Bài Thơ Quê Hương Của Giang Nam [21+ Mẫu Phân Tích, Đọc Hiểu]

Bài Thơ Quê Hương Của Giang Nam ❤️️ 21+ Mẫu Phân Tích, Đọc Hiểu ✅ Bài Thơ Là Câu Chuyện Về Quê Hương Hay Nhất Trong Cuộc Đời Sáng Tác Của Giang Nam

Lời Bài Thơ Quê Hương Của Giang Nam

Lời Bài Thơ Quê Hương Của Giang Nam với những vầng thơ giàu hình ảnh và cảm xúc đã luôn sống mãi trong lòng người đọc cho đến tận hôm nay.

Quê hương
Tác giả: Giang Nam

Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường
Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ:
“Ai bảo chăn trâu là khổ?”
Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao
Những ngày trốn học
Đuổi bướm cầu ao
Mẹ bắt được…
Chưa đánh roi nào đã khóc!
Có cô bé nhà bên
Nhìn tôi cười khúc khích…

Cách mạng bùng lên
Rồi kháng chiến trường kỳ
Quê tôi đầy bóng giặc
Từ biệt mẹ tôi đi
Cô bé nhà bên – (có ai ngờ!)
Cũng vào du kích
Hôm gặp tôi vẫn cười khúc khích
Mắt đen tròn (thương thương quá đi thôi!)
Giữa cuộc hành quân không nói được một lời
Đơn vị đi qua, tôi ngoái đầu nhìn lại…
Mưa đầy trời nhưng lòng tôi ấm mãi…

Hoà bình tôi trở về đây
Với mái trường xưa, bãi mía, luống cày
Lại gặp em
Thẹn thùng nép sau cánh cửa…
Vẫn khúc khích cười khi tôi hỏi nhỏ
Chuyện chồng con (khó nói lắm anh ơi!)
Tôi nắm bàn tay nhỏ nhắn ngậm ngùi
Em vẫn để yên trong tay tôi nóng bỏng…

Hôm nay nhận được tin em
Không tin được dù đó là sự thật
Giặc bắn em rồi quăng mất xác
Chỉ vì em là du kích, em ơi!
Đau xé lòng anh, chết nửa con người!

Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm
Có những ngày trốn học bị đòn roi…
Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất
Có một phần xương thịt của em tôi

Cùng với Bài Thơ Quê Hương Của Giang Nam, gửi đến bạn 🍃 Thơ Tản Đà 🍃 ý nghĩa.

Phân Tích Bài Thơ Quê Hương Giang Nam

Phân Tích Bài Thơ Quê Hương Giang Nam để thấy được những tầng lớp ý nghĩa và nghệ thuật được sử dụng trong bài thơ đặc sắc này.

Bài thơ là câu chuyện tình từ thủa tuổi thơ của hai người hàng xóm. Đôi trẻ lớn lên, tình yêu trong họ cũng lớn lên theo cuộc trường kỳ kháng chiến.

Từ buổi “Mẹ chưa đánh roi nào đã khóc” đến “Cô bé nhà bên nhìn tôi cười khúc khích… Tôi nắm bàn tay nhỏ nhắn ngậm ngùi” để rồi cuối cùng “Hôm nay nhận được tin em”. Song, dù em mất nhưng tình yêu không mất bởi tâm hồn và thể xác em đã hóa thân vào với đất nước, quê hương….

Bài thơ được tác giả viết năm 1960 khi nhận được thông tin vợ và con ông bị giết hại trong nhà tù Phú Lợi. Song thật may đây là nhầm lẫn. Vợ và con ông đã được thả năm 1962 do địch không tìm ra căn cứ để kết tội. Có thể nói, đây là bài thơ hay nhất của Nhà thơ Giang Nam.

Sau ngày thống nhất đất nước, năm 1976, Nhà thơ Giang Nam vào làm việc tại TP Hồ Chí Minh. Đến năm 1978, ông lại ra Hà Nội làm Thường trực Hội Nhà văn Việt Nam. Năm1989, sau khi tách tỉnh Phú Khánh thành 2 tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa, Tỉnh ủy Khánh Hòa xin ông về làm Phó chủ tịch UBND tỉnh phụ trách văn xã.

