Phân Tích 8 Câu Đầu Bài Tình Cảnh Lẻ Loi ❤️️ 21+ Mẫu Cực Hay ✅ Giới Thiệu Tuyển Tập Bài Văn Mẫu Đặc Sắc Nhất Phân Tích Tác Phẩm Ngữ Văn Lớp 10.
Dàn Ý Phân Tích 8 Câu Đầu Bài Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ
Tham khảo dàn ý phân tích 8 câu đầu bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ dưới đây sẽ giúp các em học sinh nắm được bố cục cơ bản và những luận điểm chính cho bài viết của mình.
I. Mở bài phân tích 8 câu đầu bài Tình cảnh lẻ loi:
Giới thiệu tác giả, tác phẩm, đoạn trích và nội dung cần phân tích 8 câu đầu của Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ.
II. Thân bài phân tích 8 câu đầu bài Tình cảnh lẻ loi:
a. Hành động của người chinh phụ – 2 câu đầu:
Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen
- Người chinh phụ vừa đi vừa đếm bước chân mình, như đang đếm từng ngày xa chồng.
- Những bước chân của người chinh phụ tưởng như lặng lẽ, nhưng lại mang theo nỗi ưu phiền, lo lắng cho người chồng ở nơi chiến trường.
- Đó là những bước chân nặng trĩu tâm tư, sự thương nhớ và nỗi xót xa.
- Người chinh phụ ngồi bên cửa sổ, hết buông lại cuốn rèm như một hành động vô thức, lặp đi lặp lại.
- Nàng không ý thức được mình đang làm gì, vì đã dồn hết tâm tư, sự lo lắng, nhớ nhung cho người chồng nơi biên ải chẳng biết khi nào mới về.
- Tính từ “vắng”, “thưa” tạo nên sự trống trải cho không gian, tô đậm sự buồn tủi, cô đơn của người chinh phụ.
- Sử dụng từ “từng”, “đòi” càng nhấn mạnh sự lặp lại vô thức những hành động vô nghĩa của người chinh phụ.
- Hành động của người chinh phụ thể hiện những ngổn ngang lo lắng, nỗi buồn phiền và tấm lòng son sắt mà nàng dành cho người chồng.
b. Ngoại cảnh: 6 câu tiếp theo
- Chim thước: loài chim báo tin người đi xa trở về.
- Người chinh phụ ngóng trông bóng chim thước qua bức rèm thưa.
- Nhìn về thực tại với những nỗi nhớ, sự trông ngóng, ước muốn sum vầy đều xa vời, không được hồi âm, người chinh phụ càng thêm vô vọng.
- Khi đối diện với ánh đèn, người chinh phụ khao khát được yêu thương và sẻ chia, câu hỏi tu từ khi ngồi trước ngọn đèn dầu chính là một lời than thở, bày tỏ sự chán chường, cô đơn đan xen với tuyệt vọng.
- Hình ảnh ngọn đèn là một hình ảnh quen thuộc, xuất hiện nhiều trong các tác phẩm văn học trung đại.
- Trong đoạn trích, ngọn đèn được sử dụng để ẩn dụ cho thời gian trôi nhanh, ẩn dụ cho sự lụi tàn, héo hon của một kiếp người.
- Cuộc đời như một kiếp hoa đèn mong manh dang dở.
- Người chinh phụ thức trắng đêm cùng ngọn đèn vì xót xa cho tình cảnh của chính mình. Nhưng thời gian trôi qua, ngọn đèn cũng chẳng thức cùng nàng, chỉ để lại bóng dáng cô độc của người chinh phụ.
- Tính từ “bi thiết”, “buồn rầu”, “thương” thể hiện tâm trạng não nề của người chinh phụ:
+Bi thiết là bi thương, thảm thiết, là nỗi đau không thể nói thành lời, là khát khao được thấu hiểu, được sẻ chia nhưng lại chẳng có ai để cùng tâm sự.
+Thiết tha là cắt, mài (theo nghĩa Hán Việt): thể hiện nỗi đau chôn giấu tạo nên vết cắt sâu trong tâm khảm. - Nỗi đau. sự buồn tủi, khắc khoải của nàng mãi dồn nén trong tim, để rồi cứa vào trái tim cô đơn, khiến nỗi đau càng dày thêm theo từng ngày ngóng trông bóng người thương đang chinh chiến nơi chiến trường hiểm ác.
c. Nghệ thuật:
- Bút pháp nghệ thuật ước lệ kết hợp thể thơ song thất lục bát cùng nhịp thơ chậm rãi đã thể hiện những mạch cảm xúc mang cung bậc khác nhau của người chinh phụ.
- Đoạn trích sử dụng nghệ thuật miêu tả tâm cảnh bằng ngoại cảnh cùng nhiều tính từ chỉ cảm xúc.
- Tác giả đã thành công xây dựng hình ảnh người chinh phụ mang suy tư rối bời, tâm trạng héo mòn chạm đến trái tim người đọc. Đồng thời, gợi nên sự đồng cảm sâu sắc đối với những người phụ nữ nặng tình trông ngóng bóng dáng người chồng đang tham gia những cuộc chiến tranh phi nghĩa (giá trị nhân đạo).
III. Kết bài phân tích 8 câu đầu bài Tình cảnh lẻ loi:
Nêu giá trị của tác phẩm cùng 8 câu đầu bài “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ”.
Chia sẻ thêm cùng bạn 🍀 Cảm Nhận Về Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ 🍀 15 Mẫu Đặc Sắc
Phân Tích 8 Câu Đầu Đoạn Trích Chinh Phụ Ngâm – Mẫu 1
Đón đọc bài văn mẫu phân tích 8 câu đầu đoạn trích Chinh phụ ngâm hoàn chỉnh dưới đây giúp các em học sinh nắm vững phương pháp làm bài.
Đặng Trần Côn là tác giả sống vào nửa đầu thế kỉ XVIII, tài nghệ văn chương của ông lừng thiên hạ vời nhiều tác phẩm nổi tiếng, một trong số ấy có “Chinh phụ ngâm”. Tác phẩm “Chinh phụ ngâm” thuộc thể loại ngâm khúc, có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc.
Đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” được trích trong tác phẩm đã thể hiện nỗi nhớ mong người chồng chinh chiến cùng với khát khao hạnh phúc của ngưởi chinh phụ. Đặc biệt qua tám câu thơ đầu của đoạn trích, người đọc dễ dàng cảm nhận được tình cảnh trống vắng và tâm trạng của nhân vật trữ tình.
Mở đầu đoạn trích, tác giả đã miêu tả tâm trạng của người chinh phụ, thông qua những hành động:
“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.”
Đây là lời than thở triền miên, da diết của người phụ nữ có chồng ra trận. Tác giả đã dùng bút pháp miêu tả nội tâm qua ngoại hình, hành động lặp đi lặp lại không mục đích của người chinh phụ và dáng vẻ buồn rầu, ủ ê không nói lên lời, trong hiên vắng thẫn thờ đợi chồng về. Thời gian đã là chiều tối, không gian là một khoảng hiên vắng lặng cùng với cử chỉ “gieo từng bước” như khắc họa rõ nét cảm giác cô đơn, quạnh vắng của người chinh phụ.
Với một khung cảnh như vậy, gợi cho ta sự sum họp, đầm ấm của gia đình, nhưng giờ đây chỉ có mình người phụ nữ lẻ loi, cô độc trong khoảng không trống vắng, không có người chồng bên cạnh. Cảm giác trống trải bủa vây người chinh phụ làm cho nàng gieo từng bước chân một cách mệt mỏi và chậm rãi. Mỗi bước chân như chất chứa nỗi lòng, nỗi ưu tư phiền muộn của người phụ nữ xa chồng, đang mong ngóng từng ngày chồng trở về. Người phụ nữ như quặn thắt trong lòng khi chỉ nghe được tiếng bước chân âm thầm của mình.
“Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen”
Hành động buông rèm rồi cuốn lên nhiều lần đó là hành động lặp đi, lặp lại không có mục đích rõ ràng, thể hiện một tâm trạng tù túng, nóng ruột. Cảm giác vừa nhớ nhung da diết, vừa lo lắng sốt ruột cho sự an nguy của chồng mình đang đi chinh chiến phương xa. Nỗi nhớ cùng với tâm trạng mong ngóng đợi tin của chồng dồn nén ở người chinh phụ, tạo ra một cảm giác cô đơn buồn khổ ở nhân vật trữ tình. Chẳng những thế, càng mong ngóng chờ đợi thì kết quả lại chẳng được gì.
“Ngoài rèm thước chẳng mách tin”
“Thước” là loài chim báo tin lành, báo tin người đi xa đã trở về. Thế mà ngay lúc này, con chim Thước lại im bặt, làm cho nỗi nhớ, nỗi khắc khoải mong chờ trong lòng người chinh phụ lại tăng lên gấp bội. Chim thước chẳng mách tin, người chồng yêu thương vẫn chưa trở về, nỗi đau đớn âm thầm nhưng quá lớn ấy khiến nàng khao khát có sự đồng cảm. Nhưng trong khung cảnh đau buồn này thì chỉ có ngọn đèn leo lét làm bạn với nàng.
“Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?”
Tâm trạng quá cô đơn đã làm cho nàng phải thốt lên câu hỏi: Liệu ngọn đèn dầu mờ ảo ấy có thấu chăng nỗi lòng của nàng, có chiếu sáng được đến tâm can đang mong nhớ chồng của nàng, Liệu ngọn đèn có thấu hiểu được sức nặng của nỗi cô đơn, của sự nhung nhớ lại dồn cả lên nàng.
Câu hỏi tu từ như là tâm trạng của người chinh phụ, câu hỏi nhưng không có câu trả lời, nhân vật trữ tình hỏi ngọn đèn – một vật vô tri vô giác – nhưng dường như đang muốn được bày tỏ nỗi lòng của mình. Đó chính là lời than thở, hi vọng trong nàng, nỗi khắc khoải đợi chờ đã trở nên day dứt không yên.
“Đèn có biết dường bằng chẳng biết
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi”
Điệp ngữ bắc cầu “Đèn biết chăng – đèn có biết” diễn tả nỗi tù túng, nỗi buồn dài lê thê của người chinh phụ. Hình ảnh “đèn” đã được lặp lại hai lần, nhân vật trữ tình đã giải tỏa tâm sự với ngọn đèn, nhưng một vật vô tri vô giác như vậy thì làm sao hiểu rõ được cảm giác của người chinh phụ.
Nhân vật trữ tình lại ôm nỗi cô đơn, buồn bã một mình. Nhìn ngọn đèn leo lét trong màn đêm tĩnh mịch như vậy, lòng người chinh phụ càng thêm quặn thắt. Ngọn đèn là hình ảnh gợi cảm giác sum họp, ấm áp, càng khắc sâu nỗi cô đơn, buồn bã, khắc khoải trong lòng người.
“Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương”
Kết thúc tám câu thơ là hình ảnh “hoa đèn”. “Hoa đèn” là đầu bấc đèn dầu đã cháy như than nhưng được nung đỏ lên trông như hoa. Hình ảnh “ngọn đèn, hoa đèn”, gợi cho ta liên tưởng đến hình ảnh “đèn không tắt” trong bài ca dao:
“Đèn thương nhớ ai
Mà đèn không tắt?”
