Phân Tích 8 Câu Giữa Bài Tình Cảnh Lẻ Loi [27+ Mẫu Hay Nhất]

Phân Tích 8 Câu Giữa Bài Tình Cảnh Lẻ Loi ❤️️ 27+ Mẫu Hay Nhất ✅ Đón Đọc Tuyển Tập Bài Văn Đặc Sắc Phân Tích Đoạn Thơ Được Chọn Lọc Tại SCR.VN.

Dàn Ý Phân Tích 8 Câu Giữa Bài Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ

Lập dàn ý phân tích 8 câu giữa bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ sẽ giúp các em học sinh dễ dàng triển khai bài viết theo một bố cục và hệ thống luận điểm cụ thể.

I. Mở bài phân tích 8 câu giữa bài Tình cảnh lẻ loi:

  • Giới thiệu về tác giả, tác phẩm và trích đoạn
  • Giới thiệu nội dung cần phân tích – 8 câu giữa bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ.

II. Thân bài phân tích 8 câu giữa bài Tình cảnh lẻ loi:

a. 4 câu đầu tiên:

”Gà eo óc gáy năm sương trống,
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên.”

Tiếng gà cất lên nghe não nề, buồn”eo óc”, người chinh phụ đã thao thức cả đêm day dứt không ngủ”năm trống”… Hình ảnh cây hòe”rủ bóng” sà xuống, sức sống không có mà tiều tụy đó ẩn hình ảnh của người chinh phụ….

”Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.”

Một giờ dài lê thê làm co nỗi buồn càng não nề”khắc giờ đằng đẵng” kèm theo nỗi sầu triền miên không bao giờ ngớt”mối sầu dằng dặc”….

b. 4 câu tiếp theo:

  • Người chinh phụ đang cầu mong cho người chồng ở nơi xa được bình an nên đã đốt hương cầu mong, ”hương gượng đốt” cho tâm hồn thanh thản nhưng đốt xong thấy buồn.
  • ”gương gượng soi” soi thấy mình buồn chán, càng soi mà giọt ”lệ lại châu chan” cứ tuôn trào ra.
  • ”Sắt cầm” đàn cầm và đàn sắt gảy hòa âm với nhau, được dùng để ví cảnh vợ chồng hòa thuận,”gượng gảy” đàn sắt đàn cầm vì người chinh phụ đang trong cảnh cô đơn
  • ”Dây uyên kinh đứt” người chinh phụ sợ làm đứt dây đàn uyên ương vì có thể báo hiệu điều không may của tình cảm vợ chồng, ”phím loan ngại chùng” sợi dây đàn chùng là điềm gỡ, gợi nên sự không may mắn của lứa đôi đang xa nhau.

*Nghệ thuật được sử dụng trong 8 câu thơ này: Bút pháp tả cảnh ngụ tình

III. Kết bài phân tích 8 câu giữa bài Tình cảnh lẻ loi:

Nêu cảm nhận của bản thân về đoạn thơ.

Chia sẻ thêm cùng bạn 🍀 Cảm Nhận Về Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ 🍀 15 Mẫu Đặc Sắc

Phân Tích 8 Câu Giữa Bài Tình Cảnh Lẻ Loi Hay Nhất – Mẫu 1

Tham khảo bài văn mẫu phân tích 8 câu giữa bài Tình cảnh lẻ loi hay nhất được chọn lọc và chia sẻ dưới đây dành cho các em học sinh.

Văn học Việt Nam đã từng chứng kiến biết bao những cuộc chia li, tiễn biệt đầy lưu luyến như thế. Và ở thế kỉ thứ XVIII, “Chinh phụ ngâm” một tác phẩm lấy từ đề tài chia li trong chiến tranh đã của Đặng Trần Côn đã cho chúng ta thấy được một cuộc tiễn biệt thấm đẫm tâm trạng, đằng sau đó là nỗi đau người phụ nữ có chồng đi chinh chiến. Đoạn trích “Gà eo óc gáy sương năm trống, đến Dây uyên kinh dứt, phím loan ngại chùng” đã làm nỗi bật lên nỗi lẻ loi cô đơn cùng những nhớ mong của người chinh phụ.

Bức chân dung người phụ nữ ấy không chỉ gợi lên qua những bước chân, động tác, cử chỉ, qua gương mặt buồn rầu, qua dáng ngồi bất động trước ngọn đèn khuya mà còn nổi bật lên trên nền của không gian và thời gian:

“Gà eo óc gáy sương năm trống
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên”

Hình ảnh “bóng hòe phất phơ” suốt ngày dài cùng biện pháp lấy động tả tĩnh với sự xuất hiện âm thanh “tiếng gà eo óc suốt” đêm thâu như tô đậm nỗi cô đơn, triền miên của nhân vật trữ tình. “Eo óc” đó là âm thanh thưa thớt trong một không gian rộng lớn, hiu quạnh có cảm giác tang tóc, tang thương đã bộc lộ sâu sắc nỗi chán chường của chủ thể trong đêm thâu.

Tâm trạng của nhân vật trữ tình như đang thấm đẫm, lan tỏa cả trong thời gian và xuyên suốt cả thời gian. Tác giả đã biến thời gian thành thời gian tâm lí, không gian thành không gian cảm xúc bằng bút pháp ước lệ và nghệ thuật so sánh trong hai câu thơ:

“Khắc giờ đằng đẵng như niên
Mối sầu dằng dặc tự miền biển xa”

Câu thơ theo đúng nguyên tác của Đặng Trần Côn:

“Sầu tựa hải
Khắc như niên”

Chỉ thêm hai từ láy “dằng dặc” và “đằng đẵng” nhưng sự chán chường, mệt mỏi kéo dài vô vọng của người chinh phụ trở nên thật cụ thể, hữu hình và có cả chiều sâu trong đó. Kể từ khi chinh phu ra đi, một ngày trở nên dài lê thê như cả một năm, những mối lo toan, nỗi buồn sầu như đông đặc, tích tụ đè nặng lên tâm hồn người phụ nữ đáng thương ấy. Từng ngày, từng giờ, từng phút người chinh phụ vẫn đang chiến đấu với nỗi cô đơn, chiến đấu để thoát khỏi cuộc sống tẻ nhạt của chính mình:

“Hương gượng đốt hồn đà mê mải
Gương gượng soi lệ lại châu chan
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng”

Điệp từ “gượng” được điệp đi điệp lại ba lần trong bốn câu thơ tiếp theo đã thể hiện sự nỗ lực vượt thoát ấy của người chinh phụ. Nàng gượng đốt hương để kiếm tìm sự thanh thản thì lại rơi sâu hơn vào cơn mê man. Nàng gượng soi gương để chỉnh trang nhan sắc thì lại chỉ thấy những giọt sầu. Nàng gượng tìm đến với âm nhạc để giải tỏa thì nỗi âu lo về duyên cầm sắt và tình loan phượng lại hiện hình.

Dường như nàng đang mang trong mình quá nhiều những nỗi lo sợ, lo lắng, bởi thế, người chinh phụ không những không thể giải tỏa được nỗi niềm bản thân mà còn như chìm sâu hơn vào nỗi bi thương xót xa.

Nỗi cô đơn, lẻ loi của người chinh phụ được đã đặc tả bằng bút pháp trữ tình đa dạng để độc giả có thể cảm nhận được tâm trạng ấy của nhân vật trữ tình ngay cả khi ngày lên cũng như khi đêm xuống, luôn đồng hanh cùng người chinh phụ cả khi đứng, khi ngồi, lúc ở trong phòng và ngoài phòng và bủa vây khắp không gian xung quanh. Sự cô đơn ấy đã làm hao gầy cả hình dáng và héo úa cả tâm tư và người chinh phụ như đang chết dần trong cái bọc cô đơn ấy.

