vô tư lự.

Có thể nói tâm sự của con hổ một chúa sơn lâm của rừng xanh tuy cảm thấy được sự kiêu ngạo trong từng câu chữ nhưng dường như rất thật.

Hổ phải chịu sự khuất phục của con người ngạo mạn với thiên nhiên không có chút suy nghĩ về bảo tồn thiên nhiên, không còn xứng đáng với vị trí cao nhất ở rừng, cũng không được sống như là chính mình chỉ là một trò lạ mắt,trò vui tiêu khiển của con người cùng con vật thấp bé hơn loài Hổ này về địa vị, “Bọn gấu dở hơi”, “cặp báo… vô tư”. Sự đau khổ kìm hãm ấy càng làm hổ đau khổ, ngao ngán với hoàn cảnh hiện tại.

Dường như con hổ đau với hiện tại nằm thở dài, cảnh tượng trước mắt nó khép lại mà đưa nó đến với âm thanh của núi rừng giục giã. Cảnh tượng rừng núi y như trong trí nhớ của Hổ là sự hùng vĩ, bạt ngàn, phóng khoáng của núi và rừng phóng khoáng vô cùng yên tĩnh.

Tiếp đó là sự liên tưởng sự xuất hiện của nó uy nghi, lẫm liệt ngự trị, thăm dò mọi vị trí con vật nào cũng nể sợ trong vương quốc của nó, những cảnh tượng như một thước phim quay chậm đầy hình ảnh, tiếng động làm con Hổ bồn chồn, không thể yên tĩnh được, nó muốn cử động, muốn chạy nhảy, thỏa mãn với sự sống tự do đúng của nó thể hiện phóng túng sâu sắc ở đoạn thơ thứ 2.

Tác giả dùng những động từ, tính từ mạnh để dựng nên sự kì vĩ của núi rừng, bên cạnh sự hoạt động của con Hổ đầy tiếng động: tung hoành, hống hách, gào thét, hút, dữ dội, dõng dạc, cuộn. Có thể thấy được sự sử dụng đại từ không chỉ đơn thuần nhỏ bé mà giữa trời đất rộng lớn, con hổ thấy được vị trí của mình cũng không hề nhỏ, sánh ngang với thiên nhiên bật lên được từ “ Ta” đầy quyền uy, kiêu hãnh.

Hình ảnh phong phú hiện lên rõ ràng, gợi cảm trong tâm thế của con Hổ. Tác giả tập trung tả ánh mắt của chú hổ này đã làm cho không gian đều có thần thái, uy lực của nó thể hiện ở sự khi đã quắc là khiến mọi vật đều im hơi”, sự mềm mại của tấm lưng, uyển chuyển khoan thai từ dáng đi của Hổ. Một bộ tứ không gian in đậm rõ xuất hiện trong cuộc sống của Hổ bao gồm “đêm trăng, ngày mưa, sáng xanh chiều đỏ”. Tất cả mọi không gian thời gian, con Hổ đều chế ngự với tư thế vô cùng chủ động.

Tiếp nối đoạn 2, đoạn 3 nâng sức mạnh của Hổ lên không chỉ trong rừng xanh, mà là cả ở vũ trụ theo như suy nghĩ của Hổ với những hình ảnh rực rỡ đầy màu sắc nhưng chủ yếu là gam màu đỏ như máu là chủ đạo “màu của mặt trời trong giây phút hấp hối sự tàn lụi sau ngày dài ”. “những đêm vàng bên bờ suối”, “những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn”, “những bình minh cây xanh nắng gội” và “những chiều lênh láng máu sau rừng”.

Sự kiêu ngạo trong biện pháp tu từ nhưng xen lẫn cùng phong cách cường điệu của tác giả làm cho đoạn thơ hấp dẫn. Dưới con mắt của nó, Mặt Trời ở đây Dưới con mắt của nó, mặt trời cũng chỉ là “mảnh” mà thôi, thật nhỏ bé và thảm hại! và cái bóng của nó như bao trùm cả vũ trụ.

Đã nâng con mãnh thú này lên tầm vóc vũ trụ với bút pháp cường điệu. Giọng điệu của tác giả: khi hào hùng sôi nổi mà đĩnh đạc, khi than thở nuối tiếc mà xót xa, mà chất vấn.tâm trạng con hổ từ đỉnh cao huy hoàng của sự hồi tưởng, hổ sực tỉnh nhìn về hiện tại lạnh lùng, cay đắng thốt lên “Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?”.

Sự khinh ghét của con hổ về vẻ đơn điệu, tầm thường và giả dối của cảnh vườn Bách thú, nơi hoàn toàn đối lập với chốn núi rừng thâm nghiêm, hùng vĩ thể hiện ở đoạn 4:

Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu
Ghét những cảnh không đời nào thay đổi,
Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối:
Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng;
Giải nước đen giả suối, chẳng thông dòng
Len dưới nách những mô gò thấp kém;
Dăm vừng lá hiền lành, không bí hiểm,
Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu
Của chốn ngàn năm cao cả, thâm u.

Sống trong hoàn cảnh này, thà con Hổ để tâm hồn của mình được bay về quá khứ,” giặc mộng về với tự do” chứ nhất quyết không thể chịu sự kìm hãm của “ cũi sắt” thể hiện rõ trong đoạn 5 tâm trạng của sự hướng tới cái to lớn, không chịu sự tầm thường, vô nghĩa., muốn khẳng định cái “tôi”, khẳng định cá tính. Sự lãng mạn thể hiện thành công ở đây với tâm trạng bất hòa với thực tại đối lập với ước mơ, sự tự do, cao cả..

Vì nó là tâm trạng của con Hổ nhưng ta có thể liên tưởng tới tâm hồn con người Việt lúc bấy giờ. Sự bế tắc trong cảnh nô lệ, cùng ngậm nỗi căm hờn to lớn như Hô, cũng đầy tiếc nuối về thời oanh liệt xa xưa thể hiện cho một trang thơ đậm tính lãng mạn.

Bài thơ được gắn với một hồn thơ mới – hồn thơ Thế Lữ thật thành công và đầy tính độc đáo, sự lãng mạn. Chúng ta mong và luôn tin tưởng được con Hổ trong chính tác phẩm đã được trở về với sự tự do, không bị giam hãm tù đày, cũng như thế hệ trẻ Việt Nam làm hết mình để có thể đấu tranh cho sự tự do vĩnh cửu của dân tộc.

Giới thiệu cùng bạn 🍀 Suy Nghĩ Của Em Về Bài Thơ Viếng Lăng Bác 🍀 10 Bài Văn Hay

Phân Tích Bài Nhớ Rừng Lớp 8 – Mẫu 10

Tiếp theo đây là mẫu Phân Tích Bài Nhớ Rừng Lớp 8. Các bạn học sinh lớp 8 có thể lưu lại tham khảo khi viết văn nhé.

Thế Lữ (1907-1989) là bút danh của Nguyễn Thứ Lễ. Bài thơ “Nhớ rừng” được Thế Lữ viết năm 1934, in trong tập “May vần thơ” xuất bản năm 1935. Mượn lời con hổ bị nhốt ở vườn Bách thú. Tác giả thể hiện tâm sự u uất, căm hờn và niềm khao khát tự do mãnh liệt của con người bị giam cầm, nô lệ.

Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt.

Bị nhốt “trong cũi sắt”, căm hờn uất hận đã chứa chất thành “khối”, “gậm’ mãi mà chẳng tan, càng “gậm” càng cay đắng. Chỉ còn biết “nằm dài” bất lực, đau khổ. Bị “giễu”, bị “nhục nhằn tù hãm”, trở thành “thứ đồ chơi” cho “lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ”. Đau khổ nhất là chúa sơn lâm nay bị tầm thường hóa, vị thế bị xuống cấp:

“Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi,
Với cặp báo chuồng bên vô tự lự”.

Đó là một nét tâm trạng điển hình đầy bi kịch của chúa sơn lâm khi bị sa cơ, thất thế, bị giam cầm. Trong hoàn cảnh lịch sử đất nước ta khi bài thơ ra đời (1934) thì nỗi tủi nhục, căm hờn, cay đắng của con hổ cũng đồng diệu với bi kịch của nhân dân ta trong xích xiềng nô lệ sống trong tăm tối “nhơ nhuốc lầm than”.

Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ.

“Tình thương nỗi nhớ” sống mãi, chẳng bao giờ quên. Nhớ “thuở tung hoành…”, “nhớ cành sơn lâm bóng cả cây già”. Nhớ khúc nhạc rừng hùng tráng dữ dội. Chữ “ nhớ” chữ “với” và cách ngắt nhịp (4-2-2, 5-5, 4-2-2…) biến hóa, cân xứng đã làm dội lên nỗi nhớ tiếc khôn nguôi, nhớ cồn cào, nhớ da diết.

Sự phong phú về nhạc điệu đã khắc họa đời sống nội tâm vô cùng mạnh mẽ của một nhân vật phi thường từng có một quá khứ oanh liệt. Một tấm thán “như sóng cuộn nhịp nhàng”. Một bước chân cao sang đầy uy lực ”dõng dạc, đường hoàng”. Một cặp “mắt thần” và khi “đã quắc”; “mọi vật đều im hơi”. Một sức mạnh của uy quyền bất khả xâm phạm.

Những vần thơ đầy nhạc điệu nói về nỗi nhớ:

“Nhớ cánh sơn lâm bóng cà cây già
…Là khiến cho mọi vật đều im hơi…”

Các động từ “gào, hét, thét” đặc tả khúc trường ca dữ dội của rừng núi, suối ngàn thiêng liêng, hùng tráng. Đó là những câu thơ tuyệt bút làm sang trọng cho Thơ mới: “Ta nằm dài”… rồi “ta sống mãi trong tình thương nồi nhớ”. Nhớ khi “ra bước chân lên…”, nhớ một thời vàng son ngự trị:

“Ta biết ta chúa tế cả muôn loài,
Giữa chốn hào hoa không tên, không tuổi”.

Một chữ “ta” vang lên đầy kiêu hãnh tự hào. Chúa sơn lâm được miêu tả được khắc hoạ trong chiều sâu của tâm linh, trong chiều cao của uy quyền được khẳng định.

Các câu hỏi tu từ liên tiếp xuất hiện như một nỗi niềm lay tỉnh và khêu gợi nỗi “nhớ’ trào lên: “nào đâu những…”, “đâu những ngày…”, “đâu những bình minh…”, “đâu những chiều…”. Nhớ mãi không nguôi, nhớ đêm trăng và suối, nhớ những ngày mưa rừng, nhớ bình minh, nhớ giấc ngủ, nhớ tiếng chim ca.

Và nhớ “những chiều lênh láng máu…”. Đoạn thơ tráng lệ nói về bốn nỗi nhớ của chúa sơn lâm, nhớ triền miên ngày và đêm, sớm và chiều, mưa và nắng, thức và ngủ, lúc say mồi và lúc lặng ngắm, lúc đợi chờ… Một không gian nghệ thuật được tái hiện và mô tả qua bộ tứ bình của một nhà danh họa.

Đoạn thơ 10 câu này là đoạn thơ hay nhất trong bài “Nhớ rừng”:

“Nào đâu những đêm vùng bên bờ suối,
….- Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?”

Sau nỗi nhớ một thuở vàng son, một thời oanh liệt, bỗng chúa sơn lâm chợt tỉnh mộng, trở về thực tại với cái cũi sắt, đau đớn và cay đắng vô cùng. Như một trái núi sụp đổ xuống, mãnh hổ cất lời than. Sự kết hợp giữa cảm thán với câu hỏi tu từ làm dội lên một lời thơ, một tiếng than của “hùm thiêng sa cơ”, của một kẻ phi thường thất thế.

Đó cũng là tiếng thở dài của một lớp người khao khát tự do ngày ấy:

“Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?” 
Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu.

Lại trở về nỗi buồn đau và nỗi nhớ “cảnh nước non hùng vĩ”. Chỉ còn biết nhắn gửi thiết tha và bồn chồn:

 “Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!”

“Nhớ rừng” là bài thơ tuyệt bút. Nó được xếp vào loại 10 bài thơ hay nhất của Thơ mới. Hình tượng tráng lệ, kì vĩ. Lối diễn tả và sử dụng ngôn ngữ biến hóa. Chất nhạc đa thanh và phức điệu tạo nên những vần thơ du dương. Thơ nên họa nên nhạc như cuốn hút và làm mê say hồn ta.

🌼 Ngoài Phân Tích Bài Nhớ Rừng Lớp 8. Chia Sẻ Thêm Dàn Ý Đây Thôn Vĩ Dạ ❤️ Mẫu Dàn Ý Phân Tích Chuẩn Nhất

Phân Tích Nghệ Thuật Của Bài Thơ Nhớ Rừng – Mẫu 11

Đặc biệt phần cuối cùng của bài viết, SCR.VN xin tiết lộ thêm đến bạn đọc bài văn mẫu Phân Tích Nghệ Thuật Của Bài Thơ Nhớ Rừng.

Việc mượn lời con hổ giúp tác giả có được hình thức phù hợp để diễn tả tâm trạng, cảm xúc chất chứa trong lòng, là hình thức khơi nguồn cho dòng chảy của cảm xúc lãng mạn chân thành.

Hình ảnh con hổ – chúa tể rừng xanh – bị nhốt trong cũi sắt của vườn bách thú, trở thành biểu tượng cho việc thể hiện chủ đề cũng như tâm trạng của nhà thơ.

Sự đối lập giữa hiện tại tù hãm với quá khứ tự do; giữa thân phận nô lệ hiện tại và vẻ lẫm liệt oai phong trong quá khứ chốn rừng xanh núi thẳm đã bộc lộ tâm trạng của những con người chiến bại: u uất, chưa tìm được lối thoát để tung mình ra, đang chịu cảnh bó buộc tù túng của cuộc sống đời thường ngập tràn giả dối.

Đó cũng là hình thức giãi bày tâm sự của nhà thơ. Cách giãi bày tâm sự này đi thẳng vào lòng người bằng hàng loạt hĩnh ảnh giàu chất tạo hình, bằng ngôn ngữ và nhạc tính của bài thơ. Tất cả tạo thành một bản hòa âm bi tráng, có sức khơi dậy sự đồng cảm của những con người đương thời và muôn đời.

