Cảm Nhận 8 Câu Đầu Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ ❤️️ 26+ Mẫu Siêu Hay ✅Tuyển Tập Các Bài Văn Mẫu Đặc Sắc Cảm Nhận Về 8 Câu Đầu Tình Cảnh Lẻ Loi Người Chinh Phụ.
Dàn Ý Cảm Nhận 8 Câu Đầu Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ
Gợi ý mẫu dàn ý cảm nhận 8 câu thơ đầu Tình cảnh lẻ loi của Người chinh phụ chi tiết cho các em học sinh cùng tham khảo.
I. Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm, đoạn trích và 8 câu đầu của Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ.
II. Thân bài:
*Hành động của người chinh phụ
- Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
- Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen
- Người chinh phụ vừa đi vừa đếm bước chân mình, như đang đếm từng ngày xa chồng.
- Những bước chân của người chinh phụ tưởng như lặng lẽ, nhưng lại mang theo nỗi ưu phiền, lo lắng cho người chồng ở nơi chiến trường.
=> Đó là những bước chân nặng trĩu tâm tư, sự thương nhớ và nỗi xót xa.
– Người chinh phụ ngồi bên cửa sổ, hết buông lại cuốn rèm như một hành động vô thức, lặp đi lặp lại.
=> Nàng không ý thức được mình đang làm gì, vì đã dồn hết tâm tư, sự lo lắng, nhớ nhung cho người chồng nơi biên ải chẳng biết khi nào mới về.
- Tính từ “vắng”, “thưa” tạo nên sự trống trải cho không gian, tô đậm sự buồn tủi, cô đơn của người chinh phụ.
- Sử dụng từ “từng”, “đòi” càng nhấn mạnh sự lặp lại vô thức những hành động vô nghĩa của người chinh phụ.
=> Hành động của người chinh phụ thể hiện những ngổn ngang lo lắng, nỗi buồn phiền và tấm lòng son sắt mà nàng dành cho người chồng.
*Ngoại cảnh: 6 câu tiếp theo
- Chim thước: loài chim báo tin người đi xa trở về.
- Người chinh phụ ngóng trông bóng chim thước qua bức rèm thưa.
- Nhìn về thực tại với những nỗi nhớ, sự trông ngóng, ước muốn sum vầy đều xa vời, không được hồi âm, người chinh phụ càng thêm vô vọng.
- Khi đối diện với ánh đèn, người chinh phụ khao khát được yêu thương và sẻ chia, câu hỏi tu từ khi ngồi trước ngọn đèn dầu chính là một lời than thở, bày tỏ sự chán chường, cô đơn đan xen với tuyệt vọng.
- Hình ảnh ngọn đèn là một hình ảnh quen thuộc, xuất hiện nhiều trong các tác phẩm văn học trung đại.
- Trong đoạn trích, ngọn đèn được sử dụng để ẩn dụ cho thời gian trôi nhanh, ẩn dụ cho sự lụi tàn, héo hon của một kiếp người.
=> Cuộc đời như một kiếp hoa đèn mong manh dang dở.
*Hình ảnh chờ đợi của người chinh phụ
– Người chinh phụ thức trắng đêm cùng ngọn đèn vì xót xa cho tình cảnh của chính mình. Nhưng thời gian trôi qua, ngọn đèn cũng chẳng thức cùng nàng, chỉ để lại bóng dáng cô độc của người chinh phụ.
– Tính từ “bi thiết”, “buồn rầu”, “thương” thể hiện tâm trạng não nề của người chinh phụ:
- Bi thiết là bi thương, thảm thiết, là nỗi đau không thể nói thành lời, là khát khao được thấu hiểu, được sẻ chia nhưng lại chẳng có ai để cùng tâm sự.
- Thiết tha là cắt, mài (theo nghĩa Hán Việt): thể hiện nỗi đau chôn giấu tạo nên vết cắt sâu trong tâm khảm.
=> Nỗi đau. sự buồn tủi, khắc khoải của nàng mãi dồn nén trong tim, để rồi cứa vào trái tim cô đơn, khiến nỗi đau càng dày thêm theo từng ngày ngóng trông bóng người thương đang chinh chiến nơi chiến trường hiểm ác.
III. Kết bài: Nêu giá trị của đoạn trích cùng 8 câu đầu trong “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ”.
Cảm Nhận 8 Câu Đầu Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ Ngắn Gọn – Bài 1
Đầu tiên thì scr.vn xin gợi ý cho các em học sinh bài văn cảm nhận 8 câu đầu Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ ngắn gọn sau đây để cùng tham khảo.
Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ trích trong “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn là một áng thơ hay thuộc thể ngâm khúc, hơn hết đoạn trích còn để lại cho hậu thế một giá trị hiện thực vô cùng sâu sắc. Đặc biệt chính là tâm trạng hiu quạnh cô đơn của người chinh phụ trong 8 câu thơ đầu tiên.
Hai câu thơ đầu, Đặng Trần Côn tâm trạng của người chinh phụ đã được khắc họa qua các hình động:
“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.”
Tiếng than đầy oán trách của người phụ nữ vắng bóng chồng, khi chồng phải ra chiến trận, chính cái hành động lặp đi lặp lại “gieo từng bước”, “rèm thưa rủ” việc miêu tả các hành động ngoại hình mà dụng ý chính của tác giả chính là miêu tả tâm trạng cô đơn trống vắng, nỗi nhớ da diết chồng của người chinh phụ.
Khung cảnh là buổi chiều tối, với một hiên vắng hành động lặp đi lặp lại “gieo từng bước” đầy mệt mỏi như muốn nói lên cái chờ đợi cái trống vắng lặp đi lặp lại của người phụ nữ xa chồng. Hành động gieo từng bước như nỗi lòng nặng trĩu mong ngóng ngày người chồng trở về.
“Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen” chiếc rèm cuốn lên hạ xuống như vô thức thể hiện một trạng thái tâm lí buồn bã, chán chường. Cảm giác bất an lo lắng cho người chồng ngoài chiến trận vừa là nỗi nhớ tha thiết, cảm xúc dồn nén càng làm cho người chinh phụ trở nên buồn bã, ngóng trông nhiều hơn, nhưng:
“Ngoài rèm thước chẳng mách tin”
Chờ đợi nhưng chẳng thấy tin? Chim “thước” là biểu tượng của điềm lành sẽ có người đi xa trở về. Thế nhưng chả thấy hình bóng của chim thước để baso tin nỗi nhớ đầy rẫy khắc khoải, ngóng chờ một tín hiệu dù chỉ là nhỏ nhoi nhưng không có càng làm người nỗi buồn người chinh phụ càng tăng lên bội phần. Nhưng trong khung cảnh đau buồn này thì chỉ có ngọn đèn leo lét làm bạn với nàng.
Sự cô đơn đến cùng cực đã làm cho người chinh phụ phải thốt lên “Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?” Ngọn đèn có thể soi sáng nỗi lòng của nàng người phụ nữ không, có rọi sáng được sự nhớ nhung của nàng dành cho chồng, hai câu thơ tiếp theo lại càng diễn tả thêm sự ưu phiền của người chinh phụ:
“Đèn có biết dường bằng chẳng biết
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi”
Tác giả sử dụng điệp ngữ “Đèn biết chăng – đèn có biết” càng làm cho nỗi cô đơn của người phụ nữ kéo dài ra, triền miên ra. Hình ảnh ngọn đèn được sử dụng hai lần như thể là nỗi trút bầu tâm sự của nhân vật trữ tình , ngọn đèn là vật vô tri nó chăng thể hiểu được nỗi lòng của người phụ nữ, nó chỉ có tasc dụng là giải toải tâm trạng cho người chinh phụ mà thôi. Nhìn ngọn đèn heo hắt trong đêm tối càng làm lòng người thêm ưu phiền mà thô. Ngọn đèn sáng ấm áp thể hiện cái đối nghịch của sự cô đơn, rầu rĩ:
“Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương”
Câu thơ thứ tám kết lại là hình ảnh hoa đèn, như thế nỗi nhớ nhung cứ đọng lại, dồn nén lại, đỏ rực như bấc đèn nung nóng, ánh sáng lên như hoa. Trong bóng đêm đen như mực người chinh phụ chỉ biết trút bầu tâm sự với ngọn đèn, với cái bóng của chính mình in lên tường cho vơi đi nỗi cô đơn nỗi nhớ chồng da diết mà thôi.
