Phân Tích 8 Câu Cuối Bài Tình Cảnh Lẻ Loi ❤️21+ Mẫu Siêu Hay ✅ Chia sẻ Tuyển Tập Bài Văn Mẫu Đặc Sắc Phân Tích Đoạn Thơ Ngắn Gọn Và Chi Tiết.
Dàn Ý Phân Tích 8 Câu Cuối Bài Tình Cảnh Lẻ Loi
Dựa vào dàn ý phân tích 8 câu cuối bài Tình cảnh lẻ loi dưới đây, các em học sinh có thể nắm được những định hướng làm bài với bố cục và những luận điểm cụ thể.
I. Mở bài phân tích 8 câu cuối bài Tình cảnh lẻ loi:
- Giới thiệu về tác giả Đặng Trần Côn và đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ.
- Khái quát nội dung 8 câu cuối trong đoạn trích: Tâm trạng buồn sầu nhung nhớ của người chinh phụ.
II. Thân bài phân tích 8 câu cuối bài Tình cảnh lẻ loi:
a. Phân tích nỗi niềm thương nhớ chồng của người chinh phụ (8 câu cuối):
-Không gian:
- “Gió Đông, non Yên”: Hình ảnh ước lệ gợi hình ảnh người vợ phải mượn ngọn gió Đông mới có thể truyền tải được nỗi nhớ chồng.
- “Đường lên bằng trời”: Xa vời dường như không có điểm cuối
- Nhấn mạnh sự xa cách trùng khơi của người chinh phụ, thể hiện tình yêu và nỗi nhớ da diết của người chinh phụ.
-Tính chất nỗi nhớ:
- “Thăm thẳm”: Gợi độ dài của thời gian, độ rộng của không gian, độ sâu của nỗi nhớ.
- “Đau đáu”: Trạng thái không yên lòng, quan tâm nhớ nhung mong đợi day dứt không nguôi.
- Nỗi nhớ triền miên trong thời gian vô tận được cụ thể hóa bằng không gian xa vơi, khắc họa nỗi nhớ khắc khoải dằng dặc.
-Tâm trạng:
- “Cảnh buồn, thiết tha lòng”: Tả cảnh ngụ tình, cảnh buồn, lòng người đau xót, quặn thắt.
- “Cành cây sương đượm”: Gợi sự buốt giá, lạnh lẽo
- “Tiếng trùng mưa phun”: Sự ảo não, hoang vắng, nghe được cả tiếng côn trùng kêu rả rích.
- Tâm trạng cô đơn, thổn thức, nỗi nhớ thương, khát khao được đồng cảm nhưng vô vọng.
-Nghệ thuật:
- Từ láy gợi hình gợi cảm: thăm thẳm, đau đáu, thiết tha
- Hình ảnh ước lệ: gió đông, non Yên.
- So sánh: “đường lên bằng trời”
- Điệp từ: “nhớ”, “gửi”, “thăm thẳm”
- Điệp ngữ bắc cầu: “non Yên –non Yên”, “bằng trời – trời thăm thẳm”.
- Tả cảnh ngụ tình: “Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun”.
b. Thái độ của tác giả trước tâm trạng của người chinh phụ:
- Thương xót, cảm thông trước tình cảnh cô đơn sầu muộn của người chinh phụ
- Ngợi ca tấm lòng thủy chung, khao khát tình yêu, hạnh phúc lứa đôi của người phụ nữ.
- Lên án chiến tranh phong kiến đã gây ra cho con người bao đau khổ, mất mát
III. Kết bài phân tích 8 câu cuối bài Tình cảnh lẻ loi:
- Khái quát lại tâm trạng của người chinh phụ
- Thể hiện suy nghĩ của bản thân: Đồng cảm, thương xót cho người phụ nữ, trân trọng những vẻ đẹp phẩm chất của họ.
Chia sẻ thêm cùng bạn 🍀 Cảm Nhận Về Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ 🍀 15 Mẫu Đặc Sắc
Phân Tích 8 Câu Cuối Bài Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ – Mẫu 1
Đón đọc bài văn mẫu phân tích 8 câu cuối bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ hoàn chỉnh dưới đây để nắm vững phương pháp làm bài.
Trong nửa đầu thế kỉ XVIII, trước tình cảnh rối ren, loạn lạc cùng những cuộc nội chiến diễn ra liên miên khiến nhiều gia đình rơi vào bi kịch chia li, tác phẩm “Chinh phụ ngâm” ra đời đã tái hiện thành công nỗi khát khao hạnh phúc của con người, đồng thời thể hiện tiếng nói lên án đối với những cuộc chiến tranh phi nghĩa. 8 câu cuối trong trích đoạn “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” đã diễn tả nhiều cung bậc trạng thái cảm xúc của người chinh phụ.
Dù tâm trạng người chinh phụ thường trực nỗi lẻ loi buồn tủi và xoáy sâu vào bi kịch của sự cô đơn, của những dự cảm chẳng lành nhưng nàng vẫn một lòng hướng về người chinh phu nơi biên ải xa xôi với sự trông ngóng, mong chờ:
Lòng này gửi gió đông có tiện?
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên.
Non Yên dù chẳng tới miền,
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.
Cảnh buồn người thiết tha lòng,
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.
Không gian ngoại cảnh được mở rộng theo chiều kích cao rộng của miền non Yên, gợi nên khoảng cách địa lí xa xôi. Đồng thời, đó cũng chính là không gian tràn ngập nỗi nhớ trong tâm tưởng của nhân vật trữ tình. Tác giả đã sử dụng hàng loạt từ láy như “thăm thẳm”, “đau đáu”, “thiết tha” kết hợp cùng biện pháp điệp ngữ: “non Yên – non Yên”, “đường lên bằng trời – trời thăm thẳm” để nhấn mạnh nỗi đau đớn khôn nguôi cùng nỗi sầu tủi luôn thường trực trong tâm hồn người chinh phụ.
Lúc này, cảnh vật cũng mang nặng tâm trạng và chất chứa sự buồn thương: “cành cây sương đượm, tiếng trùng mưa phun”. Bút pháp tả cảnh ngụ tình – một trong những bút pháp đặc trưng của thơ ca trung đại đã được tác giả vận dụng thành công để khắc họa nỗi lòng của nhân vật. Đối diện với không gian tĩnh mịch, tịch liêu, dường những giọt sương đêm không chỉ thấm đẫm cành cây kẽ lá mà còn thấm đượm cả tâm hồn giá buốt của nàng.
Tiếng côn trùng được khắc họa qua bút pháp “lấy động tả tĩnh” đã nhấn mạnh sự cô quạnh, hiu hắt của cảnh vật. Phải chăng đó cũng chính là tiếng lòng yếu đuối đang vang lên trong sự sầu tủi bất lực của nàng. Tâm trạng sầu thảm của nàng đã hòa cùng tiếng mưa và cảnh vật.
Như vậy, thông qua việc sử dụng những hình ảnh ước lệ tượng trưng, bút pháp tả cảnh ngụ tình, tác giả đã tái hiện thành công bức tranh tâm trạng đầy phức tạp nhưng thống nhất của người chinh phụ. Các cung bậc của nỗi nhớ đã được khắc họa một cách sinh động nhưng đều thể hiện tiếng lòng thiết tha của trái tim người phụ nữ thủy chung, khao khát hạnh phúc lứa đôi, hạnh phúc gia đình.
Qua đó, chúng ta có thể thấy được tiếng nói đồng cảm, xót thương của tác giả đối với bi kịch của người phụ nữ cùng sự lên án, phê phán những cuộc chiến tranh phi nghĩa trong thời buổi xã hội phong kiến rối ren, loạn lạc.