Hoài Thanh đã nhận xét về Thế Lữ như sau: “Đọc đôi bài, nhất là bài Nhớ rừng, ta tưởng chừng thấy những chữ bị xô đẩy, bị dằn dặt bởi một sức mạnh phi thường. Thế Lữ như một viên tướng điều khiển đội quân Việt ngữ bằng những mệnh lệnh không thề cưỡng được”.

Cảm nhận đó cho thấy sức mạnh của ngôn từ Thế Lữ. Trước hết là sức mạnh của cảm hứng lãng mạn chất chứa, dâng trào được thể hiện qua chuỗi hình ảnh lấp lánh, chuỗi âm thanh vang động, tràn đầy khí phách khi nói về một thời oanh liệt, nhưng cũng đậm màu u uất khi nói đến hiện tại.

Tất cả đan kết lại với nhau tạo thành âm hưởng bi hùng cho khúc tự tình của chúa sơn lâm. Hình thức thơ tám chữ với sự đổi mới táo bạo, cách ngắt nhịp linh hoạt, giàu âm điệu, giàu nhạc tính,… đã tạo ra khả năng bộc lộ “một sức mạnh phi thường” qua những “mệnh lệnh” điều khiển đội quân ngôn từ, biến ngôn từ thành sức mạnh tự thân của ngôn từ.

Mỗi từ ngữ có cuộc sống riêng, có sức mạnh riêng mà tài năng của Thế Lữ là ở chỗ đã tập hợp được các sức mạnh tản mác ấy thành một sức mạnh thống nhất, có khả năng biểu đạt tâm trạng cao nhất, tạo thành những hình ảnh, hình tượng có tính tạo hình và gây ấn tượng sâu sắc. 

🌼 Ngoài Phân Tích Nghệ Thuật Của Bài Thơ Nhớ Rừng. Tiết Lộ Thêm Văn Mẫu Cảm Nhận 2 Khổ Thơ Đầu Bài Tràng Giang ❤️️ Văn Mẫu

Phân Tích Nhớ Rừng Facebook – Mẫu 12

Chia sẻ dưới đây bài văn phân tích Nhớ rừng facebook giúp các em học sinh có thêm gợi ý làm bài phong phú hơn.

Thế Lữ với tâm hồn dạt dào cảm xúc cùng với khả năng sử dụng ngôn từ tài tình ông đã có những đóng góp lớn trong phong trào thơ mới. Trong đó tiêu biểu là bài thơ Nhớ rừng. Tên tuổi của ông được gắn liền với bài thơ Nhớ rừng. Ông mượn hình ảnh con hổ bị giam cầm để nói về cuộc sống khao khát tự do của mình. Qua đó thể hiện thái độ phủ nhận thực tại làm nô lệ, khát vọng tự do và lòng yêu nước thầm kín của dân tộc.

Nhớ rừng được Thế Lữ viết theo thể thơ tám chữ, vần liền, vần bằng, vần trắc thay đổi nhịp uyên chuyển. Mở đầu bài thơ là cảnh ngộ con hổ bị giam giữ trong lòng đây là nguyên nhân tâm trạng chất chứa bao bi kịch của con hổ:

Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt,
Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua,
Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ,
Giương mắt bé giễu oai linh rừng thẳm.
Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm,
Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi,
Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi,
Với cặp báo chuồng bên vô tư lự.

Hổ là một loài sống quen trong rừng núi hoang dã đồng thời được mệnh danh là chúa sơn lâm vậy mà nay bị giam giữ trong lồng còn làm trò cho lạ mắt , thứ đồ chơi nên con hổ rất u uất và căm phẫn. Nó không cam chịu trước hoàn cảnh bởi nó luôn ý thức mình là chúa sơn lâm nên nơi ở của nó không phải ở đây mà thuộc về núi rừng hoang dã. Nếu nó cam chịu sống trong cảnh tù túng thì chắc hẳn nó không phải là nó nữa. Tâm trạng u uất, bất bình, giằng xé dữ dội trong tâm con hổ bị cầm tù và cảm xúc này đã bao trùm toàn bài thơ.

Đoạn thơ đã hiện nên nỗi khổ tâm của một vị chúa sơn lâm bị cầm tù sống trong khung cảnh ngột ngạt. Trong đoạn thơ này những thanh trắc kết hợp với nhịp thơ chậm càng nhấn mạnh nỗi căm phấn của con hổ đang bị giam cầm. Nhưng nó thật bất lực bởi con người giam cầm nó thật chắc chắn nó đành nằm thở dài và chông ngày tháng đang dần trôi qua.

Đường hoàng là chúa tể của muôn loài được các con vật khác tôn sùng và tung hoành chốn núi non hùng vĩ nay bị sa cơ và bị nhốt trong cái cũi sắt chặt hẹn nó cảm thấy như đang sống trong tù hằn không có chút tự do. Đồng thời nó còn bị làm trò mua vui cho người khác. Nó cảm thấy những con người bé nhỏ ngạo mạn bị hạ xuống như bầy gấu dở hơi, cặp báo chuồng,..là những con vật thấp kém. Nhưng nó không thể làm gì mà nằm thở dài với ánh mắt bất lực nhìn về chốn núi rừng nơi thuộc về mình.

Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ
Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa.
Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già,
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi,
Với khi thốt khúc trường ca dữ dội,

Thực tại phũ phàng càng khiến con hổ nhớ về thuở tung hành của mình. Quá khứ ấy thật là tự do và đẹp đẽ. Một mình tung hoành khắp chốn rừng sâu chăng phải toan tính lo nghĩ. Con hổ nhớ cảnh “lâm sơn, bóng cả, cây già, gió ngàn, với khi thốt khúc trường ca dữ dội,..”. Tác giả đã sử dụng những từ ngữ để miêu tả cảnh hùng vĩ vớ sức sống mãnh liệt. Và chúa sơn lâm thừa hiểu bản thân dĩ vãng oanh liệt sẽ không bao giờ trở lại nên nó chỉ có thể tự hào về bản thân trong quá khứ mà nhớ lại quá khứ tươi đẹp của bản thân.

Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng,
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,
Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc.
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc,
Là khiến cho mọi vật đều im hơi.
Ta biết ta chúa tể cả muôn loài,
Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi.

Trong khung cảnh núi non hùng vĩ ấy con hổ hiện nên một cách oai vệ đường hoàng và có quyền lực. Nó như một thế lực hùng mạnh mà không một loài nào có được nên vì thế nó được rất nhiều con vật khác nể lang và không dám đối chọi lại. Nó tự hào bản thân có đôi mắt thần nên hay hoạt động vào ban đêm. Như vậy ta thấy được con hổ là một con vật cực kì khỏe, quyền lực và ưa thích tự do.

Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan ?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới ?
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt,
Để chiếm lấy riêng ta phần bí mật?
Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?

Từ đây ta thấy được bộ tranh tứ bình rất đẹp đẽ lên thơ. Bốn cảnh: những đêm vàng, những ngày mưa, những bình minh, những chiều lênh láng máu sau rừng, cảnh nào cũng tráng lệ, lần lượt hiện lên trong nỗi nhớ tiếc khôn nguôi của con hổ sa cơ.

