Truyền thuyết là một thể loại văn học quen thuộc trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam. Hôm nay, SCR.VN sẽ cung cấp tài liệu 24+ bài văn mẫu kể lại một truyền thuyết bằng lời văn của em.
Cách Kể Lại Một Truyền Thuyết Bằng Lời Văn Của Em
Chia sẻ cho các em học sinh cách kể lại một truyền thuyết bằng lời văn của em chi tiết nhất, hãy áp dụng nó cho bài văn của mình nhé!
- Bước 1: Chọn một truyền thuyết mà bạn muốn kể. Bạn có thể chọn một truyền thuyết quen thuộc hoặc một truyền thuyết mới lạ, miễn là bạn có thể tìm hiểu được nội dung và nguồn gốc của nó.
- Bước 2: Tìm hiểu về nội dung và nguồn gốc của truyền thuyết: Bạn có thể đọc và nghiên cứu tài liệu, sách vở, video, bài viết về truyền thuyết đó để hiểu rõ về các nhân vật, sự kiện, bối cảnh, ý nghĩa và tác động của nó.
- Bước 3: Lập dàn ý cho bài kể: Bạn có thể sử dụng cấu trúc ba phần: mở bài, thân bài và kết bài. Trong mở bài, bạn có thể giới thiệu tên và nguồn gốc của truyền thuyết, cũng như mục đích và lý do bạn muốn kể nó. Trong thân bài, bạn có thể kể lại các chi tiết và diễn biến của câu chuyện theo trình tự thời gian và không gian. Bạn có thể sử dụng các yếu tố miêu tả, tự sự, đối thoại, phép tu từ để làm cho bài kể thêm phần sinh động và hấp dẫn. Trong kết bài, bạn có thể nêu ý nghĩa và bài học của truyền thuyết, cũng như cảm nhận và suy nghĩ của bản thân về nó.
- Bước 4: Viết bài kể theo dàn ý: Bạn có thể sử dụng ngôn ngữ và phong cách riêng của mình để kể lại truyền thuyết. Bạn có thể kể câu chuyện theo góc nhìn của một nhân vật, hoặc theo phong cách của một thể loại văn học, hoặc theo một ngôn ngữ khác, v.v. Bạn cũng có thể kết hợp với những hình ảnh, âm thanh, video, v.v. để làm cho bài kể thêm sinh động và hấp dẫn.
- Bước 5: Kiểm tra và chỉnh sửa bài kể: Bạn có thể đọc lại bài kể của mình để kiểm tra xem có sai sót về nội dung, ngữ pháp, chính tả, dấu câu, v.v. không. Bạn có thể sửa chữa những lỗi đó để làm cho bài kể hoàn thiện hơn. Bạn cũng có thể nhờ người khác đọc và góp ý cho bài kể của mình để cải thiện nó.
Dàn Ý Kể Lại Một Truyền Thuyết Bằng Lời Văn Của Em
SCR.VN gợi ý đến bạn một số dàn ý kể lại một truyền thuyết bằng lời văn của em.
Dàn ý kể lại truyện Bánh Chưng Bánh Giày bằng lời văn của em
1. Mở bài: Giới thiệu thời gian xảy ra câu chuyện: ngày xưa, đời Hùng Vương thứ sáu.
2. Thân bài
a. Vua Hùng Vương bày cuộc thi.
– Vua đã già, muốn chọn người con xứng đáng để truyền ngôi.
– Vua truyền gọi các con.
- Ngôi vua đã truyền được sáu đời.
- Người nối vua phải nối chí vua.
- Ai làm cỗ lễ Tiên Vương vừa ý, sẽ được nối ngôi.
– Các con thay nhau làm cỗ quý, hy vọng ngôi báu về mình.
b. Lang Liêu làm cỗ
- Lang Liêu là con thứ 18, mồ côi mẹ, chăm lo đồng áng, không biết lấy gì để làm cỗ quý.
- Thần báo mộng: không có gì quý bằng gạo, hãy lấy gạo làm bánh.
- Lang Liêu lấy gạo làm hai loại bánh, một loại dùng gạo nếp, nhân đậu xanh và thịt, bọc lá, hình vuông, nấu kỹ, một loại dùng gạo nếp đồ chính, giã nhuyễn, hình tròn.
c. Lang Liêu được chọn nối ngôi cha.
- Ngày lễ Tiên Vương, các quan lang mang đến các thứ cỗ quý, chẳng thiếu thứ gì.
- Vua Hùng xem bánh của Lang Liêu. Lang Liêu kể lại lời thần dạy. Vua chọn hai thứ bánh đó để cúng Trời Đất và Tiên Vương.
- Lễ xong, đem bánh ra ăn cùng quần thần.
- Vua nói: Bánh hình tròn tượng trưng cho Trời, bánh hình vuông tượng trưng cho Đất. Lang Liêu sẽ được nối ngôi.
3. Kết luận
- Từ đó, nước ta chăm nghề trồng trọt, chăn nuôi:
- Bánh chưng, bánh giày không thể thiếu trong ngày Tết.
Dàn ý kể lại truyện Con Rồng Cháu Tiên bằng lời văn của em
1. Mở bài: Dân tộc ta vốn có truyền thống đoàn kết lâu đời bởi cùng nguồn gốc con rồng cháu tiên.
2. Thân bài
* Giới thiệu về nguồn gốc của nhân vật:
– Lạc Long Quân:
+ Ở miền đất Lạc Việt, nòi rồng
+ Có tài năng và đức độ
+ Lên miền cạn để giúp dân diệt trừ lũ yêu ma tác ai tác quái và dạy dân các nghề trồng trọt
– Âu Cơ:
+ Sống ở vùng đất phương Bắc, con của thần Nông
+ Xinh đẹp, nết na
+ Đến thăm Lạc Việt để thưởng thức hoa thơm cỏ lạ
=> Lạc Long Quân và Âu Cơ gặp gỡ nên duyên chồng vợ
– Sau một thời gian, nàng Âu Cơ có mang.
– Sinh ra một cái bọc lớn với trăm quả trứng→ Nở ra được một trăm người con
– Lạc Long Quân quyết định trở về nơi chàng sinh ra, chia năm mươi người con xuống biển, năm mươi người con lên rừng.
– Sau này trưởng thành, ai cũng giỏi giang, người con cả là Hùng Vương lập nên nước Văn Lang.
