Liên Hệ Mở Rộng Bài Hai Đứa Trẻ [22+ Mẫu Ngắn Hay Nhất]

Liên Hệ Mở Rộng Bài Hai Đứa Trẻ ❤️ 22+ Mẫu Ngắn Hay Nhất ✅ Mời Bạn Tham Khảo Mẫu Bài Liên Hệ Mở Rộng Tác Phẩm Hai Đứa Trẻ.

Cách Liên Hệ Bài Hai Đứa Trẻ Của Thạch Lam

SCR.VN hướng dẫn bạn cách liên hệ mở rộng bài “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam đơn giản và dễ hiểu nhất!

  • Bước 1: Chuẩn bị
    • Đọc và tìm hiểu kĩ về bài “Hai đứa trẻ”, nắm được cốt truyện, giá trị nội dung và nghệ thuật.
    • Tìm kiếm các tác phẩm khác có chủ đề tương tự với “Hai đứa trẻ” để liên hệ mở rộng.
  • Bước 2: Phân tích
    • Phân tích tác phẩm chính “Hai đứa trẻ”
    • Liên hệ với các phẩm phụ, tìm điểm tương đồng và khác nhau giữa 2 tác phẩm.
      • Liên hệ bóng tối và ánh sáng trong “Hai đứa trẻ” và “Chữ người tử tù”
      • Liên hệ cảnh phố huyện, số phận con người trong “Hai đứa trẻ” với “Vợ nhặt”,…
  • Bước 3: Nhận xét
    • Ý nghĩa câu chuyện “Hai đứa trẻ”.
    • Nhận xét ngòi bút và tấm lòng của tác giả đối với những mảnh đời bất hạnh.

Hai Đứa Trẻ Liên Hệ Với Bài Nào

Dưới đây là các tác phẩm có thể được sử dụng để liên hệ mở rộng với bài “Hai đứa trẻ” mà bạn nên biết, xem ngay nhé!

1. Có thể liên hệ mở rộng bài Hai đứa trẻ với tác phẩm Gió lạnh đầu mùa của Thạch Lam. Hai tác phẩm đều viết về đề tài trẻ em, về việc khám phá những tâm lý, trạng thái cảm xúc của những đứa trẻ nông thôn nghèo khó. Qua đó thể hiện tư tưởng nhân đạo của nhà văn: yêu thương, trân trọng những kiếp người nghèo khổ.

2. Liên hệ với tác phẩm Chí Phèo của nhà văn Nam Cao. Đều là hai tác phẩm viết trong giai đoạn trước cách mạng tháng 8. Nhưng nếu Chí Phèo phơi bày bộ mặt đen tối của xã hội, phản ánh cuộc đời đầy bi kịch của người nông dân bị bần cùng và tha hoá thì Hai đứa trẻ lại khác. Cốt truyện nhẹ nhàng hơn, tính chất tố cáo hiện thực ít hơn, trang văn cũng giàu chất thơ hơn.

3.Liên hệ với bài Dưới bóng hoàng lan để thấy được ngòi bút khám phá và miêu tả tinh tế nhân vật, những trang văn nhẹ nhàng, không có cốt truyện của Thạch Lam.

4. Liên hệ với bài Chữ người tử tù để thấy được dù trong bóng tối, hay nơi tồi tàn nhất, vẫn có ánh sáng của tâm hồn những con người lương thiện, yêu cái đẹp.

5. Liên hệ với bài Vợ nhặt để thấy được bức tranh hiện thực tàn khốc, nghèo đói của đất nước ta năm 1945.

Xem ngay 🌸 Dàn Ý Hai Đứa Trẻ 🌸 giúp bạn ghi nhớ lâu hơn!

Những Mẫu Liên Hệ Mở Rộng Bài Hai Đứa Trẻ Hay Nhất

Tham khảo bài văn mẫu liên hệ mở rộng bài “Hai đứa trẻ” hay nhất mà SCR.VN chia sẻ bên dưới nhé!

Liên Hệ So Sánh Hai Đứa Trẻ Đặc Sắc

Gợi ý cho bạn bài văn mẫu liên hệ so sánh mở rộng bài “Hai đứa trẻ” đặc sắc nhất, xem thêm bên dưới:

Nhà văn Thạch Lam là một cây bút tài hoa, trong mỗi câu văn của ông đều chứa đựng những tình cảm thiêng liêng dành cho quê hương dân tộc. Trong mỗi câu văn của Thạch Lam đều chứa đựng một tâm hồn vô cùng thuần Việt.

Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” gợi lên trong lòng người đọc những cảm xúc xót xa, xúc động, nghẹn ngào trước những ước mơ giản dị, trước những chuyến tàu mang theo giấc mơ về một cuộc sống tốt đẹp hơn của hai chị em Liên.

Câu chuyện được viết trong bối cảnh chiều buồn, khi mà sợ đã tan, phố huyện một nơi được coi như trung chuyển giữa thành thị và nông thôn, nơi không thành phố nhưng cũng chẳng nhà quê. Trong khung cảnh chợ tàn, ánh nắng chiều dần tắt. Hai chị em Liên ngồi nhìn những đống rác được vứt vương vãi trên mặt đất, mùi đất nồng nồng, ngai ngái thơm mùi quen thuộc.

Những tiếng trống thu không trên cái chòi của phố huyện nhỏ, từng tiếng vang lên trong buổi chiều…Tiếng ếch nhái kêu râm ran từ ngoài đồng theo làn gió đưa nhẹ vào. Phố huyện lúc chiều tàn thật bình lặng, yên ả, nhưng có lẽ sự bình lặng yên ả này lại khiến cho con người ta cảm thấy buồn man mác.

Những người bán hàng như chị em cô hàng xén lại ngồi trước cả ngóng trời, nhìn vơ vẩn xung quanh, xem có ai qua lại rồi bất chợt ghé mua chút đồ gì đó không? Hai mẹ con chị hàng nước đã dọn xong bàn nước, bác bán phở đã nhóm lại bếp than, bác hát Xẩm lại chờ khách đến nghe…Những con người nghèo khổ đó, đang sống trong bóng trong bóng tối mong chờ một điều gì đó sẽ tới cho tương lai tươi sáng hơn.

Từ khi nhà cô bé Liên có cái cửa hàng này đêm nào hai chị em cũng ngồi trên chiếc chõng tre dưới gốc bàng với ái tối của quãng phố xung quanh để quan sát cuộc sống của mọi người quanh mình.

Liên thấy chị Tí chẳng kiếm được bao nhiêu nhưng hôm nào chị cũng dọn hàng từ chập tối cho tới đêm, việc làm này của họ không mang lại cho những con người nghèo khổ ấy một cuộc sống khấm khá hơn, nhưng cho họ niềm vui trong công việc.

Nó mang tới cho họ những hy vọng, hy vọng khi những chuyến tàu ghé thăm, những hành khách trên tàu mang tới cho họ một luồng sinh khí mới, sự tươi vui từ thành phố về. Chỉ vài hào họ bỏ ra mua chén nước, hay ít đồ ăn, bát phở… Nhưng lại là niềm vui vô tận với những người bán hàng.