Tám câu thơ đầu trong đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” đã cho người đọc thấy được tâm trạng của người phụ nữ, cùng khung cảnh hiu quạnh, cô đơn của người phụ nữ phải xa chồng, tất cả do chiến tranh đã khiến những cặp vợ chồng son phải xa nhau trong nhớ thương, các biện pháp tu từ đã khắc họa nên bao nỗi ưu sầu, nỗi cô đơn trống trải của những người ở lại chờ tin người đi xa.
Tham khảo👉Cảm Nhận Về Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ ❤️️ 15 Mẫu
Cảm Nhận Về 8 Câu Thơ Đầu Của Bài Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ Hay Nhất – Bài 2
“Cảm nhận về 8 câu thơ đầu của bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ hay nhất” – với bài văn mẫu này các em học sinh sẽ phần nào hiểu rõ hơn về giá trị nhân đạo và lòng thương người mà tác giả dành cho người phụ nữ trong xã hội xưa.
“Chinh phụ ngâm khúc” bằng chữ Hán của Đặng Trần Côn – một danh sĩ hiếu học, tài ba sống vào khoảng nửa đầu thế kỉ XVIII, là một kiệt tác trong nền văn học cổ điển Việt Nam – đã được sự hóa thân kì diệu qua bản tương truyền của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm.
Đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” là sự thể hiện sâu sắc nhất cảm hứng nhân đạo và nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của áng thơ “Chinh phụ ngâm khúc”. Câu thơ nào cũng đầy ắp tâm trạng nhớ nhung sầu muộn của nàng chinh phụ, nhất là tám câu đầu đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ”:
“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
Ngoài rèm thước chẳng mách tin
Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?
Đèn có biết dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương.”
Ngôi nhà, phòng khuê giờ đây trở nên thật tối tăm, chật chội. Người vợ trẻ dường như đã chờ chồng từ lâu lắm rồi. Nàng luôn khắc khoải mong chờ chồng, nỗi cô đơn như bao trùm lấy nàng:
“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
Ngoài rèm thước chẳng mách tin
Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?”
Nàng dường như quên hết mọi thứ xung quanh. Cái cô đơn, khắc khoải ở trong tâm trí đã len lỏi, gậm nhấm nàng để rồi nó hiện thành hình hài qua dáng vẻ thơ thơ, thẩn thẩn như người mất hồn. Nhịp thơ chậm gợi cảm giác như thời gian ngưng đọng. Giữa không gian tịch mịch, tiếng bước chân như gieo vào lòng người âm thanh lẻ loi, cô độc. Dáng vẻ ủ ê, ngao ngán, bề ngoài gầy gò khắc sâu, hằn nếp nỗi đau trong tim nàng thật bơ bơ, lạc lõng, lại đáng thương quá đỗi.
Nàng biết làm gì đây khi ngày lại tiếp ngày, đêm lại tàn đêm trong nỗi nhớ mong vô vọng. Hết ngồi lại đứng, hết đứng lại đi, tâm trạng bồn chồn, buông rèm xuống lại kéo rèm lên, chỉ một mình một bóng giữa đêm khuya.
Đã lâu lắm rồi “thước chẳng mách tin” không có một lá thư, cũng không có người thân qua lại. Nội tâm của nhân vật gần như được lột tả trọn vẹn từ dáng vẻ bên ngoài đến những xáo trộn bên trong. Đáp lại cho những mong mỏi của nàng chỉ có một sự im lặng, im lặng đến rợn người. Nàng không khóc mà ta như cảm được bao dòng lệ chứa chan tủi hờn đã cạn, đã thấm sâu vào nỗi buồn mênh mang không lối thoát.
“Sầu ôm nặng hãy chồng làm gối
Muộn chứa đầy hãy thổi thành cơm.”
Trong sự cô đơn, lẻ loi người chinh phụ lại càng mong có người đồng cảm và chia sẻ tâm tình. Có ai hay cho cảnh biệt li não nề này? Không ai cả! Chỉ có một mình nàng trong canh vắng, nàng chỉ có người bạn duy nhất là ngọn đèn vô tri vô giác. Phải chăng tác giả đưa ánh đèn đến cùng nàng để mong xua bớt cái tịch liêu của đêm tối hay cũng chính là cõi lòng tan nát của nàng? Có thể như vậy. Nhưng ta còn thấy gì sau hình ảnh đó?
Một chiếc đèn khuya in bóng dáng lẻ loi của một người con gái trong canh trường liệu có xua tan được phần nào sự cô tịch của đêm? Hay nó càng khoắc khoải sâu hơn nữa cái hình ảnh đáng thương đó. Tả đèn chính là để tả không gian mênh mông và sự cô đơn của con người.
Biện pháp này khá phổ biến trong thơ xưa, mang tính biểu cảm cao: ”Đèn thương nhớ ai mà đèn không tắt”. Hình ảnh đèn ở đây được nhắc đến liên tiếp trong ba câu thơ là vì vậy. Nhìn ngọn đèn cháy năm canh, dầu đã cạn, bấc đã tàn, nàng chợt liên tưởng đến tình cảnh của mình và trong lòng rưng rưng nỗi thương thân trách phận. Thương cho đèn rồi lại thương cho lòng mình bi thiết:
“Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương.”
Về nghệ thuật, với thể thơ song thất lục bát, cách dùng từ, hình ảnh ước lệ, đoạn thơ đã thể hiện một cách tinh tế các cung bậc sắc thái tình cảm khác nhau của nỗi cô đơn buồn khổ của người chinh phụ luôn khao khát được sống trong tình yêu và hạnh phục lứa đôi. Về nội dung, đoạn trích cũng thể hiện tấm lòng thương yêu và cảm thông sâu sắc của tác giả với khát khao hạnh phúc chính đáng của người chinh phụ, cất lên tiếng kêu nhân đạo, phản đối chiến tranh phong kiến phi nghĩa.
Qua đoạn thơ, ta cảm nhận chất nhạc lôi cuốn trong thơ song thất lục bát, khả năng lớn lao của tiếng Việt trên lĩnh vực trữ tình. Đoạn thơ giàu giá trị nhân văn, đã thể hiện sâu sắc và cảm động sự oán ghét chiến tranh phong kiến và niềm khao khát tình yêu, hạnh phúc lứa đôi của người chinh phụ giữa thời chiến tranh loạn lạc trong xã hội cũ.
Khám phá thêm👉 Cảm Nhận Độc Tiểu Thanh Kí ❤️️12 Bài Văn Ngắn Hay Nhất
Cảm Nhận 8 Câu Đầu Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ Chi Tiết – Bài 3
Hướng dẫn các em cách Nêu cảm nhận 8 câu đầu tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ chi tiết thông qua bài mẫu dưới đây, nó sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích dành cho các em học sinh trong quá trình ôn tập.
Đặng Trần Côn là một danh sĩ, nhà thơ kiệt xuất của nền văn học Cổ Điển. Trong đó, tác phẩm “Chinh phụ ngâm khúc” là một trong những tuyệt tác của ông được viết bằng chữ Hán. Tác phẩm đã được dịch bởi nữ danh sĩ Đoàn Thị Điểm và trở nên nổi tiếng trong giới văn thơ. Trong đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” – một đoạn trích được đánh giá hay nhất thể hiện những tâm sự , nỗi nhớ của người Chinh phụ và hơn hết còn mang giá trị nhân đạo sâu sắc, đặc biệt 8 câu thơ đầu bài.