Có một điều lạ không phải ai cũng biết là nguyên mẫu của bài thơ – “cô bé nhà bên/ có ai ngờ cũng vào du kích”, sau bị giặc giết quăng mất xác ấy chính là người vợ hiền thục hiện vẫn sống bên nhà thơ.

Về chuyện này, đích thân tác giả đã kể lại trong cuốn “Sống và viết ở chiến trường” như sau:

“Đang ở căn cứ bí mật của Tỉnh ủy Khánh Hòa, tôi được Phó Bí thư Tỉnh ủy mời sang thông báo tin dữ: Vợ con tôi đã bị thủ tiêu trong nhà lao rồi (trước đó, vợ Giang Nam cùng cô con gái chưa đầy tuổi của ông bị địch bắt ở Thủ Đức và đưa vào giam ở nhà lao Chí Hòa, Sài Gòn – PK).

Tôi nghe tin mà choáng váng như trời sập. Những kỷ niệm cũ, tình yêu e ấp, vụng dại, những giận hờn và buổi chia tay đầy nước mắt, cả hai mẹ con cô ấy đều khóc ròng… Tất cả như sống dậy xót xa, nhức nhối và rõ ràng cứ như mới xảy ra hôm qua.

Tôi đã viết bài thơ Quê hương trong tâm trạng đau đớn tột cùng ấy. Rồi tôi đã gửi bài thơ ấy theo đường giao liên ra cho Báo Thống Nhất ở Hà Nội.

Khoảng tháng 8 năm 1961, trên đường công tác từ huyện Sơn Khánh đi Khánh Vĩnh, khi dừng chân ở một trạm nghỉ, tôi đã được nghe tin qua Đài Tiếng nói Việt Nam là bài thơ Quê hương của tôi được giải nhì Báo Văn nghệ.

Tôi mừng run lên, báo ngay cho anh em cùng đoàn công tác. Tôi như thấy vợ con tôi ở bên kia thế giới về lại cùng tôi”.

Không phải “như thấy” thôi đâu, mà là sự thật. Thì ra, thông tin vợ con Giang Nam chết trong nhà lao là không xác thực. Năm 1962, bà cùng con gái được thả và hai năm sau đó, cấp trên đã bố trí cho nhà thơ gặp mặt vợ con… Dẫu sao, từ một sự nhầm lẫn, Giang Nam đã có được một bài thơ để đời.

Các nhà nghiên cứu văn học thường liên hệ bài thơ “Quê hương” của Giang Nam với các bài “Màu tím hoa sim” của Hữu Loan và “Núi đôi” của Vũ Cao. Cả ba bài thơ đều có chung mô típ: Các nhân vật nam chính đều đi bộ đội chiến đấu xa nhà; các nhân vật nữ chính (có thể là vợ, có thể là người yêu) thì ở lại chiến đấu hoặc công tác tại quê nhà và rồi tất cả đều ngã xuống khi tuổi đời còn rất trẻ.

Cả ba bài đều có sức hấp dẫn, lôi cuốn độc giả. Mặc dù “Quê hương” của Giang Nam không có những ý thâm thúy, những hình ảnh đặc sắc và khơi gợi như “Màu tím hoa sim” của Hữu Loan, cũng không có giai điệu tinh tế, khoáng đạt như “Núi đôi” của Vũ Cao; song nó lại có cái duyên riêng và đặc biệt, mối tình của người nữ du kích với chàng trai trong bài thơ rất mộc mạc, hồn nhiên và có nét gần gũi, phổ biến trong đời sống. Điều đó khiến bài thơ càng dễ được quảng bá.

Đọc bài thơ, không ai là không nhớ tới tiếng cười khúc khích của cô gái, cũng như khó có thể quên được cái việc… khóc của cậu bé ở phần mở đầu bài thơ (Những ngày trốn học/ Đuổi bướm cầu ao/ Mẹ bắt được…/ Chưa đánh roi nào đã khóc!/ Có cô bé nhà bên/ Nhìn tôi cười khúc khích…).

Đó chính là mấu chốt tạo nên sức ám ảnh của hình tượng, và là cái cớ để triển khai tứ thơ. Về đoạn thơ này, Hoài Thanh đã có lời bình rất tinh tế: “Khóc vì sợ đánh nhưng lại cũng vì muốn đánh vào tấm lòng của mẹ thương con mà người con rất biết”.