Trong im lặng dằng dặc, dưới ánh đèn đêm thăm thẳm, chinh phụ trẻ chỉ có biết trò chuyện với cái bóng của chính mình, với ngọn đèn, gợi cho ta cảm nhận được nỗi cô đơn khắc khoải và vô vọng của người chinh phụ.
Qua tám câu thơ đầu, người đọc đã cảm nhận được những tâm trạng của người chinh phụ. Khung cảnh quạnh hiu, trống vắng cùng với những động từ miêu tả hành động để thể hiện tâm trạng, điệp ngữ bắc cầu đã khắc họa sự ưu tư, phiền muộn và cô đơn của nhân vật trữ tình khi nhớ về người chồng chinh chiến của mình.
Gợi ý cho bạn 🌳 Cảm Nhận 8 Câu Đầu Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ 🌳 10 Mẫu Hay Nhất
Phân Tích 8 Câu Đầu Bài Tình Cảnh Lẻ Loi Hay Nhất – Mẫu 2
Tham khảo bài văn phân tích 8 câu đầu bài Tình cảnh lẻ loi hay nhất được chọn lọc và chia sẻ dưới đây để luyện tập nâng cao kỹ năng nghị luận văn học.
Đặng Trần Côn là một danh sĩ, nhà thơ kiệt xuất của nền văn học Cổ Điển. Trong đó, tác phẩm “Chinh phụ ngâm khúc” là một trong những tuyệt tác của ông được viết bằng chữ Hán. Tác phẩm đã được dịch bởi nữ danh sĩ Đoàn Thị Điểm và trở nên nổi tiếng trong giới văn thơ. Trong đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” – một đoạn trích được đánh giá hay nhất thể hiện những tâm sự , nỗi nhớ của người Chinh phụ và hơn hết còn mang giá trị nhân đạo sâu sắc, đặc biệt 8 câu thơ đầu bài.
Mở đầu 4 câu trước:
Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
Ngoài rèm thước chẳng mách tin
Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?”
Qua khổ thơ ta cảm nhận rằng, người phụ nữ đang cô đơn buồn bã vô cùng. Căn phòng tưởng chừng như rất rộng khi chỉ còn người chinh phục sống. Nó trở nên tù túng, tăm tối và cô đơn khắc khoải khiến ta hình dung lên hình ảnh người vợ đang cô đơn nhớ chồng. Căn phòng lẽ ra đang rộn rã tiếng vui đùa, hạnh phúc vậy mà giờ đây chỉ im ắng.
Sự chờ đợi đã khiến cho người vợ tiễn chồng ra chiến trận tưởng chừng như nhiều kiếp trôi qua. Có khá nào như đá vọng phù, chờ mãi chờ mãi mà người không về. Câu thơ: “Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước “ cho thấy sự mệt mỏi não nề, bước chân nặng nề đến độ không muốn nhấc lên, chỉ “gieo” từng bước thê lương, dù không muốn vẫn phải bước đi để chờ đợi. Giọng thơ chầm chậm, nhẹ nhàng như đúng tâm trạng u buồn của người vợ.
Không gian “hiên vắng” càng tĩnh lặng lại càng làm cho tình cảm thêm thê lương hơn. “Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen”. Ngoài hiên vắng một mình dạo bước cô đơn là thế, về đến phòng lại càng cô đơn hơn. Chiếc rèm cứ kéo lên, rồi lại kéo xuống, ngày qua ngày vẫn không thấy chồng, lòng nàng chỉ một hướng cho chàng nhưng cô đơn quá đỗi vì “cảnh xưa còn đó mà người xưa đâu rồi!?”.
Nhưng, sự chờ đợi vẫn không có hồi âm. Nếu người ta nói “đợi chờ là hạnh phúc” có lẽ đó là trong một hoàn cảnh nào đó đặc biệt, một hoàn cảnh mà người ta biết sự đợi chờ có hồi đáp. Còn với người vợ chờ chồng nơi chiến trận thì cô đơn đến tê dại lòng, càng ngóng lại càng xa. Đến nỗi : “Ngoài rèm thước chẳng mách tin/ Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?” Sự chờ đợi lâu lắm, lâu đến cùng cực mà mãi cũng không nghe thấy tin tức gì, chút hi vọng gì. Ngồi trước ngọn đèn chỉ biết ngóng trông.
Đèn có biết dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hình ảnh chiếc đèn lại trở nên vô cùng quan trọng trong khổ thơ đầu của bài thơ. Tại sao vậy? Tại vì nó chính là người bạn tri kỉ của người vợ lúc này. Khi người chồng ra trận không biết khi nào mới trở về, sự cô đơn khiến người vợ muốn tìm đến một người để sẻ chia tâm trạng.
Nhưng nàng lại không có ai, sự hà khắc của xã hội phong kiến khiến người phụ nữ chỉ biết đến gia đình chồng, hết lòng cho gia đình chồng và “xuất giá tòng phu”. Nào dám kết bạn với ai xa. Nào dám sẻ chia với ai. Tìm một người bạn tâm tình thật khó. Nhất là khi chồng đi xa, chẳng may có điều tiếng xấu thì ôi thôi… cả đời coi như sống không bằng chết.
Vậy chăng, chỉ có ngọn đèn kia tưởng vô tri vô giác mà lại có thể thấu hiểu tâm tình người chinh phụ, có thể giúp cho người vợ sẻ chia được những cô đơn trong lòng. Nàng tự hỏi rằng, liệu ngọn đèn kia có hiểu được tấm lòng chung thủy của nàng, có hiểu được sự chịu đựng nỗi nhớ nhung của nàng. Nỗi nhớ nhung đến đau lòng : “Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi”.
Hình ảnh chiếc đèn hiện lên chứng minh cho sự cô đơn lẻ loi của người chinh phụ, đến nỗi, nàng buồn rầu mà chẳng thể giãi bày:
“Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương.”
Buồn quá đến nỗi nàng chẳng buồn nói, chẳng buồn cười, nàng chỉ có mình với mình với hoa đèn đáng thương mà thôi. Hoa đèn chính là tàn của bấc đèn, bấc đèn vẫn còn được nung đỏ sáng rực cũng như lòng nàng đáng cháy đến tàn đỏ như bấc đèn kia.
Nàng cũng đang nhớ nhung chồng nơi chiến trận, nhưng ngọn lửa nhớ nhung giờ đang cháy đỏ rồi cũng sẽ tàn phai theo thời gian. Dường như nàng đã nhìn thấy tương lai của chính mình qua hình ảnh chiếc đèn, sáng rực là thế rồi cũng sẽ tàn thôi. Và sự tàn phai của đời con gái trong cô đơn lẻ như chiếc đèn kia.
Chỉ qua 8 câu thơ đầu đã cho chúng ta thấy được nghệ thuật và giá trị nhân đạo mà tác phẩm mang lại. Với bút pháp nghệ thuật ước lệ kết hợp thể thơ song thất lục bát, giọng thơ nhẹ nhàng, thiết tha khiến người đọc cảm nhận được tâm trạng u uất, sầu não, cô đơn khát khao cháy bỏng được sống hạnh phúc của người chinh phụ.
Đoạn trích cũng thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc khi lên án chiến tranh phi nghĩa, những khuôn phép hà khắc của xã hội phong kiến bấy giờ đã đẩy cuộc đời bao nhiêu người phụ nữ phải sống trong cô đơn, và ở giá suốt đời nếu chồng mất ngoài chiến trận.
Đọc nhiều hơn ☀️ Cảm Nhận Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ 16 Câu Đầu ☀️ Tuyển Tập Đặc Sắc
Phân Tích 8 Câu Đầu Bài Tình Cảnh Lẻ Loi Ngắn Gọn – Mẫu 3
Bài văn mẫu phân tích 8 câu đầu bài Tình cảnh lẻ loi ngắn gọn dưới đây sẽ giúp các em học sinh tham khảo cách hành văn súc tích và giàu ý nghĩa biểu đạt.
“Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” là một trong những trích đoạn hay nhất trong tác phẩm “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn. Đoạn trích tựa một khúc ca đầy xót xa, đau đớn về tình cảnh éo le, cô độc của người chinh phụ khi chồng biệt tích nơi chiến trường xa xôi. Đặc biệt, trong tám câu thơ đầu tiên của bài, hình ảnh người chinh phụ hiện lên rõ nét với nỗi nhớ, sự cô đơn, trống trải và sự trông mong trong vô vọng.
Hình ảnh người chinh phụ nặng trĩu những tâm sự được nhà thơ Đặng Trần Côn tái hiện sống động thông qua những hành động cụ thể.
Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen”
Hành động “dạo hiên vắng” cùng những bước chân nặng nề, mệt mỏi “gieo từng bước” đã gợi ra những bước chân cô đơn, nặng những tâm sự, suy tư. “Ngồi rèm thưa” không gợi ra sự thư thái mà lại tô đậm nỗi trống trải, bất an bên trong tâm hồn của người chinh phụ ấy.
Hành động buông rèm rồi lại cuốn rèm được thực hiện trong vô thức bởi trong tâm trí của người phụ nữ ấy là nỗi nhớ mong giăng kín dành cho người chồng nơi biên cương xa xôi. Nghệ thuật đối “dạo hiên vắng”- “ngồi rèm thưa”, “trong rèm”-“ngoài rèm” kết hợp với những tính từ “vắng”, “thưa” được đưa vào trong câu thơ càng làm nổi bật lên tình cảnh lẻ loi, cô độc của một người phụ nữ trong đêm khuya thanh vắng.
Khi màn đêm buông xuống cũng là khi con người cảm nhận thấm thía nhất những nỗi buồn đau, mất mát. Có lẽ bởi vậy mà đêm đã khuya mà người chinh phụ vẫn chẳng thể ngủ yên mà mãi thổn thức một nỗi nhớ và cả những bất an, buồn phiền bởi người chồng nàng yêu thương ra đi mà không có một chút tin tức.
Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?
Đèn có biết dường bằng chẳng biết?
“Chim thước” là loài chim báo tin, báo hỉ. Người chinh phụ mong móng chim thước cũng là ngóng trông tin báo bình an của người chồng nơi chiến trường xa xôi. Thế nhưng, hiện thực thật đau lòng, mọi nỗi trông mong, hi vọng của người chinh phụ đều trở nên vô ích khi “thước chẳng báo tin”. Đây cũng là nỗi lòng chung của rất nhiều người chinh phụ trong xã hội xưa, chiến tranh diễn ra liên miên, những người chồng ra trận để lại cho người vợ nỗi trông mong mỏi mòn.
Trong không gian vắng lặng, người chinh phụ chỉ biết bầu bạn với những vật vô tri, đó là ngọn đèn dầu, là dường bằng. Thế nhưng những vật vô tri ấy nào có thể thấu hiểu được những tâm sự chất chồng bên trong tâm hồn người phụ nữ ấy.
Trong thơ ca trung đại xưa, hình ảnh đèn dầu thường được sử dụng để diễn tả nỗi nhớ thương của người con gái, người vợ với người yêu, người chồng của mình. Ta từng bắt gặp hình ảnh Vũ Nương bế bé Đản bên ngọn đèn dầu khi nhớ về Trương Sinh hay nỗi nhớ da diết của người con gái với người yêu trong câu ca dao:
“Đèn thương nhớ ai
Mà đèn không tắt?”