Mở đầu 4 câu trước:
Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
Ngoài rèm thước chẳng mách tin
Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?”
Qua khổ thơ ta cảm nhận rằng, người phụ nữ đang cô đơn buồn bã vô cùng. Căn phòng tưởng chừng như rất rộng khi chỉ còn người chinh phục sống. Nó trở nên tù túng, tăm tối và cô đơn khắc khoải khiến ta hình dung lên hình ảnh người vợ đang cô đơn nhớ chồng. Căn phòng lẽ ra đang rộn rã tiếng vui đùa, hạnh phúc vậy mà giờ đây chỉ im ắng.
Sự chờ đợi đã khiến cho người vợ tiễn chồng ra chiến trận tưởng chừng như nhiều kiếp trôi qua. Có khá nào như đá vọng phù, chờ mãi chờ mãi mà người không về. Câu thơ: “Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước “ cho thấy sự mệt mỏi não nề, bước chân nặng nề đến độ không muốn nhấc lên, chỉ “gieo” từng bước thê lương, dù không muốn vẫn phải bước đi để chờ đợi. Giọng thơ chầm chậm, nhẹ nhàng như đúng tâm trạng u buồn của người vợ.
Không gian “hiên vắng” càng tĩnh lặng lại càng làm cho tình cảm thêm thê lương hơn. “Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen”. Ngoài hiên vắng một mình dạo bước cô đơn là thế, về đến phòng lại càng cô đơn hơn. Chiếc rèm cứ kéo lên, rồi lại kéo xuống, ngày qua ngày vẫn không thấy chồng, lòng nàng chỉ một hướng cho chàng nhưng cô đơn quá đỗi vì “cảnh xưa còn đó mà người xưa đâu rồi!?”.
Nhưng, sự chờ đợi vẫn không có hồi âm. Nếu người ta nói “đợi chờ là hạnh phúc” có lẽ đó là trong một hoàn cảnh nào đó đặc biệt, một hoàn cảnh mà người ta biết sự đợi chờ có hồi đáp. Còn với người vợ chờ chồng nơi chiến trận thì cô đơn đến tê dại lòng, càng ngóng lại càng xa. Đến nỗi : “Ngoài rèm thước chẳng mách tin/ Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?” Sự chờ đợi lâu lắm, lâu đến cùng cực mà mãi cũng không nghe thấy tin tức gì, chút hi vọng gì. Ngồi trước ngọn đèn chỉ biết ngóng trông.
Đèn có biết dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hình ảnh chiếc đèn lại trở nên vô cùng quan trọng trong khổ thơ đầu của bài thơ. Tại sao vậy? Tại vì nó chính là người bạn tri kỉ của người vợ lúc này. Khi người chồng ra trận không biết khi nào mới trở về, sự cô đơn khiến người vợ muốn tìm đến một người để sẻ chia tâm trạng. Nhưng nàng lại không có ai, sự hà khắc của xã hội phong kiến khiến người phụ nữ chỉ biết đến gia đình chồng, hết lòng cho gia đình chồng và “xuất giá tòng phu”. Nào dám kết bạn với ai xa. Nào dám sẻ chia với ai.
Vậy chăng, chỉ có ngọn đèn kia tưởng vô tri vô giác mà lại có thể thấu hiểu tâm tình người chinh phụ, có thể giúp cho người vợ sẻ chia được những cô đơn trong lòng. Nàng tự hỏi rằng, liệu ngọn đèn kia có hiểu được tấm lòng chung thủy của nàng, có hiểu được sự chịu đựng nỗi nhớ nhung của nàng. Nỗi nhớ nhung đến đau lòng : “Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi”.
Hình ảnh chiếc đèn hiện lên chứng minh cho sự cô đơn lẻ loi của người chinh phụ, đến nỗi, nàng buồn rầu mà chẳng thể giãi bày:
“Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương.”
Buồn quá đến nỗi nàng chẳng buồn nói, chẳng buồn cười, nàng chỉ có mình với mình với hoa đèn đáng thương mà thôi. Hoa đèn chính là tàn của bấc đèn, bấc đèn vẫn còn được nung đỏ sáng rực cũng như lòng nàng đáng cháy đến tàn đỏ như bấc đèn kia.
Nàng cũng đang nhớ nhung chồng nơi chiến trận, nhưng ngọn lửa nhớ nhung giờ đang cháy đỏ rồi cũng sẽ tàn phai theo thời gian. Dường như nàng đã nhìn thấy tương lai của chính mình qua hình ảnh chiếc đèn, sáng rực là thế rồi cũng sẽ tàn thôi. Và sự tàn phai của đời con gái trong cô đơn lẻ như chiếc đèn kia.
Chỉ qua 8 câu thơ đầu đã cho chúng ta thấy được nghệ thuật và giá trị nhân đạo mà tác phẩm mang lại. Với bút pháp nghệ thuật ước lệ kết hợp thể thơ song thất lục bát, giọng thơ nhẹ nhàng, thiết tha khiến người đọc cảm nhận được tâm trang u uất, sầu não, cô đơn khát khao cháy bỏng được sống hạnh phúc của người chinh phụ.
Đoạn trích cũng thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc khi lên án chiến tranh phi nghĩa, những khuân phép hà khắc của xã hội phong kiến bấy giờ đã đẩy cuộc đời bao nhiêu người phụ nữ phải sống trong cô đơn, và ở giá suốt đời nếu chồng mất ngoài chiến trận.
Tham khảo👉 Cảm Nhận Của Em Về Đoạn Trích Kiều Ở Lầu Ngưng Bích ❤️️13 Mẫu
Cảm Nhận 8 Câu Đầu Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ Ấn Tượng – Bài 4
Giới thiệu bài văn cảm nhận về 8 câu đầu Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ ấn tượng để các bạn học sinh cùng tham khảo.
Tác phẩm Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn lấy bối cảnh những cuộc chiến tranh phi nghĩa diễn ra vào cuối thế kỉ XVIII. Bằng việc khắc họa hình ảnh nhớ thương, nỗi khổ đau của người chinh phụ khi chồng ra trận ở miền biên ải xa xôi, tác giả đã bày cất tiếng nói đồng cảm của mình với những người phụ nữ trong xã hội cũ đồng thời lên án, tố cáo chiến tranh phi nghĩa.
Tác phẩm được nhiều dịch giả nổi tiếng yêu quý dịch sang bản diễn Nôm nhưng bản dịch hay nhất có lẽ là bản dịch của Đoàn Thị Điểm. Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ được trích trong tác phẩm gồm 25 câu thơ từ câu 193 đến câu 216 đã diễn tả nỗi cô đơn lẻ loi của người vợ trong những năm tháng chồng đi chiến trận.
“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen
Ngoài rèm thước chẳng mách tin
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng
Đèn có biết dường bằng chẳng biết
Hạnh phúc là điều lớn lao mà ai cũng ao ước có được. Đặc biệt là đối với những người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa thì hạnh phúc đến không phải là dễ dàng, bởi vậy mà họ càng trân quý. Người chinh phụ trong tác phẩm phải chấp nhận xa chồng, càng xa chồng nàng càng cô đơn, buồn tẻ. Nỗi cô đơn ngập tràn cả khuê phòng, căn gác, tràn ngập cả không gian, thời gian.
Trước hiên nhà, những bước đi chậm rãi, nặng nề và nhàm chán của người chinh phụ càng lột tả nỗi cô đơn, chán chường hơn bao giờ hết. Hành động buông rèm xuống, kéo rèm lên như lặp lại tô đậm thêm nỗi cô đơn trong khuê các. Càng cô đơn, càng thương nhớ, trông chờ một tiếng lành từ chim thước từ xa nhưng chẳng có, nàng đành ngậm ngùi bên chiếc đèn khuya.
