Cảm Nhận Về Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ [23+ Mẫu Hay Nhất]

Cảm Nhận Về Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ ❤️️ 23+ Mẫu ✅ Tuyển Tập Các Bài Văn Mẫu Đặc Sắc Cảm Nhận Về Tình Cảnh Lẻ Loi Người Chinh Phụ.

NỘI DUNG BÀI VIẾT

Dàn Ý Cảm Nhận Về Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ

Scr.vn chia sẻ cho các em học sinh mẫu dàn ý cảm nhận về tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ chi tiết, hãy dựa vào đó để triển khai thành bài văn chi tiết.

I. Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm:

  • Tác giả: Đặng Trần Côn sinh ra Hà nội.
  • Tác phẩm: Tình cảnh lẻ loi người chinh phụ viết về cảnh và tâm trạng người phụ nữ phải sống trong cô đơn, buồn khổ, trong thời gian đợi chồng đi đánh giặc trở về, không có tin tức.

II. Thân bài:

– Phân tích:

Tám câu đầu: Thời gian chờ đợi mỏi mòn.

  • Hai câu thơ đầu: Hành động vô thức của người chinh phụ, hành động lặp đi lặp lại tâm trí đã để nơi biên ải xa nên tất cả việc làm đều không kiểm soát.
  • Hai câu tiếp: Sự ngóng trông chim khách báo tin lành những biệt vô âm tín.
  • Hình ảnh ngọn đèn: Nói lên thời gian trôi nhanh, người phụ nữ cô đơn một mình đối diện với ngọn đèn vô tri, vô giác lòng mang đầy nỗi sầu, sầu thương về niềm hạnh phúc dở dang.
  • Gà eo óc: Tiếng gà âm thanh duy nhất trong đêm tối nhưng lại nhanh chóng im lặng.
  • Hòe phất phơ: Gợi cảm giác cô quạnh, lạnh lẽo và sự cô đơn của người chinh phụ.

– “Khắc giờ” mà cứ như một năm chờ đợi, mối sầu đã đong đầy thành biển khơi vô tâm.

– Người thiếu phụ đợi chờ chồng trong mỏi mòn, lo lắng trong sự bồn chồn không yên lo cho sự bình an của chồng.

– Sự gắng gượng thoát khỏi nỗi bủa vây của sự cô đơn:

  • gượng đốt hương -> mê mải về quá khứ
  • gượng soi gương -> nước mắt tuôn trào
  • gảy đàn -> lo cho đứt dây đàn báo điềm chẳng lành.

– Người phụ nữ gắng gượng bản thân thoát nỗi cô đơn, nhưng càng bị bủa vây nỗi cô đơn đó, càng đau khổ tuyệt vọng.

* Tám câu cuối: Sự thương nhớ của người thiếu phụ

  • Gió đông: Gió mùa xuân
  • Nghìn vàng: lòng thương nhớ, trân trọng quý như vàng.
  • Núi Yên: nơi chiến trận ngoài biên ải xa xôi.–> Người thiếu phụ gửi nỗi nhớ vào gió đến chồng của mình
  • Núi Yên ở đâu nàng cũng không biết, trời thăm thẳm xa vời không thấu cho nỗi niềm của nàng
  • Cảnh buồn: sương, cành cây, mưa phùn đượm nỗi buồn người chinh phụ. Thiết tha là nỗi buồn khôn nguôi, không lối thoát, dai dẳng, dày sé con tim.

III. Kết bài:

  • Bài thơ hay
  • Cung bậc và sắc thái khác nhau sự cô đơn, buồn khổ, khát khao sống trong tình yêu và hạnh phúc lứa đôi.

Cảm Nhận Về Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ Ngắn Gọn – Bài 1

 Sau đây là bài văn cảm nhận về tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ ngắn gọn sẽ giúp các em chuẩn bị cho bài kiểm tra trên lớp hoàn chỉnh nhất và sẽ đạt điểm khá giỏi. 

Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ là một đoạn trích tiêu biểu trong tác phẩm Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn. Đoạn trích không chỉ thể hiện được tâm trạng của người phụ nữ có chồng đi lính mà còn có nhiều nét đặc sắc về nghệ thuật. Với ngòi bút sâu sắc và khéo léo tác giả đã phản ánh một hiện thực xã hội về chiến tranh, nó không chỉ ảnh hưởng tới người trực tiếp tham gia chiến đấu mà nó còn ảnh hưởng tới người thân của họ mà cụ thể là người vợ.

Trước hết đoạn trích thể hiện nỗi cô đơn tủi phận, nỗi thương nhớ buồn thương mong muốn gửi tới chàng tấm lòng vàng của người phụ nữ. Những hành động, cử chỉ, trạng thái tâm trạng được tăng tiến dần thể hiện nỗi cô đơn buồn tủi chuyển dần thành nỗi bi ai, buồn rầu, tuyệt vọng:

“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
…..
Hoa đèn kia với bóng người khá thương!”

Hành động dạo hiên vắng cho thấy người phụ nữ đang cô đơn, quanh quẩn với thềm với chiếc rèm và cây đèn hoa nọ. Nàng không thể làm gì và cũng không thiết làm gì. Nàng dạo từng bước một, như gieo mình buông thả mặc cho bước chân đi tới đâu, cũng không mảy may đến độ dài rộng của chiếc bậc để khỏi bị ngã. Hành động này thể hiện tâm trạng thơ thẩn thẫn thờ của nàng khi thiếu vắng chàng.

Trong lòng nỗi băn khoăn, nhớ nhung cứ dằng dặc. Nàng ngồi trong chiếc rèm rồi chờ con thước báo tin chồng nhưng chỉ tuyệt vọng. Nàng tự hỏi đèn thường xuyên thức cùng nàng mong ngóng tin chồng thì liệu đèn có biết được nỗi lòng của nàng. Đèn chỉ là vật vô tri vô giác làm sao có thể hiểu thấu được lòng nàng. Tâm trạng nàng thay đổi từ thẫn thờ đến trông mong, bi thiết và buồn rầu tuyệt vọng.

Nàng chờ đợi trông mong rồi thức cả năm canh dài, một khắc trôi qua dài như một năm, mối sầu được thế càng giăng kín trong lòng người thiếu phụ. Nàng ngắm nhìn cảnh vật mà tự thương lấy bản thân mình. Buồn là thế nàng gượng cả đốt hương, vì càng đốt thì nàng hồn nàng càng như mê mệt, nàng gượng cả soi gương vì sợ nhìn thấy chính mình lại nước mắt thương thân. Muốn đánh đàn để vơi đi nỗi nhớ, để bày tỏ lòng mình với trời đất nhưng lại kinh ngại dây tơ hông, loan phượng đứt chùng:

“Hương gượng đốt, hồn đà mê mải,
Gương gượng soi, lệ lại chứa chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng”

Trước muôn vàn nỗi nhớ người chinh phụ muốn gửi đến chồng mình tấm lòng thủy chung son sắt, gửi cả những nỗi nhớ niềm thương sự lo lắng tới chàng:

“Lòng này gửi gió đông có tiện,
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên
Non Yên dù chẳng tới miền,
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.”

Nàng nhờ gió đông gửi đến chàng cho tiện nhưng liệu chàng có thể nhận được chăng. Trời cao với chẳng ai khôn thấu, lòng nàng buồn rầu liệu ai hiểu được chăng. Không chỉ người buồn mà cảnh vật cũng buồn, những hình ảnh thiên nhiên được nhìn qua con mắt của người thiếu phụ buồn rầu vì thương nhớ cũng mang một màu tâm trạng nhớ thương:

“Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên.
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền bể xa.”

Âm thanh của tiếng gà gáy trở nên “eo óc” ảm đạm, Cây hòe tươi đẹp ngày nào nay ủ rũ bốn bên, dưới bầu trời sương dằng dặc như giọt nước mắt thầm lặng của người chinh phụ, hòe hiện lên như khuôn mặt buồn bi thiết. Ở đây tác giả đã sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình, nói thiên nhiên để thể hiện tâm trạng của người chinh phụ.

Như vậy, nhà thơ đã vẽ lên một bức tranh người và cảnh đẹp nhưng buồn. Bức tranh ấy có hình ảnh của những bông hòe ủ rủ bốn bên, mềm mại những yếu ớt, có những hạt mưa phùn rơi trên thềm vắng. Người con gái như đang chuyển động từ dạo bước rồi ngồi rồi lại mong ngóng trông xa. Người thiếu phụ ấy vẫn còn trẻ nhưng lại đang đối mặt với nguy cơ trở thành một người phụ nữ góa chồng. Nàng cô đơn một phần thì thương nhớ lo lắng đến hơn mười phần.

Khám phá thêm👉 Cảm Nhận Độc Tiểu Thanh Kí ❤️️12 Bài Văn Ngắn Hay Nhất

Cảm Nhận Bài Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ Hay Nhất – Bài 2

Nếu bạn đang tìm những bài văn cảm nhận về bài tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ hay nhất thì đừng nên bỏ qua bài văn mẫu gợi ý sau đây.

Văn học thế kỉ XVIII là văn học của những tiếng nói cảm thương, cảm thông cho số phận bất hạnh của người phụ nữ. Ngoài kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du ta cũng không thể không nhắc đến tác phẩm Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn. Tác phẩm là tiếng lòng thiết tha, thổn thức của người phụ nữ khi có chồng phải ra chiến trận. Tâm trạng của nhân vật được thể hiện rõ nhất qua đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ.

Theo các cứ liệu lịch sử, vào đầu đời vua Lê Hiển Tông, có nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra quanh kinh thành Thăng Long. Triều đình phải cất quân ra trận, nhiều trai tráng phải từ giã gia đình, người thân ra trận. Có bao nhiêu những chàng trai lên đường thì có bấy nhiêu người phụ nữ, người vợ ở nhà trong nhớ thương, buồn tủi. Tác giả Đặng Trần Côn đồng cảm với nỗi niềm của người phụ nữ để nói lên nỗi lòng của họ.

Trích đoạn được trích từ câu 193 đến câu 216 diễn tả tâm trạng của người chinh phụ khi phải xa chồng, thế giới tâm trạng đó được thể hiện qua rất nhiều cung bậc cảm xúc, tình cảm khác nhau.

Trước hết tâm trạng bồn chồn lo lắng, nhớ thương của nhân vật được thể hiện trong các hành động lặp đi lặp lại nhiều lần: Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước. Bước chân chậm chạp, nặng trĩu tâm trạng, trong đó chất chứa biết bao nỗi niềm chán ngán của người chinh phụ. Bước chân này khác với bước chân của nàng Kiều khi tìm đến tình yêu: Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình. Người chinh phụ hết đứng lên lại ngồi xuống, tâm trạng nàng thấp thỏm, bất an bởi lo lắng cho sinh mệnh của chồng ở nơi chiến trường đầy nguy hiểm.

Tâm trạng bất an ấy còn thể hiện qua hành động: Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phe, nàng hết buông rèm xuống nàng lại cuốn rèm lên, dường như đó là hành động vô thức, nàng làm không chủ động làm mà trong vô thức thực hiện hành động để vơi bớt nỗi âu lo. Hết ngắm ra ngoài bức rèm để mong chờ tin tức tốt lành lại thẫn thờ quay vào đối diện với ngọn đèn đơn độc.

Trong nỗi bồn chồn ấy còn là cả nỗi nhớ, thao thức, mong ngóng chồng quay trở về. Trong văn học, ngọn đèn thường được sử dụng để nói về nỗi nhớ mong, thao thức. Đây là hình ảnh xuất hiện nhiều trong văn học, và trong tác phẩm người chinh phụ cũng lấy ngọn đèn để thể hiện nỗi nhớ thương. Trong căn phòng trống vắng, quạnh hiu, chỉ có cây đèn là người bạn để chia sẻ mỗi nỗi lòng với người chinh phụ. Vì vô tri vô giác nên chinh phụ rất đau khổ nhận ra rằng “Đèn có biết dường bằng chẳng biết”.

Nàng càng thấm thía hơn nỗi cô đơn cùng cực của chính mình. Để nhấn mạnh hơn nữa vào tình cảnh tội nghiệp của mình, hình ảnh Hoa đèn kia với bóng người khá thương, hoa đèn là tàn kết lại đầu sợi bấc đèn cháy đỏ như hoa đèn, là dấu hiệu khi dầu hao, bấc hỏng. Chứng tỏ người chinh phụ đã thao thức rất nhiều đêm, triền miên, khắc khoải, mong nhớ về chồng. Không gian bên ngoài làm cho nỗi cô đơn của người chinh phụ được khắc họa rõ nét hơn, tiếng gà eo óc cho thấy âm thanh thê lương, khắc khoải.

Kết hợp với từ láy phất phơ cho thấy nhịp điệu buồn tẻ, chậm rãi, cho thấy tâm trạng ngao ngán của người chinh phụ. Hai hình ảnh tương hỗ để diễn tả sự thao thức triền miên, khắc khoải của chinh phụ trong cô đơn, lê loi. Từ đó người chinh phụ cảm nhận thấm thía nỗi cô đơn hơn bao giờ hết: Khắc giờ đằng đẵng như niên/ Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa, thời gian trôi qua rất nặng nề, vô vị.

Cách đo đếm thời gian trong tâm trạng buồn chán cũng được Nguyễn Du nói đến: Sầu đong càng lắc càng đầy/ Ba thu dọn lại một ngày dài ghê. Mối sầu trải dài mênh mông đến không cùng. Dùng biện pháp so sánh để diễn tả cụ thể tâm trạng của chinh phụ để thấy nỗi buồn mênh mông.

Nỗi cô đơn bủa vây, người chinh phụ gắng gượng, tìm mọi cách để trốn chạy nỗi cô đơn. Nàng đốt hương để tìm lại sự thanh thản trong tâm hồn, nhưng hồn đà mê mải, người chinh phụ càng chìm đắm hơn trong nỗi phiền muộn.

Nàng lấy gương soi, để tìm thú vui trong việc chỉnh trang nhan sắc, nhưng khi soi gương lại phải đối mặt với sự cô đơn, lẻ loi, hơn nữa nàng lại nhận ra sự tàn phai của tuổi thanh xuân. Khiến nước mắt ngày càng chan chứa, nỗi đau khổ lại càng ngập đầy hơn, nàng thấm thía nỗi cô đơn, tuổi thanh xuân tàn phai trong cô đơn sầu muộn.

Nàng gượng đánh đàn nhưng khi chạm đến nàng lại tự ý thức về tình cảnh của mình, nàng thấy tủi thân trước những biểu tượng đôi lứa, ẩn chứa trong các nhạc cụ : Đàn sắt, đàn cầm: gảy hòa âm với nhau được ví cảnh vợ chồng hòa thuận. Dây uyên: dây đàn uyên ương – biểu tượng cho lứa đôi gắn bó, hòa hợp. Phím đàn loan phượng – biểu tượng của lứa đôi gắn bó. Tất cả các nhạc cụ để có đôi có lứa, chỉ có mình mình cô đơn, lẻ bóng.