Với bài thơ “Quê hương”, Giang Nam đã xây dựng được những nhân vật cùng những tình huống rất đáng yêu. Chính điều này đã khiến độc giả hầu như không để ý (hoặc bỏ qua) cách sử dụng ngôn từ chưa phải đã thật kín kẽ của ông.

Ví như khi ông viết: “Giặc bắn em rồi, quăng mất xác/ Chỉ vì em là du kích, em ơi”, đã có người đặt câu hỏi: Nếu em là du kích thì giặc bắn em là lẽ đương nhiên, sao lại nói là “chỉ vì”? Hay khi ông viết “Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm”, đã có người đặt vấn đề: Có nên để chữ “yêu” bên cạnh mấy chữ dễ bị suy diễn như chữ “chim” chữ “bướm” kia không?

Tất nhiên, không cực đoan đến mức cho Giang Nam viết vậy là “dung tục” (như một nhà thơ từng viết bài đăng báo “kết tội” vậy), bởi một khi ta đã nhập hồn vào bài thơ, cùng chia sẻ niềm vui, nỗi buồn với nhân vật thì hẳn ta sẽ không có sự xét nét câu chữ thế ấy.

Sinh thời, nhà phê bình Hoài Thanh mặc dù thừa nhận Giang Nam có những bài thơ hay, song cũng phải nghiêm khắc nhắc nhở, là “ngòi bút của Giang Nam có khi quá dễ dãi”.

Ở đoạn kết bài “Quê hương”, Giang Nam từng viết: “Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất/ Có một phần xương thịt của em tôi”, hai chữ “xương thịt” đặt ở đây có thể không khiến bạn đọc “gai gợn” bởi dẫu sao trước đó, nhà thơ đã làm ta xúc động trước cái chết của người nữ du kích không biết địch vất xác nơi đâu.

Nên cái cảm giác “trong từng nắm đất/ có một phần xương thịt của em tôi” là xuất phát từ đời thực, tuy nhiên, cũng hai chữ ấy mà nhà thơ đưa vào đoạn thơ sau (bài “Gửi miền Bắc”) thì quả thực là không ổn, rất không ổn:

Hà Nội ơi, máu về tụ giữa tim
Tóc Bác có bạc nhiều những đêm không ngủ?
Giặc Mỹ liệu hồn: thịt xương ta đó.

Ưu điểm của thơ Giang Nam là có tình. Song ngoài tình thì thơ còn là nghệ thuật ngôn từ. Việc tác giả dùng từ ngữ thiếu chọn lọc trong một số trường hợp đã gây bất lợi cho việc thể hiện tình cảm của ông…

Ngoài Bài Thơ Quê Hương Của Giang Nam, giới thiệu với bạn tuyển tập 🌨 Thơ Thế Lữ 🌨

Cảm Nhận Xưa Yêu Quê Hương Vì Có Hoa Có Bướm

Cảm Nhận Xưa Yêu Quê Hương Vì Có Hoa Có Bướm là một hình ảnh độc đáo nổi bật trong cả bài thơ Quê hương của Giang Nam.

Chỉ với bài “Quê hương”, Giang Nam đã trở thành một nhà thơ nổi tiếng. Đó là một sự may mắn không phải ai cũng có được trong nghề cầm bút.

Tuy nhiên, với Giang Nam, giấc mộng thi sĩ giống như một sự sắp đặt ngẫu nhiên của số phận. Nhà thơ Giang Nam sáng tác để có thêm vũ khí cho mình trên hành trình dấn thân “quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách” một cách chân thành: “Tôi thấm thía một điều, cuộc chiến đấu vì độc lập dân tộc, thống nhất đất nước là ngọn nguồn cảm xúc, là niềm vui và nỗi đau trong thơ tôi”.

Năm 16 tuổi, chàng trai Nguyễn Sung đã tham gia quật khởi cùng Cách mạng Tháng Tám – 1945 tại quê nhà Ninh Hòa – Khánh Hòa. Sự chọn lựa ấy đã trở thành một bước ngoặt quan trọng trong đời ông. Đi với kháng chiến, Nguyễn Sung làm công tác xây dựng cơ sở, rồi theo bộ đội đánh giặc, rồi làm tuyên huấn…

Thực tế khói lửa, thực tế sinh tử đã giúp ông làm thơ, như ông thổ lộ “trở thành nhà thơ lúc nào không biết, chủ yếu là không thể dằn lòng trước nỗi đau của bà con và nỗi đau của riêng mình”.