Chỉ mới 8 câu thơ thôi nhưng mà ta dường như đã được trải nghiệm một cuộc sống hay chỉ là sự tưởng tượng một phần nỗi cô đơn, nhớ mong người chồng chốn sa trường của người chinh phụ. Nỗi đau này còn tố cáo chiến tranh của chế độ phong kiến xưa, làm chia rẽ lứa đôi hạnh phúc. Qua đó ta cũng cảm nhận được một phần nào đó cái khát khao quyền hạnh phúc của con người.

Gợi ý cho bạn 🌳 Cảm Nhận 8 Câu Đầu Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ 🌳 10 Mẫu Hay Nhất

Phân Tích Chinh Phụ Ngâm 8 Câu Giữa Hay Nhất Đặc Sắc – Mẫu 2

Đón đọc bài văn phân tích Chinh phụ ngâm 8 câu giữa hay nhất đặc sắc dưới đây để trau dồi cho mình những ý văn hay.

Có thể nói, ở mỗi thời đại, văn học đều là tấm gương phản chiếu lên được mặt tốt và mặt xấu của xã hội. Khai thác và đào sâu vào những vấn đề thuộc về nội tâm của con người. Tác phẩm “Chinh phụ ngâm là một điển hình tiêu biểu như thế, đặc biệt là tám câu giữa đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ”. Đoạn trích phản ánh lên tội ác của những cuộc chiến tranh phi nghĩa đã làm cho người chinh phụ phải rơi vào tình cảnh cô đơn lẻ loi, tâm trạng đau khổ khắc khoải khôn nguôi.

Đoạn trích ra đời vào thế kỉ XVIII. Đầu đời vua Lê Hiển Tông, triều đình sai quân đánh dẹp, nhiều trai tráng trong làng phải từ giả người thân ra trận. Khi ấy, cảm nhận được nỗi khổ của những người nông dân, đặc biệt là người vợ lính. Đặng Trần Côn đã viết nên tác phẩm, bằng chữ Hán là một khúc ngâm đầy cảm xúc. Đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” nằm từ câu 193 -216 và từ câu 228 – 252 trong nguyên tác.

Khi vừa ra đời tác phẩm đã nhận được rất nhiều sự chú ý từ những nhà yêu thơ, đã có nhiều bản dịch ra chữ Nôm, nhưng bản dịch hiện tại là thành công nhất được viết theo thể song thất lục bát là thể thơ thuần túy của người Việt Nam. Nhưng sau khi bản dịch ra đời lại có tranh cãi rằng bản dịch đấy là của Phan Huy Ích hay Đoàn Thị Điểm. Phần lớn cho rằng là của Đoàn Thị Điểm bởi bà cũng có hoàn cảnh giống như người chinh phụ (bà có chồng đi sứ ở Trung Quốc).

Tám câu giữa đoạn trích là khung cảnh người chinh phụ chờ đợi chồng trong hoàn cảnh u buồn, đơn độc. Những hành động được tiếp diễn đưa cảm xúc lên cao trào.

Trong nỗi buồn u ám dưới màng đêm, người chinh phụ nghĩ đến cuộc đời của mình, càng nghĩ nàng càng thấy buồn, dường như lúc này cảnh vật cũng rũ xuống một màu đen tối:

“Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên.
Khác giời đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.”

Trời đã khuya, không gian yên tĩnh, nghe từng tiếng gà gáy. Âm thanh vang lên “eo óc” thưa thớt, hình ảnh hoa hòe “rũ bóng bốn bên”, thời khắc cảnh vật mỏi mòn chìm vào đêm tối. Đã qua hết năm canh mà người chinh phụ vẫn còn thao thức với nỗi sầu khó vơi đi được. Sự so sánh “khắc giờ” như “niên”, một giờ dài bằng một năm, điều đó càng tô đậm hơn nỗi cô đơn.

Thời gian cũng kéo dài cùng với nỗi sầu muộn của nàng. Cùng với từ láy “đằng đẵng”, “dằng dặc” cho thấy sự kéo dài triền miên đau đớn cứ mãi day dứt trong lòng. Nghệ thuật lấy động tả tỉnh làm nổi bật lên không gian, thời gian, lấy cái xa của biển cả để nói về cái buồn của lòng người là một cách miêu tả đầy tinh tế. Tiếp đến nàng muốn tìm những thú vui tao nhã, tập cách quên đi nỗi buồn trước mắt:

“Hương gượng đốt hồn đà mê mải,
Gương gượng soi lệ lại châu chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng.”

Nhưng nàng chẳng biết rằng những thú vui tao nhã này lại khi nàng chìm đắm vào nỗi sầu mênh mang. Khi đốt hương, hồn nàng lại rơi vào trạng thái mơ màng, nỗi sầu lại theo đó mà dâng lên. Rồi khi soi gương để tô son điểm phấn, nàng lại càng xót xa cho thân phận của mình, nhan sắc của một người phụ nữ đang dần phai mòn đi theo những tháng ngày lẻ loi, không có chồng bên cạnh để làm điểm tựa. Khi đánh đàn nàng lại sợ “dây uyên đứt”, “phím loan chùng” nàng sợ những điều không may xảy đến cuộc tình của nàng.

Biết bao nỗi đau đau, nỗi sợ bủa vây lấy nàng. Điệp từ “gượng” được lặp lại ba lần cho thấy sự miễn cưỡng trong hành động. Cũng chỉ vì quá cô đơn, muốn quên đi mà nàng mới làm. Nhưng dù có thú vui tao nhã đến đâu, dù tô son điểm phấn hay đánh đàn thì cũng chẳng bao giờ nàng cảm thấy vui, bởi vì ngay lúc này với nàng là nỗi cô đơn mong mỏi chồng từ nơi chinh chiến sẽ trở về, mong được nghe một lời động viên an ủi từ người chồng của mình. Nhưng tất cả đều không!

Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, sử dụng những điệp từ, so sánh nhiều hình ảnh để vẽ ra khung cảnh của người chinh phụ mang nhiều tâm trạng. Sự cô đơn, lẻ loi của người phụ nữ trong đêm tối. Và khi hình ảnh buồn khổ ấy hiện lên chân thực đến đâu thì càng vạch trần cái tội ác xấu xa của chiến tranh phi nghĩa đẩy biết bao gia đình rơi vào cảnh chia lìa. Mà niềm cảm thông lớn nhất là dành cho người chinh phụ, là phụ nữ nhưng họ phải hy sinh tuổi xuân để chờ chồng mà chẳng có chút tin tức, không có ai chia sẻ những nỗi buồn.

Từ đấy cho ta thấy được cách chọn đề tài của Đặng Trần Côn rất mới mẻ, phù hợp với thời đại lúc bấy giờ. Cách miêu tả nội tâm đầy sâu sắc của ông, cho thấy ông là một người có vốn sống rất rộng. Đồng thời là sự sắc sảo trong cách dùng từ của hai dịch giả Đoàn Thị Điểm và Phan Huy Ích đã tạo nên đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” rất thành công.