Trong câu thơ “Trong rèm đèn có biết chăng?”, Đặng Trần Côn không chỉ dùng ngọn đèn để tái hiện nỗi nhớ nhung da diết của người chinh phụ mà còn biểu tượng cho sự chảy trôi vô tình của thời gian, qua đó tô đậm thêm sự bạc bẽo, tàn úa của một kiếp người. Câu hỏi tu từ “đèn biết chăng?” và lời trách móc vu vơ “dường bằng chẳng biết” như một lời than thở đầy chán chường, mỏi mệt của một con người cô đơn, tuyệt vọng đến tột cùng.
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương!
Những tính từ chỉ cảm xúc: “bi thiết”, “buồn rầu”, “thương” được đưa vào trong câu thơ với mức độ dày đặc đã thể hiện chân thực mà cũng đầy xót xa tâm trạng chán chường, não nề của người chinh phụ. Những nỗi buồn thương, đau đớn chẳng thể giãi bày thành lời, cũng không có ai có thể tâm sự, người chinh phụ chỉ đành dồn nén tất cả những cảm xúc vào tận cõi lòng, để nó “gặm nhấm”, bức bách con tim của chính mình. Hình ảnh “hoa đèn” cháy đến đỏ rực cũng giống như nỗi nhớ của người chinh phụ, cồn cào khắc khoải đến tận cùng.
Bằng tài năng khắc họa tâm trạng nhân vật xuất sắc và sử dụng có hiệu quả những tính từ chỉ cảm xúc, nhà thơ Đặng Trần Côn đã thành công tái hiện những cung bậc cảm xúc phức tạo của người chinh phụ, đó là nỗi nhớ da diết, là sự cô đơn, trống vắng, những bất an, sầu muộn và khát khao hạnh phúc đơn giản, bình dị.
Hướng ngòi bút đến số phận éo le của những người chinh phụ trong xã hội xưa, nhà thơ Đặng Trần Côn đã thể hiện được tấm lòng nhân đạo sâu sắc của mình khi đồng cảm với số phận trớ trêu, phê phán những cuộc chiến tranh phi nghĩa đã làm cho bao gia đình tan nát, hát phúc vỡ tan; thể hiện trân trọng khát khao hạnh phúc chính đáng của những người chinh phụ.
Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất
Phân Tích 8 Câu Đầu Bài Tình Cảnh Lẻ Loi Học Sinh Giỏi – Mẫu 4
Tham khảo bài văn phân tích 8 câu đầu bài Tình cảnh lẻ loi học sinh giỏi dưới đây với những nội dung nghị luận văn học chuyên sâu.
Tình yêu luôn là chủ đề muôn thuở trong văn học và cũng là nguồn cảm hứng bất tận của thi nhân. Nếu tình yêu trong thời bình gắn với những ngọt ngào, thơ mộng, thì tình yêu trong thời chiến lại gắn liền với sự chờ đợi mỏi mòn và sự biệt ly đau đớn. Nếu thời Đường ở Trung Quốc, Vương Xương Linh oán ghét chiến tranh phi nghĩa, cảm thông cho tâm trạng người thiếu phụ phòng khuê mà viết nên những vần thơ xúc động:
“Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu
Xuân nhật ngưng trang thượng thúy lâu
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc
Hối giao phu tế mịch phong hầu”
(Khuê oán – Vương Xương Linh)
Thì trong thời Lê ở nước ta, Đặng Trần Côn đã cảm thông sâu sắc trước số phận những người phụ nữ có chồng đi lính mà làm nên tuyệt tác “Chinh phụ ngâm”. Đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” thuộc tác phẩm trên đã chạm đến tận cùng trái tim người đọc khi tái hiện hoàn cảnh cô độc, nỗi nhớ thương da diết của người phụ nữ khi có chồng ra trận cùng với ước mơ về hạnh phúc đoàn tụ. Điều ấy được đặc tả trong 8 câu đầu đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ”.
Chinh phụ ngâm” ra đời vào khoảng thế kỷ XVIII, đầu đời Lê Hiển Tông, khi phong trào khởi nghĩa nông dân diễn ra liên miên, triều đình điều binh lính đi dẹp loạn. Điều đó dẫn đến việc nhiều gia đình rơi vào cảnh ly biệt kẻ ở người đi, vợ mất chồng, mẹ mất con. Số phận và bi kịch của những con người nhỏ bé trong cái xã hội phong kiến đang đứng bên bờ vực thẳm ấy đã lay động trái tim của Đặng Trần Côn.
Sau khi tiễn chồng ra trận, người chinh phụ bơ vơ chốn khuê phòng vắng lặng, lạnh lẽo, nỗi khổ tâm của nàng được bộc lộ qua hành động và ngoại cảnh.
“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen. ”
Không gian “hiên vắng”, “ngoài rèm”, “trong rèm” là không gian chật hẹp, tù túng vắng lặng và hiu hắt chỉ có vang vọng tiếng bước chân của người lẻ bóng. Đây là một không gian nghệ thuật đã góp phần thể hiện tâm trạng của người chinh phụ. Không gian vắng lặng lúc này là để giãi bày nỗi lòng mình và càng tô đậm thêm sự lẻ bóng của nàng.
“Hiên vắng” bởi lẽ không có người quan trọng nhất kề bên nàng lúc này. Tâm trạng người chinh phụ cô đơn, lẻ loi trải dài khắp không thời gian. Ở mọi không gian, khoảnh khắc người chinh phụ đều chỉ một mình một bóng. Người chinh phụ dạo bước trong hiên vắng, vừa đi vừa thầm đếm bước chân mình, như đếm từng ngày chồng đi.
Qua 8 câu thơ đầu ta thấy những bước chân lặng lẽ của nàng nặng trĩu u sầu, đong đầy thương nhớ, như bước chân người cung nữ trong “Cung oán ngâm” của Nguyễn Gia Thiều: “Ngán trăm chiều bước lại ngẩn ngơ”. Sự bồn chồn, khắc khoải, mong chờ được khắc họa qua những hành động lặp đi, lặp lại, hết đứng lại ngồi, hết ra ngoài hiên rồi lại bước vào phòng, kéo rèm trông tin chim thước rồi lại rủ rèm.
Những hành động vô nghĩa ấy được lặp đi lặp lại trong vô thức, nàng chẳng còn bận tâm mình đang làm gì bởi tâm trí nàng giờ dồn hết vào người chồng đang nơi chiến trận biên ải xa xôi.
“Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?”
Không gian ngày càng tù túng. Với nàng, không gian lúc này chỉ được xác định bằng vị trí của tấm rèm “trong rèm”, “ngoài rèm” mà thôi. Không gian càng thu hẹp như tâm trạng của người chinh phụ lúc này ngày càng chìm trong cô độc. Nàng khát khao được đồng cảm, sẻ chia mong tin chim thước đến báo tin chồng trở về nhưng chim thước nào có đến, mong ngọn đèn hiểu thấu và soi tỏ nỗi lòng mình nhưng đèn lại vô tri vô giác không thể cùng người an ủi, sẻ chia nỗi buồn cô lẻ.
Nàng nhận ra rằng càng hi vọng, mòn mỏi trông chờ nàng càng hụt hẫng, tuyệt vọng. Khát khao sum vầy đoàn tụ, khát khao hơi ấm gia đình của nàng càng khiến nàng đau đớn, thất vọng. Câu hỏi tu từ và điệp từ “rèm” lặp lại ba càng đẩy nàng vào bế tắc, cái bế tắc của xã hội phong kiến suy tàn, của triều đình loạn lạc khiến niềm tin của con người về tình yêu, hạnh phúc không còn giá trị.
Có thể thấy, phân tích 8 câu đầu bài tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ khiến ta đồng cảm và thương cảm xiết bao về số phận cũng như tâm trạng mòn mỏi đợi chồng của những người phụ nữ xưa.
Người chinh phụ hết mong ngày, lại mong đêm, khi bóng tối cô đơn tịch mịch kéo xuống bao trùm lấy nàng, nàng chỉ có thể làm bạn với bóng đèn. Nhưng ngay ở câu thơ sau nàng lại phủ nhận:
“Đèn có biết dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi. ”
Bởi đèn vô tri chỉ có thể soi tỏ bóng dáng cô quạnh của nàng nhưng làm sao có thể chia sẻ được. Tấm lòng này chỉ có một mình mình biết, một mình mình hay. Ta thấy từ “bi thiết” là một động từ mạnh cực tả cảm giác cô đơn và sự khát khao được đồng cảm của chinh phụ trong đêm vắng.
Điệp ngữ bắc cầu “Đèn biết chăng” – “đèn có biết” đã góp phần cho thấy biên độ nỗi nhớ trong nàng ngày càng tăng. Hình ảnh ngọn đèn không chỉ làm nổi bật sự cô quạnh khát khao chia sẻ của nàng mà còn là nhân chứng cho thấy người chinh phụ đã thao thức canh dài. Đặng Trần Côn mượn cây đèn đang tàn mà ẩn dụ sự trôi đi nhanh chóng của thời gian, sự tàn lụi, héo hon của kiếp người. Ta bỗng nhớ đến ngọn đèn với nỗi nhớ tình yêu ấy trong bài ca dao “Khăn thương nhớ ai”
“Đèn thương nhớ ai
Mà đèn không tắt?
Mắt thương nhớ ai
Mắt ngủ không yên
Đêm qua em những lo phiền
Lo vì một nỗi không yên một bề”
(Ca dao)
Hình ảnh ngọn đèn trong bài ca dao cũng nói về nỗi nhớ của cô gái trong tình yêu và những lo lắng băn khoăn về tương lai. Thế nhưng, nếu cô gái trong bài ca dao trên nỗi lo lắng chỉ dừng lại ở liệu mai sau có cái kết viên mãn cho mối tình mới chớm thì nỗi lo của người chinh phụ là sự sinh ly tử biệt. Bởi lẽ chiến tranh xảy ra, mấy người đi có mấy người trở về? Khát khao thấu hiểu chia sẻ để rồi nhận ra thực tại phũ phàng không ai có thể cùng nàng chia sẻ đồng cảm. Nỗi nhớ cứ thế mà tăng dần và nàng cũng càng thêm cô quạnh…
“Buồn rầu nói chẳng nên lời
Hoa đèn kia với bóng người khá thương”
Từ thuần việt “buồn rầu” đã diễn tả chân thật và sinh động nỗi buồn của người chinh phụ trong giây phút này. “Nói chẳng nên lời” vì nỗi buồn miên man không thể diễn tả được hay vì nói ra cũng chẳng ai sẽ chia. Nàng giờ đây một mình cô đơn không chỉ trong không gian mà còn trong cả tâm tư. Cụm từ “hoa đèn” cho thấy đêm đã gần tàn, người chinh phụ đã ngồi trước bóng đèn ấy rất lâu. Nỗi nhớ trào dâng như chính tâm trạng của những cô gái trong câu ca dao:
“Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ
Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai”
(Ca dao)
Hay những vần ca dao:
“Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than”
(Ca dao)
Nhưng với những cô gái trong ca dao trên đó là nỗi nhớ tương tư khát khao gặp mặt trong tình yêu. Còn đối với người chinh phụ đó không đơn thuần là nỗi nhớ mà còn là sự bất an, lo lắng cho người chinh phu. Bởi giữa thời buổi loạn lạc, nhà có người đi lính, ‘họa có mấy khi có người về báo tin chiến trận.
