Liên Hệ Mở Rộng Bài Bếp Lửa ❤️ 32+ Mẫu Ngắn Hay Nhất ✅ Xem Ngay Văn Mẫu Liên Hệ Mở Rộng Bài Thơ Bếp Lửa Đặc Sắc.
Cách Liên Hệ Bài Bếp Lửa Của Bằng Việt
Bài viết này hướng dẫn cho bạn cách làm bài liên hệ mở rộng bài thơ “Bếp lửa” đơn giản, bạn có thể áp dụng phương pháp này với các tác phẩm khác!
a. Định nghĩa:
- Liên hệ văn học là dạng bài dùng các đặc điểm một đối tượng để làm nổi bật đặc điểm của một đối tượng khác (có những nét tương đồng).
- Bạn phải nắm vững kiến thức thì mới có thể phân tích so sánh được chúng với nhau.
- Trong văn học, khi đi phân tích, bình giảng những đoạn thơ, đoạn văn, chi tiết nghệ thuật, nhân vật, hành động kịch,… chúng ta đều có thể sử dụng thao tác liên hệ để tạo ra chiều sâu cho tác phẩm.
b. Phương pháp:
- Bước 1: Phân tích đề.
- Thường thì đề bài sẽ yêu cầu bạn phân tích 1 khía cạnh trong bài thơ “bếp lửa” sau đó liên hệ khía cạnh đó ở các bài thơ/bài văn có nội dung tương tự. (Ví dụ: Phân tích tình cảm bà cháu trong bài thơ “bếp lửa”, từ đó liên hệ tình cảm bà cháu trong “dưới bóng hoàng lan”)
- Bước 2: Viết bài.
- Mở bài: Giới thiệu tác giả Bằng Việt và bài thơ chính “Bếp lửa”
- Thân bài:
- Phân tích bài thơ “bếp lửa”, tập trung phân tích, làm nổi bật vấn đề mà đề bài yêu cầu.
- Liên hệ: Giới thiệu vào bài văn/đoạn văn/câu thơ cần liên hệ.
- Sau đó phân tích chúng để so sánh với bài thơ chính “Bếp lửa”.
- Kết bài: Thông qua bài thơ được liên hệ bạn đánh giá lại nội dung, ý nghĩa của bài “Bếp lửa”.
Bếp Lửa Liên Hệ Với Bài Nào
Bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt có thể liên hệ mở rộng với các tác phẩm như:
- Liên hệ với tình yêu đất nước, yêu quê hương trong bài thơ Quê Hương của Nguyễn Trung Quân.
- Liên hệ với hình ảnh bếp lửa, đại diện cho sự gắn kết như gia đình trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật.
- Liên hệ với hình ảnh người bà tần tảo sớm hôm trong Tiếng gà trưa của Xuân Quỳnh.
- Liên hệ với hình ảnh người bà, cảm giác khi được gặp lại bà trong ngôi nhà, khu vườn tuổi thơ trong bài “Dưới bóng hoàng lan” của Thạch Lam.
- Liên hệ với tình cảm gia đình trong bài “Nói với con” của Y Phương
- Liên hệ với tình cảm gia đình trong bài “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng
Xem ngay mẫu 🌸 Đóng Vai Người Bà Kể Lại Chuyện Bếp Lửa 🌸 hay nhất!
Những Mẫu Liên Hệ Mở Rộng Bài Bếp Lửa Hay Nhất
Tham khảo những bài văn mẫu liên hệ mở rộng bài thơ “Bếp lửa” hay nhất để biết cách làm dạng đề này nhé!
Liên Hệ Bếp Lửa Ngắn Gọn
Dưới đây là mẫu bài văn liên hệ mở rộng bài thơ “Bếp lửa” ngắn gọn mà bạn nên dành thời gian tham khảo!
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp ưu nồng đượm”
Không biết vì lẽ gì hai câu thơ đó cứ theo tôi mãi trong suốt năm tháng xa nhà của mình. Mỗi lần nhớ về bà, nhớ về nhà tôi lại nhớ đến nó – nhớ đến “Bếp lửa” của Bằng Việt.
Bài thơ được sáng tác vào năm 1963 khi Bằng Việt đang đi du học ở nước ngoài. Đây là một trong những sáng tác đầu tay của ông nhưng ngay từ khi vừa mới ra đời cho đến nay “Bếp lửa” vẫn luôn có một vị trí riêng trong nền thi ca Việt Nam. Bài thơ được in trong tập “Hương cây – Bếp lửa” vào năm 1968. Đây cũng được xem như là một trong những thi phẩm hay nhất về tình bà cháu trong nền thơ ca hiện đại Việt Nam.
Bố cục bài thơ đi theo mạch cảm xúc từ hồi tưởng đến hiện tại, từ kỷ niệm đến những suy ngẫm sâu xa. Bài thơ được mở đầu bằng hình ảnh bếp lửa, gợi về những hồi tưởng trong quá khứ để từ đó người cháu trưởng thành hơn, biết suy ngẫm hơn, thấu hiểu bà hơn để rồi gửi nỗi nhớ mong được gặp bà trong tình cảnh xa cách.
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”
Ba tiếng “một bếp lửa” được lặp đi lặp lại ngay ở đầu bài thơ bởi lẽ hình ảnh này đã quá quen thuộc với làng quê Việt Nam, hơn nữa những kỷ niệm về bà cũng gắn liền với nó. Nhắc đến bếp lửa là nhắc đến bà, nhắc đến bếp lửa sẽ gợi cho tác giả những kỷ niệm về một người bà tần tảo sớm hôm bên căn bếp nhỏ. Bởi vậy, bếp lửa có thể coi như là khơi nguồn cho mạch cảm xúc của nhà thơ về bà của mình.
Bốn khổ thơ tiếp theo lần lượt là những ký ức về năm tháng cháu được sống bên bà. Kỷ niệm về bà cứ thế theo cháu từng ngày, gắn liền với quá trình trưởng thành của cháu. Những ký ức về bà lớn dần, lớn dần lan tỏa sang cả nỗi nhớ làng quê, nhớ đất nước:
“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lũi
Chiến tranh đã gây ra bao mất mát, đau thương nhưng không thể nào xóa nhòa được tình làng, nghĩa xóm. Trong những tháng ngày xa quê những ký ức về những người làng xóm đáng kính đã cùng hai bà cháu đi qua hết những năm tháng chiến tranh đang lần lượt hiện về trong tâm trí của cháu.
Lời dặn dò “Mày viết thư chớ kể này kể nọ/ Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!” cho thấy hình ảnh của một người phụ nữ tần tảo, giàu tình thương. Dẫu trong hoàn cảnh nào bà vẫn kiên cường để làm điểm tựa tinh thần cho người cháu, làm hậu phương vững chắc cho người con chiến đấu ngoài chiến trường.