“ Đèn có biết dường bằng chẳng biết
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi”
Tìm đến đèn để tâm giao cho vơi bớt nỗi ưu sầu, mà đèn nào có biết. Cuối cùng, ánh đèn dẫu có sáng tỏa đấy thôi nhưng nào soi rọi được tâm hồn người chinh phụ, nào thấu được tâm can kẻ cô đơn. Ánh dèn, dẫu sau nó cũng là một vật vô tri, vô giác, nào có thể lặng nghe người chinh phụ giãi bày, thở than.
Ánh đèn nào có thể thay được người chồng nơi biên ải, có thể cùng nàng chia sẻ nỗi ngọt bùi, đắng cay. Có chăng, ánh đèn ngày một hiu hắt như chính lòng người chinh phụ ngày một nặng nề, trĩu những nỗi u hoài khôn thấu. Nàng buồn bã trong khuê phòng với ánh đèn dầu hiu hắt mà xót thương cho số phận mình, tủi hổ cho cảnh lẻ loi, đơn chiếc vì chia ly của mình. Nỗi bi thiết của lòng nàng cất lên trong từng tiếng thơ ai oán, vừa như trách móc, vừa như xót xa cho thân phận chính mình:
“Đèn có biết dường bằng chẳng biết
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi
Buồn rầu nói chẳng nên lời
Hoa đèn kia với bóng người khá thương”
Nỗi uất ức trong nàng như trỗi dậy, lòng người chinh phụ buồn tủi, đớn đau, nỗi lòng mình nàng “riêng bi thiết”, mình nàng chịu đựng. Hoa đèn in bóng người con gái cô độc trên khuê các càng tô đậm nỗi sầu trong đêm thâu. Đèn dần tàn, thời gian vẫn vậy cứ trôi đi, một mình, một bóng, gặm nhấm nỗi cô độc, sầu tủi, nỗi chán chường vì lẻ loi tận cùng.
8 câu đầu trong đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ đã chạm đến trái tim bao người đọc bởi những rung động tình cảm đời thường nhất. Đó là sự đồng cảm với tâm trạng của người chinh phụ, là sự trân trọng vẻ đẹp một tâm hồn của người phụ nữ khi yêu và sự căm phẫn trước chiến tranh tàn ác đã đẩy bao con người phải chịu khổ đau, chìa lìa như người chinh phụ.
Tham khảo văn mẫu➡️ Cảm Nhận Của Em Về 8 Câu Thơ Cuối Trong Đoạn Trích Kiều Ở Lầu Ngưng Bích⬅️
Cảm Nhận 8 Câu Đầu Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ Đặc Sắc – Bài 5
Gợi ý cách hành văn ấn tượng, sinh động thông qua bài văn mẫu Cảm nhận 8 câu đầu tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ đặc sắc sau đây
Đặng Trần Côn là tác giả sống vào nửa đầu thế kỉ XVIII, tài nghệ văn chương của ông lừng thiên hạ với nhiều tác phẩm nổi tiếng, một trong số ấy có “Chinh phụ ngâm”. Tác phẩm “Chinh phụ ngâm” thuộc thể loại ngâm khúc, có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc.
Đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” được trích trong tác phẩm đã thể hiện nỗi nhớ mong người chồng chinh chiến cùng với khát khao hạnh phúc của người chinh phụ. Đặc biệt qua tám câu thơ đầu của đoạn trích, người đọc dễ dàng cảm nhận được tình cảnh trống vắng và tâm trạng của nhân vật trữ tình.
Mở đầu đoạn trích, tác giả đã miêu tả tâm trạng của người chinh phụ, thông qua những hành động:
“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.”
Đây là lời than thở triền miên, da diết của người phụ nữ có chồng ra trận. Tác giả đã dùng bút pháp miêu tả nội tâm qua ngoại hình, hành động lặp đi lặp lại không mục đích của người chinh phụ và dáng vẻ buồn rầu, ủ ê không nói lên lời, trong hiên vắng thẫn chờ đợi chồng về. Thời gian đã là chiều tối, không gian là một khoảng hiên vắng lặng cùng với cử chỉ “gieo từng bước” như khắc họa rõ nét cảm giác cô đơn, quạnh vắng của người chinh phụ.
Với một khung cảnh như vậy, gợi cho ta sự sum họp, đầm ấm của gia đình, nhưng giờ đây chỉ có mình người phụ nữ lẻ loi, cô độc trong khoảng không trống vắng, không có người chồng bên cạnh. Cảm giác trống trải bủa vây người chinh phụ làm cho nàng gieo từng bước chân một cách mệt mỏi và chậm rãi. Mỗi bước chân như chất chứa nỗi lòng, nỗi ưu tư phiền muộn của người phụ nữ xa chồng, đang mong ngóng từng ngày chồng trở về. Người phụ nữ như quặn thắt trong lòng khi chỉ nghe được tiếng bước chân âm thầm của mình.
“Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen”
Hành động buông rèm rồi cuốn lên nhiều lần đó là hành động lặp đi, lặp lại không có mục đích rõ ràng, thể hiện một tâm trạng tù túng, nóng ruột. Cảm giác vừa nhớ nhung da diết, vừa lo lắng sốt ruột cho sự an nguy của chồng mình đang đi chinh chiến phương xa. Nỗi nhớ cùng với tâm trạng mong ngóng đợi tin của chồng dồn nén ở người chinh phụ, tạo ra một cảm giác cô đơn buồn khổ ở nhân vật trữ tình. Chẳng những thế, càng mong ngóng chờ đợi thì kết quả lại chẳng được gì.
“Ngoài rèm thước chẳng mách tin”
“Thước” là loài chim báo tin lành, báo tin người đi xa đã trở về. Thế mà ngay lúc này, con chim Thước lại im bặt, làm cho nỗi nhớ, nỗi khắc khoải mong chờ trong lòng người chinh phụ lại tăng lên gấp bội. Chim thước chẳng mách tin, người chồng yêu thương vẫn chưa trở về, nỗi đau đớn âm thầm nhưng quá lớn ấy khiến nàng khao khát có sự đồng cảm. Nhưng trong khung cảnh đau buồn này thì chỉ có ngọn đèn leo lét làm bạn với nàng.
“Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?”
Tâm trạng quá cô đơn đã làm cho nàng phải thốt lên câu hỏi: Liệu ngọn đèn dầu mờ ảo ấy có thấu chăng nỗi lòng của nàng, có chiếu sáng được đến tâm can đang mong nhớ chồng của nàng, liệu ngọn đèn có thấu hiểu được sức nặng của nỗi cô đơn, của sự nhung nhớ lại dồn cả lên nàng.
Câu hỏi tu từ như là tâm trạng của người chinh phụ, câu hỏi nhưng không có câu trả lời, nhân vật trữ tình hỏi ngọn đèn – một vật vô tri vô giác – nhưng dường như đang muốn được bày tỏ nỗi lòng của mình. Đó chính là lời than thở, hi vọng trong nàng, nỗi khắc khoải đợi chờ đã trở nên day dứt không yên.
“Đèn có biết dường bằng chẳng biết
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi”
Điệp ngữ bắc cầu “Đèn biết chăng – đèn có biết” diễn tả nỗi tù túng, nỗi buồn dài lê thê của người chinh phụ. Hình ảnh “đèn” đã được lặp lại hai lần, nhân vật trữ tình đã giải tỏa tâm sự với ngọn đèn, nhưng một vật vô tri vô giác như vậy thì làm sao hiểu rõ được cảm giác của người chinh phụ.
Nhân vật trữ tình lại ôm nỗi cô đơn, buồn bã một mình. Nhìn ngọn đèn leo lét trong màn đêm tĩnh mịch như vậy, lòng người chinh phụ càng thêm quặn thắt. Ngọn đèn là hình ảnh gợi cảm giác sum họp, ấm áp, càng khắc sâu nỗi cô đơn, buồn bã, khắc khoải trong lòng người.
“Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương”
Kết thúc tám câu thơ là hình ảnh “hoa đèn”. “Hoa đèn” là đầu bấc đèn dầu đã cháy như than nhưng được nung đỏ lên trông như hoa. Hình ảnh “ngọn đèn, hoa đèn”, gợi cho ta liên tưởng đến hình ảnh “đèn không tắt” trong bài ca dao:
Đèn thương nhớ ai
Mà đèn không tắt?”
Trong im lặng dằng dặc, dưới ánh đèn đêm thăm thẳm, chinh phụ trẻ chỉ có biết trò chuyện với cái bóng của chính mình, với ngọn đèn, gợi cho ta cảm nhận được nỗi cô đơn khắc khoải và vô vọng của người chinh phụ.
Qua tám câu thơ đầu, người đọc đã cảm nhận được những tâm trạng của người chinh phụ. Khung cảnh quạnh hiu, trống vắng cùng với những động từ miêu tả hành động để thể hiện tâm trạng, điệp ngữ bắc cầu đã khắc họa sự ưu tư, phiền muộn và cô đơn của nhân vật trữ tình khi nhớ về người chồng chinh chiến của mình.
Tham khảo thêm 👉Cảm Nhận Của Em Về 8 Câu Thơ Giữa Trong Đoạn Trích Kiều Ở Lầu Ngưng Bích👈
Cảm Nhận 8 Câu Đầu Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ Ngắn Hay – Bài 6
Khám phá các câu văn sáng tạo, hấp dẫn trong bài văn cảm nhận về 8 câu đầu tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ ngắn hay sau đây.
Tác phẩm “Chinh phụ ngâm khúc” của tác giả Đặng Trần Côn ra đời vào những năm 40 của thế kỉ XVIII – giai đoạn xã hội rối ren, nội bộ phong kiến mâu thuẫn, chiến tranh loạn lạc diễn ra khắp nơi đã diễn tả thành công bi kịch tinh thần cùng tiếng lòng nhớ thương da diết của những người phụ nữ có chồng ra trận.
Trích đoạn “Tình cảnh của người chinh phụ”, bản dịch của Đoàn Thị Điểm đã thể hiện rõ điều này. Bài thơ đã thể hiện rõ tâm trạng cô đơn sầu muộn của người phụ nữ có chồng ra trận, gián tiếp bộc lộ tiếng nói tố cáo chiến tranh phong kiến phi nghĩa và đề cao hạnh phúc lứa đôi của con người, nổi bật nhất phải kể đến 8 câu đầu trong đoạn trích.
Trích đoạn mở đầu bằng dòng cảm xúc về nỗi cô đơn, sầu tủi của người chinh phụ qua 8 câu thơ đầu. Trước hết, ở 8 câu thơ đầu tiên, tác giả đã tái hiện không gian ngoại cảnh cùng hành động, tâm trạng của người chinh phụ:
“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
Ngoài rèm thước chẳng mách tin
Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?
Đèn có biết dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương.”
Thông qua bút pháp ngụ tình đặc sắc, tác giả đã tái hiện bối cảnh không gian của nỗi cô đơn. Giữa sự tĩnh mịch, người chinh phụ lặp đi lặp lại hành động “dạo hiên vắng”. Lúc này, nỗi nhớ nhung sầu muộn đã khiến cho bước chân của nàng mang nặng tâm trạng, trở nên nặng nề hơn.
Nàng khắc khoải mong chờ thanh âm của tiếng chim thước – tín hiệu của sự trở về, sự gặp gỡ nhưng chẳng thấy. Trong không gian vắng lặng đó, nàng chỉ biết đối diện với ngọn đèn khuya: “đèn có biết”, “đèn chẳng biết”. Hình ảnh ngọn đèn là ẩn dụ tượng trưng thể hiện nỗi nhớ cùng sự cô đơn đang bủa vây tâm trí nàng.
Ngọn đèn khuya không thể thấu hiểu nỗi niềm của “bi thiết” – nỗi buồn thương xót xa đến không cùng của người chinh phụ, để rồi nàng rưng rưng trong sự thương thân tủi phận: “Hoa đèn kia với bóng người khá thương”. Cảnh vật xung quanh dường như đồng cảm, cộng hưởng với với sự cô đơn, lẻ loi của người chinh phụ.
Chỉ với 8 câu thơ đầu, tác giả đã tái hiện thành công nỗi niềm tâm trạng cô đơn trong âm điệu buồn thương da diết của người chinh phụ. Từ đó, tạo nên giá trị hiện thực qua tiếng nói tố cáo, lên án chiến tranh phong kiến phi nghĩa, những hiểm nguy mà người chinh phu phải đối mặt nơi chiến trường. Tác phẩm còn thấm đẫm giá trị nhân đạo qua những nỗi niềm tâm sự, những cung bậc cảm xúc đầy đau đớn, xót xa, những trống trải, cô đơn cùng khao khát về hạnh phúc lứa đôi của người chinh phụ.
Văn Cảm Nhận 8 Câu Đầu Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ Chọn Lọc – Bài 7
Văn cảm nhận 8 câu đầu tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ chọn lọc sẽ mang đến những ý văn hay và cách diễn đạt khéo léo, hấp dẫn người đọc.
Phải chăng trong bất cứ cuộc chia li nào thì người ở lại cũng là người đau khổ nhất. Nền văn học Việt Nam đã chứng kiến biết bao cuộc chia li trong lịch sử, đặc biệt ở thế kỉ XVIII, Đặng Trần Côn đã lấy bối cảnh cuộc chia li đầy lưu luyến, bi thương của người phụ nữ phải xa chồng trong thời gian dài, chờ tin chồng ra trận trở về với khao khát hạnh phúc lứa đôi qua khúc ngâm “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ”.
Hiện thực chiến tranh tàn khốc, Đặng Trần Côn đã hướng ngòi bút nhân đạo của mình đến nỗi đau của người phụ nữ để cất lên tiếng nói của cả thời đại. Tác giả lên án chiến tranh phi nghĩa, cướp đi cuộc sống ấm no, hạnh phúc của con người. Có lẽở nơi chiến trường kia, chinh phu đang phải đối diện cận kề với cái chết thì ở nơi quê nhà chinh phụ cũng đang mong mỏi chờ đợi tin tức của chồng trong vô vọng, buồn tủi.
Với thể thơ song thất lục bát, 8 câu đầu đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” đã miêu tả những cung bậc và sắc thái khác nhau của nỗi cô đơn ở người chinh phụ với khao khát được sống trong tình yêu, trong hôn nhân hạnh phúc gia đình.
Ở tám câu thơ đầu, nhà thơ đã miêu tả nỗi cô đơn, lẻ loi của người chinh phụ khi chờ tin chồng ở nơi chiến trận:
“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?
Đèn có biết dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương.”
Giữa không gian tĩnh mịch và vắng vẻ, người phụ nữ bồn chồn, thấp thỏm chờ tin chồng chính là hiện thân của nỗi cô đơn. Nếu tiếng yêu thúc giục nàng Kiều “Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” thì ở đây, trước hiên vắng người phụ nữ lại “thầm gieo từng bước”. Không gian mà thi sĩ gợi ra ở đây chính là “hiên vắng” nhỏ hẹp trước nhà. Nàng lo lắng, đi đi lại lại như muốn gieo rắc vào lòng người đọc những thanh âm của sự cô đơn, lẻ bóng.
Mặc dù xuất hiện với hành động “dạo” thế nhưng những bước chân ấy có chút gì đó nặng nề để “thầm gieo từng bước”. Có lẽ, thẳm sâu trong tâm hồn người phụ nữ đó đang chất chứa những nỗi niềm, tâm sự được bộc lộ thành những hành động dường như vô thức, nàng buông rèm rồi lại kéo rèm: “Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.”