Bài thơ Quê hương đánh dấu sự nghiệp thi ca của Nguyễn Sung với bút danh Giang Nam, ra đời năm 1960 ở căn cứ Hòn Du nằm phía tây thành phố Nha Trang. Bài thơ đậm chất tự sự, như được ghi chép rất thật thà về tâm trạng của tác giả khi nghe tin người vợ của mình bị giặc bắt và hy sinh ở miền Nam.

Bài thơ gồm 35 câu, kể lại một câu chuyện dằng dặc nhớ thương giữa hai con người có chung nhiều kỷ niệm và có chung một lý tưởng. Không khí yên ả và tâm tư trong sáng làm nền cho cả bức tranh Quê hương, từ nét đẹp hồn nhiên:

“Tuổi còn thơ ngày hai buổi đến trường
Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ
Ai bảo chăn trâu là khổ
Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao
Những ngày trốn học
Đuổi bướm cầu ao
Mẹ bắt được
Chưa đánh roi nào đã khóc
Có cô bé nhà bên
Nhìn tôi cười khúc khích”
,

Rồi đến rung động thánh thiện:
“Cô bé nhà bên (có ai ngờ)
Cũng vào du kích
Hôm gặp tôi vẫn cười khúc khích
Mắt đen tròn (thương thương quá đi thôi!)
Giữa cuộc hành quân không nói được một lời
Đơn vị đi qua, tôi ngoái đầu nhìn lại
Mưa đầy trời nhưng lòng tôi ấm mãi…”

Và đến hẹn thề thanh cao:

“Hòa bình tôi trở về đây
Với mái trường xưa, bãi mía, luống cày
Lại gặp em
Thẹn thùng nép sau cánh cửa…
Vẫn khúc khích cười khi tôi hỏi nhỏ
Chuyện chồng con (khó nói lắm anh ơi!)
Tôi nắm bàn tay nhỏ nhắn ngậm ngùi
Em vẫn để yên trong tay tôi nóng bỏng…”.

Ba mảng màu tươi tắn được khắc họa bởi tiếng cười khúc khích. Ba đoạn thơ chỉ mang tính thông tin, nhưng nhờ tiếng cười khúc khích mà lan tỏa thành ba ấn tượng đặc biệt!

Tuy nhiên, ba chuỗi cười khúc khích không thể tạo ra bài thơ Quê hương, nếu không có dông tố đột ngột:

“Hôm nay nhận được tin em
Không tin được dù đó là sự thật
Giặc bắn em rồi quăng mất xác
Chỉ vì em là du kích, em ơi
Đau xé lòng anh chết nửa con người”.

Sự mất mát ấy gây bàng hoàng cho người đọc, và trở thành điểm nhấn để kỷ niệm bay lên, lý tưởng bay lên, câu chữ bay lên, thả lơ lửng một bài thơ Quê hương vào bầu trời thi ca Việt Nam giai đoạn chống Mỹ cứu nước!

Xét ở góc độ thẩm mỹ văn chương, bài thơ không có gì nổi bật về bút pháp và về ngôn từ. Thế nhưng, giá trị rung động của Quê hương có thật, nhờ nỗi đau có thật trong bài thơ. Nếu nói một cách chi ly, thì nhà thơ Giang Nam chỉ đóng góp một nửa bài thơ, còn nửa bài thơ kia thuộc về nhân vật nữ có tiếng cười khúc khích.

Nhân vật nữ ấy là Phạm Thị Chiều, một người con gái làng chài, nhỏ hơn Giang Nam hai tuổi. Họ gặp nhau và yêu nhau gần đúng như bài thơ miêu tả. Những ngày chuẩn bị ký Hiệp định Geneve, họ đã làm đám cưới, rồi mỗi người một hướng để thực hiện nhiệm vụ cách mạng.

Năm 1959, bà Phạm Thị Chiều cùng con gái nhỏ của họ, đã bị bắt giam ở nhà lao Phú Lợi – Bình Dương và chẳng có tin tức gì.