– Các vua Hùng đều góp công lao rất lớn trong quá trình dựng nước của dân tộc ta.
3. Kết bài
Sau này, khi nhắc về nguồn gốc của dân tộc ai cũng tự hào về nguồn cội con Rồng Cháu Tiên.
SCR.VN chia sẻ thêm ❤️️Kể Lại Truyền Thuyết Bánh Chưng Bánh Giầy❤️️ hay nhất
14+ Mẫu Kể Lại Một Truyền Thuyết Bằng Lời Văn Của Em
Đón đọc bài văn kể lại một truyền thuyết bằng lời văn của em hay nhất sau đây.
Kể Lại Một Truyền Thuyết Bằng Lời Văn Của Em Điểm Cao – Sự Tích Hồ Gươm
Nếu ai đã có dịp đặt chân đến thủ đô Hà Nội chắc chắn sẽ biết đến Hồ Gươm, đây không chỉ là một địa điểm vui chơi nhộn nhịp nổi tiếng nhất Hà thành mà còn là địa danh mang dấu tích lịch sử dân tộc. Sau đây em xin kể lại cho mọi người cùng nghe về Sự tích Hồ Gươm.
Nước ta dưới thời bị giặc Minh đô hộ vô cùng khổ cực, dân chúng lầm than bị bóc lột, đày đọa coi như cỏ rác. Lúc bấy giờ có nghĩa quân Lam Sơn đã nhiều lần nổi dậy chống giặc nhưng vì non yếu nên đều bị thua. Đức Long Quân nơi biển khơi nhìn thấy tinh thần và ý chí của nghĩa quân cũng như sự lầm than của con dân nên đã quyết định cho mượn gươm thần để đánh giặc.
Lê Thận là một ngư dân ở Thanh Hóa, trong một lần đi kéo lưới, cả ba lần kéo lưới đều vớt được một thanh sắt, về sau soi dưới ngọn lửa mới biết là thanh gươm bèn đem về nhà cất. Bỗng một hôm Lê Lợi đến nhà Lê Thận, thanh gươm bỗng phát sáng hiện rõ hai chữ “Thuận Thiên”, cả hai vẫn chưa biết đây là báu vật. Tuy nhiên có một lần Lê Lợi bị giặc truy đuổi phải chạy vào rừng sâu, tại đây Lê Lợi nhặt được một chuôi gươm nạm bằng ngọc rất đẹp, nhớ đến lưỡi gươm ở nhà Lê Thận, Lê Lợi bèn đem tra gươm vào chuôi ai ngờ vừa như in, mọi người mới biết đây là gươm thần.
Có gươm thần trong tay Lê Lợi cùng nghĩa quân rèn luyện ngày đêm, ngày càng tinh nhuệ và lớn mạnh, đánh đâu thắng đó, sau nhiều cuộc chiến nghĩa quân Lam Sơn đã chiến thắng giặc Minh, đuổi hết quân đô hộ trả lại sự bình yên và hạnh phúc cho nhân dân. Một năm sau khi Lê Lợi đang dạo chơi trên hồ Tả Vọng, lúc này đức Long Quân bèn sai rùa vàng lên đòi lại gươm thần. Giặc đã tan, đất nước đã thanh bình, Lê Lợi nhìn thấy rùa vàng nổi lên há miệng chờ liền hiểu ý rút thanh gươm ra trao trả cho rùa vàng. Rùa vàng ngậm thanh gươm rồi lặn xuống nước.
Hồ Tả Vọng từ đó đã được đổi tên thành Hồ Gươm hay Hồ Hoàn Kiếm xuất phát từ sự việc trao trả gươm này.
Kể Lại Một Truyền Thuyết Bằng Lời Văn Của Em Hai Bà Trưng
Dân tộc Việt Nam trải qua hàng nghìn năm dưới sự xâm lược của triều đại phong kiến phương Bắc. Nhiều vị anh hùng đã đứng lên lãnh đạo nhân dân chống lại kẻ thù.
Trong đó em ngưỡng mộ nhất là Hai Bà Trưng. Hai bà là hai chị em ruột, người chị tên là Trưng Trắc, người em tên là Trưng Nhị. Hai bà quê ở huyện Mê Linh, từ nhỏ đã nổi tiếng là hai người con gái tài giỏi. Cha hai bà mất sớm, nhờ mẹ dạy dỗ, hai chị em đều giỏi võ nghệ. Thuở ấy, nước ta bị nhà Hán đô hộ.
Chúng đàn áp dân lành hết sức tàn bạo. Chúng thẳng tay chém giết dân ta, cướp hết ruộng đất của dân. Nhân dân ta mang lòng oán hận ngút trời, chỉ chờ dịp để vùng lên đánh đuổi quân xâm lược. Chồng bà Trưng Trắc là Thi Sách cũng mang trong mình chí hướng giành lại non sông.
Quan Thái thú của giặc là Tô Định biết vậy, bèn lập mưu giết chết Thi Sách. Khi nghe tin chồng bị giặc giết chết, Bà Trưng Trắc đã cùng với em gái mình là Trưng Nhị lãnh đạo nghĩa quân đến thành Luy Lâu hỏi tội kẻ thù. Đi đến đâu, tiếng trống đồng của quân ta dội vàng đất trời tới đó.
Cuối cùng, thành trì của giặc lần lượt sụp đổ dưới đoàn quân khởi nghĩa. Tướng giặc sợ hãi, ôm đầu chạy về nước. Đất nước ta sạch bóng quân thù. Em rất ngưỡng mộ Hai Bà Trưng.
Kể Lại 1 Truyền Thuyết Bằng Lời Văn Của Em – Mai An Tiêm
Có bao giờ bạn nghĩ những thứ xung quanh chúng ta từ đâu mà có chưa? Tại sao các đồ vât lại có tên gọi như thế? Thực ra có rất nhiều lí giải khác nhau. Ví như câu chuyện Mai An Tiêm sau đây đã lí giải nguồn gốc xuất hiện xưa hấu.
Chuyện kể rằng, vào thời Vua Hùng Vương thứ 18, có một chàng trai tên là Mai An Tiêm. Mai An Tiêm nhanh nhẹn, tháo vát, lại chăm chỉ nên được nhà vua rất mực yêu mến và còn gả cả con gái nuôi cho chàng nữa. Vua rất yêu quý An Tiêm nên thường ban cho chàng nhiều của ngon vật lạ.