Hành động đó cho thấy người chinh phụ như đang trông ngóng tin tức của chồng ở nơi biên ải xa xôi nhưng nàng đều nhận lại được sự im lặng đến đáng sợ. Dù trong bất cứ tư thế nào thì những tình cảm thương nhớ ấy cũng không khỏi khắc khoải, thường trực trong tâm hồn người chinh phụ.
Hành động “rủ”, “thác” ấy lại gợi nhắc đến sự nhớ mong trong vô hạn. Nàng cuốn rèm với sự chờ đợi, mong ngóng con “chim thước” ở “ngoài rèm” sẽ đem đến tin vui cho nàng về người chồng đang chinh chiến nơi chiến trường. Nỗi nhớ của người chinh phụ được bộc lộ qua nhiều chiều không gian khác nhau, không chỉ ở “ngoài rèm” mà cả ở “trong rèm”.Thế giới nội tâm của nàng nhuốm màu sắc tâm trạng.
Người chinh phụ đã tự vấn mình rằng “Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?”. Trong nỗi bồn chồn khắc khoải ấy, người phụ nữ không biết chia sẻ cùng ai, đành bộc lộ những tâm tư tình cảm đó với một ngọn đèn leo lét “Đèn có biết dường bằng chẳng biết”. Nhà thơ đã sử dụng điệp ngữ bắc cầu “đèn biết chăng- đèn có biết” đã diễn tả tâm trạng buồn lê thê trong thời gian vô tận và không gian tĩnh mịch, cô đơn dường như không bao giờ kết thúc. Đó là câu hỏi tu từ nhưng cũng là lời than thở, tự dằn vặt mình.
Ngọn đèn đã chứng kiến và soi tỏ nỗi lòng của người chinh phụ, bởi “đèn” chính là người thức cùng, cùng người chinh phụ giãi bày tâm sự, nhớ mong. Nỗi buồn ấy không thể bộc lộ mà người phụ nữ chỉ muốn giữ riêng cho mình: “Lòng thiếp riêng bi thiếp mà thôi”. Người phụ nữ cảm thấy cô đơn, trống trải trong chính căn phòng của mình bởi chính không gian chật hẹp, vắng vẻ nơi đây đã làm nàng gợi nhớ đến biết bao kỉ niệm quen thuộc.
Thế nhưng để tìm được một người để có thể giúp nàng giãi bày tâm sự, lắng nghe nàng nói quả là một điều không phải dễ dàng. Nàng giữ riêng mình nàng biết, bởi có nói ra cũng đâu có ai hiểu được, đâu có ai đồng cảm với nàng.
Chủ thể của nỗi nhớ được hiện ra ngày càng rõ nét hơn với hình ảnh “Hoa đèn kia với bóng người khá thương”. Hình ảnh “hoa đèn” gợi nhắc đến bóng người thương đó chính là chồng nàng, người cùng nàng gắn bó cả cuộc đời thế nhưng nay nàng chẳng có một chút tin tức gì về người chồng đang tham gia chinh chiến nơi chiến trường để bảo vệ nền độc lập của tổ quốc, bảo vệ no ấm cho dân lành. Nàng thấy số phận mình chỉ như kiếp “hoa đèn” mong manh trước gió và có thể dập tắt bất cứ lúc nào.
Hình ảnh “ngọn đèn”, “hoa đèn” cùng với hình ảnh cái bóng trên tường của nàng gợi nhắc cho ta nhớ đến hình ảnh ngọn đèn không tắt trong bài ca dao quen thuộc: “Đèn thương nhớ ai mà đèn không tắt?”.Phải chăng ngọn đèn của tình yêu ấy vẫn luôn cháy rực trong bóng đêm yên lặng vì đang nhung nhớ một “bóng người khá thương” chăng? Nỗi buồn của người chinh phụ đã bao trùm lên cả không gian và thời gian, tác giả đã đi đến tận cùng của nỗi nhớ trong lòng người chinh phụ.
Đoạn trích trên đã miêu tả thành công “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” bằng tấm lòng nhân đạo của tác giả. Nhà thơ đã khắc họa thành công hình ảnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, tiêu biểu cho bi kịch về hạnh phúc lứa đôi, là hiện thân của cái đẹp với một tấm lòng chung thủy sắt son với chồng. Nhà thơ đã lên án chiến tranh phi nghĩa cướp đi hạnh phúc của con người, chính vì mà thế đoạn trích trên đã được rất nhiều độc giả của mọi thời đại tìm đọc và yêu thích.
Tham khảo 👉Cảm Nhận Chị Em Thúy Kiều Và Thuý Vân ❤️️
Văn Cảm Nhận 8 Câu Đầu Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ Điểm Cao – Bài 8
Văn cảm nhận 8 câu đầu Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ điểm cao mà scr.vn gợi ý sau đây sẽ mang đến cho các em học sinh nhiều ý tưởng làm văn hay, ấn tượng.
Dưới trí tuệ của dịch giả Đoàn Thị Điểm – người “tài sắc nương tử xưa hiếm nay không, xuất khẩu thành chương, bản chất thông minh” mà tuyệt tác Hán ngôn “Chinh phụ ngâm khúc” của Đặng Trần Côn một lần nữa thăng hoa.
Những năm 40 của thế kỉ XIV, bão táp liên miên, loạn lạc khắp nơi, người chinh phụ tiễn chinh phu ra trận… đã được phục dựng lại dưới những vần thơ “lâm li, tuấn nhã”, đặc biệt trong đoạn trích 8 câu đầu của “Tình cảnh lẻ loi của người Chinh Phụ”. Đoạn trích ngắn nhưng Đoàn Thị Điểm đã làm nổi bật lên hình ảnh người chinh phụ trong nỗi cô đơn lẻ bóng chờ ngày đoàn tụ.
“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.”
Hai câu thơ đầu đoạn trích là bóng hình ngóng trông của người chinh phụ. Hình ảnh ấy được thể hiện qua các động từ “dạo”, “rủ”, “thác”, “gieo từng bước” bởi nó tạo nên sự đối lập giữa bên ngoài thanh tịnh, nhàn nhã với nội tâm cồn cào, mòn mỏi đếm từng bước chân. Hơn nữa, tính từ “vắng”, “thưa” tôn lên sự lẻ loi, cô độc, bóng chiếc của người phụ nữ trong đêm. Như vậy, tác giả đã sử dụng ngoại cảnh để thể hiện tâm trạng nhân vật.
Tiếp đó, người chinh phụ dường như hướng ra bên ngoài chờ một tin báo đủ mạnh để an lòng:
“Ngoài rèm thước chẳng mách tin”
Chim thước là loài chim khách, nó vốn thuộc về bầu trời cao rộng. Ngóng tin từ chim thước thật vô vọng, mơ hồ. Từ phủ định “chẳng” như khẳng định thêm sự tuyệt nhiên không có lấy một âm thanh tin tức nào. Vậy nên, người phụ nữ hướng vào không gian bên trong, trò chuyện với cây đèn, tìm kiếm chút tâm tình, thỏa mãn sự cô đơn:
“Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?
Đèn có biết dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương.”
Đoạn thơ khiến ta liên tưởng tới hình ảnh Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ khi chọn cách chỉ vào cái bóng trên tường và nói đó là cha Đản để con trai bớt phần tủi hờn. Đó dường như là cách người phụ nữ gửi gắm nỗi nhớ thương chồng. Gửi tâm sự vào đèn, người chinh phụ trong bài thơ có lẽ cũng đang da diết nhung nhớ lang quân. Bởi người phụ nữ đã gọi “đèn” và xưng “thiếp”. Mặt khác, hình ảnh đèn khiến ta liên tưởng tới những bài thơ, bài ca dao xưa:
“Khăn thương nhớ ai,
Khăn chùi nước mắt.
Đèn thương nhớ ai,
Mà đèn không tắt.
Mắt thương nhớ ai,
Mắt ngủ không yên.”