Gợi ý cho bạn 🌳 Cảm Nhận 8 Câu Đầu Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ 🌳 10 Mẫu Hay Nhất
Phân Tích 8 Câu Cuối Bài Tình Cảnh Lẻ Loi Hay Nhất – Mẫu 2
Tham khảo bài văn mẫu phân tích 8 câu cuối bài Tình cảnh lẻ loi hay nhất được chọn lọc và chia sẻ dưới đây với những ý văn đặc sắc.
Khác với giai đoạn đầu của văn học trung đại say sưa trong cảm hứng ca ngợi hùng tâm tráng chí của người anh hùng, ca ngợi những chiến công vĩ đại của cả dân tộc, thì đến những thế kỉ 18, 19 khi mà nhà nước phong kiến bắt đầu rơi vào khủng hoảng trầm trọng với sự diễn ra liên miên của các cuộc chiến tranh nội bộ, cướp đi sự bình yên của biết bao mái nhà, văn học lên ngôi và phát triển rực rỡ với cảm hứng nhân đạo, thay cho tiếng nói tha thiết về quyền sống của con người.
Trong số đó phải kể đến “ Chinh phụ ngâm” của tác giả Đặng Trần Côn, được Đoàn Thị Điểm dịch lại. Trong 8 câu cuối, ta thấy người chinh phụ đang cố vùng vẫy thoát ra khỏi nỗi buồn bao trùm cả không gian, thời gian, cả tâm hồn.
Nàng đã tìm đến yếu tố ngoại cảnh làm cứu cánh. Nhưng ngoại cảnh chỉ là tiếng gà “eo óc” gáy, là “hòe phất phơ rủ bóng bốn bên”, càng gợi sâu hơn vào nỗi lòng nhức nhối, nỗi cô đơn, trơ trọi của nàng trong cảnh “ bẽ bàng mây sớm đèn khuya”. Cuối cùng chỉ còn lại người chinh phụ với nỗi nhớ, nỗi sầu triền miên “ đằng đẵng” theo thời gian, “ dằng dặc theo thời gian’’.
Tuy đã “ gượng” đốt hương, “ gượng” soi gương, “ gượng” gảy ngón đàn mà đến nỗi sợ “ hồn đà mê mải”,sợ” lệ lại châu chan”, sợi “ dây đứt phím chùng” mà đành ngậm ngùi trở về với bi kịch với nỗi cô đơn ngự trị trong tâm hồn mình. Trong đau buồn, cô đơn, nàng người chinh phụ khao khát gửi nỗi nhớ thương da diết trong lòng mình đến nghìn trùng xa xôi, đến nơi có người mình yêu thương.
“Lòng này gửi gió đông có tiện
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên.”
Đó là tất cả sự toàn tâm toàn ý, tình cảm thủy chung, tròn đầy và vẹn nguyên nhất được bồi đắp bấy lâu của chinh phụ đều được gửi đến “ Non Yên” , để sẻ chia, cũng là để tâm sự nỗi lòng mình, để thể hiện tình cảm, khao khát của mình đối với tình yêu.
Non Yên, là một địa danh, có tên cụ thể nhưng không ai biết nó ở đâu, cách đây bao xa. Phải chăng đó chỉ là một hình ảnh tượng trưng cho sự xa xôi cách trở giữa hai con người, cho sự vô vọng của người chinh phụ, cho sự vô vọng của một tình cảm thủy chung, trọn vẹn được gửi đi mà chẳng thể nhận được hồi đáp.
“Non Yên dù chẳng tới miền
Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời.”
Khoảng cách càng xa xôi, nỗi nhớ càng đậm sâu, da diết, đến trời thăm thẳm xa vời cũng không thể thấu sự cao vời tràn đầy của nó, biển cả mênh mông chẳng thể hiểu được hết độ sâu của nỗi nhớ ấy. Khi suy tưởng đã nguôi ngoai, chinh phụ quay trở về với thực tại, với những cảnh vật gần mình nhất:
“Sương như búa bổ mòn gốc liễu
Tuyết dường cưa xẻ héo cành ngô
Giọt sương phủ bụi chim gù
Sâu tường kêu vắng chuông chùa nện khơi.”
Đêm sâu , trời lạnh, mọi cảnh vật vốn trơ trọi đến khô khốc giờ lại đứng cạnh nhau, soi chiếu vào nhau khiến cho bức tranh trải ra trước mắt chinh phụ lại trải một màu ảm đạm , thê lương, nhức nhối. “ Cảnh buồn người thiết tha lòng” hay như Nguyễn Du từng nói: “ Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu”, vậy cảnh ở đây đã nhuốm màu buồn lên hồn người hay chính hồn người đã lan thấm nỗi xót xa vào cảnh vật.
Ngoại cảnh mà cũng là tâm cảnh. Nhưng chính sức mạnh ghê gớm nội tại tâm hồn khiến người chinh phụ lại một lần nữa vươn dậy, vươn tới không gian thoáng đạt ngoài kia để tìm cách giải thoát cho tâm hồn mình. Và nàng thấy:
“Lá màn lay ngọn gió xuyên,
Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm
Hoa dãi nguyệt, nguyệt in một tấm,
Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông,
Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng…”
Khoảnh khắc bắt gặp hình ảnh hoa nguyệt ấy có lẽ cũng là khoảnh khắc người chinh phụ say sưa với quá khứ êm đềm của mình với người mình yêu thương-gắn bó, quấn quít, kề cận bên nhau không rời. Các từ chỉ hành động liên tiếp nhau “lay, xuyên, theo, dãi, in, lồng, thắm” càng tô đậm thêm khát khao được hạnh phúc, được quấn quít bên người mình yêu thương đến cồn cào, cháy bỏng, rạo rực. Nhưng, đau lòng thay, thực tế là: “Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đau.”
Dù cho là hình ảnh hoa nguyệt trùng phùng nhưng chúng vẫn cách xa nhau, là hai thực thể hoàn toàn khác nhau, không thể hòa nhập. Dù là quấn quít bên nhau nhưng đã lùi vào quá vãng, vào miền sâu thẳm của vô vọng rồi. Cùng với lúc niềm khát khao dâng đến tận cùng, nỗi đau cũng tràn đầy, khôn nguôi như xé lòng, chẳng thể cất thành lời.
Chỉ là một đoạn trích nhỏ trong “ Chinh phụ ngâm” nhưng “ Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” đã thể hiện tinh thần chung của cả tác phẩm. Âm hưởng chủ đạo là nỗi buồn sầu sâu lắng. Trên nền âm hưởng ấy, có đôi khi rạo rực những khát khao cháy bỏng, có đôi khi da diết tình cảm thủy chung, nhớ mong. Nhưng dù là cung bậc nào đều thấy được vẻ đẹp của người phụ nữ qua hình ảnh người chinh phụ.
Đặc biệt là tiếng nói tố cáo đanh thép chiến tranh phi nghĩa đã gây nên những thương tổn sâu sắc trong tâm hồn con người, những vết thương không bao giờ lành miệng, những trống vắng khó có thể bù đắp được. Đoạn trích đã thể hiện được đầy đủ tinh thần của cả tác phẩm, tư tưởng của tác giả và cả bóng dáng của thời đại lịch sử, của giai đoạn văn học đương thời.
Đọc nhiều hơn ☀️ Cảm Nhận Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ 16 Câu Đầu ☀️ Tuyển Tập Đặc Sắc
Phân Tích 8 Câu Cuối Bài Tình Cảnh Lẻ Loi Ngắn Gọn – Mẫu 3
Dưới đây chia sẻ bài văn phân tích 8 câu cuối bài Tình cảnh lẻ loi ngắn gọn giúp các em học sinh tham khảo cách hành văn súc tích.