Từ những hình ảnh bếp lửa cụ thể, gắn liền với cuộc sống, lời thơ chuyển sang cái trừu tượng của “ngọn lửa” với những tầng nghĩa mới:
“Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn,
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”.
Ngọn lửa ở đây là ngọn lửa của tình yêu thương, của sức sống mãnh liệt, của tình yêu thương thầm lặng, của niềm tin vào tương lai đất nước. Sau bao nhiêu vất vả, khổ cực bà vừa là người giữ lửa vừa là người truyền lửa cho cháu. Bà “nhóm niềm yêu thương” trong cháu, truyền cho cháu tình yêu thương, cho cháu hiểu thế nào là tình làng nghĩa xóm, khơi dậy trong cháu biết bao điều tốt đẹp.
Nhà văn Thạch Lam cũng đã có một tác phẩm làm lay động lòng người với tình cảm bà cháu trong “Dưới bóng hoàng lan”. Truyện ngắn “Dưới bóng hoàng lan” viết về nhân vật Thanh thông qua một lần trở về quê hương, thăm bà, gặp lại những người anh luôn yêu thương, tôn trọng.
Truyện ngắn còn là một khung cảnh đơn sơ, giản dị nhưng đầy chất thơ, thấm đượm hương vị của tình người. Thanh vốn mồ côi cha mẹ từ nhỏ, người thân yêu duy nhất của Thanh đó là bà, tuổi thơ của Thanh là một cuộc sống vất vả nhưng luôn tràn đầy hơi ấm, tình yêu, sự chở che của người bà. Do đó, với chàng thanh niên ấy mà nói, người bà vừa là người cha, người mẹ, cũng là người thân duy nhất của anh.
Người bà quan tâm từng việc nhỏ nhặt nhất của người cháu. Đối với Thanh khi ở bên bà lúc nào cũng có cảm giác được che chở, được quan tâm thì đối với bà, người cháu dù có lớn khôn đến đâu thì với bà lúc nào cũng là một đứa nhỏ cần được yêu thương, chăm sóc: “ …Ở đấy, bà chàng lúc nào cũng sẵn sàng chờ đợi để mến yêu chàng”. Tình yêu thương của bà giản dị nhưng thật thiêng liêng, cao quý biết bao!
Khổ thơ cuối của “Bếp lửa” là lời tâm sự, bộc bạch của đứa cháu đã lớn khôn. Dù khoảng cách có xa xôi bao nhiêu, dù cho “khói trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả” “Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở/ – Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?…”. Cháu luôn nhớ về bà bằng tất cả tình yêu thương, sự biết ơn và nỗi nhớ của mình.
Không phải ngẫu nhiên mà ngay từ khi vừa mới ra đời cho đến tận hôm nay “Bếp lửa” vẫn luôn có chỗ đứng riêng của nó. Bằng những hình ảnh chân thực cùng tất cả tình cảm chân thành Bằng Việt đã thật sự chạm đến trái tim người đọc qua từng câu, từng chữ của mình.
Gợi ý đề tài 🌸 Tưởng Tượng Gặp Gỡ Người Cháu Trong Bài Bếp Lửa 🌸 hấp dẫn nhất!
Liên Hệ Mở Rộng Bếp Lửa Đặc Sắc
Gửi tặng đến các bạn mẫu bài văn liên hệ mở rộng bài thơ “Bếp lửa” đặc sắc nhất!
Người nghệ sĩ đến với cuộc sống từ nhiều nẻo đường, trên muôn vàn cung bậc phong phú nhưng tiêu điểm mà các văn nghệ sĩ hướng đến vẫn là con người. Lấy hiện thực cuộc sống làm cảm hứng sáng tạo, soi rọi hiện thực qua lăng kính tâm hồn của mình, người nghệ sĩ kí thác vào tác phẩm một phần cuộc sống của chính mình. Qua các tác phẩm “Ánh trăng” (Nguyễn Duy), “Làng” (Kim Lân), “Bếp lửa” (Bằng Việt) và “Những ngôi sao xa xôi” (Lê Minh Khuê), ta thấy trong đó một nỗi nhớ âm thầm nhưng dai dẳng, có sức ám ảnh lớn.
“Hành trình của nỗi nhớ” là một hành trình có khởi điểm (bắt đầu từ những điều giản dị, thân quen), có quá trình (lúc đầy lúc vơi, lúc trào dâng mạnh mẽ, lúc lặng lẽ dịu êm,…), có giá trị, ý nghĩa sâu sắc (khiến con người nhận ra bao điều; khiến con người yêu thêm, hiểu thêm những giá trị cuộc sống để thấy đời mình ý nghĩa hơn,…). Đây là một nhan đề mang nhiều sức gợi, tạo được sự đồng cảm ở người đọc.
Văn học phản ánh hiện thực mà con người là trung tâm của hiện thực nên con người sẽ là đối tượng hướng tới của văn học. Khi viết về con người, văn học không dừng lại ở việc miêu tả vẻ bề ngoài mà chú ý đến đời sống tình cảm với nhiều biểu hiện phong phú, sinh động. Một trong những tình cảm sâu sắc, mang nhiều ý nghĩa chính là nỗi nhớ.
Văn học chân chính phải có khả năng lay động tâm hồn và tác động đến nhận thức của con người. Chính vì vậy, nỗi nhớ được nhắc đến trong văn học phải có chiều sâu, có quá trình, có giá trị nhân sinh tích cực, đem đến nhiều sự vỡ lẽ về nhận thức cho người đọc.
Nỗi nhớ trong tác phẩm không phải là một khoảnh khắc, một phút bất chợt mà là cả quá trình với nhiều diễn tiến, kết quả của quá trình ấy là những tác động tích cực đến tâm hồn con người.
Trong bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt, người cháu đã nhớ về những tháng ngày vất vả, gian khổ, gắn bó cùng bà bên bếp lửa tuổi thơ. Nỗi nhớ ấy đã thành kỉ niệm ấm lòng, thành niềm tin thiêng liêng, kì diệu nâng bước cháu trên suốt hành trình dài rộng của cuộc đời.
Trong bài thơ Ánh trăng, Nguyễn Duy đã tái hiện những kỉ niệm sâu sắc với vầng trăng từ hồi nhỏ cho đến hồi chiến tranh ở rừng. Cũng có lúc vầng trăng bị nhân vật trữ tình lãng quên nhưng rồi vầng trăng ấy lại trở về vẹn nguyên trong nỗi nhớ khiến con người thấm thía cảm xúc ân tình với quá khứ gian lao và biết rút ra bài học về lẽ sống chung thủy cho mình.