Thậm chí nỗi cô đơn đã khiến nàng lo lắng, sợ hãi chơi đàn dây sẽ bị đứt, phím đàn bị chùng, đó là những biểu hiện không may mắn của đôi lứa. Nàng tìm đến những nhạc cụ nhưng lại không chạy trốn được nỗi cô đơn. Chinh phụ cố gắng tìm quên bằng cách tìm đến những thú vui những càng tìm quên lại càng đối diện với bi kịch của mình, càng đau khổ hơn bao giờ hết.

Nàng tìm đến thiên nhiên, nhưng thiên nhiên lại cho thấy khoảng cách vời vợi giữa nàng và chồng. Non Yên – nơi chiến trận ngoài biên ải xa xôi, khoảng cách xa vời khôn thấu. Nàng tìm cách để vượt qua khoảng cách, gửi lại tất cả những nhớ nhung cho chồng bằng ngọn gió đông, nhưng đây chỉ là giải pháp tưởng tượng, không thể thực hiện. Nàng lại phải đối mặt với thực tại, thấm thía với bi kịch của mình: cảnh xung quanh hiện hữu trước mắt, sương khuya lạnh lẽo, tiếng trùng rả rích trong đêm.

Cảnh tượng thê lương, ảm đạm, đang bủa vây lấy người chinh phụ, nàng sống trong đau đớn, nhớ thương. Đoạn trích đã cho thấy nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tài tình. Tâm lí người chinh phụ được miêu tả ở nhiều cung bậc khác nhau thông qua hành động và ngoại cảnh. Thể thơ song thất lục bát cùng hệ thống từ láy giàu giá trị gợi hình, gợi cảm đã diễn tả thế giới nội tâm phong phú của nhân vật.

Qua trích đoạn, Đặng Trần Côn đã diển tả thành công những cung bậc, sắc thái khác nhau của người chinh phụ, nỗi cô đơn, buồn thương. Qua đó diễn tả khát khao hạnh phúc lứa đôi, đây là nét mới trong chủ nghĩa nhân đạo của ông. Đồng thời cũng là lời tố cáo mạnh mẽ, đanh thép chiến tranh phong kiến phi nghĩa đã chia lìa hạnh phúc lứa đôi.

Tham khảo👉 Cảm Nhận Của Em Về Đoạn Trích Kiều Ở Lầu Ngưng Bích ❤️️13 Mẫu

Cảm Nhận Của Em Về Đoạn Trích Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ Ngắn Hay – Bài 3

“Cảm nhận của em về đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ ngắn hay” – với yêu cầu này thì scr.vn đã chuẩn bị sẵn bài văn mẫu sau đây để gửi tới bạn.

Đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” được trích từ tác phẩm “Chinh phụ ngâm” nguyên tác bằng chữ Hán của tác giả Đặng Trần Côn. Trích đoạn viết về tình cảnh và tâm trạng của người chinh phụ phải sống trong cô đơn buồn khổ khi chồng ra trận không có tin tức cũng không rõ ngày trở về. Người đọc cảm nhận được nỗi đau khổ trong cô đơn, chia lìa, khao khát tình yêu và được sống trong hạnh phúc lứa đôi của người chinh phụ.

Mở đầu đoạn trích, tác giả đã khắc họa nỗi cô đơn, lẻ loi đầy xót thương của người chinh phụ, có người phụ nữ nào lại không cảm thấy cô đơn buồn tủi khi người chồng đi lính, giờ đây chỉ còn lại một mình, từng hành động của người chinh phụ cứ lặp đi lặp lại trong vô thức:

Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen”

Bước chân vừa đi vừa đếm, đi qua đi lại vô nghĩa rồi lại ngồi buông cuốn rèm lên xuống không biết bao nhiêu lần, tất cả cho thấy người phụ nữ như đang hồn bay phách lạc, chỉ có thân thể hoạt động trong vô thức, bần thần. Hai chữ “vắng” và “thưa” tô đậm thêm khung cảnh vắng vẻ, cô quạnh và sự cô đơn lẻ bóng của người chinh phụ khi xa chồng.

Tâm thế chờ đợi tin tức của chồng khiến người chinh phụ luôn thấp thỏm, chờ ngóng tin lành từ chim thước nhưng “thước chẳng mách tin”, trông ngóng ngọn đèn nhưng tiếc thay đèn chỉ là vật vô tri vô giác, không thể lắng nghe và thấu hiểu nỗi lòng của người chinh phụ.

“Đèn có biết dường bằng chẳng biết
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi”

Hình ảnh “hoa đèn” gợi đến sự tàn lụi, ngọn bấc cháy hết chỉ còn lại tàn hoa rơi rụng, cũng như nỗi lòng ngóng trông của người chinh phụ chỉ nhận lại sự bặt vô âm tín, vẫn rơi vào cảnh trống trải, leo lắt một mình. Tiếng gà “eo óc”, bóng hòe “phất phơ” mang giá trị gợi tả cực cao về sự hoang vắng, lặng lẽ đến lạnh người của cảnh vật, đó cũng chính là sự giá băng trong lòng người phụ nữ cô đơn. Nỗi nhớ thương chồng của người chinh phụ đã lan tỏa khắp không gian, cảnh vật, làm gia tăng sự cách biệt về thời gian không gian một cách đáng sợ:

Khắc giờ đằng đẵng như niên
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa”

Một giờ ngóng trông tin tức của chồng kéo dài như là một năm, mối sầu thương nhớ chất chứa trong lòng lại như biển cả mênh mông, từ láy “đằng đẵng” và “dằng dặc” như cực tả thêm nỗi cô đơn trĩu nặng trong lòng người chinh phụ. Mang trên mình nỗi lòng nặng trĩu ấy làm sao người phụ nữ có hứng thú với công việc gì, chính vì vậy, mọi việc làm đều trở nên gượng gạo, gò ép chính mình “hương gượng đốt”, “gương gượng soi”, “gượng gảy phím đàn”.

Muốn đốt hương cho khuây khỏa cõi lòng nhưng hồn lại mê mải, soi gương chẳng còn thấy khuôn mặt chỉ thấy dòng nước mắt, muốn gảy đàn ôn lại kỉ niệm lại sợ đàn đứt dây mang những điềm gở, hung tin về chồng. Tất cả đều ẩn chứa sự bất an, lo lắng không yên của người chinh phụ, nơi chiến trường đao binh ác liệt không biết liệu chồng mình có được bình an vô sự trở về. Nàng muốn đem lòng thương nhớ ấy gửi đến cho chồng nhưng ước muốn ấy của nàng là viển vông, không bao giờ có thể thực hiện được:

“Non yên dù chẳng tới miền
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong”

Những từ láy “thăm thẳm” và “đau đáu” vừa gợi sự xa cách giữa vợ – chồng lại vừa đặc tả nỗi lòng nhớ thương dai dẳng, khôn xiết của người chinh phụ. Ở hai câu thơ cuối, ta cảm nhận được niềm khao khát tìm kiếm sự đồng cảm cũng như bến bờ hạnh phúc đôi lứa, mái ấm gia đình đang thôi thúc, cháy bỏng trong lòng người chinh phụ. Lúc này cảnh vật và con người đã cùng hòa tan vào nỗi buồn, chẳng còn sự khác biệt giữa nỗi buồn của con người và u buồn của cảnh vật.

Có thể nói, đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” Đặng Trần Côn mang đến cho chúng ta không chỉ là một số phận người phụ nữ nói riêng mà đó chính là số phận chung của những người phụ nữ trong chế độ xã hội phong kiến xưa. Những cuộc chiến tranh phi nghĩa đã khiến họ phải xa chồng, mất đi mái ấm hạnh phúc, đẩy họ vào hoàn cảnh cô đơn, lẻ loi, buồn khổ.

Tham khảo văn mẫu➡️ Cảm Nhận Của Em Về 8 Câu Thơ Cuối Trong Đoạn Trích Kiều Ở Lầu Ngưng Bích⬅️

Cảm Nhận Của Em Về Tâm Trạng Của Người Chinh Phụ Chi Tiết – Bài 4

Bài văn cảm nhận của em về tâm trạng của người chinh phụ chi tiết sau đây sẽ giúp các em học sinh nhanh chóng ôn tập để chuẩn bị cho bài viết trên lớp của mình.

Chinh phụ ngâm được viết bằng chữ Hán, do tác giả Đặng Trần Côn sáng tác vào khoảng nửa đầu thế kỉ XVIII. Đây là thời kì vô cùng rối ren của xã hội phong kiến. Chiến tranh xảy ra liên miên, hết Lê-Mạc đánh nhau đến Trịnh-Nguyễn phân tranh, đất nước chia làm hai nửa. Ngai vàng của nhà Lê mục ruỗng. Nông dân bất bình nổi dậy khởi nghĩa ở khắp nơi. Nhân dân sống trong cảnh loạn li nồi da nấu thịt, cha mẹ xa con, vợ xa chồng.

Văn học thời kì này tập trung phản ánh bản chất tàn bạo, phản động của giai cấp thống trị và nỗi đau khổ của những nạn nhân trong chế độ thối nát ấy. Tác phẩm Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn ra đời đã nhận được sự đồng cảm rộng rãi của tầng lớp Nho sĩ. Nhiều bản dịch xuất hiện, trong đó bản dịch sang chữ Nôm của bà Đoàn Thị Điểm được coi là hoàn hảo hơn cả, thể hiện thành công lẫn trị nội dung và nghệ thuật của nguyên tác.

Nội dung Chinh phụ ngâm phản ánh thái độ oán ghét chiến tranh phong kiến phi nghĩa, đặc biệt là đề cao quyền sống cùng khao khát tình yêu và hạnh phúc lứa đôi của con người. Đó là điều ít được nhắc đến trong thơ văn trước đây.

Người chinh phụ vốn dòng dõi trâm anh. Nàng tiễn chồng ra trận với mong muốn người chồng sẽ lập được công danh và trở về cùng với vinh hoa, phú quý. Nhưng ngay sau buổi tiễn đưa, nàng sống trong tình cảnh lẻ loi, ngày đêm xót xa lo lắng cho chồng. Thấm thía nỗi cô đơn, nàng nhận ra tuổi xuân của mình đang qua đi và cảnh lứa đôi đoàn tụ hạnh phúc ngày càng xa vời. Người chinh phụ rơi vào tâm trạng cô đơn đến cùng cực. Khúc ngâm thể hiện rất rõ tâm trạng cô đơn ấy.

Đoạn trích tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ đã miêu tả những cung bậc và sắc thái khác nhau của nỗi cô đơn, buồn khổ ở người chinh phụ đang khao khát được sống trong tình yêu và hạnh phúc lứa đôi.

Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước

…..

Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.

Tiếng gà gáy báo canh năm làm tăng thêm vẻ tĩnh mịch, vắng lặng. Cây hòe phất phơ rũ bóng trong ánh sáng lờ mờ của ban mai gợi cảm giác buồn bã, hoang vắng. Giữa không gian ấy, người chinh phụ cảm thấy mình nhỏ bé, cô độc biết chừng nào!

Ở các khổ thơ tiếp theo, nỗi ai oán hiện rõ trong từng chữ, từng câu, dù tác giả không hề nhắc đến hai chữ chiến tranh:

Hương gượng đốt hồn đà mê mải,

….

Dày uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.

Người chinh phụ cố gắng tìm mọi cách để vượt ra khỏi vòng vây của cảm giác cô đơn đáng sợ nhưng vẫn không sao thoát nổi. Nàng gắng gượng điểm phấn tô son và dạo đàn cho khuây khỏa nhưng càng lún sâu hơn vào sự tuyệt vọng. Chạm đến đâu cũng là chạm vào nỗi đau, chạm vào tình cảnh lẻ loi đơn chiếc, Khi Hương gượng đốt thì hồn nàng lại chìm đắm vào nỗi thấp thỏm lo âu.

Lúc Gương gượng soi thì nàng lại không cầm được nước mắt bởi vì nhớ gương này mình cùng chồng đã từng chung bóng, bởi vì phải đối diện với hình ảnh đang tàn phai xuân sắc của mình. Nàng cố gảy khúc đàn loan phượng sum vầy thì lại chạnh lòng vì tình cảnh vợ chồng đang chia lìa đôi ngả, đầy những dự cảm chẳng lành: Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng. Rốt cuộc, người chinh phụ đành ngẩn ngơ trở về với nỗi cô đơn đang chất ngất trong lòng mình vậy.

Sắt cầm, uyên ương, loan phụng là những hình ảnh ước lệ tượng trưng cho tình yêu nam nữ, tình nghĩa vợ chồng. Nay vợ chồng xa cách, tất cả đều trở nên vô nghĩa. Dường như người chinh phụ không dám đụng tới bất cứ thứ gì vì chúng nhắc nhở tới những ngày đoàn tụ hạnh phúc đã qua và linh cảm đến sự chia Ha đôi lứa trong hiện tại. Tâm thế của nàng thật chông chênh, chơi vơi khiến cho cuộc sống trở nên khổ sở, bất an. Mong chờ trong nỗi sợ hãi và tuyệt vọng, nàng chỉ còn biết gửi nhớ thương theo cơn gió:

Lòng này gửi gió đông có tiện?

…..

Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.

Sau những day dứt của một trạng thái bế tắc cao độ, người chinh phụ chợt có một ý nghĩ rất nên thơ: nhờ gió xuân gửi lòng mình tới người chồng ở chiến trường xa, đang đối đầu với cái chết để mong kiếm chút tước hầu. Chắc chắn, chàng cũng sống trong tâm trạng nhớ nhung mái ấm gia đình với bóng dáng thân yêu của mẹ già, vợ trẻ, con thơ:

Non Yên dù chẳng tới miền,

Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.

Không gian xa cách giữa hai đầu nỗi nhớ được tác giả so sánh với hình ảnh vũ trụ vô biên: Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời. Thăm thẳm nỗi nhớ người yêu, thăm thẳm con đường đến chỗ người yêu, thăm thẳm con đường lên trời. Câu thơ hàm súc về mặt ý nghĩa và cô đọng về mặt hình thức. Cách bộc lộ tâm trạng cá nhân trực tiếp như thế này cũng là điều mới mẻ, hiếm thấy trong văn chương nước ta thời trung đại:

Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,

Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.

Hai câu thất ngôn chứa đựng sự tương phản sâu sắc tạo nên cảm giác xót xa, cay đắng. Đất trời thì bao la, bát ngát, không giới hạn, liệu có thấu nỗi sinh li đau đớn đang giày vò ghê gớm cõi lòng người chinh phụ này chăng? Nói như người xưa: trời thì cao, đất thì dày, nỗi niềm uất ức biết kêu ai? Biết ngỏ cùng ai? Bởi vậy nên nó càng kết tụ, càng cuộn xoáy, gây nên nỗi đớn đau cho thể xác:

Cảnh buồn người thiết tha lòng,

Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.