Tác phẩm “Chinh phụ ngâm khúc” của tác giả Đặng Trần Côn ra đời vào những năm 40 của thế kỉ XVIII – giai đoạn xã hội rối ren, nội bộ phong kiến mâu thuẫn, chiến tranh loạn lạc diễn ra khắp nơi đã diễn tả thành công bi kịch tinh thần cùng tiếng lòng nhớ thương da diết của những người phụ nữ có chồng ra trận. Trích đoạn “Tình cảnh của người chinh phụ”, bản dịch của Đoàn Thị Điểm đã thể hiện rõ điều này.
Bài thơ đã thể hiện rõ tâm trạng cô đơn sầu muộn của người phụ nữ có chồng ra trận, gián tiếp bộc lộ tiếng nói tố cáo chiến tranh phong kiến phi nghĩa và đề cao hạnh phúc lứa đôi của con người. Nổi bật trong đoạn trích là 8 câu thơ cuối khắc hoạ tâm trạng người chinh phụ để lại nhiều xúc động trong lòng độc giả.
Trong sự tuyệt vọng nhớ nhung và nỗi cô đơn khôn thấu, người chinh phụ gửi gắm tiếng lòng của mình theo gió:
“Lòng này gửi gió đông có tiện ?
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên.
Non Yên dù chẳng tới miền,
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời”
Qua hình ảnh ước lệ “nghìn vàng” – tấm lòng nhớ thương, “gió đông” – ngọn gió mùa xuân thổi từ phương Đông, “non Yên” – nơi chiến trường xa xôi, chúng ta có thể thấy được tấm lòng thủy chung, son sắt, một lòng hướng đến người chinh phu nơi phương xa biên ải xa xôi. Nỗi nhớ ấy càng trở nên khắc khoải thông qua biện pháp điệp ngữ liên hoàn: “non Yên – non Yên”, “đường lên bằng trời – trời thăm thẳm”. Đặc biệt, các từ láy “thăm thẳm”, “đau đáu”, “thiết tha” để diễn tả nỗi nhớ thiết tha cùng nỗi đau tận cùng tâm trạng.
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.
Cảnh buồn người thiết tha lòng,
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.
Bài thơ kết thúc bằng bức tranh ngoại cảnh qua những nét vẽ về “cảnh buồn” như “cành cây sương đượm, tiếng trùng mưa phun”. Tất cả đều gợi lên không khí tang thương, lạnh lẽo, não nề. Cảnh vật đã hòa chung với tiếng lòng não nề của con người. Lòng người dường như trở nên lạnh lẽo trong nỗi cô đơn, tan vỡ, khổ đau.
Thông qua thể thơ song thất lục bát, tác giả đã tái hiện thành công nỗi niềm tâm trạng cô đơn trong âm điệu buồn thương da diết của người chinh phụ. Từ đó, tạo nên giá trị hiện thực qua tiếng nói tố cáo, lên án chiến tranh phong kiến phi nghĩa, những hiểm nguy mà người chinh phu phải đối mặt nơi chiến trường. Tác phẩm còn thấm đẫm giá trị nhân đạo qua những nỗi niềm tâm sự, những cung bậc cảm xúc đầy đau đớn, xót xa, những trống trải, cô đơn cùng khao khát về hạnh phúc lứa đôi của người chinh phụ.
Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất
Phân Tích 8 Câu Cuối Bài Tình Cảnh Lẻ Loi Học Sinh Giỏi – Mẫu 4
Đón đọc bài phân tích 8 câu cuối bài Tình cảnh lẻ loi học sinh giỏi dưới đây với những nội dung nghị luận văn học đặc sắc và chuyên sâu.
Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ được trích trong tác phẩm Chinh phụ ngâm của tác giả Đặng Trần Côn và dịch giả Đoàn Thị Điểm. Tác phẩm đã phản ánh chân thực bản chất tàn bạo của giai cấp thống trị và nỗi đau khổ của những nạn nhân trong chế độ phong kiến thối nát.
Đặc biệt, 8 câu cuối tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ cho thấy tác giả đã đi sâu vào miêu tả tình cảnh éo le của người phụ nữ phải sống trong cô đơn, buồn khổ, trong thời gian đợi chồng đi đánh giặc trở về. 8 câu thơ cuối thể hiện nỗi nhớ và khát khao lứa đôi bỗng trào dâng trong lòng người chinh phụ và trở nên khắc khoải hơn bao giờ hết.
Bài thơ được ra đời trong đầu đời vua Lê Hiển Tông. Đó là thời đại loạn lạc, triều đình ăn chơi trác táng, tham nhũng, cuộc sống người dân vô cùng lầm than, rất nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra khắp nơi. Triều đình phải tuyển binh lính dẹp yên quân khởi nghĩa, nên đã gây ra nhiều cảnh chia ly gia đình.
Chứng kiến những điều đau đớn ấy, Đặng Trần Côn đã sáng tác bài thơ, bày tỏ sự đồng cảm cho than phận người phụ nữ khi phải tiễn chồng ra trận, mong ngóng tin tức sống chết của chồng trong vô vọng. Chinh phụ ngâm được viết bằng chữ Hán gồm 476 câu thơ. Tác phẩm là lời độc thoại của người chinh phụ khi đối diện với sự cô đơn quạnh quẽ khi chồng đi chinh chiến ngoài biên ải xa xôi.
Nếu 16 câu đầu miêu tả tâm trạng lẻ loi, cô đơn, trống trải của người chinh phụ, thì 8 câu thơ cuối lại lột tả nỗi nhớ, khát khao được biết tin chồng mình của chinh phụ:
Lòng này gửi gió Đông có tiện ?
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên
Hai câu thơ đầu, tác giả đã nhân hóa gió Đông như một người đưa tin đến non Yên nhằm nhấn mạnh nỗi mong nhớ lo lắng của người chinh phụ về người chồng. Vì quá nhớ nhung nên người vợ xin ngọn gió gửi nỗi lòng của mình đến non Yên – vùng hẻo lánh xa xôi, nơi người chồng đang xông pha trận mạc, nguy hiểm vô cùng.
Tác giả dung bút pháp nhân hóa, hình ảnh ước lệ “gió Đông”, “non Yên” và câu hỏi tu từ “Lòng này gửi gió Đông có tiện?” đã mở ra không gian mênh mông, hiu quạnh, diễn ra sự trống trải, cô đơn của cảnh vật, càng khiến người đọc ám ảnh hơn về sự khắc khoải, da diết của người chinh phụ.
“Gió Đông” còn thể hiện sự ấm áp, sự sống, báo tin vui của sự đoàn viên, sum họp.Phải chăng, người chinh phụ đang ao ước về sự đoàn tụ, khát khao được biết tin về chồng mình nơi biên cương. Ở đây, tác giả dung từ “nghìn vàng” là hình ảnh ẩn dụ cho tấm lòng của người chinh phụ. Buồn tủi, cô đơn, lo lắng, trống vắng, hy vọng rồi lại thất vọng khi trông ngóng tin tức của chồng. Hai câu thơ đầu còn bày tỏ tình cảm, tình yêu thương, lòng thủy chung son sắt của người vợ nơi quê nhà đối với chồng mình.
Non Yên dù chẳng tới miền
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Thiếp nhớ chàng đau đáu nào xong
Dù gửi tấm lòng, nhớ nhung cho gió Đông, nhưng thực tế thật phũ phàng, đau xót khi “Non Yên chẳng tới miền” nên thành nỗi đau vô hình “thăm thẳm đường lên bằng trời”. Nỗi nhớ của người chinh phụ triền miên, kéo dài đến vô tận, được so sánh với đường lên trời. Nỗi nhớ ấy không thể nguôi nguôi và không thể đo đếm được.
Khoảng cách giữa người chinh phụ với người chồng “thăm thẳm xa vời khôn thấu”, chẳng thể chạm tới được, nghìn trùng mây, chẳng ai thấu, chẳng thể giãi bày cùng ai, cũng không thể chuyển đến người chồng của mình nơi phương xa. Nỗi nhớ của người chinh phụ trở thành “đau đáu”, như bị dồn nén cảm xúc thành nỗi xót xa cay đắng bất tận trong lòng.