Hành trình của nỗi nhớ cũng chính là hành trình nhân vật tự nhận thức, hành trình người đọc xúc động, suy ngẫm và khám phá ra nhiều giá trị trong đời sống. Đây cũng chính là điều làm nên chiều sâu nội dung tư tưởng cho tác phẩm.
Muốn tái hiện lại hành trình của nỗi nhớ, nhà văn cần có vốn sống phong phú, tình cảm dạt dào và tài năng nghệ thuật. Muốn cảm nhận được hành trình của nỗi nhớ trong tác phẩm, người đọc phải có trình độ thưởng thức văn học và trái tim biết rung cảm.
Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó. Nhưng là tư tưởng đã được run lên ở các cung bậc và tình cảm và tình cảm chứ không phải là tư tưởng nằm thẳng đơ trên trang giấy. Có thể nói, tình cảm của người viết là khâu đầu tiên và là khâu sau cùng trong quá trình xây dựng một tác phẩm như thế nào. Niềm vui của người nghệ sĩ chân chính là niềm vui của người dẫn đường đến xứ sở cái đẹp. Và đó cũng là sợi chỉ đỏ kết nối giữa người sáng tạo và người đọc một cách bền vững.
Liên Hệ Thực Tế Bài Bếp Lửa Đơn Giản
Gợi ý cho bạn bài văn mẫu liên hệ mở rộng bài thơ “Bếp lửa” với các tác phẩm khác, xem ngay bạn nhé!
Bếp Lửa của Bằng Việt khiến cho nhiều người đọc đều cảm thấy ngậm ngùi và cảm động, nhớ lại những hình ảnh đẹp mà tác giả gợi mở. Trần Quang Quý đã từng nhận xét rằng: “Chất thơ hào hoa mà đằm thắm, tinh xảo mà hồn nhiên, hào sảng mà tươi tắn, tươi mới mà quyến rũ, ấm cúng và trí tuệ” chính là nguồn nhiệt năng tỏa sáng từ “Bếp lửa” đến với những trang thơ ngày này của Bằng Việt.”
Bếp lửa là hình ảnh thân thuộc của rất nhiều gia đình Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh hình ảnh của cuộc sống gia đình, nhà thơ cũng chứa đựng những tâm tư, tình cảm và hoài niệm sâu sắc của mình. Bài thơ thể hiện nỗi nhớ nhà, nỗi nhớ quê hương, khi nhà thơ ở đất khách quê người.
Bài thơ cho ta thấy được nỗi nhớ về ngọn lửa trong bếp, là nơi gắn bó của người phụ nữ, là nơi đun nấu thức ăn, đem lại niềm vui, hạnh phúc cho gia đình. Nổi bật trên đó có lẽ là hình ảnh người bà tần tảo nhưng lại mạnh mẽ, một tay nuôi lớn cháu trai trưởng thành.
Qua đây, ta cũng có thể thấy được một người bà vô cùng quen thuộc với trong thơ của Xuân Quỳnh. Người bà loay hoay bận rộng với đàn gà, chắt chiu từng quả trứng trong bài thơ Tiếng gà trưa. Có thể nói, dù bao khó khăn chồng chất, nhưng với cả hai vị tác giả đại tài, hình ảnh quê hương và người bà gắn với những kí ức tuổi thơ tốt đẹp mà họ muốn quay về.
Bài thơ cũng gợi nhắc lại tình cảm quê hương, nơi đất khách quê người, nơi mà nhà thơ mang trong lòng niềm nhớ, tình thương mãi không phai. Nếu bạn để ý sâu hơn, có thể thấy rằng trong bài thơ, còn tình cảm với quê hương đất nước được tác giả nhắc rất nhiều. Đó là hình ảnh căm ghét bọn quân thù, hình ảnh phương xa nhưng vẫn nhớ về quê nhà.
Tình yêu đất nước và quê hương đó có thể ta sẽ thấy trong nhiều tác phẩm khác nhau, đặc biệt nhất chính là Quê Hương của Nguyễn Trung Quân. Từ những hình ảnh vô cùng bình dị, tác giả khẳng định tầm quan trọng của cội nguồn cũng như tình yêu quê hương, đất nước.
“Bếp Lửa” là một bài thơ đẹp, gợi lên nhiều cảm xúc và tư tưởng sâu sắc về tình cảm gia đình, quê hương và giá trị truyền thống. Thông qua đó, ta cũng dễ thấy được những hình ảnh và tình cảm thường được xuất hiện trong các tác phẩm xuất sắc của Việt Nam.
Học cách 🌸 Đóng Vai Người Cháu Kể Lại Câu Chuyện Bếp Lửa 🌸 ngắn gọn!
Liên Hệ Bếp Lửa Với Tiếng Gà Trưa Nâng Cao
Tham khảo bài văn liên hệ mở rộng bài thơ “Bếp lửa” với bài “Tiếng gà trưa” để làm rõ hình ảnh người bà tần tảo với chúng tôi nhé!
“Bếp Lửa” là một bài thơ của nhà thơ Bằng Việt, một nhà thơ nổi tiếng của nền văn học Việt Nam. Bài thơ này được viết trong giai đoạn ẩn dụ và tượng trưng đặc trưng của thơ ca hiện đại, với một phong cách sắc sảo, đậm chất hình ảnh và gợi cảm xúc. Từ những hình ảnh và cảm xúc tác giả muốn thể hiện, ta cũng có thể nhìn được một số bài thơ quen thuộc khác.
“Bếp Lửa” là một bài thơ về gia đình, về một căn nhà với ngọn lửa trong bếp, đại diện cho nơi ấm cúng và an toàn của gia đình. Nhà thơ đã dùng các hình ảnh sinh động để miêu tả cảnh nhà bếp với lửa bập bùng ấm cúng và hài hòa. Cùng với hình ảnh bếp lửa ấy, trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Phạm Tiến Duật cũng sử dụng hình ảnh bếp lửa Hoàng Cầm:
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Những người lính cũng nhờ quây quần bên bếp lửa, khiến cho người đọc thấy được sự khăng khít và đoàn kết như những người cùng một gia đình.
Hình ảnh người bà thân thuộc hiện lên trong Bếp lửa, là hình ảnh người bà gắn bó và yêu thương trong suốt quá trình trưởng thành của tác giả. Bà được miêu tả như một người phụ nữ đang chờ đợi bếp lửa chờn vờn sương sớm, với tình yêu và lòng nồng đượm dành cho ngọn lửa này.
Bà đã trải qua những thời gian đói nghèo, khi cha đi đánh xe, mẹ cùng cha công tác bận rộn không có thời gian về nhà. Nhưng ngay cả trong hoàn cảnh khó khăn, bà vẫn dành thời gian chăm sóc cháu, dạy dỗ, định hướng cho tương lai của cháu. Hình ảnh đó quen thuộc biết bao, đến nỗi khi đi xa, nhìn thấy chỉ một ngọn khói tàu cũng nhớ đến bà nơi quê xứ.