Trong khung cảnh huyền ảo và thơ mộng ấy chúa sơn lâm như đang say mồi đứng uống ánh trăng tan. Chúa sơn lâm đứng bên bờ suối lặng im ngắm cảnh giang sơn thay đổi bốn mùa. Là cảnh bình minh, tiếng chim ca, cảnh chiều lênh láng máu sau rừng. Đại từ “ta” lặp đi lặp lại nhiều lần tạo nên sự rắn rỏi, hùng tráng với sức mạnh lớn của chúa sơn lâm. Dù có huy hoàng đến mấy thì đó cũng chỉ là dĩ vãng nên con hổ chỉ biết thở dài và quay lại hiện tại.

Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu,
Ghét những cảnh không đời nào thay đổi,
Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối:
Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng;
Dải nước đen giả suối, chẳng thông dòng
Len dưới nách những mô gò thấp kém;
Dăm vừng lá hiền lành, không bí hiểm,
Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu
Của chốn ngàn năm cao cả, âm u.

Chúa sơn lâm tỏ ra khinh bỉ cảnh bốn sắc ở vườn Bách Thảo. Đây chỉ là những sự sắp đặt đơn điệu mà không phải tự nhiên thật là buồn tẻ. Nó thấy khi mà con người càng bắt chước làm theo thiên nhiên nó càng thấy giả tạo và căm phẫn.

Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ!
Là nơi giống hầm thiêng ta ngự trị,
Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa,
Nơi ta không còn được thấy bao giờ!
Có biết chăng trong những ngày ngao ngán,
Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn
Để hồn ta phảng phất được gần ngươi,
Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!

Tác giả đã thể hiện rất thành công tâm trạng của con hổ bị giam cầm và khát vọng tự do mãnh liệt. Trong cái cảnh bị giam cầm con hổ chỉ biết gửi tâm hồn mình về chốn núi non hùng vĩ nơi mà nó được sinh ra và được lớn lên. Con hổ rất bất bình với cuộc sống mất tự do và bị xiềng xích và tù túng. Vì thế mà nó chỉ thốt lên tiếng than oán.

Như vậy ta thấy được tâm trạng của con hổ là tâm trạng chung của người dân Việt nam bị đàn áp và bị cướp đi cuộc sống tự do. Họ khao khát có một cuộc sống tự do vốn dĩ họ có quyền có được. Ấy vậy mà bây giờ chỉ có thể ao ước.

Qua bài thơ này ta thấy được tác giả đã thể hiện rất thành công thể thơ mới đồng thời qua đó nói lên hiện thực cuộc sống bị giặc ngoại xâm, xâm chiến khiến con người và đất nước ta mất tự do đồng thời dân ta bị đàn áp nên rất căm phẫn. Và họ khao khát có một cuộc sống hòa bình tự do.

Đọc nhiều hơn dành cho bạn ☀️ Cảm Nhận Về Bài Thơ Quê Hương ☀️ 15 Bài Văn Hay Nhất

Phân Tích Khổ 1 Bài Nhớ Rừng – Mẫu 13

Ngoài phân tích bài thơ, bạn đọc có thể tham khảo thêm bài văn Phân Tích Khổ 1 Bài Nhớ Rừng ngay bên dưới nhé.

Thế Lữ là một cây bút tiêu biểu của phong trào thơ Mới ở Việt Nam, ông có những sáng tác tiêu biểu, góp phần to lớn làm phong phú thêm nền văn học Việt Nam. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ Thế Lữ, đó là bài thơ “Nhớ rừng”.

Bài thơ mượn lời của một con hổ sa cơ, bị giam giữ trong lồng sắt, tác giả đã thể hiện được tâm sự, niềm u uất của cả một thế hệ bị giam cầm nô lệ với khát khao tự do mãnh liệt. Bài thơ thể hiện được tâm trạng của cả thế hệ người, hơn nữa nó còn khơi dậy tinh thần yêu nước, khát khao độc lập, tự do mạnh mẽ của toàn dân tộc.

Mở đầu bài thơ, nhà thơ Thế Lữ đã vẽ ra không gian nhỏ hẹp mà đầy tù túng, bức bối nơi con hổ bị giam cầm. Nỗi cô đơn, sự bực bội, phẫn uất của con hổ được thể hiện trọn vẹn. Qua hình ảnh đó ta có thể cảm nhận được phần nào tình cảnh mất tự do cũng như tâm trạng đầy phẫn uất của chúa sơn lâm rừng già:

“Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt
…Giương mắt bé giễu oai linh rừng thẳm”

Thế Lữ đã sử dụng động từ “gậm” để thể hiện sự bức bối lâu dài, dai dẳng, nó không thể nguôi ngoai mà luôn tồn tại, hiển hiện khiến tâm trạng luôn bị vây hãm trong bế tắc, cần được giải thoát. “Khối căm hờn” là những thù hằn, căm giận mà con hổ luôn ”gậm” trong mình. “Trong cũi sắt” lại tái hiện chân thực không gian sống giam hãm, nhỏ hẹp khiến cho con hổ bị mất tự do. Như vậy, chỉ một câu thơ đầu nhà thơ Thế Lữ đã tái hiện được trọn vẹn hoàn cảnh đáng thương cũng như sự u uất của con hổ.

Càng tù túng bao nhiêu, càng uất hận bao nhiêu thì sự khinh bỉ dành cho những con người ngoài kia càng nhiều bấy nhiêu “Khinh lũ người kia ngạo mạn ngẩn ngơ”. “Lũ người” ở đây ta có thể hiểu là những người đã bắt giam, đẩy con hổ vào chốn tù đầy mất tự do này.

Thế giới của con người và loài vật hoàn toàn khác nhau, nhưng vì sự tham lam, tham vọng không bờ bến của con người mà con hổ phải chịu cảnh giam hãm phi lí này, lũ người này trong cái nhìn của con hổ chỉ là lũ “ngạo mạn ngẩn ngơ”, cậy vào sức mạnh mà dương dương tự đắc, không biết xấu hổ.

Đặt câu thơ vào trong mối quan hệ với con người ta có thể thấy Thế Lữ thể hiện niềm phẫn uất khi lũ quân cướp nước trắng trợn xâm phạm hòa bình, độc lập của dân tộc, đẩy nhân dân vào cuộc sống tù túng, mất tự do. Nhà thơ cũng thể hiện rõ thái độ của mình ở đây, đó là sự coi thường, chế giễu những hành động phi lí của chúng: “khinh”, “giễu”:

“Giương mắt bé giễu oai linh rừng thẳm” câu thơ là sự thể hiện cái tinh thần ngạo nghễ, kiêu hùng của con hổ về chốn “oai linh rừng thẳm”.

“Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm
…Với cặp báo chuồng bên vô tư lự”

Trở về với thực tại, con hổ cảm nhận được thấm thía cảnh ngộ của mình, đó là sự “sa cơ lỡ vận” nên phải chịu cuộc sống “nhục nhằn tù hãm”. Vì nhận thức được thời thế, hoàn cảnh của mình nên con hổ càng cảm thấy đau khổ, nhục nhã. Đường đường là chúa sơn lâm của rừng đại ngàn, thống trị muôn loài, nay cuộc sống tù hãm khiến cho nó đau khổ.