Giữa con người và cảnh vật dường như có sự tương đồng khiến cho nỗi sầu thương trở nên da diết, bất tận. Cảnh vật xung quanh người chinh phụ đã chuyển thành tâm cảnh bởi được nhìn qua đôi mắt đẫm lệ buồn thương cho thân phận bất hạnh, cô đơn. Sự giá lạnh của tâm hồn làm tăng thêm sự giá lạnh của cảnh vật. Cũng giọt sương ấy đọng trên cành cây, cũng tiếng trùng ấy rả rích trong đêm mưa gió, nhưng cảnh ấy tình này lại gợi nên bao sóng gió, bao nỗi đoạn trường trong lòng người chinh phụ.

Tình cảnh ấy, tâm trạng ấy tự nó đã nối lên bi kịch của người phụ nữ trong xã hội cũ không được sống hạnh phúc, đồng thời cũng phản ánh thái độ lên án chiến tranh của tác giả.

Bầu trời bát ngát không cùng và nỗi nhớ cũng không cùng, nhưng suy tưởng thì có hạn; người chinh phụ lại trỏ về với thực tế cuộc sống nghiệt ngã của mình. Ý thơ chuyển từ tình sang cảnh. Thiên nhiên lạnh lẽo như truyền, như ngấm cái lạnh đáng sợ vào tận tâm hồn người chinh phụ cô đơn:

Sương như búa, bổ mòn gốc liễu,

Tuyết dường cưa, xẻ héo cành ngô.

Hình như người chinh phụ đã thấm thìa sức tàn phá ghê gớm của thời gian chờ đợi. Tuy nhiên đến câu: Sâu tường kêu vắng chuông chùa nện khơi thì không khí đã dễ chịu hơn, cũng bởi người chinh phụ chỉ mới thất vọng mà chưa tuyệt vọng.

Tám câu cuối là bức tranh tả cảnh ngụ tình đặc sắc nhất trong Chinh phụ ngâm:

Vài tiếng dế nguyệt soi trước ốc,

…..

Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đau!

Ý thơ đi từ tinh đến cảnh rồi lại từ cảnh trở về tình, cứ dội qua dội lại như vậy nhằm thể hiện rõ tâm trạng ở đâu, lúc nào, làm gi… người chinh phụ cũng chí vò võ một mình một bóng mà thôi!

Từ thốc rất mạnh trong câu Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên báo hiệu sự chuyển sang một tâm trạng mới ở người chinh phụ. Cảnh hoa – nguyệt giao hòa khiến lòng người rạo rực, khao khát hạnh phúc lứa đôi. Những động từ dãi, lồng toát lên cái ý lứa đôi quấn quýt gần gũi, âu yếm nồng nàn mà vẫn tế nhị, kín đáo.

Bằng bút pháp nghệ thuật điêu luyện, tác giả đã diễn tả được những diễn biến phong phú, tinh vi các cung bậc tình cảm của người chinh phụ. Cảnh cũng như tình được miêu tả rất phù hợp với diễn biến của tâm trạng nhân vật.

Thông qua tâm trạng đau buồn của người chinh phụ đang sống trong tình cảnh lẻ loi vì chồng phải tham gia vào những cuộc tranh giành quyền lực của các vua chúa, tác giả đã đề cao hạnh phúc lứa đôi và thể hiện tinh thần phản kháng đối với chiến tranh phi nghĩa. Tác phẩm Chinh phụ ngâm đã toát lên tư tưởng chủ đạo trong văn chương;một thời, đó là tư tưởng đòi quyền sống quyền được hưởng hạnh phúc rất chính đáng của con người.

Tham khảo thêm 👉Cảm Nhận Của Em Về 8 Câu Thơ Giữa Trong Đoạn Trích Kiều Ở Lầu Ngưng Bích👈

Cảm Nhận Về Đoạn Trích Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ Hay Đặc Sắc – Bài 5

Với yêu cầu Làm bài văn cảm nhận về đoạn trích tình cảnh lẻ loi của người Người chinh phụ hay đặc sắc thì bạn có thể tham khảo bài văn mẫu sau đây.

Khác với giai đoạn đầu của văn học trung đại say sưa trong cảm hứng ca ngợi hùng tâm tráng chí của người anh hùng, ca ngợi những chiến công vĩ đại của cả dân tộc, thì đến những thế kỉ 18, 19 khi mà nhà nước phong kiến bắt đầu rơi vào khủng hoảng trầm trọng với sự diễn ra liên miên của các cuộc chiến tranh nội bộ, cướp đi sự bình yên của biết bao mái nhà, văn học lên ngôi và phát triển rực rỡ với cảm hứng nhân đạo, thay cho tiếng nói tha thiết về quyền sống của con người. Trong số đó phải kể đến “ Chinh phụ ngâm” của tác giả Đặng Trần Côn, được Đoàn Thị Điểm dịch lại.

Tác phẩm là một trong những tiếng vang lớn của tiếng nói nhân đạo đương thời, tiêu biểu là đoạn trích: “ Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ.”“ Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” là đoạn trích từ câu 193 đến câu 228 của “ Chinh phụ ngâm”: sau buổi tiễn đưa, người chinh phụ trở về, tưởng tượng cảnh chiến trường đầy hiểm nguy và chết chóc mà xót xa, lo lắng cho chồng.

Một lần nữa nàng tự hỏi vì sao lứa đôi phải chia cách, vì sao bao lần hẹn hò với nhau đều không thành. Bấy nhiêu câu hỏi đều không có ai trả lời. Rồi nàng ái ngại cho cảnh “ một thân nuôi già dạy trẻ” và kể tâm sự của mình phải sống lẻ loi. Và đến đoạn trích này, tâm trạng ấy được khắc họa rõ nét và được thể hiện sâu sắc hơn bao giờ hết.16 câu thơ đầu đã trải ra mênh mang nỗi sầu buồn cô đơn triền miên trong vô vọng của người chinh phụ.

Tiễn người khuất sau “ngàn dâu xanh ngắt một màu”, người chinh phụ trở về với bốn bức tường nơi khuê phòng chật hẹp, ôm trong lòng nỗi nhớ thương người chinh phu nơi chiến trận đầy nguy hiểm.

Nỗi nhớ, nỗi trống trải khiến những bước chân như gieo xuống trong vô định: “ Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước.”, hết đứng lại ngồi, ra ngẩn vào ngơ. Tấm rèm cũng rủ thác “ đòi phen”, từng động tác lặp đi lặp lại mà không có chủ đích, nó là tiếng gọi của một tâm tư đang bị xáo trộn với biết bao bề bộn, là dư âm của cõi vô thức, làm mà không tự ý thức được việc mình làm.

Hành động của vô thức đã tô đậm hoàn cảnh thực tại chinh phụ: tuổi xuân bị khóa chặt trong sự tù túng ngột ngạt, tâm hồn giăng trăm mối bồn chồn lo lắng, khắc khoải không yên khi nghĩ về người ở chiến trận. Người ở nơi xa đầy nguy hiểm gian khó không hẹn ngày trở về, người ở đây vò võ chờ mong, khắc khoải đến mỏi mòn. Vén rèm lên rồi rủ rèm xuống chỉ để trông tin thước báo về, vậy mà “ thước chẳng mách tin”.

Câu thơ vang lên như một lời trách móc, trách đã hy vọng trông chờ mà tiếng chim báo vẫn bặt vô âm tín khiến sự chờ đợi khắc khoải biến thành sự vô vọng khôn nguôi. Hết trông chờ vào tiếng chim ngoài rèm, người lại hướng sự hi vọng vào “ đèn” “ trong rèm” đã chứng kiến nàng vò võ bồn chồn khắc khoải bao đêm, đã thấu hiểu những nỗi lo, nhưng tâm sự trăm mối trong lòng nàng.

Một câu hỏi gieo ra như gieo hy vọng dẫu chỉ là mong manh: “ Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?” Nhưng ngay lập tức , hy vọng đã bị dập tắt bởi “ Đèn có biết dường bằng chẳng biết”, đèn là vật vô tri sao có thể ngay lúc này đây trở thành người bạn tâm giao, người tri kỉ, chỉ còn “ Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.”

Nỗi thất vọng ngập tràn đè nặng lên tâm tưởng của người chinh phụ, mang lại nỗi cô sầu nặng nề, sâu sắc: “ Buồn rầu chẳng nói nên lời”, trong nỗi buồn chỉ còn mình nàng với chiếc bóng lẻ loi và hoa đèn. Lửa đã cháy thành than, nàng đã thức suốt đêm vò võ, khắc khoải trong nỗi nhớ, trong sự tù túng, héo hon. Bóng chinh phụ như bóng nàng Vũ Nương ngày nào chờ chồng suốt mấy mùa qua, nhưng Vũ Nương còn có bé Đản làm niềm vui, niềm hy vọng, còn nàng, nàng lấy gì làm tin?

Trong 8 câu tiếp theo, ta thấy người chinh phụ đang cố vùng vẫy thoát ra khỏi nỗi buồn bao trùm cả không gian, thời gian, cả tâm hồn. Nàng đã tìm đến yếu tố ngoại cảnh làm cứu cánh. Nhưng ngoại cảnh chỉ là tiếng gà “eo óc” gáy, là “hòe phất phơ rủ bóng bốn bên”, càng gợi sâu hơn vào nỗi lòng nhức nhối, nỗi cô đơn, trơ trọi của nàng trong cảnh “ bẽ nàng mây sớm đèn khuya”. Cuối cùng chỉ còn lại người chinh phụ với nỗi nhớ, nỗi sầu triền miên “ đằng đẵng” theo thời gian, “ dằng dặc theo thời gian’’.

Tuy đã “ gượng” đốt hương, “ gượng” soi gương, “ gượng” gảy ngón đàn mà đến nỗi sợ “ hồn đà mê mải”,sợ” lệ lại châu chan”, sợi “ dây đứt phím chùng” mà đành ngậm ngùi trở về với bi kịch với nỗi cô đơn ngự trị trong tâm hồn mình.Trong đau buồn, cô đơn, nàng người chinh phụ khao khát gửi nỗi nhớ thương da diết trong lòng mình đến nghìn trùng xa xôi, đến nơi có người mình yêu thương.

“Lòng này gửi gió đông có tiện
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên.”

Đó là tất cả sự toàn tâm toàn ý, tình cảm thủy chung, tròn đầy và vẹn nguyên nhất được bồi đắp bấy lâu của chinh phụ đều được gửi đến “ Non Yên” , để sẻ chia, cũng là để tâm sự nỗi lòng mình, để thể hiện tình cảm, khao khát của mình đối với tình yêu. Non Yên, là một địa danh, có tên cụ thể nhưng không ai biết nó ở đâu, cách đây bao xa. Phải chăng đó chỉ là một hình ảnh tượng trưng cho sự xa xôi cách trở giữa hai con người, cho sự vô vọng của người chinh phụ, cho sự vô vọng của một tình cảm thủy chung, trọn vẹn được gửi đi mà chẳng thể nhận được hồi đáp.

“Non Yên dù chẳng tới miền
Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời.”

Khoảng cách càng xa xôi, nỗi nhớ càng đậm sâu, da diết, đến trời thăm thẳm xa vời cũng không thể thấu sự cao vời tràn đầy của nó, biển cả mênh mông chẳng thể hiểu được hết độ sâu của nỗi nhớ ấy. Khi suy tưởng đã nguôi ngoai, chinh phụ quay trở về với thực tại, với những cảnh vật gần mình nhất:

“Sương như búa bổ mòn gốc liễu
Tuyết dường cưa xẻ héo cành ngô
Giọt sương phủ bụi chim gù
Sâu tường kêu vẳng chuông chùa nện khơi.”

Đêm sâu , trời lạnh, mọi cảnh vật vốn trơ trọi đến khô khốc giờ lại đứng cạnh nhau, soi chiếu vào nhau khiến cho bức tranh trải ra trước mắt chinh phụ lại trải một màu ảm đạm , thê lương, nhức nhối. “ Cảnh buồn người thiết tha lòng” hay như Nguyễn Du từng nói: “ Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu”, vậy cảnh ở đây đã nhuốm màu buồn lên hồn người hay chính hồn người đã lan thấm nỗi xót xa vào cảnh vật.

Ngoại cảnh mà cũng là tâm cảnh.Nhưng chính sức mạnh ghê gớm nội tại tâm hồn khiến người chinh phụ lại một lần nữa vươn dậy, vươn tới không gian thoáng đạt ngoài kia để tìm cách giải thoát cho tâm hồn mình. Và nàng thấy:

“Lá màn lay ngọn gió xuyên,
Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm
Hoa dãi nguyệt, nguyệt in một tấm,
Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông,
Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng…”

Khoảnh khắc bắt gặp hình ảnh hoa nguyệt ấy có lẽ cũng là khoảnh khắc người chinh phụ say sưa với quá khứ êm đềm của mình với người mình yêu thương-gắn bó, quấn quít, kề cận bên nhau không rời. Các từ chỉ hành động liên tiếp nhau “lay, xuyên, theo, dãi, in, lồng, thắm” càng tô đậm thêm khát khao được hạnh phúc , được quấn quít bên người mình yêu thương đến cồn cào, cháy bỏng, rạo rực. Nhưng, đau lòng thay, thực tế là: “Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đau.”

Dù cho là hình ảnh hoa nguyệt trùng phùng nhưng chúng vẫn cách xa nhau, là hai thực thể hoàn toàn khác nhau, không thể hòa nhập. Dù là quấn quít bên nhau nhưng đã lùi vào quá vãng, vào miền sâu thẳm của vô vọng rồi. Cùng với lúc niềm khát khao dâng đến tận cùng, nỗi đau cũng tràn đầy, khôn nguôi như xé lòng, chẳng thể cất thành lời.

Chỉ là một đoạn trích nhỏ trong “ Chinh phụ ngâm” nhưng “ Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” đã thể hiện tinh thần chung của cả tác phẩm. Âm hưởng chủ đạo là nỗi buồn sầu sâu lắng. Trên nền âm hưởng ấy, có đôi khi rạo rực những khát khao cháy bỏng, có đôi khi da diết tình cảm thủy chung, nhớ mong. Nhưng dù là cung bậc nào đều thấy được vẻ đẹp của người phụ nữ qua hình ảnh người chinh phụ.

Đặc biệt đó là tiếng nói tố cáo đanh thép chiến tranh phi nghĩa đã gây nên những thương tổn sâu sắc trong tâm hồn con người, những vết thương không bao giờ lành miệng, những trống vắng khó có thể bù đắp được. Đoạn trích đã thể hiện được đầy đủ tinh thần của cả tác phẩm, tư tưởng của tác giả và cả bóng dáng của thời đại lịch sử, của giai đoạn văn học đương thời.

Tham khảo 👉Cảm Nhận Chị Em Thúy Kiều Và Thuý Vân ❤️️ bên cạnh bài Cảm Nhận Về Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ

Cảm Nhận Về Bài Thơ Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ Ấn Tượng – Bài 6

Tham khảo bài văn mẫu cảm nhận về bài thơ Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ ấn tượng sẽ mang đến cho các em học sinh những ý tưởng thú vị trong quá trình làm bài.