Cách miêu tả của tác giả khiến người đọc cảm nhận được không gian mênh mông, da diết, giống như lời than thở, ai oán, trách cứ thể hiện sự tuyệt vọng của người chinh phụ ngày ngày mòn mỏi đợi tin chồng.
Những từ láy “thăm thẳm”, “đau đáu” được sử dụng đắt giá để miêu tả cung bậc của nỗi nhớ người chinh phụ càng tăng dần đến vô tận, xót xa, đau đớn đến bi kịch đáng thương. “Đau đáu” còn hàm ý về sự lo lắng. Người chinh phụ lo lắng cho chồng, cho tương lai của hai vợ chồng và cả cuộc đời của mình khi chồng đi biền biệt chẳng biết tin tức gì.
Cảnh buồn người thiết tha lòng
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun
Ở đây, câu thơ được tách thành hai vế “cảnh buồn” và “người thiết tha lòng” mà không có liên từ, nhấn mạnh hai nghĩa: cảnh buồn khiến cho long người da diết hay nỗi buồn của lòng người thấm vào cảnh vật? Hay cảnh vật và con người cùng hòa vào, cộng hưởng để tạo nên một bản hòa ca của nỗi buồn khó thấu? Giống như trong câu thơ của Nguyễn Du: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu/ Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Cảnh và người đều gặp nhau ở nỗi buồn và niềm đau.
Cảnh vốn vô tri nhưng tâm trạng của con người đã nhuốm sầu cảnh vật. “Cành cây sương đượm” gợi lên sự buốt giá, lạnh lẽo; “tiếng trùng mưa phun” gợi đến sự ảo não, hoang vắng đến nỗi nghe thấy cả tiếng côn trùng kêu rả rích trong đêm.
Tâm trạng của người chinh phụ cô đơn, thổn thức, xen lẫn nỗi nhớ thương, khát khao được đồng cảm nhưng vô vọng. Người chinh phụ hướng nỗi buồn ra ngoài cảnh vật khiến cảnh vật cũng trở nên não nề. Hình ảnh ẩn dụ “cành cây sương đượm”, “tiếng trùng”, “mưa phun” cho nỗi buồn chất chứa, sự cô đơn, héo mòn của người chinh phụ.
Tác giả đã khéo léo sử dụng thể thơ song thất lục bát, hình ảnh ước lệ, ẩn dụ, và thành công trong việc miêu tả diễn biến tâm lý của nhân vật, tả cảnh ngụ tình. Điều này đã đưa người đọc trải qua các cung bậc cảm xúc của nhân vật trữ tình một cách tự nhiên nhất.
Với cách dùng những từ ước lệ, đoạn thơ đã thể hiện một cách tinh tế khát khao về tình yêu và hạnh phúc lứa đôi của người chinh phụ, đồng thời thể hiện niềm thương cảm của tác giả đối với người phụ nữ thời phong kiến nói chung. Đoạn trích cũng bày tỏ sự phản đối, tố cáo chiến tranh phong kiến khiến cho vợ chồng phải chia ly.
Qua tám câu cuối trong bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ dù ngắn nhưng đã chất chứa bao cảm xúc dồn nén của người chinh phụ. Mỗi câu thơ đều khiến người đọc cảm thấy đang lắng nghe người chinh phụ giãi bày tâm trạng cô đơn, đau đớn, và bày tỏ nỗi nhớ chồng nơi biên cương xa xôi.
Thông qua 8 câu thơ, tác giả còn nói hộ những khao khát, mơ ước giản dị, nhỏ nhoi của người phụ nữ trong xã hội phong kiến – ước mong một hạnh phúc gia đình, được đoàn tụ, được yêu thương. Đồng thời, ông cũng lên tiếng phản đối chiến tranh phong kiến, cuộc chiến phi nghĩa khiến xã hội loạn lạc, gia đình chia cắt.
Tham khảo trọn bộ 🌹 Phân Tích Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ 🌹 15 Mẫu Hay Và Đặc Sắc Nhất
Phân Tích 8 Câu Cuối Bài Tình Cảnh Lẻ Loi Nâng Cao – Mẫu 5
Bài văn mẫu phân tích 8 câu cuối bài Tình cảnh lẻ loi nâng cao dưới đây sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích dành cho các em học sinh.
Cuộc nội chiến giữa các tập đoàn phong kiến ở nước ta cuối thế khỉ XVIII đi qua để lại những đau thương mất mát không gì bù đắp được. Văn học thời kì này tập trung phản ánh bản chất tàn bạo, phản động của giai cấp thống trị và nỗi đau khổ của những nạn nhân trong chế độ thối nát ấy.
Tác phẩm “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn ra đời đã nhận được sự đồng cảm rộng rãi của tầng lớp Nho sĩ. Nhiều bản dịch xuất hiện, trong đó bản dịch sang chữ Nôm của bà Đoàn Thị Điểm được coi là hoàn hảo hơn cả. Tác phẩm phản ánh thái độ oán ghét chiến tranh phong kiến phi nghĩa, đặc biệt là đề cao quyền sống cùng khao khát tình yêu và hạnh phúc lứa đôi của con người. Đoạn trích dưới đây là một trong những đoạn tiêu biểu của bản ngâm khúc:
Trong đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ, ta thấy người chinh phụ một mình trong căn phòng quạnh vắng với tâm trạng cô đơn, lẻ loi, nỗi trống trải trong lòng, thì đến 8 câu cuối, nỗi nhớ và nỗi khát khao hạnh phúc lứa đôi bỗng trào dâng trong lòng và trở nên khắc khoải hơn bao giờ hết. Mượn gió đông để gửi yêu thương cho chồng. Đó là ước muốn, là khát khao được biết tin tức về chồng mình:
“Lòng này gửi gió đông có tiện?
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên.”
Tác giả sử dụng câu hỏi tu từ, kết hợp với điển cố (non Yên) để diễn tả nỗi nhớ của nhân vật. “Lòng này” là sự thương nhớ khôn nguôi, vì đã trải qua nhiều đợi chờ. Gió đông là gió mùa xuân. Trong cô đơn, người chinh phụ chỉ biết hỏi gió, nhờ gió đưa tin tới người chồng yêu thương nơi chiến địa xa xôi, nguy hiểm, nơi non Yên nghìn trùng. Non Yên, một địa danh cách xa Thiểm Tây, Trung Quốc hơn hai ngàn dặm về phía Bắc, nơi chiến trận đầy gian khổ.
Nàng hỏi gió, nhờ gió nhưng ”có tiện” hay không? Nàng mong gió hãy mang nỗi nhớ của nàng nói với người chồng ngoài biên cương. Sự cô đơn trong lòng người chinh phụ ngày càng khắc khoải. Làm sao tới được non Yên, nơi người chồng đang “nằm vùng cát trắng, ngủ cồn rêu xanh”? Cùng với những từ ngữ trang trọng “gửi nghìn vàng”, “xin” đã giúp người đọc thấy được không gian, nỗi nhớ được mở ra thật mênh mông, vô tận, khắc sâu nỗi cô đơn, hiu quạnh. Thế nhưng hiện thực thật phũ phàng, đau xót:
“Non Yên dù chẳng tới miền
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời”
Việc sử dụng từ láy “thăm thẳm” đã nói lên được nỗi nhớ da diết của người chinh phụ. Nỗi nhớ thương ấy đè nặng trong lòng, triền miên theo thời gian, “đằng đẵng” không thể nguôi ngoai. Nỗi nhớ ấy được cụ thể hóa bằng độ dài của không gian “đường lên bằng trời”.