Sống tù túng song không phải ai cũng có tâm trạng giống con hổ, lối sống thanh cao, hơn người nay bị đặt chung hàng với những con vật tầm thường “Chịu ngang bầy cùng lũ gấu dở hơi”; càng thấy buồn hơn khi thấy “cặp báo chuồng bên vô tư lự”, chúng không biết mình ở hoàn cảnh nào, không biết tức giận, phẫn uất mà lúc nào cũng “vô tư lự”.

Câu thơ cũng thể hiện sự đánh giá của nhà thơ về một bộ phận con người trong xã hội. Dù sống trong hoàn cảnh mất tự do nhưng không biết lo, không có ý thức cần đứng lên mà phó mặc tất cả cho số phận.

Ngoài Phân Tích Khổ 1 Bài Thơ Nhớ Rừng. Gợi Ý Cho Bạn  🍃 Thơ Nguyễn Đình Chiểu 🍃 ý nghĩa.

Phân Tích Bài Thơ Nhớ Rừng Khổ 1 Ngắn Hay – Mẫu 14

Tham khảo văn mẫu phân tích bài thơ Nhớ rừng khổ 1 ngắn hay dưới đây để đi sâu phân tích giá trị nội dung và nghệ thuật của khổ thơ.

Thế Lữ được biết đến là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Trong suốt sự nghiệp sáng tác của mình ông đã để lại cho thơ ca Việt Nam bao áng thơ đặc sắc. “Nhớ rừng” là một trong những tác phẩm như thế.

Bài thơ được viết năm 1934, đến năm 1935 được in trong tập “Mấy vần thơ” và được xuất bản. Trong bài thơ, Thế Lữ đã mượn lời nhân vật chính là con hổ bị nhốt ở vườn bách thú để nói lên sự tù túng, căm hờn khi bị kìm hãm tự do.

Mở đầu bài thơ là nỗi căm hờn, phẫn uất đến cực độ của con hổ:

“Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt
Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua”

Con hổ vốn luôn được mệnh danh là chúa sơn lâm vậy mà nay lại bị nhốt trong “cũi sắt”. Nó đang bị mất tự do, bị kiểm soát bởi con người, không còn được tung hoành ngang dọc. “Khối căm hờn” là sự u uất, căm hận đến tột độ của con hổ, cách sử dụng “khối căm hờn” không chỉ gợi mức độ nặng nề của tâm trạng mà còn gợi cảm giác sự tù túng này đã tích tụ trong hổ từ rất lâu khiến nó muốn “gậm”, muốn cắn nát, muốn nhai vụn sự uất ức trong lòng mình.

Hoàn cảnh sống của hổ được gợi mở ngay từ câu thơ đầu tiên nối tiếp đó là tư thế “nằm dài” chẳng bao giờ có của một chúa sơn lâm nơi rừng xanh. Ấy vậy mà nay hổ phải sống trong cũi sắt, ngày qua ngày sống một cuộc sống nhàm chán, tẻ nhạt. Chính nó cũng phải tự thấy xót xa cho thân phận của mình:

“Nay xa cơ bị nhục nhằn tù hãm,
Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi,
Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi,
Với cặp báo chuồng bên vô tư lự”

Hổ xót xa khi mình vốn là chúa sơn lâm tung hoành ngang dọc, nay lại bị nhốt trong cũi sắt, trở thành một “trò lạ mắt”, một “thứ đồ chơi” và đặc biệt còn phải chịu ngang hàng cùng với những con vật tầm thường khác. Hổ đã không còn là mình, không còn được sống cuộc sống của mình, nó đã đánh mất cái tôi kiêu ngạo, uy phong của mình để sống một cuộc đời nhàm chán.

Đây là tâm trạng điển hình của bất kỳ ai bị rơi vào tình trạng kìm hãm sự tự do. Đặt thời gian ra đời bài thơ vào tình cảnh đất nước lúc bấy giờ, năm 1934 là năm đất nước đang chịu bao xiềng xích nô lệ ta càng thấy đồng điệu với tâm trạng đau khổ, tù túng của nhân dân ta trong cảnh bị đô hộ, kìm kẹp bởi thế lực thực dân.

Người ta vẫn thường nói văn học phải bắt nguồn từ cuộc sống, phải phản ánh cuộc sống để từ văn học người đọc có thể nhìn thấy mọi sự ở đời. “Nhớ rừng” của Thế Lữ đã làm được điều ấy. Nhà thơ đã mượn lời của hổ để nói lên sự tù túng, ngột ngạt của chính mình cũng như của cả dân tộc Việt Nam trước bao xiềng xích nô lệ, trước tình cảnh khốn khổ cực cùng.

Có thể nói, trong khổ thơ đầu bài Nhớ rừng, bằng thể thơ tự do cùng những hình ảnh thơ kì vĩ, tráng lệ, Thế Lữ đã xây dựng thành công hình ảnh một chúa sơn lâm đầy ám ảnh trong lòng độc giả. Người ta nói “Nhớ rừng” là khát vọng sống, khát vọng tự do quả không sai bởi bài thơ còn ẩn chứa trong đó khát vọng tự do của cả một dân tộc đồng thời nó cũng kín đáo thể hiện tình yêu quê hương, đất nước của nhà thơ.

Mời bạn tiếp tục đón đọc 🌳 Phân Tích Bài Thơ Khi Con Tu Hú 🌳 Những Bài Cảm Nhận Đặc Sắc

Phân Tích Bài Thơ Nhớ Rừng Khổ 2 – Mẫu 15

SCR.VN tiết lộ thêm đến bạn đọc bài văn Phân Tích Bài Thơ Nhớ Rừng Khổ 2 để bạn hiểu sâu sắc hơn về 2 khổ đầu này để phân tích cô đọng, súc tích hơn. 

Thế Lữ là một trong những nhà thơ nổi bật của phong trào thơ Mới. Không mang nét buồn thương như thơ Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên; không rạo rực, vồ vập như thơ Xuân Diệu, thơ Thế Lữ là những vần thơ với xúc cảm đầy lãng mạn, dạt dào niềm khát khao sống, khát khao tự do thoát khỏi thực tại chán chường, tù túng.

Bài thơ “Nhớ rừng” là một bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ ấy. Đặc biệt, khổ hai của bài thơ như nốt nhạc ngân nga về những năm tháng của quá khứ vàng son, là một đoạn thơ hay và đặc sắc nhất.

“Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ,

Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi.”

Nếu như trong khổ đầu, tác giả giới thiệu về hình ảnh con hổ bị nhốt trong vườn bách thú với những nỗi tù túng, nhục nhằn thì sang khổ hai là hình ảnh hổ hồi tưởng, sống lại với những năm tháng hào hùng của ngày xưa.