Tác phẩm “Chinh phụ ngâm khúc” của tác giả Đặng Trần Côn ra đời vào những năm 40 của thế kỉ XVIII – giai đoạn xã hội rối ren, nội bộ phong kiến mâu thuẫn, chiến tranh loạn lạc diễn ra khắp nơi đã diễn tả thành công bi kịch tinh thần cùng tiếng lòng nhớ thương da diết của những người phụ nữ có chồng ra trận.

Trích đoạn “Tình cảnh của người chinh phụ”, bản dịch của Đoàn Thị Điểm đã thể hiện rõ điều này. Bài thơ đã thể hiện rõ tâm trạng cô đơn sầu muộn của người phụ nữ có chồng ra trận, gián tiếp bộc lộ tiếng nói tố cáo chiến tranh phong kiến phi nghĩa và đề cao hạnh phúc lứa đôi của con người.

Trích đoạn mở đầu bằng dòng cảm xúc về nỗi cơ đơn, sầu tủi của người chinh phụ qua mười sáu câu thơ đầu. Trước hết, ở mười sáu câu thơ đầu tiên, tác giả đã tái hiện không gian ngoại cảnh cùng hành động, tâm trạng của người chinh phụ:

“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
Ngoài rèm thước chẳng mách tin
Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?
Đèn có biết dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương.”

Thông qua bút pháp ngụ tình đặc sắc, tác giả đã tái hiện bối cảnh không gian của nỗi cô đơn. Giữa sự tĩnh mịch, người chinh phụ lặp đi lặp lại hành động “dạo hiên vắng”. Lúc này, nỗi nhớ nhung sầu muộn đã khiến cho bước chân của nàng mang nặng tâm trạng, trở nên nặng nề hơn. Nàng khắc khoải mong chờ thanh âm của tiếng chim thước – tín hiệu của sự trở về, sự gặp gỡ nhưng chẳng thấy. Trong không gian vắng lặng đó, nàng chỉ biết đối diện với ngọn đèn khuya: “đèn có biết”, “đèn chẳng biết”.

Hình ảnh ngọn đèn là ẩn dụ tượng trưng thể hiện  nỗi nhớ cùng sự cô đơn đang bủa vây tâm trí nàng. Ngọn đèn khuya không thể  thấu hiểu nỗi niềm của “bi thiết” – nỗi buồn thương xót xa đến không cùng của người chinh phụ, để rồi nàng rưng rưng trong sự thương thân tủi phận: “Hoa đèn kia với bóng người khá thương”. Cảnh vật xung quanh dường như đồng cảm, cộng hưởng với với sự cô đơn, lẻ loi của người chinh phụ:

Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên.
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.”

Sự vắng lặng đến tĩnh mịch của cảnh vật đã được tô đậm thông qua thanh âm tiếng gà gáy năm canh. Dưới ánh bình minh mờ nhạt, hình ảnh cây hòe phất phơ rủ bóng đã tái hiện không gian hoang vắng cùng sự buồn bã trong tâm trạng. Đối với người chinh phụ lúc này, bước đi của thời gian “đằng đẵng như niên” khiến mối sầu của nàng càng thêm sầu não “tựa miền biển xa”. Thời gian đã được đong đếm bằng sự cô đơn, buồn tủi trong tâm trạng. Không gian được mở rộng theo chiều kích của nỗi đau, nỗi sầu “tựa miền biển xa”.

Nàng cố gắng vượt thoát chiếc vỏ bọc của sự cô đơn nhưng lại càng chìm sâu vào nỗi tuyệt vọng đến khôn cùng:

Hương gượng đốt hồn đà mê mải,
Gương gượng soi lệ lại châu chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.”

Đối diện với không gian vắng lặng, hiu quạnh, người chinh phụ gắng gượng điểm phấn tô son, dạo đàn để kiếm tìm sự thanh thản nhưng lại càng chạm đến nỗi cô đơn, tình cảnh lẻ loi và sự đơn chiếc. Những cụm từ “hồn đà mê mải”, “lệ lại châu chan” đã nhấn mạnh sự tự ý thức về bi kịch chia li trong hiện tại. Đối diện với sự tàn phai nhan sắc, trái tim nàng càng khắc khoải nỗi nhớ nhung cùng khao khát sum vầy trong nỗi tuyệt vọng.

Những hình ảnh ước lệ “sắt cầm”, “dây uyên”, “phím loan” tượng trưng cho tình yêu đôi lứa, tình nghĩa vợ chồng đã khiến nỗi nhớ mong của người chinh phụ càng trở nên khắc khoải, thống thiết hơn bao giờ hết. Trong sự tuyệt vọng đó, nàng gửi gắm tiếng lòng của mình theo gió:

“Lòng này gửi gió đông có tiện ?
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên.
Non Yên dù chẳng tới miền,
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời”

Qua hình ảnh ước lệ “nghìn vàng” – tấm lòng nhớ thương, “gió đông” – ngọn gió mùa xuân thổi từ phương Đông, “non Yên” – nơi chiến trường xa xôi, chúng ta có thể thấy được tấm lòng thủy chung, son sắt, một lòng hướng đến người chinh phu nơi phương xa biên ải xa xôi. Nỗi nhớ ấy càng trở nên khắc khoải thông qua biện pháp điệp ngữ liên hoàn: “non Yên – non Yên”, “đường lên bằng trời – trời thăm thẳm”. Đặc biệt, các từ láy “thăm thẳm”, “đau đáu”, “thiết tha” để diễn tả nỗi nhớ thiết tha cùng nỗi đau tận cùng tâm trạng.

Bài thơ kết thúc bằng bức tranh ngoại cảnh qua những nét vẽ về “cảnh buồn” như “cành cây sương đượm, tiếng trùng mưa phun”. Tất cả đều gợi lên không khí tang thương, lạnh lẽo, não nề. Cảnh vật đã hòa chung với tiếng lòng não nề của con người. Lòng người dường như trở nên lạnh lẽo trong nỗi cô đơn, tan vỡ, khổ đau.

Thông qua thể thơ song thất lục bát, tác giả đã tái hiện thành công  nỗi niềm tâm trạng cô đơn trong âm điệu buồn thương da diết của người chinh phụ. Từ đó, tạo nên giá trị hiện thực qua tiếng nói tố cáo, lên án chiến tranh phong kiến phi nghĩa, những hiểm nguy mà người chinh phu phải đối mặt nơi chiến trường. Tác phẩm còn thấm đẫm giá trị nhân đạo qua những nỗi niềm tâm sự, những cung bậc cảm xúc đầy đau đớn, xót xa, những trống trải, cô đơn cùng khao khát về hạnh phúc lứa đôi của người chinh phụ.

Tham khảo👉 Cảm Nhận Về Vẻ Đẹp Của Thúy Kiều ❤️️ ngoài bài Cảm Nhận Về Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ

Văn Cảm Nhận Về Bài Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ Chọn Lọc – Bài 7

Chia sẻ cho các em học sinh bài văn cảm nhận về bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ chọn lọc không nên bỏ qua.

Đặng Trần Côn là nhà văn đã nói lên được những cảm xúc và tâm trạng của những người thiếu phụ khi phải chịu những cảnh cô đơn, buồn tủi, những cảm xúc đó đang bao trùm lên toàn bộ sáng tác của ông, nổi bật lên trong sáng tác đó là cảnh lẻ loi của người chinh phụ.

Những người phụ nữ cô đơn khi có chồng đi chinh chiến nơi xa, bao nhiêu cảm xúc đang được thể hiện và nó thực sự mang những nỗi lòng cảm xúc sâu sắc cho tâm hồn của mỗi người, hình ảnh những người thiếu nữ đứng trước mình và soi bóng vào những chiếu cô đơn, thì tâm hồn của chúng ta lại ngập tràn thêm bao nhiêu sự đồng cảm sâu sắc.

Tâm trạng và hình ảnh của người phụ nữ được hiện lên với ngập tràn những nỗi nhớ mong và khắc khoải lên những cảm xúc của con người, mỗi chúng ta đều có thể thấy trong đoạn thơ đầu tác giả hầu như đã tập trung đến tâm trạng và cảm xúc của chính những người thiếu nữ đó:

Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
…..
Hoa đèn kia với bóng người khá thương!.

Trước hiên vắng lòng người đang khắc khoải từng bước đi, nó cô đơn và trong khung cảnh đó con người, đang rất cô đơn, và những nỗi nhớ mong đó đang dần làm cho tâm trạng của người con gái đó dạt dào và đậm tình cảm, bước trong hiên thềm chỉ còn hình bóng của người thiếu phụ, những cảm xúc đó đã đủ để diễn tả những dòng cảm xúc của con người.

Trước rèm thưa đang rủ những đòi phen, đó là ngập tràn những cảm xúc, và cả những xúc cảm sâu sắc về chính con người, một lần nữa tác giả lại đang nhấn mạnh đi nguồn cảm hứng xuất hiện trong bài thơ.

Đó là những khung cảnh của thiên nhiên xa xôi và nó mặn nồng trong biết bao cảm xúc của con người, trước những khung cảnh đó, cô đơn lẻ loi, trong khung cảnh đó người con gái luôn phải chịu những cảm giác đau đớn và lẻ loi nhất, đó là những tình cảm thể hiện mạnh mẽ và da diết về tình yêu thương của con người, luôn luôn phải chịu cảnh khổ đau lẻ loi trong những chiếu bóng không cảm xúc, đó là những cảm xúc ngập tràn, và lan tỏa rộng đến tâm hồn của người đọc.

Tình người đang bị chi phối bởi những chiếu rủ cô đơn, lẻ loi khuất bóng con người, những những cảm giác đó, con người dường như chỉ biết làm bạn với hình bóng của mình, trong hình ảnh của người chinh phụ, những chiếc bóng và chiếc đèn vẫn đang tâm tình và khắc khoải những nỗi chờ mong cô đơn của những người con gái. Biết bao nhiêu cảm xúc đang đan xen và trào dâng trong tâm hồn của con người, những tình cảm đó mạnh mẽ và mãnh liệt nhất trong tâm hồn, và nỗi nhớ mong của người chinh phụ.

Hình bóng của những người chinh phụ hiện lên trong một khoảng không gian mênh mông, và nó ngập tràn những cảm xúc và những nỗi nhớ thương đối với người chồng của mình, tình cảm đó là sự xúc động sâu sắc và mạnh mẽ nhất, nó là nguồn xúc cảm để nói lên tâm hồn đang mênh mông dạt dào cảm xúc của con người.

Những cảm xúc đang dần biểu lộ lên những xúc cảm mạnh mẽ và day dứt nhất trong tâm hồn của mỗi con người, những điều đó đã tạo nên được nhiều cảm xúc trong tâm hồn của tác giả, luôn luôn phải biết làm nên những điều có ý nghĩa khi tác giả đã vẽ ra những tâm trạng và khắc khoải những dòng tâm trạng đó, nhiều cảm xúc và hình thức đó được tạo nên nhiều cảm xúc của riêng chính con người của tác giả về cuộc đời và điều đó làm nên những giá trị trong việc khắc sâu thêm dòng tâm trạng điển hình và mênh mông trong tâm hồn của con người.

Những tiếng gà eo óc đang gay trong những năm sương và đang trống vắng trong khoảng trống tâm hồn của chính tác giả về những năm tháng xa cách tình cảm lẻ loi, và không có sự gắn bó, nó tạo dựng nên những cảm xúc xa vắng và đang làm gia tăng lên những nhịp cảm to lớn và đang ẩn chứa bao dòng tâm trạng lớn lao và mênh mang về con người.

Tâm trạng đó đã khắc khoải, cảm giác cô đơn, lẻ loi, và bóng dáng của họ chỉ đơn chiếc như những tấm tà chiều, đơn côi trong ngày dài lê thê, những cung cách trong đó đã mang đậm những giá trị lớn lao và tạo dựng nên nhiều cảm xúc to lớn khi chúng ta nhìn thấy hình ảnh xa xôi và đơn bóng một mình:

Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.

Những tiếng gà gáy năm trống nhưng người chinh phụ vẫn đơn bóng trong phòng của mình, với những hình bóng bốn bên phơ rũ không còn sức sống, những thời gian dài khắc khảo như niên, năm tháng đã trôi qua nhưng tình cảm đó đã mang nặng những tình cảm và nỗi nhớ thương với người chồng, người yêu của mình, thời gian xa vắng nhưng nỗi buồn đó thì mênh mang và dằng dặc tựa như miền biển xa.

Nó xa xôi và cách trở lòng người, làm cho tâm hồn của những người chinh phụ héo mòn đi những sức sống và tình yêu của chính mình, khi cứ phải chờ đợi và khắc khoải những nỗi nhớ mong. Những tiếng gà đang gáy và mong mỏi đến trời sáng để cho những nỗi nhớ mong đó bị giảm nhẹ đi, nhưng tình cảm của con người dường như vẫn không thể thoát khỏi trong cái không gian đó, tình cảm mặn nồng và nó đã có tác động lớn lao đối với con người trong cả bầu không gian rộng của thiên nhiên của những cảnh vật.

Trong những cảnh giới đó, con người dường như đang phải trải qua những thời kì cô đơn và hiu quạnh nhất của lòng người, những gượng giụ trong những cung đàn và cầm gảy những nỗi lòng, nhưng rồi những phím đàn đó cũng đã thể hiện được rất chi tiết những tình cảm và sự mặn nồng trong tình yêu mặc dù, vẫn luôn phải chờ mong và thương nhớ:

Hương gượng đốt hồn đà mê mải,
Gương gượng soi lệ lại châu chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.

Tâm hồn của những người chinh phụ đang mê sắc trong những nỗi nhớ,và đang soi mình trong chiếc gương, để rồi những giọt lệ rơi ra, cầm đàn mà gảy nhưng tâm trạng đang trĩu nặng, những dòng cảm xúc đó đang dần khắc sâu và ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đối với mỗi con người khi đọc những dòng thương nhớ của chính tác giả, về cảm xúc và tâm trạng của những người thiếu phụ.

Trong bao nhiêu cung bậc tình cảm đó, nỗi lòng thầm kín chỉ muốn dành tặng cho những người luôn mong mỏi và đến ngày được gặp lại những vị tiên non, gửi theo gió biết bao nhiêu lời thương:

Lòng này gửi gió đông có tiện?
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên.
Non Yên dù chẳng tới miền,
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.

Những hình bóng và dáng vẻ thăm thẳm của không gian rộng lớn, nhưng chính tác giả cũng đang khắc khoải những nỗi nhớ mong tới người thương của mình, điều đó đem lại một cảm nhận mới mẻ, và nó khắc sâu trong tâm hồn một nỗi nhớ, một nỗi nhớ da diết khôn nguôi không thể nào thay đổi được.