Có thể nói, dịch giả Đoàn Thị Điểm đã có một cách nói rất sâu sắc để cực tả nỗi nhớ thương chồng của người chinh phụ. Nỗi nhớ thương ấy, tiếng lòng thiết tha ấy lại được diễn tả qua âm điệu triền miên của vần thơ song thất lục bát với thủ pháp nghệ thuật liên hoàn – điệp ngữ. Cả một trời thương nhớ mênh mông. Nỗi buồn triền miên, dằng dặc vô tận.
Sau khi hỏi “gió đông” để bày tỏ niềm thương nỗi nhớ chồng, cuối cùng đọng lại trong nàng là nỗi đau, sự tủi thân:
“Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong”
Ý của câu như muốn nói lên sự xa cách nghìn trùng, với biển trời rộng lớn, xa “thăm thẳm” không hiểu cho “nỗi nhớ chàng” của người vợ trẻ. Nỗi nhớ “đau đáu” trong lòng. Đau đáu nghĩa là áy náy, lo lắng, day dứt khôn nguôi.
Có thể nói qua cặp từ láy: “đằng đẵng” và “đau đáu”, dịch giả đã thành công trong việc miêu tả những thương nhớ, đau buồn, lo lắng của người chinh phụ một cách cụ thể, tinh tế, sống động. Tâm trạng ấy được miêu tả trong quá trình phát triển mang tính bi kịch đáng thương. Ở hai câu cuối, nhà thơ lấy ngoại cảnh để thể hiện tâm cảnh:
“Cảnh buồn người thiết tha lòng,
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.”
Giống như tâm sự Thúy Kiều trong Truyện Kiều: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu – Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?”, người chinh phụ có lúc thấy cảnh vật vô hồn, thê lương nhưng có khi lại cảm nhận cả khoảng không gian và cảnh vật như đang hối thúc, giục giã, đổi thay, không tìm thấy đâu sự hô ứng, đồng cảm giữa tình người với thiên nhiên.
Niềm thương nỗi nhớ cứ kéo dài từ ngày này sang ngày nọ. Nhìn cành cây ướt đẫm sương đêm mà lòng nàng lạnh lẽo. Nghe tiếng trùng kêu rả rích thâu canh như tiếng đẫm sương đêm mà thêm nhói lòng, buồn nhớ. Âm thanh ấy, cảnh sắc ấy vừa lạnh lẽo vừa buồn, càng khơi gợi trong lòng người vợ trẻ, cô đơn biết bao thương nhớ, lo lắng, buồn rầu.
Bằng những hình ảnh ẩn dụ cho nỗi buồn chất chứa, sự mòn héo của cảnh vật, tám câu thơ cuối đã diễn tả nỗi nhớ da diết, nhớ tới thầm đau của người chinh phụ. Nỗi đau được chuyển từ lòng người sang cảnh vật. Hàng loạt những hình ảnh ẩn dụ, từ ngữ gợi tả lại càng xoáy mạnh vào nỗi đau trong lòng người chinh phụ. Qua đó người đọc cũng cảm nhận được một cách sâu sắc niềm thương cảm, thấu hiểu của tác giả đối với nỗi đau của người phụ nữ có chồng ra trận.
Với thể thơ song thất lục bát, cách dùng từ, hình ảnh ước lệ, điệp từ điệp ngữ, nghệ thuật miêu tả nội tâm, đoạn thơ đã thể hiện một cách tinh tế những cung bậc sắc thái tình cảm của nỗi cô đơn buồn khổ ở nàng khao khát được sống trong hạnh phúc, tình yêu lứa đôi. Đoạn trích còn thể hiện tấm lòng yêu thương, cảm thông sâu sắc của tác giả với những khát khao hạnh phúc chính đáng của người thiếu phụ, cất lên tiếng kêu nhân đạo, phản đối chiến tranh phi nghĩa.
Đoạn trích cũng như toàn tác phẩm “Chinh phụ ngâm” là tiếng kêu thương tâm của người phụ nữ nhớ chồng nơi chinh chiến. Trạng thái tình cảm của người chinh phụ một mặt có ý nghĩa tố cáo những cuộc chiến tranh phi nghĩa đã đẩy bao nhiêu người trai ra trận để biết bao chinh phụ héo hon tựa cửa chờ chồng, mặt khác lên tiếng nói tình cảm và sự ý thức về quyền sống, quyền hưởng hạnh phúc lứa đôi của người phụ nữ ngay giữa cuộc đời trần thế này.
Tác phẩm đã khẳng định những giá trị nhân văn cao cả mà khúc ngâm đã đem lại, đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của giai đoạn văn chương thế kỷ XVIII trong quá trình phát triển của nền văn học dân tộc.
SCR.VN chia sẻ 🌼 Phân Tích 8 Câu Đầu Bài Tình Cảnh Lẻ Loi 🌼 13 Mẫu Cực Hay
Phân Tích Bài Tình Cảnh Lẻ Loi 8 Câu Cuối Đặc Sắc – Mẫu 6
Đón đọc bài văn phân tích bài Tình cảnh lẻ loi 8 câu cuối đặc sắc dưới đây để trau dồi cho mình những ý văn hay.
Chiến tranh đã qua đi từ rất lâu nhưng những câu chuyện, tàn dư vẫn còn kéo dài mãi đến tận hôm nay. Những bài học lịch sử. những giai thoại văn học vẫn nhuốm đầy mùi đau thương. Tôi chợt nhớ đến người chinh phụ – chinh phu trong tác phẩm “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn. Người chinh phụ ngày nhớ đêm mong người chồng nơi chiến trường đã ngậm ngùi thốt lên những lời ngâm xót xa. Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ ấy đột nhiên làm tôi giật mình xót thương…
“Chinh phụ ngâm” có thể nói là một tác phẩm nổi tiếng của Đặng Trần Côn được Đoàn Thị Điểm dịch (bản dịch trong sách Ngữ văn 10). Tác phẩmlà lời độc thoại nội tâm của người vợ có chồng tham gia cuộc chiến do triều đình phong kiến khởi xướng. Người vợ đã khuyên chồng ra phò vua giúp nước mong muốn gây dựng công danh.
Tuy nhiên khi tiễn đưa người chồng đi rồi người vợ nơi quê nhà cô quạnh nhớ thương, khúc ngâm là những nhớ thương, tưởng tượng của người vợ về hình ảnh chồng nơi chiến trường. Đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” diễn tả tâm trạng trăn trở, lo lắng của người chinh phụ khi đã quá hạn mà chồng vẫn chưa về, nàng gửi trọn tất cả niềm nhớ vào cảnh vật, vào từng hành động mỗi ngày.
Chúng ta đều biết những người yêu nhau sẽ luôn muốn ở cạnh nhau, đặc biệt là khi mới vừa lập gia đình. Và người chinh phụ cũng không ngoại lệ, tình cảm vợ chồng chưa bao lâu mà chàng đã phải ra chiến trường. Ngày đưa tiễn, nàng dặn lòng sẽ chờ nhưng rồi trở về căn phòng trống vắng chỉ có cảnh không còn người, nàng tự trách, tự hỏi cớ sao đôi lứa phải chia lìa nhau? Bao nhiêu nỗi cô đơn, buồn tủi, than trách tuôn trào khi phải chịu cảnh lẻ loi…
Nếu những dòng thơ đầu hình ảnh người chinh phụ hiện lên với từng nỗi nhớ chỉ thoáng thấy qua cảnh vật thì tám câu cuối nỗi nhớ đã tuôn trào, bật ra thành tiếng, thành hình. Chinh phụ đem nỗi nhớ ấy gửi cho gió đông, nhờ gió đem đến cho người chồng của mình nơi chiến trường:
“Lòng này gửi gió đông có tiện
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên”
Người chinh phụ giờ vẫn bặt vô âm tín, nàng chỉ biết chàng ở biên ải xa xôi mà chỉ có gió mới giúp nàng mang nhớ thương gửi đến nơi chàng. Nỗi nhớ dày hơn, nhạy hơn khi nhịp thơ, điệp từ liên tục lặp lại, đồn dập, tha thiết:
“Non Yên dù chẳng tới miền,
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.”