Sống trong cảnh tù hãm với những kẻ dở hơi, vô tư khiến con hổ chỉ nhớ về những thuở hống hách của ngày xưa, khi còn được là chính mình, sống với con người thật của mình. Đó là những ngày vị chúa tể ấy còn được tự do giữa rừng hoang rộng lớn mênh mông, được tung hoành giữa thiên nhiên, nguồn cội mình:

“Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ,

Với khi thét khúc trường ca dữ dội”

Những kỉ niệm xưa sao thiết tha, đẹp đẽ và oai hùng đến vậy. Những bóng cả, cây già, những tiếng gió gào ngàn, giọng nguồn hét núi, ầm vang cả một khung trời. Những khúc trường ca dữ dội, hào hùng, hiên ngang. Giữa bầu không gian rộng lớn ấy, hổ vươn mình kiêu hãnh, mang vẻ đẹp và dáng dấp chúa tể khiến muôn loài phải nể phục, khiếp sợ:

“Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng,

Là khiến cho mọi vật đều im hơi.”

Đối lập với quá khứ huy hoàng, trong thực tại, hổ đang chịu sự khống chế của kẻ khác, phải sống trong giam hãm, tù túng. Ngày xưa hổ là một chúa tể muôn loài với bước đi dõng dạc, hiên ngang, táo bạo, không nao núng, lo sợ điều gì.

Những bước chân ấy là bước chân của tự do, ở trong tự do thì hổ mới được là nó, đầy bản lĩnh, đường hoàng. Tấm thân dẻo dai, uyển chuyển vô cùng như những làn sóng cuộn ấy thật đẹp đẽ biết bao giữa màu xanh của rừng già, của núi non bao la. Ta chơi với thiên nhiên, đùa giỡn với cỏ cây nhiều bạn bè tri kỉ vậỵ

“Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sức”.

Càng nghĩ về quá khứ dường như càng thêm tự hào về chính mình, hơn ai hết hổ hiểu được vị trí của bản thân mình giữa thiên nhiên hoang dã ấy. Giữa chốn thảo hoa ,cây cỏ, hổ sống như một với chúa sơn lâm.

Vẻ đẹp ở đây không chỉ là vẻ đẹp về ngoại hình, về sức mạnh mà còn là vẻ đẹp của cuộc sống đích thực trong bầu không khí tự do. Khi bị kìm hãm đau khổ, chán chường, túng quẫn bao nhiêu thì tự do mở ra một chân trời mới để hổ thoát sức khám phá, thể hiện tài năng, bản lĩnh của chính mình bấy nhiêu.

Đoạn thơ bằng những dòng hồi tưởng của loài hổ, tác giả đã nâng tầm tư tưởng lên một giá trị sâu xa. Đó là cuộc sống mất tự do của những con người đang bị kìm hãm bởi xã hội bất công, ngang trái, bởi quân xâm lực, thù địch. Tiếng lòng xót xa luyến tiếc về những quá khứ đẹp đẽ đầy hy vọng.

🍃 Ngoài Phân Tích Bài Thơ Nhớ Rừng Khổ 2. Khám Phá Ngay Dàn Ý Tây Tiến Khổ 1 2 3 ❤️️ Các Bài Văn Mẫu Cảm Nhận Hay

Phân Tích Bài Nhớ Rừng Khổ 3 – Mẫu 16

Đọc thêm mẫu bài văn Phân Tích Bài Nhớ Rừng Khổ 3 để có thêm nhiều ý tưởng viết văn hay bạn nhé.

Thế Lữ tác giả nổi tiếng trong phong trào thơ mới và được nhiều người phong tặng là “đệ nhất thi sĩ”, bài thơ Nhớ rừng của ông in trong tập “Mấy vần thơ” xuất bản vào năm 1935 nói về sự tù túng, căm hờn, niềm khát khao được tự do của con người. Bài thơ còn toát lên bức tranh tứ bình vẻ đẹp tuyệt trần của thiên nhiên.

“Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối…
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt”.

Khổ thơ thứ 3 là những hồi ức uy nghi, lẫm liệt của “chúa sơn lâm” trong rừng xanh, đó là những kí ức không thể nào quên. Khung cảnh thiên nhiên hiện ra đẹp với cảnh trăng, rừng, mặt trời.

Hai câu thơ đầu nói về “đêm vàng”, ánh trăng sáng quá như biến mọi vật thành màu vàng, trong đêm trăng đó đứng bên bờ suối ngắm nhìn thiên nhiên tuyệt đẹp. Trong khung cảnh đó con hổ ăn no rồi còn thưởng thức cả “ánh trăng tan”. Một hình ảnh nhân hóa vô cùng đẹp, chủ thể hòa quyện vào cả thiên nhiên.

Đi qua sự yên bình là những cơn mưa lớn như làm rung chuyển cả núi rừng, điều đó thể hiện ở 2 câu thơ tiếp theo, nhưng chúa sơn lâm vẫn không hề e sợ mà vẫn “lặng ngắm giang sơn”. Hình ảnh đó thể hiện sự bản lĩnh và sức mạnh trước thiên nhiên.

Kỷ niệm về thời kì huy hoàng tiếp tục hiện về khung cảnh bình minh. Vương quốc tràn ngập trong màu xanh và ánh nắng. Hổ nằm ngủ ngon lành trong khúc nhạc của tiếng chim muôn.

Bức tranh trên hiện ra đầy màu sắc và âm thanh, màu hồng bình minh, màu vàng nhạt nắng sớm, màu xanh cây rừng, âm thanh vui nhộn của đàn chim. Tất cả đều tạo ra một không gian nghệ thuật, cảnh sắc hệt như xứ sở thần tiên.

Nhưng than ôi tất cả chỉ còn là kí ức huy hoàng, quá khứ càng oanh liệt nỗi tiếc nuối, hoài niệm càng đau đớn. Các cụm từ trước mỗi câu thơ như “nào đâu”, “đâu những”, càng cho thấy niềm nuối tiếc khôn cùng, sự xót xa trong chính con hổ. Bức tranh tứ bình đã khép lại, chỉ còn lại hình ảnh hiện thực gian cầm, tù túng và sự khát khao mãnh liệt được tự do.

🍁 Ngoài Phân Tích Bài Thơ Nhớ Rừng Khổ 3. Bỏ Túi Ngay Phân Tích 7 Câu Thơ Đầu Bài Đồng Chí ❤️ Văn Mẫu Hay Nhất

Phân Tích Bài Thơ Nhớ Rừng Khổ 3 Đầy Đủ – Mẫu 17

Đón đọc bài văn mẫu phân tích bài thơ Nhớ rừng khổ 3 dưới đây sẽ giúp các em học sinh chắt lọc cho mình những ý văn hay.

“Nhớ rừng” được biết đến là một tác phẩm tiêu biểu của Thế Lữ đã góp phần giúp cho thi ca Việt Nam có những bước đi đầu tiên đầy hứa hẹn trong phong trào Thơ Mới. Bài thơ đã mượn lời con hổ ở vườn bách thú nhằm diễn tả nỗi chán ghét thực tại tù túng của một bộ phận trí thức tiểu tư sản.

Trong bài thơ, có những dòng tác giả đã tái hiện trước mắt người đọc sự hùng vĩ, tráng lệ của thiên nhiên núi rừng – nơi từng là chốn tung hoành ngang dọc của của con hổ ngày xưa. Đặc biệt, với 10 câu thơ ở đoạn thơ thứ ba, tác giả đã tạo nên một bức tranh tứ bình vừa có sự hùng vĩ, tráng lệ của thiên nhiên, vừa có sự uy nghi, lẫm liệt của vị chúa tể…

Bức tranh đầu tiên xuất hiện chính là hình ảnh hổ trong đêm trăng thơ mộng:

“Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?”