Ánh đèn như tôn thêm vẻ vắng lặng đơn côi, mỏi mòn chờ đợi cả ngày dài và thổn thức suốt đêm thâu. Nhưng đèn là vật vô tri, đèn không thể giãi bày tâm sự với người phụ nữ, vậy nên nhân vật trữ tình càng thêm “buồn rầu”, không thiết nói năng. Cái cảnh “nói chẳng lên lời” như là bất lực, uất nghẹn lắm.
Đoạn thơ còn xuất hiện thêm hình ảnh sóng đôi “hoa đèn” – “bóng người”. Thay vì đèn, tác giả lại nói “hoa đèn” để liên tưởng tới sự tàn lụi, cạn dầu tương đương với cảnh người phụ nữ đợi chờ tới héo hon, thanh xuân qua đi từng ngày. Từ hành động, ý thơ dường như lại khắc họa sự bất động. Đặc biệt, hình ảnh người phụ nữ bên ngọn đèn dầu còn kết đọng ở cảm xúc “bi thiết”, “khá thương”.
Nỗi buồn đau, cô đơn, lắng lo, mong ngóng, bất lực, nghẹn ngào… tất cả như đan xen, cuộn trào từng đợt trong lời than vãn “lòng thiếp riêng bi thiết” và rồi lịm dần “buồn rầu chẳng” và “khá thương”. Cảm xúc có sự vận động từ thương chồng đến thương mình, từ than thở tới tuyệt vọng.
Tóm lại, đoạn trích 8 câu đầu trong “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” – Đoàn Thị Điểm là tiếng nói xót thương cho số phận người phụ nữ trong chiến tranh và đồng cảm với khát vọng sum vầy của họ. Cho đến tận bấy giờ, lần đầu tiên mới có những tấm lòng chân chính biết thương cảm cho những người phụ nữ nhỏ bé. Đó cũng là tinh thần nhân văn, nhân bản cao đẹp của tác giả.
Cảm Nhận 8 Câu Đầu Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ Hay – Bài 9
Cùng khám phá bài văn mẫu cảm nhận 8 câu đầu tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ hay mà scr.vn đã chọn lọc gửi tới bạn sau đây.
“Người lên ngựa, kẻ chia bào
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.”
Văn học Việt Nam đã từng chứng kiến biết bao những cuộc chia li, tiễn biệt đầy lưu luyến như thế. Và ở thế kỉ thứ XVIII, “Chinh phụ ngâm” một tác phẩm lấy từ đề tài chia li trong chiến tranh đã của Đặng Trần Côn đã cho chúng ta thấy được một cuộc tiễn biệt thấm đẫm tâm trạng, đằng sau đó là nỗi đau người phụ nữ có chồng đi chinh chiến. 8 câu đầu đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” đã làm nỗi bật lên nỗi lẻ loi cô đơn cùng những nhớ mong, và có cả những khao khát hạnh phúc của người chinh phụ.
Nhà văn Tô Hoài đã từng khẳng định: “Mỗi trang văn đều soi bóng thời đại mà nó ra đời”. Thời đại của Đặng Trần Côn là thời kì mà chiến tranh các tập đoàn phong kiến diễn ra liên miên và phong trào nông dân khởi nghĩa nổ ra khắp nơi, nhà nhà sống trong cảnh loạn lạc, khói lửa, đâu đâu cũng thấy cảnh lầm than, tang tóc.
Khi thời đại đưa cho ông một đề tài quen thuộc “hiện thực chiến tranh”, bằng cảm hứng nhân đạo của mình, Đặng Trần Côn đã chiếu ngòi bút của mình xuống những nỗi đau của người phụ nữ trong chiến tranh để cất lên tiếng nói của con người thời đại, tiếng nói oán ghét chiến tranh phi nghĩa, tiếng nói đòi quyền sống, quyền hạnh phúc qua khúc tự tình trường thiên “Chinh phụ ngâm”.
Xuyên suốt toàn bộ tác phẩm, qua nỗi niềm của người chinh phụ có chồng ra trận, tác giả đã đã để cho người đọc cảm nhận nỗi đau thương trong chiến tranh của cả hai phía người ra trân và người ở lại. Nếu ở nơi chiến địa, chinh phu đang từng ngày từng giờ đối mặt với cái chết thì chinh phụ nơi quê nhà cũng đang mòn mỏi chờ đợi trong vô vọng, và chìm đắm trong muộn phiền.
Mở đầu đoạn trích, tác giả đã khắc họa bức chân dung tâm trạng của người chinh phụ trong tình cảnh cô đơn, lẻ loi, ngày qua ngày mong ngóng tin chồng:
“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen
Ngoài rèm thước chẳng mách tin
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?”
Giữa một không gian tịch mịch “vắng” và “thưa”, người chinh phụ hiện lên như hiện thân của nỗi cô đơn. Nàng đi đi lại lại, những bước chân của nàng không phải là bước chân “xăm xăm” khi nghe thấy tiếng gọi của tình yêu, hạnh phúc của nàng Kiều mà những bước chân ấy gieo xuống từng bước như gieo vào lòng người đọc những thanh âm của sự lẻ loi cô độc. Nàng hết buông rèm rồi lại kéo rèm để hướng ra ngoài, hướng về nơi biên ải xa xôi kia để mong ngóng chút tin tức của chinh phu nhưng không có dấu hiệu hồi đáp lại.
Nhịp thơ chậm, kéo dài như ngưng tụ cả không gian và thời gian. Dường như hành động nàng đang lặp đi lặp lại một cách vô thức bởi tâm trí nàng giờ đây đang dành trọn cho người chồng nơi chiến trường đầy hiểm nguy. Những thao tác trữ tình ấy đã lột tả được tâm tư trĩu nặng và cảm giác bế tắc không yên của người chinh phụ. Trong nỗi bồn chồn khắc khoải ấy, nàng mong ngóng một một người có thể sẻ chia những tâm tư nhưng tất cả chỉ có một ngọn đèn khuya leo lét:
“Đèn có biết dường bằng chẳng biết
Lòng thiếp riêng bi thiếp mà thôi
Buồn rầu chẳng nói nên lời
Hoa đèn kia với bóng người khá thương”
Ngọn đèn vừa chứng kiến vừa soi tỏ nỗi cô đơn của người phụ nữ xa chồng. Khi đối diện với ngọn đèn là người phụ nữ đáng thương ấy đang tự đối diện với chính mình, dưới ánh sáng của ngọn đèn mà tự phơi chải nỗi đau của chính mình. Để rồi những tâm tư ấy bật thành lời tự thương da diết “Hoa đèn kia với bóng người khá thương”. Nàng thấy mình chỉ như kiếp hoa đèn kia mỏng manh và dang dở, thấy sự tàn lụi ở ngay trước mắt mình. Nếu ngọn đèn không tắt đồng hành với người phụ nữ trong ca dao thắp lên nỗi nhớ thương:
“Đèn thương nhớ ai mà đèn không tắt”
Ngọn đèn trong đêm với Thúy Kiều đã trở thành nhân chứng của nỗi đau của người con gái tài sắc:
“Một mình một ngọn đèn khuya
Áo đầm giọt tủi tóc se mái đầu”
Thì hình ảnh ẩn dụ ngọn đèn của người chinh phụ soi bóng trong đêm lại là sự hiện diện của lẻ loi, đơn chiếc, trống trải. Hình ảnh hoa đèn và bóng người như phản chiếu vào nhau để diễn tả nỗi cô đơn đến héo úa canh dài, đến hao mòn cả thể chất. Dường như nỗi niềm ấy đã vo tròn, nén chặt đè nặng trong lòng người chinh phụ, và trở thành nỗi “bi thiết” không thể nói lên lời, là nỗi “buồn rầu” đến não nề, đến thương cảm.