Như người xưa từ nói “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi?”. Không nghe tin chồng nàng chỉ có thể chờ đợi trong lo sợ, nàng như chết dần chết mòn vì sự bi thiết trong lòng, sự bi thiết đến từ nỗi chờ mong trong cô lẻ, triền miên. “Bóng người” ở đây chính là bóng người chinh phụ chờ chồng trông nhớ thương hay chính là hình ảnh người chinh phụ héo hon, tàn tạ chờ chồng giống như cái bóng mỏi mòn, như hoa đang lụi tàn dần. Tâm trạng ấy phần nào giống với nàng Kiều:
“Người về chiếc bóng năm canh
Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi”
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Như vậy, các yếu tố ngoại cảnh đã nói hộ cho nỗi lòng vò võ của chinh phụ ngóng chồng đi chinh chiến. Ngọn đèn tắt, bỏ lại người chinh phụ cô quạnh trong đêm dài tịch mịch u sầu. Nỗi cô đơn tràn ngập không gian và kéo dài vô tận theo thời gian luôn đeo đẳng, ám ảnh nàng. Cảnh vật xung quanh không thể san sẻ mà ngược lại như cộng hưởng với nỗi sầu miên man của người chinh phụ, khiến nàng càng đớn đau, sầu tủi. Từ đó mà khắc hoạ rõ nét số phận cùng nỗi cô đơn đến cùng cực của những người phụ nữ…
Văn học là người thư ký trung thành của trái tim. Chỉ với 8 câu đầu, tác phẩm đã chạm vào trái tim người đọc, gieo vào đó những cảm xúc sâu lắng về nỗi buồn, sự cô đơn của người chinh phụ trong cảnh chờ đợi mỏi mòn. Qua đó, ta thấy được trái tim nhân đạo của người nghệ sĩ. Chính điều đó đã góp phần tạo nên sức sống cho tác phẩm. Và “Chinh phụ ngâm” xứng đáng với lời nhận xét “Thời gian có thể phủ bụi một số thứ. Nhưng cũng có những thứ càng rời xa thời gian, càng sáng, càng đẹp”. (Nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên).
Tham khảo trọn bộ 🌹 Phân Tích Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ 🌹 15 Mẫu Hay Và Đặc Sắc Nhất
Phân Tích Chinh Phụ Ngâm 8 Câu Đầu Nâng Cao – Mẫu 5
Đón đọc bài văn phân tích Chinh phụ ngâm 8 câu đầu nâng cao dưới đây để trau dồi cho mình những ý văn hay và đặc sắc.
Trong đề tài viết về chiến tranh, người ta thường viết nhiều về những tráng sĩ, những anh hùng đã chiến đấu, đã hi sinh vì non sông, đất nước. Rất ít tác giả viết về hình ảnh những người vợ, những người mẹ mòn mỏi chờ đợi tin tức của chồng mình, của con mình. Và có ai biết được rằng cái sự chờ đợi đó dường như là vô vọng, bế tắc bởi lẽ: “Cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi”.
Cảm thông trước cảnh buồn khổ của những người chinh phụ, Đặng Trần Côn đã sáng tác tác phẩm Chinh phụ ngâm bằng chữ Hán và Đoàn Thị Điểm đã dịch bài thơ này ra chữ Nôm. Trong bản dịch này, có thể thấy xuất sắc nhất là đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ”. Đặc biệt là 8 câu thơ đầu tiên.
Ngay những câu đầu của tác phẩm Chinh phụ ngâm, tác giả đã vẽ nên cảnh chia tay giữa người chinh phụ và chinh phu:
“Áo chàng đỏ tựa ráng pha
Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in”.
Nói như thế có nghĩa là khi người chồng đã đi chinh chiến nơi biên ải xa xôi, người vợ phải ở nhà. Đó là hoàn cảnh của người chinh phụ trong hiện tại. Không những nêu lên hoàn cảnh hiện tại của người chinh phụ, 8 câu thơ đầu còn khắc họa hình ảnh của người vợ trẻ giữa không gian và thời gian. Về không gian, tác giả đã vẽ ra trước mắt chúng ta về hiên vắng, ngoài rèm, trong rèm. Đó là không gian hiu quạnh và vắng vẻ vô cùng.
Không chỉ thế, thời gian trong đoạn thơ này cũng được vẽ nên, đó là trục thời gian trôi chảy. Các hình ảnh hoa đèn, tiếng gà eo óc đã vẽ nên cái trục thời gian tuần hoàn: từ đêm đến đêm khuya và trời dần trở về sáng. Nói như thế có nghĩa là người chinh phụ đã thức suốt năm canh để chờ đợi, ngóng trông và gặm nhấm nỗi cô đơn, sầu muộn của mình.
Đoạn trích đã cho ta thấy được hình ảnh của người chinh phụ nổi bật giữa không gian và thời gian. Vậy giữa cái khoảng không gian quạnh vắng, cô đơn chiếc bóng ấy, giữa thời gian lê thê của năm canh ấy người chinh phụ đã làm gì?
Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
Hai câu thơ đầu đã cho chúng ta thấy hình ảnh của người chinh phụ với những hành động thật lạ kì. Người chinh phụ dạo hiên, người chinh phụ ngồi rèm. Thế nhưng, nàng dạo hiên mà thầm gieo từng bước, nàng ngồi rèm mà rủ thác đòi phen. Đó là hành động quanh quẩn, được lặp lại nhiều lần. Có thể thấy hành động này bất thường bởi lẽ nàng dạo hiên mà đếm từng bước chân. Nàng ngồi trước cửa sổ mà hết hạ rèm xuống rồi kéo rèm lên.
Hành động vô thức ấy cứ lặp đi lặp lại để cho thấy được rõ ràng bên trong người chinh phụ đang chất đầy tâm trạng. Nàng ngồi rèm, nàng dạo hiên không phải đề hòa mình với thiên nhiên, mà là để trông ngóng một điều gì đó. Có thể thấy, 2 câu thơ đầu đã đặc tả được sự cô đơn, lẻ loi, vắng bóng cũng như hé mở tâm trạng bên trong của người vợ trẻ này. Nàng đang chờ đợi, ngóng trông điều gì mà lòng thổn thức không yên. Và đến những câu thơ tiếp theo thì tâm sự của người chinh phụ đã được hé mở:
Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?
Cụm từ “thước chẳng mách tin” hé lộ mọi tâm trạng của người chinh phụ. Thì ra người vợ trẻ ấy đang chờ đời con chim thước – con chim báo tin lành, tin của người chồng nơi biên ải xa xôi. Thế nhưng, con chim thước không đến và người chồng cũng bặt vô âm tín. Tiếp theo đó, tác giả đã sử dụng thủ pháp đối lập giữa ngoài rèm với trong rèm và câu hỏi tu từ: “Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?”. Chính cái thủ pháp đối lập và câu hỏi tu từ, một lần nữa cho chúng ta thấy được cái tâm trạng trách móc, buồn bã của người chinh phụ.
Bên cạnh đó, ta còn cảm nhận được sự tuyệt vọng của người vợ đang mòn mỏi chờ đợi tin tức của chồng. Những câu thơ đầu vẽ nên tình cảnh của người chinh phụ trong lẻ loi, cô đơn, vô vọng. Người chinh phụ ấy thật đáng thương biết bao. Và đáng thương hơn nữa khi nàng chỉ biết làm bạn với ngọn đèn:
Đèn có biết dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Với thủ pháp điệp từ: “đèn biết chăng”; “đèn có biết”. Tác giả đã vẽ nên dòng tâm trạng triền miên, day dứt, không nguôi của người vợ trẻ. Thêm vào đó, với câu hỏi tu từ” đèn có biết dường bằng chẳng biết” như là một nỗi ám ảnh, như là một tiếng lòng thổn thức không nguôi của người chinh phụ. Hai câu thơ này đã cho ta thấy tâm trạng buồn rầu, xót xa của người vợ khi chờ đợi mãi mà chưa có tin tức gì. Không chỉ thế, 2 câu thơ với câu hỏi tu từ đã tạo nên một dòng chảy tâm trạng triền miên, day dứt.
Và dòng tâm trạng ấy lại trở nên dai dẳng hơn nữa, triền miên hơn nữa khi nó đặt giữa một không gian và thời gian chẳng bao giờ ngừng và đứt đoạn:
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương.
Bên cạnh việc sử dụng phép điệp, câu hỏi tu từ, đoạn thơ còn sử dụng nhiều hình ảnh mang tính ước lệ tượng trưng: hoa đèn, bóng người và cạm từ như bi thiếp, buồn rầu. Với những hình ảnh và cụm từ ấy, tác giả một lần nữa cho ta thấy sự cô đơn, sầu muộn. Đặc biệt hình ảnh hoa đèn khiến ta liên tưởng đến những câu ca dao thật hay thật đẹp về chuyện tình yêu:
Khăn thương nhớ ai,
Khăn rơi xuống đất.
Khăn thương nhớ ai,
Khăn vắt lên vai.
Khăn thương nhớ ai,
Khăn chùi nước mắt.
Đèn thương nhớ ai,
Mà đèn không tắt.
Mắt thương nhớ ai,
Mắt ngủ không yên.
Đêm qua em những lo phiền,
Lo vì một nỗi không yên một bề…
Cô gái trong bài ca dao hay người vợ trẻ trong chinh phụ ngâm khúc đều phải mòn mỏi từng ngày, từng tháng, từng năm để ngóng trông tin tức của người yêu, người chồng. Tâm thế của nàng thật chông chênh, chơi vơi khiến cho cuộc sống trở nên khổ sở, bất an.
Với thể thơ song thất lục bát, cách dùng từ, hình ảnh ước lệ, điệp từ điệp ngữ, nghệ thuật miêu tả nội tâm, 8 câu thơ đầu đã thể hiện một cách tinh tế những cung bậc sắc thái tình cảm khác nhau của nỗi cô đơn buồn khổ ở người chinh phụ, luôn khao khát được sống trong hạnh phúc, tình yêu lứa đôi. Đoạn trích còn thể hiện tấm lòng yêu thương, cảm thông sâu sắc của tác giả với những khát khao hạnh phúc chính đáng của người thiếu phụ, cất lên tiếng kêu nhân đạo, phản đối chiến tranh phi nghĩa.
Tiếp theo đón đọc 🌹 Phân Tích 8 Câu Giữa Bài Tình Cảnh Lẻ Loi 🌹 10 Mẫu Hay Nhất
Phân Tích 8 Câu Đầu Bài Chinh Phụ Ngâm Chi Tiết – Mẫu 6
Tham khảo bài văn mẫu phân tích 8 câu đầu bài Chinh phụ ngâm chi tiết dưới đây sẽ giúp các em học sinh có được cho mình những định hướng làm bài cụ thể nhất.
Có thể nói, ở mỗi thời đại, văn học đều là tấm gương phản chiếu lên được mặt tốt và mặt xấu của xã hội. Khai thác và đào sâu vào những vấn đề thuộc về nội tâm của con người. Tác phẩm “Chinh phụ ngâm là một điển hình tiêu biểu như thế, đặc biệt là tám câu đầu đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ”. Đoạn trích phản ánh lên tội ác của những cuộc chiến tranh phi nghĩa đã làm cho người chinh phụ phải rơi vào tình cảnh cô đơn lẻ loi, tâm trạng đau khổ khắc khoải khôn nguôi.