Thông qua tám câu giữa của đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” càng giúp ta hiểu rõ nét hơn những nỗi cô đơn của người phụ nữ trong xã hội cũ khi có chồng đi chinh chiến. Nó là nỗi cô đơn da diết kéo dài theo không gian thời gian. Từ đó cho thấy hậu quả của chiến tranh phong kiến phi nghĩa.

Và là lời ca ngợi cho tác giả Đặng Trần Côn, ông quả là một nhà thơ tài năng và tác phẩm của ông đã chạm đến trái tim của đọc giả và vượt qua hàng trăm năm, nhưng mỗi lần nhắc về những tác phẩm chữ hán, người ta sẽ nghĩ ngay đến “Chinh phụ ngâm”. Ông đã để lại cho nền văn học nước nhà một áng văn hay.

Đọc nhiều hơn với ☀️ Cảm Nhận Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ 16 Câu Đầu ☀️ Tuyển Tập Đặc Sắc

Phân Tích 8 Câu Giữa Bài Tình Cảnh Lẻ Loi Ngắn Gọn – Mẫu 3

Tham khảo bài văn mẫu phân tích 8 câu giữa bài Tình cảnh lẻ loi ngắn gọn dưới đây với cách viết súc tích và cô đọng ý văn.

Chinh phụ ngâm là một tác phẩm tiêu biểu của Đặng Trần Côn được sáng tác vào khoảng nửa đầu thế kỉ XVIII. Vừa mới ra đời tác phẩm đã gây được tiếng vang lớn và đến khi có bản dịch nôm của Đoàn Thị Điểm thì tác phẩm này lại trở nên nổi tiếng hơn bao giờ hết. Bài thơ nói về tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ khi người chinh phu ở chiến trường xa xôi. Tất cả những tình cảm đó đã lan tỏa, thấm đẫm vào cảnh vật:

“Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên.
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa”

Tiếng gà là cái động đã được sử dụng để miêu tả cái tĩnh tại của thiên nhiên, nỗi cô đơn của con người. Nàng đã thức trọn năm canh để nghe thấy tận sâu trong đáy lòng mình nỗi sầu, nỗi đau vô hình ấy. Từ láy “phất phơ” đã biểu đạt một cách tinh tế cái dáng điệu, cái tâm trạng của một người vợ ngóng chờ từng chút hình ảnh của chồng. Đặc biệt hình ảnh cây hòe “rủ bóng” sà xuống như ẩn chứa trong đó cái dáng vẻ tiều tụy của người chinh phụ. Dáng vẻ cô độc của người chinh phụ như bị chìm lấp giữa không gian ấy.

Ở những dòng thơ tiếp theo, nỗi ai oán hiện rõ trong từng chữ, từng câu, dù tác giả không hề nhắc đến hai chữ chiến tranh:

“Hương gượng đốt hồn đà mê mải,
Gương gượng soi lệ lại châu chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dày uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng”

Điệp từ “gượng” được điệp đi điệp lại ba lần trong bốn câu thơ tiếp theo đã thể hiện sự nỗ lực vượt thoát của người chinh phụ. Dường như nàng đang cố tìm sự thanh thản nơi tâm hồn nhưng lại càng rơi sâu hơn vào cơn mê man. Gượng tìm đến gương thì lại rơi lệ sầu, gượng tìm đến nhạc lại càng rơi ào lo âu. Chạm đến đâu cũng chạm vào nỗi đau, chạm vào tình cảnh lẻ loi của chính mình.

Nỗi sầu cô đơn như bủa vây, như ám ảnh người chinh phụ. Ở đây, tác giả đã sử dụng bút pháp trữ tình để đặc tả nỗi cô đơn của người chinh phụ. Con người mang trong lòng quá nhiều lo âu đã khiến chính bản thân mình như đang chết dần trong cái bọc cô đơn ấy.

Đằng sau nỗi sầu thảm của người của người phụ nữ chính là hiện thực khốc liệt mà chiến tranh để lại. Bởi thế bài thơ không chỉ đơn thuần nói về tâm trạng của người phụ nữ ngày đêm mong ngóng chồng trở về từ nơi chiếng trường mà còn gián tiếp tố cáo chiến tranh và những gì mà nó đã gây ra. Đồng thời nó cũng thể hiện sự đồng cảm, xót xa, sự thấu hiểu của nhà thơ với người chinh phụ. Đây cũng chính là giá trị nhân đạo ngời sáng của tác phẩm.

Như vậy, bằng việc kết hợp khéo léo các biện pháp tu từ tác giả đã thành công miêu tả được thế giới nội tâm ẩn sâu bên trong của người chinh phụ đồng thời cũng cho người đọc thấy được hiện thực loạn lạc mà chiến tranh gây ra thời đó. Và tất cả những điều đó vừa thể hiện được tài năng vừa ngầm phản ánh tấm lòng của tác giả.

Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất

Phân Tích Chinh Phụ Ngâm 8 Câu Giữa Ngắn Nhất – Mẫu 4

Bài văn phân tích Chinh phụ ngâm 8 câu giữa ngắn nhất dưới đây sẽ giúp các em học sinh nhanh chóng ôn tập và chuẩn bị cho bài viết trên lớp.

“Chinh phụ ngâm ” có nhiều đoạn thơ diễn tả nỗi cô đơn, sầu muộn, buồn khổ của người chinh phụ. Đây là một đoạn thơ thể hiện tâm trạng ấy của người phụ nữ đáng thương thời chiến tranh, loạn lạc:

“Gà eo óc gáy sương năm trống,
……….
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng”

Người chồng ra trận mãi chưa về, đã 3, 4 năm trên sa trường để lại người vợ trẻ phải trải qua những ngày tháng dài cô đơn và sầu muộn. Nàng ngồi lặng lẽ một mình trong phòng khuê chỉ lặng lẽ một thân một mình, cô đơn lẻ bóng. Chẳng có ai, chẳng biết cùng ai để giãi bày tâm sự. Chinh phụ thao thức suốt đêm. Lắng nghe tiếng gà “eo óc ” gáy trong sương cùng tiếng trống canh năm. Bốn bên chỉ nhìn thấy bóng hòe “phất phơ”. Từng khắc, từng giờ dài thêm ra “đằng đẵng như niên”.Mối sầu thì dài thêm “dằng dặc tựa miền biển xa”.

“Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên.
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa”.

Các từ láy (eo óc, phất phơ, đằng đẵng, dằng dặc) có giá trị gợi tả cảnh vật, thời gian, làm tăng sự biểu cảm nỗi cô đơn và tâm trạng thao thức của người chinh phụ. Hai so sánh về thời gian “đằng đẵng như niên ”, “dằng dặc tựa miền biển xa” đã cực tả nỗi buồn lê thê suốt đêm ngày, đúng là “ba thu dọn lại một ngày dài ghê!” (Truyện Kiều).

Sầu tủi, buồn chán rồi e ngại và lo sợ, “gượng” đốt hương, “gượng” soi gương, rồi “gượng” gảy đàn. Buồn chán ngán và mỏi mệt. Nước mắt “chứa chan” thấm đầy gối, tràn đầy mi. Các từ ngữ: “kinh ”, “ngại”, cùng điệp ngữ “gượng ” đã cực tả nỗi buồn chán nản, đau khổ, lo sợ của nàng chinh phụ. Tâm hồn thì “mê mải” chân tay thì rụng rời:

‘‘Hương gượng đốt, hồn đà mê mải,
Gương gượng soi, lệ lại chứa chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng”

Nhạc điệu vần thơ song thất lục bát réo rắt, triền miên như nỗi buồn cô đơn da diết, dằng dặc, đằng đẵng trong lòng người chinh phụ. Các từ láy, các so sánh được sử dụng tài tình để khắc hoạ nội tâm nàng chinh phụ. Lời thơ đẹp, ngôn ngữ trau chuốt. Ngoại cảnh như thấm nỗi buồn cô đơn, đau khổ của lòng người.