Cho dù không gian xa xôi cách trở nhưng lòng tin và sự yêu thương đó vẫn luôn dành tặng cho trái tim của mỗi người chinh phụ. Những hình ảnh đơn bóng và mang trong mình bao nhiêu cảm xúc, dùng tình yêu thương của mình đối với chính những người thân thương là những điều tuyệt vời nhất, cuối bài thơ là dòng tâm trạng của tác giả, khi dùng vật để nói lên tâm trạng của những người chinh phụ, cảm xúc thật khó diễn tả:

Vài tiếng dế nguyệt soi trước ốc,
….
Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đau!

Những hình bóng cô đơn, và mang những dòng cảm xúc chan chứa những nỗi chứa tran và mang trong lòng người những cảm xúc của con người, những cảnh vật như chiếc bóng cô đơn, và in dấu trong những nỗi đau xé lòng về tâm trạng của những người chinh phụ cô đơn, lẻ loi. Hình ảnh người thiếu phụ đang đơn chiếc trong hình bóng cô đơn và lẻ loi đơn bóng của mỗi ngày, đó là điều buồn bã và tủi hờn nhất.

Xem thêm👉 Viết Đoạn Văn Miêu Tả Vẻ Đẹp Của Thúy Kiều ❤️️bên cạnh bài Cảm Nhận Về Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ

Cảm Nhận Của Em Về Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ Sinh Động – Bài 8

Bài văn cảm nhận của em về tình cảnh lẻ loi của Người chinh phụ sinh động sẽ giúp các em học sinh tham khảo những ý văn hay và cách hành văn đặc sắc.

Có thể nói, ở mỗi thời đại, văn học đều là tấm gương phản chiếu lên được mặt tốt và mặt xấu của xã hội. Khai thác và đào sâu vào những vấn đề thuộc về nội tâm của con người. Tác phẩm “Chinh phụ ngâm là một điển hình tiêu biểu như thế, đặc biệt là mười sáu câu đầu đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ”.

Đoạn trích phản ánh lên tội ác của những cuộc chiến tranh phi nghĩa đã làm cho người chinh phụ phải rơi vào tình cảnh cô đơn lẻ loi, tâm trạng đau khổ khắc khoải khôn nguôi. Hãy cùng thả lòng mình đến với 16 câu đầu đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” để cảm nhận rõ nét hơn nỗi cô đơn của người vợ có chồng đi chinh chiến.

Đoạn trích ra đời vào thế kỉ XVIII. Đầu đời vua Lê Hiển Tông, triều đình sai quân đánh dẹp, nhiều trai tráng trong làng phải từ giã người thân ra trận. Khi ấy, cảm nhận được nỗi khổ của những người nông dân, đặc biệt là người vợ lính. Đặng Trần Côn đã viết nên tác phẩm, bằng chữ Hán là một khúc ngâm đầy cảm xúc.

Mở đầu cho cảm xúc cô đơn, đau buồn kéo dài theo không gian và thời gian vô tận là hành động chậm rãi:

“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,

rèm thưa rủ thác đòi phen.”

Hành động được hiện ra với dáng vóc đầy suy tư của người chinh phụ. Nhịp thơ nhẹ nhàng, như để đi vào cảm xúc. Những động từ “dạo, gieo từng bước”, cho thấy những bước chân nặng nề mang đầy tâm trạng bâng khuâng, lo lắng, không gian im lặng đến mức nghe từng tiếng bước chân.

Người chinh phụ dường như đang suy nghĩ trăn trở nên nàng “ngồi” mà lòng thì chẳng để tâm. Tác giả đã sử dụng hình ảnh “rủ thác đòi phen” – kéo màng lên rồi lại buông mành xuống. Để cho thấy hành động lặp đi lặp lại vô nghĩ. Và rồi dường như có tiếng thầm thì trách móc:

“Ngoài rèm thước chẳng mách tin,

Trong rèm dường đã có đèn biết chăng.

Đèn có biết dường bằng chẳng biết,

Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.”

Người chinh phụ bắt đầu giãi bày nỗi niềm tâm sự của mình. Thực sự nàng đang rất nhớ người chinh phụ điều đó được thể hiện rõ nét qua hình ảnh “chim thước” – chim khách, là loài chim thường mang tin tốt lành. Nàng trách chim thước chẳng báo một chút tin tức nào của người chồng, để nàng phải đợi mong, cô đơn khắc khoải. Nghệ thuật đối lập “ngoài rèm” và “trong rèm” để cho thấy nỗi cô đơn ấy bao trùm tất cả không gian bên trong và bên ngoài phòng khuê. Và nàng cũng cần lắm một người tâm sự cùng mình.

“Đèn” được nhà thơ nhân hóa lên như một người bạn. Nếu với “Ca dao yêu thương tình nghĩa”: “Đèn thương nhớ ai mà đèn không tắt” chiếc đèn nguyện cùng cô gái thao thức suốt đêm mộng mơ nhớ thương, thì với Chinh phụ ngâm chiếc đèn lại phũ phàng với người phụ nữ lẻ loi ấy. “Đèn” đã tắt khi người chinh phụ đang cần lắm một sự sẻ chia, “đèn” đã làm cho người chinh phụ nhận ra rằng “dù thế nào thì đèn cũng chỉ là vật vô tri vô giác” chẳng thể chia sẻ cùng nàng được.

Tác giả đã sử dụng câu hỏi tu từ “Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?” như muốn cho người đọc cảm nhận người chinh phụ đã đi qua từng cảm xúc. Và đến khi tuyệt vọng nàng đã nói một câu mà nghe như xé lòng: Lòng thiếp riêng bi thiếp mà thôi” nàng xin nhận hết và chịu đựng hết nỗi cô đơn cho riêng mình. Bởi vì chẳng có ai bên cạnh để nàng chia sẻ. Biết bao nỗi niềm chất chứa chẳng nói thành lời:

“Buồn rầu nói chẳng nên lời,

Hoa đèn kia với bóng người khá thương.”

Nỗi buồn u ám dưới màn đêm, nỗi buồn mà ngay cả nàng cũng chẳng thể nói nên lời được. Có lẽ do nỗi buồn ấy quá lớn và nó lại hiện lên mỗi ngày. Nghệ thuật so sánh “Hoa đèn” với “bóng người”, người chinh phụ nhìn hoa đèn mà nghĩ đến cuộc đời của mình có mau lụi tàn như chiếc hoa đèn kia hay không? Hay còn hẩm hiu hơn thế nữa? Càng nghĩ nàng càng thấy buồn, dường như lúc này cảnh vật cũng rũ xuống một màu đen tối:

“Gà eo óc gáy sương năm trống,

Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên.

Khắc giờ đằng đẵng như niên,

Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.”

Trời đã khuya, không gian yên tĩnh, nghe từng tiếng gà gáy. Âm thanh vang lên “eo óc” thưa thớt, hình ảnh hoa hòe “rủ bóng bốn bên”, thời khắc cảnh vật mỏi mòn chìm vào đêm tối. Đã qua hết năm canh mà người chinh phụ vẫn còn thao thức với nỗi sầu khó vơi đi được. Sự so sánh “khắc giờ” như “niên”, một giờ dài bằng một năm, điều đó càng tô đậm hơn nỗi cô đơn. Thời gian cũng kéo dài cùng với nỗi sầu muộn của nàng.

Cùng với từ láy “đằng đẵng”, “dằng dặc” cho thấy sự kéo dài triền miên đau đớn cứ mãi day dứt trong lòng. Nghệ thuật lấy động tả tĩnh làm nổi bật lên không gian, thời gian, lấy cái xa của biển cả để nói về cái buồn của lòng người là một cách miêu tả đầy tinh tế. Tiếp đến nàng muốn tìm những thú vui tao nhã, tập cách quên đi nỗi buồn trước mắt:

“Hương gượng đốt hồn đà mê mải,

Gương gượng soi lệ lại châu chan.

Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,

Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng.”

Nhưng nàng chẳng biết rằng những thú vui tao nhã này lại khi nàng chìm đắm vào nỗi sầu miên man. Khi đốt hương, hồn nàng lại rơi vào trạng thái mơ màng, nỗi sầu lại theo đó mà dâng lên. Rồi khi soi gương để tô son điểm phấn, nàng lại càng xót xa cho thân phận của mình, nhan sắc của một người phụ nữ đang dần phai mòn đi theo những tháng ngày lẻ loi, không có chồng bên cạnh để làm điểm tựa. Khi đánh đàn nàng lại sợi “dây duyên đứt”, “phím loan chùng” nàng sợ những điều không may xảy đến cuộc tình của nàng.

Biết bao nỗi đau đau, nỗi sợ bủa vây lấy nàng. Điệp từ “gượng” được lặp lại ba lần cho thấy sự miễn cưỡng trong hành động. Cũng chỉ vì quá cô đơn, muốn quên đi mà nàng mới làm. Nhưng dù có thú vui tao nhã đến đâu, dù tô son điểm phấn hay đánh đàn thì cũng chẳng bao giờ nàng cảm thấy vui, bởi vì ngay lúc này với nàng là nỗi cô đơn mong mỏi chồng từ nơi chinh chiến sẽ trở về, mong được nghe một lời động viên an ủi từ người chồng của mình. Nhưng tất cả đều không!

Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, sử dụng những điệp từ, so sánh nhiều hình ảnh để vẽ ra khung cảnh của người chinh phụ mang nhiều tâm trạng. Sự cô đơn, lẻ loi của người phụ nữ trong đêm tối. Và khi hình ảnh buồn khổ ấy hiện lên chân thực đến đâu thì càng vạch trần cái tội ác xấu xa của chiến tranh phi nghĩa đẩy biết bao gia đình rơi vào cảnh chia lìa. Mà niềm cảm thông lớn nhất là dành cho người chinh phụ, là phụ nữ nhưng họ phải hy sinh tuổi xuân để chờ chồng mà chẳng có chút tin tức, không có ai chia sẻ những nỗi buồn.

Từ đấy cho ta thấy được cách chọn đề tài của Đặng Trần Côn rất mới mẻ, phù hợp với thời đại lúc bấy giờ. Cách miêu tả nội tâm đầy sâu sắc của ông, cho thấy ông là một người có vốn sống rất rộng. Đồng thời là sự sắc sảo trong cách dùng từ của hai dịch giả Đoàn Thị Điểm và Phan Huy Ích đã tạo nên đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” rất thành công.

Thông qua mười sáu câu đầu của đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” càng giúp ta hiểu rõ nét hơn những nỗi cô đơn của người phụ nữ trong xã hội cũ khi có chồng đi chinh chiến. Nó là nỗi cô đơn da diết kéo dài theo không gian thời gian. Từ đó cho thấy hậu quả của chiến tranh phong kiến phi nghĩa.

Và đó cũng là lời ca ngợi cho tác giả Đặng Trần Côn, ông quả là một nhà thơ tài năng và tác phẩm của ông đã chạm đến trái tim của đọc giả và vượt qua hàng trăm năm, nhưng mỗi lần nhắc về những tác phẩm chữ Hán, người ta sẽ nghĩ ngay đến “Chinh phụ ngâm”. Ông đã để lại cho nền văn học nước nhà một áng văn hay.

Cảm Nhận Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ 16 Câu Đầu Hay – Bài 9

Đón đọc bài văn cảm nhận tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ 16 câu đầu hay sau đây để trau dồi cho mình một văn phong hay, giàu ý nghĩa biểu đạt

Đặng Trần Côn là một tác giả văn học nổi tiếng sống vào khoảng nửa đầu thế kỉ XVIII. Đây là một giai đoạn lịch sử đầy biến động của đất nước khi mà chiến tranh đã làm chia cắt bao gia đình. Có biết bao nhiêu cặp vợ chồng vừa xây dựng hạnh phúc lứa đôi đã phải chia tay để chồng đi chinh chiến phương xa. Từ sự cảm thương với số phận con người trong thời chiến, ông đã viết nên tác phẩm “Chinh phụ ngâm”.

Đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” là một trong những đoạn trích tiêu biểu nói về tâm trạng cô đơn, lẻ bóng của người vợ trẻ khi chồng ra trận vắng nhà. Ngay từ tám câu thơ đầu, tác giả đã mở ra một tâm trạng cô đơn,lẻ bóng của người chinh phụ.

Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,

…..

Hoa đèn kia với bóng người khá thương!

Nỗi cô đơn của người chinh phụ đã được thể hiện trước hết qua hành động một mình nàng dạo hiên vắng. Buông rèm rồi lại cuốn rèm không biết bao nhiêu lần. Hành động này thể hiện sự bối rối, tâm trạng thất thần nhớ nhung khiến cho người phụ nữ còn không thể kiểm soát được hành động của mình. Đó là tâm trạng chờ đợi mong ngóng, tin tức người chồng phương xa. Nỗi buồn nỗi cô đơn của người chinh phụ còn được diễn tả qua sự đối bóng của người với ngọn đèn khuya.

Đèn có biết, dường bằng chẳng biết,

Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.

Hai câu thơ được tác giả viết hình thức câu hỏi tu từ, thể hiện tâm trạng bế tắc của người chinh phụ. Nàng hỏi đèn để mong muốn tìm được một sự đồng cảm, sẻ chia, nhưng rồi tự trả lời rằng đèn không biết. Hình ảnh ngọn đèn cùng với nỗi lòng của người chinh phụ như càng góp phần khẳng định nỗi buồn triền miên, cô đơn, không ai chia sẻ.

Đoạn thơ 8 câu cuối có sự chuyển đổi tinh tế để phù hợp với diễn biến tâm trạng của người chinh phụ. Từ những lời tự sự miêu tả nội tâm, đến đoạn thơ này có sự kết hợp giữa ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ của tác giả.

Gà eo óc gáy sương năm trống,

…..

Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.

Đoạn thơ này, tác giả chủ yếu sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình, tức là dùng ngoại cảnh để miêu tả tâm trạng nhân vật, dùng cái chủ quan để miêu tả cái khách quan. Vì thế, trong bài thời gian vật lý đã biến thành thời gian tâm lý. Tiếng “gà eo óc gáy” là âm thanh báo hiệu năm canh và bóng cây “hòe” tĩnh mịch trong đêm nhằm làm tăng ấn tượng vắng vẻ, cô đơn đáng sợ.

Trong tâm trạng chờ đợi mỏi mòn đó người chinh phụ thấy thời gian trôi qua một cách chậm chạp, một khắc một giờ mà giống như một năm. Và để giải tỏa nỗi niềm sầu muộn, người chinh phụ đã biết tìm đến những thú vui tao nhã thường ngày: “Soi gương, đốt hương, gẫy đàn”. Nhưng tất cả chỉ làm trong sự gượng gạo, miễn cưỡng chán chường.