Trong bóng tối đó dường như mọi thứ đều được thu nhỏ lại và ánh sáng rọi qua những phên nứa của nhà chị hàng nước, của cái bếp than hồng nhà bác bán phở…tất cả đều trở nên sáng lạ kỳ.

Chính sự tương phản giữa ánh sáng và bóng tối, giữa âm thanh tiếng trống thu không, tiếng ếch nhái và sự tĩnh lặng đem lại cho nhân vật bé Liên những cảm xúc khó tả. Cô buồn ngủ ríu cả mắt nhưng vẫn cố ngồi gắng gượng chờ chuyến tàu đêm đi qua.

Chuyến tàu như một ngôi sao mang tới những tinh tú, mang tới cho người dân ánh sáng và sự hy vọng. Nó mang chút ồn ào ấm áp từ thành phố, từ nơi khác đến đây xua tan đi cái im lặng, tối tăm, vắng vẻ của phố huyện. Nó tỏa sáng, vang động, nó chính là giấc mơ kỳ diệu, huyền ảo của chị em Liên và những người lao động, lam lũ nơi đây.

Chuyến tàu như hư như thực. Nó chỉ đến trong vài phút giây ngắn ngủi nhưng hôm nào nó cũng tới, an ủi những số phận nghèo khổ lam lũ. Nó chính là sự hy vọng, là niềm mong chờ vào tương lai tươi sáng hơn của những người dân nghèo khổ.

Trong tác phẩm “Hai đứa trẻ” những câu văn của Thạch Lam vô cùng linh hoạt, đa dạng, vừa chứa đựng chất thơ, chất nhạc, lại mang tới một nỗi buồn nhẹ nhàng man mác vừa đủ để người đọc cảm thấy sởn gai ốc, nghẹn ngào vì những xót xa thương cảm của mình dành cho những số phận con người nơi đây. Nhưng nó lại không tăm tối tới mức bi đát hay túng quẫn tận cùng như những tác phẩm Chị Dậu, Lão Hạc, Chí Phèo…

Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” là khoảnh khắc của một đêm phố huyện buồn bã, trong những mảng tối và mảng sáng của những ánh đèn leo lét đó, một đêm có dấu chấm lửng ở cả hai đầu. Thạch Lam đã lựa chọn thời gian không gian, để nói lên những điều mình muốn nói với bạn đọc.

Điều này thể hiện sự dằn vặt của tác giả Thạch Lam trước cuộc sống, trước những mảnh đời bất hạnh của người dân khốn khổ. Nhưng tâm hồn bé nhỏ như hai chị em Liên đang mong chờ một điều gì đó vào một ngày mai tốt đẹp hơn, một tương lai tương sáng hơn cho những số phận lam lũ, nghèo khổ.

Những nhân vật trong “Hai đứa trẻ” khiến chúng ta nghĩ đến Mị trong “Vợ chồng A Phủ”. Tâm hồn của họ luôn hướng về ánh sáng, về âm thanh cuộc sống cũng chính là niềm khao khát được sống, được yêu thương và hạnh phúc. Họ đều hi vọng thoát khỏi hiện thực tối tăm. Nhưng cuối cùng, cuộc đời Liên vẫn mãi chìm trong “bóng tối”, còn Mị đã được đổi đời nhờ có tinh thần đấu tranh từ tự phát đến tự giác.

Qua khát vọng sống của 2 nhân vật, ta thấy được tấm lòng nhân đạo của nhà văn Thạch Lam và Tô Hoài. Các nhà văn có cùng niềm cảm thông với nỗi khổ của những người phụ nữ bất hạnh dưới chế độ thực dân phong kiến; ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của người dân; đặc biệt ca ngợi khát vọng sống cao đẹp của họ. Đó cũng chính là niềm tin vào con người của các tác giả văn xuôi hiện đại Việt Nam.

Mẫu 🌸 Sơ Đồ Tư Duy Hai Đứa Trẻ Thạch Lam 🌸 dễ hiểu!

Liên Hệ Bản Thân Hai Đứa Trẻ Ấn Tượng

Nếu bạn đang gặp khó khăn trong đề tài viết bài văn liên hệ mở rộng bài “Hai đứa trẻ” thì mời các bạn xem thêm mẫu sau đây:

Thạch Lam là một trong những cây bút xuất sắc của nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Truyện của ông thường nhẹ nhàng, giản dị nhưng gợi một nỗi buồn man mác về cuộc đời, kiếp người. Hai đứa trẻ là truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật đó. Đọc Hai đứa trẻ, chúng ta không khỏi xót xa cho một mảnh đời bất hạnh xoay quanh những mảnh đời bế tắc trong xã hội bấy giờ.

Trong tác phẩm, những kiếp người khốn khổ được Thạch Lam tái hiện qua không gian phố huyện với những ánh đèn leo lét trong đêm tối. Đầu tiên phải kể đến mẹ con chị Tí. Mẹ con chị Tí xuất hiện trong tác phẩm khi “trời bắt đầu tối”, họ đang ở “đầu ngõ” với đống đồ lặt vặt nhưng chẳng mấy giá trị. Con anh Tí cõng hai cái ghế trên lưng, trên tay cầm một đống lửa. Còn cô thì đội chiếc chõng tre, hai tay gánh tất cả “gia sản” của mình để gánh nước.

Chạng vạng, đêm tối cận kề, hình ảnh mẹ con chị Tí bước ra từ đầu ngõ – một không gian vô định với cơi trầu, đám đông, ấm chè xanh và ngọn đèn dầu leo lét giữa đêm khuya. của một thị trấn nghèo, khắc họa bi kịch của kiếp người. Người đàn bà một mình mưu sinh bằng nghề mò cua bắt ốc, bán nước chè xanh, nuôi trẻ mồ côi trong hoàn cảnh nghèo khó, không gì đáng thương hơn.

Đọc những dòng viết về mẹ con chị Tí, ta như thấy thân phận của người phụ nữ trong ca dao xưa, những “thân cò” lam lũ nhưng chịu thương, chịu khó:

“Cái cò lặn lội bờ sông,
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non
Nàng về nuôi cái cùng con
Cho anh đi trẩy nước non Cao Bằng?”

Trong không gian tăm tối, ngột ngạt của phố huyện, thị bỗng hiện lên với tiếng cười như một bóng ma trong đêm tối, mang nỗi đau về một kiếp người bế tắc trong xã hội. Trong mắt những đứa trẻ như chị em Liên, hình ảnh người bà lúc này không phải là sự độ lượng, nhân hậu, dịu dàng mà là một bà già điên khùng thèm rượu.

Hành động “giúi ba đồng xu vào tay Liên và vỗ đầu em” của bà cụ Thị khiến người đọc nghẹn ngào. Đằng sau con người điên rồ ấy là một trái tim vô cảm. Trời đã xế chiều nhưng người phụ nữ vẫn một mình. Bà bước ra bóng tối rồi lại vào bóng tối, trong tiếng cười như cái vòng luẩn quẩn của chính cuộc đời bà. Đó là một tình huống đáng thương.