Vì vậy, năm 1960, nhà thơ Giang Nam choáng váng khi có người nhầm lẫn cho biết vợ con của ông không còn nữa, và ông đã gieo xót xa riêng mình xuống trang giấy mà thành bài thơ Quê hương đầy day dứt: “Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm/ Có những ngày trốn học bị đòn roi/ Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất/ Có một phần xương thịt của em tôi”.

Khi bài thơ Quê hương phổ biến khắp ba miền, bà Phạm Thị Chiều được trả tự do vào năm 1962, nhưng sau đó lại bị địch bắt và lưu đày ra Côn Đảo. Mãi đến năm 1973, Hiệp định Paris ký kết, bà Phạm Thị Chiều mới được sum họp với nhà thơ Giang Nam. Năm 2013, nữ du kích có tiếng cười khúc khích trong bài thơ Quê hương qua đời ở tuổi 82!

Với nhà thơ Giang Nam, cuộc đời thi ca song hành cuộc đời cách mạng. Không chỉ có bài thơ Quê hương và trường ca Ánh chớp đêm giao thừa chứng minh điều đó, mà chính nhà thơ Giang Nam còn trực tiếp khẳng định trong bài thơ Nghe em vào đại học về mạch nguồn bổ ích để sống và viết của bản thân:

“Anh sẽ để riêng một đêm thức suốt
Kể em nghe chuyện chiến đấu miền Nam
Câu chuyện mở đầu: “Thuở ấy, ở quê hương
Anh chỉ học có một trường: Cách mạng”.

Bài thơ Quê hương nổi tiếng của Giang Nam từng được đưa vào sách giáo khoa và bao thế hệ học trò đã thuộc lòng từng câu, từng chữ… Ở đó, người đọc bị cuốn hút, ám ảnh bởi những tiếng cười khúc khích thật hồn nhiên để rồi bỗng thấy hụt hẫng khi nghe tin dữ…

Cùng với Bài Thơ Quê Hương Của Giang Nam, gửi tặng bạn 💕 Quê Hương Tế Hanh 💕 hay và ý nghĩa.

Văn Mẫu Thơ Quê Hương Giang Nam

Văn Mẫu Thơ Quê Hương Giang Nam để bạn đọc cùng tham khảo những phân tích và cảm nhận về bài thơ ý nghĩa này.

Quê hương, chỉ hai từ thôi nhưng vô cùng thân thương đến lạ. Quê hương, nơi mình sinh ra, nơi mình lớn lên, nơi lưu giữ những kỉ niệm tuổi thơ. Khi nhắc đến quê hương ai cũng cảm thấy tự hào, đó là một thứ tình cảm vô cùng thiêng liêng và cao cả.

Và với bài thơ Quê hương của nhà thơ Giang Nam cũng thế. Quê hương, dòng chảy bất tận của ký ức, quê hương là nơi ta tìm về sau những phong ba của cuộc đời.

Ai bảo chăn trâu là khổ?
Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao
Những ngày trốn học
Đuổi bướm cầu ao
Mẹ bắt được…
Chưa đánh roi nào đã khóc!
Có cô bé nhà bên
Nhìn tôi cười khúc khích…

Mở đầu bài thơ là nỗi nhớ về tuổi thơ, là niềm thương nhớ và yêu quê hương từ thuở “cắp sách tới trường” từ thuở “chăn trâu cắt cỏ”. Không gian thơ mở ra với bàng bạc nỗi nhớ về thuở ấu thơ, với những trò nghịch ngợm của trẻ thơ đó là “trốn học”, “đuổi bướm…Những vần thơ mộc mạc, giản dị càng đọc càng thấm thía về một quê hương tuổi thơ trong kỉ niệm.

Dòng thời gian trôi mãi, tuổi thơ rồi lớn lên, đất nước kêu gọi, cậu bé ngày ấy nay đã trưởng thành, lên đường theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc. Thật bất ngờ, “cô bé nhà bên” ngày xưa ấy cũng trở thành đồng chí:

Cách mạng bùng lên
Rồi kháng chiến trường kỳ
Quê tôi đầy bóng giặc
Từ biệt mẹ tôi đi
Cô bé nhà bên – (có ai ngờ!)
Cũng vào du kích

Tình bạn trẻ thơ giờ đã trưởng thành thêm một bậc, sự trưởng thành này phù hợp với hoàn cảnh xã hội chung lúc bấy giờ, như một điều tất yếu.