Tất thẩy mọi người ai được nhận lộc vua ban đều nâng niu ca tụng, riêng An Tiêm lại bảo rằng:
– Của mình làm ra mới quý, còn của biếu là của lo, của cho là của nợ!
Chàng vẫn chăm chỉ làm lụng, không hề có ý trông chờ vào bổng lộc vua ban.
Tất cả chỉ chờ có thế, bon quan ninh thần bèn đem câu nói của Mai An Tiêm tâu lên nhà vua. Nhà vua vô cùng tức giận và cho rằng chàng là một kẻ kiêu bạc vô ơn. Nhà vua giận lắm: “Đã thế để xem, nếu chỉ trông vào sức mình thì hắn có sống nổi không?”. Ngài sai quân lính bắt giữ Mai An Tiêm rồi đuổi cả gia đình chàng ra đảo hoang.
Cả gia đình Mai An Tiêm lênh đênh trên biển hết ngày này đến ngày khác. Cuối cùng, họ cũng cập bến lên một hòn đảo lạ. Vợ Mai An Tiêm khóc lóc kêu lên:
– Sao tôi khổ thế này? Biết vậy thì chúng ta không nên làm nhà vua tức giận!
– Trời đã sinh ra ta, sống chết là ở Trời và ở ta. Chỉ cần có đôi bàn tay này thì chúng ta sẽ không sợ chết đói đâu. – Mai An Tiêm an ủi vợ.
Tình cờ một hôm, Mai An Tiêm phát hiện ra có một đàn chim từ phương Tây tới, chúng đậu trên bờ và đang ăn một loại hạt gì đó có màu đen láy. Mai An Tiêm nghĩ thầm:“Hạt này chim ăn được thì chắc người cũng ăn được!”. Nghĩ vậy, Mai An Tiêm liền thu gom hết số hạt lại và đem gieo trồng dưới đất. Ngày ngày, Mai An Tiêm ra sức chăm bón cho ruộng vườn của mình.
Chẳng bao lâu sau, ruộng vườn của chàng trở nên xanh tốt, um tùm. Cây nở hoa, kết thành trái to. Đến mùa thu hoạch, Mai An Tiêm cùng với vợ con đem hết số quả đã chín về nhà. Quả nào quả nấy đều có màu xanh thẫm, khi bổ quả ra, thì bên trong ruột lại có màu đỏ tươi, mọng nước và có cả hạt màu đen nữa. Khi ăn quả, thì lại thấy quả có vị ngon, ngọt, thơm mát. Một ngày kia, có một chiếc tàu gặp bão, bèn cập bến vào đảo để tránh bão. Mõi nười lên bãi cát, thấy có rất nhiều quả lạ, ngon.
Họ đua nhau đổi thực phẩm cho gia đình An Tiêm. Rồi từ đó, tiếng đồn vang xa rằng có một giống quả rất ngon trên hòn đảo ấy. Các tàu buôn tấp nập ghé đến đổi lương thực, thực phẩm cho gia đình An Tiêm để được nếm vị ngon của quả lạ. Nhờ đó mà gia đình bé nhỏ của An Tiêm trở nên đầy đủ, cuộc sống đã sung túc đầy đủ hơn.
Vì chim đã mang hạt quả từ phương Tây tới nên An Tiêm đặt tên cho thứ quả này là Tây Qua. Các thương lái Trung Quốc ăn thấy ngon, khen là “hẩu”, nên sau người ta gọi lái đi là trái Dưa Hấu. Đó chính là nguồn gốc của những trái dưa hấu thơm ngon mát lành ngày nay.
Mời xem thêm ❤️️Kể Lại Truyền Thuyết Con Rồng Cháu Tiên❤️️ hay nhất
Kể Lại Một Câu Chuyện Truyền Thuyết Hoặc Cổ Tích – Con Rồng Cháu Tiên
Trong những câu chuyện từng được đọc, em thích nhất là truyền thuyết Con Rồng cháu Tiên.
Câu chuyện kể về thời xa xưa, khi chưa có nước Việt Nam ta. Lúc ấy, nàng Âu Cơ xinh đẹp, hiền dịu đã gặp gỡ và nên duyên với Lạc Long Quân oai hùng. Chẳng bao lâu sau, nàng Âu Cơ mang thai và sinh ra một cái bọc trăm trứng. Trứng nở ra một trăm người con hồng hào, khỏe mạnh.
Tuy nhiên, vì vốn giống Rồng nên Lạc Long Quân không thể sống lâu trên cạn được, chàng buộc phải trở về thủy cung. Âu Cơ buồn lắm. Sau một thời gian dài chờ đợi, nàng gọi chồng lên và than thở việc không có ai cùng nuôi dạy các con. Ngặt nỗi, Âu Cơ vốn nòi tiên nên không thể xuống sống dưới nước được. Sự khác biệt đó quyết định hai vợ chồng không thể sống cạnh nhau dài lâu.
Cuối cùng, họ quyết định chia đôi đàn con của mình. Năm mươi người theo cha xuống biển, năm mươi người theo mẹ lên non. Sau này, nếu có gì cần giúp đỡ thì hãy liên lạc với nhau. Năm mươi người con theo mẹ Âu Cơ lên núi đã lập nên làng mạc, chính là tổ tiên của người Việt ta ngày nay.
Truyền thuyết Con Rồng cháu Tiên đã thể hiện cách lý giải của người dân xưa về nguồn cội của giống nòi. Trong đó, chứa đựng sự tự hào về tổ tiên của dân tộc vô cùng mạnh mẽ.
Kể Chuyện Truyền Thuyết Bằng Lời Văn Của Em Mị Châu – Trọng Thủy
Sau khi nhận được ngôi báu từ 18 đời vua Hùng, An Dương Vương Thục Phán đã lành đạo nhân dân đánh tan hàng vạn quân xâm lược nhà Tần. Lập tức đổi tên nước thành Âu Lạc và rời thủ đô từ Nghĩa Lĩnh Phong Châu xuống Phong Khê nay là Đông Anh Hà Nội.
An Dương Vương bắt đầu tiến hành xây thành để bảo vệ kiên cố cho nhân dân nhưng chỉ có điều cứ xây chắc chắn vào buổi sáng thì đến đêm thành lại đổ xuống vì thế nên việc xây thành cứ kéo dài mãi mà không xong. Điều đó khiến An Dương Vương vô cùng lo lắng ngài liền sai các quan quân lập đàn cầu xin bách thần phù trợ.