Còn Xuân Quỳnh, hình ảnh người bà thân yêu lại hiện lên qua những tiếng gà văng vẳng trong Tiếng gà trưa:
Tiếng gà trưa
Có tiếng bà vẫn mắng:
– Gà đẻ mà mày nhìn
Rồi sau này lang mặt!
Trong năm khổ thơ giữa, tiếng gà trưa đã gợi nhớ bao kỉ niệm sâu sắc một thời thơ bé sống trong tình yêu thương của bà. Quên sao được lời mắng yêu chân thật, giản dị mà chan chứa bao tình thương của bà. Những kỉ niệm rất đỗi đời thường, bình dị mà sâu sắc, chân thật.
Cháu chiến đấu hôm nay
Vì lòng yêu Tổ quốc
Vì xóm làng thân thuộc
Bà ơi, cũng vì bà
Vì tiếng gà cục tác
Ổ trứng hồng tuổi thơ.
Tác giả đã điệp từ “vì” để nhấn mạnh nguyên nhân khiến người chiến sĩ ra đi chiến đấu. Không phải bắt nguồn từ những nguyên nhân to lớn nào khác mà chính là vì bà, nơi quê hương thân thuộc có tiếng gà cục tác, ổ trứng hồng tuổi thơ.
“Bà” – Một tiếng gọi bình dị mà chan chứa bao tình cảm yêu thương. Hình ảnh người bà thân quen trong cuộc sống, hiền hậu ôn tồn chỉ bảo cho con cháu nhân đạo và lẽ đời. Người bà luôn yêu thương, quan tâm và lo lắng cho những đứa cháu nghịch ngợm….
Có thể nói, thông qua hình ảnh người bà trong cả hai tác phẩm, ta đều thấy được đó chính là đại diện của người phụ nữ Việt Nam khi xưa. Người bà được miêu tả như một người phụ nữ đơn giản, chân thật, với những đặc trưng văn hóa truyền thống của dân tộc, như sự hiền hậu, chất phác và những giá trị gia đình.
“Bếp Lửa” là một bài thơ đơn giản nhưng đầy tâm hồn, gợi lên nhiều cảm xúc và suy ngẫm sâu sắc về cuộc sống gia đình, quê hương, tình cảm thân thương và giá trị truyền thống. Bài thơ thể hiện tình yêu và lưu luyến của tác giả đối với nơi gắn bó của người phụ nữ trong gia đình, nơi mà tình thân được nuôi dưỡng, đem lại hạnh phúc và ấm áp.
Tổng hợp văn mẫu🌸 Phân Tích Bài Thơ Bếp Lửa Của Bằng Việt 🌸 đặc sắc!
Liên Hệ Bếp Lửa Với Ánh Trăng Sáng Tạo
Nếu vẫn chưa biết cách liên hệ mở rộng bài thơ “Bếp lửa” với bài “Ánh trăng”, bạn nên dành thời gian xem bài mẫu sau:
“Đừng đánh mất quá khứ vì với quá khứ, người ta xây dựng tương lai” Thật vậy, “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “Uống nước nhớ nguồn” đó là truyền thống lâu đời của con người Việt Nam. Truyền thống ấy đã được nhắc đến rất nhiều trong các tác phẩm văn học từ bao đời nay.
Nổi bật là hai bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy và “Bếp lửa” của Bằng Việt. Qua các tác phẩm, các tác giả đã kín đáo bộc lộ những suy nghĩ, những chiêm nghiệm về một lẽ sống ân nghĩa thuỷ chung cao quí trong cuộc đời mỗi con người.
Bằng Việt và Nguyễn Duy đều đã từng sống, trải qua những năm tháng khó khăn, thiếu thốn, khốc liệt của chiến tranh và được cưu mang, đùm bọc,sẻ chia… nên khi viết những tác phẩm này, hai nhà thơ đã được hưởng cuộc sống hoà bình, ấm no, hiện đại.
Cả 2 tác phẩm đều gợi nhắc đạo lí về lòng biết ơn, lối sống ân nghĩa, thuỷ chung đối với mỗi người.Dù là lòng thương nhớ, biết ơn bà hay ân tình với nhân dân, đất nước thì đều có chung một nét đẹp nhân văn – đạo lí uống nước nhớ nguồn.
Nét đẹp ân nghĩa, thuỷ chung trong bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt đó là tình cảm của người cháu đối với bà khi đã trưởng thành, xa nhà. Nơi đất khách nhưng người cháu vẫn đau đáu nhớ về bà, nhớ về những năm tháng tuổi thơ xa cách cha mẹ, gắn bó với bà. Những năm tháng đói khổ được bà chăm sóc.
Cháu nhớ bà, xót xa, thương cảm thấu hiểu cuộc đời của bà cơ cực, gian nan mà giàu đức hi sinh. Nhớ về những kỉ niệm thời thơ ấu bên bà: Bà chăm sóc, nuôi dưỡng, dạy dỗ cháu. Cuộc sống khó khăn, cuộc đời nhiều gian khổ nhưng tấm lòng bà vẫn bền bỉ, mênh mông, giàu đức hi sinh.
Hình ảnh “bếp lửa” bình dị, thân thuộc nhưng cũng là hình ảnh kỉ niệm tuổi thơ, gian khó nhọc nhằn, ấm áp tình bà cháu, xóm làng. Lớn hơn, “bếp lửa” trong bài thơ chính là hình ảnh quê hương, cội nguồn – nỗi nhớ trong lòng người xa quê. Người cháu không nguôi nhớ về bà, nhớ về quê hương cội nguộn.
Không thể không nhắc đến nét đẹp ân nghĩa thủy chung trong bài thơ “Ánh trăng”. Trong bài thơ này, truyền thống ân nghĩa, thuỷ chung được thể hiện qua lời tâm tình của nhân vật trữ tình. Gợi nhớ kỉ niệm tuổi thơ đẹp đẽ gắn bó với thiên nhiên, quê hương. Trân trọng những sẻ chia trong những năm tháng gian lao, vất vả ở những năm tháng chiến tranh.
Ánh trăng là hình ảnh của thiên nhiên, là người bạn tri kỉ là biểu tượng cho quá khứ nghĩa tình, vẻ đẹp vĩnh hằng của cuộc sống. Cũng giống như hình ảnh “bếp lửa”, “ánh trăng” nhắc nhở, thức tỉnh con người lối sống ân tình, ân nghĩa, đừng bao giờ lãng quên quá khứ.