Từ láy gợi độ sâu, độ rộng của nỗi nhớ xuất hiện liên tục “thăm thẳm”, “đau đáu” – thời gian, không gian lúc này như một đơn vị để đo lường cho nỗi nhớ. “Thăm thẳm đường lên bằng trời” – có ai biết đường lên trời ấy dài bao nhiêu? Nỗi nhớ cứ kéo dài mãi không biết là bao lâu, bao xa, thậm chí chuyển sang hòa vào trời xanh rộng lớn.
Nếu thời gian là độ dài của nỗi nhớ, không gian là độ rộng thì lòng chinh phụ chính là độ sâu của nỗi nhớ. “Đau đáu” là khát vọng nhưng cũng chính là vô vọng, bao nỗi nhớ nhờ gió gửi tận trời cao nhưng đổi lại chỉ là sự lo sợ rằng chàng nơi biên cương liệu có biết lòng nàng đang ngày đêm mong nhớ? Và nếu biết có lẽ chàng đã trở về…
Nhớ thương gửi trọn vào cảnh vật, tâm trạng con người cũng hòa chung vào cảnh vật. Người chinh phụ nhìn cảnh vật mà chạnh lòng hay ta tự hỏi chính lòng chinh phụ đang sầu nên nhìn cảnh chỉ nhuốm màu đau thương? “Cảnh buồn người thiết tha lòng” hay lòng người gieo rắt nỗi sầu cho cảnh? Có lẽ chỉ lòng người chinh phụ mới hiểu rõ. Hay lòng nàng giờ đã buốt giá:
“Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun”
Đêm đã vê khuya, sương rơi thấm đẫm những cành cây trong đêm, thấm cả tâm hồn đã nguội của chinh phụ, làm tâm hồn nàng trở nên giá buốt hơn. Tiếng côn trùng bật lên trong đêm càng gợi sự cô quạnh, nhưng cũng chính là tiếng lòng nàng đang rung lên hồi chuông buông xuôi bất lực, Nỗi sầu nhớ lúc này hòa vào tiếng mưa, vào tự nhiên, lẫn vào âm thanh sầu thảm của đêm tối. Con người, tâm trí nàng đã tan theo làn mưa đêm…
Thiết nghĩ để khắc họa hình ảnh người chinh phụ cùng nỗi nhớ sâu nặng ấy tác giả đã rất tinh tế trong việc lựa chọn từ ngữ, hình ảnh. Kết hợp với nhịp thơ dào dạt của thể thơ song thất lục bát càng làm người đọc như cuốn vào từng cung bậc cảm xúc, trôi theo tâm trạng của người chinh phụ. Bút pháp nghệ thuật tài hoa, ngôn từ giản dị mà sâu sắc, cảnh – tình như hòa trộn vào nhau, điều này đã giúp tác giảthành công trong việc chiếm trọn cảm xúc của độc giả.
Người chinh phụ ấy khao khát sự đồng cảm mãnh liệt nhưng đến cuối cùng vẫn chỉ một mình. Nàng còn quá trẻ, nàng vẫn còn sự nồng cháy trong tình yêu đôi lứa, mặn nồng của hạnh phúc vợ chồng, Ấy thế mà chiến tranh đã cướp đi điều tưởng chừng đơn giản đó để rồi bỏ lại nàng cô đơn, lẻ bóng, ngóng trông tin người thương trong vô vọng.
Mượn hình ảnh người chinh phụ không chỉ để nàng nói lên nỗi nhớ thương, tình cảnh lẻ loi mà qua đó còn là tiếng nói lên án chiến tranh phi nghĩa, đấu tranh đòi quyền hạnh phúc lứa đôi trong tình yêu. Và quan trọng là khát khao được sống hạnh phúc giữa thời bình.
Khép lại bài thơ nhưng hình ảnh người chinh phụ ngồi trước gương lệ châu chan vẫn cứ ám ảnh tâm trí tôi mãi. Tôi thương nàng, thương cho số phận lẻ bóng, thương cho kiếp phụ nữ đang ở lứa tuổi xuân thì đã chịu cảnh đơn chiếc. Giật mình, tôi chợt nghĩ có lẽ xã hội phong kiến còn rất nhiều nữa những người chinh phụ như nàng. Những suy nghĩ cho số phận của họ cứ thường trực trong tôi…
“Khắc giờ đằng đẳng như niên
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa”
Tiếp theo đón đọc 🌹 Phân Tích 8 Câu Giữa Bài Tình Cảnh Lẻ Loi 🌹 10 Mẫu Hay Nhất
Phân Tích Đoạn Trích Tình Cảnh Lẻ Loi 8 Câu Cuối Chi Tiết – Mẫu 7
Tham khảo bài văn phân tích đoạn trích Tình cảnh lẻ loi 8 câu cuối chi tiết để củng cố lại nội dung và những kiến thức xoay quanh tác phẩm.
Ra đời vào nửa đầu thế kỉ XVIII với nguyên tác bằng Hán văn của Đặng Trần Côn, Chinh Phụ Ngâm đã mau chóng đi vào lòng mọi tầng lớp quần chúng. Trải qua hơn hai thế kỉ rưỡi cho đến nay, Chinh Phụ Ngâm luôn giữ nguyên giá trị của một viên ngọc văn chương sáng ngời, một sản phẩm đáng tự hào của xứ sở vốn “nổi tiếng thi thư”.
Trong đó, đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ cho thấy rõ tâm trạng cô đơn của người vợ nhớ chồng ra trận và nghệ thuật miêu tả tâm trạng bậc thầy của hai tác giả Đặng – Đoàn, với nghệ thuật diễn Nôm đặc biệt xuất sắc của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm. Đoạn trích tinh cảnh lẻ loi của người chinh phụ viết về tình cảnh và tâm trạng người chinh phụ phải sống cô đơn, buồn khổ trong thời gian dài người chồng đi đánh trận mà không rõ tin tức:
Nếu mười sáu câu đầu là đoạn điệp khúc khi mà nỗi nhớ thương và tâm trạng đau thương được đẩy lên đến cùng cực, thì tám câu sau này lại như một đoạn nhạc dạo trước cao trào. Tấm lòng hướng về phương xa nơi chồng đang chinh chiến chậm rãi biến nỗi cô đơn thành một nỗi đau, một nỗi đau không gì sánh được. Như một chữ ‘thiết tha’, nó mài, nó cắt vào ruột gan người đọc hệt như cách nó làm đau đớn lòng người chinh phụ. Trước hết là một ước mong cháy bỏng đêm ngày:
“Lòng này gửi gió đông có tiện?
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên”
Sau những day dứt của một trạng thái bế tắc cao độ, người chinh phụ chợt nảy ra một ý nghĩ rất chân thành mà cũng rất nên thơ: nhờ ngọn gió xuân gửi lòng mình tới người chồng ở chiến trường xa, đang đối đầu từng ngày từng giờ với cái chết để mong kiếm chút tước hầu. Chắc chắn, chàng cũng sống trong tâm trạng nhớ nhung mái ấm gia đinh cùng với bóng dáng thân yêu của người vợ trẻ:
Non Yên dù chẳng tới miền,
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.
Không gian xa cách giữa hai đầu nỗi nhớ được tác giả so sánh với hình ảnh vũ trụ vô biên: Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời. Thăm thẳm nỗi nhớ người yêu, thăm thẳm con đường đến chỗ người yêu, thăm thẳm con đường lên trời. Câu thơ hàm súc về mặt ý nghĩa và cô đọng về mặt hình thức. Cách bộc lộ tâm trạng cá nhân trực tiếp như thế này cũng là điều mới mẻ, hiếm thấy trong văn chương nước ta thời trung đại:
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.