Bằng bút pháp nghệ thuật điêu luyện, tác giả đã diễn tả được những diễn biến phong phú, tinh vi các cung bậc tình cảm của người chinh phụ. Cảnh cũng như tình được miêu tả rất phù hợp với diễn biến của tâm trạng nhân vật. Thông qua tâm trạng đau buồn của người chinh phụ đang sống trong tình, cảnh lẻ loi vì chồng phải tham gia vào những cuộc tranh giành quyền lực của vua chúa, tác giả có chủ ý đề cao hạnh phúc lứa đôi và thể hiện thái độ bất bình, phản kháng đối với chiến tranh phi nghĩa.
Xem thêm👉 Viết Đoạn Văn Miêu Tả Vẻ Đẹp Của Thúy Kiều ❤️️
Cảm Nhận 8 Câu Đầu Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ Sinh Động – Bài 10
Bài văn Cảm nhận 8 câu đầu tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ sinh động sau đây là tài liệu tham khảo hữu ích để các em có thể ôn tập hiệu quả.
Đặng Trần Côn là một tác giả nổi tiếng bởi tài nghệ văn chương lừng danh gắn liền với nhiều tác phẩm mang đậm giá trị thời đại. Trong đó, “Chinh phụ ngâm” là một tác phẩm thuộc thể loại ngâm khúc đã làm nên tên tuổi của ông bởi giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc.
Đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” chính là một phần của tác phẩm này, nó thể hiện nỗi mong nhớ da diết của người chinh phụ khi chồng chinh chiến nơi sa trường. Đặc biệt, tám câu thơ đầu của đoạn trích sẽ giúp người đọc cảm nhận sâu sắc nhất về tình cảnh trống vắng cùng những cung bậc cảm xúc của nhân vật trữ tình.
Mở đầu đoạn trích là tâm trạng rối bời của người chinh phụ được thể hiện qua những hành động vô thức:
Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen
Đây phải chăng là lời than thở triền miên, da diết của người phụ nữ có chồng đang chinh chiến nơi sa trường. Tác giả đã sử dụng bút pháp miêu tả nội tâm thông qua ngoại cảnh để miêu tả hành động lặp đi lặp lại trong vô thức, không có mục đích của người chinh phụ. Qua hành động đó, ta như hình dung được dáng vẻ buồn rầu, không nói nên lời của người chinh phụ nơi hiên vắng thẫn thờ đợi chồng về từ phương xa.
Bấy giờ đã là chiều tối – khoảng thời gian ảm đạm, hắt hiu nhất của một ngày – người chinh phụ lại đang gieo từng bước nơi hiên vắng lặng. Chính không gian, thời gian đó đã tô đậm bước chân cô đơn, quạnh vắng của người chinh phụ. Trong khung cảnh đó, người ta đang sum họp bên gia đình sau một ngày dài, thì người chinh phụ lại chỉ có một mình lẻ bóng, không có chồng cạnh bên vỗ về.
Cảm giác trống vắng dường như bủa vây nơi trái tim người phụ nữ, khiến cho bước chân của nàng cũng thật chậm rãi và mệt mỏi. Mỗi một bước chân là một tiếng thở dài cho những nỗi chất chứa trong lòng, cho nỗi ưu tư phiền muộn của người phụ nữ đang mong ngóng tin chồng trở về. Nhưng rồi, người chinh phụ chỉ có thể quặn thắt lòng bởi vì đáp lại cũng chỉ là tiếng bước chân âm thầm của mình.
Hành động buông rèm của người chinh phụ cũng là một hành động lặp đi lặp lại trong vô thức, chẳng có mục đích rõ ràng. Đó phải chăng là hành động che lấp đi sự tù túng, nóng ruột của người phụ nữ? Hay là nỗi nhớ nhung da diết đan xen với sự lo lắng cho an nguy của chồng mình? Nỗi nhớ da diết cùng sự mong ngóng tin chồng như dồn nén ở người chinh phụ, để rồi tô đậm cảm giác cô đơn buồn tủi của nàng. Nhưng rồi, càng mong ngóng, đáp lại nàng vẫn là hiện thực đau thương.
“Ngoài rèm thước chẳng mách tin
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng”
Thước là một loài chim báo tin người đi xa trở về. Nhưng mặc cho người đang ngóng trông, thước lúc này lại im bặt khiến cho nỗi nhớ cùng nỗi khắc khoải đợi mong của lòng người càng tăng lên gấp bội. Chim thước chưa mách tin, người chồng nơi xa vẫn chưa trở về, làm sao nguôi được nỗi đau quặn thắt này? Nỗi đau ấy quá lớn khiến nàng càng có khát khao được sẻ chia, được tâm sự, được đồng cảm. Nhưng, đối diện với khung cảnh đau thương này, làm bạn với nàng cũng chỉ có ngọn đèn leo lét.
Sự cô đơn đến tột cùng đã khiến nàng phải tự hỏi, liệu ngọn đèn ấy có hiểu thấu lòng nàng, có chiếu sáng được tâm can rối bời của nàng, có sưởi ấm được sự nguội lạnh hiu quạnh của nàng? Nó có hiểu được sức nặng của cô đơn, có từng biết sự nhung nhớ dồn nén đau đớn đến mức nào? Dĩ nhiên, ngọn đèn chỉ là một vật vô tri vô giác, nó làm sao hiểu được lòng người. Đối diện với điều đó, nàng vẫn muốn bày tỏ nỗi lòng của mình, hay đó chính là lời than thở, là hi vọng của nàng khiến nàng day dứt không yên?
Đèn có biết dường bằng chẳng biết
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi
Hình ảnh đèn được lặp lại hai lần như thể hiện sự giải tỏa tâm sự với ngọn đèn của người chinh phụ, nhưng một ngọn đèn vô tri vô giác làm sao hiểu rõ cảm giác cô đơn, buồn tủi ấy. Vậy nên, nàng chỉ có thể ôm mọi thứ gói vào lòng, để rồi nhìn ngọn đèn leo lét trong màn đêm tĩnh mịch, nỗi đau lại chồng thêm nỗi đau. Ngọn đèn là hình ảnh gợi nên sự sum họp, ấm áp của gia đình, nhưng với người chinh phụ, nó lại càng khắc sâu vào tim nàng nỗi cô đơn, khắc khoải, rối bời.
“Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương”
Người chinh phụ buồn rầu nói chẳng nên lời, nàng chả buồn nói, cũng chả muốn cười. Bên cạnh nàng giờ đây chỉ còn lại hoa đèn, cô đơn đến đáng thương.
Hoa đèn là hình ảnh kết thúc cho tám câu thơ đầu tiên của đoạn trích. Hoa đèn là đầu bấc đèn dầu đã cháy như than, nhưng nó được nung đỏ lên nên trông như hoa, hay chính lòng nàng đang cháy đến tàn đỏ như hoa đèn kia. Trong bóng đêm phủ bởi sự im lặng dằng dặc, người chinh phụ chỉ có thể tâm sự, trò chuyện với ngọn đèn, với cái bóng của chính mình. Phải cô đơn, đau đớn đến bao nhiêu thì mới phải tìm đến những thứ vô tri vô giác mà trải lòng mình?
Qua đoạn trích trên, tác giả đã sử dụng một cách tài tình bút pháp nghệ thuật ước lệ, kết hợp thể thơ song thất lục bát cùng giọng thơ nhẹ nhàng tha thiết, nhịp điệu chậm rãi đã đặc tả được tâm trạng của người chinh phụ với những mạch cảm xúc và cung bậc khác nhau. Từ đó, nỗi cô đơn cùng lòng thương nhớ chồng da diết đã bùng cháy khát khao cháy bỏng được sống hạnh phúc trọn vẹn bên người mình thương.
Đặc biệt, đoạn trích đã mang đến những giá trị nhân văn cao đẹp khi lên án cuộc chiến tranh phi nghĩa cùng những khuôn phép hà khắc của phong kiến đã tước đoạt đi quyền được hạnh phúc của rất nhiều người phụ nữ xưa.
Hướng dẫn cách 🔥Nhận Thẻ Cào 50k Miễn Phí🔥 cực hay