Mỗi bài thơ là một hình ảnh, một mạch cảm xúc nhưng đều sâu lắng, thiết tha. Cả hai bài thơ đều khẳng định: hãy sống ân tình, thuỷ chung với quê hương, với quá khứ, với lịch sử và nhân dân. Chẳng ai hạnh phúc nếu không biết trân trọng, tri ân và chung thuỷ với quá khứ.
Ánh trăng” của Nguyễn Duy, “Bếp lửa” của Bằng Việt gợi lại bao suy nghĩ , chiêm nghiệm về một lẽ sống ân nghĩa thủy chung cao quý trong cuộc đời. Có bao giờ ta tự hỏi tại sao cũng chỉ là những hình ảnh quen thuộc thôi mà con người lại có thể nhìn thấy bao điều? Nó níu giữ con người khỏi bị trôi trượt đi bởi những lo toan tất bật hằng ngày, nó bảo vệ con người khỏi những cám dỗ tầm thường. Và trên hết, nó luôn hướng con người đến những giá trị bền vững của cuộc sống.
Đọc thêm 🌸 Phân Tích Khổ 1 Bếp Lửa 🌸 sáng tạo!
Liên Hệ Bếp Lửa Với Nói Với Con Ý Nghĩa
Mời bạn đọc xem ngay văn mẫu liên hệ mở rộng bài thơ “Bếp lửa” với bài “Nói với con” ý nghĩa ở ngay bên dưới:
Gia đình là tế bào cơ bản của xã hội, là nơi những người có quan hệ huyết thống và gắn bó sâu sắc sinh sống với nhau. Trong cuộc sống đó, tình yêu thương đã gắn kết họ lại với nhau, gieo mầm nơi con người những tình cảm tốt đẹp, những mong muốn cao thượng để mọi người không chỉ sống hạnh phúc với nhau mà còn với người khác, với cuộc đời.
Trong hai bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt và Nói với con của Y Phương đã có những đoạn nói lên được những phẩm chất tốt đẹp mà người bà đã nhóm lên trong lòng cháu và niềm mong muốn của người cha đối với đứa con.
Bằng Việt là nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ và bài thơ Bếp lửa được sáng tác năm 1963, khi tác giả đang là sinh viên học ngành Luật ở nước ngoài. Bài thơ được đưa vào tập Hương cây – Bếp lửa (1968), tập thơ đầu tay của nhà thơ.
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,
Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui,
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ…
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!
Đây là đoạn thơ thể hiện những suy tưởng của nhà thơ về hình ảnh người bà vất vả nhưng đầy lòng yêu thương. Đó là người bà trong mấy chục năm trời vẫn giữ thói quen dậy sớm và chăm lo cho cuộc sống đạm bạc nhưng chan chứa yêu thương của gia đình.
Trong dòng suy tưởng của nhà thơ hình ảnh người bà với bếp lửa, với khoai sắn ngọt bùi, với nồi xôi gạo mới đã từng gắn bó với bà, với cháu là những hình ảnh gần gũi, thân quen, giản dị nhưng đầy ý nghĩa. Hồi tưởng lại nó cũng đồng thời hồi tưởng cả một quãng đời đầy ắp những kỷ niệm yêu thương giữa cháu và bà.
Vì thế trong bốn dòng thơ từ “Nhóm bếp lửa, ấp iu nồng đượm” … “ tâm tình tuổi nhỏ”, nhà thơ đã sử dụng điệp từ “nhóm” kết hợp với cách ngắt nhịp và hình ảnh thơ tạo nên một giọng điệu thơ trữ tình, thắm thiết, biểu hiện niềm xúc cảm mãnh liệt trong lòng nhà thơ. Từ đó, hình ảnh bếp lửa không chỉ còn là một hình ảnh hiện thực mà trở thành một biểu tượng của tình cảm thiêng liêng kì diệu của bà và cháu.
Câu thơ cuối cùng của đoạn thơ : “Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!” vừa có giọng điệu ca ngợi, vừa có tính chất suy tưởng sâu lắng nói lên giá trị lớn lao của tình bà cháu và “nhóm lên” trong lòng cháu, lòng người đọc những cảm nhận về những phẩm chất tốt đẹp: yêu thương, hi sinh và biết ơn. Yêu thương, hi sinh vì bà đã sống một cuộc đời đầy lòng yêu thương và hi sinh cho con, cho cháu… và cho cả đất nước trong hoàn cảnh chiến tranh và nghèo khổ.
Còn cháu đã nhận được cái thành quả của lòng yêu thương và hi sinh đó. Nó khiến cháu không chỉ nhớ tới bà, tới bếp lửa lúc ở trong nước mà nó còn mạnh mẽ và sâu sắc đến nỗi cháu không chỉ nhận thấy nó kì lạ và thiêng liêng mà còn không thể nào quên được dù thời gian có trôi qua và hoàn cảnh có thay đổi: cháu đi xa đến nơi có lửa trong nhà, có niềm vui trăm ngả.
Liên hệ với bài “Nói với con” của nhà thơ Y Phương, nhà thơ người dân tộc Tày, thơ ông thể hiện tâm hồn chân thành, mạnh mẽ, trong sáng với cách tư duy giàu hình ảnh của con người miền núi.
Bài thơ là lời tâm tình nhắn nhủ thể hiện nỗi niềm mong muốn của người cha đối với con. Đó là mong muốn con phải biết sống gắn bó sâu sắc với đất nước, với quê hương, nhất là với quê hương rừng núi đang còn nghèo khổ của mình.
Đồng thời, người cha cũng mong muốn con phải sống một cuộc đời mạnh mẽ có ý chí có nghị lực, không lo cực khổ, không ngại gian nan, biết lên thác xuống ghềnh. Đó là những mong muốn mạnh mẽ, chân thành và tha thiết của người cha đối với con hướng người con tới một cuộc sống có ý nghĩa, có giá trị, xứng đáng với nhân phẩm, với quyền làm người.
Mỗi bài thơ đã ra đời trong những hoàn cảnh khác nhau. Lại được viết bởi hai nhà thơ thuộc hai dân tộc khác nhau. Tuy nhiên, hai bài thơ đều đề cập đến đề tài tình cảm gia đình vốn là một đề tài phổ biến quen thuộc của thơ ca.
Hai bài thơ có nhân vật trữ tình khác nhau (người cháu, người cha), hình thức nghệ thuật thơ khác nhau và nội dung riêng. Một đoạn thơ đề cập đến tình bà cháu, một đoạn thơ đề cập đến tình cha con nhưng cả hai đều đề cập đến những tình cảm đẹp, chân thành và có ý nghĩa lớn đối với con người (yêu thương, hi sinh, biết ơn, sống xứng đáng, mạnh mẽ,… )
Vì vậy, cả hai đoạn thơ nói riêng và hai bài thơ nói chung đã để lại những xúc động sâu lắng, những ấn tượng mạnh mẽ đối với người đọc.