Cuộc sống đang lụi tàn của phố huyện được tô điểm bằng sự xuất hiện của gia đình bác Siêu, bác Xẩm. Bác Siêu xuất hiện khi màn đêm bao phủ phố huyện. Liên và An nhận ra gánh phở của chú Siêu bởi mùi thơm đặc trưng của những món ăn sang trọng. Người đàn ông với cái bóng “cười” dài trên dải đất kéo dài đến tận hàng rào hai bên ngõ” đang nhóm lửa kiếm sống, mong khách từ Hà Nội vào ăn nhưng chẳng đủ tiêu.

Thật đáng buồn! Cuộc sống của gia đình bác Xẩm cũng không khá hơn là bao. Đem tiếng hát mua vui, mong ai đó mở lòng cho năm ba xu để đỡ đói, nhưng giữa cuộc sống khốn khó như vậy, chẳng ai còn tâm trạng nghe và thưởng thức nghệ thuật. Chiếc nồi sắt trắng xóa treo trên chiếc chiếu rách nát, không một xu dính túi khiến chúng tôi xót xa cho cuộc sống của họ trong những ngày sắp tới.

Ngay cả chị em Liên – nhân vật chính của câu chuyện cũng không nằm ngoài số phận đó. Vốn là con một gia đình giàu có ở Hà Nội, nhưng khi bố thất nghiệp, cả gia đình phải rời thành phố về quê. Mẹ Liên chắc bận làm loạn lắm. Hai chị em Liên thay nhau đi bán tạp hóa nhỏ của gia đình mong kiếm được chút tiền trang trải cuộc sống. Đêm về, lũ trẻ chỉ biết nhìn sao trên trời, nhìn ánh sáng trời mơ màng, chờ chuyến tàu đêm chờ vài chú đom đóm.

Ai đó đã từng nói: “Đời người thực sự là một mê cung, ở đó người ta cố đi đến cùng”. Câu nói ấy hẳn rất đúng với những kiếp người đã khuất trong Hai đứa trẻ. Nỗi xót xa, ngậm ngùi, cảm thương nảy sinh trong lòng ta khi đọc Hai đứa trẻ. Cảm ơn Thạch Lam đã mang đến những hương vị đầy dư âm của cuộc đời để chúng ta thấy rằng cuộc đời không nhất thiết phải “buồn”, để biết yêu thương, trân trọng và đồng cảm với tất cả những mảnh đời, những số phận trong cuộc đời.

Liên Hệ Bài 2 Đứa Trẻ Xuất Sắc

Chia sẻ đến bạn đọc bài văn liên hệ mở rộng bài “Hai đứa trẻ” xuất sắc nhất!

Thạch Lam là cây bút nhẹ nhàng, sâu lắng trong nhóm Tự lực văn đoàn, một phong cách không thể lẫn lộn với bất cứ ai. Mỗi trang văn của ông là những lời thủ thỉ tâm tình cuốn hút người đọc. Đó là những câu chuyện không có cốt truyện được viết lên bởi chất liệu nhẹ nhàng, man mác, tiêu biểu là tác phẩm Hai đứa trẻ.

Sự tinh tế, nhẹ nhàng trong những câu văn làm nên nét độc đáo của Thạch Lam. Câu chuyện Hai đứa trẻ xoay quanh cuộc sống của Liên và An ở phố huyện nghèo với công việc lặp đi lặp lại hằng ngày. Qua Liên và An, nhà văn muốn gửi gắm đến bạn đọc thông điệp cuộc sống mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc.

Ẩn hiện trong truyện ngắn là khung cảnh phố huyện nghèo. Mở đầu là tiếng trống thu không vang lên trong buổi chiều tà, khi cảnh vật và con người đang đắm mình vào không gian lơ đãng. Khu phố nghèo lúc ngày tàn gợi sự đìu hiu, tàn phai trước mắt người đọc, đó cũng chính là hiện thực xã hội thời bấy giờ ở nước ta, mọi thứ không có sức thu hút và dường như không thấy có sự sống, mọi thứ gần gũi nhưng phảng phất sự nghèo đói.

Trong con mắt của Liên và An, phố huyện hiện lên xơ xác, nghèo đói trước cảnh bãi chợ vắng vẻ, khi người về hết. Ống kính của Thạch Lam lia qua những rác rưởi khi chợ quê vãn người và miêu tả một mùi vị đặc trưng riêng khiến hai đứa trẻ tưởng là mùi riêng của đất, của vùng quê này. Cứ thế, phố huyện ám ảnh hai đứa trẻ, ám ảnh bạn đọc bởi những hình ảnh, màu sắc và hương vị như thế suốt bao năm qua.

Những đứa trẻ nghèo khổ hiện ra trong khung cảnh tiêu điều, xác xơ thêm nhếch nhác. Chúng đi nhặt những thứ rơi vãi còn sót lại. Mẹ con chị Tí ngày mò cua bắt ống, tối tối xác điếu đóm dọn hàng, gia đình bác Xẩm ngồi bên manh chiếu rách với chiếc thau sắt trắng để trước mặt, bà cụ Thi điên uống rượu rồi cười khanh khách đi vào trong bóng tối…

Từng ấy những kiếp sống lầm than, tàn tạ có cả chị em Liên. Trong con mắt của Liên, cuộc sống chìm trong màn đêm mênh mông không lối thoát, chỉ có ngọn đèn của chị Tí, cái bếp lửa của bác Xiêu, rồi ngọn đèn hoa kỳ vặn nhỏ….

Phố huyện lúc chiều tà tựa như khúc nhạc buồn điệp đi điệp lại chẳng biết bao giờ chấm dứt, đơn điệu và buồn tẻ. Liên và An làm sao có thể ý thức được sự buồn chán, bế tắc mà bọn trẻ đang phải sống cũng như những khát vọng mơ hồ của mình về cảnh tù đọng nơi đây.

Nhưng với sự nhảy cảm, bé Liên cảm nhận được khát vọng tinh thần của chính mình, khát vọng thoát khỏi cảnh tối tăm, tù đọng mà tới một thế giới khác. Minh chứng cho khao khát này là hành động thực đợi chuyến tàu đêm đi qua. Con tàu đi ngang qua phố huyện như đem một thế giới khác đi qua, một thế giới khác hẳn với thế giới hai đứa trẻ đang sống, cũng là ánh sáng nhưng không phải là vầng sáng của ngọn đèn chị Tí hay ánh lửa của bác Siêu.

Ta còn bắt gặp khát vọng thoát khỏi cảnh tối tăm ấy để vươn tới thứ ánh sáng tươi mới trong truyện “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài. Trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ, nhà văn Tô Hoài thể hiện sự sống động và mãnh liệt của những người lao động như Mị và A Phủ.

Mị sống trong nhà thống lý Pá Tra không khác gì trong ngục tù, A Phủ cũng bị họ hành hạ, dồn vào “chân tường”. Trong lúc tuyệt vọng nhất, chính tình thương và sự đồng cảm cùng với niềm khát khao tự do, sức sống mãnh liệt đã thôi thúc Mị cắt dây cởi trói cho A phủ. Hành động đầy bất ngờ nhưng tất yếu mang tính logic của một sức sống đã được hồi sinh mãnh liệt, Mị cởi trói cho A Phủ cũng chính là tự cởi trói cho chính mình.