Chính vì có được nền tảng là tình bạn từ những ngày ấu thơ nên khi bất chợt gặp nhau trên giữa đường hành quân, dẫu “mưa đầy trời” nhưng chàng trai vẫn thấy “lòng tôi ấm mãi” bởi nụ cười khúc khích và cảm xúc “thương thương quá đi thôi” đan xen giữa quá khứ và hiện tại.

Chiến tranh, kẻ thù xâm lược dẫu tàn ác cũng không xóa bỏ được nét trong trẻo trong tâm hồn của những chàng trai cô gái một thời. Họ vượt lên trên sự tàn ác của kẻ thù bằng chính sự thiện lương, trong trẻo được nuôi dưỡng bởi chiều sâu văn hóa, tình người của dân tộc. Điều này Nguyễn Đình Thi đã từng thể hiện:

Xiềng xích chúng bay không khóa được
Trời đầy chim và đất đầy hoa
Súng đạn chúng bay không ngăn được
Lòng dân ta yêu nước thương nhà (Nguyễn Đình Thi – Đất nước).

Bởi thế mà dù trải qua bao thăng trầm, bao súng đạn, bao chiến trường, ngày gặp lại, cô gái ngày xưa ấy vẫn

“Thẹn thùng nép sau cánh cửa
Vẫn khúc khích cười khi tôi hỏi nhỏ
Chuyện chồng con (khó nói lắm anh ơi!)”.

Điệu cười khúc khích như điệp khúc, như từng đợt sóng lòng trùng điệp mà đợt sau cao hơn đợt trước; để rồi chàng trai không cầm lòng được mà:

“Tôi nắm bàn tay nhỏ nhắn ngậm ngùi
Em vẫn để yên trong tay tôi nóng bỏng…”

Tình yêu thời chiến đến thật nhẹ nhàng như một điều hiển nhiên. Tình yêu đôi lứa ấy được đặt trên nền tảng vững chắc của tình bạn thuở ấu thơ và tình đồng chí, cùng chung lí tưởng của khi trưởng thành.

Chính điều này làm cho tình yêu lứa đôi hòa vào tình yêu quê hương đất nước, cái riêng đã hòa vào cái chung khiến cho tình yêu chung cho quê hương thêm sâu sắc mà cũng khiến cho tình cảm riêng càng trở nên rộng lớn, bền vững hơn.

Ít ai biết bài thơ có một nguyên mẫu trong đời thực: “cô bé nhà bên” chính là người vợ, người bạn đời của tác giả. Hoàn cảnh bài thơ được ra đời trong hoàn cảnh khá đặt biệt:

Năm 1960, nhà thơ nhận được tin vợ và con mình bị giặc giết hại trong nhà tù Phú Lợi; cảm xúc cuộn lên chất ngất, ngay trong đêm bài thơ được ra đời, những câu thơ cứ ùa về cùng với nỗi đau không thể kìm nén:

Hôm nay nhận được tin em
Không tin được dù đó là sự thật
Giặc bắn em rồi quăng mất xác
Chỉ vì em là du kích, em ơi!
Đau xé lòng anh chết nửa con người.

Nỗi đau xót đến tê tái, đến chết lịm người khi nghe tin “em” bị “giặc bắn em rôi quăng mất xác” tình cảm càng bền vững, càng nên thơ khi mất càng gây đau đớn. Từ cô bạn ấu thơ, rồi đồng đội đồng chí, đến người yêu, giờ “giặc bắn em rồi quăng mất xác” càng đau đớn, càng xót xa và tố cáo tội ác của giặc xâm lược.

Tình yêu quê hương bây giờ đã khác:
Xưa yêu quê hương vì có hoa có bướm
Có những ngày trốn học bị đòn roi
Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất
Có một phần xương thịt của em tôi.

Tình riêng giờ hòa vào tình chung, không chỉ là ở nghĩa biểu tượng mà ở nghĩa thực của nó. Quê hương không chỉ là khái niệm chung chung mà gắn với người con gái ta yêu, là một phần của cuộc đời, một phần không thể tách rời của thân thể.