Trong mọi hoàn cảnh, tình cảm, sự trân quý giữa người với người đều được đề cao, khẳng định. Tiếng thơ trong cả hai bài sao mà xúc động, thiêng liêng đến thế!
Tuyển tập 20 mẫu 🌸 Mở Bài Bếp Lửa 🌸 thu hút!
Liên Hệ Bếp Lửa Với Khi Con Tu Hú Hay Nhất
Bài văn liên hệ mở rộng tiếng tu hú trong bài thơ “Bếp lửa” với “Khi con tu hú” hay nhất ở bên dưới, mời bạn xem ngay:
Nước biển mênh mông không đong đầy tình mẹ
Mây trời lồng lộng không phủ kín công cha
Tình cảm gia đình luôn là nguồn cảm hứng bất tận hiện hữu trong thi ca văn học Việt Nam. Những ai đã từng đọc “ Bếp lửa” của Bằng Việt chắc chắn không thể quên được tình cảm yêu thương nồng thắm của người bà dành cho cháu.
Hòa trong những cung bậc nỗi nhớ và suy tư của người cháu đối với bà là lòng biết ơn vô hạn của cháu về người bà giàu tình thương và đức hi sinh. kín đáo gửi gắm bài học đạo lí về lòng biết ơn cội nguồn sinh dưỡng của mỗi con người, bộc lộ niềm tự hào, sức sống mạnh mẽ bền bỉ của quê hương mình, làm rung động bao con tim độc giả..
Lời nói của Goethe : “Dù là vua chúa hay dân cày kẻ nào tìm thấy được sự an bình trong gia đình là người sung sướng nhất” thật đúng khi nói về gia đình.Tình cảm gia đình như những tia sáng diệu kì của cuộc đời. Tia sáng ấy sẽ sưởi ấm cho tâm hồn mỗi người. Gia đình! Gia đình! Tiếng gọi nghe dễ nhưng lại thiêng liêng biết bao.
Gia đình là một thứ thiêng liêng không có thể so sánh được, biết hết giá trị.Gia đình là nơi vun đắp những tâm hồn. Hạnh phúc lớn nhất của mỗi con người là được sinh ra là lớn lên trong sự thương yêu, dạy bảo của gia đình.
Trong trái tim mỗi con người, gia đình luôn chiếm phần lớn, là nỗi nhớ mỗi lúc đi xa, là động lực, điểm tựa để ta vươn lên đạt đến thành công trong cuộc sống. “ Bếp lửa” của Bằng Việt ta cảm nhận đc hai tiếng thiêng liêng hai tiếng gia đình.
Trong cuộc sống, con người ta luôn có lúc gặp phải những gian lao, trắc trở. Chính trong những năm tháng khó khăn, gian khổ ấy, chúng ta sẽ nhận ra được những giá trị tinh thần vô cùng thiêng liêng và đáng quý từ gia đình. Những giá trị, những kỉ niệm về tình cảm từ những người thân sẽ tạo nên sức mạnh nâng đỡ bước chân ta trong suốt cuộc đời dài. Bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt đã soi sáng chân lí giản đơn ấy.
Hình ảnh “bếp lửa” đã khơi nguồn hồi tưởng của tác giả những năm tháng sống bên bà, cùng bà nhóm lên ngọn lửa nồng ấm của tuổi thơ, để người đọc biết bao thế hệ cùng rung cảm với một bản trường ca về tình bà cháu. Bằng sự kết hợp hài hòa giữa biểu cảm với tự sự, miêu tả và nghị luận, bài thơ đã xây dựng hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà và là điểm tựa khơi gợi mọi cảm xúc và suy nghĩ về tình bà cháu.
Trong biết bao kỉ niệm tuổi thơ, bếp lửa in dấu đậm nhất trong suy nghĩ của Bằng Việt. Bắt đầu từ hình ảnh thân thương, ấm áp – hình ảnh bếp lửa đã lan tỏa khắp bài thơ, trở thành điểm tựa để mở ra một chân trời đầy ắp kỉ niệm tuổi thơ về tình bà cháu. Bằng Việt trở về với những năm tháng tuổi thơ thiếu thốn, nhọc nhằn, những kỉ niệm gắn liền với hình ảnh người bà:
Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế !
Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học.
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,
Tu hú ơi ! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa ?
“Tám năm ròng” là một quãng thời gian không dài đối với đời người nhưng lại là cả tuổi thơ của cháu. Hình ảnh bà và bếp lửa của tình bà cháu đã gợi ra một liên tưởng, một hồi ức khác trong tâm trí thi sĩ – tiếng chim tu hú. Tiếng chim tu hú thường gợi nên sự khắc khoải, xa cách, trông mong, một âm thanh mang sắc điệu trầm buồn. Với Bằng Việt, âm thanh ấy mau như khơi dậy trong bà những kỉ niệm ngày xưa ở Huế, để bắt đầu những câu chuyện êm đềm cho tuổi thơ của cháu.
Một tiếng chim đong đầy kỉ niệm đến nỗi tác giả phải thốt lên lời cảm thán rằng “sao mà tha thiết thế”. Điệp từ “tu hú” được lặp đi lặp lại nhiều lần khiến lời thơ có âm điệu thật bồi hồi, tha thiết, khiến bản thân người đọc cũng như nghe vẳng lại đâu đây tiếng tu hú từ trong tiềm thức của tác giả. Sự điệp lại ấy còn gợi lên những nỗi nhớ trùng điệp, vấn vít vào nhau – nỗi nhớ của bà về quá khứ của mình càng khiến cho nỗi nhớ của cháu về bà thêm thăm thẳm, vời vợi.
Tiếng chim tu hú đã trở thành một phần tuổi thơ, một mảnh tâm hồn cháu, là sợi chỉ đỏ nối liền quá khứ và hiện tại. Tiếng vọng đồng chiều ấy vang lên trong khổ thơ càng như giục giã, như khắc khoải một điều gì đó tha thiết lắm, để dòng kỉ niệm trải dài hơn, rộng hơn, sâu hơn trong không gian xa thẳm của nỗi nhớ thương. Và trong dòng chảy ấy, hiện lên những ký ức thân thương về tình bà cháu sâu đậm :
Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học.
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,
Tám năm tuổi thơ của tác giả cũng chính là những năm đất nước chiến tranh, bố mẹ phải đi công tác xa nhà, cháu phải sống cùng bà. Bằng Việt đã khơi lại những kỉ niệm ngày ấy bằng nghệ thuật liệt kê : “Bà bảo”, “bà dạy”, “bà chăm”,… mỗi một ký ức hiện về là thêm một lần hình ảnh bà được khắc sâu trong tâm trí cháu. Trong những năm tháng ấy, bà vừa là cha, vừa là mẹ, vừa là chỗ dựa vững chắc về cả vật chất lẫn tinh thần, là cội nguồn yêu thương của cháu.