Hai câu thất ngôn chứa đựng sự tương phản sâu sắc tạo nên cảm giác xót xa, cay đắng. Đất trời thì bao la, bát ngát, không giới hạn, liệu có thấu nỗi đau đớn đang giày vò ghê gớm cõi lòng người chinh phụ hay chăng? Nói như người xưa: trời thì cao, đất thì dày, nỗi niềm uất ức biết kêu ai? Biết ngỏ cùng ai? Bởi vậy nên nó càng kết tụ, càng cuộn xoáy, gây nên nỗi đau đớn khôn nguôi:
Cảnh buồn người thiết tha lòng,
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.
Giữa con người và cảnh vật dường như có sự tương đồng khiến cho nỗi sầu thương trở nên da diết, bất tận. Cảnh vật xung quanh người chinh phụ đã chuyển thành tâm cảnh bởi được nhìn qua đôi mắt đẫm lệ buồn thương. Sự giá lạnh của tâm hồn làm tăng thêm sự giá lạnh của cảnh vật. Cũng giọt sương ấy đọng trên cành cây, cũng tiếng trùng ấy rả rích trong đêm mưa gió, nhưng cảnh ấy tình này lại gợi nên bao sóng gió, bao nỗi đoạn trường trong lòng người chinh phụ.
Tình cảnh ấy, tâm trạng ấy tự nó đã nói lên bi kịch của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa kia. Ý thơ đi từ tình đến cảnh rồi lại từ cảnh trở về tình, cứ lặp đi lặp lại như vậy nhằm thể hiện rõ tình cảnh lẻ loi và tâm trạng cô đơn của người chinh phụ. Dù ở đâu, lúc nào, làm gì nàng cũng chỉ lầm lũi, vò võ một mình một bóng mà thôi!
Bằng bút pháp nghệ thuật điêu luyện, tác giả đã diễn tả được những diễn biến phong phú, tinh vi các cung bậc tình cảm của người chinh phụ. Cảnh cũng như tình được miêu tả rất phù hợp với diễn biến của tâm trạng nhân vật. Thông qua tâm trạng đau buồn của người chinh phụ đang sống trong tình, cảnh lẻ loi vì chồng phải tham gia vào những cuộc tranh giành quyền lực của vua chúa, tác giả có chủ ý đề cao hạnh phúc lứa đôi và thể hiện thái độ bất bình, phản kháng đối với chiến tranh phi nghĩa.
Tác phẩm Chinh phụ ngâm đã toát lên tư tưởng chủ đạo trong văn chương một thời, đó là tư tưởng đòi quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc rất chính đáng của con người.
Có thể bạn sẽ thích 🌳 Phân Tích Chuyện Chức Phán Sự Đền Tản Viên 🌳 15 Mẫu Hay Và Đặc Sắc
Phân Tích 8 Câu Cuối Tình Cảnh Lẻ Loi Ngắn Hay – Mẫu 8
Với bài phân tích 8 câu cuối Tình cảnh lẻ loi ngắn hay dưới đây, các em học sinh có thể tham khảo và linh hoạt vận dụng khi viết bài.
Chiến tranh – hai từ nghe sao mà đau thương, nó đã để lại bao hậu quả, về sự chia li, sự mất mát. Từ thời xa xưa, chiến tranh luôn xảy ra vì muốn giành lại độc lập hoặc xâm chiếm. Dù vì mục đích gì, nó đã làm cho bao gia đình đau khổ trong cảnh chia li, từng ngày ngóng trông lo lắng.
Hiểu được nỗi lòng đó, ở thế kỉ XVIII, tác giả Đặng Trần Côn đã sáng tác bài thơ “Chinh phụ ngâm” về sự mất mát, cô đơn của người phụ nữ, gia đình có chồng đi lính. 8 câu thơ cuối trong đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” đã làm nổi bật lên nỗi buồn, lẻ loi, ngày ngày lo lắng cho chồng, và mong rằng có một tương lai hạnh phúc.
Sống trong sự cô đơn, lo lắng cho người chồng đang chinh chiến nơi biên viễn, trong lòng người chinh phụ vẫn luôn hướng về miền đất xa xôi kia, luôn gìn giữ tấm lòng thủy chung của mình:
Lòng này gửi gió đông có tiện?
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên.
Non Yên dù chẳng tới miền,
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.
Cảnh buồn người thiết tha lòng,
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.
Không gian dường như được mở rộng hơn, xa hơn đến tận núi Non Yên. Nàng gom lại những nỗi nhớ, lòng yêu thương sâu sắc tận tâm mình, nhờ gió đông gửi tới cho người biên ải xa xôi. Một hình ảnh ước lệ đã gợi lên khoảng cách địa lí giữa hai con người, nỗi nhớ tràn ra cả không gian rộng lớn, kết hợp với hình ảnh hơi khoa trương về nỗi nhớ nhung rằng nó dài đằng đẵng, và rồi dường như chỉ có kích thước của vũ trụ ấy mới đo được lòng nàng vậy.
Giữa cảnh người và vật có sự tương đồng bởi “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Người chinh phụ nhìn cảnh vật bằng đôi mắt chất chứa buồn thương. Các câu thơ dù đi từ tả tâm trạng đến tả cảnh hay ngược lại thì ta càng thấy sự luẩn quẩn trong lòng người phụ nữ cô đơn, lẻ loi. Từ láy “thiết tha” cho thấy sự dai dẳng không thôi, nó đeo bám người chinh phụ, như muốn cắt da cắt thịt bằng nỗi nhớ mong ấy. Cảnh vật càng cây, sương, mưa, các hình ảnh đều bé nhỏ, mong manh cũng như nàng vậy, khiến nàng càng thêm sầu não.
Dưới ngòi bút của mình, tác giả đã sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật trong việc diễn tả tâm trạng của người chinh phụ. Ông đã sử dụng các từ láy rất độc đáo kết hợp với biện pháp điệp ngữ, khéo léo trong việc lấy hình ảnh ẩn dụ, các bút pháp ước lệ tượng trưng. Đặc biệt, ông đã rất thành công trong việc “tả cảnh ngụ tình” đã làm nổi bật các cung bậc cảm xúc của người phụ nữ. Thể thơ song thất lục bát với âm điệu réo rắt đã khiến cho người đọc không khỏi đồng cảm, yêu thương người chinh phụ nhiều hơn.
Những vần thơ trong đoạn trích đã vẽ lên một nỗi buồn tâm can của người phụ nữ có chồng đi chinh chiến. Qua đó, tác giả muốn lên án tố cáo chiến tranh phong kiến đã làm phá hủy hạnh phúc lứa đôi của con người, đồng thời ông muốn khẳng định quyền được hạnh phúc của con người. Ông đồng cảm với người phụ nữ và luôn mong muốn họ cũng có được hạnh phúc, cho thấy ông là một người có một tư tưởng nhân đạo thật sâu sắc: yêu thương, trân trọng con người.
Đừng bỏ qua 🔥 Phân Tích Tựa Trích Diễm Thi Tập 🔥 8 Bài Văn Hay Nhất
Phân Tích 8 Câu Cuối Đoạn Trích Tình Cảnh Lẻ Loi Đơn Giản – Mẫu 9
Tham khảo văn mẫu phân tích 8 câu cuối đoạn trích Tình cảnh lẻ loi đơn giản dưới đây với những ý văn ngắn gọn và luận điểm cơ bản nhất.
Chinh Phụ Ngâm là khúc ngâm não lòng mà cũng thấm đẫm cảm xúc nhất trong văn đàn văn học Việt Nam, đặc biệt 8 câu thơ cuối chính là sự dồn nén của dòng cảm xúc nhớ thương, khắc khoải vò võ ở những câu thơ đầu để càng trở nên da diết.