Khác với chị em Liên, họ đã tự giải phóng mình khỏi cuộc sống tối tăm và hướng đến một cuộc sống và tương lai tốt đẹp hơn thông qua con đường cách mạng. Có lẽ bây giờ Liên và An vẫn còn quá nhỏ để có thể dám đưa ra một quyết định lớn như Mị và A Phủ.

Thạch Lam không đi sâu miêu tả xung đột xã hội, ông là một nhà văn lãng mạn vì thế một bức tranh phố huyện nghèo, dung dị tới từng chi tiết. Một bức tranh làng quê Việt Nam mù xám với những người lao động nghèo khổ đang phải sống quanh quản trong tối tăm, bế tắc. Nhà văn đã bày tỏ niềm cảm thương chân thành tới những phần người ấy, muốn thay đổi cảnh nghèo khổ, tối tăm cho những con người ấy.

Học cách 🌸 Mở Bài Hai Đứa Trẻ 🌸 ấn tượng!

Liên Hệ Hai Đứa Trẻ Và Chí Phèo Nâng Cao

Mời bạn đọc xem ngay bài văn liên hệ mở rộng bài “Hai đứa trẻ” với “Chí Phèo” ở ngay bên dưới:

Truyện của Thạch Lam không có chuyện. Truyện “Hai đứa trẻ” cũng vậy. Chỉ có hai đứa trẻ từ Hà Nội chuyển về một phố huyện nghèo, trông coi một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu. Chiều, hai chị em ngồi trên chiếc chõng tre ngắm cảnh phố xá lúc hoàng hôn, rồi đêm đến, tuy đã buồn ngủ ríu cả mắt, hai chị em vẫn cố thức để đợi xem chuyến tàu đêm từ Hà Nội chạy qua rồi mới khép cửa hàng đi ngủ.

Trong “Hai đứa trẻ” chất lãng mạn và hiện thực hòa quyện với nhau hiện ra trong bức tranh thiên nhiên của một vùng quê vào một buổi chiều ả. Rồi màn đêm dần dần buông xuống “Một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát…” thiên nhiên thì cao rộng thì cao rộng và thơ mộng.

“Phương Tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn”. Nhưng làng quê thì đầy bóng tối, thảm hại. “Trong cửa hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo ve”. “Đôi mắt Liên, bóng tối ngập đầy dần”. “Chỉ thấy lòng buồn man mác trước giờ khắc của ngày tàn”. Chính bức tranh đời sống rất mực chân thật vừa thấm đượm cảm xúc chữ tình này đã gây nên cảm giác buồn thương dây cho người đọc. Ý nghĩa tư tưởng của truyện chủ yếu toát ra từ bức tranh đời sống phố huyện nghèo.

Dưới mắt của hai đứa trẻ, cảnh phố huyện hiện lên thật là cụ thể, sinh động, gợi cảm. Đó là cảnh bãi chợ trống trải, vắng vẻ khi buổi chợ đã vãn từ lâu. “Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất”. Cảnh chợ tàn phơi bày sự nghèo nàn, xơ xác của đời sống phố huyện.

Ống kính cần mẫn của nhà văn lia qua phố huyện: trên đất chỉ còn “rác rưởi, bỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía”. Cảnh còn được miêu tả bởi khứu giác tinh tế của nhà văn “một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này”. Bức tranh phố huyện trong “Hai đứa trẻ” đầy sức ám ảnh là vì những màu sắc và hương vị như thế.

Trong khung cảnh tiêu điều, buồn bã đó, hình ảnh những con người nghèo khổ, lam lũ, nhếch nhác của phố huyện hiện dần ra. Những đứa trẻ đi nhặt nhạnh những thứ rơi vãi ở bãi chợ. Mẹ con chị Tí lễ mễ đội chõng xách điếu đóm ra dọn hàng, “ngày, chị đi mò cua bắt tép; tối đến chị mới dọn cái hàng nước này…”.

Gia đình bác Xẩm ngồi trên manh chiếu, cái thau sắt trắng để ở trước mặt”. Thằng con bò ra đất nghịch nhặt rác bẩn bên đường. Và hai chị em Liên với cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu mẹ Liên dọn ngay từ khi cả nhà bỏ Hà Nội về quê vì thầy Liên mất việc.

Bà cụ Thi điên điên tàng tàng mua rượu uống và cười “khanh khách” lảo đảo đi vào bóng tối. Tất cả đều là những kiếp sống lầm than, cực khổ, tàn tạ. Qua con mắt của bé Liên, tất cả cuộc sống chìm trong đêm tối mênh mông, chỉ còn ngọn đèn của chị Tí, cái bếp lửa của bác Xiêu, ngọn đèn Hoa Kỳ vặn nhỏ của Liên… tức chỉ là mấy đốm sáng tù mù, những đốm lửa nhỏ nhoi ấy chẳng làm cho phố huyện sáng sủa mà chỉ càng khiến cho đêm tối mịt mù dày đặc mà thôi.

“Tất cả phố xá trong huyện bây giờ thu nhỏ lại nơi hàng nước của chị Tí”. Hình ảnh ngọn đèn con nơi hàng nước của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ ấy trở đi trở lại tới bẩy lần trong huyện là hình ảnh đầy ám ảnh và có sức gợi rất nhiều về những kiếp sống nhỏ nhoi, lay lắt, mù tối trong đêm đen mênh mông của cuộc đời.

Phong cách viết truyện cũng như sử dụng các chất liệu gần gũi, chân thực với người lao động, người nông dân nghèo của Thạch Lam cũng khá giống với nhà văn Nam Cao. Tác phẩm “Chí Phèo” là một áng văn tuyệt tác miêu tả tình cảnh thê thảm của nhân vật Chí trong xã hội phong kiến.

Ở Chí Phèo, chúng ta không chỉ thấy hắn là một kẻ nghiện rượu, chuyên đâm thuê chém mướn, rạch mặt ăn vạ mà đâu đó trong hắn vẫn lóe lên 1 chút hi vọng. Chính bát cháo hành và thị Nở đã khiến hắn muốn thoát khỏi cuộc sống đáng khinh bỉ hiện tại để hướng đến một cuộc sống tốt đẹp hơn. Hắn cũng đã từng nghĩ về cảnh lấy vợ, hắn đi làm thuê, vợ ở nhà dệt vải, một ước muôn tầm thường nhưng đối với hắn thật khó biết bao.

Nghệ thuật chân chính là nghệ thuật vì con người, vì cuộc đời, nghệ thuật đích thực là nghệ thuật biết lấy chất liệu từ cuộc sống và con người để dệt nên những trang văn sâu sắc trong tư tưởng, độc đáo trong hình thức thể hiện. Một lần nữa Thạch Lam đã làm được điều đấy qua “Hai đứa trẻ”. Thạch Lam mãi là nhà văn đáng được yêu thương và trân trọng nhất trong làng văn học hiện đại Việt Nam.

Liên Hệ Hai Đứa Trẻ Và Chữ Người Tử Tù Học Sinh Giỏi

Mẫu bài văn liên hệ mở rộng bài “Hai đứa trẻ” với “Chữ người tử tù” ở bên dưới, mời bạn xem ngay:

Hai đứa trẻ là truyện ngắn được nhà văn Thạch Lam viết vào những năm 1937 1938 khi mà xã hội Việt Nam ở vào một trong những thời kì đen tối nhất. Đây là truyện mang đậm phong cách của Thạch Lam, cốt truyện không có những nút thắt nổi bật độc đáo nhưng khi đọc xong luôn ám ảnh lòng người.