Đoạn trích ra đời vào thế kỉ XVIII. Đầu đời vua Lê Hiển Tông, triều đình sai quân đánh dẹp, nhiều trai tráng trong làng phải từ giả người thân ra trận. Khi ấy, cảm nhận được nỗi khổ của những người nông dân, đặc biệt là người vợ lính. Đặng Trần Côn đã viết nên tác phẩm, bằng chữ Hán là một khúc ngâm đầy cảm xúc. Đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” nằm từ câu 193 -216 và từ câu 228 – 252 trong nguyên tác.
Khi vừa ra đời tác phẩm đã nhận được rất nhiều sự chú ý từ những nhà yêu thơ, đã có nhiều bản dịch ra chữ Nôm, nhưng bản dịch hiện tại là thành công nhất được viết theo thể song thất lục bát là thể thơ thuần túy của người Việt Nam. Nhưng sau khi bản dịch ra đời lại có tranh cãi rằng bản dịch đấy là của Phan Huy Ích hay Đoàn Thị Điểm. Phần lớn cho rằng là của Đoàn Thị Điểm bởi bà cũng có hoàn cảnh giống như người chinh phụ (bà có chồng đi sứ ở Trung Quốc).
Tám câu đầu đoạn trích là khung cảnh người chinh phụ chờ đợi chồng trong hoàn cảnh u buồn, đơn độc. Những hành động được tiếp diễn đưa cảm xúc lên cao trào.
Mở đầu cho cảm xúc cô đơn, đau buồn kéo dài theo không gian và thời gian vô tận là hành động chậm rãi:
“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.”
Hành động được hiện ra với dáng vóc đầy suy tư của người chinh phụ. Nhịp thơ nhẹ nhàng, như để đi vào cảm xúc. Những động từ “dạo, gieo từng bước”, cho thấy những bước chân nặng nề mang đầy tâm trạng bâng khuâng, lo lắng, không gian im lặng đến mức nghe từng tiếng bước chân.
Người chinh phụ dường như đang suy nghĩ trăn trở nên nàng “ngồi” mà lòng thì chẳng để tâm. Tác giả đã sử dụng hình ảnh ” rủ thác đòi phen”- kéo màng lên rồi lại buông màn xuống. Để cho thấy hành động lặp đi lặp lại vô nghĩ. Và rồi dường như có tiếng thầm thì trách móc:
“Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng.
Đèn có biết dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.”
Người chinh phụ bắt đầu giãi bày nỗi niềm tâm sự của mình. Thực sự nàng đang rất nhớ người chinh phu điều đó được thể hiện rõ nét qua hình ảnh “chim thước”- chim khách, là loài chim thường mang tin tốt lành. Nàng trách chim thước chẳng báo một chút tin tức nào của người chồng, để nàng phải đợi mong, cô đơn khắc khoải. Nghệ thuật đối lập “ngoài rèm” và “trong rèm” để cho thấy nỗi cô đơn ấy bao trùm tất cả không gian bên trong và bên ngoài phòng khuê. Và nàng cũng cần lắm một người tâm sự cùng mình.
“Đèn” được nhà thơ nhân hóa lên như một người bạn. Nếu với “Ca dao yêu thương tình nghĩa”: ” Đèn thương nhớ ai mà đèn không tắt” chiếc đèn nguyện cùng cô gái thao thức suốt đêm mộng mơ nhớ thương, thì với Chinh phụ ngâm chiếc đèn lại phũ phàng với người phụ nữ lẻ loi ấy. “Đèn” đã tắt khi người chinh phụ đang cần lắm một sự sẻ chia, “đèn” đã làm cho người chinh phụ nhận ra rằng “dù thế nào thì đèn cũng chỉ là vật vô tri vô giác” chẳng thể chia sẻ cùng nàng được.
Tác giả đã sử dụng câu hỏi tu từ “Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?” Như muốn cho người đọc cảm nhận người chinh phụ đã đi qua từng cảm xúc. Và đến khi tuyệt vọng nàng đã nói một câu mà nghe như xé lòng: Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi” nàng xin nhận hết và chịu đựng hết nỗi cô đơn cho riêng mình. Bởi vì chẳng có ai bên cạnh để nàng chia sẻ. Biết bao nỗi niềm chất chứa chẳng nói thành lời:
“Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương.”
Nỗi buồn u ám dưới màng đêm, nỗi buồn mà ngay cả nàng cũng chẳng thể nói nên lời được. Có lẽ do nỗi buồn ấy quá lớn và nó lại hiện lên mỗi ngày. Nghệ thuật so sánh “Hoa đèn” với “bóng người”, người chinh phụ nhìn hoa đèn mà nghĩ đến cuộc đời của mình có mau lụi tàn như chiếc hoa đèn kia hay không? Hay còn hẩm hiu hơn thế nữa?
Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, sử dụng những điệp từ, so sánh nhiều hình ảnh để vẽ ra khung cảnh của người chinh phụ mang nhiều tâm trạng. Sự cô đơn, lẻ loi của người phụ nữ trong đêm tối. Và khi hình ảnh buồn khổ ấy hiện lên chân thực đến đâu thì càng vạch trần cái tội ác xấu xa của chiến tranh phi nghĩa đẩy biết bao gia đình rơi vào cảnh chia lìa. Mà niềm cảm thông lớn nhất là dành cho người chinh phụ, là phụ nữ nhưng họ phải hy sinh tuổi xuân để chờ chồng mà chẳng có chút tin tức, không có ai chia sẻ những nỗi buồn.
Từ đấy cho ta thấy được cách chọn đề tài của Đặng Trần Côn rất mới mẻ, phù hợp với thời đại lúc bấy giờ. Cách miêu tả nội tâm đầy sâu sắc của ông, cho thấy ông là một người có vốn sống rất rộng. Đồng thời là sự sắc sảo trong cách dùng từ của hai dịch giả Đoàn Thị Điểm và Phan Huy Ích đã tạo nên đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” rất thành công.
Thông qua tám câu đầu của đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” càng giúp ta hiểu rõ nét hơn những nỗi cô đơn của người phụ nữ trong xã hội cũ khi có chồng đi chinh chiến. Nó là nỗi cô đơn da diết kéo dài theo không gian thời gian.
Từ đó cho thấy hậu quả của chiến tranh phong kiến phi nghĩa. Và là lời ca ngợi cho tác giả Đặng Trần Côn, ông quả là một nhà thơ tài năng và tác phẩm của ông đã chạm đến trái tim của đọc giả và vượt qua hàng trăm năm, nhưng mỗi lần nhắc về những tác phẩm chữ hán, người ta sẽ nghĩ ngay đến “Chinh phụ ngâm”. Ông đã để lại cho nền văn học nước nhà một áng văn hay.
Tiếp tục tham khảo 💕 Phân Tích 8 Câu Cuối Bài Tình Cảnh Lẻ Loi 💕 10 Mẫu Siêu Hay
Bài Văn Phân Tích 8 Câu Đầu Của Tình Cảnh Lẻ Loi Đặc Sắc – Mẫu 7
Dưới đây chia sẻ bài văn phân tích 8 câu đầu của tình cảnh lẻ loi đặc sắc để các em học sinh cùng tham khảo và hoàn thành tốt bài viết của mình.
Dưới trí tuệ của dịch giả Đoàn Thị Điểm – người “tài sắc nương tử xưa hiếm nay không, xuất khẩu thành chương, bản chất thông minh” mà tuyệt tác Hán ngôn “Chinh phụ ngâm khúc” của Đặng Trần Côn một lần nữa thăng hoa.
Những năm 40 của thế kỉ XIV, bão táp liên miên, loạn lạc khắp nơi, người chinh phụ tiễn chinh phu ra trận… đã được phục dựng lại dưới những vần thơ “lâm li, tuấn nhã”, đặc biệt trong đoạn trích 8 câu đầu của “Tình cảnh lẻ loi của người Chinh Phụ”. Đoạn trích ngắn nhưng Đoàn Thị Điểm đã làm nổi bật lên hình ảnh người chinh phụ trong nỗi cô đơn lẻ bóng chờ ngày đoàn tụ.
“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.”
Hai câu thơ đầu đoạn trích là bóng hình ngóng trông của người chinh phụ. Hình ảnh ấy được thể hiện qua các động từ “dạo”, “rủ”, “thác”, “gieo từng bước” bởi nó tạo nên sự đối lập giữa bên ngoài thanh tịnh, nhàn nhã với nội tâm cồn cào, mòn mỏi đếm từng bước chân. Hơn nữa, tính từ “vắng”, “thưa” tôn lên sự lẻ loi, cô độc, bóng chiếc của người phụ nữ trong đêm. Như vậy, tác giả đã sử dụng ngoại cảnh để thể hiện tâm trạng nhân vật.
Tiếp đó, người chinh phụ dường như hướng ra bên ngoài chờ một tin báo đủ mạnh để an lòng:
“Ngoài rèm thước chẳng mách tin”
Chim thước là loài chim khách, nó vốn thuộc về bầu trời cao rộng. Ngóng tin từ chim thước thật vô vọng, mơ hồ. Từ phủ định “chẳng” như khẳng định thêm sự tuyệt nhiên không có lấy một âm thanh tin tức nào. Vậy nên, người phụ nữ hướng vào không gian bên trong, trò chuyện với cây đèn, tìm kiếm chút tâm tình, thỏa mãn sự cô đơn:
“Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?
Đèn có biết dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương.”
Đoạn thơ khiến ta liên tưởng tới hình ảnh Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ khi chọn cách chỉ vào cái bóng trên tường và nói đó là cha Đản để con trai bớt phần tủi hờn. Đó dường như là cách người phụ nữ gửi gắm nỗi nhớ thương chồng. Gửi tâm sự vào đèn, người chinh phụ trong bài thơ có lẽ cũng đang da diết nhung nhớ lang quân. Bởi người phụ nữ đã gọi “đèn” và xưng “thiếp”. Mặt khác, hình ảnh đèn khiến ta liên tưởng tới những bài thơ, bài ca dao xưa:
“Khăn thương nhớ ai,
Khăn chùi nước mắt.
Đèn thương nhớ ai,
Mà đèn không tắt.
Mắt thương nhớ ai,
Mắt ngủ không yên.”
Ánh đèn như tôn thêm vẻ vắng lặng đơn côi, mỏi mòn chờ đợi cả ngày dài và thổn thức suốt đêm thâu. Nhưng đèn là vật vô tri, đèn không thể giãi bày tâm sự với người phụ nữ, vậy nên nhân vật trữ tình càng thêm “buồn rầu”, không thiết nói năng. Cái cảnh “nói chẳng lên lời” như là bất lực, uất nghẹn lắm. Đoạn thơ còn xuất hiện thêm hình ảnh sóng đôi “hoa đèn” – “bóng người”.
Thay vì đèn, tác giả lại nói “hoa đèn” để liên tưởng tới sự tàn lụi, cạn dầu tương đương với cảnh người phụ nữ đợi chờ tới héo hon, thanh xuân qua đi từng ngày. Từ hành động, ý thơ dường như lại khắc họa sự bất động. Đặc biệt, hình ảnh người phụ nữ bên ngọn đèn dầu còn kết đọng ở cảm xúc “bi thiết”, “khá thương”.
Nỗi buồn đau, cô đơn, lắng lo, mong ngóng, bất lực, nghẹn ngào… tất cả như đan xen, cuộn trào từng đợt trong lời than vãn “lòng thiếp riêng bi thiết” và rồi lịm dần “buồn rầu chẳng” và “khá thương”. Cảm xúc có sự vận động từ thương chồng đến thương mình, từ than thở tới tuyệt vọng.