“Lòng này gửi gió đông có tiện?
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên.”
Lòng này là sự cụ thể hóa nỗi nhớ và niềm thương mà người chinh phụ đang giam cầm trong lòng mình, nó cứ mãi khắc khoải và trở trăn trong lòng nhân vật trữ tình, nỗi lòng ấy bao trùm thậm chí nhấn chìm cả không gian thời gian, nhưng người chinh phụ tội nghiệp ấy còn biết làm gì khác hơn ngoài nhớ thương. Nàng mong gió sẽ mang nỗi nhớ, mang những đợi chờ và tin yêu của nàng gửi đến người chồng ở phương xa, đang phải đối mặt với nguy hiểm muôn vàn.
Nhưng tiếc thay, nơi tấm chân tình ấy gửi đến lại quá đỗi xa xôi, nên người chinh phụ tự hỏi liệu nó có thể tới được nơi, liệu nó có thể chạm thấu đến nỗi lòng người chinh phụ, các cụm từ chỉ thời gian thăm thẳm xa xăm, cùng các cảm thán từ van xin khẩn thiết càng gợi sự chua xót hơn bao giờ hết:
“Non Yên dù chẳng tới miền
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời”
Từ láy thăm thẳm như làm đầy, làm sâu, làm trầm hơn cung bậc nỗi nhớ, và càng nhấn mạnh rằng, nỗi nhớ của người chinh phụ da diết, khắc khoải thậm chí giằng xé nhường nào được so sánh cả với đường lên tới trời. Vừa là cảm xúc, vừa gợi sự mơ hồ, vô định của xúc cảm bởi tâm tưởng đang bao quanh, đang chập chờn trong cơn mê và nỗi nhớ thương. Sau khi hỏi gió đông để bày tỏ phần nào niềm mong mỏi và nỗi tủi hờn, người chinh phụ đành ngậm ngùi chốt lại trong câu độc thoại với bản thân:
“Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong”
Cảnh buồn người thiết tha lòng,
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun”.
Niềm thương, nỗi nhớ bao trùm, lấn chiếm cả không gian thời gian, và nhuốm màu tâm trạng vào cảnh vật. Tiếng mưa ướt lạnh, và sự vận động cô quạnh của cảnh vật một lần nữa được dịch giả Đoàn Thị Điểm khắc họa trọn vẹn, chân thực, sống động. Các từ láy đau đáu, thăm thẳm, thiết tha như những lớp sóng ngôn từ, lớp sóng lòng làm dày thêm, đậm thêm, sầu muộn thêm nỗi nhớ và tình cảnh người chinh phụ.
Bằng những hình ảnh ẩn dụ ấn tượng, không chỉ mang linh hồn của cảnh vật, mà còn mang trong nó tâm trạng của nhân vật người chinh phụ, đã diễn tả xuất sắc những khoảnh khắc tâm lý buồn thương da diết khôn thấu của người chinh phụ, từ đó mở ra những dư ba trong tâm hồn người cảm nhận.
Ngoài ra, tại SCR.VN còn có 🌺 Phân Tích Hồi Trống Cổ Thành 🌺 11 Bài Văn Hay Nhất
Phân Tích 8 Câu Cuối Bài Tình Cảnh Lẻ Loi Facebook – Mẫu 10
Chia sẻ dưới đây bài văn phân tích 8 câu cuối bài Tình cảnh lẻ loi Facebook giúp các em học sinh có thêm cho mình tư liệu tham khảo phong phú hơn.
Phải chăng trong bất cứ cuộc chia li nào thì người ở lại cũng là người đau khổ nhất. Nền văn học Việt Nam đã chứng kiến biết bao cuộc chia li trong lịch sử, đặc biệt ở thế kỉ XVIII, Đặng Trần Côn đã lấy bối cảnh cuộc chia li đầy lưu luyến, bi thương của người phụ nữ phải xa chồng trong thời gian dài, chờ tin chồng ra trận trở về với khao khát hạnh phúc lứa đôi qua khúc ngâm “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ”.
Hiện thực chiến tranh tàn khốc, Đặng Trần Côn đã hướng ngòi bút nhân đạo của mình đến nỗi đau của người phụ nữ để cất lên tiếng nói của cả thời đại. Tác giả lên án chiến tranh phi nghĩa, cướp đi cuộc sống ấm no, hạnh phúc của con người. Có lẽở nơi chiến trường kia, chinh phu đang phải đối diện cận kề với cái chết thì ở nơi quê nhà chinh phụ cũng đang mong mỏi chờ đợi tin tức của chồng trong vô vọng, buồn tủi.
Với thể thơ song thất lục bát, 8 câu cuối đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” đã miêu tả những cung bậc và sắc thái của nỗi cô đơn ở người chinh phụ với khao khát được sống trong tình yêu, trong hôn nhân hạnh phúc gia đình.
Nếu ở những khổ thơ trên là nỗi buồn, nỗi cô đơn triền miên của người chinh phụ thì ở khổ thơ cuối này chính là nỗi nhớ thương chồng đau đáu, khôn nguôi:
“Lòng này gửi gió đông có tiện?
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên.
Non Yên dù chẳng tới miền,
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.
Cảnh buồn người thiết tha lòng,
Cành cây sương đụng tiếng trùng mưa phun”.
Phải chăng, người phụ nữ đã gom hết những yêu thương trong lòng để nhờ cơn gió đông kia gửi đến chồng ở nơi “Non Yên”. “Gió đông” chính là gió xuân tươi mát làm dịu đi nỗi buồn trong cảnh vật và lòng người nhưng nỗi nhớ chồng của người chinh phụ vẫn luôn thường trực trong lòng.
Không gian xa xôi cách trở nên người chinh phụ bèn nhờ cơn gió đông gửi đến chồng những lời yêu thương nhất. Tâm trạng của người phụ nữ được miêu tả trực tiếp qua nỗi nhớ dài đằng đẵng được so sánh bằng đường lên tận trời.Đất trời bao la liệu có thấu cho nỗi chia li đau đớn của nàng không?
Nỗi nhớ thương ấy còn có cả dư vị của sự ngậm ngùi, xót xa “Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong”.Đường lên trời mù mịt, xa xôi cách trở cũng giống như nỗi nhớ mong của nàng rộng lớn như bể, chẳng biết đâu là bến bờ, cũng chẳng biết khi nào người chồng mới trở về bên nàng.
Cảnh vật xung quanh được nhìn dưới đôi mắt buồn của người chinh phụ càng trở nên sầu muộn hơn: “Cảnh buồn người thiết tha lòng/ Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun”. Người phụ nữ ấy đã nhìn cảnh vật xung quanh với đôi mắt buồn làm cho khung cảnh càng thêm hoang vắng, quạnh hiu.Người phụ nữ ấy sống trong sự dày vò của cô đơn, trong nhớ nhung, lo lắng day dứt suốt ngày dài triền miên nhưng ta cũng thấy được niềm khao khát được hưởng hạnh phúc đến mãnh liệt của nàng
Đoạn trích trên đã miêu tả thành công “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” bằng tấm lòng nhân đạo của tác giả. Nhà thơ đã khắc họa thành công hình ảnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, tiêu biểu cho bi kịch về hạnh phúc lứa đôi, là hiện thân của cái đẹp với một tấm lòng chung thủy sắt son với chồng. Nhà thơ đã lên án chiến tranh phi nghĩa cướp đi hạnh phúc của con người, chính vì mà thế đoạn trích trên đã được rất nhiều độc giả của mọi thời đại tìm đọc và yêu thích.
Tham khảo trọn bộ 🌟 Phân Tích Độc Tiểu Thanh Ký 🌟 15 Bài Văn Ngắn Hay Nhất