Một trong những thành công của truyện là tác giả đã tái hiện lại bức tranh sinh động về đời sống ở một ga xép khi màn đêm buông xuống mà qua đó nhà văn đã gửi gắm tình cảm của mình với những cảnh đời khác nhau.

Tác phẩm Hai đứa trẻ được bắt đầu bằng cảnh chiều tà trên phố huyện. Văn học xưa nay khi tả cảnh chiều thường có những hình ảnh chim về tổ, người đi xa nhớ nhà, nỗi buồn hoàng hôn… Ở Hai đứa trẻ ta không bắt gặp hình ảnh đó nhưng cảnh chiều vẫn thấm thía một nỗi buồn và trong cái buồn nhà văn vẫn phát hiện nét đẹp thi vị mang chút hoang sơ của làng quê.

Cùng với cảnh chiều tà là chợ tàn với hàng loạt những hình ảnh phơi bày vẻ nghèo xơ xác ở chốn này: “Chợ họp giữa phố đã vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đấ chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía. Một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này”.

Ngay sau cảnh chợ tàn là cảnh bóng tối bao phủ. Dưới con mắt của Liên thì giờ đây tất cả đã ngập đầy bóng tối. Thạch Lam miêu tả bóng tối thật kì diệu. Có đến 30 lần tác giả nhắc đến bóng tối. Bóng tối đến từ nhiều phía: từ đám mây sắp tàn, từ rặng tre đã đen kịt, từ tiếng muỗi vo ve trong góc nhà, tiếng ếch kêu ngoài đồng để rồi nó bao trùm lên đường phố và các ngõ hẻm: “Tối hết cả từ con đường khấp khểnh ra sông…, các ngõ hẻm vào làng thì càng tối đen hơn nữa”

Với cách miêu tả này người đọc sẽ cảm nhận bóng tối như một cái gì đó rất hãi hùng, như một sự hăm dọa. Nó luồn lách mọi nơi, nó thâm nhập vào cảnh vật. Nó trùm lên và đè nặng lên cuộc sống ngột ngạt ở phố huyện nghèo nàn này.

Trong chuyện cũng có những chi tiết nói về ánh sáng ấy vừa leo lét tù mù, yếu ớt không đủ sức xua đi bóng tối mà trái lại lại còn gây cảm giác bóng tối càng đậm đặc hơn. Cứ tối đến thì bóng những con người bắt đầu xuất hiện khiến người đọc liên tưởng đến những loài chim ăn đêm lặn lội. Mặt khác ta cũng nghĩ ngay đến cảnh đời tăm tối trong đêm đen của chủ nghĩa thực dân phong kiến.

Cách miêu tả với từng gương mặt cụ thể, mỗi người có một đời sống riêng: chị Tí cứ nhá nhem tối là xuất hiện. Sau một ngày mò cua bắt tép vất vả, mặc dù biết là chẳng kiếm được bao nhiêu nhưng tối nào chị cũng dọn hàng. Hình ảnh ngọn đèn leo lét chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ ở quán nước của chị lại khiến ta liên tưởng tới cuộc sống tù mù, leo lét

Khi bác phở Siêu xuất hiện với một chấm lửa nhỏ và lơ lửng trong đêm tối, chập chờn như ma trơi. Từ khi dọn hàng cho tới lúc về bác không bán được đồng nào. Bà cụ Thi điên từ trong bóng tối đi ra với tiếng cười khanh khách. Sau khi uống cạn cút rượu, tiếng cười của cụ lại chìm vào bóng tối. Ở nhân vật này ẩn chứa một sự tội nghiệp u uất đầy bí ẩn.

Nhưng cảnh ám ảnh nhất là hình ảnh vợ chồng bác Xẩm mà nhà văn đã ba lần nhắc đến họ. Họ xuất hiện với tiếng đàn bầu run bần bật trong đêm tối rồi với đứa con bò lê trên đất cát trong bóng tối và khi về đếm về khuya thì họ ngủ gục trên manh chiếu tự bao giờ.

Sau khi miêu tả từng gương mặt tác giả khái quát lại “Chừng ấy con người trong bóng tối như mong đợi một cái gì tươi sáng cho cuộc sống nghèo khổ hàng ngày của họ”. Rõ ràng nhà văn đã thấu hiểu đồng cảm sâu sắc với những cảnh đời trong bóng tối và chính Thạch Lam cũng mong đợi được đổi đời.

Nếu như thứ ánh sáng ở Hai đứa trẻ được tác giả dựng lên một cách yếu ớt, lẻ tẻ, nhạt nhòa dường như bị màn đêm nuốt chửng. Chữ người tử tù ánh sáng và bóng tối được tác giả miêu tả ở thế cạnh tranh ngang bằng, kịch liệt, trong đó có vẻ ánh sáng được miêu tả một cách nổi bật, áp đảo bóng tối.

Trong “Chữ người tử tù”, “ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc”, “lửa đóm cháy rừng rực”, ngọn đèn nến trên án của viên quản ngục, rồi thì ánh sáng nhấp nháy của những vì tinh tú, của ngôi sao Hôm,..Tượng trưng cho vẻ đẹp nghệ thuật cao quý và tâm hồn trong sáng, thiện lương của con người, chúng tồn tại ngay cả trong những hoàn cảnh tối tăm dơ bẩn nhất (ngục tù), chiếu sáng tâm hồn của những con người có thiên lương (Huấn Cao và cai ngục) là thứ ánh sáng trường tồn bất diệt và vô cùng mãnh liệt.

Bước vào trang văn Thạch Lam, Nguyễn Tuân, cái đẹp ngoài sáng đáng ngưỡng mộ bao nhiêu thì cái đẹp vươn lên từ bóng tối lại đáng trân quý bấy nhiêu. Qua đây ta khẳng định được một điều tác phẩm văn học hay thì thường có những nghệ thuật đặc sắc. “Hai đứa trẻ” và “Chữ người tử tù” xứng đáng là một trong những tác phẩm không thể bỏ qua.

Hướng dẫn viết 🌸 Kết Bài Hai Đứa Trẻ 🌸 ghi điểm với giáo viên!

Liên Hệ Hai Đứa Trẻ Với Vợ Nhặt Sáng Tạo

Các bạn học sinh đang tìm kiếm mẫu bài văn liên hệ mở rộng bài “Hai đứa trẻ” với “Vợ Nhặt” thì đừng bỏ qua bài viết này nhé!

Thạch Lam là một cây bút thiên về tình cảm, ghi lại cảm xúc của mình trước số phận hẩm hiu của những người nghèo, những người có cuộc sống vất vả , thầm lặng chịu đựng và giàu lòng hi sinh. Những nhân vật trong truyện mang dáng dấp của tâm hồn nhạy cảm của ông, cũng như điểm nhìn của tác giả.

Hai đứa trẻ là một trong những tác phẩm tiêu biểu trong chùm truyện ngắn đặc sắc của ông, những hình ảnh chi tiết trong truyện giống như một dòng sông cuốn chúng ta vào đó, và cảm nhận được những gì đang xảy ra với câu chuyện của tác giả.mọi thứ diễn ra thật nhẹ nhàng mà cũng mãnh liệt xoáy sâu vào suy nghĩ và cách cảm nhận tác phẩm của từng độc giả.