Tóm lại, đoạn trích 8 câu đầu trong “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” – Đoàn Thị Điểm là tiếng nói xót thương cho số phận người phụ nữ trong chiến tranh và đồng cảm với khát vọng sum vầy của họ. Cho đến tận bấy giờ, lần đầu tiên mới có những tấm lòng chân chính biết thương cảm cho những người phụ nữ nhỏ bé. Đó cũng là tinh thần nhân văn, nhân bản cao đẹp của tác giả.
Đừng bỏ qua 🔥 Phân Tích Tựa Trích Diễm Thi Tập 🔥 8 Bài Văn Hay Nhất
Bài Phân Tích 8 Câu Đầu Của Chinh Phụ Ngâm Chọn Lọc – Mẫu 8
Đón đọc bài phân tích 8 câu đầu của Chinh phụ ngâm chọn lọc dưới đây sẽ mang đến cho các em học sinh những gợi ý hay khi làm bài.
Đặng Trần Côn là một tác giả nổi tiếng bởi tài nghệ văn chương lừng danh gắn liền với nhiều tác phẩm mang đậm giá trị thời đại. Trong đó, “Chinh phụ ngâm” là một tác phẩm thuộc thể loại ngâm khúc đã làm nên tên tuổi của ông bởi giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc.
Đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” chính là một phần của tác phẩm này, nó thể hiện nỗi mong nhớ da diết của người chinh phụ khi chồng chinh chiến nơi sa trường. Đặc biệt, tám câu thơ đầu của đoạn trích sẽ giúp người đọc cảm nhận sâu sắc nhất về tình cảnh trống vắng cùng những cung bậc cảm xúc của nhân vật trữ tình.
Mở đầu đoạn trích là tâm trạng rối bời của người chinh phụ được thể hiện qua những hành động vô thức:
Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen
Đây phải chăng là lời than thở triền miên, da diết của người phụ nữ có chồng đang chinh chiến nơi sa trường. Tác giả đã sử dụng bút pháp miêu tả nội tâm thông qua ngoại cảnh để miêu tả hành động lặp đi lặp lại trong vô thức, không có mục đích của người chinh phụ. Qua hành động đó, ta như hình dung được dáng vẻ buồn rầu, không nói nên lời của người chinh phụ nơi hiên vắng thẫn thờ đợi chồng về từ phương xa.
Bấy giờ đã là chiều tối – khoảng thời gian ảm đạm, hắt hiu nhất của một ngày – người chinh phụ lại đang gieo từng bước nơi hiên vắng lặng. Chính không gian, thời gian đó đã tô đậm bước chân cô đơn, quạnh vắng của người chinh phụ. Trong khung cảnh đó, người ta đang sum họp bên gia đình sau một ngày dài, thì người chinh phụ lại chỉ có một mình lẻ bóng, không có chồng cạnh bên vỗ về.
Cảm giác trống vắng dường như bủa vây nơi trái tim người phụ nữ, khiến cho bước chân của nàng cũng thật chậm rãi và mệt mỏi. Mỗi một bước chân là một tiếng thở dài cho những nỗi chất chứa trong lòng, cho nỗi ưu tư phiền muộn của người phụ nữ đang mong ngóng tin chồng trở về. Nhưng rồi, người chinh phụ chỉ có thể quặn thắt lòng bởi vì đáp lại cũng chỉ là tiếng bước chân âm thầm của mình.
Hành động buông rèm của người chinh phụ cũng là một hành động lặp đi lặp lại trong vô thức, chẳng có mục đích rõ ràng. Đó phải chăng là hành động che lấp đi sự tù túng, nóng ruột của người phụ nữ? Hay là nỗi nhớ nhung da diết đan xen với sự lo lắng cho an nguy của chồng mình? Nỗi nhớ da diết cùng sự mong ngóng tin chồng như dồn nén ở người chinh phụ, để rồi tô đậm cảm giác cô đơn buồn tủi của nàng. Nhưng rồi, càng mong ngóng, đáp lại nàng vẫn là hiện thực đau thương.
“Ngoài rèm thước chẳng mách tin
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng”
Thước là một loài chim báo tin người đi xa trở về. Nhưng mặc cho người đang ngóng trông, thước lúc này lại im bặt khiến cho nỗi nhớ cùng nỗi khắc khoải đợi mong của lòng người càng tăng lên gấp bội. Chim thước chưa mách tin, người chồng nơi xa vẫn chưa trở về, làm sao nguôi được nỗi đau quặn thắt này? Nỗi đau ấy quá lớn khiến nàng càng có khát khao được sẻ chia, được tâm sự, được đồng cảm. Nhưng, đối diện với khung cảnh đau thương này, làm bạn với nàng cũng chỉ có ngọn đèn leo lét.
Sự cô đơn đến tột cùng đã khiến nàng phải tự hỏi, liệu ngọn đèn ấy có hiểu thấu lòng nàng, có chiếu sáng được tâm can rối bời của nàng, có sưởi ấm được sự nguội lạnh hiu quạnh của nàng? Nó có hiểu được sức nặng của cô đơn, có từng biết sự nhung nhớ dồn nén đau đớn đến mức nào? Dĩ nhiên, ngọn đèn chỉ là một vật vô tri vô giác, nó làm sao hiểu được lòng người. Đối diện với điều đó, nàng vẫn muốn bày tỏ nỗi lòng của mình, hay đó chính là lời than thở, là hi vọng của nàng khiến nàng day dứt không yên?
Đèn có biết dường bằng chẳng biết
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi
Hình ảnh đèn được lặp lại hai lần như thể hiện sự giải tỏa tâm sự với ngọn đèn của người chinh phụ, nhưng một ngọn đèn vô tri vô giác làm sao hiểu rõ cảm giác cô đơn, buồn tủi ấy. Vậy nên, nàng chỉ có thể ôm mọi thứ gói vào lòng, để rồi nhìn ngọn đèn leo lét trong màn đêm tĩnh mịch, nỗi đau lại chồng thêm nỗi đau. Ngọn đèn là hình ảnh gợi nên sự sum họp, ấm áp của gia đình, nhưng với người chinh phụ, nó lại càng khắc sâu vào tim nàng nỗi cô đơn, khắc khoải, rối bời.
“Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương”
Người chinh phụ buồn rầu nói chẳng nên lời, nàng chả buồn nói, cũng chả muốn cười. Bên cạnh nàng giờ đây chỉ còn lại hoa đèn, cô đơn đến đáng thương.
Hoa đèn là hình ảnh kết thúc cho tám câu thơ đầu tiên của đoạn trích. có lẽ chính lòng nàng đang cháy đến tàn đỏ như hoa đèn kia. Trong bóng đêm phủ bởi sự im lặng dằng dặc, người chinh phụ chỉ có thể tâm sự, trò chuyện với ngọn đèn, với cái bóng của chính mình. Phải cô đơn, đau đớn đến bao nhiêu thì mới phải tìm đến những thứ vô tri vô giác mà trải lòng mình?
Qua đoạn trích trên, tác giả đã sử dụng một cách tài tình bút pháp nghệ thuật ước lệ, kết hợp thể thơ song thất lục bát cùng giọng thơ nhẹ nhàng tha thiết, nhịp điệu chậm rãi đã đặc tả được tâm trạng của người chinh phụ với những mạch cảm xúc và cung bậc khác nhau. Từ đó, nỗi cô đơn cùng lòng thương nhớ chồng da diết đã bùng cháy khát khao cháy bỏng được sống hạnh phúc trọn vẹn bên người mình thương.
Đặc biệt, đoạn trích đã mang đến những giá trị nhân văn cao đẹp khi lên án cuộc chiến tranh phi nghĩa cùng những khuôn phép hà khắc của phong kiến đã tước đoạt đi quyền được hạnh phúc của rất nhiều người phụ nữ xưa.
Giới thiệu tuyển tập 🌹 Phân Tích Bạch Đằng Giang Phú 🌹 15 Bài Văn Hay Nhất
Phân Tích Đoạn Trích Tình Cảnh Lẻ Loi 8 Câu Đầu Mở Rộng – Mẫu 9
Tham khảo bài văn phân tích đoạn trích Tình cảnh lẻ loi 8 câu đầu mở rộng dưới đây để có thêm cho mình những liên hệ hay giúp bài viết sâu sắc và ấn tượng hơn.
Thân phận người phụ nữ luôn là đề tài muôn thuở trong các tác phẩm văn học Việt Nam.Nếu “Truyện Kiều” của Nguyễn Du là lời than về số phận bạc mệnh của Kiều thì “Chinh phụ ngâm” của Đặng trần Côn lại là nỗi sầu của người chinh phụ khi phải xa chồng trong thời kỳ chiến tranh loạn lạc. Với bản diễn nôm rất thành công của Đoàn Thị Điểm “Chinh phụ ngâm” đã trở thành một trong những tác phẩm tiêu biểu của nền văn học trung đại Việt Nam.
Đọc tác phẩm này, nhất là đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ”, chắc chắn không ai có thể quên được 8 câu đầu của đoạn trích với nghệ thuật “tả cảnh ngụ tình” vô cùng đặc sắc. Đoạn thơ đã diễn tả nỗi cô đơn buồn tủi trong cảnh khắc khoải chờ chồng của người chinh phụ một cách sâu sắc.
“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen
Ngoài rèm thước chẳng mách tin
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng
Đèn có biết dường bằng chẳng biết
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi
Buồn rầu chẳng nói nên lời
Hoa đèn kia với bóng người khá thương”
Đoạn thơ đã mở ra trước mắt người đọc một không gian chật hẹp, nơi thềm hiên vắng lặng, nơi mà người chinh phụ đang cố gắng vượt qua sự cô đơn trống vắng khi người chồng đã đi xa. Bằng cách sử dụng điêu luyện nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, Đặng Trần Côn đã vẽ nên bức tranh tâm trạng đầy xúc động, thể hiện nỗi sầu của người chinh phụ cũng như bút pháp tinh tế của ông trong việc miêu tả nội tâm nhân vật.
Đúng như nhan đề của tác phẩm, đoạn thơ là tâm trạng cô đơn trống vắng của người chinh phụ. Sau khi tiễn chồng ra trận nàng trở về trong nỗi chờ mong khắc khoải:
“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen”
Trong đêm thanh vắng quạnh hiu này, chỉ có tiếng bước chân của nàng, một mình đối diện với chính mình. Bước chân ấy đi đi lại lại trên hiên nhưng có lẽ tâm trí nàng đang chìm đắm trong miên man. Mỗi bước chân là một nỗi nhớ, mỗi bước chân là một nỗi lo, tất cả đang làm cho tâm trạng nàng nặng trĩu lo âu và thương nhớ người chồng đang chinh chiến ở ải xa.
Người chinh phụ hết đi đi lại lại, rồi lại buông rèm, cuốn rèm không biết bao nhiêu lần… Đây là những động tác, cử chỉ và hành động được lặp lại nhiều lần mà không hề có mục đích của người chinh phụ . Phải chăng nó chỉ để biểu lộ tâm trạng cô đơn lẻ loi của nàng mà không biết san sẻ cùng ai:
“Ngoài rèm thước chẳng mách tin
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng
Đèn có biết dường bằng chẳng biết
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi”
Nếu như ở câu trước người chinh phụ “ngồi rèm thưa” để ngóng đợi tin chồng,thì ở câu thơ này người chinh phụ ngóng con chim thước- mong được báo tin lành nhưng chẳng thấy. Nàng lại quay về với không gian chật hẹp của căn phòng, nơi mà nàng đối diện với bóng mình, đối diện với ngọn đèn khuya hiu hắt. Nhưng thật trớ trêu, đền dù sao chỉ là một vật vô tri vô giác, có biết cũng như không câu hỏi tu từ “Đèn có biết.. chẳng biết” là một lời than thở, là nỗi khắc khoải chờ đợi và hy vọng trong nàng day dứt không yên.