Chiến tranh phong kiến đã “dãi thây trăm họ nên công một người”. Trên chiến địa thì “hồn tử sĩ gió ù ù thổi”… Ở Mọi chốn làng quê, những người mẹ già, người vợ trẻ đã lo lắng, chờ mong. Đoạn thơ giàu giá trị nhân đạo đã nói lên cái giá nặng nề mà người chinh phụ phải trả. Vì thế đoạn thơ mang ý nghĩa tố cáo cuộc chiến tranh phi nghĩa vô nghĩa đã gây ra bao đau khổ cho nhân dân.

Tham khảo trọn bộ 🌹 Phân Tích Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ 🌹 15 Mẫu Hay Và Đặc Sắc Nhất

Phân Tích 8 Câu Giữa Bài Tình Cảnh Lẻ Loi Học Sinh Giỏi – Mẫu 5

Tham khảo bài văn phân tích 8 câu giữa bài Tình cảnh lẻ loi học sinh giỏi dưới đây với những nội dung nghị luận văn học đặc sắc.

Chinh Phụ Ngâm là một trong những tác phẩm nổi tiếng của tác giả Đặng Trần Côn. Tác phẩm nói về nỗi buồn chia li của đôi lứa, nỗi đau của người phụ nữ có chồng đi chinh chiến. Trong nền văn học Việt Nam thế kỉ 17 có rất nhiều tác phẩm về chia li nhưng có lẽ Chinh Phụ Ngâm là tác phẩm lấy đi nhiều cảm xúc nhất trong lòng người đọc. Đặc biệt 8 câu giữa bài Chinh Phụ Ngâm là cung đàn tiễn biệt cô đơn, lẻ loi , nhớ mong nhất của người Chinh Phụ.

“Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên.
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa
Hương gượng đốt hồn đà mê mải
Gương gượng soi lệ lại châu chan
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.”

Từ xưa đến nay, lấy cảnh tả tình không còn là thủ pháp xa lạ: “Cảnh buồn người có vui đâu bao giờ”. Khi con người ta tâm trạng buồn phiền thì sao có thể nhìn thấy cảnh đẹp. Cho dù xung quanh có đẹp thì cũng đều khoác lên màu u ám buồn bã. Trong đoạn giữa này cũng vậy, bức chân dung người phụ nữ Chinh Phụ không hề hiện lên bằng hình dáng cụ thể mà thông qua hình ảnh không gian, thời gian để miêu tả nỗi buồn:

“Gà eo óc gáy sương năm trống
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên”

Hai câu thơ trên nói về thời gian canh khoe tiếng gà gáy óc eo và tiếng “hòe phất phơ” nghe mới buồn não làm sao. Trong cái không gian tĩnh lặng ấy là tiếng gà óc eo cô quạnh, âm thanh thưa thớt vang lên trong một không gian rộng lớn. Cho thấy thời gian đã về đêm, nỗi nhớ dài dằng dặc suốt đêm. Khi đêm xuống, người vợ mới lắng nghe được mọi cảm xúc của âm thanh xung quanh, những âm thanh ấy nó cũng buồn và cô đơn vô cùng.

Tác giả đã dùng hình ảnh ước lệ để nói lên tâm trạng của người chinh phụ. Qua hai câu thơ chúng ta có thể hình dung ra bóng dáng cô đơn của người vợ, sự thờ ơ dài dằng dặc của đêm khuya và cảnh vật “rủ bóng bốn bên” buồn sầu não. Trong mắt người vợ chờ chồng, thời gian giờ dài quá, cảnh vật cũng u buồn theo. Câu thơ tuy không tả chi tiết hình ảnh người vợ, nhưng qua thời gian, không gian cho thấy nỗi buồn trùm kín tâm tư.

Khắc giờ đằng đẵng như niên
Mối sầu dằng dặc tự miền biển xa”

Hai câu thơ tiếp theo các khắc thêm nỗi sầu đêm vắng. Đặc biệt tác giả sử dụng từ láy: “Đằng đắng và dằng dặc” như thể hiện sự chán chường, mệt mỏi kéo dài. Nghe có vẻ hữu hình mà thật cụ thể, tâm tư của người chinh phụ được miêu tả chi tiết, chính xác bằng những cụm từ láy ấy.

Câu thơ nói rõ nỗi nhớ “miền biển xa” – đó chính là nỗi nhớ chồng, người đi không biết bao giờ trở lại. Chiến tranh khốc liệt, có thể vài năm, nhiều năm và mãi mãi. Người vợ có chồng đi chiến tranh không khác gì “ngồi trên đống lửa”, sinh li tử biệt, vậy nên nỗi nhớ mới da diết, dằng dặc, đếm từng giờ, từng phút.

“Hương gượng đốt hồn đà mê mải
Gương gượng soi lệ lại châu chan
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng”

Đặc biệt trong 4 câu thơ tiếp theo là những hành động vô cùng gượng gạo. Khi nỗi nhớ đã trào dâng và cảm xúc điều khiển hành động, tất cả những việc mà người chinh phụ làm đều vô cùng gượng gạo, ép uổng. Động từ “gượng” được nhắc đi nhắc lại nhiều lần cho thấy người chinh phụ đang cố gắng thoát ra khỏi nỗi cô đơn, nhưng cố gắng thế nào cũng vô cùng mệt mỏi. Nàng cô đốt hương, cố soi dòng lệ, cố gảy đàn nhưng đều thấy sự oan oái đớn đau.

Cuộc sống hàng ngày vẫn phải diễn ra, nàng chỉ là đang cố diễn cho tròn vai nhưng vai diễn lại quá gượng gạo. Náng tìm đến gương để chỉnh nhan sắc lại chỉ thấy những giọt sầu. Nàng tìm đến âm nhạc để giải tỏa nỗi buồn thì lại nghĩ đến mối duyên cầm sắt và tình loạn phượng bế tắc hiện nay.

Sắt cầm gượng gảy ngón đàn
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng”

Trong hai câu thơ trên cho thấy, tình duyên đứt đoạn, phím loan ngại ngùng. Vậy là người vợ xa chồng cũng đã biết được tương lai hoàn cảnh của mình, duyên bẽ bàng. Vợ chồng bên nhau ngắn ngủi vậy mà chiến tranh lại cướp mất người thương, cả đời phải sống với chữ “thủy chung” và “tam tòng tứ đức” giết chết cuộc đời và hạnh phúc người phụ nữ. Nhưng xã hội phong kiến với những hủ tục hà khắc làm sao có thể chống lại, làm sao có thể đòi quyền bình đẳng.

Một phím đàn đứt ngang không khác gì một cuộc tình trái ngang. Nỗi cô đơn của người Chinh phụ đã được tác giả miêu tả dựa trên không gian, thời gian rất chi tiết và mang lại nhiều sự cảm thông sâu sắc của độc giả.

Ta cảm thông cho số phận hẩm hữu của phụ nữ trong xã hội cũ, phải gánh trên mình “tam tòng tứ đức”, hạnh phúc lệ thuộc vào đàn ông và không được quyết định cuộc đời của mình bởi định kiến xã hội. Ta cảm thông cho nỗi cô đơn, bế tắc, oan trái của người chinh phụ. Nỗi cô đơn về người vợ mới có chồng đã li xa và không hẹn ngày trở lại.