Ngày mồng bảy tháng ba năm ấy từ phía đông xuất hiện một cụ già râu tóc bạc phơi chống gậy trúc đi đến trước cổng thành mà than rằng : “Xây thành thế này biết bao giờ cho xong được!”. An Dương Vương mừng rỡ liền rước cụ già vào điện ân cần hỏi han : “Ta đắp thành này tốn bao nhiêu công sức mà không được là cớ vì sao?”. Cụ già thong thả đáp : “ Sẽ có sứ Thanh Giang tới cùng nhà vua xây thành thì mới thành công”. Nói rồi cụ già cáo lui.
Đúng như lời cụ già nói sáng hôm sau có một con rùa lớn nổi lên trên mặt nước tự xưng là sứ Thanh Giang và nói với An Dương Vương rằng nếu muốn xây thành thành công thì phải dẹp hết bè lũ yêu quái hay quấy nhiều. Quả nhiên sau khi Rùa Vàng giúp nhà vua diệt yêu quái thì thành xây nhanh thoăn thoắt chỉ trong vòng nửa tháng đã xong cả. Thành hình trôn ốc, rộng hơn ngàn trượng nên còn được gọi là Loa Thành.
Rùa Vàng chỉ ở lại 3 năm thì ra đi. Lúc chia tay An Dương Vương có hòi rằng : “Nhờ ơn thần mà thành xây xong. Nếu sau này có giặc thì lấy gì mà chống?”. Rùa Vàng bèn tháo một chiếc vuốt đưa cho nhà vua và dặn hãy lấy làm lẫy nỏ phòng khi quân giặc kéo đến chỉ cần lấy nỏ ra mà bắn thì không ai dám đến gần. Dứt lời Rùa Vàng quay trở về biển Đông. Nhà vua bèn sai một vị tướng quân tên Cao Lỗ ngày đêm chế chiếc vuốt Rùa vàng làm lẫy. Đặt tên là nỏ thần Kim Quy.
Ít lâu sau Triệu Đà bèn đem quân sang xâm lược Âu Lạc. An Dương Vương lấy nỏ thần bắn một phát chết hàng vạn tên giặc. Triệu Đà hoảng sợ liền rút quân về nước. Dân chúng Âu Lạc vô cùng hân hoan trước chiến công lẫy lừng của vị Vua tài giỏi.
Biết không thể đánh bại được Âu Lạc, Triệu Đà bèn nghĩ ra một âm mưu hết sức ngoan độc. Hắn mang con trai Trọng Thủy ra kết thân với Mị Châu, con gái yêu của An Dương Vương. Chẳng chút hoài nghi nhà vua gả Mị Châu cho Trọng Thủy và cho ở rể tại Loa Thành.
Nghe lời cha Trọng thủy bèn dò la khắp nơi nhằm tìm kiếm ra bí mật của nỏ thần do An Dương Vương cất giữ. Mị Châu vì tin chồng nên đã dẫn hắn đến nơi cất giấu nỏ thần. Trọng thủy liền chế ra được một chiếc lẫy nỏ y hệt với chiếc nỏ thần Kim Quy kia. Xong việc, Trọng Thủy liền nghĩ cách chuồn về nước. Trước khi đi hắn có hỏi vợ : “ Tình vợ chồng không thể lãng quên, nghĩa cha mẹ không thể dứt bỏ.
Ta nay trở về thăm cha nếu đến lúc hai nước thất hòa, Bắc Nam cách biệt ta trở lại tìm nàng thì lấy gì làm dấu?” Mị Châu ngây thơ đáp : “ thiếp có chiếc áo lông ngỗng hay mặc, khi gặp biến đi đến đâu thiếp sẽ rắc lông ngỗng đến ngã ba đường làm dấu mà tìm nhau”.
Trọng Thủy mang nỏ thần về đến nhà, Triệu Đà liền đem quân tấn công Âu Lạc. Trong lúc ấy mặc cho cả hàng chục vạn quân giặc đang tiến gần cửa thành nhà vua vẫn ung dung đánh cờ mà nói rằng : “Đà không sợ nỏ thần sao?”. Đến khi quân giặc tiến sát cửa thành nhà vua mới sai quân lính mang nỏ thần đến bắn thế nhưng lúc ấy đã không còn linh nghiệm nữa.
An Dương Vương bèn cưỡi ngựa mang theo con gái yêu chạy về phía Nam. Nhưng ngặt nỗi đi đến đâu quân giặc cũng đuổi theo đến đó. Tới sát biển An Dương Vương cùng đường mà kêu lớn : “ Sứ Thanh Giang ở đâu mau đến cứu ta”. Lúc bấy giờ Rùa Vàng mới từ mặt nước hiện lên mà nói rằng : “kẻ thù ở ngay đằng sau người kia”. An Dương Vương tức giận liền tuốt gươm chém chết Mị Châu rồi nhảy xuống biển theo Rùa Vàng. Cùng lúc đó Triệu Thủy cũng chạy đến nơi nhìn thấy xác vợ nằm trên vũng máu Trọng thủy khóc lên đau đớn rồi cầm đao tự kết liễu đời mình.
Kể Lại Một Câu Chuyện Cổ Tích Hoặc Truyền Thuyết Thánh Gióng
Đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng nọ. Họ sống hiền lành, phúc đức. Tuy tuổi đã cao nhưng vẫn chưa có con.
Một lần, người vợ ra thấy một vết chân to. Bà đặt chân vào ướm thử xem thua kém bao nhiêu. Không ngờ về nhà thì thụ thai. Đến mười hai tháng sau sinh ra một cậu bé mặt mũi khôi ngô, tuấn tú. Lạ thay, cậu bé lên ba vẫn chưa biết nói, biết cười, ai đặt đâu thì nằm đấy.
Bấy giờ, giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta. Thế giặc mạnh, nhà vua vô cùng lo lắng, bèn cho truyền sứ giả đi khắp nơi rao tìm người tài cứu nước. Đến làng Gióng, cậu bé nghe tiếng rao, liền nói với người mẹ:
– Mẹ ra mời sứ giả vào đây cho con!
Sứ giả vào, cậu bé nói:
– Ông hãy về tâu với đức vua đúc cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt. Ta sẽ đánh tan lũ giặc này.