Tâm trạng của người chinh phụ đã chuyển giọng tự nhiên từ lời kể bên ngoài thành lời tự độc thoại nội tâm, da diết, dằn vặt và ngậm ngùi nàng quả là một người đáng thương! Hình ảnh ngọn đèn hoa đèn cùng với hình ảnh cái bóng trên tường gợi cho người đọc nhớ đến những ngọn đèn không tắt trong nỗi nhớ của người thiếu nữ trong bài ca dao quen thuộc:
“Đèn thương nhớ ai
Mà đèn chẳng tắt
Mắt thương nhớ ai
Mắt ngủ không yên”
Trong đêm vắng chỉ có ngọn đèn có ánh sáng, nó càng làm nổi bật đêm tối mênh mang và nỗi cô đơn dường như nhân lên gấp bội trong lòng người thiếu phụ. Người phụ nữ như chìm đắm vào trong đêm tối mênh mông, trong lo âu chờ đợi. Những ngày tháng bên chồng đối với người chinh phụ là một quá khứ tươi đẹp nhưng lại thật ngắn ngủi chóng vánh.
Với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình điêu luyện, cảnh mang hồn người cảnh và tình hòa hợp sống động, Đặng Trần Côn đã khắc họa nên hình ảnh người thiếu phụ đang cố gắng thoát khỏi nỗi cô đơn trống trải trong thương nhớ, mỏi mòn mà không biết chia sẻ cùng ai.
Đoạn thơ nói về tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ cũng như toàn bộ tác phẩm “Chinh phụ ngâm” là tiếng kêu thương của người chinh phụ chờ chồng, nhớ thương chồng chinh chiến nơi ải xa. Cuộc chiến tranh phi nghĩa đã đẩy bao chàng trai ra trận và bao nhiêu số phận người phụ nữ phải héo hon chờ chồng. Phản ánh hiện thực xã hội này, Đặng Trần Côn đã khẳng định giá trị nhân văn cao cả của tác phẩm cũng như thái độ cảm thông chia sẻ của tác giả đối với nỗi đau của người phụ nữ thời phong kiến.\
Gửi tặng bạn 💕 Phân Tích Bình Ngô Đại Cáo 💕 18 Bài Văn Ngắn Gọn Hay Nhất
Phân Tích 8 Câu Đầu Chinh Phụ Ngâm Ngắn Hay – Mẫu 10
Bài văn phân tích 8 câu đầu Chinh phụ ngâm ngắn hay dưới đây sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích dành cho các em học sinh.
Chinh Phụ Ngâm là một trong những tác phẩm văn học trung đại xuất sắc nhất trong lịch sử văn học Việt Nam mà ở đó, lồng ghép những mạch cảm xúc, câu chuyện thấm đẫm nỗi bi thương về thân phận người phụ nữ thời kỳ lúc bấy giờ, đồng thời gián tiếp miêu tả chân thực bức tranh hiện thực xã hội cay đắng, bất công.
“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.”
Không gian hiên vắng, ngay từ những vần thơ đầu đã gieo vào lòng người đọc những cảm nhận u buồn, kết hợp với các động từ như “dạo, gieo từng bước”, cho thấy những bước chân nặng nề mang đầy tâm trạng bâng khuâng, lo lắng, bồn chồn, thấp thỏm của người phụ nữ dưới mái hiên nghèo, những ngày động cứ lặp lại vô nghĩa, càng thể hiện sự hoang hoải và trống rỗng trong tâm trí. Và rồi dường như, nhân vật đang phân tâm để đối thoại độc thoại với chính mình, mà lại vừa có cảm giác như một lời trách móc:
“Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng.
Đèn có biết dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.”
Bắt đầu từ đây, người chinh phụ bộc lộ nỗi lòng cô đơn và sự nhớ mong, nhớ thương khôn xiết đến người chinh phụ nơi chiến trận phương xa. Nàng không chỉ mang nỗi nhớ đơn thuần, mà còn mang trong lòng sự khắc khoải khôn nguôi, trằn trọc khi không nhận được tin tức về người chinh phụ.
Hình ảnh chim thước – loài vật báo tin tốt lành xuất hiện chính là sự minh họa rõ nhất cho nỗi lòng ấy. Nghệ thuật đối lập “ngoài rèm” và “trong rèm” để cho thấy nỗi cô đơn ấy bao trùm mọi không gian, thậm chí lan thấm vào nhuốm vào màu không gian một sắc buồn ảm đạm. Càng nhớ, càng mong mỏi được giãi bày, và ngọn đèn trở thành người tri kỉ trong vò võ cô đơn để người chinh phụ tâm sự.
Ca dao xưa đã từng có bài ca dao khăn thương nhớ ai, cũng miêu tả hoàn cảnh của người phụ nữ trong vò võ đêm trường, một mình bầu bạn với ngọn đèn khuya, chính ngọn đèn khuya leo lét, lạnh lẽo càng nhấn mạnh thêm tình cảnh trơ trọi lẻ loi của người chinh phụ:
“Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương.”
Người chinh phụ tự thương cho thân phận mình, bỗng nhận thấy trong bóng đèn dầu kia phản chiếu lên bức tường với số phận, thân phận mình như nhập hòa làm một, nỗi buồn mượn ngọn đèn để san sẻ nhưng cũng chẳng thể thỏa nỗi nhớ mong, niềm khát khao đồng điệu.
8 câu thơ đầu bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, tác giả đã lột tả một cách sống động chân thực cảm xúc cô đơn và nỗi nhớ thương khắc khoải đến quặn thắt của người chinh phụ, đồng thời qua đó gián tiếp vạch trần tội ác của chế độ chiến tranh phi nghĩa năm xưa, khiến gia đình phải tan tác, đau thương.
Ngoài ra, tại SCR.VN còn có 🌺 Phân Tích Hồi Trống Cổ Thành 🌺 11 Bài Văn Hay Nhất
Phân Tích Bài Tình Cảnh Lẻ Loi 8 Câu Đầu Đơn Giản – Mẫu 11
Tham khảo dưới đây bài văn mẫu phân tích bài Tình cảnh lẻ loi 8 câu đầu đơn giản với những ý văn ngắn gọn và súc tích.
Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ trích trong “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn là một áng thơ hay thuộc thể ngâm khúc, hơn hết đoạn trích còn để lại cho hậu thế một giá trị hiện thực vô cùng sâu sắc. Đặc biệt chính là tâm trạng hiu quạnh cô đơn của người chinh phụ trong 8 câu thơ đầu tiên.
Hai câu thơ đầu, Đặng Trần Côn tâm trạng của người chinh phụ đã được khắc họa qua các hình động:
“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.”
Tiếng than đầy oán trách của người phụ nữ vắng bóng chồng, khi chồng phải ra chiến trận, chính cái hành động lặp đi lặp lại “gieo từng bước”, “rèm thưa rủ” việc miêu tả các hành động ngoại hình mà dụng ý chính của tác giả chính là miêu tả tâm trạng cô đơn trống vắng, nỗi nhớ da diết chồng của người chinh phụ.
Khung cảnh là buổi chiều tối, với một hiên vắng hành động lặp đi lặp lại “gieo từng bước” đầy mệt mỏi như muốn nói lên cái chờ đợi cái trống vắng lặp đi lặp lại của người phụ nữ xa chồng. Hành động gieo từng bước như nỗi lòng nặng trĩu mong ngóng ngày người chồng trở về.
“Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen” chiếc rèm cuốn lên hạ xuống như vô thức thể hiện một trạng thái tâm lí buồn bã, chán chường. Cảm giác bất an lo lắng cho người chồng ngoài chiến trận vừa là nỗi nhớ tha thiết, cảm xúc dồn nén càng làm cho người chinh phụ trở nên buồn bã, ngóng trông nhiều hơn, nhưng:
“Ngoài rèm thước chẳng mách tin”
Chờ đợi nhưng chẳng thấy tin? Chim “thước” là biểu tượng của điềm lành sẽ có người đi xa trở về. Thế nhưng chả thấy hình bóng của chim thước để baso tin nỗi nhớ đầy rẫy khắc khoải, ngóng chờ một tín hiệu dù chỉ là nhỏ nhoi nhưng không có càng làm người nỗi buồn người chinh phụ càng tăng lên bội phần. Nhưng trong khung cảnh đau buồn này thì chỉ có ngọn đèn leo lét làm bạn với nàng.
“Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?”
Sự cô đơn đến cùng cực đã làm cho người chinh phụ phải thốt lên “Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?” Ngọn đèn có thể soi sáng nỗi lòng của nàng người phụ nữ không, có rọi sáng được sự nhớ nhung của nàng dành cho chồng, hai câu thơ tiếp theo lại càng diễn tả thêm sự ưu phiền của người chinh phụ:
“Đèn có biết dường bằng chẳng biết
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi”
Tác giả sử dụng điệp ngữ “Đèn biết chăng – đèn có biết” càng làm cho nỗi cô đơn của người phụ nữ kéo dài ra, triền miên ra. Hình ảnh ngọn đèn được sử dụng hai lần như thể là nỗi trút bầu tâm sự của nhân vật trữ tình , ngọn đèn là vật vô tri nó chăng thể hiểu được nỗi lòng của người phụ nữ, nó chỉ có tasc dụng là giải toải tâm trạng cho người chinh phụ mà thôi. Nhìn ngọn đèn heo hắt trong đêm tối càng làm lòng người thêm ưu phiền mà thô. Ngọn đèn sáng ấm áp thể hiện cái đối nghịch của sự cô đơn, rầu rĩ:
“Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương”
Câu thơ thứ tám kết lại là hình ảnh hoa đèn, như thế nỗi nhớ nhung cứ đọng lại, dồn nén lại, đỏ rực như bấc đèn nung nóng, ánh sáng lên như hoa. Trong bóng đêm đen như mực người chinh phụ chỉ biết trút bầu tâm sự với ngọn đèn, với cái bóng của chính mình in lên tường cho vơi đi nỗi cô đơn nỗi nhớ chồng da diết mà thôi.
Tám câu thơ đầu trong đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” đã cho người đọc thấy được tâm trạng của người phụ nữ, cùng khung cảnh hiu quạnh, cô đơn của người phụ nữ phải xa chồng, tất cả do chiến tranh đã khiến những cặp vợ chồng son phải xa nhau trong nhớ thương, các biện pháp tu từ đã khắc họa nên bao nỗi ưu sầu, nỗi cô đơn trống trải của những người ở lại chờ tin người đi xa.
Gợi ý cho bạn ☔ Phân Tích Hoàng Hạc Lâu Của Thôi Hiệu ☔ 8 Bài Hay Nhất
Phân Tích Chinh Phụ Ngâm Lớp 10 8 Câu Đầu – Mẫu 12
Với bài văn mẫu phân tích Chinh phụ ngâm lớp 10 8 câu đầu dưới đây, các em học sinh có thể tham khảo những gợi ý hay và linh hoạt vận dụng khi làm bài.