Trong 8 câu thơ giữa là nỗi cô đơn kéo dài đằng đắng, triền miên từ đêm này qua đêm khác, cảnh vật héo hon như chính tâm trạng người chinh phụ. Nỗi héo hon ấy đang giết chết tinh thần người vợ. Qua đây cho thấy sự cảm thông sâu sắc của tác giả đối với nhân vật của mình. Nó cũng thể hiện khao khát về quyền bình đẳng, giải phóng người phụ nữ trong xã hội xưa.

Khổ thơ giữa bài Tình cảnh lẻ loi người Chinh Phụ đã vẽ lên bức tranh tâm trạng về người chinh phụ khi có chồng ra chiến trận. Đồng thời nó cũng tố cáo chiến tranh phong kiến xưa đã chia rẽ đôi lứa và nói lên khát vọng hạnh phúc, khát vọng sống của phụ nữ trong xã hội xưa.

SCR.VN chia sẻ 🌼 Phân Tích 8 Câu Đầu Bài Tình Cảnh Lẻ Loi 🌼 13 Mẫu Cực Hay

Phân Tích 8 Câu Giữa Bài Tình Cảnh Lẻ Loi Mở Rộng – Mẫu 6

Bài văn mẫu phân tích 8 câu giữa bài Tình cảnh lẻ loi mở rộng dưới đây sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích dành cho các em học sinh.

Đặng Trần Côn là một trong những tác giả nổi tiếng của văn học Việt Nam khoảng nửa đầu thế kỷ XVIII. Đây là một giai đoạn lịch sử đầy biến động, nhiều trai tráng phải giã từ người thân để ra trận. Sống trong thời kỳ ấy, cảm nhận được nỗi thống khổ của người vợ lính, Đặng Trần Côn đã viết nên tác phẩm Chinh phụ ngâm bằng chữ Hán. Đó là một khúc ngâm đầy cảm xúc lột tả tình cảnh của người chinh phụ lúc bấy giờ.

Trong đó đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” là đoạn trích hay đặc biệt là 8 câu thơ giữa đã thể hiện rõ nét nỗi cô đơn của người vợ có chồng đi chinh chiến. Đã có nhiều bản dịch đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” nhưng trong đó, bản dịch thành công nhất là bản dịch của Đoàn Thị Điểm bởi bà cũng có hoàn cảnh giống người chinh phụ. 8 câu giữa của đoạn trích tác giả đã mở ra khung cảnh người chinh phụ chờ chồng trong tâm trạng u buồn, đơn độc.

Nỗi buồn của người chinh phụ chẳng nói nên lời. Có lẽ nỗi buồn ấy đã quá lớn và hiện lên mỗi ngày. Nàng nghĩ đến cuộc đời mình, nỗi buồn càng buồn khiến cảnh vật cũng nhuốm màu tâm trạng, giống như Nguyễn Du đã miêu tả “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”:

“Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên.
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.”

Trời về khuya, không gian càng yên tĩnh khiến tiếng gà gáy làm tâm trạng thêm u uất. Tiếng gà “eo óc” là tiếng gáy thưa thớt, thể hiện sự đơn độc. Tác giả đã dùng hình ảnh “rủ bóng bốn bên” để miêu tả thời khắc không gian chìm vào đêm tối. Đã qua năm canh vậy mà người chinh phụ vẫn còn thao thức với nỗi sầu thương nhớ chồng.

Tác giả đã so sánh “khắc giờ” như “niên”. Có lẽ khi tâm trạng buồn thì một giờ mà như một năm, dài đằng đẵng khiến nỗi buồn, cô đơn ấy các thêm sâu đậm. Cùng với đó là từ láy “đằng đẵng” “dằng dặc” làm cho nỗi đau cứ triền miên không dứt. Ở đây ta thấy được sự tinh tế của tác giả khi lấy động tả tĩnh. Nhờ đó làm nổi bật lên không gian, thời gian. Để quên đi nỗi buồn trước mắt, người chinh phụ tìm đến những thú vui tao nhã:

“Hương gượng đốt hồn đà mê mải,
Gương gượng soi lệ lại châu chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng.”

Muốn quên đi nỗi buồn, nỗi cô đơn nàng tìm đến tô son điểm phấn, gảy đàn. Ấy thế nhưng những thú vui tao nhã mà nàng tìm đến lại càng khiến nàng chìm đắm vào nỗi sầu miên man. Khi đốt hương, mùi hương mê mải ấy lại khiến nàng rơi vào sự mơ màng làm nỗi sầu càng dân cao. Khi soi gương điểm phấn tô son, nàng lại xót xa hơn cho phận mình, nàng chợt nhận ra nhan sắc của mình đang dần phai mòn theo năm tháng.

Không có chồng ở bên cạnh chia sẻ, những ngày xuân chẳng còn nhiều. Khi đánh đàn lại khiến nàng nhớ lại những chuyện ngày xưa khi chồng còn kề cạnh. Thế nên nàng sợ “dây uyên đứt”, sợ “phím loan chùng” – những nỗi sợ cứ thế bủa vây quanh nàng.

Tìm đến những thú vui để quên đi nỗi buồn, nhưng hành động lại “gượng” thể hiện sự miễn cưỡng. Dường như chỉ vì quá cô đơn mà nàng mới gắng gượng để làm. Nhưng lúc này dù thú vui nào thì cũng chẳng làm nàng vui. Bởi vì ngay lúc này bao trùm tâm trạng nàng là nỗi cô đơn mong mỏi chồng từ nơi chinh chiến. Điều mà người chinh phụ mong mỏi ngay lúc này chính là nghe được một lời động viên từ người chồng của mình. Nhưng tất cả đều im lặng, chẳng có tin tức.

Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, sử dụng nhiều điệp từ, hình ảnh so sánh, tác giả đã vẽ ra tâm trạng rối bời của người chinh phụ. Sự cô đơn, lẻ loi của nàng được thể hiện rõ nét. Hình ảnh của người chinh phụ chính là hình ảnh đại diện cho một lớp người trong thời kỳ này. Nó lột trần tội ác xấu xa của chiến tranh phi nghĩa đã đẩy bao gia đình rơi vào cảnh chia lìa. Người phụ nữ phải hy sinh tuổi xuân, sống trong sự cô đơn, tuổi khổ để chờ chồng mặc dù chẳng biết bao giờ mới là lúc đoàn viên.

Chỉ với 8 câu giữa Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ ta thấy được những nỗi cô đơn của người phụ nữ khi có chồng đi chinh chiến. Đó là nỗi cô đơn kéo dài triền miên theo không gian và thời gian. Nỗi cô đơn ấy chẳng có điều gì có thể xoa dịu bớt được. Có chăng chỉ là sự hy vọng ở người phụ nữ làm cho họ trở nên mạnh mẽ hơn. Qua đây ta cũng thấy được sự tài hoa của Đặng Trần Côn khi chạm đến trái tim người đọc bằng những ngôn từ cảm xúc.

Tiếp tục tham khảo 💕 Phân Tích 8 Câu Cuối Bài Tình Cảnh Lẻ Loi 💕 10 Mẫu Siêu Hay

Phân Tích Đoạn Trích Tình Cảnh Lẻ Loi 8 Câu Giữa Chi Tiết – Mẫu 7

Tham khảo bài văn phân tích đoạn trích Tình cảnh lẻ loi 8 câu giữa chi tiết dưới đây để củng cố lại nội dung và kiến thức xoay quanh tác phẩm.