Thành công của đoạn trích này là ở khả năng miêu tả tâm lí nhân vật vô cùng tinh tế với bút pháp tả cảnh ngụ tình quen thuộc của văn học trung đại và sử dụng hàng loạt các biện pháp tu từ: câu hỏi tu từ, điệp từ, điệp ngữ…

Chỉ với 16 câu thơ đầu, tác giả đã thể hiện được tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ. Toàn bộ tác phẩm Chinh phụ ngâm được xem là tiếng kêu thương của người phụ nữ nhớ thương người chồng chinh chiến phương xa.

Tham khảo 🌼Phân Tích Tâm Trạng Thúy Kiều 🌼Trong Đoạn Trích Trao Duyên

Cảm Nhận Về Người Chinh Phụ Qua Đoạn Trích Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ Văn Mẫu – Bài 10

Giới thiệu bài văn mẫu Cảm nhận về người chinh phụ qua đoạn trích tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ mà scr.vn chọn lọc được sau đây.

Đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” được trích trong tác phẩm “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn. Với thể loại ngâm khúc, bài thơ đã thể hiện một cách sâu sắc và thấm thía nỗi khổ đau, tình cảnh cô đơn lẻ loi của người phụ nữ có chồng đi chinh chiến. Đoạn trích còn mang ý nghĩa lên án chiến tranh phi nghĩa của chế độ phong kiến đương thời, bộc lộ sự cảm thông của nhà thơ với hoàn cảnh và khát khao của người chinh phụ. 

Chồng phải chinh chiến nơi biên ải xa xôi, sau khi tiễn chồng đi, người chinh phụ trở về bắt đầu cuộc sống với những nỗi cô đơn, lẻ bóng. Tám câu thơ đầu đã khắc họa rất rõ tình cảnh đơn côi của người phụ nữ thông qua những cử chỉ, hành động:

Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen”

Đi dạo trên hiên vắng nhưng thực chất chỉ là đi đi lại lại bởi tâm thế bây giờ không phải đi dạo để thưởng hoa vọng nguyệt, tiếp đến là hành động cuốn rèm, cứ buông rèm rồi lại cuốn rèm làm đi làm lại nhiều lần cũng không để tâm tới. Những hành động lặp đi lặp lại vô nghĩa cho thấy sự thẫn thờ, ngẩn ngơ và chất chứa đầy nỗi ưu tư của người chinh phụ.

Chồng đã ra trận, chỉ còn lại một mình nàng, nàng đang phải gồng mình chống chọi với nỗi cô đơn trong âm thầm, không thể tâm sự hay san sẻ cùng với bất kỳ ai. Câu hỏi tu từ “Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?” càng tô đậm thêm nỗi day dứt và khắc khoải trong lòng người chinh phụ, hình ảnh “hoa đèn” và “bóng người” là sự so sánh sức sống của người phụ nữ đã lụi tàn, số phận như tàn đèn.

“Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên”

Đây thực chất là câu thơ tả cảnh ngụ tình, tiếng gà eo óc, bóng cây hòe rủ phất phơ trong đêm, dường như cảnh vật và sự sống nhìn qua con mắt của người chinh phụ giờ đây đều nhuốm màu buồn, gợi nên cảm giác trống trải, hoang vắng tột cùng.

Thời gian theo cảm nhận cũng đầy ắp nỗi niềm tâm trạng, “đằng đẵng”, “dằng dặc”, đó là biểu tượng cho những nỗi buồn, nỗi đau khổ đang kéo dài vô tận không biết điểm dừng. Nỗi buồn của người phòng khuê làm cách biệt không gian và thời gian, một giờ bằng cả một năm, mối sầu như biển cả mênh mông. Nỗi buồn khổ ấy đã đẩy lên đỉnh điểm, khiến cho mọi hành động của người chinh phụ chỉ là gượng gạo, miễn cưỡng:

“Hương gượng đốt hồn đà mê mải
Gương gượng soi lệ lại châu chan
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn
Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng”

Sự rối bời đến đây đã bộc lộ rõ ràng, đốt hương mà hồn lại mê man, soi gương mà nước mắt chứa chan, gảy đàn mà lại thấy điềm báo gở chẳng lành, tất cả đang dồn ép vào nỗi lòng người chinh phụ khiến nàng không thể giải tỏa, càng cố gượng gạo thì nỗi buồn sầu càng thêm chất chứa. Bỏ qua nỗi buồn của mình, người chinh phụ nhớ đến chồng đang biên ải xa xôi, hướng nỗi niềm nhớ mong tới miền biên ải.

Non Yên dù chẳng tới miền,
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.

Nỗi nhớ chồng của người chinh phụ đã hòa tan vào không gian rộng lớn, không gian ấy gợi sự xa xôi, cách biệt nghìn trùng không thể đi tới được, “trời thăm thẳm” không đáy như chính sự nhớ mong triền miên không dứt, nỗi nhớ “đau đáu” ẩn chứa cả sự vô vọng, ngóng trông chờ đợi trong mỏi mòn. Thực sự nhà thơ đã đem nỗi lòng người chinh phụ phơi bày ra, bởi chính nỗi nhớ thương ấy cũng không thể bao bọc được nữa.

“Cảnh buồn người thiết tha lòng,
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun”

Người chinh phụ khao khát được sẻ chia nỗi lòng với cảnh vật, tìm sự đồng cảm nhưng lại trở về với vô vọng, “sương đượm” như chính cõi lòng nàng đã giá băng, tiếng hạt “mưa phun” như tiếng lòng nàng đang vỡ nát, tan tành theo nỗi nhớ. Đó cũng chính là sự tan vỡ của những khao khát hạnh phúc lứa đôi của người phụ nữ. 

Với việc sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật như so sánh, câu hỏi tu từ, hình ảnh ước lệ, điệp từ, cùng với bút pháp tả cảnh ngụ tình đầy bộc lộ nội tâm nhân vật một cách tinh tế. Những câu thơ trong “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” như chứa chất nỗi đau, nỗi nhớ và khao khát hạnh đôi lứa, thể hiện sâu sắc và thấm thía nhất chủ đề của tác phẩm.

Bài Văn Cảm Nhận Bài Thơ Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ Điểm Cao – Bài 11

 Các em học sinh có thể tham khảo bài văn cảm nhận bài thơ Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ điểm cao dưới đây để học hỏi thêm cách hành văn trôi chảy, giàu hình ảnh sinh động.

Tác phẩm Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn lấy bối cảnh những cuộc chiến tranh phi nghĩa diễn ra vào cuối thế kỉ XVIII. Bằng việc khắc họa hình ảnh nhớ thương, nỗi khổ đau của người chinh phụ khi chồng ra trận ở miền biên ải xa xôi, tác giả đã bày cất tiếng nói đồng cảm của mình với những người phụ nữ trong xã hội cũ đồng thời lên án, tố cáo chiến tranh phi nghĩa.

Tác phẩm được nhiều dịch giả nổi tiếng yêu quý dịch sang bản diễn Nôm nhưng bản dịch hay nhất có lẽ là bản dịch của Đoàn Thị Điểm. Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ được trích trong tác phẩm đã diễn tả nỗi cô đơn lẻ loi của người vợ trong những năm tháng chồng đi chiến trận.

“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen
Ngoài rèm thước chẳng mách tin
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng
Đèn có biết dường bằng chẳng biết

Hạnh phúc là điều lớn lao mà ai cũng ao ước có được. Đặc biệt là đối với những người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa thì hạnh phúc đến không phải là dễ dàng, bởi vậy mà họ càng trân quý. Người chinh phụ trong tác phẩm phải chấp nhận xa chồng, càng xa chồng nàng càng cô đơn, buồn tẻ. Nỗi cô đơn ngập tràn cả khuê phòng, căn gác, tràn ngập cả không gian, thời gian.

Trước hiên nhà, những bước đi chậm rãi, nặng nề và nhàm chán của người chinh phụ càng lột tả nỗi cô đơn, chán chường hơn bao giờ hết. Hành động buông rèm xuống, kéo rèm lên như lặp lại tô đậm thêm nỗi cô đơn trong khuê các. Càng cô đơn, càng thương nhớ, trông chờ một tiếng lành từ chim thước từ xa nhưng chẳng có, nàng đành ngậm ngùi bên chiếc đèn khuya. 

” Đèn có biết dường bằng chẳng biết
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi”

Tìm đến đèn để tâm giao cho vơi bớt nỗi ưu sầu, mà đèn nào có biết. Cuối cùng, ánh đèn dẫu có sáng tỏa đấy thôi nhưng nào soi rọi được tâm hồn người chinh phụ, nào thấu được tâm can kẻ cô đơn. Ánh dèn, dẫu sau nó cũng là một vật vô tri, vô giác, nào có thể lặng nghe người chinh phụ giãi bày, thở than. Ánh đèn nào có thể thay được người chồng nơi biên ải, có thể cùng nàng chia sẻ nỗi ngọt bùi, đắng cay.

Có chăng, ánh đèn ngày một hiu hắt như chính lòng người chinh phụ ngày một nặng nề, trĩu những nỗi u hoài khôn thấu. Nàng buồn bã trong khuê phòng với ánh đèn dầu hiu hắt mà xót thương cho số phận mình, tủi hổ cho cảnh lẻ loi, đơn chiếc vì chia ly của mình. Nỗi bi thiết của lòng nàng cất lên trong từng tiếng thơ ai oán, vừa như trách móc, vừa như xót xa cho thân phận chính mình:

“Đèn có biết dường bằng chẳng biết
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi
Buồn rầu nói chẳng nên lời
Hoa đèn kia với bóng người khá thương”

Nỗi uất ức trong nàng như trỗi dậy, lòng người chinh phụ buồn tủi, đớn đau, nỗi lòng mình nàng “riêng bi thiết”, mình nàng chịu đựng. Hoa đèn in bóng người con gái cô độc trên khuê các càng tô đậm nỗi sầu trong đêm thâu. Đèn dần tàn, thời gian vẫn vậy cứ trôi đi, một mình, một bóng, gặm nhấm nỗi cô độc, sầu tủi, nỗi chán chường vì lẻ loi tận cùng.

“Gà eo óc gáy sương năm trống
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên
Khắc giờ đằng đẵng như niên
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa”

Tiếng thở dài trong đêm thâu bởi hạnh phúc ấm êm bị chiến tranh phi nghĩa tước đoạt thật xót xa. Phải chăng lòng người buồn tủi, nỗi sầu thương nhuốm lên cả vị thời gian, màu không gian. Tiếng gà “eo óc” đếm thời gian trong đêm lạnh, bóng hòe “phất phơ rủ bóng” ngẩn ngơ bốn bề, tất cả đều đượm buồn thương.

Thiên nhiên có thanh, có sắc mà chẳng có lấy chút niềm vui dù là nhỏ bé, như chính trái tim người thiếu phụ đang độ tuổi xuân thì, khát khao hạnh phúc lứa đôi lại chịu cảnh cô đơn khôn thấu. Ngồi buồn đếm vị thời gian trôi, mỗi khắc thời gian tựa như một năm dài. Hình ảnh so sánh kết hợp với từ láy gợi hình” khắc giờ đằng đẵng như niên” càng tô đậm nỗi nhớ thương, đợi chờ.

“Hương gượng đốt hồn đà mê mải
Gương gượng soi lệ lại châu chan
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn
Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng”

 Trong nỗi buồn tủi, sầu muộn, cô độc đến cùng cực ấy, người chinh phụ cố vực dậy tinh thần mình bằng việc tìm đến những thú vui đời thường. Nhưng trớ trêu thay, mọi thứ dường như đều trở nên gượng gạo, bất lực trước tâm trạng chinh phụ.

Hướng gượng đốt thì hương mê mải, gượng soi ngắm dung nhan thì không ngăn được dòng lệ nhớ thương. Tay gõ lên phím đàn mà lòng quặn thắt, sợ dây đứt, phím chùng lại lắng lo về những điều xảy ra sắp đến. Mọi thứ dường như đều trở nên vô nghĩa, người chinh phụ càng làm, nỗi đau càng xoáy sâu trong tâm khảm, nỗi buồn càng day dứt chẳng nguôi ngoai.

Lòng này gửi gió đông có tiện
Nghìn vàng xin gửi đến non yên
Non Yên dù chẳng tới miền
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời

Càng cô đơn, tuyệt vọng, nỗi nhung nhớ lại càng dâng trào, mãnh liệt. Người chinh phụ nhớ thương chồng tha thiết nhưng đành bất lực vì khoảng cách quá xa xôi. “Non Yên” một hình ảnh ẩn dụ cho sự xa xôi, cách trở của người chinh phụ và kẻ chinh phụ. Vì nỗi nhớ thương da diết, không biết làm gì hơn, nàng đành gửi nỗi nhớ theo gió đông đến “Non Yên”. Mong rằng, những nhớ thương ấy có thể là niềm động viên, ủi an cũng là nỗi mong mỏi cho chồng nơi xa được an toàn, đợi ngày trở về đoàn thủ.

Từ láy “thăm thẳm”, “đau đáu” kết hợp với cụm danh từ “đường lên bằng trời” đã đặc tả nỗi nhớ khôn nguôi, mênh mông và cao rộng đến tận cùng trong người chinh phụ. Qua đó bộc lộ được tình yêu tha thiết, thủy chung son sắt của người con gái khi yêu.

“Cảnh buồn người thiết tha lòng
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun”

Đúng như ai đó đã từng viết:

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”

Trong những dòng thơ cuối, bút pháp tả cảnh ngụ tình một lần nữa được tác giả sử dụng đầy tinh tế. Cảnh buồn với sương đượm cành, thanh âm của tiếng côn trùng réo rắt, mưa phùn mênh mang như chính lòng người thiếu phụ lúc này: buồn ưu, cay đắng, đơn côi giữa dòng đời. 

Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ đã chạm đến trái tim bao người đọc bởi những rung động tình cảm đời thường nhất. Đó là sự đồng cảm với tâm trạng của người chinh phụ, là sự trân trọng vẻ đẹp một tâm hồn của người phụ nữ khi yêu và sự căm phẫn trước chiến tranh tàn ác đã đẩy bao con người phải chịu khổ đau, chìa lìa như người chinh phụ.

Xem thêm🌷 Thuyết Minh Truyện Kiều ❤️️ 12 Bài Văn Mẫu Hay Nhất

Cảm Nhận 12 Câu Đầu Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ Chi Tiết – Bài 12

Hướng dẫn cách viết văn cảm nhận 12 câu đầu Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ chi tiết với những ý văn sáng tạo, đọc đáo.

Thân phận người phụ nữ luôn là đề tài muôn thủa trong các tác phẩm văn học Việt Nam. Nếu “Truyện kiều” của Nguyễn Du là lời than về số phận bạc mệnh của Kiều thì “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn lại là nỗi sầu của người chinh phụ khi phải xa chồng trong thời kỳ chiến tranh loạn lạc. Với bản diễn nôm rất thành công của Đoàn Thị Điểm “Chinh phụ ngâm”đã trở thành một trong những tác phẩm tiêu biểu của nền văn học trung đại Việt Nam.