Bài thơ Quê hương của Nhà thơ Giang Nam dù đã trải qua bao thăng trầm, biến cố của thời đại. Nhưng với bất cứ ai khi đọc lên đều không khỏi cảm thấy xót xa, bùi ngùi, đau đớn khi mất đi người yêu, mất đi ruột thịt của mình. Bài thơ thể hiện tình yêu quê hương đất nước sâu sắc.

Bên cạnh Bài Thơ Quê Hương Của Giang Nam còn có Chùm 💌 Thơ Nguyễn Du 💌 đặc biệt được chọn lọc dành cho bạn.

Nói Dung Bài Thơ Quê Hương Giang Nam

Nói Dung Bài Thơ Quê Hương Giang Nam với câu chuyện ẩn sau những vầng thơ có lẽ sẽ khiến bạn không khỏi bùi ngùi xúc động.

Bài thơ đầu tiên đưa tên tuổi Giang Nam ra với công chúng cả nước là bài “Quê hương”. Đây cũng là bài thơ nổi tiếng nhất và có sức nặng nhất trong đời thơ của ông. Bài thơ từng được giải nhì của Báo Văn nghệ và được đưa vào sách học.

Nội dung bài thơ Quê hương của Giang Nam viết về ký ức tuổi thơ tươi đẹp trên quê hương thanh bình, ở đó có người mẹ tảo tần hiền dịu. Có cô bé hàng xóm với nụ cười khúc khích và những kỷ niệm hồn nhiên ngây thơ thật đẹp.

Ngay sau đó, bài thơ khắc hoạ lại hoàn cảnh chiến tranh với những tang thương mất mát. Là kháng chiến cách mạng, chàng trai phải tạm biệt mẹ già, rời quê hương đi chiến đấu. Khi đó, chàng trai gặp được cô gái cũng tham gia cách mạng, hai người gặp nhau nhưng vội vàng hành quân không nói được một lời.

Thế rồi hoà bình lập lại, nhưng hạnh phúc chưa được bao lâu thì chàng trai nghe tin cô gái bị địch giết hại, chàng trai đau đớn khôn nguôi như chết nửa con người. Từ đó, tình yêu đôi lứa hoà quyện vào tình yêu quê hương đất nước, mối tình thuở nhơ trở thành tình yêu nước lớn lao trong lòng chàng trai ấy.

Ngoài Bài Thơ Quê Hương Của Giang Nam, xem nhiều hơn những nội dung ý nghĩa khác trong 💕 Tiếng Thu Lưu Trọng Lư 💕 đặc sắc.

Quê Hương Giang Nam Đọc Hiểu

Quê Hương Giang Nam Đọc Hiểu để cảm nhận rõ hơn những giá trị đã làm nên thành công của bài thơ nổi tiếng một thời.

Quê hương – bài thơ được viết năm 1960 của Giang Nam, một nhà thơ, một nhà cách mạng của dân tộc. Tác phẩm không chỉ là một bài thơ phản ánh thời kì đau thương nhưng bi tráng của dân tộc, mà còn là một câu chuyện có thật, xuất phát từ chính tác giả và người vợ thân yêu của mình.

Về nội dung:

Bài thơ khắc hoạ lại những ký ức tuổi thơ tươi đẹp ở một vùng quê thanh bình. Ký ức về những ngày trốn học, những lần bị mẹ bắt đánh đòn, về cô bé hàng xóm có nụ cười khúc khích.

Đó là những ký ức thật đẹp của một tuổi thơ hồn nhiên chưa từng biết đến những đau thương mất mát. Và cũng là điều đã khắc sâu vào trong tâm hồn những đứa trẻ khi lớn lên.

Rồi khi chiến tranh xảy ra, những đương đầu khó khăn nơi tuyền tuyến không phải là điều mà nhà thơ day dứt nhất. Mà đó là sự mất mát của những người yêu thương. Mối tình thuở nhỏ và tình yêu trẻ tuổi khép lại khi chàng trai nghe tin cô gái đã bị địch giết chết.

Qua tất cả, những tình cảm cá nhân, những mối quan hệ đôi lứa cũng gói trọn lại trong một lý tưởng lớn hơn là lý tưởng cách mạng. Tình cảm lứa đôi cũng nằm trọn trong tình yêu quê hương đất nước và khát vọng chiến đấu để cho hoà bình lập lại, cho những tình cảm không bị chia rẽ, cắt đứt.