Trong đề tài viết về chiến tranh, người ta thường viết nhiều về những tráng sĩ, những anh hùng đã chiến đấu, đã hi sinh vì non sông, đất nước. Rất ít tác giả viết về hình ảnh những người vợ, những người mẹ mòn mỏi chờ đợi tin tức của chồng mình, của con mình. Và có ai biết được rằng cái sự chờ đợi đó dường như là vô vọng, bế tắc bởi lẽ: “Cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi”.

Cảm thông trước cảnh buồn khổ của những người chinh phụ, Đặng Trần Côn đã sáng tác tác phẩm Chinh phụ ngâm bằng chữ Hán và Đoàn Thị Điểm đã dịch bài thơ này ra chữ Nôm. Trong bản dịch này, có thể thấy xuất sắc nhất là đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ”. Đặc biệt là 8 câu thơ giữa của đoạn trích.

Người vợ trẻ trong chinh phụ ngâm khúc phải mòn mỏi từng ngày, từng tháng, từng năm để ngóng trông tin tức của người chồng. Trong thời gian trôi chảy tuần hoàn:

Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên.

Cụm từ âm thanh “gà eo óc” đã diễn tả được sự trôi chảy của thời gian. Nếu như ở các câu thơ trước xuất hiện hình ảnh đèn-báo hiệu đã tối, hoa đèn – báo hiệu đã khuya, và cuối cùng là tiếng gà – báo hiệu trời đã sáng. Không chỉ có âm thanh tiếng gà eo óc mà còn có cả không gian qua hình ảnh lá hèo.

Hình ảnh hòe phất phơ rủ bóng bốn bên gợi lên một không gian vắng lặng, tĩnh mịch, hoang vắng. Người xưa đã nói: Thức đêm mới biết đêm dài. Phải thức đêm mới biết được cái khoảng thời gian ấy trôi qua một cách lê thê. Người chinh phụ đã cảm nhận được dòng thời gian trôi chảy:

Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.

Thủ pháp so sánh “trích thơ” cùng với các từ láy đằng đẵng dằng dặc đã cho chúng ta cảm nhận được cái âm điệu sầu não, day dứt của đoạn thơ. Không chỉ tạo nên cái âm điệu sầu não, tác giả đã sử dụng thủ pháp lấy cảnh ngụ tình để thể hiện nỗi cô đơn, vắng bóng, sầu khổ của người chinh phụ. Nỗi nhớ ấy dài lê thẻ tựa cả một năm. Không những dài mà nỗi nhớ ấy còn rộng, sâu tự biển cả rộng lớn.

Ai có thể thấy được bờ bến của biển khơi, ai có thể thấu được cái lòng đại dương kia đến tận đâu. Tấm lòng của người chinh phụ được ví von với những hình ảnh mang đậm sắc thái biểu cảm như thế. Người chinh phụ cố gắng tìm mọi cách để vượt ra khỏi vòng vây của cảm giác cô đơn đáng sợ nhưng vẫn không sao thoát nổi.

Hương gượng đốt hồn đà mê mải,
Gương gượng soi lệ lại châu chan.

Trong đoạn thơ này tác giả đã liệt kê hàng loạt hành động của người chinh phụ. Người chinh phụ đốt hương,soi gương, gảy đàn. Thế nhưng những hành động ấy đều gượng gạo và miễn cưỡng. Nằng làm đó nhưng đó là hành động của người có xác mà không hồn. nàng làm đó nhưng bên trong tư tưởng tâm trí lại nghĩ về điều khác. Người chinh phụ đốt hương cầu mong hạnh phúc gđ, nhưng nàng đốt hương mà hồn đà mê mải.

Nàng soi gương nhưng soi gương làm chi, trang điểm làm gì khi không có chồng bên cạnh. Hình ảnh người chinh phụ soi gương khiến ta liên tưởng đến bài thơ Khuê oán của vương xương linh. Trong bài thơ này, tác giả đã khắc họa hình ảnh người chinh phụ trang điểm sau đó lên lầu để ngắm cảnh. Nhưng lên đến lầu mới nghiệm ra nhiều điều:

Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc,
Hối giao phu tế mịch phong hầu.

(Chợt thấy màu dương liễu tốt tươi ở đầu đường,
Bỗng hối hận đã để chồng đi tòng quân để kiếm phong hầu.)

Khi trông thấy dáng liễu bên đường mới nhận ra thời gian trôi chảy vô tình, nhan sắc của nàng dần tàn phai và người chồng ngày ra đi chưa biết ngày trở về. Nhân vật trữ tình còn gảy đàn. Nàng gảy đàn để tìm đến thú vui tao nha. Mong rằng tiếng đàn kia sẽ làm vơi bớt nỗi muộn phiền. Thế nhưng, gảy đàn mà lại dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng:

Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng.

Câu thơ sử dụng điển tích dây uyên và phím loan. Chính 2 điện tích này đã diễn tả tâm trạng tiếp theo của người chinh phụ. Không chỉ cô đơn, không chỉ lẻ loi, không chỉ sầu muộn mà lúc này đây tràn đầy nỗi lo lắng và sợ hãi. Nàng sợ dây uyên ngại chùng sợ điềm gở sẽ đến, sợ vợ chồng chia lìa xa cách.

Người chinh phụ cố gắng tìm mọi cách để vượt ra khỏi vòng vây của cảm giác cô đơn đáng sợ nhưng vẫn không sao thoát nổi. Nàng gắng gượng điểm phấn tô son và dạo đàn cho khuây khỏa nhưng càng lún sâu hơn vào sự tuyệt vọng. Chạm đến đâu cũng là chạm vào nỗi đau, chạm vào tình cảnh lẻ loi đơn chiếc.

Khi Hương gượng đốt thì hồn nàng lại chìm đắm vào nỗi thấp thỏm lo âu. Lúc Gương gượng soi thì nàng lại không cầm được nước mắt bởi vì nhớ gương này mình cùng chồng đã từng chung bóng, bởi vì phải đối diện với hình ảnh đang tàn phai xuân sắc của mình. Nàng cố gảy khúc đàn long phụng sum vầy thì lại chạnh lòng vì tình cảnh vợ chồng đang chia lìa đôi ngả, đầy những dự cảm chẳng lành: Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng. Rốt cuộc, người chinh phụ đành ngẩn ngơ trở về với nỗi cô đơn đang chất ngất trong lòng mình vậy.

Sắt cầm, uyên ương, loan phụng là những hình ảnh ước lệ tượng trưng cho tình yêu nam nữ, tình nghĩa vợ chồng. Nay vợ chồng xa cách, tất cả đều trở nên vô nghĩa. Dường như người chinh phụ không dám đụng tới bất cứ thứ gì vì chúng nhắc nhở tới những ngày đoàn tụ hạnh phúc đã qua và linh cảm đến sự chia Hai đôi lứa trong hiện tại. Tâm thế của nàng thật chông chênh, chơi vơi khiến cho cuộc sống trở nên khổ sở, bất an. Mong chờ trong nỗi sợ hãi và tuyệt vọng, hồng chí còn biết gửi nhớ thương theo cơn gió

Với thể thơ song thất lục bát, cách dùng từ, hình ảnh ước lệ, điệp từ điệp ngữ, nghệ thuật miêu tả nội tâm, 8 câu thơ đã thể hiện một cách tinh tế những cung bậc sắc thái tình cảm khác nhau của nỗi cô đơn buồn khổ ở người chinh phụ, luôn khao khát được sống trong hạnh phúc, tình yêu lứa đôi. Đoạn trích còn thể hiện tấm lòng yêu thương, cảm thông sâu sắc của tác giả với những khát khao hạnh phúc chính đáng của người thiếu phụ, cất lên tiếng kêu nhân đạo, phản đối chiến tranh phi nghĩa.