“Chinh phụ ngâm khúc” bằng chữ Hán của Đặng Trần Côn, một danh sĩ hiếu học, tài ba sống vào khoảng nửa đầu thế kỉ XVIII, là một kiệt tác trong nền văn học cổ điển Việt Nam – đã được sự hóa thân kì diệu qua bản tương truyền của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm.
Đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” là sự thể hiện sâu sắc nhất cảm hứng nhân đạo và nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của áng thơ “Chinh phụ ngâm khúc”. Câu thơ nào cũng đầy ắp tâm trạng nhớ nhung sầu muộn của nàng chinh phụ, nhất là tám câu đầu đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ”:
“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
Ngoài rèm thước chẳng mách tin
Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?
Đèn có biết dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương.”
Ngôi nhà, phòng khuê giờ đây trở nên thật tối tăm, chật chội. Người vợ trẻ dường như đã chờ chồng từ lâu lắm rồi. Nàng luôn khắc khoải mong chờ chồng, nỗi cô đơn như bao trùm lấy nàng:
“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
Ngoài rèm thước chẳng mách tin
Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?”
Nàng dường như quên hết mọi thứ xung quanh. Cái cô đơn, khắc khoải ở trong tâm trí đã len lỏi, gậm nhấm nàng để rồi nó hiện thành hình hài qua dáng vẻ thơ thơ, thẩn thẩn như người mất hồn. Nhịp thơ chậm gợi cảm giác như thời gian ngưng đọng. Giữa không gian tịch mịch, tiếng bước chân như gieo vào lòng người âm thanh lẻ loi, cô độc
Dáng vẻ ủ ê, ngao ngán, bề ngoài gầy gò khắc sâu, hằn nếp nỗi đau trong tim nàng thật bơ bơ, lạc lõng, lại đáng thương quá đỗi. Nàng biết làm gì đây khi ngày lại tiếp ngày, đêm lại tàn đêm trong nỗi nhớ mong vô vọng. Hết ngồi lại đứng, hết đứng lại đi, tâm trạng bồn chồn, buông rèm xuống lại kéo rèm lên, chỉ một mình một bóng giữa đêm khuya.
Đã lâu lắm rồi “thước chẳng mách tin” không có một lá thư, cũng không có người thân qua lại. Nội tâm của nhân vật gần như được lột tả trọn vẹn từ dáng vẻ bên ngoài đến những xáo trộn bên trong. Đáp lại cho những mong mỏi của nàng chỉ có một sự im lặng, im lặng đến rợn người. Nàng không khóc mà ta như cảm được bao dòng lệ chứa chan tủi hờn đã cạn, đã thấm sâu vào nỗi buồn mênh mang không lối thoát.
“Sầu ôm nặng hãy chồng làm gối
Muộn chứa đầy hãy thổi thành cơm.”
Trong sự cô đơn, lẻ loi người chinh phụ lại càng mong có người đồng cảm và chia sẻ tâm tình. Có ai hay cho cảnh biệt li não nề này? Không ai cả! Chỉ có một mình nàng trong canh vắng, nàng chỉ có người bạn duy nhất là ngọn đèn vô tri vô giác.
Phải chăng tác giả đưa ánh đèn đến cùng nàng để mong xua bớt cái tịch liêu của đêm tối hay cũng chính là cõi lòng tan nát của nàng? Có thể như vậy. Nhưng ta còn thấy gì sau hình ảnh đó? Một chiếc đèn khuya in bóng dáng lẻ loi của một người con gái trong canh trường liệu có xua tan được phần nào sự cô tịch của đêm? Hay nó càng khoắc khoải sâu hơn nữa cái hình ảnh đáng thương đó.
Tả đèn chính là để tả không gian mênh mông và sự cô đơn của con người. Biện pháp này khá phổ biến trong thơ xưa, mang tính biểu cảm cao: ”Đèn thương nhớ ai mà đèn không tắt”. Hình ảnh đèn ở đây được nhắc đến liên tiếp trong ba câu thơ là vì vậy. Nhìn ngọn đèn cháy năm canh, dầu đã cạn, bấc đã tàn, nàng chợt liên tưởng đến tình cảnh của mình và trong lòng rưng rưng nỗi thương thân trách phận. Thương cho đèn rồi lại thương cho lòng mình bi thiết:
“Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương.”
Về nghệ thuật, với thể thơ song thất lục bát, cách dùng từ, hình ảnh ước lệ, đoạn thơ đã thể hiện một cách tinh tế các cung bậc sắc thái tình cảm khác nhau của nỗi cô đơn buồn khổ của người chinh phụ luôn khao khát được sống trong tình yêu và hạnh phục lứa đôi. Về nội dung, đoạn trích cũng thể hiện tấm lòng thương yêu và cảm thông sâu sắc của tác giả với khát khao hạnh phúc chính đáng của người chinh phụ, cất lên tiếng kêu nhân đạo, phản đối chiến tranh phong kiến phi nghĩa.
Qua đoạn thơ, ta cảm nhận chất nhạc lôi cuốn trong thơ song thất lục bát, khả năng lớn lao của tiếng Việt trên lĩnh vực trữ tình. Đoạn thơ giàu giá trị nhân văn, đã thể hiện sâu sắc và cảm động sự oán ghét chiến tranh phong kiến và niềm khao khát tình yêu, hạnh phúc lứa đôi của người chinh phụ giữa thời chiến tranh loạn lạc trong xã hội cũ.
Đọc nhiều hơn 🌻 Phân Tích Cảm Xúc Mùa Thu 🌻 15 Bài Phân Tích Thu Hứng Hay
Phân Tích 8 Câu Đầu Tình Cảnh Lẻ Loi Facebook – Mẫu 13
Chia sẻ dưới đây bài văn phân tích 8 câu đầu tình cảnh lẻ loi Facebook giúp các em học sinh có thêm cho mình tư liệu tham khảo phong phú hơn.
Phải chăng trong bất cứ cuộc chia ly nào thì người ở lại cũng là người đau khổ nhất. Nền văn học Việt Nam đã chứng kiến biết bao cuộc chia ly trong lịch sử, đặc biệt ở thế kỉ XVIII, Đặng Trần Côn đã lấy bối cảnh cuộc chia ly đầy lưu luyến, bi thương của người phụ nữ phải xa chồng trong thời gian dài, chờ tin chồng ra trận trở về với khao khát hạnh phúc lứa đôi qua khúc ngâm “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ”.
Đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” đã miêu tả những cung bậc và sắc thái khác nhau của nỗi cô đơn ở người chinh phụ với khao khát được sống trong tình yêu, trong hôn nhân hạnh phúc gia đình.
Ở 8 câu thơ đầu, nhà thơ đã miêu tả nỗi cô đơn, lẻ loi của người chinh phụ khi chờ tin chồng ở nơi chiến trận:
“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?
Đèn có biết dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương.
Giữa không gian tĩnh mịch và vắng vẻ, người phụ nữ bồn chồn, thấp thỏm chờ tin chồng chính là hiện thân của nỗi cô đơn. Nếu tiếng yêu thúc giục nàng Kiều “Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” thì ở đây, trước hiên vắng người phụ nữ lại “thầm gieo từng bước”. Không gian mà thi sĩ gợi ra ở đây chính là “hiên vắng” nhỏ hẹp trước nhà. Nàng lo lắng, đi đi lại lại như muốn gieo rắc vào lòng người đọc những thanh âm của sự cô đơn, lẻ bóng.
Mặc dù xuất hiện với hành động “dạo” thế nhưng những bước chân ấy có chút gì đó nặng nề để “thầm gieo từng bước”. Có lẽ, thẳm sâu trong tâm hồn người phụ nữ đó đang chất chứa những nỗi niềm, tâm sự được bộc lộ thành những hành động dường như vô thức, nàng buông rèm rồi lại kéo rèm: “Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.”
Hành động đó cho thấy người chinh phụ như đang trông ngóng tin tức của chồng ở nơi biên ải xa xôi nhưng nàng đều nhận lại được sự im lặng đến đáng sợ. Dù trong bất cứ tư thế nào thì những tình cảm thương nhớ ấy cũng không khỏi khắc khoải, thường trực trong tâm hồn người chinh phụ.
Hành động “rủ”, “thác” ấy lại gợi nhắc đến sự nhớ mong trong vô hạn. Nàng cuốn rèm với sự chờ đợi, mong ngóng con “chim thước” ở “ngoài rèm” sẽ đem đến tin vui cho nàng về người chồng đang chinh chiến nơi chiến trường. Nỗi nhớ của người chinh phụ được bộc lộ qua nhiều chiều không gian khác nhau, không chỉ ở “ngoài rèm” mà cả ở “trong rèm”. Thế giới nội tâm của nàng nhuốm màu sắc tâm trạng.
Người chinh phụ đã tự vấn mình rằng “Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?”. Trong nỗi bồn chồn khắc khoải ấy, người phụ nữ không biết chia sẻ cùng ai, đành bộc lộ những tâm tư tình cảm đó với một ngọn đèn leo lét “Đèn có biết dường bằng chẳng biết”. Nhà thơ đã sử dụng điệp ngữ bắc cầu “đèn biết chăng- đèn có biết” đã diễn tả tâm trạng buồn lê thê trong thời gian vô tận và không gian tĩnh mịch, cô đơn dường như không bao giờ kết thúc.
Đó là câu hỏi tu từ nhưng cũng là lời than thở, tự dằn vặt mình. Ngọn đèn đã chứng kiến và soi tỏ nỗi lòng của người chinh phụ, bởi “đèn” chính là người thức cùng, cùng người chinh phụ giãi bày tâm sự, nhớ mong. Nỗi buồn ấy không thể bộc lộ mà người phụ nữ chỉ muốn giữ riêng cho mình: “Lòng thiếp riêng bi thiếp mà thôi”.
Người phụ nữ cảm thấy cô đơn, trống trải trong chính căn phòng của mình bởi chính không gian chật hẹp, vắng vẻ nơi đây đã làm nàng gợi nhớ đến biết bao kỉ niệm quen thuộc. Thế nhưng để tìm được một người để có thể giúp nàng giãi bày tâm sự, lắng nghe nàng nói quả là một điều không phải dễ dàng. Nàng giữ riêng mình nàng biết, bởi có nói ra cũng đâu có ai hiểu được, đâu có ai đồng cảm với nàng.
Có lẽ, chính sự tương tư mong nhớ chồng cả ngày lẫn đêm đã làm cho người chinh phụ phải trằn trọc suốt cả đêm dài. Nàng cảm nhận được từng khoảnh khắc trôi qua, từng cảnh vật trong đêm khuya tĩnh lặng cùng nỗi cô đơn lẻ loi của mình.
Qua 8 câu đầu trong trích đoạn cảnh lẻ loi của người chinh phụ, Đặng Trần Côn đã diển tả thành công những cung bậc, sắc thái khác nhau của người chinh phụ, nỗi cô đơn, buồn thương. Qua đó diễn tả khát khao hạnh phúc lứa đôi, đây là nét mới trong chủ nghĩa nhân đạo của ông. Đồng thời cũng là lời tố cáo mạnh mẽ, đanh thép chiến tranh phong kiến phi nghĩa đã chia lìa hạnh phúc lứa đôi.
Có thể bạn sẽ thích 🌟 Phân Tích Độc Tiểu Thanh Ký 🌟 15 Bài Văn Ngắn Hay Nhất