Đọc tác phẩm này, nhất là đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ”, chắc chắn không ai có thể quên được 12 câu đầu của đoạn trich với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình vô cùng đặc sắc. Đoạn thơ đã diễn tả nỗi cô đơn buồn tủi trong cảnh khắc khoải chờ chồng của người chinh phụ một cách sâu sắc.

“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,

…………………………………

Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa”

Đoạn thơ đã mở ra trước mắt người đọc một không gian chật hẹp, nơi thềm hiên vắng lặng, nơi mà người chinh phụ đang cố gắng vượt qua sự cô đơn trống vắng khi người chồng đã đi xa. Bằng cách sử dụng điêu luyện nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, Đặng Trần Côn đã vẽ nên bức tranh tâm trạng đầy xúc động, thể hiện nỗi sầu của người chinh phụ cũng như bút pháp tinh tế của ông trong việc miêu tả nội tâm nhân vật.

Đúng như nhan đề của tác phẩm, đoạn thơ là tâm trạng cô đơn trống vắng của người chinh phụ. Sau khi tiễn chồng ra trận nàng trở về trong nỗi chờ mong khắc khoải :

“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước 

Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen”

Trong đêm thanh vắng quạnh hiu này, chỉ có tiếng bước chân của nàng, một mình đối diện với chính mình. Bước chân ấy đi đi lại lại trên hiên nhưng có lẽ tâm trí nàng đang chìm đắm trong miên man. Mỗi bước chân là một nỗi nhớ, mỗi bước chân là một nỗi lo, tất cả đang làm cho tâm trạng nàng nặng trĩu lo âu và thương nhớ người chồng đang chinh chiến ở ải xa.

Người chinh phụ hết đi đi lại lại, rồi lại buông rèm, cuốn rèm không biết bao nhiêu lần…Đây là những động tác, cử chỉ và hành động được lặp lại nhiều lần mà không hề có mục đích của người chinh phụ. Phải chăng nó chỉ để biểu lộ tâm trạng cô đơn lẻ loi của nàng mà không biết san sẻ cùng ai :

“Ngoài rèm thước chẳng mách tin

Trong rèm dường đã có đèn biết chăng 

Đèn có biết dường bằng chẳng biết

Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi”

Nếu như ở câu trước người chinh phụ “ngồi rèm thưa” để ngóng đợi tin chồng, thì ở câu thơ này người chinh phụ ngóng con chim thước- mong được báo tin lành nhưng chẳng thấy. Nàng lại quay về với không gian chật hẹp của căn phòng, nơi mà nàng dối diện với bóng mình, đối diện với người bạn đèn. Nhưng thật chớ trêu, đèn dù sao chỉ là một vật vô tri vô giác, có biết cũng như không.

Câu hỏi tu từ “Đèn có biết.. chẳng biết” là một lời than thở, là nỗi khắc khoải chờ đợi và hi vọng trong nàng day dứt không yên. Tâm trạng của người chinh phụ đã chuyển giọng tự nhiên từ lời kể bên ngoài thành lời tự độc thoại nội tâm, da diết, dằn vặt và ngậm ngùi. Nàng quả là một người đáng thương! Hình ảnh ngọn đèn hoa đèn cùng với hình ảnh cái bóng trên tường gợi cho người đọc nhớ đến những ngọn đèn không tắt trong nỗi nhớ của gười thiếu nữ trong bài ca dao quen thuộc:

“Đèn thương nhớ ai

Mà đèn chẳng tắt 

Mắt thương nhớ ai 

Mắt ngủ không yên”

Trong đêm vắng chỉ có ngọn đèn có áng sáng, nó càng làm nổi bật đêm tối mênh mang và nỗi cô đơn dường như nhân lên gấp bội trong lòng người thiếu phụ.

Với bốn câu thơ tiếp theo, nhà thơ đã khéo léo dùng thời gian của thiên nhiên, con người để diễn tả tâm trang khắc khoải chờ của người chinh phụ:

“Gà eo óc gáy sương năm trống 

…………………………………

Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa”

Tiếng gà eo óc, tiếng trống canh là báo hiệu của canh năm, báo hiệu rằng người vợ trẻ xa chồng đã thao thức suốt đêm, mong chờ mòn mỏi. Tiếng gà, bóng hòe ủ rũ càng làm làm cho cảnh vật nơi đây thêm sự vắng vẻ, cô quạnh hoang vắng và đáng sợ. Người phụ nữ như chìm đắm vào trong đêm tối mênh mông, trong lo âu chờ đợi.

Cùng với thời gian là không gian mênh mông vô tận như khắc sâu tô đậm nỗi sầu héo của người chinh phụ. Chỉ có một ‘khắc giờ” mà “đằng đẵng” như cả một năm. Và mối sầu được trải ra không gian của “miền biển xa”. Tất cả được đo bằng thời gian vô định, không gian vô cùng. Đây là thời gian và không gian của tâm trạng. Phải chăng, nàng luyến tiếc vì tuổi trẻ trôi đi vô ích khi không có chồng ở bên. Những ngày tháng bên chồng đối với người chinh phụ là một quá khứ tươi đẹp nhưng lại thật ngắn ngủi chóng vánh.

Tóm lại, với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình điêu luyện, cảnh mang hồn người cảnh và tình hòa hợp sống động, Đặng Trần Côn đã khắc họa nên hình ảnh người thiếu phụ đang cố gắng thoát khỏi nỗi cô đơn trống trải trong thương nhớ, mỏi mòn mà không biết chia sẻ cùng ai.

Đoạn thơ nói về tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ cũng như toàn bộ tác phẩm “Chinh phụ ngâm” là tiếng kêu thương của người chinh phụ chờ chồng, nhớ thương chồng chinh chiến nơi ải xa. Cuộc chiến tranh phi nghĩa đã đẩy bao chàng trai ra trận và bao nhiêu số phận người phụ nữ phải héo hon chờ chồng. Phản ánh hiện thực xã hội này, Đặng Trần Côn đã khẳng định giá trị nhân văn cao cả của tác phẩm cũng như thái độ cảm thông chia sẻ của tác giả đối với nỗi đau của người phụ nữ thời phong kiến. Đúng như Nguyễn Du đã từng viết:

“Thương thay thân phận đàn bà 

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”

Tham khảo thêm 🎯Cảm Nhận Nhân Vật Mị Trong Đêm Tình Mùa Đông ❤️️bên cạnh bài Cảm Nhận Về Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ

Văn Mẫu Cảm Nhận Về Đoạn Trích Tình Cảnh Lẻ Loi Hay Nhất – Bài 13

Bài văn mẫu cảm nhận về đoạn trích Tình cảnh lẻ loi hay nhất sẽ giúp các em học sinh luyện tập cách diễn đạt mạch lạc, súc tích.

Trong xã hội phong kiến đầy rẫy những bất công, cuộc đời người phụ nữ luôn gắn liền với những đau khổ và bất hạnh. Dù có phẩm cao quý, tốt đẹp đến đâu thì số phận của họ vẫn đầy rẫy những bi kịch. Một trong những nguyên nhân dẫn đến cuộc đời đầy những đau thương, nước mắt của họ chính là tấn bi kịch do chiến tranh phong kiến phi nghĩa gây ra.

Bài thơ “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” của tác giả Đặng Trần Côn là tác phẩm tiêu biểu thể hiện rõ điều này. Qua những câu thơ chất chứa tâm trạng và dòng độc thoại nội tâm nhân vật, thi phẩm đã khắc họa nỗi đau khổ cũng như khát khao về hạnh phúc lứa đôi, về mái ấm gia đình của người chinh phụ trong những tháng ngày xa cách và mong chờ người chinh phu trở về.

Bằng thể thơ song thất lục bát, “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” đã khắc họa thành công diễn biến tâm trạng của nhân vật trữ tình thông qua sự cô đơn và nỗi nhớ thương, trông mong của người chinh phụ trong những tháng ngày người chinh phu ra trận. Trước hết, tác giả đã tập trung khắc họa tâm trạng cô đơn của người chinh phụ trong những năm tháng lẻ loi:

“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa thác rủ đòi phen
…..
Buồn rầu chẳng nói nên lời
Hoa đèn kia với bóng người khá thương”

Nỗi cô đơn, buồn tủi của người chinh phụ đã được tái hiện thông qua hành động lặp đi lặp lại mang tính tuần hoàn. Nàng “gieo từng bước” âm thầm trong hiên vắng, đưa ánh mắt xa xăm hướng ra ngoài để trông ngóng, chờ đợi tin tức tốt lành từ người chinh phu. Cuộc sống của nàng giờ đây tù túng, bế tắc, bó hẹp trong không gian “vắng” và “thưa”.

Không nhận được sự hồi đáp từ niềm trông mong, hi vọng tin tức tốt lành về người chồng, nàng mong muốn nhận được sự đồng cảm của từ ngọn đèn, nhưng rồi ngọn đèn leo lét giữa đêm khuya không đủ sức san sẻ và sưởi ấm nỗi lòng cô đơn đến giá lạnh, “bi thiết” của người chinh phụ.

Dòng thời gian vô hình cứ trôi đi trong âm thầm, nhưng nàng vẫn cảm nhận được bước đi lặng lẽ đó: “Gà óc eo gáy sương năm trống”. Sự ý thức về thời gian giữa đêm khuya vắng cũng là một trong những biểu hiện của tâm hồn trống trải, khiến nỗi cô đơn như trải dài bất tận cùng “khắc giờ đằng đẵng” và “mối sầu dằng dặc”. Trong không gian vắng vẻ của căn phòng, nàng lại tiếp tục đối mặt với sự hiu quạnh:

“Hương gượng đốt hồn đà mê mải
Gương gượng soi lệ lại châu chan
Sắt cầm gượng gảy phím đàn
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại ngùng”

Điệp từ “gượng” được lặp lại ba lần đã diễn tả thành công hành động mang tính chất thụ động, gượng gạo của người chinh phụ. Nàng gượng đốt hương để lòng mình thanh thản, nhưng lại càng bị cuốn sâu hơn vào bờ vực cô đơn, nàng miễn cưỡng soi gương nhưng khi đối diện với chính mình thì nước mắt lại chứa chan, nàng “gượng gảy phím đàn” nhưng tình cảnh lẻ loi hiện tại khiến nàng e ngại, lo sự, bất an về những điều không hay.

Dù cố gắng đến đâu thì người chinh phụ vẫn không thể vượt thoát sự cô đơn đến ám ảnh đang xâm chiếm tâm hồn. Và rồi trong hiu quạnh, nàng nhớ về người chinh phu:

“Lòng này gửi gió đông có tiện?
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên
Non Yên dù chẳng tới miền
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời”

Nàng gửi gắm nỗi nhớ vào “gió đông”, mong làn gió đem sự trông ngóng đến miền biên ải xa xôi – nơi “non Yên” mà người chồng đang chiến đấu. Dường như không còn làm chủ được cảm xúc và kìm nén được lòng mình, nỗi nhớ thương đối với người chinh phu đã được bộc bạch một cách trực tiếp: “Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời”, “Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong”. Những câu thơ ngân vang với âm hưởng thống thiết và bi thương đã làm nổi bật sắc thái của nỗi nhớ gắn với nỗi đau, nỗi sầu “đau đáu”.

Nỗi nhớ của nàng đối với chồng đã bủa vây trong tâm trí, không ngừng tăng tiến qua từng cung bậc cảm xúc và cuối cùng hóa thành nỗi đau đớn đến tuyệt vọng. Như vậy, dòng nội tâm của nhân vật trữ tình đã được tác giả khắc họa thành công qua việc miêu tả những hành động lặp đi lặp lại, qua những yếu tố về ngoại cảnh và sự diễn biến của những sắc thái, cung bậc cảm xúc.

Qua việc khắc họa tâm trạng cô đơn cùng nỗi nhớ của người chinh phụ, đoạn trích đã thể hiện giá trị hiện thực và nhân đạo vô cùng sâu sắc. Trước hết, đó là việc phản ánh chân thực, rõ nét xã hội phong kiến mục nát cùng số phận bi kịch của người phụ nữ. Qua đó, tác giả cũng lên án, tố cáo chiến tranh phong kiến phi nghĩa đã tước đoạt hạnh phúc chính đáng của con người. Tham vọng quyền lực của các tập đoàn cát cứ phong kiến là nguồn cơn dẫn đến cảnh binh đao, khói lửa, gây ra bao đau thương, tang tóc, lầm than.

Đồng thời, bài thơ còn thể hiện tiếng nói xót thương, đồng cảm của tác giả đối với thân phận người phụ nữ – những nạn nhân chịu nhiều đau thương trong xã hội xưa. Qua nỗi cô đơn và nỗi nhớ của người chinh phụ, ta còn thấy được niềm khao khát mãnh liệt về hạnh phúc lứa đôi, hạnh phúc gia đình.

Bằng thể thơ song thất lục bát dân tộc, giọng thơ thống thiết, bi thương kết hợp với các biện pháp tu từ và điển cố điển tích, trích đoạn “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” đã thể hiện rõ tài năng miêu tả và khắc họa tâm lí nhân vật của tác giả Đặng Trần Côn. Qua đó, chúng ta thấy được bi kịch trong nỗi cô đơn và nỗi nhớ “thăm thẳm” của những người chinh phụ luôn “đau đáu” trông mong tin tức của người chinh phu nơi biên ải xa xôi.

Tham khảo thêm 🌸Cảm Nhận Về Nhân Vật Mị Trong Vợ Chồng A Phủ ❤️️ 10 Bài Hay

Văn Mẫu Cảm Nhận Về Bài Tình Cảnh Lẻ Loi Hay Xuất Sắc – Bài 14

Cùng học hỏi cách diễn đạt từng ý văn thông qua văn mẫu cảm nhận về bài Tình cảnh lẻ loi hay xuất sắc.

Chinh phụ ngâm nguyên văn bằng chữ Hán, do Đặng Trần Côn sáng tác. Bản Nôm hiện hành, nhiều ý kiến thống nhất, là của dịch giả Đoàn Thị Điểm. Trước cảnh chiến tranh liên miên đầu thế kỉ XVIII, cảm động trước thời thế, Đặng Trần Côn đã viết Chinh phụ ngâm. Qua nỗi niềm và tâm trạng cô đơn, tủi hờn của người chinh phụ, tác phẩm đã nói lên sự oán ghét chiến tranh phong kiến phi nghĩa, đặc biệt là thể hiện tâm trạng khao khát tình yêu, hạnh phúc lứa đôi.

Người chinh phụ vốn dòng dõi trâm anh quyền quý, nàng tiễn chồng ra trận với mong muốn người chồng sẽ lập công danh nơi yên ngựa và trở về trong cảnh vinh hoa. Thấm nỗi cô đơn lẻ loi, nàng nhận ra tuổi xuân của mình đang đi qua và hạnh phúc lứa đôi ngày càng xa vời. Người chinh phụ rơi vào tâm trạng cô đơn cùng cực. Khúc ngâm thể hiện tâm trạng cô đơn ấy của người chinh phụ. Đoạn trích miêu tả tâm trạng lẻ loi của người chinh phụ trong cảnh chờ chồng.