Đừng bỏ qua 🔥 Phân Tích Tựa Trích Diễm Thi Tập 🔥 8 Bài Văn Hay Nhất

Phân Tích Bài Tình Cảnh Lẻ Loi 8 Câu Giữa Ngắn Hay – Mẫu 8

Bài văn mẫu phân tích bài Tình cảnh lẻ loi 8 câu giữa ngắn hay dưới đây sẽ mang đến cho các em học sinh những gợi ý đặc sắc khi làm bài.

“Chinh phụ ngâm khúc” là một trong những kiệt tác của danh sĩ, nhà thơ Đặng Trần Côn. Tác phẩm được viết bằng chữ Hán, được mọi người biết đến qua bản tương truyền của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm. Đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” bộc lộ rõ tâm trạng u buồn, nhớ nhung của người chinh phụ khi phải sống trong tình cảnh lẻ loi, vì chồng phải tham gia vào trận đánh chiến tranh tàn khốc. Tác phẩm thể hiện sâu sắc cảm hứng nhân đạo và sự lên án, tố cáo chiến tranh phi nghĩa khiến con người phải chia cắt.

Tác giả thể hiện nỗi cô đơn của người chinh phụ trong tình cảnh lẻ loi, cảm giác về thời gian chờ đợi, cố tìm cách giải khuây mà không được. Tiếp đến, thi nhân đã họa lại nỗi nhớ thương chồng ở phương xa của người chinh phụ khiến lòng nàng càng thêm ảm đạm. Trong những câu thơ còn lại, cảnh vật xung quanh càng khiến lòng người chinh phụ thêm rạo rực, khao khát hạnh phúc lứa đôi.

Trong tám câu thơ giữa của đoạn trích, người chinh phụ đã mượn cảnh thiên nhiên để diễn tả tâm trạng của mình, dùng cái khách quan để miêu tả sự chủ quan:

“Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên.
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.
Hương gượng đốt hồn đà mê mải,
Gương gượng soi lệ lại châu chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng”

Âm thanh “tiếng gà eo óc” báo hiệu canh năm, đồng thời như sự minh chứng rằng người vợ xa chồng đã thức suốt đêm dài. Hình ảnh “bóng hòe” ngoài sân, hết ngắn rồi dài, rủ xuống mặt đất, càng khiến không gian thêm ảm đạm, ngột ngạt. Thời gian của xa cách, nhớ thương cùng với tâm trạng da diết khôn nguôi.

Cụm từ “gượng” được tác giả diễn tả cách đặc biệt, đi liền với các động từ “gảy”, “soi”, đốt” cùng những đồ vật “đàn”, “hương”, “gương”. Tất cả đều cho thấy, những thú vui tao nhã, những thói quen trang điểm hằng ngày của người phụ nữ, giờ đây vắng chồng, vắng niềm hạnh phúc, tiếng cười, bỗng được tiến hành một cách gượng ép. Đốt hương mà tâm hồn lại chìm đắm vào nỗi sầu tủi miên man. Soi gương lại không cầm được những giọt nước mắt không ngừng rơi vì tủi hổ. Đàn đứt dây, chùng lại, nào có thoát khỏi bể trời đơn côi?

Chúng ta thấy rằng chỉ vỏn vẹn với 8 câu thơ, tác giả đã thể hiện rõ nỗi cô đơn, sầu tủi của người chinh phụ khi phải sống trong tình cảnh lẻ loi. Nàng cảm giác về thời gian trong đợi chờ, cố tìm cách giải khuây mà không được. Tác giả đã rất tinh tế khi diễn tả tâm trạng phong phú, tinh vi, sâu kín trong tình cảm của người phụ nữ, càng thể hiện rõ tấm lòng nhân đạo dành cho người chinh phụ trong hoàn cảnh đơn côi, lẻ loi.

Có thể bạn sẽ thích 🌳 Phân Tích Chuyện Chức Phán Sự Đền Tản Viên 🌳 15 Mẫu Hay Và Đặc Sắc

Bài Văn Phân Tích 8 Câu Giữa Tình Cảnh Lẻ Loi Đơn Giản – Mẫu 9

Tham khảo bài văn phân tích 8 câu giữa tình cảnh lẻ loi đơn giản dưới đây với những ý văn ngắn gọn và luận điểm cơ bản nhất.

Đoàn Thị Điểm là người phụ nữ tài giỏi nhưng đến năm 37 tuổi bà mới lấy chồng. Nhưng khi vừa cưới ông Nguyễn Kiều thì ông phải đi xứ ở Trung Quốc. Trong thời gian ông đi xứ bà sống cuộc sống như một người chinh phụ có lẽ thế nên khi dịch tác phẩm “Chinh phụ ngâm” bà có những sự đồng cảm sâu sắc với người chinh phụ. Tám câu thơ giữa của đoạn trích là nỗi sầu muộn triền miên dai dẳng.

Nỗi buồn của người chinh phụ ngâm được diễn tả qua các cảnh vật xung quanh. Tiếng gà báo hiệu canh năm và hình ảnh người vợ thao thức suốt cả đêm nhớ chồng đi xa. Cây hòe phất phơ trong đêm gợi lên một cảm giác hoang vắng đáng sợ. Một đêm dài thao thức ngỡ như cả một năm trôi qua. Qua việc sử dụng biện pháp so sánh tác giả muốn nhấn mạnh thời gian một đêm dài lê thê, làm cho nỗi buồn của người chinh phụ thêm trĩu lại, kéo dài thêm thời gian lắng động khiến ta cảm nhận không gian như mênh mông hơn.

Từ cách cảm nhận thời gian của người chinh phụ có thể thấy nàng đang trong tâm trạng sầu muộn, lo âu khắc khoải. Nỗi buồn của nàng nặng trĩu, dai dẳng theo thời gian, sâu và rộng như biển cả. Ngoại cảnh góp phần diễn tả tâm trạng của người chinh phụ, vì vậy được tác giả gợi tả khá kỹ. Mọi âm thanh cảnh vật, tâm trạng con người đều được tác giả chọn lựa từ ngữ cẩn thận, trau chuốt. Tâm trạng u sầu của người chinh phụ đã lan khắp không gian, nỗi buồn như gắn liền với ngoại cảnh.

Cặp từ láy “đằng đẵng – dằng dặc” nếu như so với bản gốc thì không có. Trong bản dịch Nôm của Đoàn Thị Điểm bà không chỉ dịch sát nghĩa mà còn thể hiện sự sáng tạo của mình cho người đọc cảm nhận được nỗi buồn, tâm tư sầu muộn cứ kéo dài, dai dẳng không có điểm dừng.

Người chinh phụ đốt hương, soi gương, gảy đàn với mong muốn quên đi nỗi sầu. Nhưng từ gượng xuất hiện ba lần nhấn mạnh sự miễn cưỡng phải làm một cách gượng gạo, chán chường, có phần uể oải, rầu rĩ. Nàng đi đi lại lại ở hiên nhà, rồi vào phòng kéo rèm trông tin của chim thước nhưng chẳng thấy đâu. Các hành động cứ lặp đi lặp lại cho thấy sự bế tắc trong lòng nàng.