Những con người xuất hiện trong tác phẩm mang một cuộc sống cơ cực nghèo khổ, cái nghèo bám lấy họ và họ không có lối thoát. Họ mong muốn có một cuộc sống sung túc , tuy không giàu có những làm sao cho cuộc sống mưu sinh đỡ vất vả.

Qua đây, Thạch Lam cho ta nhìn nhận những sự khó khăn vất vả mà những con người nơi đây đang phải chống chịu. Những chi tiết trong tác phẩm tuy là miêu tả về hiện thực nhưng lại không thiếu những chi tiết sống động, lãng mạn.

Mở đầu tác phẩm là hình ảnh chiều tà,hình ảnh xuất hiện trong hầu hết các tác phẩm, là chính khoảnh khắc mà khiến con người ta nhận ra nỗi buồn nhiều nhất. Những âm thanh quen thuộc, tiếng ếch nhái, tiếng muỗi vo ve, và khung cảnh xung quanh tác động đến tâm trạng của mỗi người.Cảnh mở đầu của tác phẩm chính là một buổi chiều tàn,bầu trời gồm những áng mây hồng, như được nhuộm một màu sắc đỏ đỏ mang một cảm giác ưu buồn và cô đơn.

Thông qua sự miêu tả của một ngày tàn của Thạch Lam, thì phần nào cũng giúp người đọc nhận ra đây là một buổi chiều buồn bã và chán nản. Thời gian bắt đầu chuyển động dần tới đêm, những hình ảnh chiều tàn và hình ảnh chợ chiều tàn hiện ra càng thể hiện sự nghèo khổ và hiu hắt ở nơi đây.

Có lẽ đây chính là hiện thực thời bấy giờ ở miền bắc nước ta. Mọi thứ dường như chông chênh, không điểm nhấn, không sức hút và dường như không có sự sống. Tất cả chỉ là những điều bình dị, gần gũi nhưng lại phảng phất nghèo đói. 

Những con người cần mẫn , luôn mong muốn cuộc sống của họ đầy đủ hơn,cuộc sống thật vất vả và đầy khổ cực bươn chải. Hình ảnh những con người xuất hiện trong “ Hai đứa trẻ” tuy xuất hiện không nhiều nhưng mang một nét riêng biệt,nổi bật lên đó là hình ảnh của cô gái Liên, dù còn nhỏ nhưng tâm hồn và suy nghĩ của cô thực sự như là một thiếu nữ.

Cuộc sống ở đây chìm ngập trong bóng tối và tẻ nhạt, họ sống cùng sự buồn chán và tuyệt vọng,đối với họ, họ đang sống cuộc sống tạm ,một cuộc sống tĩnh lặng và không biết ngày mai sẽ như thế nào. Sau khi chợ chiều tàn, mọi người đều đi về và tiếng ồn ào cũng mất, như dấu hiệu của sự tĩnh lặng của đêm tối bắt đầu. Những rác rưởi, vỏ bưởi và hình ảnh những đứa trẻ nhặt nhạnh những thứ còn sót lại chỉ là những thanh tre thanh nứa…

Đêm bắt đầu buông xuống, cuộc sống của một đêm ở phố huyện nghèo lại bắt đầu.Nhân vật Liên trong tác phẩm sửa soạn lại hàng trên chiếc chõng tre,mẹ con chị tí, sáng mò cua bắt ốc, tối lại mở thêm hàng nước để kiếm thêm thu nhập. Quán hàng phở cũng bắt đầu sửa soạn còn hai cha con nhà bác Xẩm thì chưa hát chưa kéo đàn vì vẫn chưa có khách nghe.

Đứa con thì nhoài ra nghịch đất cát ở bên ngoài. Mọi thứ thật đơn điệu, không có một chút niềm vui của họ, chắc có lẽ họ nghĩ và hy vọng rằng, hàng quán đắt khách kiếm thêm được tiền quả là một niềm vui một niềm hạnh phúc và mang lại một cuộc sống no đủ hơn. Hình ảnh cụ Thi điên đắm chìm vào men rượu, bước đi lảo đảo, cụ sống một cuộc sống k còn tự chủ của bản thân, có hay chăng cụ tìm đến rượu để quên lãng đi tất cả đau khổ và chìm vào đó để tìm thú vui của mình.

Những con người nơi phố Huyện này, họ sống, sinh ra và lớn lên ở nơi đây. Đối với họ thì không khí im lặng, sự cô đơn và buồn chán. Nhưng với chị em Liên thì có lẽ vẫn chưa quen với sự tẻ nhạt buồn chán nơi đây,bởi hoàn cảnh đưa đẩy, bố của chị em Liên thất nghiệp phải về phố huyện để mưu sinh. Hai chị em phải nhận thức ra được điều này và làm quen dần với cuộc sống nơi đây.

Hằng ngày chị em Liên và An, không những ai đứa trẻ này mà hầu hết tất cả những kiếp người nơi phố huyện điều trông chờ một thứ rất quan trọng vào môi buổi tối. Không gì khác, đó chính là thứ ánh sáng và âm thanh của đoàn tàu.

Thứ ánh sáng ấy cũng một phần soi đến phố Huyện và giúp cho khu phố trở nên có ánh sáng thêm một chút, không những thế còn có những thứ âm thanh cười nói của những người hành khách trên tàu làm cho không khí im lặng của khu phố huyện có một chút thay đổi ngoài những ánh sáng tẻ nhạt và không đủ sáng như thường ngày.

Những âm thanh trên đoàn tàu giúp cho chị em Liên và An gợi nhớ đến những tháng ngày ở Hà Nội, hai chị em được dẫn đi chơi,được sống một cuộc sống tươi đẹp ở chốn thành thị, ngươi đi qua lại tấp nập và được uống với những cốc nước xanh đỏ.

Ngoài ra, thứ ánh sáng và âm thanh của đoàn tàu ấy đã giúp cho những kiếp người nơi phố Huyện một phần nào đó thức tỉnh, họ dám mơ ước đến những cuộc sống ấm no và hạnh phúc, mong muốn một điều gì đó thật tốt đẹp và ý nghĩa hơn, muốn những gì mà họ khát khao và cháy bỏng bấy lai nay điều thành sự thật, chứ không phải là một thứ phù du mà chờ đợi mỏi mòn.

Những ước mơ của họ chỉ chợt lóe lên khi đoàn tàu chạy qua, cũng có khi có có ước mơ nhưng chỉ khi đoàn tàu chạy qua họ mới cảm thấy những mong muốn của họ mới trở nên lấp lánh và có hi vọng hơn.

Bức tranh phố huyện của chị em Liên khiến chúng ta liên tưởng đến cảnh phố chợ trong “Vợ nhặt” lấy cảm hứng từ nạn đói 1945. Trong bức tranh đó, Kim Lân đã mô tả hình ảnh người chết như ngả rạ, nằm ngổn ngang khắp chợ, những cái xác nằm còng queo chất đầy đường.