Cảnh đêm trăng hiện hữu trong không gian tràn đầy màu sắc ánh vàng của vầng trăng trên cao đang soi chiếu khắp nhân gian. Đặc biệt khung cảnh khi có sự xuất hiện của dòng suối với tiếng chảy róc rách lại càng trở nên sinh động, tươi mát. Trước cảnh ấy con hổ đứng bên bờ ngắm nhìn trong trạng thái say mồi, sảng khoái thưởng thức dòng suối mát trong.

Có lẽ cái làm cho hổ kia phải say không chỉ đơn thuần bởi miếng mồi ngon mà còn là cái say trước sự lung linh, kì ảo của khung cảnh đang hiện hữu trước mắt. Hổ say mồi nhưng càng thỏa mãn hơn khi được uống vào những hớp nước có sự soi vàng của bóng trăng.

Bao nhiêu nét gân guốc, dữ tợn của chúa tể vùng sơn lâm nhờ có cảnh đẹp hình như cũng trở nên mềm mại, bình thản hơn để có thể hòa vào cảnh vật. Tìm hiểu bức tranh tứ bình trong bài thơ Nhớ rừng, ta thấy tất cả những điều trên đã tạo nên sự thơ mộng, kì ảo của một bức tranh có sự hài hòa của cả cảnh và vật.

Cảnh có đẹp, có thơ mộng và diệu kỳ đến nhường nào, hổ có bao lần được hòa mình vào “những đêm vàng bên bờ suối” để “say mồi đứng uống ánh trăng tan”, nhưng thực tại những giây phút sảng khoái cũng chỉ còn trong trí nhớ. Sự “say mồi” đầy thỏa mãn hay tư thế “đứng uống” chễm chệ trong những đêm tự do ấy nay đã lùi xa vào quá khứ nhưng với hổ thì những kỉ niệm và cảm giác ngây ngất ấy vẫn hiển hiện rất rõ rệt như chỉ mới diễn ra ngày hôm qua.

Ở bức tranh thứ hai, tác giả lại dùng ngôn từ của mình vẫn để thể hiện hình ảnh trung tâm là con hổ trên phông nền của khung cảnh ngày mưa:

Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới”

Chúa sơn lâm lúc này đã không còn say sưa bên dòng suối mát lành và miếng mồi hấp dẫn như trong bức tranh trước đó. Trong khung cảnh “những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn” của núi rừng, thiên nhiên dường như cũng trở nên dữ dội, mịt mù. Mưa giăng khắp lối khiến cho vạn vật cũng rung chuyển theo. Ấy thế mà vị chúa tể của ta vẫn không hề có một chút nao núng trước những sự gào thét dữ dội của thiên nhiên và sự ngả nghiêng của vạn vật.

Hổ vẫn hiên ngang, điềm tĩnh, bệ vệ trước cảnh ấy để thu vào trong mắt tất cả những chuyển biến của đất trời. Mưa gió càng tác động lên tất cả mọi thứ mạnh mẽ, đáng sợ bao nhiêu thì hổ ta vẫn giữ một thái độ của một bậc vương giả. Khi phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Nhớ rừng, ta thấy trên hết, hổ còn xem việc “những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn” trên thực chất là sự tác động để “giang sơn ta đổi mới”. Thế nên, trong trạng thái “lặng ngắm” kia, hổ thực chất đang đứng ở tư thế làm chủ vạn vật.

Con hổ trong những ngày mưa to gió lớn chốn rừng thiêng vẫn giữ phong thái điềm nhiên, tĩnh tại ấy lại chỉ là một hình ảnh của thời đã qua. Hổ giờ đây bị giam hãm trong chốn ngục tù, dù có râm mát, dù không bị tắm ướt bởi mưa nhưng đó chưa bao giờ là điều nó mong muốn. Ngày trước khi còn tự do giữa núi rừng đất trời và có lúc phải đón những cơn mưa rừng xối xả, dữ dội nhưng chúa sơn lâm chưa bao giờ phiền lòng vì điều đó.

Ngược lại, trong cảnh mưa tuôn mịt mờ ấy, nó lại càng cảm thấy bản thân mạnh mẽ và oai hùng. Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Nhớ rừng để thấy thiên nhiên có thách thức như thế nào, hổ vẫn giữ được bản lĩnh của riêng mình. Khi bị giam cầm, bản lĩnh ấy vẫn còn và chỉ tiếc là nó lại không được thể hiện như trong chính nơi nó cần thuộc về.

Ở câu thơ thứ ba, thứ tư của đoạn thơ, tác giả đã giúp cho ta nhìn thấy sự tươi mới, rộn ràng của khung cảnh đất trời trong khoảnh khắc của ngày mới:

Đâu những bình minh cây xanh nắng gội
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng”

Ngày mưa qua đi như làm cho bầu trời buổi sớm thêm phần trong trẻo, tươi sáng. Trong khung cảnh ấy, cây cối sau khi được tắm mát trong những trận mưa rừng đã đầy lại được gội mình trong nắng mới nên càng trở nên tươi tắn và tràn đầy sức sống. Góp vào sức sống bừng lên trên từng nhánh cây ngọn cỏ ấy là tiếng reo ca rộn rã của bầy chim rừng. Khi phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Nhớ rừng, ta nhận thấy trong khung cảnh ấy, hổ xuất hiện trong giấc ngủ, nhưng lại là giấc ngủ “tưng bừng”.

Nếu trong đêm khi tất cả mọi vật đều sâu giấc thì hổ thức để say sưa cùng vũ trụ, những ngày mưa ai ai cũng tìm nơi ẩn trú thì hổ “lặng ngắm giang sơn” và giờ đây khi bình minh ló dạng thì hổ chìm vào giấc ngủ. Đặc biệt, vị chúa sơn lâm lại còn được dỗ giấc bằng không khí mát mẻ và cả những âm thanh tươi vui của vạn vật.

Có thể thấy, khi sống trong môi trường của mình, hổ rất đỗi tự do vì có thể tự ý làm những điều mình muốn. Nó luôn đứng ở vị thế chế ngự đầy uy nghi và có thể chi phối kẻ khác chứ không bao giờ chịu phụ thuộc. Hình ảnh hổ lúc đó khác hẳn với tình cảnh bây giờ: không chỉ “làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi” mà còn phải “chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi”, “với cặp báo chuồng bên vô tư lự”.

Bình minh qua, ngày tàn là thời khắc hoàng hôn gõ cửa. Bức tranh thứ tư của bài chính là diễn tả thời khắc ấy của cảnh rừng. Đây là bức tranh cuối cùng nhưng có thể gây được ấn tượng mạnh mẽ nhất:

Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt”

Cảnh tượng hiện lên thật dữ dội trong hình ảnh “chiều lênh láng máu sau rừng”. Gam màu nóng trở thành gam màu chủ đạo của bức tranh. Đó có thể là màu của máu đỏ cũng có thể là màu của ánh sáng mặt trời. Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Nhớ rừng sẽ thấy nếu như ban ngày, mặt trời làm nhiệm vụ soi tỏa ánh sáng xuống nhân gian.