Sứ giả nghe xong, vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, vội vã trở về tâu với vua. Nhà vua cho truyền thợ rèn ngày đêm làm gấp những thứ cậu bé yêu cầu. Kể từ hôm gặp sứ giả, cậu bé lớn nhanh như thổi. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi cậu bé, phải chạy nhờ bà con làng xóm. Ai cũng vui vẻ giúp đỡ vì mong cậu đánh giặc cứu nước.
Giặc đã đến chân núi Trâu. Thế nước đang lúc lâm nguy. Đúng lúc đó thì sứ giả mang ngựa sắt, roi sắt và áo giáp sắt đến. Cậu bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng biến thành tráng sĩ. Mình cao hơn trượng, oai phong lẫm liệt vô cùng. Tráng sĩ bước lên vỗ vào mông ngựa. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội. Tráng sĩ mặc áo giáp, cầm roi, nhảy lên mình ngựa.
Ngựa phun lửa, tráng sĩ cưỡi ngựa phi thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng đánh giết hết lớp này đến lớp khác. Giặc chết như ngả rạ. Bỗng nhiên, roi sắt gãy, tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ, bỏ chạy. Đám tàn quân giẫm đạp lên nhau chạy trốn. Tráng sĩ đuổi đến chân núi Trâu. Đến đây, một mình một ngựa, tráng sĩ lên đỉnh núi, cởi bỏ áo giáp sắt, cưỡi ngựa bay lên trời.
Vua nhớ công ơn, phong là Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ tại quê nhà. Những nơi ngựa phi qua để lại ao hồ. Rặng tre bị ngựa phun lửa cháy trở nên vàng óng còn có một làng bị ngựa phun lửa cháy được gọi là làng Cháy.
Đọc thêm bài ❤️️Kể Lại Truyện Cổ Tích Sọ Dừa ❤️️ hay nhất
Kể Lại Một Truyện Truyền Thuyết Bằng Lời Văn Của Em Hay Ngắn – Yết Kiêu
Năm ấy, giặc Nguyên hùng hổ kéo sang xâm lược nước Đại Việt ta. Ở làng nọ, có chàng trai tên là Yết Kiêu làm nghề đánh cá, nổi tiếng về tài bơi lặn. Chàng xin với cha cho mình tòng quân diệt giặc. Cha chàng buồn rầu bảo:
– Mẹ con mất sớm, cha bây giờ lại tàn tật, không làm gì được…
Nghe cha nói vậy, Yết Kiêu rất đau lòng. Chàng nghẹn ngào thưa: “Thưa cha, nhưng nước mất thì nhà tan. Con không thể ngồi mà nhìn quân giặc tàn phá đất nước mình. Con sẽ nhờ dân làng trông nom, chăm sóc cha”.
Cha chàng vội nói:
– Cha hiểu! Việc đánh đuổi giặc thù là quan trọng. Đi đi con! Đừng lo lắng cho cha!
Sau khi được cha đồng ý, Yết Kiêu đến kinh đô Thăng Long yết kiến vua Trần. Nhà vua rất hài lòng trước quyết tâm đánh giặc của Yết Kiêu và cho chàng tự chọn binh khí. Khi thấy Yết Kiêu chỉ xin một chiếc dùi sắt, nhà vua ngạc nhiên không hiểu chàng dùng dùi để làm gì. Yết Kiêu tâu rằng sẽ dùng dùi sắt để đục thủng chiến thuyền của giặc vì chàng có thể lặn hàng giờ dưới nước.
Nhà vua hỏi do đâu mà Yết Kiêu có tài lặn lâu như vậy, chàng từ tốn thưa: “Tâu bệ hạ! Do ông của thần dạy cho cha thần và cha thần đã truyền lại cho thần. Vì lòng căm thù giặc ngoại xâm và noi gương người xưa mà ông của thần tự luyện tập để dạy con cháu”.
Với truyền thống đánh giặc cứu nước lâu đời như vậy, hỏi kẻ xâm lược nào mà không bị quân dân ta đánh cho tan tác?
Kể Lại Một Truyện Truyền Thuyết Bằng Lời Văn Của Em Súc Tích – Bánh Chưng, Bánh Giầy
Vua Hùng Vương thứ sáu lúc về già muốn tìm người nối ngôi. Nhưng nhà vua có tới hai mươi người con, không biết truyền ngôi cho con nào cho xứng. Không như những đời vua Hùng trước chỉ truyền ngôi cho con trưởng, vua Hùng thứ sáu nghĩ rằng, người nối ngôi phải là người có tài, nối được chí vua, biết thương yêu dân chúng, không nhất thiết cứ phải là con trưởng. Nghĩ mãi, nghĩ mãi. Cuối cùng, vua gọi các con đến và nói:
– Giặc vẫn nhiều lần sang xâm lược nước ta. Nhờ phúc ấm của Tiên vương, ta đều đánh đuổi được. Đất nước đã thanh bình. Nay ta đã già rồi, không còn sống bao lâu được nữa. Ta muốn tìm người nối ngôi để chăm lo cho dân chúng được ấm no, hạnh phúc. Người nối ngôi phải nối được chí ta, không nhất thiết phải là con trưởng. Năm nay, nhân lễ Tiên vương, ai làm vừa ý ta, ta sẽ truyền ngôi cho người đó. Xin Tiên vương chứng giám.
Nghe vua nói, các lang ai cũng muốn ngôi báu về tay mình nhưng không ai biết ý vua như thế nào. Họ chỉ biết đua nhau làm cỗ thật ngon, đầy sơn hào hải vị cho vua cha vừa lòng.
Người buồn nhất là Lang Liêu. Chàng là con thứ mười tám của vua Hùng. Mẹ mất sớm, chàng ra ở riêng từ nhỏ, suốt ngày chăm việc cấy cày. Trong khi các anh em sai người đi tìm của ngon vật lạ dâng vua thì Lang Liêu chẳng có gì. Trong nhà chàng chỉ có khoai và lúa. Nhưng những thứ đó thì tầm thường quá.
Một hôm, chàng mơ thấy thần đến và bảo:
– Trên đời này, không gì quý bằng hạt gạo. Hạt gạo là hạt ngọc của trời. Hãy lấy gạo làm bánh để tế lễ Tiên vương.