Tuy nhiên, trong cái khung cảnh chết chóc đó, nhân vật Tràng, bà cụ Tứ và Thị lại tỏa sáng với phẩm chất đẹp và tình yêu thương con người, trách nhiệm với gia đình. Bức tranh của Kim Lân cũng thể hiện sự giác ngộ lý tưởng và quyết tâm vùng lên đấu tranh của người dân lao động để thoát khỏi cảnh nghèo đói, áp bức và bóc lột.

Cuối tác phẩm, phố huyện được vẽ hiện lên với hình ảnh của cờ Việt Minh, là báo hiệu cho sự giải phóng và hy vọng của người dân. Như vậy, trong bức tranh phố huyện của Kim Lân, bên cạnh những cảnh nghèo khó, vẫn tồn tại những giá trị đạo đức và tình yêu thương con người.

Hai bức tranh phố huyện nhưng một cuộc đời người dân. Điểm nhìn chung của hai bức tranh ấy chính là đứng trên góc độ hiện thực của cuộc sống, số phận của người dân lao động bần cùng khổ hạnh của xã hội Việt nam xưa. Bức tranh ấy điều được vẽ nên qua lắng kính giàu tình yêu thương con người của từng tác giả.

Hai đứa trẻ, một tác phẩm lãng mạn, xúc động và đầy ý nghĩa. Những kiếp người nơi phố Huyện, họ luôn là những con người mang một cuộc sống đáng thương nhưng đầy sự khát khao và cháy bỏng nhưng thật sự, những điều mà khát khao cháy bỏng đo thực ra chỉ là sự mong manh và huyền ảo.

Qua tác phẩm “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam còn thể hiện sự khát khao to lớn của một đời người,một số phận nghèo khổ muốn vươn tới một cuộc sống tốt đẹp tuy còn khó khăn và lắm chật vật. Tài năng của Thạch Lam thông qua đó mà được bộc lộ,đặc biệt là sự tinh tế tròn tả cảnh và phân tích diễn biến tâm lí nhân vật khiến truyện đi vào lòng người một cách tự nhiên nhất.

Liên Hệ Hai Đứa Trẻ Với Gió Lạnh Đầu Mùa Hay Nhất

Cùng SCR.VN viết bài văn liên hệ mở rộng bài “Hai đứa trẻ” với “Gió lạnh đầu mùa” thật hay nhé!

Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” nằm trong tập truyện “Nắng trong vườn” là một trong những tác phẩm xuất sắc của Thạch Lam. Tác phẩm lấy đề tài về trẻ em qua đó phản ánh những nét đặc sắc trong cách khai thác, nắm bắt tâm lý trẻ thơ của Thạch Lam.

Cũng viết về đề tài này, Thạch Lam cũng có một số tác phẩm khác cùng thời. Liên hệ mở rộng bài “Hai đứa trẻ” với tác phẩm cùng đề tài là “Gió lạnh đầu mùa” để thấy những đặc sắc của tác giả trong cách khai thác những điểm chung của đề tài.

 “Hai đứa trẻ” được sáng tác trước cách mạng khi dòng văn hiện thực đã đạt được đỉnh cao với rất nhiều tác giả và tác phẩm để đời. Tìm cho mình một lối đi riêng, Thạch Lam vẫn có cách khai thác và cảm nhận mang màu sắc của riêng ông. Người ta nhớ nhiều đến tác phẩm của ông là những trang văn hiện thực nhưng lại giàu chất thơ, những câu chuyện như không có chuyện. “Hai đứa trẻ” hay “Gió lạnh đầu mùa” rồi đến “Dưới bóng hoàng lan” đều là những tác phẩm như thế.

Lấy bối cảnh ở một phố huyện nghèo nàn, xơ xác với những kiếp người tàn tạ, bức tranh hiện thực của làng quê Việt Nam hiện lên chân thực và sống động như những thước phim quay chậm. Hình ảnh thiên nhiên với những nét đặc tả như “Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào. Trong cửa hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo ve” gây cho người đọc những ấn tượng sâu đậm về khung cảnh tù túng, tàn tạ của cuộc sống nơi những con người dưới đáy xã hội.

Bên cạnh chợ tàn, ngày tàn là những con người tàn tạ. Không gian tẻ nhạt lặp đi lặp lại trong cái vô vị như một cái vòng luẩn quẩn của những người nơi phố chợ đìu hiu “Ngày chị đi mò cua bắt tép… để bán cho ai…”Chị em Liên ngày nào cũng ngồi trên chõng tre để quan sát chuyến tàu đêm – hoạt động nhộn nhịp cuối cùng trong ngày của chợ huyện.

Trông mong chuyến tàu đêm hai đứa trẻ khát khao điều gì? đó là một chút ánh sáng nhộn nhịp sẽ xua tan cái cuộc sống tẻ nhạt, buồn bã chốn này. Cả những người dân phố huyện cũng thế họ chờ đợi ánh sáng của chuyến tàu đêm đến. Và rồi khi luồng sáng quét qua nhanh để lại những đốm than đỏ bay trong đêm tối. Thứ ánh sáng thắp lên niềm tin còn rất mơ hồ nhưng cũng là điểm tựa trong hành trình hướng tới cuộc sống tốt đẹp hơn của những con người nơi đây.

Hai đứa trẻ và Gió lạnh đầu mùa cùng khai thác về đề tài trẻ em nông thôn trước cách mạng tháng 8, qua đó phản ánh cảm hứng nhân đạo của tác giả: đó là sự yêu thương, trân trọng với những kiếp người nghèo khổ trong xã hội, đặc biệt là tình yêu thương dành cho những đứa trẻ.

Tuy nhiên “Hai đứa trẻ” phản ánh cảnh chờ tàu mòn mỏi của hai đứa trẻ, qua đó thể hiện cuộc sống tù túng, mệt mỏi, le lói của người dân nơi phố huyện nghèo khổ. “Gió lạnh đầu mùa”lại gợi đến một câu chuyện trong một gia đình, xóm phố với những mối quan hệ đầy tính nhân văn. Qua đó thể hiện vẻ đẹp tình người bàng bạc xua tan cái giá lạnh của mùa đông đầy khắc nghiệt.

Mỗi câu chuyện mang đến cho người đọc những bài học thấm thía về cuộc sống, cuộc đời. Cũng viết về đề tài trẻ em nhưng triển khai không bị lặp lại mà luôn có sự đổi mới để phù hợp với nhu cầu của người đọc.

Như vậy khi mở rộng liên hệ bài “Hai đứa trẻ” với “Gió lạnh đầu mùa” chúng ta thấy những cố gắng tìm tòi, khai thác và khám phá chiều sâu tâm lý trẻ em của tác giả. Dù khác nhau nhưng cả hai tác phẩm đều thể hiện ngòi bút đầy thực lực của nhà văn Thạch Lam. 

Tham khảo 🌸 Sơ Đồ Tư Duy Cảnh Đợi Tàu, Nhân Vật Liên 🌸 đặc sắc!

Dẫn Chứng Bài Hai Đứa Trẻ Điểm Cao

Cuối cùng là dẫn chứng liên hệ bài “Hai đứa trẻ” đạt điểm cao, bạn xem qua nhé!