Sự sống của vạn vật cũng nương theo ánh sáng ấy mà vận hành. Đến khi mặt trời khuất bóng thì vạn vật cũng lấy khoảng thời gian mặt trời lặn xuống ấy để ngưng mọi hoạt động mà nghỉ ngơi. Thế nhưng, vị chúa tể lại đang chờ đón khoảnh khắc “chết mảnh mặt trời gay gắt” ấy để:

“Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?”

“Bí mật” ấy phải chăng chính là quyền lực từ tay vũ trụ. Hổ muốn chớp lấy cơ hội để đoạt được quyền lực ấy mà chế ngự hoàn toàn thế giới của nó.

Khát khao tuy to lớn, khung cảnh trong bốn bức tranh tuy hùng vĩ, nguy nga nhưng chỉ là những hình ảnh thuộc về dĩ vãng, dù có lúc hiển hiện rõ rệt nhưng kèm theo đó chỉ là nỗi nhớ da diết tới đau đớn của con hổ. Các điệp ngữ “nào đâu”, “đâu những” cùng hàng loạt các câu hỏi tu từ đã có vai trò diễn tả rất sâu sắc sự nhớ tiếc của con hổ đối với những gì nó đã trải qua.

Thời oanh liệt của những ngày xưa cũ được tung hoành ngang dọc thực chất đã khép lại và có khi không bao giờ trở về. Với vị chúa tể, sau tất cả có lẽ còn lại chỉ là một tiếng than u uất không có sự đáp hồi:

“- Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?”

Đó là lời than của con hổ, là nỗi niềm của nhà thơ nhưng thực chất cũng là tiếng lòng, tâm trạng chung của những con người phải sống trong sự kìm kẹp, giam hãm. Đối với thời buổi người dân Việt Nam phải sống cảnh nô lệ, bài thơ của Thế Lữ đã thay họ thể hiện niềm tiếc nuối về những chiến công vẻ vang chống giặc ngoại xâm của một thời oanh liệt của dân tộc mình. Đó có lẽ lý do khiến bài thơ được đón nhận rất nồng hậu, say sưa ngay từ khi ra đời.

Những câu thơ khắc họa bốn bức tranh về thiên nhiên núi rừng và sự hiện hữu của chúa tể sơn lâm thực sự là những dòng tuyệt bút của bài thơ “Nhớ rừng”. Thông qua việc sử dụng điệp ngữ, câu hỏi tu từ và hàng loạt các hình ảnh gợi màu sắc, đường nét của cảnh vật thiên nhiên, Thế Lữ không chỉ làm xuất hiện trước mắt người đọc tuyệt phẩm diễn tả sự kì vĩ, hùng tráng của chốn rừng thiêng mà còn làm bộc lộ tâm sự, nỗi niềm của chúa tể sơn lâm. Đó cũng chính là tâm sự, nỗi niềm chung của con người thời đại…

Gợi ý cho bạn 🌳 Cảm Nhận Bài Thơ Đoàn Thuyền Đánh Cá 🌳 15 Bài Hay Nhất

Phân Tích Bài Thơ Nhớ Rừng Khổ 4 – Mẫu 18

Dưới đây là bài văn mẫu phân tích bài thơ Nhớ rừng khổ 4 để các em học sinh vận dụng hoàn thành tốt bài viết.

Bài thơ “Nhớ rừng” của nhà thơ Thế Lữ đã mượn lời của con hổ trong vườn bách thú để nói lên tâm sự thầm kín của mình. Nổi bật trong bài thơ là hai cảnh tượng hoàn toàn trái ngược nhau, đó là cảnh con hổ trong vườn bách thú (khổ 1 và khổ 4), cảnh con hổ ở nơi rừng xưa (khổ 2 và khổ 3). Tuy nhiên để thấy được nỗi niềm da diết nhất trong tâm sự của vị chúa sơn lâm phải là khổ thơ cuối cùng.

Với giọng thơ da diết, nhà thơ đã đúc kết nỗi niềm của vị chúa tể rừng xanh bị sa cơ thất thế trong khổ thơ cuối cùng:

Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ!…
Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!”

Từng câu từng chữ trong đoạn thơ đã phản ảnh rất thành công nỗi bất bình sâu sắc và niềm khát khao tự do mãnh liệt của con hổ trước thực tại tù hãm, giam cầm ngột ngạt. Có thể nói, bút pháp khoa trương của nhà thơ đã đạt tới mức thần diệu, ta cảm nhận con hổ chính là một con người thực thụ. Trong hoàn cảnh giam cầm, bế tắc con hổ chỉ còn biết gửi hồn mình về với chốn núi rừng đại ngàn, gửi về chốn nước non hùng vĩ, nơi giang sơn xưa kia của giống hùm thiêng ngự trị:

Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ!
Là nơi giống hầm thiêng ta ngự trị”

Tiếng than gửi tới núi rừng chính là lời nhắn nhủ cuối cùng, xác nhận một hiện thực phũ phàng rằng giang sơn của nó cũng sẽ là nơi mà con hổ không bao giờ còn được nhìn thấy, trở về và “vùng vẫy ở trong đó nữa, còn gì đau xót hơn khi bắt hổ phải lìa rừng, bắt cá phải lìa sông.

Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa,
Nơi ta không còn được thấy bao giờ!”

Mặc dù căm phẫn với thực tại nhưng không thể thoát khỏi sự giam cầm xiềng xích, trong những tháng ngày nhạt nhẽo, vô vị và ngao ngán, vị chúa tể sơn lâm đành buông xuôi và tự an ủi mình, chỉ còn biết hồi tưởng về những giấc mộng ngàn to lớn:

Có biết chăng trong những ngày ngao ngán,
Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn”

Nỗi buồn về thực tại đã làm tê tái tâm hồn, từ đáy lòng, con hổ thốt lên tiếng than ai oán: “Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!”. Có thể thấy, tâm trạng của con hổ bị giam cầm cũng là tâm trạng chung của người dân Việt Nam, đặc biệt là các thanh niên trí thức yêu nước lúc bấy giờ. Chúng ta đang phải sống trong cảnh nô lệ, tù hãm, ôm trong lòng nỗi căm hờn mất nước, mất tự do và hoài niệm về thời oanh liệt của lịch sử nước nhà với biết bao chiến công chống giặc ngoại xâm lừng danh khắp cõi.

Tác giả Thế Lữ đã mượn lời của con hổ, nói lên một cách đầy đủ và sâu sắc nỗi u uất của thế hệ thanh niên trí thức Việt Nam đương thời. Đó là sự thức tỉnh trong ý thức cá nhân, đồng thời là niềm bất mãn, khinh ghét với thực tại nô lệ bất công. Đọc bài thơ và đặc biệt là khổ thơ cuối, ta cảm nhận được tiếng than và nỗi lòng của người dân đau khổ trong thân phận nô lệ, cũng như một khát vọng to lớn được trở về với quá khứ, được sống tự do và được là chính mình.

Chia sẻ thêm cùng bạn 🍀 Nghị Luận Về Bài Thơ Sang Thu 🍀 15 Bài Văn Ngắn Hay

Viết một bình luận