Bà không chỉ chăm lo cho cháu từng chút một mà còn là người thầy đầu tiên dạy cho cháu bao điều về cuộc sống, những bài học của bà trở thành hành trang cháu mang theo trong suốt quãng đời còn lại. Được ở với bà là cả một niềm hạnh phúc vô bờ.
Cặp từ “bà” và “cháu” xuất hiện trong từng phép liệt kê như gợi lên hình ảnh hai bà cháu gắn bó, quấn quít không rời, gợi lên một thế giới mà trong đó bà là tất cả. Cùng bà nhóm bếp hàng ngày, tác giả thấm thía được những gian lao, vất vả của bà khi phải một mình chăm sóc cháu, để rồi lời thơ như thủ thỉ một lời tâm tình “nghĩ thương bà khó nhọc”, và một lần nữa tiếng chim tu hú lại vọng về :
Tu hú ơi ! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa ?
Câu cảm thán “Tu hú ơi !” kết hợp với câu hỏi tu từ vang lên như một lời trách cứ nhẹ nhàng. Ở giữa nước Nga xa xôi, tiếng chim tu hú vọng lại trong hồi ức của Bằng Việt khiến nỗi nhớ trào dâng trong lòng nhà thơ cùng những câu hỏi mênh mang : khi cháu đã đi rồi thì ai sẽ “cùng bà nhóm lửa”, ai sẽ nghe bà “kể chuyện những ngày ở Huế”…Lời thơ là hỏi chim tu hú, hay là hỏi chính mình ? Là lời than thở, trách móc hay chính là mong ước khôn nguôi muốn được trở lại bên bà ?
Nỗi lòng của chim tu hú “kêu chi hoài trên những cánh đồng xa” đâu có khác gì với nỗi nhớ mong bà sâu sắc của đứa cháu nơi xứ người. Tiếng chim ấy khiến lòng người như trỗi dậy bao hoài niệm, nhớ mong da diết, âm vang trong tim người đọc.
Tiếng chim tu hú làm chúng ta liên tưởng đến bài thơ “Khi con tu hú” của Tố Hữu:
Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần
Âm thanh của tiếng chim tu hú trong cảm nhận của 2 nhà thơ đều gợi lên không gian đồng quên gần gũi, thân thuộc. Âm thanh đó đều được đón nhận bằng tình yêu thương mến của tác giả.
Tuy nhiên, tiếng chim tu hú trong “Khi con tu hú” là âm thanh báo hiệu mùa hè sôi động được cảm nhận từ tâm hồn yêu cuộc sống. Tiếng tu hú gọi bầy như thôi thúc người chiến sĩ phá bỏ rào cản để đón nhận vẻ đẹp, sự tự do của sự sống tươi đẹp bên ngoài.
Còn với Bằng Việt, tiếng chim tu hú mở ra sự ấm áp, tha thiết của tình bà cháu, tiếng chim tu hú gợi nhớ về những ngày tháng tuổi thơ được bà chăm sóc, dạy dỗ.
Những kỉ niệm trôi theo một nhạc điệu tâm tình thủ thỉ, chậm rãi đầy nhung nhớ đã đưa ta về với tuổi thơ sống bên bà và đầy ắp tình bà cháu của tác giả. Bằng Việt từ cuộc đời những kỉ niệm, những hình ảnh đẹp nhất về người bà thân yêu đã thể hiện lòng kính yêu trân trọng và biết ơn đối với bà và cũng là đối với gia đình, quê hương, đất nước. Để ta chợt nhận ra rằng, trong sâu thẳm mỗi con người, luôn có những điều thật bình dị và thân thương.
Hãy trân trọng những kí ức trong trẻo, mượt mà một thời ấy, vì đó là chốn bình yên để ta tìm về khi đã mỏi cánh bay, là hành trang quý báu để ta mang theo suốt cuộc hành trình dài và rộng của cuộc đời. Để một ngày nào đó dừng lại giữa dòng đời bất tận, ta mỉm cười vì luôn có một “bếp lửa” soi sáng trong tim…
Tình cảm gia đình là một trong những thứ tình cảm thiêng liêng và quý giá của mỗi người. Mỗi nhà thơ, nhà văn bằng sự khám phá và thể hiện của mình đã đem đến cho văn học những tác phẩm giàu giá trị nhân bản, nhân văn sâu sắc, có ý nghĩa giáo dục và đánh thức tình cảm tốt đẹp của con người về tình cảm gia đình.
Các nhà thơ, nhà văn ngợi ca, tôn vinh tình cảm gia đình, cho thấy được sự hi sinh và những tình cảm cao quý, dạt dào của gia đình đối với mỗi con người. Vẻ đẹp của tình cảm gia đình trong các tác phẩm như những nét vẽ góp phần hoàn thiện bức chân dung gia đình của mỗi con người. Tình cảm ấy lại được hoà quyện thống nhất, gắn bó chặt chẽ với tình yêu quê hương đất nước.
Đọc xong các tác phẩm ,“ Bếp lửa” của Bằng Việt những xúc cảm dâng trào về sức mạnh to lớn về tình bà cháu trong ” Bếp lửa “.Tất cả như dừng lại khiến ta phải ngẫm về những ngày mình làm cho cha mẹ buồn rầu, làm mẹ rơi lệ.Cảm ơn chân thành đến tác giả vì họ đã cho ta nhận ra vẻ đẹp gần gũi luôn bên cạnh mà ta chưa hề nhận ra.
Xem thêm đoạn văn 🌸 Kết Bài Bếp Lửa 🌸 ấn tượng!
Liên Hệ Bài Bếp Lửa Với Chiếc Lược Ngà Nâng Cao
Nếu bạn đang tìm kiếm bài văn liên hệ mở rộng bài thơ “Bếp lửa” với “Chiếc lược ngà” thì nên tham khảo mẫu mà chúng tôi gợi ý sau đây:
Mỗi chúng ta ai mà chẳng có quê hương, ai mà chẳng có một thời đong đầy kỉ niệm để nhớ, để thương, để là động lực không ngừng phấn đấu. Nhà thơ Bằng Việt trong những năm tháng học tập xa nhà vẫn da diết nhớ quê hương, với khói bếp lửa cay nồng hun nhoè mắt, cùng người bà tần tảo sớm hôm nuôi dạy cháu. Tất cả những kí ức đẹp đẽ của tuổi thơ đó đã được tác giả dồn nén trong từng câu chữ qua bài thơ Bếp lửa.