Tỉnh dậy, Lang Liêu mừng thầm. Chàng suy nghĩ hồi lâu rồi lấy thứ gạo nếp trắng tinh, vo thật sạch, lấy đậu xanh và thịt lợn làm nhân, lấy lá dong xanh gói bánh. Để đổi kiểu, cũng thứ gạo nếp ấy, chàng đổ lên giã nhuyễn. Bánh làm xong. Lang Liêu phân vân không biết gọi tên bánh là gì.
Đến ngày lễ Tiên vương, các lang đem đến biết bao sơn hào hải vị, nem công chả phượng… Vua Hùng xem qua một lượt rồi dừng chân trước chồng bánh của Lang Liêu. Rất vừa ý, vua cha cho gọi chàng lên để hỏi. Lang Liêu bèn đem giấc mộng gặp thần ra kể. Vua ngẫm nghĩ một lúc rồi nói:
– Bánh hình tròn tượng trưng cho Trời, ta đặt tên là bánh giầy. Bánh hình vuông tượng trưng cho Đất, ta đặt tên là bánh chưng. Lang Liêu đã làm vừa ý ta, Lang Liêu sẽ nối ngôi ta. Xin Tiên vương chứng giám.
Từ đó, nước ta chăm nghề trồng trọt chăn nuôi và có tục ngày Tết làm bánh chưng, bánh giầy. Thiếu chúng là thiếu hẳn hương vị ngày Tết.
Mời xem đoạn văn mẫu ❤️️Kể Lại Truyện Cổ Tích Bằng Lời Văn Của Em ❤️️ hay nhất
Kể Lại Một Câu Chuyện Truyền Thuyết Bằng Lời Văn Của Em – Sơn Tinh Thủy Tinh
Vua Hùng Vương thứ mười tám có một người con gái. Nàng tên là Mị Nương. Người đẹp như hoa, tính nết dịu dàng. Nhà vua muốn kén cho con một người chồng xứng đáng nên đã tổ chức lễ kén rể.
Một hôm, có hai chàng trai đến cầu hôn. Một người ở vùng núi Tản Viên có tài lạ: vẫy tay về phía đông phía đông nổi cồn bãi, vẫy tay về phía tây phía tây mọc lên từng dãy núi đồi. Người ta gọi chàng là Sơn Tinh. Người còn lại tài năng cũng không hề thua kém: gọi gió gió đến, hô mưa mưa về. Chàng tên là Thủy Tinh. Cả hai người đều ngang sức ngang tài khiến vua vô cùng khó xử, không biết chọn ai. Vua bèn cho gọi các Lạc hầu vào bàn bạc, xong vua gọi hai chàng vào rồi nói:
– Hai người đều vừa ý ta cả, nhưng ta chỉ có một người con gái. Vậy nên nếu ngày mai ai mang được sính lễ đến trước sẽ được rước dâu về.
Cả hai cùng nghe xong, liền tâu hỏi đồ sính lễ gồm những gì. Vua Hùng liền nói:
– Sính lễ gồm có một trăm ván cơm nếp, một trăm nệp bánh chưng và voi chín ngà gà chín cựa ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi.
Tờ mờ sáng hôm sau, Sơn Tinh đã mang lễ vật đến trước. Nhà vua lấy làm hài lòng, quyết định gả Mị Nương cho Sơn Tinh. Còn Thủy Tinh đến sau không lấy được vợ đùng đùng nổi giận, đem theo quân đánh Sơn Tinh. Thần hô mưa, gọi gió làm thành dông bão rung chuyển cả đất trời, dâng nước sông lên đánh Sơn Tinh. Nước ngập khắp các đồng ruộng nhà cửa, nước dâng lên lưng đồi sườn núi, thành Phong Châu nổi lềnh bềnh trên một biển nước. Nhưng Sơn Tinh chẳng hề nao núng. Thần dùng phép lạ, bốc từng quả đồi, dời từng dãy núi, dựng thành lũy đất, ngắn chặn dòng nước lũ. Nước sông dâng lên bao nhiêu, đồi núi cao lên bấy nhiêu.
Cả hai đánh nhau ròng rã mấy tháng trời, cuối cùng Sơn Tinh vẫn vững vàng mà sức Thủy Tinh đã cạn kiệt, thần nước đành rút quân. Kể từ đó, oán nặng thù sâu, năm nay, Thủy Tinh lại dâng nước đánh Sơn Tinh. Nhưng lần nào, Thủy Tinh cũng đều nhận phải lấy thất bại nặng nề.
Kể Một Câu Chuyện Truyền Thuyết Hoặc Cổ Tích Chi Tiết – Sọ Dừa
Sọ Dừa là câu chuyện cổ tích đầu tiên em được đọc, và đó cũng là câu chuyện em yêu thích nhất.
Chuyện kể về một người đàn bà, vì uống nước trong cái gáo dừa, mà mang thai và sinh ra đứa con có ngoại hình xấu xí, kì lạ. Thế là bà đặt tên cho con là Sọ Dừa. Tuy vẻ ngoài xấu xí, đi lại bất tiện, nhưng Sọ Dừa vẫn rất chăm chỉ, chịu khó. Chàng đã nhờ mẹ xin cho được đi chăn bò của nhà phú ông. Đáp lại sự nghi ngờ của mọi người, chàng không chỉ trông được đàn bò, mà còn chăm chúng béo tốt.
Trong thời gian ấy, con gái út của phú ông không ngại vẻ ngoài của Sọ Dừa, mà vẫn mang cơm đến cho chàng. Cảm động, chàng nhờ mẹ đến hỏi cưới cô. Ngày cưới, Sọ Dừa trở về hình dáng bình thường, khôi ngô tuấn tú, lại có nhà rộng, gia nhân tấp nập khiến ai cũng ngạc nhiên. Không chỉ thế, sau khi kết hôn, Sọ Dừa còn chăm chỉ dùi mài kinh sử, thi đỗ Trạng Nguyên. Điều đó khiến cho hai chị gái của vợ chàng hết sức ghen ghét.
Nhân lúc Sọ Dừa đi sứ, hai cô chị rủ cô em ra biển chơi, rồi đẩy cô xuống nước, hòng cướp đoạt vị trí vợ Trạng Nguyên. Nhưng may mắn, nhờ vào hòn đá lửa, con dao và mấy quả trứng gà Sọ Dừa dặn mang theo, mà cô em gái sống sót được. Cuối cùng, khổ tận cam lai, hai vợ chồng đoàn tụ được với nhau, sống hạnh phúc đến cuối đời. Còn hai cô chị xấu xa thì tủi hổ mà bỏ đi biệt xứ.