Về nghệ thuật:

Bài thơ sử dụng những hình ảnh được lặp đi lặp lại gợi nên một không gian nhiều hoài niệm với những ký ức đã in sâu nằm lại trong lòng người khắc khoải. Bên cạnh đó là việc sử dụng thể thơ tự do câu dài ngắn khác biệt như tiếng nấc nghẹn ngào của những nỗi niềm phải cố gắng kìm nén.

Trọng tâm của bài thơ chính là những hình ảnh so sánh liên tưởng độc đáo, vừa gợi cảnh lại vừa làm nổi bật lên những tình cảm xúc động day dứt xuyên suốt cả bài thơ.

Đồng thời bút pháp tương phản giữa những ký ức thanh bình êm ả ở phần đầu cùng những mất mát đau thương ở phần cuối của bài thơ đã khiến người đọc không khỏi ám ảnh và cũng cảm thấy rất đỗi xót xa.

Cùng với Bài Thơ Quê Hương Của Giang Nam, tặng bạn 💔 Bài Thơ Nhớ Rừng 💔

Bài Thơ Chế Quê Hương Của Giang Nam

Bài Thơ Chế Quê Hương Của Giang Nam đem lại những nụ cười giải trí thú vị cho bạn đọc.

Rượu
Sưu tầm

Tuổi còn thơ ngày hai cữ là thường,
… Yêu hơi men qua từng chai lớn nhỏ.
Ai bảo đời lai rai là khổ,
Tôi mơ màng nghe tiếng chúc leng keng.
Có những buổi say xỉn té cạnh cầu ao
… …Vợ bắt được chưa đánh roi nào đã khóc
Có cô bé nhà bên đứng cười khúc khích
Chị giận anh rồi tối qua ngủ với em…

IS
Sưu tầm

Thủa khủng bố ngày ôm bom xuống đường
Yêu Baghdad qua từng băng đạn nhỏ
“Ai bảo đạo Hồi là khổ”
Tôi mơ màng nghe tiếng thánh Allah
Có những ngày trốn tập
Tán gái ngoài ngoại ô
Thủ lĩnh tóm
Chưa dọa xử tử đã khóc
Cô em bịt mặt
Nhìn tôi cười khúc khích
IS bùng lên
Rồi kháng chiến trường kỳ
Baghdad đầy bóng giặc
Chào thủ lĩnh tôi đi
Cô em bịt mặt có ai ngờ
Cũng vào khủng bố
Hôm gặp tôi vẫn cười khúc khích
Mắt đèn tròn ôi phê quá đi thôi
Giữa cuộc hành quân không nói được một lời
Đơn vị đi qua tôi ngoái đầu nhìn lại
Bão cát mịt giời mà lòng tôi tê tái
Giải phóng Mosul tôi trở về đây
Với bãi tập xưa, pháp trường, kho súng
Tôi lại gặp em
Thẹn thùng nấp sau thánh đường
Vẫn khúc khích cười khi tôi nói nhỏ
Thánh Allah khó nói lắm anh ơi
Tôi nắm chặt kinh thánh ngậm ngùi
Em nhìn tôi đôi mắt nóng bỏng
Rồi hôm nay nhận được tin em
Không tin được dù đó là sự thật
Đánh bom liều mình, em mất xác
Chỉ vì em là khủng bố em ơi
Đau xé lòng anh, chết nửa con người
Xưa yêu Baghdad vì có Allah, Hammad
Có những ngày trốn tập bị khổ sai
Nay yêu Baghdad vì trong mỗi nắm cát
Có một phần xương thịt của em tôi

Ngoài Bài Thơ Quê Hương Của Giang Nam, xem nhiều hơn những bài thơ đặc sắc trong 🌹 Thơ Tình Nguyễn Bính Hay Nhất 🌹

Ngâm Bài Thơ Quê Hương Của Giang Nam

Ngâm Bài Thơ Quê Hương Của Giang Nam sẽ mang đến cho bạn những giây phút thưởng thức thơ thật trọn vẹn.

❤️️ Xem thêm 👉 Thơ Tình Hàn Mạc Tử❤️️

Viết một bình luận