Nội dung bao trùm của truyện Hai đứa trẻ là tấm lòng “êm mát và sâu kín” của Thạch Lam đối với con người và quê hương, ở đây, nhà văn vừa thể hiện niềm xót thương đối với những kiếp người nghèo khổ sống lam lũ, quẩn quanh trong xã hội cũ vừa bộc lộ thái độ đồng cảnh, trân trọng đối với khát vọng tuy rất mơ hồ của họ. Qua truyện Hai đứa trẻ, người đọc còn cảm nhận được phần nào tình cảm gắn bó với quê hương đất nước của Thạch Lam.

Đọc truyện Hai đứa trẻ, trước hết chúng ta có ấn tượng về cuộc sống lụi tàn, tù túng của những kiếp người sống nghèo đói, quẩn quanh, không ánh sáng, không tương lai trong xã hội cũ.

Câu chuyện mở đầu bằng những câu văn êm dịu, với những âm thanh và hình ảnh báo hiệu một ngày tàn: “Tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ; từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều. Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời.

Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ra ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào”. Đây là một trong nhiều bằng chứng ở tác phẩm này cho thấy: “Văn của Thạch Lam thường hiếm khi thừa lời, thừa chữ, không uốn éo làm duyên một cách cầu kì kiểu cách, nhưng vừa giàu hình ảnh và nhạc điệu, lại vừa uyển chuyển, tinh tế (Vũ Ngọc Phan). Nó không những cho người đọc nhìn thấy cảnh vật mà điều quan trọng hơn là khơi gợi ở họ tình cảm, xúc cảm đối với cảnh vật. Hơn nữa, cảnh vật lại phần nhiều đều rất gần gũi, bình dị và mang cốt cách Việt Nam.

Bên cạnh cảnh ngày tàn, chợ tàn là những kiếp người tàn tạ. Chị Tí ban ngày mò cua, bắt tép, tối đến dọn hàng nước chè tươi, thắp một ngọn đèn dầu leo lét. Hàng vắng khách, tuy chiều nào chị cũng dọn từ chập tối cho đến đêm, nhưng “chả kiếm được bao nhiêu”. Bác Xẩm ngồi trên manh chiếu, cái thau để trước mặt, “góp chuyện bằng mấy tiếng đàn bầu bật trong yên lặng.

Thằng con bò ra đất, ngoài manh chiếu, nghịch nhặt những rác bẩn vùi trong các bên đường”. Bà cụ Thi hơi điên lại nghiện rượu, có tiếng cười khanh khách, ghê sợ, sau khi uống một hơi cạn cút rượu ti, “cụ đi lần vào bóng tối”. Chị em Liên phải thức để trông “một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu, mẹ Liên dọn ngay từ khi cả nhà bỏ Hà Nội về quê ở, vì thầy Liên mất việc”. Hàng “bán chẳng ăn thua gì”, Liên thương mấy đứa trẻ nghèo, nhưng “không có tiền để mà cho chúng nó”.

Cảnh Liên xếp hàng vào hòm, cách hai chị em tính tiền, niềm nuối tiếc cái thời còn ở Hà Nội nhiều khi “được đi chơi Bờ Hồ uống những cốc nước lạnh xanh đỏ”, cái ý nghĩ phở bác Siêu là “một thứ quà xa xỉ” không bao giờ chị em Liên có thể mua được… khiến chúng ta có thể hình dung ra gia cảnh khó khăn và mức sống eo hẹp của gia đình Liên. Thế nhưng, có lẽ dẫu sao, gia đình hai đứa trẻ cũng còn có phần khấm khá hơn gia đình chị Tí và bác Xẩm, vì còn có “một gian hàng bé thuê lọi của bà lão móm, ngăn ra bằng một tấm phên nứa dán giấy nhật trình”…

Như vậy, từ gia đình chị Tí, gia đình bác Xẩm đến bà cụ Thi và chị em Liên, mỗi người một cảnh, nhưng họ đều có chung sự buồn chán, mỏi mòn… Điều đáng nói hơn là tất cả những nhân vật bé nhỏ này đã hiện ra trong cái nhìn xót thương của Thạch Lam, được thể hiện qua lời văn và những chi tiết dường như rất khách quan.

Khi trời tối hẳn, cả phố huyện dường như chỉ thu vào ngọn đèn của chị Tí. Ngoài ngọn đèn này ra, “thứ bóng tối nhẫn nại uất ức đời thôn quê” (Thế Lữ) làm chủ tất cả. Không phải ngẫu nhiên trong tác phẩm, nhà văn nhắc đi, nhắc lại chi tiết ngọn đèn chị Tí tới 7 lần. Kết thúc truyện, hình ảnh gây ấn tượng, day dứt cuối cùng, đi vào giấc ngủ của Liên cũng vẫn là “chiếc đèn con của chị Tí chiếu sáng một vùng đất nhỏ”.

Phải chăng, hình ảnh này chính là biểu tượng của những kiếp người nghèo khổ, lam lũ sống vật vờ, leo lét trong màn đêm của xã hội thực dân nửa phong kiến? Nhịp sống ở phố huyện này cứ lặp đi, lặp lại một cách đơn điệu, quẩn quanh và tẻ nhạt.

Ngày qua ngày, chiều nào chị Tí cũng dọn hàng “từ chập tối cho đến đêm”, tối nào bác Siêu bán phở cũng nhóm lửa, gia đình bác Xẩm cũng chờ khách, người nhà cụ Thừa, cụ Lục cũng đi gọi người đánh tổ tôm. Chị em Liên tối nào cũng tính tiền hàng, “cũng phải ngồi trên chiếc chõng tre dưới gốc cây bàng” và “ngày nào, cứ chập tối, mẹ Liên lại tạo ra thăm hàng một lần”…

Như vậy, “chừng ấy người trong bóng tối” ngày này qua ngày khác sống quẩn quanh, tù túng trong cái “ao đời bằng phẳng” (Xuân Diệu). Hình ảnh những con người này khiến ta nhớ đến một số câu thơ trong bài Quẩn quanh của Huy Cận:

Quanh quẩn mãi với vài ba dáng điệu,
Tới hay lui cũng ngần ấy mặt người.
Vì quá thân nên quá đỗi buồn cười,
Môi nhắc lại cũng ngần ấy chuyện.

Hãy nhớ đến cuộc sống đơn điệu, nhạt nhẽo “cơm mai rồi lại cơm chiều, rút cục mỗi ngày hai bữa cơm” của những nhân vật như Quỳnh và Giao trong thiên truyện ý tưởng Tỏa nhị Kiều của Xuân Diệu. Tuy thế, những người dân phố huyện vẫn hy vọng cho dù hy vọng đó rất mơ hồ: “một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ”.

Chính sự mong đợi mơ hồ này dường như càng tô đậm thêm tình cảnh tội nghiệp của những nhân vật trong truyện. Họ sống đấy, nhưng đâu biết ngày mai số phận mình sẽ ra sao! Một niềm xót thương da diết của Thạch Lam thể hiện kín đáo ngay trong cách dựng người: dựng cảnh và cái giọng văn đều đều, chậm buồn của ông.

Đọc thêm 🌸 Liên Hệ Hồn Trương Ba Da Hàng Thịt 🌸 thú vị!

Viết một bình luận