Qua câu chuyện Sọ Dừa, tác giả dân gian đã gửi gắm chúng ta bài học về cách đối nhân xử thế, không nên quan trọng vẻ bề ngoài, mà phải chú trọng đến phẩm chất. Một người có trái tim nhân hậu, tốt bụng, thông minh thì mới là người đáng quý.
Kể Lại Một Truyền Thuyết Hoặc Cổ Tích Bằng Lời Văn Của Em – Cây Khế
Ngày xửa ngày xưa, ở một làng nọ có hai anh em. Cha mẹ mất sớm, anh em hết mực yêu thương nhau, cùng nhau làm lụng nên cũng có của ăn, của để. Nhưng từ lúc có vợ, người anh đâm ra lười biếng.
Một hôm, người anh gọi em trai đến để phân chia gia sản. Người anh nhận hết của cải, chỉ để lại cho em một túp lều tranh, trước lều có một cây khế. Quanh năm, vợ chồng người em chăm sóc cho cây khế tươi tốt. Đến mùa khế ra rất nhiều quả. Người em bàn với vợ sẽ hái khế để đem ra chợ bán. Hôm đó, khi người em vừa định trèo lên cây thì đã nhìn thấy trên cây khế có một con chim rất to đang đậu trên cây và đang ăn khế. Suốt một tháng, chim đều đến ăn. Người vợ xót ruột liền đến nói với chim:
– Chim ơi! Ngươi ăn khế của ta thì gia đình ta biết lấy gì để sống?
Chim bỗng ngừng ăn và cất tiếng trả lời:
– Ăn một quả trả một cục vàng, may túi ba gang mang đi và đựng.
Nói rồi chim bay đi. Vợ chồng bàn nhau làm theo lời chim nói. Sáng hôm sau, chim đến thật và đưa người em đến một hòn đảo giữa biển. Chim đáp xuống một cửa hang. Bên trong có rất nhiều vàng bạc châu báu. Thấy hang sâu và tối, người em chỉ dám nhặt ít châu báu ở ngoài, rồi ra hiệu cho chim ra về.
Từ đó, cuộc sống của gia đình của người em trở nên sung túc. Họ cho dựng một căn nhà khang trang gần túp lều và cây khế và giúp đỡ người dân nghèo khổ. Tiếng lành đồn xa, chuyện đến tai người anh. Một sáng, người anh đến nhà em trai từ sớm. Anh ta liền lân la hỏi chuyện, rồi gạ để đổi lấy túp lều và cây khế.
Cả gia đình người anh chuyển đến túp lều tranh của em trai. Ngày nào, vợ chồng người anh cũng chỉ ăn rồi ra dưới gốc khế chờ chim thần đến. Mùa khế chín, chim cũng trở về ăn khế. Vừa thấy chim, cả hai đã khóc lóc, kêu gào thảm thiết. Chim thần cũng nói y như lời kể của người em. Người anh bảo vợ may hẳn chiếc túi gấp ba lần, thành ra như một cái tay nải lớn.
Sáng hôm sau, chim thần đến đưa người anh ra đến đảo. Anh ta hoa mắt khi thấy nhiều vàng bạc châu báu. Vào trong hang, người anh lại càng mê mẩn, cố sức nhét thật đầy.
Người anh leo lên lưng chim, chim là đà mãi mới cất cánh được. Vì quá nặng nên chim bay chậm, mãi vẫn ở trên biển. Mang nặng, bay ngược gió, chim yếu dần, hai cánh rũ xuống. Tai nải bật mạnh vào cánh chim. Chim buông xuôi rồi đâm bổ xuống biển. Người anh bị sóng cuốn đi. Còn chim chỉ bị ướt lông ướt cánh, lại vùng lên bay về núi rừng.
Tuyển tập văn mẫu ❤️️Viết Một Bài Văn Khoảng 400 Chữ Kể Lại Một Truyện Cổ Tích❤️️ hay nhất
Kể Một Câu Chuyện Truyền Thuyết Hoặc Cổ Tích Hay Nhất – Cây Tre Trăm Đốt
Khi còn nhỏ, em thường được nghe ông và bà kể cho nghe những câu chuyện cổ tích rất ý nghĩa. Một trong số truyện cổ tích ông kể mà em ấn tượng nhất là truyện Cây tre trăm đốt, ông kể trong lúc em và ông cùng đi chặt tre làm diều.
Ngày xưa có một phú ông nhà giàu nhưng lại bủn xỉn keo kiệt, ông ta thuê anh nông dân nghèo có tính cần cù chịu thương chịu khó cày ruộng. Ông ta chỉ muốn anh nông dân làm cho mình mà lại không mất tiền thuê nên đã hứa hẹn rằng “Anh hãy chịu khó cày ruộng cho ta trong ba năm, hết thời gian đó ta sẽ gả con gái cho anh”. Anh chàng này tưởng thật, làm ngày làm đêm không quản mệt nhọc, mang về cho phú ông lúa thóc chất đầy kho.
Cuối cùng cũng đến hạn ba năm, đang háo hức được lấy con gái phú ông thì anh nông dân lại bị lão ta lừa. Một mặt phú ông bảo anh vào rừng chặt cây tre trăm đốt về làm đũa mời cỗ cả làng, mặt khác sau khi anh đi lão ta bèn mở tiệc gả con gái cho tên nhà giàu khác. Ở bên này anh nông dân sau khi vào rừng chặt hết cả rặng tre, quần áo rách tơi tả, chân tay bị cứa chảy máu vẫn không tìm được cây tre đủ 100 đốt.
Nghe tiếng khóc của anh đã có một ông bụt hiện lên và trao cho anh câu thần chú “Khắc nhập, khắc xuất”, anh chặt đủ 100 đốt tre, đọc câu “khắc nhập” là từng đốt tre nhập thành cây tre đủ 100 đốt. Anh vui mừng đem tre về thì phát hiện ra phú ông lừa mình, anh liền đọc câu thần chú “khắc nhập” nhốt ông vào cây tre, sau khi nghe ông ta van xin và hứa không bày mưu lừa hại anh nữa anh mới đọc “khắc xuất” để thả ông ta ra. Từ đó anh nông dân lấy con gái phú ông và sống hạnh phúc đến cuối đời.