Đến đây nỗi buồn xa cách còn cộng thêm cả sự lo lắng. Bởi theo quan niệm của người xưa “dây uyên kinh đứt”, “phím loan ngại ngùng” báo hiệu sự không may mắn của tình cảm vợ chồng. Người chồng đi chiến trận không biết bao giờ mời trở về càng khiến nàng đau khổ và cô đơn hơn.Đây là biểu hiện của tình yêu, tình cảm vợ chồng son sắt, người vợ ngày đêm luôn một lòng nghĩ về chồng.

Liên hệ với bài thơ Khuê oán của Vương Xương Linh, cũng trong hoàn cảnh chồng đi chinh chiến xa nhà bài thơ nói lên nỗi sầu oán của người thiếu phụ đồng thời phê phán những cuộc chiến tranh phi nghĩa đã gieo đau khổ, chết chóc và giết chết tuổi xuân của nàng trong thầm lặng. Từ đó thấy được chủ nghĩa nhân đạo thể hiện sâu sắc trong hai tác phẩm này.

Tám câu thơ là những cung bậc cảm xúc là các sắc thái của sự cô đơn, buồn khổ của người chinh phụ. Khát khao của nàng như bao người phụ nữ khác là được hạnh phúc bên chồng của mình. Người chinh phụ được tác giả đặt vào thiên nhiên để mượn hình ảnh thiên nhiên cho nàng dãi bày tâm trạng. Đây là cái tài của nhà thơ trong việc sử dụng các biện pháp ước lệ tượng trưng.

Ngoài ra, tại SCR.VN còn có 🌺 Phân Tích Hồi Trống Cổ Thành 🌺 11 Bài Văn Hay Nhất

Phân Tích 8 Câu Giữa Bài Tình Cảnh Lẻ Loi Facebook – Mẫu 10

Chia sẻ dưới đây bài văn phân tích 8 câu giữa bài Tình cảnh lẻ loi Facebook giúp các em học sinh có thêm cho mình tư liệu tham khảo phong phú hơn.

Đặng Trần Côn -một danh sĩ, một nhà thơ kiệt xuất của nền văn học cổ điển “Chinh phụ ngâm khúc” chính là một trong những tuyệt tác của ông được viết bằng chữ Hán, được mọi người biết đến rộng rãi qua bản dịch của nữ danh sĩ Đoàn Thị Điểm.

Đúng như cái tên đoạn trích “ Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” được đánh giá là một trong những trích đoạn hay nhất, đó không chỉ là lời tâm sự, nỗi nhớ của người chinh phụ mà hơn hết đoạn trích còn mang giá trị nhân đạo sâu sắc, đặc biệt là 8 câu thơ giữa bài.

“Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên.
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa
Hương gượng đốt hồn đà mê mải
Gương gượng soi lệ lại châu chan
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.”

Căn phòng tưởng chừng rất rộng khi cả hai cùng chung sống nhưng nó đã trở lên tăm tối, tù túng khi mà chỉ còn mỗi người vợ đang cô đơn, khắc khoải nhớ chồng. Sự chờ đợi của người vợ tiễn chồng ra chiến trận tưởng chừng đã bao nhiêu kiếp trôi quan, nó u ám bao trùm lên cả con người cảm xúc của người chinh phụ

“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
Ngoài rèm thước chẳng mách tin
Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?”

Giọng thơ man mác, nhịp thơ chậm càng làm cho người đọc có cảm giác như của nhân vật trữ tình. Hành động lặp đi lặp lại như nỗi nhớ cứ đong đầy mãi không thôi “Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước” có phải chăng động từ “gieo” chính là ngụ ý của tác giả như muốn nói lên rằng bước chân thê lương dù không muốn bước nhưng vẫn bước.

Không gian tĩnh lặng khiến tiếng bước chân càng nặng nề và cô đơn hơn. Ngày qua ngày đêm qua đêm nhưng nàng vẫn cô đơn một mình, nhớ thương người chồng đang ngoài biên ải xa xôi, “Ngoài rèm thưa rủ thác đòi phen.” Chiếc rèm kéo lên lại hạ xuống sao mà não nề đến thế nhưng dù rằng có như thế nào lòng nàng vẫn chỉ có hình một người mà thôi, dù bên ngoài có xảy ra chuyện gì đi nữa

Nhưng sự chờ đợi đến cùng cực đó lại chẳng thấy dấu hiệu mừng vui, có vẻ như đã lâu lắm rồi “chim thước” chẳng ghé qua cho nàng chút hi vọng. Bên trong chiếc rèm kia chỉ có nàng với ngọn đèn leo lắt, nàng với cái bóng của chính nàng bầu bạn. nhưng đáp lại nỗi nhớ nhung,sự chờ đợi đến mỏi mòn của nàng chỉ là một bóng đêm im lặng đến đáng sợ.

Mỗi câu thơ hiện lên không một dòng lệ nhưng người đọc có thể cảm nhận được một dòng lệ đang tuôn rơi trong lòng nàng… Chính nỗi nhớ chồng đến cồn cào đã làm nàng tưởng tượng, ôm lấy gối như tựa vào vai chồng, nỗi sầu muộn chia li chất đống có thể thổi được “thành cơm”

Chính sự nỗi sầu muộn cô đơn, lẻ loi đó của nàng, mà nàng rất cần một người có thể sẻ chia và đồng cảm với tâm trạng của nàng lúc này

“Đèn có biết dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương.”

Nàng không có ai để giãi bày nỗi lòng của mình, để giải tỏa được tâm trạng cô đơn, chỉ có cây đèn trong phòng. Nhưng chiếc đèn vô tri vô giác kia liệu có thấu hiểu được tấm lòng thủy chung của nàng, nàng chỉ có thể một mình chịu đựng nỗi nhớ nỗi cô đơn đến đau lòng một mình mà thôi “Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi”. Hình ảnh chiếc đèn hiện lên đã chứng minh cái sự cô đơn, lẻ loi của người chinh phụ

“Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương.”

“Buồn rầu nói chẳng nên lời,” Buồn quá chả buồn nói cũng chả muốn cười, nàng chỉ có một mình với hoa đèn đến đáng thương. Hoa đèn chính là tàn của bấc đèn vẫn còn được nung đỏ đến sáng rực, như lòng nàng đang cháy đến tàn đỏ như bấc đèn kia. Hình ảnh “Hoa đèn kia với bóng người khá thương.” càng làm người đọc thương cảm đến xót thương cho người phụ nữ lẻ loi

Bút pháp nghệ thuật ước lệ kết hợp thể thơ song thất lục bát giọng thơ nhẹ nhàng thiết tha, nhịp thơ chậm đã thể hiện được tâm trạng với những mạch cảm xúc và cung bậc khác nhau của người chinh phụ, với nỗi nhớ chồng da diết, nỗi cô đơn với một khát khao cháy bỏng được sống hạnh phúc trọn vẹn. Đoạn trích cũng đã để lại giá trị nhân đạo sâu sắc, nhân văn cao cả khi lên án chiến tranh phi nghĩa, những khuôn phép hà khắc phong kiến thời bấy giờ.

Tham khảo trọn bộ 🌟 Phân Tích Độc Tiểu Thanh Ký 🌟 15 Bài Văn Ngắn Hay Nhất

Viết một bình luận