Bếp lửa là bài thơ được in trong tập thơ Hương cây, bếp lửa, in chung cùng nhà thơ Lưu Quang Vũ. Có thể nói Bếp lửa là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Bằng Việt. Ông sáng tác bài thơ này vào năm 1963, khi đang học tập tại Liên Xô.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh ngọn lửa bập bùng cháy, ngọn lửa thực mà cũng chất chứa biết bao ý nghĩa:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa
Một khung cảnh đơn sơ mà hết sức thân thuộc hiện lên trước mắt người đọc. Ngọn lửa cháy bập bùng kia gợi nhắc biết bao nhớ thương, lòng biết ơn của người cháu xa xứ đối với bà. Hai từ “ấp iu” gợi lên hình ảnh đôi bàn tay tảo tần của bà ngày ngày nhen nhóm ngọn lửa, thức khuya dậy sớm chăm cho cháu từng miếng ăn giấc ngủ. Và để từ đó trong cháu vỡ òa cảm xúc thương yêu bà vô tận:
“Cháu thương bà biết mấy nắng mưa” .
Để rồi sau đó, biết bao kỉ niệm ùa về trong lòng nhà thơ, đó là những kỉ niệm mà tác giả chẳng thể quên. Về một nạn đói khủng khiếp đã cướp đi sinh mạng biết bao người dân Việt Nam:
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay
Khi mà hàng loạt người chết đói, thì bà vẫn kiên cường, tần tảo sớm hôm, cho cháu củ khoai, mót từng củ sắn, dành trọn miếng ăn cho đứa cháu vượt qua cơn đói cồn cào. Nỗi ám ảnh đó vẫn lần sâu trong tâm chí tác giả, cái đói ghê rợn ấy, mà giờ chỉ cần nghĩ lại sống mũi cháu đã cay. Cái cay ấy không chỉ là mùi khói, mà cái cay ấy còn là những giọt nước mắt thương xót cho những nỗi cơ cực, vất vả mà bà phải trải qua, là giọt nước mắt tri ân với tấm lòng bà dành cho cháu. Chỉ cần có bà thì mọi giông bão ngoài kia bà cũng chở che để vượt qua, bảo vệ cho cháu.
Tám năm xa cha mẹ, Bằng Việt sống cùng bà, cũng là tám năm bà bên cháu bảo ban, nuôi dạy cháu nên người:
“Mẹ cùng cha công tác bận không về,
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”
Câu thơ mà thực như là lời kể lời giãi bày của tác giả, nhưng cũng chỉ cần có vậy thôi đã nói lên tấm lòng, sự tận tụy của bà đối với cháu. Bà đã trở thành người cha, người mẹ dạy cháu khôn lớn, nên người. Cấu trúc “ba-cháu” cho thấy sự gắn bó khăng khít giữa. Nếu không có bà ở bên có lẽ cũng sẽ không có cháu thành công, nên người của thời điểm hiện tại. Tác giả đã dồn hết lòng kính yêu, sự tôn trọng dành cho người bà của mình.
Nói đến tám năm xa cách, chúng ta lại bồi hồi nhớ về tám năm của ông Sáu lên đường kháng chiến trong truyện ngắn “Chiếc lược ngà”. Truyện ngắn của Nguyễn Quang Sáng không chỉ đề cập đến tình cảm cha con giữa ông Sáu và bé Thu mà còn là tình cảm vợ chồng thủy chung.
Cùng với đó, tình cảm bà cháu tuy chỉ được nhắc đến chút ít nhưng lại có vai trò quan trọng. Bà ngoại chính là người bé Thu thường tìm đến tâm sự mỗi lần bị mẹ mắng. Và bà cũng là người duy nhất được biết lý do Thu không nhận ba. Điều đó cho thấy bé Thu vô cùng tin tưởng bà. Cũng chính bà ngoại đã giảng giải cho Thu hiểu rõ nguyên nhân của vết sẹo hằn trên gương mặt của ba. Nhờ đó, cô bé đã nhận lại ba trước khi quá muộn. Có thể nói, bà ngoại có một vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của bé Thu. Bà cũng chính là cầu nối giữa tình cảm của cha con bé Thu.
Quay trở lại bài thơ “Bếp lửa”, khung cảnh chiến tranh trở nên khủng khiếp hơn, khi giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi, để trơ trọi lại chỉ là những mảnh tro tàn. Nhưng bà không khuỵu ngã, mà vẫn vô cùng kiên cường, dưới sự giúp đỡ của hàng xóm dựng lại túp lều tranh cho hai bà cháu có chỗ trú mưa trú nắng. Không chỉ vậy, sợ các con công tác ngoài chiến tuyến lo lắng, bà còn dặn trước Bằng Việt:
“Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên”.
Những lời dặn dò ấy đã nói lên hết tấm lòng hi sinh cao cả của bà mẹ Việt Nam anh hùng. Không chỉ chăm lo, bảo ban cháu, bà còn nhóm lên trong cháu những tình cảm thiêng liêng đẹp đẽ:
“Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,
Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui,
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ…
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”
Khổ thơ với điệp từ nhóm vang lên bốn lần, đã tạo nên một khung cảnh thiêng liêng, ấm cúng và đầy tình yêu thương. Bếp lửa ấy dạy cháu biết chia sẻ, yêu thương những người xung quanh, bếp lửa ấy giúp cháu sống có mơ ước, khát vọng, vun đắp mơ ước cho cháu. Cũng bởi vậy, mà Bằng Việt phải tốt lên:
“Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa”
để khẳng định ý nghĩa vai trò của bếp lửa, hay chính của bà đối với cuộc đời mình. Để rồi ngọn lửa của hơi ấm tình thương theo cháu đi muôn ngả, giúp cháu vươn đến thành công trong bước đường tương lai. Dù đã đi xa, đến những nơi đẹp đẽ, cuộc sống sung túc nhưng cháu vẫn không bao giờ quên hình ảnh bà, và vẫn tự nhắc nhở bản thân:
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
– Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?
Câu hỏi kết lại bài thơ như một lời nhắc nhở khắc khoải, khiến người đọc lưu giữ lại ấn tượng sâu đậm. Bằng ngôn từ mộc mạc, giản dị và tràn đầy cảm xúc Bằng Việt đã bày tỏ tấm lòng biết ơn sâu sắc đối với bà. Đồng thời với bài thơ này cũng gửi gắm thông điệp về ý nghĩa tầm quan trọng của gia đình đối với mỗi người. Chúng ta phải nâng niu, trân trọng tình cảm thiêng liêng, cao quý ấy.
Ngoài “Bếp lửa”, bạn có thể xem thêm 🌸 Liên Hệ Mở Rộng Bài Chiếc Lược Ngà 🌸 chọn lọc!