Tuy chỉ là truyện cổ tích nhưng thực sự rất gần gũi với cuộc sống hàng ngày, phú ông và cây tre trăm đốt giống như những khó khăn, thử thách và chướng ngại mà ta phải vượt qua trong cuộc sống. Hãy luôn cố gắng và sống thật tốt, mọi chuyện sẽ luôn có cách giải quyết.
Kể Một Câu Chuyện Truyền Thuyết Hoặc Cổ Tích Đơn Giản – Thạch Sanh
Từ khi em còn nhỏ, mỗi tối mẹ đều kể chuyện cổ tích ru em ngủ. Trong những câu chuyện ấy, em thích nhất là truyện kể về Thạch Sanh.
Truyện kể rằng, ở một làng nọ, có đôi vợ chồng nông dân già, tuy nghèo khó nhưng sống rất nhân hậu mà mãi vẫn chưa có con. Ngọc Hoàng thương tình bèn phái Thái tử xuống đầu thai làm con của ho. Và họ đặt tên con là Thạch Sanh. Hai vợ chồng già sớm qua đời, Thạch Sanh sống một mình ở gốc đa và kiếm sống bằng nghề hái củi.
Lý Thông ngồi hàng rượu thấy Thạch Sanh khỏe mạnh nên dỗ dành giả vờ kết nghĩa anh em để lợi dụng Thạch Sanh. Vì là người tốt bụng nên Thạch Sanh không mảy may nghi ngờ mà đồng ý làm em Lý Thông. Hắn đã lừa Thạch Sanh thay mình đi cúng mạng cho chằn tinh tại miếu thờ. Thạch Sanh đã giết chết chằn tinh, sau đó chàng đốt xác đó thì nhận được cây cung vàng. Nhưng lại một lần nữa, Lý Thông lại lừa Thạch Sanh, cướp công của chàng và được vua ban thưởng đồng thời phong làm Quận Công. Còn Thạch Sanh lại về sống ở gốc đa.
Công chúa bị đại bàng khổng lồ bắt, Thạch Sanh thấy được, lấy cung bắn đại bàng và chàng theo dấu máu, biết được nơi cư trú của đại bàng. Nhà vua sai Lý Thông đi cứu công chúa. Lý Thông lại nhờ Thạch Sanh giết đại bàng và cứu được công chúa, và khi công chúa lên khỏi hang, hắn sai người lấp hang để giết Thạch Sanh. Và được nhà vua gả công chúa cho. Tại hang, Thạch Sanh lại cứu được con vua Thủy Tề và được vua tặng cho cây đàn thần.
Khi công chúa trở về cung, nàng chẳng nói năng gì, nhà vua rất lo lắng. Còn Thạch Sanh bị chằn tinh và đại bàng trả thù vu oan nên bị bắt giam vào ngục. Chàng bèn lấy đàn ra gảy, thì công chúa khỏi bệnh và đem mọi chuyện kể cho vua cha nghe, Thạch Sanh được minh oan, mẹ con Lý Thông tuy được tha nhưng vì độc ác nên trên đường về bị sét đánh chết hóa thành thạch sùng.
Thạch Sanh được vua gả công chúa và trở thành phò mã. Các thái tử nước chư hầu vì không được gả công chúa nên đã đem quân sang đánh. Thạch Sanh đem đàn ra đánh, đẩy lùi được quân 18 nước và thết đãi họ cơm trong niêu thần ăn rồi lại đầy.
Nhà vua nhường ngôi báu cho Thạch Sanh.
Kể Lại Một Truyền Thuyết Hoặc Cổ Tích Bằng Lời Văn Của Em Siêu Hay – Em Bé Thông Minh
Sáng nay, lúc ở thư viện em đã được đọc câu chuyện cổ tích Em bé thông minh rất hay và thú vị.
Câu chuyện lấy bối cảnh nước ta vào thời xa xưa, khi nhà vua rất trọng hiền tài. Ngài đã ra lệnh cho sứ giả đi khắp cả nước tìm người tài về giúp mình việc nước. Khi đi đến một làng nọ, sứ giả đã gặp được một cậu bé – nhân vật chính trong câu chuyện. Tất cả, cậu đã vượt qua bốn lần thử thách để chứng minh trí thông minh của mình.
Lần thứ nhất, cậu bé đã đố ngược lại sứ giả rằng “Con ngựa của ông một ngày đi được mấy đường?”, để đối lại câu hỏi khó nhằn “Con trâu kia một ngày cày được mấy đường?” của ông. Lần thứ hai, câu vượt qua thử thách của nhà vua. Khi ngài ban cho ba con trâu đực và ba thúng xôi nếp, yêu cầu phải đẻ thành chín con. Cậu đã mời cả làng thịt trâu, đồ xôi ăn uống no say. Rồi lên kinh thành, giả vờ yêu cầu vua bắt cha mình phải sinh em cho. Khi nhà vua khó xử vì không thể yêu cầu đàn ông sinh con được, thì cậu hỏi ngược lại rằng vậy sao ngài yêu cầu nuôi trâu đực để sinh ra nghé con. Sự thông minh ấy của cậu khiến vua phải kinh ngạc. Nhưng chưa chắc lắm, vua lại thử cậu lần thứ ba. Yêu cầu làm thịt con chim sẻ để làm ba mâm cỗ. Cậu liền nhanh trí đưa một cây kim nhờ nhà vua cho rèn thành con dao để xẻ thịt chim. Lần này, vua thực sự tin rằng cậu bé là người tài. Ngay sau đó, sứ giả nước láng giềng mang sang một câu hỏi khó, rằng phải xỏ sợi dây qua đường ruột ốc. Cả triều đình đều bó tay, mà cậu bé vừa nghe đã giải được, còn hát thành một bài nhạc. Vậy là, cả triều đình đều khâm phục tài năng của cậu. Nên nhà vua đã phong cậu làm trạng nguyên.
Qua câu chuyện, em được biết thêm những câu đố dân gian thú vị. Và hiểu được ý nghĩa, sự quý trọng của người xưa đối với kiến thức, kinh nghiệm dân gian.
Mời bạn xem thêm những ❤️️Kể Lại Một Truyền Thuyết ❤️️ hay nhất