Đầu đời Cảnh Hưng, chiến tranh xảy ra liên miên, hết Lê – Mạc đánh nhau đến Trịnh – Nguyễn kéo dài cuộc phân tranh, đất nước chia làm hai nửa dưới cái ngai vàng mục ruỗng, rồi khởi nghĩa nông dân nổ ra khắp nơi. Nhân dân sống trong cảnh nồi da nấu thịt, loạn li chinh chiến, cha mẹ xa con, vợ xa chồng. Văn học thời kì này tập trung phản ánh bản chất thối nát, bộ mặt tàn bạo của chế độ phong kiến và nỗi đau khổ của con người – những nạn nhân của chế độ xã hội ấy.

Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn ra đời đã nhận được sự đồng cảm của rất nhiều nho sĩ. Nhiều bản dịch Chinh phụ ngâm ra đời, trong đó bản dịch được cho là của Đoàn Thị Điểm là bản dịch thành công hơn cả vì dịch giả đã gặp được ở đó sự đồng cảm sâu sắc.

Hình tượng nổi bật của Chinh phụ ngâm là hình tượng người chinh phụ héo mòn trong trông ngóng chờ đợi. Người chinh phụ hiện lên trong khúc ngâm với ước vọng công hầu và khát khao hạnh phúc lứa đôi. Được nuôi dưỡng trong nền giáo dục Nho gia, người phụ nữ quý tộc phong kiến cũng từng mong ước, tự hào về hình ảnh một người chồng dũng mãnh:

Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt

…..

Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao

Thế nhưng sau những ngày mỏi mòn chờ chồng trong tuyệt vọng, nàng rơi vào tâm trạng cô đơn, tuyệt vọng và cất lời oán trách. Qua tâm trạng của người thiếu phụ, khúc ngâm là tiếng nói oán trách chiến tranh phong kiến đã giày xéo lên hạnh phúc lứa đôi.

Chinh phụ ngâm là một tác phẩm trữ tình, từ đầu đến cuối tác phẩm vẫn chỉ là tâm trạng của nhân vật trữ tình – người chinh phụ. Khúc ngâm được phát triển theo mạch tâm trạng và nỗi nhớ nhung của người chinh phụ. Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ đã bao quát được những trạng thái tâm trạng của người chinh phụ.

Nội tâm đầy biến động được diễn tả qua những từ ngữ chỉ ngoại hình, tả hành động, tả việc làm của người chinh phụ. Người thiếu phụ trong Khuê oán của Vương Xương Linh vẫn vô tư trang điểm má hồng để lên lầu biếc ngắm cảnh xuân, chỉ khi ngắm màu dương liễu mới bừng tỉnh và nhận ra cảnh ngộ cô đơn của mình ; còn người chinh phụ này luôn chìm đắm trong nỗi cô đơn. Sự trông đợi mỏi mòn và vô vọng đã khiến nàng trễ nải cả việc điểm phấn tô son, công việc quan trọng nhất của người phụ nữ nơi gác tía lầu son như nàng:

Trâm cài xiêm thắt thẹn thùng,

Lệch vòng tóc rối, lỏng vòng lưng eo.

Nỗi đau buồn của người thiếu phụ trong cảnh đợi chồng đi chiến trận đã khiến nàng mất hết sức lực, như người mộng du trong ngôi nhà của mình:

Há như ai hồn say bóng lẫn,

Sự chờ đợi vô vọng đã khiến nàng tê liệt cả tinh thần. Với việc miêu tả dáng vẻ bề ngoài, tác giả đã lột tả được trạng thái tâm lí phức tạp trong nội tâm của người thiếu phụ. Người thiếu phụ hiện lên với vẻ mệt mỏi và buông xuôi, nỗi cô đơn đã giày vò cả tâm thần và thể xác của người thiếu phụ khiến nàng nhạt phấn phai hương.

Nỗi cô đơn bao trùm cả lên không gian và thời gian, ngày và đêm. Trong và ngoài căn phòng đều tràn ngập nỗi cô đơn. Chỉ có người thiếu phụ đối diện ngọn đèn, tình cảnh lẻ loi càng hiện rõ hơn. Cái vẻ lẻ loi tội nghiệp ấy hiện lên thật rõ ràng với hình ảnh:

Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước

Giữa cái không gian tĩnh mịch của đêm, tiếng bước chân chậm rãi như gieo vào lòng người cái âm thanh lẻ loi cô độc. Pu-skin trên con đường mùa đông vắng vẻ, cô đơn hơn bởi tiếng lục lạc đơn điệu thì người chinh phụ cô đơn hơn khi nghe tiếng bước chân của mình. Nỗi đau đớn âm thầm nhưng quá lớn ấy khiến nàng khao khát có sự đồng cảm. Nhưng chỉ có ngọn đèn đối diện với nàng mà thôi. Liệu ngọn đèn có thấu hiểu được không hay sức nặng của nỗi cô đơn, của sự nhung nhớ lại dồn cả lên nàng.

Ngọn đèn chỉ là vật vô tri vô giác, “có biết dường bằng chẳng biết”:

Đèn có biết dường bằng chẳng biết,

Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.

Buồn rầu nói chẳng nên lời,

Hoa đèn kia với bóng người khá thương.

Cảnh vật không san sẻ mà cộng hưởng cùng nỗi sầu của người chinh phụ khiến nàng đau càng đau, sầu càng sầu. Nỗi chờ đợi ngày càng vô vọng. Dường như người thiếu phụ thức trắng cả năm canh và bị nỗi nhớ nhung giày vò:

Gà eo óc gáy sương năm trống,

Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên.

Dịch giả đã sử dụng rất hợp lí những từ ngữ thuần Việt với những chữ như “eo óc”, “phất phơ”, những từ ngữ ấy dùng để tả cảnh nhưng đã chuyển tải được nỗi cô độc, buồn sầu của người thiếu phụ. Nó vừa gợi hình ảnh, vừa gợi tâm trạng. Dáng hoè phất qua bên nọ bên kia gợi nên hình ảnh người chinh phụ vật vã trong nhớ nhung giữa đêm khuya lẻ loi.

Đếm từng khắc thời gian trôi đi chậm chạp, nhìn xung quanh thì bốn phía chỉ là cây hoè rủ bóng, nàng chìm ngập trong nỗi cô đơn. Khi chờ đợi bao giờ thời gian cũng rất dài. Thuý Kiều trong tâm trạng đợi chờ Kim Trọng:

Sầu đong càng lắc càng đầy,

….

Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.

Thời gian cứ dài dằng dặc và không gian thì mênh mông vô tận, người chinh phụ nhỏ bé và đơn độc trước không gian và thời gian. Biết nỗi đợi chờ là vô vọng, nàng đã cố gắng để đưa mình ra khỏi nỗi cô đơn. Gắng gượng điểm phấn tô son, dạo đàn nhưng càng cố gắng vùng vẫy càng lún sâu hơn vào sự tuyệt vọng.

Chạm đến đâu cũng là chạm vào nỗi đau, cũng nhìn thấy cảnh lẻ loi đơn chiếc. Soi gương thì nước mắt đầm đìa bởi nàng phải đối diện với gương mặt thanh xuân đang mỏi mòn dần và thì xuân sắc đang phũ phàng trôi qua. Khúc đàn loan phượng thì gợi nhớ cảnh chồng vợ chia lìa.

Nỗi đau đớn, tủi hờn của người chinh phụ thể hiện nỗi khao khát hạnh phúc lứa đôi chân chính. Với nỗi niềm cảm thông sâu sắc, tác giả và dịch giả đã thể hiện rất tinh tế và thành công những trạng thái tâm lí phức tạp của người thiếu phụ, qua đó thể hiện thái độ của mình trước những cuộc chiến tranh, binh biến liên miên dưới chế độ phong kiến thế kỉ XVIII.

Tuy tác phẩm không nói rõ tính chất cuộc chiến tranh mà người chinh phu tham gia, song dựa trên những điều kiện lịch sử khi tác phẩm ra đời, có thể nhận thấy, đó không phải là cuộc chiến tranh vệ quốc, mà là cuộc chiến giành giật quyền lực của các tập đoàn phong kiến, những cuộc chiến phi nghĩa.

Dịch Chinh phụ ngâm, dịch giả đã chọn thể thơ song thất lục bát, một thể thơ dân tộc có khả năng lớn trong việc thể hiện tâm trạng của nhân vật, nhất là tâm trạng buồn đau, sầu muộn. Dịch giả đã dịch rất thanh thoát nội dung của nguyên tác, thể hiện chân thực nỗi buồn của người thiếu phụ phương Đông, mãnh liệt, da diết nhưng kín đáo. Chinh phụ ngâm đã đánh dấu một bước tiến vượt bậc của ngôn ngữ văn học dân tộc.

Với tác phẩm này, tiếng Việt đã chứng minh khả năng diễn tả tư tưởng tình cảm một cách sâu sắc, tinh tế. Với tấm lòng thương yêu và sự cảm thông sâu sắc với những khát khao hạnh phúc chính đáng của người thiếu phụ, tác giả và dịch giả cất lên tiếng kêu nhân đạo, tiếng kêu phản đối chiến tranh phi nghĩa. Thái độ phản chiến tuy không bộc lộ trực tiếp song lại rất mạnh mẽ.

Chiến tranh đã cướp đi của con người hạnh phúc và tuổi trẻ, thậm chí cả mạng sống. Vì một cuộc chiến, có biết bao người vợ phải xa chồng, phải giam mình trong nỗi cô đơn, buồn tủi như người chinh phụ kia. Có người đón chồng trở về khi tóc đã pha sương, nhưng đó còn là may mắn. Có người đau xót đón tin chồng không trở về sau những ngày mỏi mòn trông đợi.

“Vì ai gây dựng cho nên nỗi này” là lời oán thán nặng nề nhất trong Chinh phụ ngâm, lời ai oán không mạnh mẽ nhưng uất ức và oán trách. Đó là một trong những giá trị của Chinh phụ ngâm. Nhưng cao hơn cả, tác phẩm là sự tiếp nối xuất sắc cảm hứng nhân đạo của nền văn học dân tộc, một lần nữa, những khao khát hạnh phúc chính đáng của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến lại được ủng hộ. Đề tài về thân phận người phụ nữ lại được góp thêm một tiếng nói mới đầy sức mạnh nhân văn.

Cảm Nhận Về Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ Trong 16 Câu Đầu Ngắn – Bài 15

Gợi ý cách viết văn cảm nhận về tình cảnh lẻ loi của Người chinh phụ trong 16 câu đầu ngắn gọn.

Chinh Phụ Ngâm là một trong những tác phẩm văn học trung đại xuất sắc nhất trong lịch sử văn học Việt Nam mà ở đó, lồng ghép những mạch cảm xúc, câu chuyện thấm đẫm nỗi bi thương về thân phận người phụ nữ thời kỳ lúc bấy giờ, đồng thời gián tiếp miêu tả chân thực bức tranh hiện thực xã hội cay đắng, bất công.

“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.”

Không gian hiên vắng, ngay từ những vần thơ đầu đã gieo vào lòng người đọc những cảm nhận u buồn, kết hợp với các động từ như “dạo, gieo từng bước”, cho thấy những bước chân nặng nề mang đầy tâm trạng bâng khuâng, lo lắng, bồn chồn, thấp thỏm của người phụ nữ dưới mái hiên nghèo, những ngày động cứ lặp lại vô nghĩa, càng thể hiện sự hoang hoải và trống rỗng trong tâm trí. Và rồi dường như, nhân vật đang phân tâm để đối thoại độc thoại với chính mình, mà lại vừa có cảm giác như một lời trách móc:

Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng.
Đèn có biết dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.”

Bắt đầu từ đây, người chinh phụ bộc lộ nỗi lòng cô đơn và sự nhớ mong, nhớ thương khôn xiết đến người chinh phụ nơi chiến trận phương xa. Nàng không chỉ mang nỗi nhớ đơn thuần, mà còn mang trong lòng sự khắc khoải khôn nguôi, trằn trọc khi không nhận được tin tức về người chinh phụ. Hình ảnh chim thước – loài vật báo tin tốt lành xuất hiện chính là sự minh họa rõ nhất cho nỗi lòng ấy.

Nghệ thuật đối lập “ngoài rèm” và “trong rèm” để cho thấy nỗi cô đơn ấy bao trùm mọi không gian, thậm chí lan thấm vào nhuốm vào màu không gian một sắc buồn ảm đạm. Càng nhớ, càng mong mỏi được giãi bày, và ngọn đèn trở thành người tri kỉ trong vò võ cô đơn để người chinh phụ tâm sự.

Ca dao xưa đã từng có bài ca dao khăn thương nhớ ai, cũng miêu tả hoàn cảnh của người phụ nữ trong vò võ đêm trường, một mình bầu bạn với ngọn đèn khuya, chính ngọn đèn khuya leo lét, lạnh lẽo càng nhấn mạnh thêm tình cảnh trơ trọi lẻ loi của người chinh phụ:

“Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương.”

Người chinh phụ tự thương cho thân phận mình, bỗng nhận thấy trong bóng đèn dầu kia phản chiếu lên bức tường với số phận, thân phận mình như nhập hòa làm một, nỗi buồn mượn ngọn đèn để san sẻ nhưng cũng chẳng thể thỏa nỗi nhớ mong, niềm khát khao đồng điệu.

“Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên.
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.”

Không gian khi càng về sáng, càng yên tĩnh, đó cũng là không gian mà tâm trạng những người cô đơn càng thêm đơn độc, lẻ loi biết nhường nào. Cảnh vật xung quanh cũng heo hút, phất phơ, các từ eo óc, phất phơ, càng gợi cho ta cảm giác rằng người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.

Nỗi nhớ vốn vô hình, vốn không thể cân đong đo đếm, nay được định lượng hóa bằng sự đằng đằng của tháng năm, bằng sự rộng dài của dòng thời gian trường cửu, càng thêm quay quắt và trở nên trơ trọi. Và giờ đây, nỗi nhớ đã trở thành mối sầu tựa miền ải xa, nghĩa là nó không chỉ thuộc về cảm xúc, mà còn đang mang những âu lo, khắc khoải, rợn ngợp về tương lai.

Những phím đàn gảy lên càng gợi cảm giác về sự đơn độc, về sự hoang hoải trống vắng trong tâm hồn, và tràn ngập những nỗi sợ hãi về tương lai, về sự cách lý

Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, tác giả đã lột tả một cách sống động chân thực cảm xúc cô đơn và nỗi nhớ thương khắc khoải đến quặn thắt của người chinh phụ, đồng thời qua đó gián tiếp vạch trần tội ác của chế độ chiến tranh phi nghĩa năm xưa, khiến gia đình phải tan tác, đau thương.

Hướng dẫn cách 🔥Nhận Thẻ Cào 50k Miễn Phí🔥 cực hay

Viết một bình luận